Tưởng Giới Thạch, Những Bí Mật Về Cuộc Đời Và Gia Thế
Phần 1
Chương 1
Tin đồn Tưởng Giới Thạch là Trịnh Tam Phát Tử tại sao lại sôi nổi rầm rộ khắp nhân gian
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Còn nhớ năm ấy, bộ Kim Lăng xuân mộng đã trở thành mốt thời thượng, một câu chuyện li kỳ lan truyền khắp thiên hạ. Mặc dù Tưởng Giới Thạch không phải là Trịnh Tam Phát Tử, Tưởng Trung Chính cũng chẳng phải là Tưởng Tông Trịnh, nhưng không có lửa làm sao có khói. Nếu muốn vạch rõ những bí mật về gia thế, về thân phận ly kỳ vàng thau lẫn lộn của Tưởng Giới Thạch, thì cần phải thăm dò, tìm hiểu quá trình trước và sau khi sinh ra những tin đồn làm khuấy động lên bao nhiêu mưa tuyết gió hoa trong gần một trăm năm nay của gia tộc họ Tưởng.
Dường như trong dân gian Trung Quốc có một loại truyền thống văn hóa, đó là vô vàn những tin đồn về các danh nhân, đặc biệt là những tin đồn về gia thế của họ. Nào là Tần Thủy Hoàng là con không có giá thú. Thành Cát Tư Hãn biết mẹ mà không biết cha, mẹ Nurkhachi[1] ăn trứng chim mà có thai, còn có ngài X ... đẻ ra ở trong hang cổ núi sâu, ngài Y... sinh ra trên con thuyền lẻ loi trong bãi lau, ngài Z... mồ côi từ trong bụng mẹ, mẹ ngài có nhiễm với đạo sỹ, sư chùa. Hàng ngàn năm nay, những tin đồn này hoặc lưu truyền ở quán trà, hoặc đăng tải trong tiểu thuyết bạch thoại muôn màu muôn vẻ, muôn hình vạn trạng. Thậm chí có rất nhiều tin đồn về các danh nhân hiện còn đang sống khỏe mạnh hoặc vừa mới tạ thế cũng không thể tránh được. Điều này quả thực không phải là bởi vì phần lớn các danh nhân đều có đoạn thân thế long đong lận đận, cũng chẳng phải bởi vì giống lai đều thông minh tài cán hơn không phải là giống lai, có thể đăng đan trì, tôn cửu ngũ, hoặc chủ cung văn hoa, nhập lăng yêu các... mà là vì những nguyên nhân lịch sử và văn hóa. Một số người cùng với việc sàng dựng danh nhân, lại có hứng thú với thân thế gia truyền của họ, thích nghe những chuyện không ghi chép trong chính sử, những lịch sử bí mật trong màn trướng của các sự kiện trọng đại, thậm chí cả việc đi đứng của họ có phải là bước chân phải đi trước không, ngủ có phải là cũng ngáy khó khò không. Ngay lập tức, một số tao nhân mạc khách liền mở quán xào rán lịch sử, đem những thứ vu vơ nghe ở đường, nói ở chợ, rồi diễn dịch xào xáo thành một loại lịch sử khác sinh động, hấp dẫn khác thường, một loại lịch sử mà muôn dân trăm họ thích nghe thích thấy, một loại lịch sử có tác dụng tuyên truyền và bổ sung cho chính sử, một loại dã sử mang hình thức Trung Quốc mà về mặt khách quan cũng có tác dụng giáo dục phổ cập chính sử.
ở Trung Quốc hiện đại, trong số các danh nhân nổi tiếng nhất, không ai có những tin đồn về thân thế nhiều và rộng hơn được Tưởng Giới Thạch, người đã từng bị gọi là tên khát máu, tên gian tặc của nhân dân và cũng đã từng được gọi là tiên sinh nữa. Trong những tin đồn có liên quan tới thân thế Tưởng Giới Thạch, tin đồn nổi tiếng nhất đó là Tưởng Giới Thạch là Trịnh Tam Phát Tử, là người kéo bình dầu theo người mẹ đã tái giá từ Hứa Xương Trung Châu tới. Tin đồn này đã được truyền tụng từ những năm 30 đến những năm 50, từ những năm 60 truyền tới những năm 70, từ Hồng Công truyền tới Đại lục, từ trong nước truyền ra nước ngoài. Thậm chí trong Tư liệu văn sử Hà Nam xuất bản năm 1981 và Nghiên cứu về Tưởng Giới Thạch xuất bản năm 1988, vẫn có người kiên trì thuyết này, có thể nhìn thấy tin đồn đó có nguồn gốc sâu xa biết bao ! Trong số đó, được truyền bá và có ảnh hưởng lớn nhất đối với thuyết này phải kể tới Kim Lăng Xuân Mộng nổi tiếng của Đường Nhân.
Kim Lăng xuân mộng là một bộ tác phẩm đồ sộ dài 8 quyển với mấy trăm vạn chữ. Vừa mở đầu đã nói Tưởng Giới Thạch vốn không phải họ Tưởng, mà là họ Trịnh; không phải là người Triết Giang mà là người Hà Nam. Hồi thứ nhất của nó là Năm đói kém, Trịnh gia bỏ cốt nhục. Tìm vú em, Tưởng phủ đón tân nhân. Đường Nhân viết rằng:
Dưới đây nói về cuốn sách này, bắt đầu kể về một cậu bé bướng bỉnh. Người này họ Trịnh, tên cúng cơm là Tam Phát Tử ở làng Hậu Trinh Trang thuộc thị trấn Phồn Thành, Hứa Châu (nay là thành phố Hứa Xương) tỉnh Hà Nam. Năm Quang Tự thứ 13 đời Thanh (năm 25 trước Dân quốc, năm 1887) sinh ra vào ngày 31 tháng 10, song thân trong nhà khỏe mạnh, còn có hai huynh trưởng, anh cả gọi là Thiệu Phát, lớn hơn Tam Phát Tử 7 tuổi; người anh thứ hai tên mụ là Nhị Phát Tử, lớn hơn Tam Phát Tử 4 tuổi. Người cha của Tam Phát Tử chăm chỉ siêng năng lao động, cần cù tiết kiệm, tích cóp được mười mấy mẫu bạc điền, còn phụ mở thêm một xưởng xay. Mẹ của cậu có khuôn mặt xinh đẹp, một tay nữ công tài ba tháo vát. Cả nhà năm khẩu trồng cấy, xay bột, khâu vá, bện giày hoa, cuộc sống trôi qua cũng dễ chịu...
Khi Tam Phát Tử lên 6 tuổi ( năm Quang Tự thứ 18 đời Thanh, năm 1892), cả vùng Hứa Châu gặp cảnh mất mùa đói kém, đất hoang ngàn dặm, tấc cỏ chẳng sinh, dân tình đói rách cơ cực, những việc động trời cũng ào ào kéo đến. Cả nhà Tam Phát Tử tận mắt nhìn thấy những gia đình giàu có ở Tiền Trịnh Trang đều đã dọn đi hết từ lâu, gia súc, đồ trang sức quí giá đều sạch trơn. Một bộ phận ở Hậu Trịnh Trang cũng đã bỏ chạy, chỉ còn rớt lại một số người hau háu ngóng chờ nha môn phát chẩn lương thực. Cha của Tam Phát Tử chủ trương chạy tới Lạc Dương, bèn khuyên vợ rằng: Đừng có luyến tiếc cái nhà này nữa, ở lại là sẽ đi gặp Diêm Vương hết ! Chờ lương thực phát chẩn thì sẽ chờ đến đời nào? Vỏ cây rễ cỏ đều sắp ăn hết cả rồi, mọi người đang cướp cả đất của quan âm. Sáng sớm đi ra đã nhìn thấy gần mười xác chết, vừa rồi về nhà đếm lại, xác chết lại tăng thêm mấy người. Đứa con dâu lão què khỏe mạnh là thế, hai ngày nay ăn đất quan âm vào bụng, giờ đây đang quằn quại khắp mặt đất, xem ra không sao sống nổi nữa ! Đi thôi ! Nhân lúc ta còn có chút sức lực... Thế nhưng, mẹ của Trịnh Tam Phát Tử thấy Tam Phát Tử quá nhỏ bé, sợ rằng không qua nổi khổ sở trên đường nên đã kiên trì có chết cũng sẽ chết ở nhà. Cha nó không làm sao được đành phải đem anh cả là Thiệu Phát đi lánh nạn, Nhị Phát Tử phát hận, đi làm lính (Nguyên văn như vậy, theo người ta nói lúc này Nhị Phát Tử còn nhỏ bé, chưa thể đi lính được - người biên soạn).
Hai tháng sau, chuyện bán con để ăn đau đớn cũng xảy ra ở Trịnh Trang. Mẹ Tam Phát Tử bắt đầu tuyệt vọng, đành phải cùng một số người cuối cùng rời khỏi Trịnh Trang để chạy nạn tới Khai Phong, vừa đi vừa hỏi thăm tin tức của cha con Thiệu Phát nhưng trên đường đi gian nan vất vả, thẳng tới Cổ đô, vẫn biệt vô âm tín, cuộc sống càng vô vọng. Giữa lúc khốn cùng, mẹ của Tam Phát Tử nghe nói có một nhà buôn họ Tưởng ở phố sau chùa Tướng Quốc gần đây vợ mới chết, đang tìm vú em. Mẹ của Tam Phát Tử ngẫm nghĩ lung lắm, cuối cùng đành đau đớn quyết định tự dâng mình vào cửa .
Đường Nhân viết tiếp: Lại nói Tưởng Triệu Thông đang buồn rầu vì không tìm được người vú em thích hợp. Người vợ mới mất, để lại mấy đứa con vừa lớn vừa nhỏ là Tưởng Tích Hầu, Thụy Xuân v.v.. quả thật làm cho ông bối rối vô cùng. Bản thân ông là nhà buôn muối đã bỏ tiền ra mua chức quan hậu bổ để sáng sủa cửa nhà, lúc nhàn rỗi cũng đi viết thuê đơn tố cáo, kiện tụng, giao tiếp thù tạc bận rộn liên miên, việc nhà không sao quản lý được. Hôm đó, ông đang dự định gặp một người quen mới từ quê Phụng Hóa Triết Giang lên giới thiệu một người đàn bà đến trông quản lũ trẻ, rồi lấy làm vợ kế. Ông nghĩ rằng trong những năm tháng loạn ly, giao thông bất tiện, việc này thật chẳng dễ dàng.
Đang lúc bối rối thì thấy rèm cửa lay động, vú già dẫn một người đàn bà xinh đẹp, khỏe mạnh bước vào. Tưởng Triệu Thông bỗng thấy trong lòng mình bối rối, không kìm vân vê mấy sợi râu chuột, với lấy chiếc điếu cày, vừa ngả mình trải chiếc áo bào da cáo, ngồi lên chiếc ghế bành gỗ táo. Vừa hút được mấy hơi, người mẹ của Tam Phát Tử đã rảo bước cầm máy lửa đặt ở trên bàn trà thay ông quẹt hai tiếng, lửa bật cháy. Cử chỉ đó đã làm cho vú già đứng ở ngoài cửa nhìn ngây người ra. Tưởng Triệu Thông rít một hơi, chiếc điếu thuốc lào kêu ré lên lọc xọc lọc xọc. Cái miệng của ông là cái miệng nổi tiếng nói tài biện luận giỏi, thế mà nhất thời cũng chẳng nói được lời nào.
- Chị họ gì ? - ông học theo giọng Hồ Nam nói.
Mẹ Tam Phát Tử cúi gục đầu đáp:
- Gia đình nhà em họ Vương.
Đường Nhân nói : Lão Tưởng rất vừa ý mẹ của Tam Phát Tử. Tưởng phủ đã có một người vú em mới như vậy đó. Hồi thứ hai của Kim Lăng Xuân Mộng là: Từ sau đó Tam Phát đổi thành họ Tưởng. Về Thụy Hóa, vú em làm phu nhân . Đường Nhân viết tiếp:
Lại nói, Túc Am tuổi vừa ngũ tuần, làm khách tha hương, công danh lợi lộc đều có cả, thế nhưng lại vấp phải chuyện vợ mất giữa chừng, nhất là mấy đứa trẻ thiếu người chăm sóc, trong lòng buồn bực khó chịu chẳng vui. Năm ấy, nghĩ rằng lá rụng về gốc, cáo chết quay đầu về núi, ông cũng muốn trở về quê cũ ở Khê Khẩu; hơn thế lại là áo gấm về làng, vinh tông hạnh tổ, do đó ý muốn trở về đã càng mạnh mẽ. Thế nhưng việc tục huyền thực không đơn giản.
Lấy một người cùng quê chăng? Sau này lúc nhắm mắt xuôi tay, một khối di sản khó tránh khỏi rơi vào tay người vợ mới. Trong suy nghĩ của ông, những đứa con mà bà cả sinh ra bao giờ cũng phải nếm đủ đòn khổ sở của người mẹ kế, Túc Am không yên lòng. ở đây mà lấy một người vợ kế ư ? Sau khi ông chết người phu nhân mới kia sẽ coi gia đình nhà chồng là mớ phiền phức rồi tống tất cả về Hà Nam, thế thì ba đứa con của ông chẳng phải thành tay trắng cả ư ?
Nghĩ lại nghĩ đi, chưa bề nào quyết được cả. Thế là việc buôn bán giao cho kế toán quản lý, lầu vàng cũng khó khiêng đi được, các vụ án kiện tụng tạm thời không động đến nữa. Suốt ngày từ sớm đến tối chỉ ở trong phòng sách hút thuốc, muốn trước hết thuê một người vú em để trông coi lũ trẻ cho thỏa đáng, sau rồi hãy tiến hành việc tục huyền. Điều này quả thật là vô xảo bất thành thư.
Má Vương đã xuất hiện đúng vào lúc này. Má Vương rất xinh đẹp, má Vương mắt trong mi sáng, má Vương thân thể khỏe mạnh, má Vương cô quạnh lủi thủi một thân. Đây là điều kiện tối quan trọng, nhà chồng nàng, nhà cha mẹ nàng đều đã nhà tan người chết, không sợ sau khi mình chết nàng lại rời khỏi Triết Giang. Đồng thời lại là thu dung nàng trong lúc nàng chạy đói, ông có quyền bắt nàng phải cảm ân báo đáp. Còn đối với vấn đề Tam Phát Tử cũng chẳng khó giải quyết, cứ bắt nó mang họ Tưởng là xong.
Lại nói má Vương từ khi bước vào gia đình họ Tưởng tỏ ra cẩn thận, chu đáo, tỉ mỉ hầu hạ Túc Am, thương yêu chăm sóc lũ trẻ. Nàng sợ Tam Phát Tử cãi lộn gây sự nên đã dứt khoát nhốt cậu ở trong nhà dưới. Hôm đó cũng là hôm có việc, Túc Am ở ngoài uống rượu trở về, rượu say loạng choạng bước vào phòng, ngã vật xuống giường, luôn mồm kêu khát. Tháng chạp mùa đông giá rét. Vì vú già kia đã ru các cháu ngủ cả, má Vương đem tách trà Phổ Nhĩ đã pha xong bưng lên. Chẳng ngờ một tiếng choang, Túc Am đánh rơi tách trà lê xuống đất, vươn mình vừa lôi vừa kéo nàng lên trên giường...
Đường Nhân nói, Sau chuyện đó, địa vị của má Vương ở gia đình họ Tưởng đã được cải thiện rất lớn. Thế nhưng đến mùa xuân năm sau, khi Túc Am quyết định trở về Phụng Hóa mới để cho mà Vương chính thức làm vợ kế. Túc Am cũng để cho Tam Phát Tử đổi họ sang họ Tưởng, và đặt tên là Chu Thái, tự là Thụy Nguyên tên đi học là Chí Thanh.
Trong Kim Lăng xuân mộng, việc miêu tả của Đường Nhân đối với thân thế Tưởng Giới Thạch không hạn chế ở một hai chương càng không hạn chế ở số trích dẫn, mà trong toàn bộ sáu chương với hơn mười vạn chữ, trong đó có truyền đạt về bối cảnh, có miêu tả về chi tiết, có trình bày những tình tiết, còn có những điểm nghi ngờ cần làm cho đúng đắn. Đem sự nghiêm cẩn của nhà viết sử kết hợp với sự sáng tạo của nhà viết sách làm cho người đọc thấy rõ tác giả đã dùng sử liệu tường tận, xác sự, luận chứng chặt chẽ, hấp dẫn người đọc rất mạnh mẽ. Cho nên cuốn sách này tuy đã xuất bản mấy chục năm nay nhưng vẫn tiêu thụ mạnh, không hề suy giảm. Có những điều coi là chính sử đáng để xem xét, có những điểm coi là dã sử để dè chừng. Những người tin vào lời trong đó cũng đọc, những người không tin vào lời nói trong đó cũng đọc. Cuốn sách này từ khi ra đời đến nay, tổng cộng đã in bao nhiêu vạn quyển, cũng chưa thấy có ai thống kê tường tận. Thế nhưng trong nhiều loại sách xuất bản ở trong nước và hải ngoại, mỗi lần nhìn vào số lượng phát hành mấy chục vạn quyển, mấy trăm vạn quyền, không ngại mà khẳng định cuốn sách này được liệt vào loại sách dễ tiêu thụ nhất. Do đó, cách nói Tưởng Giới Thạch là Trịnh Tam Phát Tử đã trở thành thuyết được lưu truyền rộng rãi nhất.
Con trai của Đường Nhân tiên sinh là Đường Tiểu Tam trong kỳ thứ sáu Tân văn chiến tuyến năm 1980 có đăng tải bài viết Kim Lăng xuân mộng: Cha tôi đã nghiên cứu các chủng loại sách xuất bản có liên quan đến Tưởng Giới Thạch, chất đống cao như ngọn núi nhỏ, chỉ riêng những sách tham khảo đã tới năm sáu trăm quyển. Chỉ để tìm ra một cái tên hoặc một năm tháng ông có thể phải đọc liên tục mấy đêm liền. Cách miêu thuật thực sự nghiêm túc, truy tìm tại nguồn cội gốc rễ trong quá trình viết sách của tác giả đã làm vững chắc thêm tính chân thực độ tin cậy của các nhân vật sự kiện trong tác phẩm, sự cẩn trọng này khiến cho tác phẩm giành được càng nhiều độc giả, khiến cho con người và sự việc miêu tả ở trong tác phẩm đã được truyền bá càng rộng rãi hơn.
Thế thì với tư cách là một tác giả, Đường Nhân tiên sinh đã đối xử với con người và sự việc trong tác phẩm của mình như thế nào? Đường Nhân tiên sinh nói: Bộ sách này không những không phải là tiểu thuyết mà cũng không phải là lịch sử, chỉ là đem con người và sự việc của Tưởng Giới Thạch giống như một tiên sinh kể chuyện miêu thuật ra mà thôi [2].Chú ý, tuy nhiên về hình thức, đây cũng không phải, kia cũng chẳng phải, thế nhưng về nội dung, điều nói ra lại là con người và sự việc của Tưởng Giới Thạch. Có thể nói, Đường Nhân tiên sinh đã tin tưởng như vậy, cho nên đã viết ra sinh động vô cùng, bàn luận cũng rất quả quyết. Vì để khẳng định tính chính xác của những kiến giải mà mình đưa ra trong sách, Đường Nhân tiên sinh còn phê phán các tin đồn khác về ông Tưởng. Trong hồi thứ ba của Kim Lăng xuân mộng ông đã viết:
Có người nói, Tường Giới Thạch là đứa con ngoài giá thú của phương trượng chùa Tuyết Đậu với bà mẹ ông ta. Căn cứ là Tưởng Giới Thạch mỗi khi có đại kế quân quốc không thể giải quyết được, thường thường không đem theo Tống Mỹ Linh mà một mình cùng lính thị vệ vào ở trong chùa Tuyết Đậu, để suy nghĩ biện pháp giải quyết. Theo lời đồn, khi ở trong chùa, trong đêm khuya u linh ông đã quỳ trước tháp đựng tro xương của lão hòa thượng kính cẩn cầu nguyện. Ông là một tín đồ của đạo Cơ đốc, hành động này quả thực đáng nghi ngờ. Hơn nữa, nếu đồng hành với Tống Mỹ Linh thì quyết không bao giờ tới chùa Tuyết Đậu v.v.. Kỳ thực, loại hành vi này, chính là sau khi Túc Am qua đời, hai mẹ con ông đã đi lại với hòa thượng rất thân thiết. Nếu vì lý do ông Tưởng chịu ảnh hưởng rất sâu của mẹ mình và phương trượng mà nói ông là do hòa thượng sinh ra, thì quả thật là điều oan uổng, a di đà Phật !
Cách viết vừa kể vừa bình luận kèm theo sự phê phán này của Đường Nhân tiên sinh, theo kiểu tất nhiên là chỉ có điều này mới chính xác, ngoài ra mọi điều khác đều là sai cả, không thể có cách chọn nào khác đã đem lại cho người đọc cảm giác chân thực rất mạnh mẽ. Như trên đã nói, điều này có thể mang đến cho độc giả những ấn tượng mạnh mẽ, đối với sự truyền bá rộng rãi cũng sinh ra ảnh hưởng quan trọng.
Đương nhiên, tin đồn Tưởng Giới Thạch là Trịnh Tam Phát Tử đã lưu truyền rộng rãi, không thể nói toàn là bởi Kim Làng Xuân Mộng của Đường Nhân tiên sinh cả. Rất nhiều văn chương hồi ức viết với danh nghĩa là người chứng kiến hoặc người chuẩn chứng kiến, không những đã trở thành chứng cứ quan trọng của Đường Thuyết mà càng thúc đẩy sự truyền bá của Đường Thuyết.Tháng 5 năm 1962, Trương Trọng Lỗ có bài viết nói rằng:
Tưởng Giới Thạch quê thuộc Phụng Hóa Triết Giang, là điều mọi người đều đã biết. Kỳ thực ông không phải là sinh ra ở Phụng Hóa Triết Giang, mà là sinh ở Hứa Xương Hà Nam - Tưởng Giới Thạch đối với gia thế Hứa Xương của ông giữ kín như bưng, hầu như không một người nào biết rõ uẩn khúc của sự việc. Cho dù có người nào hơi biết loáng thoáng, cũng chẳng dám nói cho ai biết, e sẽ gặp những điều bất trắc. Mặc dù sau thời kỳ kháng chiến, trong những người Hà Nam mới có người truyền nhau nói, thế nhưng cũng chỉ là xì xào vụng trộm, chẳng dám công khai. Ai chẳng biết đặc vụ của họ Tưởng ở khắp mọi nơi, hễ truyền đến tai bọn đặc vụ thì lập tức sẽ không tránh khỏi rước lấy tai họa.
Từ năm 1941 đến năm 1942, Hà Nam gặp phải nạn hạn hán, khu vực Hứa Xương bị tai họa nặng nề, chỉ riêng huyện Hứa Xương đã chết đói tới hơn năm vạn người. Lúc này, người anh ruột Trịnh Phát của Tướng Giới Thạch khi chạy nạn tới Trùng Khánh mới bắt đầu bộc lộ gia thế. Đại để là vào khoảng năm Quang Tự thứ 10 đời Thanh (1885), khi ấy Tưởng Giới Thạch mới lên 4 lên 5 tuổi, trong nha môn huyện Hứa Xương có một vị sư gia họ Tưởng (cuối đới Thanh đầu Dân quốc, sư gia coi việc phạt tiền trong nha môn các huyện phần lớn là người Triết Giang, đặc biệt người Thiệu Hưng là nhiều nhất, vị sư gia họ Tưởng này cũng tự xưng là người Thiệu Hưng), người này đã thuê một người hầu gái, đem theo một đứa trẻ con. Người hầu gái này chính là mẹ đẻ của Tưởng Giới Thạch, đứa trẻ con này cũng chính là Tưởng Giới Thạch. Không lâu sau, quan huyện từ chức, vị sự gia này cũng đi theo về Khai Phong. Nghe nói, người vợ của vị sư gia này lúc đó đã qua đời, cuộc sống thiếu người đỡ đần, bèn đưa cả người hầu gái ấy về Khai Phong. Về sau người hầu gái ấy trở thành quyến thuộc của ông ta và cùng theo về Triết Giang. Sự thật do chính miệng người anh ruột của Tưởng Giới Thạch là Trinh Phát nói với những người cùng quê Hà Nam là Cáo Tử Cử (quân đoàn trưởng, sở trưởng huấn luyện hậu bị) Lý Tiêu Đình (Thượng nghị ủy ban quân ủy) Thái Chỉ Sinh (Tham chính viên ủy ban Tham chính quốc dân) .. tại Đại Dương (Trùng Khánh) năm 1942.
Nếu nói bài viết của Trương Trọng Lỗ đã thuật lại sự chia ly của anh em trong gia đình họ Trịnh cũng như khoảng thời gian mà Trịnh Tam Phát Tử theo Tưởng sư gia đi Triết, thì ba đoạn hồi ức sau lại kể về cuộc đoàn tụ anh em họ, cùng với những sự việc sau này của họ :
Quách Hải Trưởng trong Hội nghị chính trị hiệp thương tỉnh Hà Nam nói: Khi chạy nạn đói tới Trùng Khánh, Trịnh Phát trú ở hội đồng hương Hà Nam, có quen biết với một người tên là Diêu Đình Phương. Sau khi Diêu được biết quan hệ của Trịnh Phát với Tưởng Giới Thạch, liền bảo anh ta tới nơi ở của Tưởng ở trong rừng sâu để cầu kiến. Trịnh nghe theo mà đi. Sau nhiều lần không có kết quả, cuối cùng nguyện vọng của ông ta đã được báo lên Tưởng Giới Thạch. Tưởng liền ký một tờ chi phiếu 5000 đồng để trao cho Trịnh Phát. Trịnh kiên quyết chối từ không nhận, nói rằng ông ta tới đây cốt để nhận anh nhận em chứ không phải vì tiền. Nghe báo cáo lại, Tưởng liền cử người đưa Trịnh Phát tới nhà Đới Truyền Hiền, để cho Đới giải thích khuyên nhủ, an ủi, nói rõ Tưởng không thể để anh trai mình chịu khổ cực được. Ngoài ra còn nói, sau đó Tưởng đã tới nhà họ Đới, anh em gặp nhau, khóc lóc một hồi. Sau đó, Tưởng ra lệnh cho Đới Lập cử người chuyên chăm sóc và theo dõi Trịnh, đưa ông ta về ở trong Sở hợp tác Trung - Mỹ. Về sau có người thường gặp Trịnh Phát ở Từ Khí Khẩu, Sa Binh Bá, có thể tự do hoạt động trong một phạm vi nhất định, việc ăn uống trong quán đều có người trả tiền, chỉ có điều Trịnh Phát không được tiếp xúc với ai. Đồng thời, mỗi tháng Ngân hàng Trung ương đều gửi tiền đến cho gia đình Trịnh Phát. Sau khi Nhật Bản đầu hàng, Trịnh Phát trở về Khai Phong. Một buổi tối trong năm 1946, Quách đã thấy Trịnh Phát ở trong nhà Diêu Đình Phương ở thị trấn Nam Dương, Khai Phong, hình dáng ông ta rất giống Tưởng Giới Thạch. Năm 1953, khi tới Hứa Xương thăm hỏi úy lạo tai họa sương muối, Quách đã hỏi thăm tin tức Trịnh Phát qua những người lãnh đạo địa phương, được biết Trịnh Phát vẫn khỏe mạnh, thành phần trung nông, ông ta sợ bị liên lụy nên đã phủ nhận thẳng thừng mối quan hệ với Tưởng Giới Thạch.
Ông Tạ Mại Thôn ở ủy ban Chính trị hiệp thương thành phố Trịnh Châu nói rằng năm 1946, vì một lý do nào đó, ông đã tới thăm ông Ngô Hiệp Đường, chuyên viên Hứa Xương trong chính quyền Quốc dân đảng, Ngô được lệnh mỗi tháng cấp cho gia đình Trịnh Phát 300 cân lương thực. Ngô còn nói lúc đó Trịnh Phát trú ở nhà số 4 Nguyễn Từ Bi Khai Phong. Chủ tịch tỉnh là Lưu Mậu Ân cũng cung cấp sinh hoạt phí theo định kỳ cho Trịnh. Cuối cùng Ngô nói với Tạ nếu Trịnh Phát không có quan hệ với lão Tưởng, không có mệnh lệnh của cấp trên thì Lưu Chủ tịch và một chuyên viên như ông ta không thể nào lại cung cấp tiền bạc lương thực cho con người không hề quen biết này.
Còn ông Lý Tĩnh ở ủy ban chính trị hiệp thương tỉnh Hà Nam lại nói: Tháng 6 năm 1948, một ngày trước khi Khai Phong được giải phóng lần thứ nhất, một số nhân vật đứng đầu Hà Nam ở Nam Kinh tụ tập dự tiệc ở quán rượu Đại Tam Nguyên, Diêu Đình Phương đã giới thiệu Lý Tĩnh làm quen với Trịnh Phát. Theo Lý thì hình dáng, mặt mũi, cử chỉ của Trịnh với Tưởng có những chỗ rất giống nhau. Nghe nói khi Trịnh Phát ở Nam Kinh cũng có người chuyên chăm sóc cuộc sống của ông ta. Trong Hà Nam văn sử tư liệu số 5 xuất bản tháng 4 năm 1981 của ủy ban nghiên cứu tư liệu văn sử chính trị hiệp thương tỉnh Hà Nam còn có một số bài viết tương tự.
Một số bài viết vào những năm 60 sau khi được phổ biến tuyên truyền đã tạo nên ảnh hưởng rộng rãi. Về vấn đề thân thế của Tưởng Giới Thạch, ở hải ngoại cũng có một số người kiên trì Đường thuyết, khiến cho tin đồn Tưởng Giới Thạch là Trịnh Tam Phát Tử được truyền bá khắp thế giới. Mạnh Tuyệt Tử người Hồng Công từng viết Người cha của Tưởng Giới Thạch, trong đó nói : Tình cảnh bần tiện của Tưởng Giới Thạch khi còn nhỏ chạy đói phải đi xin cơm ăn, giống Chu Nguyên Chương; tình cảnh kéo bình dầu giống như Tần Thủy Hoàng. Bần tiện nghèo hèn mà lại thêm việc kéo bình dầu đã kết thành tâm tư tình cảm ở trong lòng Tưởng Giới Thạch, có dấu ấn sâu sắc hơn nhiều so với Chu Nguyên Chương, Tần Thủy Hoàng, do đó tạo thành sức bật càng lớn. Năm 1987, học giả Đài Loan là Lý Ngạo đã viết một thiên văn chương dài hơn bốn vạn chữ nhan đề là Tưởng Giới Thạch có phải là Trịnh Tam Phát Tử không? với dẫn chứng rộng, luận cứ chặt chẽ. Kết luận cuối cùng là: Tôi hoài nghi Vương Thái phu nhân với Tưởng Túc Am, căn bản chính là con người đổi vợ; còn bản thân Tưởng Giới Thạch chính là người kéo bình dầu trong khi người chồng có vợ chết còn lại đàn con khó có thể tồn tại được !
Đối với thân thế li kỳ rắc rối của Tưởng Giới Thạch, mỗi người nói mỗi khác, lan truyền đi mấy chục năm, có người nói dựng đứng lên, có người có khảo chứng, có người cung cấp những tài liệu để chứng minh bằng những người đã chứng kiến hoặc chuẩn chứng kém, hơn thế đã không ngừng có người đề suất luận điểm mới và luận cứ mới, cũng có người không ngớt nêu đề cũ sao chép từ mấy chục năm trước, trong nước đã có, ở ngoài nước cũng có, các thuyết nói về thân thế của Tưởng Giới Thạch sao lại không trở thành mốt thời thượng được ? Bất kể nó là giả hay là thật !
-----------------------------
[1] Thanh Thái Tổ 1560-1625
[2] Hà Quốc Thao: Giải câu đố về thân thế Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Lăng Độ Vũ vì bài viết hữu ích này:
Phần 1
Chương 2
Tại sao Tưởng Giới Thạch lại biến thành Trịnh Tam Phát và người con của sư trụ trì chì chùa Tuyết Đậu ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Như phần trên đã nói, mấy chục năm nay Đường Thuyết rùm beng một thời rằng Tưởng Giới Thạch là Trịnh Tam Phát Tử. Các sách báo tạp chí như Dân quốc Xuân Thu, Hứa Xương sư chuyên học báo v.v... mấy năm nay vẫn không ngừng đăng tải các bài văn tương tự như kiểu Đường Thuyết. Các báo chí trong nước cũng chuyển tải không ít các bài tương tự. Ngoài ra, còn có một thuyết cũng lưu truyền rộng rãi mà Đường Nhân Tiên sinh đã từng phê phán qua cách nói: Tưởng Giới Thạch là con của người chủ trì chùa Tuyết Đậu. Thuyết này cũng truyền đi tương đối sớm, tuy đã từng bị Đường Nhân tiên sinh phê phán thế nhưng vẫn có người tuyệt đối tin tưởng không chút nghi ngờ. Vào đầu những năm 80, bí thư trưởng viện lập pháp (lúc đó Tôn Khoa giữ chức Viện Trưởng) nguyên ủy viên Trung ương Quốc dân đảng lưu cư ở nước Mỹ là Ngô Thượng Ưng, đã phát biểu bài Bàn về con người Tưởng Giới Thạch trên một tờ báo Trung văn ở nước Mỹ. Ông nói: Tôi quen biết Tưởng Giới Thạch đã hơn năm mươi năm. Ông Tưởng là người nông thôn làng Khê Khẩu Ninh Ba Triết Giang, có lai lịch rất không rõ ràng. Tôi đã từng tới Khê Khẩu, theo nhân dân ở nơi đó nói, người mẹ của Tưởng Giới Thạch xuất thân nghèo hèn, từng ở trước cửa chùa Tuyết Đậu cách Khê Khẩu vài dặm, may vá cho hòa thượng, kiếm từng đấu thưng. Do có nhiễm với người chủ trì chùa này, bà đã phải nuôi một đưa bé tức là Tưởng Giới Thạch, nhưng không thể công khai, vẫn nhận một lão bán thịt làm chồng. Ông Tưởng không đủ vĩ đại, vẫn giấu kín không dám nói. Cho nên người đời đối với lai lịch của ông còn có rất nhiều điều đồn đại. Sau khi Tưởng phát đạt, ông đã xây một ngôi nhà ở chùa Tuyết Đậu, mỗi lần tới đây đều mật đàm với hòa thượng Thái Hư có quen biết với cha đẻ của ông...
Vậy thì, điều đầu tiên, Tưởng Giới Thạch có thực sự là Trịnh Tam Phát Tử hay không? Muốn biện giải nhận rõ nghi án này, cần phải tìm hiểu ba điểm dưới đây:
1- Bà Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc cuối cùng là người quê quán ở đâu ? Có thật bà đã có đoạn từng trải từ Trung Châu tới Triết Giang hay không?
2- Ông Tưởng phụ Tưởng Túc Am có đúng như Kim Lăng Xuân mộng nói đã từng buôn bán muối hoặc làm sư gia ở phủ Khai Phong hay không ?
3- Tưởng Giới Thạch cuối cùng là sinh ra ở đâu ? Lớn lên ở đâu ?
Đối với vấn đề thứ nhất, Cát Trúc Vương Thị Tông phả trùng tu năm 1933 đã nói cho chúng ta biết, vào năm Hồng Vũ triều Minh, Phụng Hóa Liên Sơn có một người thanh niên tên gọi Vương Sảng tới thôn Cát Trúc Phụng Hóa làm nhà ở. Người đó lấy vợ đẻ con. Con cháu đời thứ 22 của người đó là Vương Dục sinh được ba trai hai gái. Con cả là Vương Hữu Tắc, lấy con gái Diêu Chấn Xương ở Hoan Đàm làm vợ, sinh được ba con trai, sau lại lấy tiếp một người họ Diêu khác, lại sinh được hai trai một gái, theo thứ tự sắp xếp, con trai thứ tư là Hiền Cự, con trai thứ năm là Hiền Dụ, con gái tức là Thái Ngọc. Vương Thái Ngọc lúc đầu gả làm vợ Điền Du Mộ họ Tào, chồng chết sớm, lại lấy làm lẽ Tưởng Triệu Thông ở Khê Khẩu. Bà chính là mẹ đẻ ra Tưởng Giới Thạch. Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc là người Cát Khê, Phụng Hóa. Điều này được coi là chứng cứ trong bài viết Tiên tỉ Vương Thái phu nhân sự lược do Tưởng Giới Thạch soạn viết về mẹ của mình vào năm 1921 khi chưa phát tích: Tiên tỉ Vương Thái phu nhân húy là Thái Ngọc, con gái của Vương Hữu Tắc tiên sinh ở ấp Cát Khê.Năm 23, về với phủ quân tiên khảo Túc Am... Điều này cũng có thể được chứng thực bởi những hoạt động của Tưởng Giới Thạch ở Cát Khê. Ngôi mộ của Vương hữu Tắc ở Đổng Gia Khanh Cát Khê là do Tưởng Giới Thạch bỏ tiền ra xây dựng, mộ xây chỉnh tề hùng vĩ, văn bia do Tưởng đề viết, tới nay nguyên mạo vàn như xưa. Năm đó, vợ chồng, cha con, dâu cháu nhà họ Tương đã nhiều lần tới tế lễ. Năm 1949 đêm hôm trước khi đi Đài Loan, ba đời tổ tôn đều tới tế tảo, rất nhớ thương quyến luyến. Trong nhật ký viết ngày 1 tháng 11 năm 1921 tại Phụng Hóa, Tưởng Giới Thạch ghi rằng: Chập tối trưng bày lễ mộ bà ngoại. Nếu mẹ Tưởng là người Hứa Xương, thì ở Phụng Hóa lấy đâu ra một bà ngoại nữa? Tưởng Giới Thạch cũng làm gì phải vét tiền trong túi ra vì một tấm thân đã chết của Vương Lão tiên sinh chẳng có liên quan. Căn cứ vào hồi ức của các nhân sĩ hiểu biết tình tiết sự việc của Phụng Hóa và Khê Khẩu thì cha con nhà họ Tưởng đối với hai anh em Hiền Cự, Hiền Dụ của Vương Thái Ngọc càng thêm cung kính gấp bội. Trước kháng chiến, cứ mỗi cuối năm Tưởng Giới Thạch đều biếu họ hàng hàng trăm đồng bạc. Khi Tưởng Kinh Quốc từ Liên Xô về nước thường trú ở Khê Khẩu từng nói với người quản lý nhà cửa chi thu của họ Tưởng là Đường Thụy Phúc rằng: Tôi đi vắng, người khác tới nhà làm khách có thể không cần phải chiêu đãi. Chỉ khi nào có hai ông cậu ở Cát Trúc tới Khê Khẩu, thì phải mời các vị nghỉ lại. Làm các món ăn thịnh soạn chiêu đãi các vị. Theo thời theo tiết phải biếu tiền cho các vị chi tiêu thường ngày. Bình thường cần gạo, cần hàng hóa thường dùng hàng ngày thì đều lên phố Khê Khẩu lĩnh theo sổ gửi tiền.Căn cứ theo điều tra của ủy ban văn sử chính trị hiệp thương huyện Phụng Hóa, ngày 26 tháng 12 nông lịch (1936), ngôi nhà mới của nhà họ Vương ở Cát Trúc dựng đài môn, Tưởng Giới Thạch vì bị thương ở bụng trong sự biến Tây An vừa hay đang chữa trị ở Phụng Hóa, cùng đích thân tới chúc mừng. Tháng 3 năm 1937, Vương Hiền Cự làm lễ đại thọ 70, Tưởng Giới Thạch đặc biệt cử Tống Mỹ Linh làm đại biểu, tới Cát Trúc chúc thọ anh trai của mẹ. Con cháu nhà họ Vương ở Cát Trúc công nhận được sự dìu dắt của Tưởng Giới Thạch. Cháu cả của Hiền Cự là Trung Trạch đã từng làm huyện trưởng Phố Thành Phúc Kiến, huyện trưởng Tân Xương Triết Giang. Con thứ của Hiền Cự là Lương Mục đã theo Tưởng Giới Thạch làm phó quan thị tòng và chủ nhiệm phân hiệu Vũ Lĩnh. Những người khác trong dòng họ Vương ở Cát Trúc, phàm những người có quan hệ mật thiết với Tưởng lại có tài năng nhất định, sau khi Tưởng phát tích, không ai là không có quyền thế, lên cao như diều gặp gió, không ai là không quan cao lộc hậu. Con trai của Vương hiền Gia người anh em họ của Vương Thái Ngọc là Vương Chấn Nam từng làm Vụ trưởng Vụ Quân pháp Bộ Quân chính của Chính phủ quốc dân. Cháu họ của Vương Hiền Đông, một người anh họ khác, tên là Vương Thế Hoa từng giữ chức Trung tướng Thị vệ trưởng, ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch. Vương Hiền Đông là người làm mối dắt Tưởng mẫu về nhà họ Tưởng, do đó năm ấy Vương Thế Hoa khi muốn ra ngoài làm việc theo Tưởng Giới Thạch, bèn nhờ ông chú là Vương Hiền Đông xin hộ cho, Vương nói với Thái Ngọc. Thế nhưng Tưởng Giới Thạch lại muốn thử thách người bạn thông gia nhỏ này. Tưởng sai Vương Thế Hòa đưa một làn hàng mặn tới, rồi sai Vương treo chiếc làn lên trên một chiếc đinh ở cột nhà. Bởi Vương người thấp, phải lấy chiếc ghế đứng lên để treo, sau khi treo làn xong, lập tức dùng giẻ mềm lau sạch dấu chân trên ở ghế, rồi đem ghế đặt về đúng chỗ cũ. Tưởng cho rằng Vương làm việc cẩn thận, liền dẫn Vương đi Quảng Đông với mình. Nói tóm lại, gia đình họ Vương ở Cát Trúc đích thực là nhà mẹ của Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc. Vương Thái Ngọc không phải là người Hứa Xương Hà Nam, cũng chưa hề tới Hứa Xương bao giờ, càng không bao giờ nói tới việc chạy đói đi xin ăn từ Dự đến Triết cả.
Đối với vấn đề thứ hai. Những tài liệu của Chính phủ hiệp thương tỉnh Triết Giang nói, nhà họ Tưởng ở Khê Khẩu, từ Tưởng Ngọc Biểu đã bắt đầu bỏ nghề nông kinh doanh thương nghiệp. Ngọc Biểu đã mở một cửa hiệu kinh doanh buôn bán muối, rượu, vôi là chính ở trên phố Khê Khẩu lấy tên là Hiệu muối Ngọc Thái. Đến nay, tại góc tường của cửa lớn chiêu đãi sở thứ ba ở Phụng Hóa vẫn còn giữ được tấm bia đá Ngọc Thái Diên phố Nguyên chỉ do đích tay Trung Chính đề. Đây chính là nền của cửa hiệu lúc dó. Hiệu muối của Ngọc Biểu là cửa hiệu kinh doanh Muối nhà nước duy nhất ở trên phố Khê Khẩu. Muối từ Ninh Ba bán buôn vận chuyển đến, vôi từ Phú Dương chuyển về, về sau còn kinh doanh tiêu thụ gạo, tới tận Vu Hồ An Huy bán gạo, phạm vi kinh doanh rất rộng lớn. Tưởng Ngọc Biểu sinh được hai con trai. Người con cả cho nhận làm con thừa kế của người anh thứ hai. Con thứ là Triệu Thông (tự là Túc Am). Khi Túc Am hai mươi hai tuổi bắt đầu kinh doanh hiệu muối. Do vì ông tanh nhanh tài cán, chẳng mấy năm buôn bán đã phát đạt, được mọi người gọi là Lươn ở đầu bến sông. Bởi vì lươn ở trong hang thì đã dễ bắt, nếu chờ nó bơi ra bến sông rồi muốn bắt thì khó lắm, có ý muốn nói rằng, người khác không thể chiếm được lợi thế bằng ông. Đầu tiên Túc Am lấy Từ Thị, lúc ông 41 tuổi thì Từ Thị bị ốm chết, Túc Am lấy vợ kế là Tôn Thị, không lâu Tôn Thị cũng qua đời. Năm thứ 12 Quang Tự đời Thanh, do người làm thuê cho Hiệu Muối Ngọc Thái tên là Vương Hiền Đông người làng Cát Trúc làm muối, ông lại lấy người em họ của Vương Hiền Đông ta Vương Thái Ngọc làm vợ kế. Ông Tưởng Túc Am này chính là cha đẻ ra Tưởng Giới Thạch. Từ những năm còn trẻ, ông đã kế thừa nghiệp cha, kinh doanh cửa hiệu muối Ngọc Thái ở Thế Khẩu, chưa hề đi tới Hà Nam, cũng chưa hề làm qua sư gia, càng không thể đưa bà quả phụ chạy nạn ở Hứa Xương đem về Triết Giang bao giờ. Nếu nói ở Hứa Xương Hà Nam đích thực có một nàng quả phụ chạy nạn lấy một ông Tưởng Túc Am buôn muối hoặc một sư gia Tưởng Túc Am quê ở Triết Giang, thì điều đó chỉ có thể cắt nghĩa đó là một hoặc hai Tưởng Túc Am khác, chứ không phải là Tưởng Túc Am, Tưởng Triệu Thông cha đẻ của Tưởng Giới Thạch.
Đối với vấn đề Tưởng Giới Thạch sinh trưởng ở đâu, sau khi đã hiểu rõ được Vương Thái Ngọc là người ở vùng nào, Tưởng Túc Am có phải là đã đem hiệu muối mở ra tới phủ Khai Phong không, Tưởng Túc Am là cha đẻ hay là cha dượng của Tưởng Giới Thạch, vốn đã rõ hết chân tướng. Thế nhưng do vì trong Đường Thuyết nói, Trịnh Tam Phát Tử chín tuổi mới tới Triết Giang, thế thì, nếu như Tưởng Giới Thạch không phải là Trịnh Tam Phát tử, thì những hoạt động ở Phụng Hóa trước chín tuổi không phải là điểm trống. Điều tra của ẹy ban Văn Sử chính trị hiệp thương huyện Phụng Hóa nói, Tưởng Giới Thạch sinh ở lầu hai phía đông hiệu muối Ngọc Thái. Bà Chiêu Nhan, mẹ của Tưởng Triệu Phú chở bè tre ở Khê Khẩu đã đỡ đẻ cho Tưởng Giới Thạch. Cho nên về sau này phàm nhà họ Tưởng có việc cưới xin ma chay tất phải mời bà Chiêu Nhân. Sau khi Tưởng Giới Thạch đẻ ra, mẹ Tưởng không có sữa, bà nội của Đường Thụy Phúc đã cho Tưởng uống ngụm sữa đầu tiên, do đó về sau này đêm giao thừa mỗi năm, người vợ của Tưởng Giới Thạch là Mao Phúc Mai đều bắt người ở năm là Tưởng Chiếu Minh đem hai mươi đồng bạc tới cho nhà họ Đường. Một đoạn thời gian sau, Tưởng Giới Thạch lại bú sữa của người vợ Tưởng Triệu Tích là Đan Thị. Sau khi Tưởng Giới Thạch phất lên, hai người cháu của Đan Thị là Hằng Đức và Hằng Tường đều đã làm người hầu cận của Tưởng Giới Thạch. Sau khi Đan thị mất, Tưởng Giới Thạch đã tự tay đề trên mộ bia của bà hàng chữ Tưởng Công Triệu Tính Đức phối Đan Thị chi Mộ - Trung Chính đề - (Phần mộ của bà Đan Thị - người vợ hiền đức của ngài Tưởng Triệu Tính - Trung Chính đề) để báo đáp ơn cho bú mớm. Năm Tưởng Giới Thạch lên bẩy tuổi, ông nội của Tưởng là Tưởng Ngọc Biểu đã đem Tưởng tới chùa Pháp Hoa lễ Phật, trên đường trở về chú bé họ Tưởng: nhẩy xuống dốc, quên hết ngọn ngành, trượt chân xuống hố sâu, bị thương ở trán bên phải, máu chảy ròng ròng, ông đau đớn xót xa không biết làm thế nào, liền hái thuốc tươi chữa cho Tưởng, trong phút chốc vết thương đã bình phục[1]. Tưởng Giới Thạch có một người chị cùng cha khác mẹ là Tưởng Thụy Xuân lớn hơn Tưởng trên mười tuổi. Khi Tưởng còn nhỏ chị thường bế đi rong chơi. Tình cảm giữa hai chị em luôn luôn tốt đẹp. Mỗi lần Tưởng Giới Thạch về quê đều phải tới thăm người chị ruột này. Nghe nói có một lần hai chị em gặp nhau ở trên đường, Tưởng Giới Thạch bắt phu dừng kiệu, tự mình nhường kiệu để chị ngồi, còn Tưởng đi bộ theo sau, mọi người qua đường về cùng kinh ngạc. Khi tin Tưởng Giới Thạch là Trịnh Tam Phát Tử ở Hà Nam được truyền tới Phụng Hóa, người cháu gái của Tưởng thụy Xuân (qua đời năm 1946) nói: Khi bà nội tôi còn sống thường nói ông cậu được bà bế lớn lên, tại sao bỗng chốc đã biến thành người Hà Nam được ? Nếu Tưởng Giới Thạch lên chín tuổi mới tới Phụng Hóa Triết Giang, thì người chị là bà nội này làm sao có thể bế nổi được.Tóm tắt lại những điều vừa kể, Tưởng Giới Thạch chính là Tưởng Giới Thạch, không phải là Trịnh Tam Phát Tử. Như vậy thì có phải là con của hòa thượng chùa Tuyết Đậu không ? Chúng ta tạm thời đem cách nói của Ngô Thượng Ưng tiên sinh gọi là Ngô Thuyết. Từ trong những ghi chép biện luận nhận định Tưởng Giới Thạch không phải là Trịnh Tam Phát Tử trên đây, chúng ta có thể nhìn thấy, Ngô chưa hề nói Tưởng mẫu là người tỉnh ngoài, tự hồ như có thể cho rằng, trong Ngô Thuyết bà là người Phụng Hóa, điều này so với Đường Thuyết càng gần với sự thực hơn. Thế nhưng trong Ngô Thuyết, Tưởng phụ là một đồ tể giết lợn, so với việc buôn nước trong Đường Thuyết thì cự ly càng cách xa hơn. Đối với vấn đề Tưởng mầu xuất thân nghèo túng nói trong Đường Thuyết thì đại thể là thực. Những tài liệu của ủy ban chính trị hiệp thường tỉnh Triết Giang nói ông nội của Vương Thái Ngọc buôn bán hàng lâm thổ sản, thu lợi chẳng phải ít, cảnh nhà dồi dào phong phú. Tới tay cha của Vương Thái Ngọc, bởi ông có ý thích với công danh, nhiều lần đi thi không đỗ, cảnh nhà dần dần sa sút. Khi Vương Thái Ngọc 19 tuổi, cha bị ốm nặng, lúc ấy em trai lớn Hiền Cự mới 15 tuổi lại đam mê cờ bạc thành nết, em nhỏ 11 tuổi, lại mắc phải chút bệnh thần kinh. Ngày tháng sống vô cùng khó khăn. Vương Thái Ngọc dựa vào một đôi bàn tay khéo léo, làm các công việc nữ công thêu thua may vá, làm các đồ gia dụng, rất khó duy trì nổi đời sống. Sau khi người chồng trước của Vương Thái Ngọc mất đi bà khổ sở thủ tiết vài năm rồi mới lấy cha của Tưởng Giới Thạch. Trong thời gian này, tuy cuộc sống của Vương Thái Ngọc rất quẫn bách, nhưng vẫn chưa tới mức độ tương tự giống một dạng ăn mày như trong Ngô Thuyết nói. Ngoài ra, chùa Tuyết Đậu cách Khê Trung 11 cây số, từ Khê Trung tới nhà Vương Thái Ngọc ở Cát Trúc 25 cây số. Vương Thái Ngọc lại có đầu óc thông minh, bàn tay khéo léo, cũng khó có thể bỏ công việc mà chạy tới chỗ của hòa thượng xa mấy chục cây số được. Những tài liệu về các mặt đều đã được chứng thực. Năm thứ hai sau khi Vương Thái Ngọc tới nhà họ Tưởng thì sinh ra Tưởng Giới Thạch. Cho nên nói Vương Thái Ngọc có con trước với hòa thượng sau đó nói gả về nhà họ Tưởng, cũng là một loại đồn đại sai lầm. Thế thì, những tin đồn đại li kỳ về thân thế của Tưởng Giới Thạch từ đâu đến ? Đường Nhân tiên sinh dựa vào đâu để phán định Tưởng Giới Thạch chính là Trịnh Tam Phát Tử ?Trong một bài văn Đốc ước Kim Lăng Xuân Mông và những điều khác, Đương Nhân nói: Mùa đông năm 1949, có một sĩ quan hộ vệ thực sự ở trong phòng hầu cận Tưởng Giới Thạch sau khi về hưu tới Hương Cảng tìm bạn viếng thăm, mong muốn được lá rụng về cội, hơn thế, đã được phê chuẩn rất nhanh chóng. Trước khi trở về quê hương, ông đã dùng bát hàng tiên viết một số tình hình có liên quan tới Tưởng, nội dung bên trong có năm trang ghi chép quá trình trong thời kỳ kháng chiến, ông nhận lệnh của Tưởng giám thị sự từng trải của người anh cả Tưởng là Trịnh Thiệu Phát. Do vì sự việc cách đây đã 30 năm (nguyên văn như vậy, đã không nhớ được năm trang bát hàng tiên này là do một người bạn đem tới cho tôi như thế nào). May mà lúc đó trong khi vô cùng phiền muộn tôi đã nghĩ tới nó. Thế là cả nhà hợp lực tìm kiếm, tốn mất mấy ngày trời mới tìm được năm trang giấy mỏng manh này. Đường Nhân còn nói, sau khi ông ta tìm được năm trang bát hàng tiên này rồi, đã bắt đầu không tin tưởng vào sự từng trải mà người sĩ quan hộ vệ này viết. Sau này căn cứ vào gia phả họ Tương, Triết Giang địa phương chí, phong tục tập quán và những truyện ký của Tưởng Giới Thạch v.v.., lại đối chiếu với lịch sử phát tích của Tưởng cùng những biểu hiện của các giai đoạn ông mới tin tưởng và cách nói của vệ sĩ quan hộ vệ này. Tức thì đã viết thành Bộ thứ nhất Trịnh Tam Phát Tử trong Kim Lăng Xuân Mộng.Trịnh Tam Phát Tử của Đường Nhân được viết thành là căn cứ vào năm tờ giấy bát hành tiên của một vệ sĩ quan hệ vệ chưa để lộ ra họ tên. Những người chứng kiến hoặc những người chuẩn chứng kiến khác đã thu nhận được các tài liêu tương tự như tài liệu của Đường Thuyết như thế nào ? Trương Trọng Lỗ nói tài liệu mà ông viết ra là dựa vào những điều bản thân ông nghe được lúc đó, Quách Hải Trường và Lý Tịnh thì nói là nghe theo lời kể của Diêu Đình Phương chạy sang nước Mỹ trước đêm giải phóng. Tạ Mai Thôn nói từ chỗ Ngô Hiệp Đường chuyên viên Quốc dân đảng ở Hứa Xương mà biết được mối quan hệ giữa Trịnh Phát với Tưởng Giới Thạch. Nói tóm lại, đó đều là những tài liệu đã qua tay thứ hai hoặc thứ ba, khó tránh khỏi thêm dấm thêm ớt, làm cho sai lệch. Lại nói, Kim Lăng Xuân Mộng là lời nói của nhà viết tiểu thuyết, là dựa vào các tiên sinh viết văn nói ra người như thế, việc như thế, thực thực hư hư, làm sao tránh được. Nói như vậy thì, tạo dựng ra một nghi án lịch sử như vậy hoàn toàn là sai lầm của những nhà lập thuyết và những nhà truyền thuyết, hoặc giả nói là bởi vì Tưởng Giới Thạch là kẻ thù chung của nhân dân. Nếu như sự kiện này được nhận thức như là sự đồn đại nhảm hoặc như là một huyền thoại, như thế thì lại quá ư giản đơn hóa. Mặc dù Đường Thuyết điều tra không có chứng cứ thực, thế nhưng bất kể là lập thuyết hay là truyền thuyết thì sự việc xảy ra tất có nguyên nhân.Đầu tiên, Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc 23 tuổi mới vào nhà họ Tưởng, mọi người không biết là quả phụ tái giá, liền dẫn tới một số nghi vấn. Bởi vì ở Phụng Hóa Triết Giang, phụ nữ trong xã hội cũ chỉ 15, 16 tuổi là đã lấy chồng, rất ít người để vượt quá tuổi 17,18. Người chị Tưởng Thụy Xuân của Tưởng Giới Thạch năm 15 tuổi đã đi lấy chồng. Tưởng mẫu 23 tuổi mới về với Túc An là trái với tập tục của địa phương đó đã đem lại nhiều nghi ngờ cho mọi người.Thứ nữa, khi Tưởng mẫu gả về nhà họ Tưởng, người vợ trước của Tưởng phụ đã sinh ra một trai, một gái, gái là Thụy Xuân, trai là Tưởng Giới Khanh. Nghe nói người con cả này tính tình thô bạo, đối với mẹ kế rất không tôn kính. Khi Tưởng phụ mất, Tưởng Giới Thạch mới 9 tuổi, còn là đứa bé thơ ngây, sau hai năm em trai của Tưởng Giới Thạch lại chết yểu. Cuộc sống của Tưởng mẫu thê lương khổ sở, dùng việc chay lâu dài lễ Phật để cầu lấy sự ký thác về tinh thần, bà thường qua lại với chùa miếu. Thế nhưng Tưởng Giới Khanh không tin Phật. Có một lần nó thua bạc mất nhiều, trở về nhà vừa hay gặp phải vị hòa thượng tới nhà họ Tưởng hóa duyên cho rằng nguyên nhân của việc thua bạc là do hòa thượng tới (không môn), bực tức quát mắng, cãi nhau với mẹ kế. Không lâu họ liền ở riêng. Trong bài viết Khóc mẹ, Tưởng Giới Thạch nói: Trong nhà tràn đầy tai họa tranh chấp bất hòa, tức là chỉ anh em chia nhà, mẹ con bất hòa. Rất nhiều người không biết những sự việc tế nhị bên trong, thấy trong bài văn tự viết của Tưởng Giới Thạch có ẩn tình chưa vạch rõ, sự suy đoán mò mẫm cũng theo đó mà phát sinh.Thứ ba, sau khi Tưởng mẫu chết, không hợp táng với Tưởng phụ, lại xây dựng riêng mộ trang khác. Sau năm 1927, mỗi lần Tưởng Giới Thạch về quê, phần lớn đều dùng mộ trang Tưởng mẫu làm nơi nghỉ, giới báo chí thường đưa tin Tưởng Giới Thạch tiếp kiến những nhân vật quan trọng trong chính phủ quân sự Quốc dân đảng ở mộ trang Tưởng mẫu. Giới bình luận liền lầm tưởng cho rằng ông chỉ biết có mẹ mà không biết tới bố. Kỳ thực, cha mẹ Tưởng Giới Thạch an táng phân tán ở hai nơi, có những nguyên nhân khác nhau, đã từng thuật ở những sách khác. Mỗi lần Tưởng Giới Thạch về quê, tuy sống nhiều ở mộ trang mẹ, nhưng không phải như có người đã nói: chỉ biết tảo mộ cho mẹ, mà không thấy ông biểu thị tâm hiếu với cha. Mà thực ra là ông đã tảo mộ mẹ lại tảo mộ cha, lại tế tảo những phần mộ tổ tiên ở Thạch Thiện Diệu nữa.Thứ tư, mỗi lần Tưởng Giới Thạch nhớ tới gia giáo và thân giáo của mình đều hết sức tôn sùng đối với mẹ mình. Trong Tiên từ Vương Thái phu nhân sự lược ông đã truy thuật lại rất nhiều sự việc ngày trước của mẹ, như cảnh nhà khó khăn, chịu khổ đau thương tiết hạnh, quanh năm vất vả, trù liệu lo toan, cùng việc gặp điều vui mừng không lộ ra sắc mặt sung sướng trong cuộc gió mây biến ảo trước va sau cách mạn Tân hợi, gặp loạn vẫn giữ lòng trong trắng... Dưới ngọn bút của Tưởng, người mẹ của ông qủa thực là vị thánh mẫu Maria, là con người hoàn mỹ đệ nhất từ trước tới nay. Điều này thực ra cũng không đáng trách lắm, chỉ có điều là Tưởng Giới Thạch rất ít khi đề cập tới cha mình, ngay cả đến chữ khắc trên bia mộ của cha ông cũng là do một người bạn viết thay. Điều này vốn là bởi vì cha ông mất sớm, chủ yếu ông được người mẹ nuôi dưỡng giáo dục thành người. Hai mẹ con cùng phải trải qua biết bao nhiêu biến cố và tai nạn khổ sở không phải là những đứa con hư hỏng có thể chịu đựng truy thuật lại với những hoạn nạn chất chống sau khi cha mất, có những cảm thụ sâu sắc ghi xương khắc cốt, còn đối với người cha mất sớm thì ấn tượng mờ nhạt. Thế nhưng người ngoài đâu có thể biết được nội tình cặn kẽ đã vội vã suy đoán bừa, tạo ra một sự trừu tượng, suy lí, cộng thêm vào đó là lập trường giai cấp cùng với Đường Thuyết, mà đâu có phải là lới nói của một nhà. Tức thì sự việc đã hoàn toàn biến hình đổi dạng.Vậy thì, tại sao lại lan truyền ầm ỹ các tin Tưởng Giới Thạch là con trai của Sư Chủ trì chùa Tuyết Đậu?Đây tuy là một tin đồn nhảm, thế nhưng sự việc cũng có nguyên nhân.Chùa Tuyết Đậu ở Khê Khẩu được gọi là ngôi chùa nổi tiếng nhất ở Triết Đông, ở đời Đường đây là một trong mười chùa nổi tiếng của Thiền Tông, có thuyết nói là Thiên tặng quá đường. Hàng trăm hàng ngàn năm nay, khói hương vẫn nghi ngút. Họ Tưởng ở Khê Khẩu với chùa miếu của Đạo Phật (bao gồm cả chùa Tuyết Đậu) đã có nguồn gốc lịch sử sâu xa. Về điểm này sẽ dành riêng một tiết trong chương này để giới thiệu tai đây, điểm cần nói là hòa thượng thì phải đi hóa duyên. Chùa miếu cần phải có thí chủ. Cha của Tưởng Giới Thạch kinh doanh hiệu bán muối, dần dân đã trở thành một trong mười hộ giầu có nhất ở Khê Khẩu, là dĩ nhiên cũng đã trở thành đối tượng khuyến giáo của chùa miếu. Do đó gia đình Tưởng Giới Thạch chẳng những đã sớm có sự qua lại với chùa Tuyết Đậu. Ngay cả Trung tháp viện, Chùa Pháp hoa cũng có liên hệ tương đối nhiều với nhà họ Tưởng. Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc mọt đời gian truân, hai lần guá bụa, hơn nữa lại còn rất trẻ. Đặc biệt là sau hai lần guá bụa, đứa con nhỏ mà bà yêu quý nhất là Tưởng Thụy Thanh đã chết yểu, làm cho bà đớn đau chẳng còn thiết sống nữa. Trong Ai Trạng Tưởng Giới Thạch nói: Từ khi em trai tôi chết yểu, gia đình tôi li tán rệu rã, buồn phiền đau đớn hơn mười năm trời. Còn tôi lại càng cô đơn đau khổ, thê lương hưu quạnh, vui cười gượng gạo, nặng trĩu u buồn cũng suốt hơn mười năm trời. Trong đoạn này Tưởng Giới Thạch cũng đã phản ánh cảnh ngộ lúc đó của mẹ nữa. Bà đã từng nói với Tưởng Giới Thạch, bà là một người vị vong, chẳng còn điều gì thiết sống, chỉ có điều là Tưởng Giới Thạch còn chưa trưởng thành, bà đành phải liều sống chờ đợi mà thôi. Với tâm trạng như thế này, bà chỉ có thể hoặc là ở nhà tụng niệm kinh phật, hoặc là đến chùa bái lạy Bồ Tát, đó cũng là lẽ thường tình của con người. Hòa thượng ở trong chùa cũng vui vẻ khi có người tới bố thí tiền tài. Còn việc nói bà có mang với sư chủ trì Chùa Tuyết Đậu, đại khái là xuất phát từ suy đoán bởi nguyên nhân Tưởng Giới Thạch có quan hệ mật thiết với hòa thượng Thái Hư táng thân ở chùa Tuyết Đậu. Thế nhưng mối quan hệ mật thiết giữa họ với nhau thì lại có một nguyên do khác, chẳng có quan hệ gì tới Tưởng mẫu.Căn cứ vào hồi ức của Mật Hy: Cuối năm 1927, do tranh chấp quyền lực địa vị trong nội bộ Quốc dân đảng, Tưởng bị bức phải bắt buộc từ chức, tháng 8 trở về Khê Khẩu. Lúc đó, giới Phật giáo Triết đông, có một vị hòa thượng rất có uy tín danh tiếng lẫy lừng tên gọi là pháp sư Thái Hư, ngài tới các nơi giảng kinh, mở rộng Phật pháp. Tưởng Giới Thạch mến phục đại danh của ngài đã đặc biệt mời hòa thương tới chùa Tuyết Đậu giảng kinh. Ngày hôm đó, Tưởng tới chùa Tuyết Đậu, pháp sư Thái Hư đích thân ra ngoài cửa núi nghênh đón. Ngoài việc giảng kinh, pháp sư còn đoán mệnh cho Tưởng Giới Thạch. Nói rằng lần bắt buộc phải từ chức này là rồng bay về vực thẳm, rắn cuộn trong tầm nhìn, nói rằng trước mắt Tưởng tuy phải buộc từ chức, thế nhưng đang hành vận, chỉ trong một hai năm nữa thì Đông Sơn lại đứng dậy, quyền lực địa vị càng cao hơn, quyết chẳng phải là lời nói đùa. Tưởng nghe xong vô cùng sung sướng. ở Khê Khẩu làng cũ của Tưởng Giới Thạch, có một nơi danh thắng tên gọi là Bính Đàm Quan Ngũ, văn nhân tao khách các triều đại đã đề thơ lưu lại rất nhiều, trong đó có câu thơ mà Tưởng yêu thích nhất là:
Mặt nước xanh gợn sóng
Đàn cá ngẩng nhìn trời
Rồng bay trên đầm rộng
Chỉ nhìn phía trước thôi!
Bấy giờ nghe hòa thượng nói Tưởng là một con rồng, tự nhiên Tưởng Giới Thạch rộn ràng vui sướng. Tưởng lập tức để cho người anh sai người đem hành lý, đồ nấu bếp quẩy tới, ở ngay trong nhà phương trượng mà hòa thượng dành cho, ban đêm nghe Thái Hư giảng tâm kinh. Tưởng còn đem một gói hồng mà người anh đem đến, tặng cho Thái Hư. Tưởng Giới Thạch ở liền trong chùa Tuyết Đậu suốt mười một ngày. Những lời chào đón của hòa thượng Thái Hư, sau này ngẫu nhiên hợp với sự phát đạt của Tưởng, đối với vị hòa thượng này Tưởng càng vô cùng kính trọng. Căn cứ vào Thái Hư tại Triết Giang Đại Bi nói, về sau Thái Hư muốn đi du lịch Âu Mỹ, Tưởng đã cử người đem biếu hòa thượng ba ngàn đồng bạc. Năm 1932, Tưởng Giới Thạch lại mời Thái Hư tới chủ trì ở chùa Tuyết Đậu. Về sau Thái Hư bị bệnh mất tại Thượng Hải, Tưởng còn cho đem tro xương của ngài rước về Tuyết Đậu, xây tháp làm mộ. Nói tóm lại, do vì mối quan hệ giữa Tưởng Giới Thạch với hòa thượng Thái Hư đã vượt quá xa với mối quan hệ giữa hương khách với chùa Phật nói chung, thì cũng đã khó trách khỏi dẫn đến sự đánh giá và suy đoán. Cho nên nói chung lại là: Tưởng Giới Thạch đã không phải là Trịnh Tam Phát Tử mà cũng chẳng phải là con của hòa thượng, Tưởng Giới Thạch vẫn cứ là Tưởng Giới Thạch.
-------------------------------
[1] Tưởng Trung Chính: Hành Trạng của cụ Tiên tổ Ngọc Biểu
Phần 1
Chương 3
Tại sao mẹ Tưởng không chôn cùng với cha Tưởng
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Rất nhiều tin đồn có liên quan tới thân thế Tưởng Giới Thạch chủ yếu là được triển khai xoay quanh bà mẹ Tưởng, trong đó điều được coi là luận cứ chủ yếu chính là sau khi Tưởng mẫu chết không chôn cùng Tưởng phụ, mà lại chôn ở một nơi khác Từ đây đã nảy sinh ra một số suy đoán, liên tưởng, rồi tiến triển diễn biến thành rất nhiều câu chuyện phức tạp.Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc bắt đầu mắc bệnh từ mùa xuân năm 1919, tuy có vợ của Tưởng Giới Thạch là Mao Phúc Mai hầu hạ ở bên cạnh, đêm ngày không sao nhãng, thế nhưng vẫn không có dấu hiệu chuyển biến tốt. Tháng 6 năm 1920, Tưởng mẫu sợ bệnh mà mình mắc phải là bệnh không thể chữa được: khăng khăng muốn lên núi Phổ Đà ở phía đông đến Hải Thiên Phật Quốc để tham bái Bồ Tát, Vợ chồng Tưởng Giới Thạch đã đưa mẹ già đi ở liền suốt năm ngày. Tháng 3 năm 1921, Vương Thái Ngọc vẫn còn ở trần thế. Có khả năng là bà cảm thấy sở dĩ bà có thể kéo dài mệnh sống là bởi vì liền trước bà đã tới Phổ Đà sơn. Do đó bà đã quyết ý lại một lần nữa tới Hải Thiên Phật quốc. Tức thì Tưởng Giới Thạch và Mao Phúc Hải lại một lần nữa đưa bà đi.Thế nhưng một lần đi một lần về, sau khi trở lại, bệnh tình của bà ngày càng nặng hơn, cuối cùng thì bà đã qua đời vào 7 giờ 49 phút sáng ngày 14 tháng 6 năm 1921, thọ 58 tuổi. Trong lúc bệnh nặng, Tưởng Giới Thạch từ Quảng Châu trở về. Sau khi qua đời, lẽ dĩ nhiên làm lễ chôn cất với nghi thức trọng thể nhất.Đám ma Tưởng mẫu có tiếng vang rầm rộ nhất. Lúc đó Tưởng Giới Thạch đã biểu lộ tài hoa đặc biệt trên diễn đàn chính trị của giới quân sự, do đó con vẻ vang thì mẹ được vinh hiển. Khi nhận được cáo phó Tưởng mẫu qua đời, các yếu nhân quan trọng của Trung ương Quốc dân đảng như Tôn Trung Sơn, Đàm Diện Khải, Lâm Sâm v.v.. đều gữi điện chia buồn. Các thủ lĩnh quân chính các tỉnh Phúc Kiến, Quảng Đông, Hồ Bắc, Hồ Nam và Thượng Hải đều tấp nập tới Phụng Hóa thăm viếng nhất thời tập trung tại Khê Khẩu. Tới lúc đưa Tưởng mẫu ra huyệt, Tôn Trung Sơn lại cử Trần Quả Phu thay mặt mình tới truy điệu, Các yếu nhân như Củ Chính, Đới Quý Đào v.v... cũng tới tham gia tang lễ. Văn tế của Tôn Trung Sơn tiên sinh đã khẳng định đầy đủ công lao dưỡng dục Tưởng Giới Thạch của Tưởng mẫu: Ân cần chịu khổ để nuôi dạy người con mồ côi cha, lớn lên thành người, Một người mẹ có tình thương yêu hiền từ phi thường, kiểm tra đôn đốc như một người thày nghiêm khắc. Tôn Trung Sơn còn đề viết trên bia mộ Tưởng mẫu: Năm dân quốc thứ 10 - Tưởng mẫu chi mộ - Tôn Văn đề Ngoài ra Hồ Hán Dân đã làm mộ chí cho Tưởng mẫu, Uông Tinh Vệ làm bia mộ, đều do nhà đại thư pháp Thẩm Doãn Mặc viết chữ: Về sau, Hồ Hán Dân lại tập trung toàn bộ bài thơ đề tự giữ mộ bia đời Hán viết lên:
Cúng dưỡng người đã khuất
Sầu buồn theo năm dài
Mây trắng che tầm mắt
Nhớ quê hương u hoài!
Đàn Diên Khải đề: Tưởng Thái phu nhân tượng tán, Lân Sâm viết lời truy điệu, còn có rất nhiều câu đối, trướng đề thơ của các yếu nhân trong chính phủ quân đội Quốc dân đảng như Trương Tĩnh Giang, Hứa Sùng Chí v.v.. Một người phụ nữ bình thường của Trung Quốc cũ, sau khi mất có được vinh dự đặc biệt này, tuy không phải độc nhất vô nhị, thế nhưng được khẳng định là tuyệt đối không nhiều.Sau khi Tưởng mẫu qua đời, Tưởng Giới Thạch đã mời thày địa lý nổi tiếng nhất ở Phụng Hóa tìm đất xây mộ ở khắp nơi, cuối cùng đã chọn được Bạch Nham Sơn cách phía bắc thị trấn Khê Khẩu khoảng một dặm Hoa. Sau khi định được đất, mỗi ngày Tưởng đều tới Bạch Nham Sơn kiểm tra thợ xây mộ cho mẹ còn mới những người trong dò họ Tưởng, giúp đỡ trừ liệu việc chôn cất cuối cùng đã hoàn tất việc an táng vào ngày 23 tháng 11.Người cha của Tưởng Giới Thạch là Tưởng Triệu Thông mất năm 1895, lúc đó người con cả là Tưởng Giới Khanh 22 tuổi, Tưởng Giới Thạch lên 9 tuổi, em nhỏ của Tưởng là Thụy Thanh chỉ có 2 tuổi, trong đó còn có hai người em gái của Tưởng Giới Thạch nữa. Tưởng mẫu lại bất hòa với đưa con vợ trước của chồng là Tưởng Giới Khanh, gia cảnh gian nan, Vương Thái Ngọc cũng chưa làm lễ mai táng cho người chồng đã mất. Đến năm 1913, Tưởng Giới Thạch lớn lên thành người mới cùng người anh táng người cha đã mất ở Giải Cam bên phải Đào Khanh Sơn cách phía bắc thị trấn Khê Khẩu một kilômét.Cha và mẹ của Tưởng Giới Thạch tuy đều chôn ở phía bắc thị trấn Khê Khẩu, cự ly cách nhau cũng không xa lắm, thế nhưng do vì không ở cùng một quả núi, đương nhiên cũng không thể nói là cùng chôn hợp huyệt được.Vợ chồng sống chung chăn chết cùng huyệt, đó là truyền thống cổ xưa của Trung Quốc, cũng là một phần văn hóa của dân tộc. Tưởng Giới Thạch tự xưng mình là người phục hưng nền văn hóa Trung Hoa, thế mà lại để cha mẹ chôn ở hai nơi, nguyên do ở chỗ nào ?Tháng 10 năm 1922, trong Từ Am ký Tưởng Giới Thạch viết:Vào năm Qúy sửu, anh trai tôi là Tích Hầu với Trung Chính đã an táng tiên khảo là cụ Túc Am ở Đào Khanh phía bắc huyện. Khi đó tiên từ Vương Thái phu nhân còn đang sống mạnh khỏe, người tha thiết căn dặn anh tôi và Trung Chính rằng: Sau khi mẹ trăm tuổi, bất tất phải bắt chước tục lã đồng huyệt, để cho việc xây mộ mẹ làm kinh động vong linh của ông ấy, hòng để cho mẹ biệt lập ở chỗ khác. Mỗi khi Trung Chính về tỉnh không bao giờ không vì thế mà như thấy trách nhiệm, vì vậy đã tự đặt bia mộ đẻ tỏ ra sự kiên quyết của ý chí. Khi thay giường chiếu lại coi đó là di chúc với cả hai anh em. Do vậy vào năm Tân dậu đã chọn nơi đất lành Trung Lũng Ngư Lân Diêu làm mộ huyệt an giấc của tiên từ.Theo cách nói của Tưởng Giới Thạch, ông đã chia ra an táng cha mẹ như vậy, là tuân theo lệnh mẹ mà làm, Tưởng mẫu quyết định như vậy là không muốn làm kinh động vong linh của Tưởng phụ. Kỳ thực suy nghĩ kỹ lại, hai vấn đề này đều có chút miễn cưỡng. Một là việc chôn riêng cha mẹ tuy là tuân theo lệnh mẹ, nhưng đã chống lại lệnh cha, bởi vì lúc cha còn sống khi tuyển chọn xây dựng mộ ở Đào Khanh, chẳng những đã chôn cất, hai phu nhân. Từ và Tôn, hơn thế cũng đã xây dựng xong cả mộ huyệt cho mình và Tưởng mẫu. Tuy lúc đó Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc mới chỉ 32 tuổi. Điều đó đủ để chứng tỏ rằng Tưởng phụ mong muốn rằng người vợ trẻ này của mình tương lai sẽ chôn nằm ở bên cạnh mình. Thế mà nay Tưởng Giới Thạch tuân theo lệnh mẹ đem bà chôn ra ở chỗ khác, hiển nhiên là không để ý gì đến khi còn sống cha mình đã nghĩ như thế nào, tính như thế nào, sắp xếp như thế nào ? Hai là, Tưởng mẫu không chôn ở bên cạnh Tưởng phụ, tuy để tránh việc làm kinh động tới vong linh của Tưởng phụ, nhưng đã làm mất đi hẳn tình bạn ngàn đời. Hàng ngàn năm nay, vợ chồng chỉ trừ phi là cùng gặp nạn còn thì rất hiếm cảnh đồng thời cùng qua đời, do vậy người chết sau làm kinh động vong linh của người chết trước cũng như hằng hà sa số các ngôi sao tinh tú ở trên trời xanh. Mặc dù có một lần kinh động này, nhưng cuối cùng vẫn có thể đạt được tình bạn vạn năm, cũng là hại có một mà được lợi cả trăm, hoặc nói là có trăm điều lợi mà chỉ có thể biến hại thành lợi. Cho nên vợ chồng đồng huyệt sau khi chết là nội dung quan trọng của tục lệ chôn cất Trung Quốc.Vậy thì, tại sao bà mẹ của Tưởng Giới Thạch không muốn để chôn cùng với cha của Tưởng ?Nguyên nhân chân thực là, ở trong nhà Triệu Thông cha của Tưởng, thì Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc là người vợ thứ ba. Khi Tưởng phụ chọn đất xây mộ lúc còn sống, hai vị phu nhân trước của Tưởng Triệu Thông đã được phân phối ở bên trái bên phải Triệu Thông rồi. Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc cho dù có chôn ở trên núi Đào Khanh, vô luận là ở bên trái hay bên phải, đều không thể được ở bên cạnh Tưởng phụ. Tưởng mẫu tuy là quả phụ tái giá, thế nhưng cũng là có mối manh cưới xin chính thức, dùng kiệu hoa khiêng tới Khê Khẩu. Lúc sống đã có biết bao nhiêu gian nan khổ sở, bà không muốn sau khi chết phải khuất vào hàng thứ ba. Do vậy, khi nghe nói huyệt chữ giáp là đất mộ tốt nhất sạch sẽ nhất, thú dữ qủy rồng không thể xâm nhập vào được, mà người thân lại có thể tự do qua lại, bà liền căn dặn kỹ càng Tưởng Giới Thạch phải tìm cho được huyệt chữ giáp và phải chôn bà ở một chỗ khác.Đối với điều tính toán nhỏ ở trong lòng mẹ, Tưởng Giới Thạch đã nhìn thấy rất rõ. Ông không muốn để cho mẹ mình phải ở khuất sau Từ, Tôn phu nhân, lại chẳng muốn đề cho mẹ chôn ở chỗ lẻ loi một mình. Do đó khi mẹ đề xuất chọn đất mộ khác, Tưởng Giới Thạch đã từng kiến nghị với mẹ, đem phần mộ của cha ở Đào Khanh Sơn di về chôn cùng để cha và mẹ hợp huyệt không phải ở đơn độc. Thế nhưng Tưởng mẫu không muốn vì việc này mà để cho người ta dị nghị dèm pha, với thái độ kiên quyết, bà nói.- Thụy Nguyên nè, con tuyệt đối phải ghi nhớ: sau này mẹ sẽ không chôn cùng với cha con đâu! Vì vậy Tưởng mẫu nói mình phải tránh làm kinh động vong linh của chồng bà, là nói không thật lòng, Tưởng Giới Thạch dựa theo làm như vậy là càng muốn che giấu càng lộ nguyên hình, muốn cho trời qua biển ở trước mắt mọi người. Vậy mà Tưởng Giới Thạch và Tưởng màu đều chưa thể nghĩ tới, chính vì việc chôn riêng ra hoặc chôn ở chỗ khác mà đã đem lại cho họ Tưởng vô vàn phiền phức.Vậy thì, chỉ vì việc cha mẹ Tưởng Giới Thạch chưa được hợp táng mà đã truyền đi câu chuyện Tưởng Giới Thạch chỉ biết có mẹ không biết đến cha hay sao ? Trong đó còn có một số nguyên nhân khác nữa.Trước tiên là mộ của Tưởng mẫu và mộ của Tưởng phụ có sự khác biệt rất xa về mặt quy mô và thể thức.Nghĩa trang Tưởng mẫu ở Bạch Nham Sơn đại thể chia làm ba phần:Thứ nhất là mộ khâu, nó thể hiện ra như chiếc màn thầu hinh tròn, tấm bia nằm ngang ở giữa chính mộ để khắc bốn chữ lớn của Tôn Trung Sơn Tưởng mẫu chi mộ; hình quạt ở bên trên bia ngang ứng trong lan can có khắc bốn chữ Hồ Phạm Túc Thức nghe nói là do Tôn Trung Sơn tiên sinh đề có ý nghĩa là Tưởng mẫu là bậc mô phạm trong giới nữ đủ làm tấm gương mẫu mực cho mọi người noi theo. ở hai bên tấm bia ngang khắc đôi câu đối tự soạn của Tưởng Giới Thạch :
Họa cập hiền từ đương nhật ngoan cảnh hối dĩ vãn,
Quý vi nghịch tử chung thân trầm thông hận vo nhai
ở trước mộ Tưởng mẫu trồng hai cây thạch nam, các nơi xung quanh đều trồng rộng rãi các loại tùng bách, hình thành một biển rừng xanh thẫm. Nấm mộ màn thầu hình tròn của Tưởng mẫu, xung quanh dùng đá núi xây lên, trên đỉnh là cỏ xanh non thưa thớt. Kiểu xây dựng này có một cách nói: Căn cứ vào thày địa lý chọn mảnh đất này năm ấy, nơi đây là long mạch tốt nhất, địa hình xunh quanh giống như Phất Di Lặc. Phần mộ của Tưởng mẫu đặt ở trên rốn của Phật Di Lặc đề phòng trừ đè hỏng long mạch. Đá ở trước mộ không được quá nặng, đỉnh mộ không được dùng phiến đá hoặc xi măng phủ kín. Lẽ dĩ nhiên Tưởng Giới Thạch nhất nhất làm theo, dần dần trở thành cảnh quan chủ thể của phần mộ Tưởng mẫu.Phần thứ hai của nghĩa trang Tưởng mẫu là đường mộ Tưởng mẫu Con đường bắt đầu từ chân núi Bạch Nham tới phần mộ Tưởng mẫu dài 668 mét. ở chỗ bắt đầu con đường mộ của Tưởng mẫu một hàng lầu bia đá cao 6,5 mét, rộng 7,9 mét, có 3 cửa cửa giữa rộng 3,7mét, cửa hai bên mỗi chiếc rộng 2,1 mét. Bên trên cửa giữa khắc bốn chữ lớn Tương mẫu mộ đạo hai bên trang điểm các loại hoa cỏ. Từ đây hướng vào nhà mộ là một con đường nhỏ rải đá cuội, hai bên đường có những chiếc ghế đá dài kẹp vào trong rừng tùng. Đường mộ Tương mẫu về sau được tu sửa lại vào mùa hạ năm 1930.Phần thứ ba của nghĩa trang Tưởng mẫu là là nghĩa trang tương đối lớn, nằm giữa ngôi lầu bia đá và ngôi mộ Tưởng mẫu. Đi theo lầu bia đá khoảng hai trăm mét, bên đường có một ngôi đình, xung quanh đình cả bốn phía là cửa sổ pha lê dài, trong đình có thể chứa đựoc hai chục người. Công dụng chủ yếu nó là một ngôi đình để canh gác mỗi năm khi Tưởng Giới Thạch nghỉ lại ở nghĩa trang. Từ đình vọng gác này đi tiếp khoảng hai trăm mét nữa là một cái sân, trên cửa ngoài đề hai chữ Mộ lư, trong sân có 12 gian nhà bằng, bên trong các căn phòng ở chính giữa dựng rất nhiều bia đá treo tường, hai bên là phòng khách và phòng ăn, ngoài ra còn có nơi ở của các vệ binh và nhà bếp v.v... Tại một nơi cách mộ lư không xa là một quần thể kiến trúc Từ am. Đây là nơi đặt bia vị thờ phụng các thần chủ ở dưới tằng tổ Tưởng Giới Thạch, lại là nơi thường trú của Tưởng Giới Thạch khi trở về quê sau này. Tại đây vào tháng 5 năm 1923 đã xây dựng ba gian nhà Tây, mùa xuân ba năm 1930 lúc tu sửa nghĩa trang và mộ đạo đã phá đi xây lại.Nghĩa trang của Tưởng mẫu lúc đầu cũng tương đối giản đơn chất phác, thế nhưng về sau trải qua nhiều lần mở rộng, xây dựng thêm xây dựng lại, nó chẳng những đã thêm xa hoa, mà còn tương đối quy mô, thế nhưng nghĩa trang của Tưởng phụ thì không như vậy. Nấm mộ của Tưởng phụ ở trên Đào Khanh Sơn cũng thể hiện hình chiếc bánh màn thầu, tuy cũng tương tự như mộ của Tưởng mẫu, thế nhưng lại không có nghĩa trang, mộ đạo, càng không nhìn thấy những đề khắc của danh nhân, kiến trúc của phần mộ cũng đơn giản xấu xí hơn nhiều so với phần mộ của Tưởng mẫu. Cây cối ở bốn phía xung quanh cũng tương đối lơ thơ, chỉ có tấm bia ngang ở trước chính mộ là có khắc chữ giống nhau như mộ Tưởng mẫu, đó là dòng chữ Túc Am Tưởng công chi mộ. Sau khi Tưởng Giới Thạch phất lên, cũng chưa thấy ông cho tu bổ sửa sang lại mộ cha bao giờ. Mặc dù mỗi tết thanh minh ông về quê, ông đều tới tảo mộ cha mẹ, thế những cùng là cho mẹ sinh ra, xây dựng nghĩa trang khác xa nhau như vây, khó làm cho mọi người không tránh khỏi hoài nghi.Thứ nữa là, sau khi Tưởng mẫu qua đời, khi Tưởng Giới Thạch trở về Khê Khẩu, phần lớn đều trú ở Từ Am nghĩa trang của Tưởng mẫu, giới báo chí thường có bài đưa tin Tưởng đã chiêu đãi các yếu nhân quân chính Quốc dân đảng ở nghĩa trang. Đây là một nhân tố khách quan khác khiến cho ngoại giới sinh ra nghi ngờ. ở Khê Khẩu Tưởng Giới Thạch có rất nhiều chỗ ở, tại sau lại cứ phải thường trú ở Từ Am ?Sau ngày 23 tháng 11 năm 1921, Tưởng mẫu được an táng xuống đất ngày 28 tháng 11. Tưởng Giới Thạch đã viết một tờ văn thư, tuyên bố thoát ly quan hệ gia đình với bà vợ thứ nhất là Mao Phúc Mai và Diêu Dã Thành. Sau đó ông lại trở về Khê Khẩu thì trú ở Văn Xương Các, nghĩa trang hoặc biệt thự Diệu Cao Đài. Ngay 12 tháng 12 năm 1930, máy bay giặc Nhật đánh phá Khê Khẩu. Những gian nhà mái bằng ở sân sau nhà Tưởng bị đổ sập, Mao Phúc Mai đã bị tử nạn. Đồng thời Văn Xương Các cùng bị san bằng. Sau đó khi Tưởng Giới Thạch về quê hương thì phần lớn chỉ trú ở nghĩa trang Tưởng mẫu.Nói tóm lại là: Tưởng mẫu không chôn cùng với Tưởng phụ, chỉ là vì Tưởng mẫu có một chút ý ẩn khó nói ra lời. Tưởng Giới Thạch hiểu rõ ý của mẹ, đã tuân theo mệnh mẹ mà làm thực ra trong đó cũng chẳng có nhiều điều đáng ngờ vực, mặc dù từ đó đã nảy sinh ra rất nhiều điều đáng ngờ và những tin đồn bậy bạ.
Phần 1
Chương 4
Những chuyện phiếm về tên và tự của Tưởng Giới Thạch
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Trong rất nhiều tin đồn hỏi vặn có liên quan tới thân thế Tưởng Giới Thach, thì tên và tự của Tưởng Giới Thạch cũng có rất nhiều điều nghị luận, do đó đã làm cho thân thế của ông Tưởng biến thành vàng thau lẫn lộn, làm cho người ta khó có thể hiểu biết được tường tận.Tưởng Giới Thạch có rất nhiều tên. Lúc đầu tên là Thụy Nguyên, lại tên là Chu Thái, sau đổi là Chí Thanh, cuối cùng lại đổi tên là Trung Chính, tự là Giới Thạch. Ông đổi tên mình như vậy chẳng khác gì chiếc đèn cù, ít nhiều cũng đã khiến cho mọi người không còn hiểu ra làm sao nữa. Tức thì có người nói, ông gọi là Chu Thái ư ? thì ra Tưởng Giới Thạch không phải là họ Tưởng mà là họ Chu đó ! Lại có người khảo cứu tên của Tưởng Trung Chính là có ngụ ý Tưởng Tông Trịnh, Tưởng Giới Thạch vốn chính là Trịnh Tam Phát Tử.Trong tập 4O Văn sử tự liệu tuyển tập của hội nghị chính trị hiệp thương toàn quốc, có bài Trong bức màn ở ba trại tập trung của đặc vụ Tưởng Giới Thạch mà tôi từng trải qua do Hoàng Đồng tiên sinh viết đã bàn tới cách nói sau. Hoàng tiên sinh nói ông đã được gặp ông già Trịnh Phát trong Đường Thuyết ở trong trại tập trung. ông viết rằng: Trịnh Phát là người anh ruột của Tưởng Giới Thạch năm 1949 Trịnh Phát được đưa tới trại tập trung ở Qúy Châu... ông già này là anh cả, Tưởng Giới Thạch là thứ ba... về sau người em thứ ba này đổi tên là Trưởng Trung Chính tức là ngụ ý Tưởng Tông Trịnh...Còn có một vị tiên sinh nữa tên là Lý Tịnh Chi cho rằng từ trên những tên của Tưởng Giới Thạch có thể chứng minh được Tưởng Giới Thạch chính là Trịnh Tam Phát Tử ở Hứa Xương Hà Nam. ông phân tích nói rằng, Trung Chính có ý nghĩa là họ Trịnh ở Trung Châu, còn Giới Thạch chính là nói Tưởng đối với tảng đá lớn ở trước cửa nhà mình luôn có ý để bụng không quên.Từ trong những luận thuật cầu để chứng minh ở mấy tiết trước chương này, độc giả đã hiều rõ Tưởng Giới Thạch không pải là Trịnh Tam Phát Tử ở Hà Nam, trong tiết này lại nêu ra các ví dụ hoặc là tin đồn phong phanh, hoặc là tự mình suy đoán, chẳng có sự thực nào căn cứ. Vậy thì tại sao Tưởng Giới Thạch lại có nhiều tên như vậy? Mỗi tên đó có lại lịch và ngụ ý gì?Trước hết nói về Thụy Nguyên. Thụy Nguyên là tên tục của Tưởng Giới Thạch. Hai em gái và một em trai sau đó lần lượt có tên là Thụy Liên, Thụy Cúc, Thụy Thanh, tức là bốn anh em chị em cùng cha cùng mẹ với Tưởng Giới Thạch đều lấy chữ Thụy đứng ở đầu tên, ngay cả đến người chị cùng cha khác mẹ với Tưởng Giới Thạch cùng đặt tên có chữ Thụy ở đầu, gọi là Thụy Xuân. Tên tục Tưởng Thụy Nguyên này là do ông nội Tưởng Ngọc Biểu của Tưởng Giới Thạch đặt cho. Lúc nhỏ Tưởng ngang bướng, bị người vùng Khê Khẩu gọi là Thằng Thụy Nguyên vô lại.Lại nói tới Chu Thái. Chu Thái là tên trong gia phả. Tức là dựa theo sự sắp xếp trong dòng tộc họ Tưởng, tới đời anh em Tưởng Giới Thạch thì thuộc về bậc chữ Chu. Tên của các anh em trong họ đều đặt chữ Chu ở đầu. Điều này không có liên quan gì tới Họ Chu cả. Dựa theo quy củ sắp xếp thứ tự thế hệ của họ Tưởng ở Khê Khẩu thì từ đời thứ 25 trở đi đã trở thành bốn câu ngụ ngôn: Hề Tư Triệu Chu Quốc, Hiếu Hữu Đắc Thành Chương, Tú Minh Khải Hiền Đạt, Dịch Thế Khánh Cát Xương. Sự sắp xếp thứ tự tên đuổi trong gia phả này trong đời tổ tiên và đời sau này của Tưởng Giới Thạch đều có thể tìm được dẫn chứng. Cụ tổ của Tưởng Giới Thạch tên là Hề Tăng, tự là Hoài Thịnh. Ông nội tên là Tư Cán, tự là Ngọc Biểu, cha tên là Triệu Thông, tự là Túc Am, lần lượt ứng với thứ tự sắp xếp tên trong gia phả từ đời thứ 25 đến đời thứ 27. Tưởng Giới Thạch tự tên là Chu Thái, người anh cùng cha khác mẹ với Tưởng là Chu Khang, là ứng với thứ tự sắp xếp tên trong gia phả ở đời thứ 28. Con của Tưởng Giới Thạch là Kinh Quốc, Vĩ Quốc lại ứng với đời mang chữ quốc là đời thứ 29. Chỉ có điều là Chữ Quốc không đạt ở đầu, mà lại đẻ ở cuối. Đời cháu của Tưởng tổng cộng có năm người tức là Tưởng Hiếu Văn, Tưởng Hiếu Vũ, Tưởng Hiếu Dũng, Tưởng Hiếu Cương, Tưởng Hiếu Chương (nữ) đều mang chữ Hiếu ở đầu thuộc đời thứ 30.Tên thứ ba là Chí Thanh. Chí Thanh là tên gọi ở nhà trường. Đối với việc khi nào Tưởng đổi tên là Chí Thanh, hiện tại còn giữ hai cách nói. Một thuyết là lúc lên 6 tuổi khi đi học do cha mẹ đặt cho. Một thuyết là khi Tưởng tới dự thi ở Ninh Ba lúc 16 tuổi, tự mình đổi tên là Tưởng Chí Thanh. Chẳng kể là đổi tên vào lúc nào, Tưởng Chí Thanh là tên gọi ở nhà trường của Tưởng, từ trước không có điều gì tranh luận. Chỉ có điều là sau khi Tưởng đổi tên là Chí Thanh, mẹ và người làng của Tưởng vẫn cứ gọi Tưởng là A Nguyên hoặc Thụy Nguyên.Thứ tư chính là Trung Chính và Giới Thạch được tranh luận nhiều nhất. Đối với cái tên Trung Chính này cũng có hai cách nói. Một là cách nói của Hà Quốc Đào trong bài Giải câu đố về thân thé Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc, Hà nói rằng sau khi Tưởng Giới Thạch qua Nhật Bản thấy Tôn Văn đổi tên là Tôn Trung Sơn, từ đó liền bắt chước đổi tên thành Tưởng Trung Chính. Hai là cách nói của Vương Phủ Dân trong Tưởng Giới Thạch truyện, Vương nói lúc 14 tuổi Tưởng Giới Thạch đã đổi thành tên ấy. Vương Phủ Dân tiên sinh viết:Năm đó Tưởng 14 tuổi do Mao hoặc Tưởng đã tự căn cứ vào hào từ quái từ của Kinh Dịch, đổi tên thành Trung Chính, tự là Giới Thạch. Lục nhị hào từ Dự Phong của Kinh Dịch cho rằng Giới ư thạch, bất chung nhật, trinh cát. Quái từ nói: Bất chung nhật, trinh cát, dĩ trung chính dã. Quái từ của quẻ Hậu nói: Cương ngộ trung chính thiên hạ đại hành dã. Quái từ của quẻ Phong nói: Cương tốn hồ trung chính nhi chí hành ý tứ này là cương cường tới độ vừa phải, tức là nói tới Trung Chính. Cho nên dùng Giới Thạch làm tự, lấy Trung Chính làm tên.Tổng hợp hai cách nói này tựa hồ như đều có lý. Từ cách nói của Vương Phủ Dân mà xét, Trung Chính Giới Thạch tên và tự này có chút thuyết đạo, liện hệ chặt chẽ, không giống như sự đổi tên của Tôn Văn tiên sinh. Tưởng Chí Thanh cũng đã đi theo vào việc ứng phó đổi tên ấy, Tưởng Chí Thanh đổi tên, tự là Trung Chính và Giới Thạch, là đã trải qua một sự nghiên cứu. Thế nhưng lý luận giữa Trung Chính và Giới Thạch thâm ảo như vậy, Tưởng Chí Thanh lúc ấy mới 14 tuổi chưa hẳn đã hiểu được rõ ràng ý sâu của đạo lý, mà quyết ý đổi tên. Do đó Vương Phủ Dân tiên sinh nói cũng có khả năng là do Mao Phượng Mỹ thày giáo của Tưởng Giới Thạch lúc đó đổi tên cho. Bất kể như thế nào, tên và tự Tưởng Giới Thạch, Tưởng Trung Chính này chẳng hề có quan hệ gì với Tông Trịnh Giới ý khó quên cả. Tưởng Giới Thạch chính là Tưởng Giới Thạch, là Tưởng Phụng Hóa.Thế nhưng việc Tưởng Chí Thanh đổi tên thành Tưởng Giới Thạch, Tưởng Trung Chính, cũng đã phản ánh tư tưởng nho gia ở trong đầu óc ông rất sâu sắc.Trong Kinh Dịch, đại ý đối với Giới ư Thạch, bất chung nhật, trinh cát là: Kiên cường cứng rắn như đá, thế nhưng loại cứng rắn này cần phải có độ, nếu không thì không thể kiên trì tiếp tục được một ngày (ngụ ý thời gian phải ngắn không thể dài được). Lão tử đã từng nói, binh qúa mạnh thì dễ bị diệt vong, mộc quá cứng thì dễ bị đứt gẫy. Về sau các tín đồ nho gia bình về quẻ Tượng Chu Dịch nói: Bất chung nhật, trinh cát, dĩ trung chính dã , ý nghĩa là loại cứng rắn này không vượt quá một ngày là tốt lành, bởi vì tư tưởng này phù hợp với cương chuyển hóa thành nhu, nhu chuyển hóa thành cương, nhu bên ngoài không giữ được nhu, cương bên ngoài không giữ được cương, đạo trung chính an toàn nhất trong việc cần hai đầu để giữ của nhà nho. Đầu năm 1923, khi Tưởng Giới Thạch nhàn cư ở Đảo Cổ láng từng cầm bút viết bốn chữ đại tự Kỳ giới như Thạch để cho người khắc trên đá núi ở miền tây Cánh Y Đình.Chẳng những tên và tự của Tưởng Giới Thạch đã thể hiện ảnh hưởng của tư tưởng nho gia đối với Tưởng, mà trong hành động của Tưởng cũng có nhiều thể hiện. Từ lần từ chức thứ nhất trong quân viện Mân Việt năm 1918 tới khi chính thức nhận chức hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố tháng 4 năm 1924, suốt 6 năm trời, trong quân đội, Tưởng đã dùng các loại luận điệu từ chức để rồi lại phục chức, qua qua lại lại tới 13 lần, hầu như đã trở thành nhân vật từ chức chuyên nghiệp. Thế nhưng mỗi lần đều đã nâng cao được địa vị của Tưởng ở trong quân đội, đã tăng thêm được sự tín nhiệm và trọng dụng của Tôn Trung Sơn đối với Tưởng, ông ta quen dùng thủ pháp lấy thoái để tiến, gặp thời cơ là hành động ngay. Đó chính là biểu hiện tinh túy dương chuyển âm, cương chuyển nhu của nhà nho rất sâu sắc. Có điều lời này có chút nói đã đi quá xa !
Phần 1
Chương 5
Tưởng Giới Thạch đã biên soạn Tông phổ họ Tưởng như thế nào ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Tuy về sau này Tưởng Giới Thạch đã quy thuộc vào đạo cơ đốc, trở thành tín đồ tây, tựa hồ như chỉ tin vào Ki Tô. Kỳ thực trong nơi sâu thẳm linh hồn của Tưởng vẫn tồn giữ rất nhiều tư tưởng phong kiến. Bên trên từng nói, sau khi bắt buộc phải từ chức lần thứ nhất, Tưởng đã nhờ Hòa thượng chùa Tuyết Đậu bói mệnh cho, trong đoạn ghi hồi ký của Mật Hy còn ghi chép một sự việc xin quẻ trong một ngội miếu nhỏ. Tháng 11 năm 1926, quân bắc phạt đã bao vây Nam Xương, bộ tổng tư lệnh của Tưởng Giới Thạch đóng ở bến xe Ngưu Hành cách Nam Xương hơn ba chục cây số, gần một ngôi miếu nhỏ. Vào một buổi chiều, Tưởng Giới Thạch và Bạch Sùng Hi đi ra ngoài dạo chơi, rồi bước vào ngôi miếu nhỏ, rút quẻ rồi nhờ hỏi vị sư gia chỉ rõ cho biết tiền trình chiến sự, rồi sau đó đưa đến biếu nhà sư một khoản tiền để tu chỉnh miếu vũ. Nếu nói hai sự việc kể trên đều là sự việc trước khi Tưởng quy y đạo KiTô (Tưởng Giới Thạch chịu lễ rửa tội đạo KiTô năm 1930), thế thì việc Tưởng biên soạn Tông Phổ họ Tưởng chính là sau khi ông trở thành tín đồ của đạo KiTô, trong đó có rất nhiều sự việc không được ghi trong chính sử lí đáng để cho người ta suy ngẫm.Thời Trung Quốc xa xưa người ta coi trọng tông phổ. Nói chung lại thì, các tộc các họ cứ cách ba mươi năm lại được biên soạn một lần. Họ Tưởng là một họ lớn ở Khê Khẩu, trong ba bốn mươi đời, số người của hơn 900 hộ ở Khê Khẩu đã có tới 500 hộ họ Tưởng, một tộc to họ lớn như vậy đặc biệt rất coi trọng việc biên soạn tông phố. Cho nên trong thời kỳ chiến tranh, những người trong dòng họ Tưởng ở Khê Khẩu đã ấp ủ công việc biên soạn này. Bởi vì Tông phổ họ Tưởng đã từng được biên soạn một lần vào năm 1918. Thời gian đã trôi qua gần ba mươi năm, huống hồ lúc này họ Tưởng đã xuất hiện một nhân vật làm rạng rỡ tổ tông. Tưởng Giới Thạch nghe tin rất tán thưởng, liền cử người bí mật trở về Phụng Hóa lúc này đã bị quân Nhất chiếm đóng, kín đáo đưa tộc phổ cũ về Trùng Khánh. Sau khi được tộc phổ cũ này rồi, Tưởng đã nhiều lần tụng đọc theo, hầu như quên ăn quên ngủ. Sau đó ông đích thân tuyển chọn nhân viên biên soạn, mời Ngô Trí Huy làm thủ lĩnh, Trần Bố Lôi làm tổng biên soạn, Sa Mạnh Hải v.v... tất cả tám người biên soạn cụ thể. Trần Bố Lôi là Cách mạng Văn đảng của Tưởng Giới Thạch, thiên hạ đều biết. Ngô Trĩ Huy là nguyên lão Quốc dân đảng, bút pháp cổ văn tạo ý rất sâu rất được Tưởng Giới Thạch tôn sùng. Sở dĩ Tưởng Giới Thạch phải tổ chức một ban bệ đồ sộ như thế này để biên soạn gia phổ. Mục đích có hai: Một là làm sáng rõ lai lịch của mình. Điều này thực ra không phải là nói ông cũng hoài nghi chính mình có phải là Trịnh Tam Phát Tử hay không, mà là ông muốn làm sáng rõ họ Tưởng ở Khê Khẩu từ đâu tới. Hai là, khi Tưởng Giới Thạch bắt đầu biên soạn gia phổ, thì cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai đã sắp kết thúc, cuộc kháng chiến chống Nhất đã sắp sửa thắng lợi. Uy tín của Tưởng Giới Thạch ở trong nước và quốc tế đều đã đát tới đỉnh cao. Biên soạn tộc phổ chính là một cơ hội tốt để ông dựng bia lập truyện về gia tộc và bản thân mình.Ban biên soạn đã trải qua một loạt kiểm tra đốc chứng khua chuông gióng trống, trước tiên đã làm ra một Hệ thống tiên tổ đã khuất. Nói rằng Tưởng Giới Thạch là con cháu của Chu Công đời Chu, lí do là trên Tả truyện nói: Phàm Tưởng, Hình, Mao, Tác, Tề đều là hậu tự của Chu Công cả. Tưởng lẽ dĩ nhiên là vô cùng sung sướng, bởi vì bản thân mình đã sinh ra tự nơi danh môn. Điều đó càng không thể nói đây là một loại nói năng xằng bậy được, cũng là một loại tra cứu. Bởi vì cho rằng sự ghi chép của Tả Truyện không sai, trong lịch sử hơn hai ngàn năm, sở dĩ đất nước đáng yêu của chúng ta liên tục xuất hiện những người anh hùng, là bởi vì tai họa chiến tranh dồn dập, hoạn nạn không ngừng, nó đã khiến cho Cộng đồng, gia tộc phát sinh ra những biến hóa khó có thể kể hết được. Đối với lai lịch của họ Tưởng ở Khê Khẩu mà Tưởng Giới Thạch quan tâm, cuối cùng cũng đã được điều tra rõ rệt, nó đã chứng minh được trong rất nhiều cách nói họ Tưởng ở Khê Khẩu là dòng họ di từ Ninh Ba tới là điều rất đáng tin. Tưởng Giới Thạch cũng rất coi trọng chứng cứ đã điều tra được này. Tức thì ngày mồng một tháng giêng nông lịch của năm 1949, Tưởng đã đích thân cử Tưởng Kinh Quốc tới cúng bái tế lễ ở đền thờ họ Tưởng Ninh Ba. Trung tuần tháng tư cùng năm, trước khi Tưởng Giới Thạch chạy trốn đi Đài Loan đã tới ly biệt Khê Khẩu, từng đích thân dẫn Trương Quần, Du Tế Thời, Tưởng Kinh Quốc v.v...tới Ninh Ba thăm viếng bái yết tông miếu, còn tới Liễu Đình am và Thiên Đồng Tiểu Bàn Sơn ở Ninh Ba tảo phần mộ Tưởng Ma Kha là tổ tông đầu tiên của họ Tưởng. Tưởng Giới Thạch cũng rất quan tâm tới những người gốc rễ họ Tưởng ở ngoài đất Phụng Hóa. Theo báo chí đăng tải, ngày 16 tháng 5 năm 1948, ngôi đền thờ của họ Tưởng ở Đô Sơn Hàn Dinh về phía tây bắc cách thị trấn Từ Xá huyện Nghi Hưng mười cây số được khánh thành, Tưởng đã đặc biệt ngồi xe từ Nam Kinh tới Từ Xá, rồi lại ngồi thuyền tới Hàm Đình chủ trì buổi lễ. Trong truyền thuyết nói họ Tưởng ở Nghi Sơn là nguồn gốc họ Tưởng ở Khê Khẩu, thế nhưng tới năm 1948 lúc này Tưởng Giới Thạch thông qua tộc phổ đã trùng tu đã biết rõ bản thân mình không thuộc về chi tộc họ Tưởng ở Nghi Sơn.Việc biên soạn tộc phổ họ Tưởng không phải là không có khó khăn. Một trong những khó khăn ở trong đó chính là phải viết như thế nào về Tưởng Giới Thạch, đặc biệt là nên thuật kể như thế nào ở trong tông phổ về người vợ đầu tiên của Tưởng Giới Thạch là Mao thị với bà Tống Mỹ Linh v.v...Về điểm này Tưởng Giới Thạch đã sớm nghĩ chu đáo từ lâu, ông đã viết vào một tờ giấy giao cho Sa Mạnh Hải để không khiến cho ho có nhiều vướng mắc. Chúng ta hãy cùng xem thử trong đoạn tự truyện này, Tưởng Giới Thạch đã xử lý mối quan hệ và địa vị giữa vợ cả, vợ lẽ, con trai, con gái như thế nào :
Chu Thái, vốn tên là Thụy Nguyên, còn có tên là Trung Chính, tự là Giới Thạch, là con thứ của cụ Triệu Thông. Học khóa đầu ở trường lục quân tốc hành toàn quốc, thi đỗ và tốt nghiệp trường Trấn Vũ (Nhật Bản), sĩ quan dự bị trung đoàn pháo binh dã chiến Cao Điền số 13. Tham mưu trưởng phủ đại nguyên soái, Tham mưu trưởng đại bản doanh, hiệu trưởng trường sĩ quan lục quân Hoàng Phố, Tổng tư lệnh quân cách mạng quốc dân, Viện trưởng Viện Hành chính, ủy viên trưởng ủy ban quân sự, thủ lĩnh Quốc dân đảng Trung Quốc, Chủ tịch Chính phủ quốc dân, Đại tổng thống nhiệm kỳ thứ nhất. Sinh giờ ngọ ngày 15 tháng 9 năm Đinh Hợi tức là năm thứ 13 Quang Tự đời Thanh. Năm 33 Quang Tự, gia nhập Đồng minh hội, tháng 10 năm 19 Dân quốc chịu lễ rửa tội đạo Kitô. Vợ cả là Mao thị, năm thứ 10 Dân quốc xuất ra làm nghĩa nữ của Từ Am Vương Thái phu nhân. Năm thứ 16 Dân quốc, lấy người vợ kế họ Tống là Mỹ Linh tiến sĩ khoa học trường đại học Wehrslai nước Mỹ, ủy viên Viện Lập pháp, ủy viên chấp hành trung ương Quốc dân đảng Trung Quốc; sinh ngày 12 tháng 2 năm Kỷ Hợi tức năm thứ 25 Quang Tự. Con trai là Kinh Quốc và Vĩ Quốc
Đoạn điều trần tự soạn này của Tưởng Giới Thạch đã giải trừ được rất nhiều khó khăn cho các nhân viên soạn thảo, thế nhưng đã lưu lại rất nhiều câu hỏi cho các nhân viên nghiên cứu lịch sử sau này. Thứ nhất người vợ cả Mao thị của ông Tưởng trở thành nghĩa nữ của Vương Thái phu nhân từ bao giờ ? Vương Thái Ngọc mất ngày 14 tháng 6 năm 1921 (năm thứ 10 Dân quốc), tới ngày 28 tháng 11 cùng năm Tưởng Giới Thạch tuyên bố thoái ly quan hệ gia đình với Mao Phúc Mai và Diêu Di Thành. Chính là nói trước khi Vương Thái Ngọc qua đời Mao vẫn là vợ của Tưởng Giới Thạch con trai bà, chẳng có phép nào được nhận Mao làm nghĩa nữ cả. Về sau, Mao thị bị Tưởng xuất ra ngoài, thế nhưng Vương Thái Ngọc đã chết. Vấn đề là ở chỗ lúc đó phải chăng là đã được bàn bạc thỏa thuận sau khi Mao thị bị xuất đã lấy thân phận là nghĩa nữ của Tưởng mẫu vẫn được sống ở ngôi nhà cao của nhà họ Tưởng ở Phong Cảo ? Từ tình hình người nhân viên vệ sĩ được cùng theo Tưởng Giới Thạch trở về Khê Khẩu gọi Mao thị là Đại sư mẫu mà xét, thì Mao thị vẫn là nhân vật phu nhân nguyên phối của Tưởng Giới Thạch, chứ không phải thân phận con nuôi. Chắc chắn là năm đó chẳng có được vấn đề bàn bạc này. Nếu đã như vậy về sau này khi trùng tu tông phổ Tưởng Giới Thạch mới nghĩ tới nên để cho Mao thị một thân phận thích đáng, tức thì Tưởng đã dốc túi đánh canh bạc cuối cùng. Mao Phúc Mai đã biến thành nghĩa nữ của Vương Thái Ngọc. Song có điều đáng buồn là bất kể là Vương Thái Ngọc hay là Mao Phúc Mai đều không được biết rằng giữa họ đã có một mối quan hệ như vậy.Thứ hai, Tưởng Kinh Quốc, Tưởng Vĩ Quốc là thuộc họ nào sinh ra đều chưa thấy đè cập tới. Mẹ đẻ của Tưởng Kinh Quốc là Mao thị đã được kết luận khẳng định, thế nhưng mẹ đẻ của Tưởng Vĩ Quốc thậm chí cả cha đẻ là ai thì mọi người còn xôn xao mỗi người một ý. Tưởng Giới Thạch không cho biết rõ thì người ngoài cũng đã đoán bừa. Có người nói Tưởng Vĩ Quốc là con trai của Đới Quý Đào, có người nói Vĩ Quốc là con trai của Tưởng Giới Thạch với một người đàn bà Nhật Bản. Sa Mạnh Hải tiên sinh nhớ lại năm đó biên soạn tông phổ cho Tưởng Giới Thạch, ông nói, trong thời gian tu sửa tông phổ, Tưởng Vĩ Quốc dò hỏi ông, trong gia phổ có viết tới mẹ của mình không? Sa tiên sinh đã nói cho Vĩ Quốc biết, các vấn đề có liên quan đều phải dựa theo bản thảo chép tay của cụ Tưởng để sao lại. Tưởng Vĩ Quốc yên lặng, sau đó lại nói: Sau 30 năm sẽ nói tới! Từ trong khẩu khí của Tưởng Vĩ Quốc mà xét, ông ta tựa hồ như là con trai của Tưởng Giới Thạch, thế nhưng đa số học giả và chuyên gia thì lại cho rằng, ông ta là con trai của Đới Quý Đào. Nói tóm lại đây có thể là một nghi án mà bản thân Tưởng Giới Thạch đã để lại cho người sau.Thứ ba, trong lời điều trần của Tưởng Giới Thạch chỉ có mấy chữ cuối nhắc tới Diêu Di Thành và Trần Khiết Như, dường như các bà này căn bản đã không còn tồn tại nữa, bản thân mình căn bản cũng chẳng có quan hệ gì với họ nữa. Kỳ thực thì Tưởng Giới Thạch có rất nhiều điều bí ẩn khó nói thành lời. Một bà Mao Phúc Mai đã làm cho cụ Tưởng đau đầu buốt óc, giờ lại nhắc tới hai bà thì đâu có được. Tất nhiên không thể nói họ đều là nghĩa nữ của Vương Thái Ngọc được. Lại nói các bà là thê hay là thiếp đây? Là thê ư ? trước đã có Mao thị, sau đã có Tống thị. Là thiếp ư? Tưởng Giới Thạch đã từng nói Lấy vợ lẽ là một việc làm bất đạo đức nhất của con người[1]. không thể tự mình vả vào mặt mình được, tức thì cụ Tưởng chẳng thể nêu một chữ nào. Còn đối với việc người nghiên cứu sử lập thuyết đời sau liệu có thể làm cho sáng tỏ được không thì cụ Tưởng đâu có dám đoán chắc? Tưởng Giới Thạch chủ trì việc biên soạn Tông phổ họ Tưởng, Tuy nêu ra việc này là vào hậu kỳ kháng chiến, nhưng nói một cách khách quan, thực sự bắt đầu biên soạn là vào năm 1946. Đến tháng 12 năm 1948, tạm được kể là đã hoàn tất công việc, thế nhưng thanh danh uy tín của Tưởng Giới Thạch đều khác xa với thời kỳ sau của cuộc kháng chiến. Lúc này, chiến dịch Liễu Thẩm đã kết thúc, tập đoàn Quốc dân đảng ở Đông bắc đã bị tiêu diệt. Chiến dịch Hoài Hải đang tiến hành, binh đoàn Hoàng Bá Thao bị tiêu diệt, binh đoàn Hoàng Duy bị tiêu vong, tập đoàn Đỗ Duật Minh bị khốn ở Trần Quan Trang, sự thất bại triệt để chỉ còn là vấn đề thời gian. Cho nên, khi bắt đầu biên soạn tông phổ năm đó Tưởng vô cùng nhiệt tâm hăng hái, trong quá trình biên soạn cũng đã từng nhiều lần qua lại thăm hỏi. Thế nhưng giữa lúc sắp sửa tiến hành lễ tiến phổ thì bản thân Tưởng Giới Thạch lại không thể tới được. Lúc này, miếu đường nhà họ Tưởng ở Khê Khẩu đã mở đại yến tiệc chúc mừng, đoàn tuồng kinh kịch, được mới từ Thượng Hải tới đã biểu diễn liền suốt ba ngày. Chỉ có điều không biết là trồng rung cờ mở lớn lao như thế này là để chúc mừng cho tông miếu họ tưởng ở Khê Khẩu của Tưởng Giới Thạch đựoc tăng thêm vinh hiển rạng rỡ hay là để hát lên một khúc nhạc truy điệu sự thất bại triệt để của vương triều nhà họ Tưởng ở đại lục ?
---------------------------------
[1] Trích trong Mao Phúc Mai với cho con họ Tưởng trang 112
Phần 1
Chương 6
Vì sao gia đình Tưởng Giới Thạch có nhiều người tôn sùng đạo Phật?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
ở vài tiết trước trong chương này đã nhắc tới, Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc suốt đời hướng về Phật, mấy chục năm thanh đăng cổ quyển, tụng kinh không ngớt. Kỳ thực, những người ở trong gia đình Tưởng Giới Thạch, ông nội Tưởng là Tưởng Ngọc Biểu và nguyên phối phu nhân của Tưởng Giới Thạch là Mao Phúc Mai đều là những tin đồ cuồng tín của đạo Phật. Chỉ có điều là Cùng quỳ trước Phật nhưng tâm sự mỗi người một khác mà thôi ! Ông nội của Tưởng Giới Thạch vì sao dốc lòng tin theo đạo Phật? ông nội của Tưởng Giới Thạch tên là Tư Thiên, tự là Ngọc Biểu, sinh năm 1814 mất năm 1894 là một cụ già trường thọ. Nghe nói nhà họ Tưởng trở thành gia đình giầu có là bắt đầu từ Tưởng Ngọc Biểu. Trong hành trạng mà Tưởng Giới Thạch tự soạn về ông nội mình có nói: Cụ Ngọc Biểu khởi gia từ nghề thương, do tinh thông về việc buôn muối, cho nên gia đạo được dần hưng thịnh. Thế nhưng xét từ những tư liệu có liên quan, đạo để là khi trên bốn mươi tuổi. Tưởng Ngọc Biểu mới mở của hiệu muối Ngọc Thái, hơn thế việc buôn bán kinh doanh cũng chẳng mấy tốt đẹp. Vào khoảng trước và sau năm 1862 quân đội Thái Bình thiên quốc có một độ đã đánh phá các huyện Ninh Ba, chịu ảnh hưởng của chiến tranh, nghề buôn bán ở Khê Khẩu điêu linh bế tắc. Cửa hiệu muối Ngọc Thái cũng phải đóng cửa. Vào năm Tưởng Ngọc Biểu năm mươi tuổi, con trai của cụ là Tưởng Triệu Thông hai mươi hai tuổi, Tưởng Ngọc Biểu đã khôi phục lại cửa hiệu muối Ngọc Thái rồi trao cả công việc ở cửa hiệu cho con trai phụ trách, bản thân tọa hưởng thanh phú, tụng kinh niệm phật, sống bình an những năm cuối đời. Cụ còn hiểu biết đươc một số y thuật thảo dược lang trung, thường vào núi hái thuốc, để chữa bệnh cho người làng xóm xung quanh. Tưởng Ngọc Biểu về hưu từ năm năm mươi tuổi, đến năm tám mươi mốt tuổi qua đời trong những tháng ngày dài dằng dặc của hơn ba chục năm này chẳng biết có phải là một nhân tố do cụ tôn thờ đạo Phật hay không, thế nhưng tại một truyền thuyết khác thì lại khẳng định có ảnh hưởng quan trọng đối với việc cụ trở thành tín đồ của Đạo Phật.ở tiết trên đã nói, Tưởng Giới Thạch đã từng tới tế tảo phần mộ Tưởng Ma Kha ở Tiêu Bàn Sơn Ninh Ba trước khi chạy trốn sang đài Loan. Tên thật của Tưởng Ma Kha là Tưởng Tông Bá tới định cư ở Ninh Ba từ thời kỳ Ngũ đại Thập quốc. Những con cháu từ cụ sinh sôi ra tới Tưởng Giới Thạch tổng cộng cơ 28 đời, cho nên Tưởng Giới Thạch tự xưng là cháu đời thứ 28 rời đến Tứ Minh (Ninh Ba). Tưởng Ma Kha là tổ tông đầu tiên của họ Tưởng ở Khê Khẩu. Ninh Ba phủ chí và Phụng Hóa huyện chí đã đăng tải rất nhiều truyền thuyết có liện quan.Ninh Ba phủ chí nói: Cụ Tưởng Tông Bá, tự là Tất Đại, người thời Hậu Lương Ngũ Đại, một thuyết nói người Chu Hiển Đức Sơ, từng giữ chức Minh Châu Bình sự, sau bão quan, sinh được một con. Tông Bá từ thiện dịu dàng cẩn thận, thường khẩu tụng Ma Kha Ban nhược Ba la mật đa, cho nên được mọi người gọi là Tưởng Ma Kha. Về sau cụ kết am ở Tiểu Bàn Sơn, tự xưng là Ma Kha cư sĩ. Khi ấy có một nhà sư ngao du bốn phương sống ở chùa Nhạc Lâm Phụng Hóa, tên là Bố Đại hòa thượng, cứ đeo một chiệc túi vải suốt ngày đêm không rời thân. Trong tâm Tưởng Ma Kha lấy làm lạ, gọi hòa thượng ấy là thày, rồi theo ngài đi vân du suốt ba năm. Một hôm, tại Trường Thinh Phúc Kiến, thày trò cùng tắm ở ôn tuyền, Tưởng Ma Kha bỗng nhiên nhìn thấy ở trên lưng Bố Đại hòa thượng có một con mắt sáng quắc, Tương bỗng kinh ngạc kêu to: Hòa Thượng là Phật đó ! Bố Đại hòa thượng liền nói với Tưởng:- Tạ bị người nhìn trộm thấy, ta phải đi đây! Ta tặng con chiếc túi vải này, khiến cho con cháu đời đời là gia đình có áo có mũ ! Trở về chùa Nhạc Lâm Phụng Hóa Bố Đại hòa thượng ngồi ở trên phiến đá lớn ở phía đông chùa rồi viên tịch. Chôn cất ở sau núi. Thế nhưng về sau có người Ninh Ba đã gặp Bố Đại hòa thượng ở Tứ Xuyên. Hòa thượng nhờ người này chuyển lời tới Tưởng Ma Kha nói:- Ngày gặp gỡ đã gần; xin hãy gìn giữ tự trọng ! Người này về tới chùa Nhạc Lâm Phụng Hóa, bật mộ lên nhìn, trong mộ chỉ có thiền trượng, tịnh bình mà thôi. Người đó tìm đến Tưởng Ma Kha, đem lời nhắn gửi nói cho Tưởng biết. Ma Kha nói:
- Ta đã biết điều đó rồi !
Một hôm Tưởng đi thăm hầu hết các thân hữu, sau khi tạm biệt, chẳng có bệnh tật gì mà đã mất !
Nội dung cơ bản của truyền thuyết kể trên chỉ là nói rõ Tưởng Ma Kha đốc tín Phật, chẳng những bái hòa thượng là thày mà lại đã từng theo hòa thượng du hành suốt ba năm. Còn đối với hững tình tiết quái đản kia, có vẻ như thần thoại, phần lớn chỉ là điều thêm bớt của người sau, không đủ tin. Bởi vì tuy Tưởng Giới Thạch đã làm quan, thế nhưng cha Tưởng, ông nội Tưởng, cụ nội Tưởng v.v... đều chỉ là một giới nhà quê, làm gì có cảnh con cháu đời đời là gia đình có áo có mũ. Thế nhưng truyền thuyết kể trên đã khẳng định người đời sau của họ Tưởng tín thờ đạo phật và đã có những ảnh hưởng sâu sắc, bao gồm cả ông nội của Tưởng Giới Thạch là Tưởng Ngọc Biểu.
Hãy còn một điều nên đề cập tới đó là: Ninh Ba. Phụng Hóa dựa kề sát châu sơn, núi Phổ Đà ở đó là thắng địa nổi tiếng nhất của đạo Phật. Ninh Ba, Phụng Hóa cũng có rất nhiều chùa miếu, hương khách rất đông. Đỗ Mục chẳng phải đã có câu thơ
Bốn trăm tám chục ngôi chùa,
Nằm hiền vần vũ gió mưa lâu đài
nổi tiếng đó hay sao? Tín thờ Phật tổ là một địa vực văn hóa sâu sắc, là một loại mốt thời thượng của lịch sử, Tưởng Ngọc Biểu chỉ là một trong muôn vàn thiện nam tín nữ ở bên trong đó mà thôi. Huống hồ vị Bố Đại hòa thượng đã điểm hóa tổ tông họ Tưởng ở trong truyền thuyết đó chính là Phật Di Lặc mà người Trung Quốc thích nhất, là một vị Phật rất có thể tiếp cận Như Lai Phật Tổ lại đã được hoàn toàn Trung Quốc hóa, do đó nhà họ Tưởng đã xuất hiện một hoặc vài người đốc tín đạo Phật thì đâu có phải là chuyện kỳ lạ.
Người mẹ Vương Thái Ngọc của Tưởng Giới Thạch vì sao cũng trở thành tín đồ cuồng tín của đạo Phật? Ngoài bối cảnh gia tộc và xã hội chung với ông nội của Tưởng ra, bà còn có những nguyên nhân sâu sắc về mặt bản thân nữa.Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc có thân thế trắc trở, bên trên cũng đã có đề cập tới một cách sơ lược. Nói một cách cụ thể là: Khi 17 tuổi Vương Thái Ngọc đã được cưới về làm vợ một người làm ruộng họ Du. Năm 19 tuổi sinh ra được một người con, vốn là một người nông dân lạnh hiền tốt bụng. Đâu ngờ trời có gió mây bất trắc, chính vào năm đó, tiếp nối liền liền trước tiên là chồng ốm chết, sau đó là đứa con nhỏ chết yểu, tiếp theo là người cha đẻ bị ốm liệt. Trong vòng một năm nhà chồng nhà cha chết liền ba mạng toàn là người chí thân cả. Vạn lời tụng niệm của Vương Thái Ngọc đều bị hủy hoại, không biết bản thân mình đã mắc tội với vị thần tiên ở đường nào, phật tổ ở phương nào, tại sao ông trời lại liên tiếp giáng những đại nạn tới người đàn bà yếu đuối này. Tức thì bà liền nghĩ tới chuyện gọt mái tóc xanh chui vào cửa Phật. Các bạn bè thân hữu những người bạn trong làng xóm lẽ di nhiên đã hết lòng khuyên can, sau này hỏi có chút hồi tâm chuyển ý đã nhập vào am Kim Trúc buộc tóc tu hành. Trong thời gian đó cũng có mấy lần muốn gọt tóc đi làm ni, thế nhưng cuối cùng vấn chưa dằn lòng được. Nguyên nhân lẽ dĩ nhiên đã có rất nhiều, một trong những nguyên nhân ấy là về phía nhà mình lúc đó tai nạn quá sâu nặng, đòi hỏi phải có bà cứu đỡ, bà không thể nhẫn tâm trốn vào trong am ni để mưu lấy sự thanh tịnh một mình. Ông nội của Vương Thái Ngọc là Vương Dục Khánh đầu óc linh hoạt, đã đem nhưng lâm thổ sản như trúc măng ở trong núi vận chuyển tới Ninh Ba thậm chí tới cả Tô Châu để bán, thu lãi rất nhiều, gia đạo hưng thịnh. Thế nhưng chuyển tới tay cha của Vương Thái Ngọc thì gia cảnh liên lúng túng nhiều bề. Bởi vì ông luôn muốn đạt lấy chút công danh, thế những nhiều lần thi không đỗ. Sau đó ông đã không chuyên tâm vào công việc nhà nông và nhà thương lẽ dĩ nhiên cảnh nhà đã sa sút hơn trước rất nhiều. Sau khi cha bà là Vương Hữu Tắc qua đời, người em lớn của Vương Thái Ngọc là Vương Hiện Cự mới mười lăm tuổi đã nghiện thói cờ bạc rất ác liệt, chẳng chịu phấn đấu vươn lên, em thứ hai là Vương Hiền Dụ lại mắc bệnh thần kinh. Bà mẹ già của Vương Thái Ngọc còn đang sống, Vương Thái Ngọc còn phải làm một số việc nữ công kim chỉ, may vá đồ dùng, bà làm sao có thể dằn lòng bỏ đi cho được? Sau bốn năm, qua mối manh của người anh họ làm người quản lý sổ sách chi thu ở trong nhà họ Tưởng đã tác hợp bà đã lấy Tưởng Triệu Thông,năm sau thì sinh ra Tưởng Giới Thạch, sau đó lại sinh ra hai con gái là Thụy Liên, Thụy Cúc và một con trai là Thụy Thanh. Gia đình nhà họ Tưởng bởi Tưởng Triệu Thông kinh doanh có kế giỏi, cảnh nhà dồi dào sung túc, Vương Thái Ngọc lại thêm người tăng khẩu cho nhà họ Tưởng, cuộc sống rất tươi đẹp. Thế nhưng cảnh đẹp chẳng được dài lâu, Vương Thái Ngọc gả về nhà họ Tưởng, ông nội của Tưởng Giới Thạch qua đời. Cụ đã là một cụ già 81 tuổi, thực tại mà nói chết cũng chẳng đáng tiếc nữa. Vấn đề là ở chỗ việc mở đầu này đã mở ra một thế khó có thể chấm dứt được. Năm thứ hai ông nội của Tưởng Giới Thạch qua đời, cha của Tưởng Giới Thạch cũng buông tay mà đi. Tiếp theo đó là em gái thứ hai là Thụy Cúc, em út Thụy Thanh của Tưởng Giới Thạch, về sau là bà mẹ đẻ của Vương Thái Ngọc. Thật là một tình thế không thể cứu vãn được. Vương Thái Ngọc với người con trai của bà trước sống với nhau chẳng mấy tốt lành, không thể không chia tài sản để ra ở riêng. Đúng như lời Tưởng Giới Thạch đã nói: Cảnh nhà sa sút, họa hoạn nối tiếng, tiên từ đau buồn chịu khổ, thảm trạng thật là ghê gớm. Trong tình hình Vương Thái Ngọc phải chịu đựng những đòn đả kích nặng nề liên tiếp, bà chỉ có thể ký thác thân thể và tâm hồn vào hai sự việc: Một là bồi dưỡng Tưởng Giới Thạch lớn lên thành người. Hai là cầu xin chủ thiên bồ tát không b giáng tai họa lên à nữa. Lẽ đương nhiên việc thứ hai này phục vụ cho việc thứ nhất. Cho nên từ đó về sau, bà Vương Thái Ngọc không thể nào rời xa thanh đàng Phật quyển được. May mà bà cũng được học thông văn chữ có thể tụng đọc được Lăng nghiêm kinh, Kim Cương kinh v.v.. Đây là sự ký thác về mặt tinh thần rất quan trọng.
Đối với nguyên nhân Mao Phúc Mai cũng trở thành một tín đồ cuồng tín của đạo Phật, ngoài việc chịu ảnh hưởng của bà mẹ Vương Thái Ngọc ra, chủ yếu e rằng xuất phát từ sự bi thảm và tự mình cầu tìm lấy sự giải thoát tinh thần đối với vận mệnh của mình, có lẽ còn có sự lo lắng buồn phiền đối với vận mệnh của Tưởng Giới Thạch và cha con Tưởng Kinh Quốc.Mao Phú Mai xuất thân từ một gia đình trung lưu chẳng phải lo lắng gì về cơm ăn áo mặc. Năm 1901 lúc đó 19 tuổi bà kết hôn với Tưởng Giới Thạch. Từ tình hình kinh tế của hai gia đình lúc đó mà xét, nhà họ Tưởng mẹ góa con côi, chỉ có ba chục mẫu ruộng và ba chục mẫu núi trúc; đồng thời đã có hai con trai hai con gái mở hàng cơm hàng thịt ở Ninh Ba, nhà họ Mao so sánh với nhà họ Tưởng đã không có sự thua kém. Mao Phúc Mai về nhà họ Tưởng ít nhiều cũng có chút cúi mình bái phục phải lấy người kém nước. Thế nhưng bà không hề vì thế mà được sự an ủi nhiều hơn. Trước tiên là Tưởng Giới Thạch còn nhỏ, chưa từng trải, ngu dốt bướng bỉnh đã thành nết. Hai năm sau Tưởng tới Ninh Ba dự thi lúc trở về đã là thanh niên trào lưu mới, lập chí phải làm một số việc trong cuộc biến đối với xã hội cực kỳ to lớn sắp sửa xảy ra, Tưởng đã không lưu luyến gia đình, càng chẳng yêu chiều người vợ. Mao Phú Mai với đầy bụng nước đắng khổ sở chẳng có nơi nào chia sẻ, chỉ còn cách học theo cách của mẹ chồng, ngày ngày cầu nguyện trước phật Quan âm Bồ Tát, cầu Bồ Tát phù hộ cho chồng mình áo gấm về quê, cầu cho mình được sống với chồng qua những ngày tươi đẹp. Thế nhưng, sau đó không lâu, Tưởng Giới Thạch vượt biển Đông qua Nhật. Sau đó, tham gia cách mạng Tân Hợi; Sau đó bị chính phủ quân phiệt Bắc Dương truy bắt, bị lưu lại một lần nữa phải ra nước ngoài. Cuộc sống ở nơi quê thôn hương dã, Mao thị luôn luôn bị cuộc bôn ba của chồng kích động, rất ít khi được yên ổn, chỉ có một điều được an ủi duy nhất ấy là bà đã đẻ ra Kinh Quốc. Tức thì ở trước mặt Bồ Tát, ngoài việc cầu nguyện cho chồng, bà đã dành hầu hết thời gian cầu nguyện cho con. Tới khi Tưởng Giới Thạch tiếp nhận Diêu Di Thành, tiếp nhận Trần Khiết Như, thậm chí về sau lại kết hôn với Tống Mỹ Linh, con trái Kinh Quốc lại bị đưa đi nước ngoài. Bà Mao Phúc Mai không còn đủ sức lực để chống đỡ với các loại biến cố nữa, chỉ còn cách nhang đèn hương nến, tụng niệm kinh quyển, chẳng khác gì với bà mẹ chồng năm xưa cả.
ở trong tiết này còn một vấn đề nữa, những người ở trong gia đình Tưởng Giới Thạch có rất nhiều người tin thờ đạo Phật, trái lại, bản thân Tưởng lại là một tín đồ đạo Cơ Đốc. Phải chăng là ông không tin Phật ? Kỳ thực Tưởng Giới Thạch chỉ vì một nguyên nhân như mọi người đều đã biết nói quy y KiTô (đạo Cơ đốc). Sau khi ông trở thành tín đồ đạo Cơ Đốc rồi, ông không hề ruồng rẫy vứt bỏ đạo phật của mẹ ông, thậm chí kể cả tạp giáo, tà giáo trong dân gian. Làm sao biết được ? Trong bài viết Tưởng Giới Thạch ở Khê Khẩu của Trương Minh Cảo đã từng làm thày dạy Tưởng Giới Thạch về sau lại đi theo Tưởng Giới Thạch trong nhiều năm, ông nói: Căn cứ vào tình hình trong nhiều năm nay mà xét, mỗi lần gặp phải thời cuộc biến động Tưởng Giới Thạch cần phải dùng quyết sách để ứng phó, liền về nhà sồng ở nghĩa trang, hoặc chùa Tuyết Đậu, Diệu Cao Đài, ông tuyệt đối không du sơn vẫn thủy, mà là yên lặng cầu nguyện tiên tổ và thần minh phù hộ, hoặc bàn mưu tính kế bí mật với những người thân tín, coi nơi đây là trụ sở quyết sách ở Lùng trung. Khi Tưởng Giới Thạch trú tạm ở Diệu Cao Đài, đầu bên trái biệt thự của ông là mộ của hòa thượng Thạch Kỳ chủ trì chùa Tuyết Đậu. Mỗi lần Tưởng đến, theo thường lệ trước hết phải tới vái lạy phần mộ của hào thượng rồi mới vào trong nghỉ. Tháng 1 năm 1949, sau khi Tưởng Giới Thạch từ chức lần thứ ba về tới Khê Khẩu, lúc này, ba chiến dịch lớn đã kết thúc thắng lợi, quân giải phóng đang chuẩn bị vượt qua Trường Giang, vương triều họ Tưởng sắp sửa bị tiêu diệt, Tưởng Giới Thạch tinh thần hoảng hốt, vào một ngày sau tiết xuân ông đã tới miếu Vũ Sơn ở Khê Khẩu. Miếu Vũ Sơn ở trên thị trấn Khê Khẩu, trên cửa miếu có vẽ hai bức tượng môn thần Uất Trì Kính Đức và Tần Thúc Bảo, vào trong cửa miếu là một chiếc sân có tường bao quanh, có một chiếc sân khấu, lại bước vào bên trong mới là đại diện, lẽ dĩ nhiên là ở trong đó cúng Bồ Tát. Tưởng Giới Thạch bước vào đại điện, tự mình đốt hương thắp nến, trong tâm yên lặng cầu nguyện, sau đó bưng ống quẻ đặt trên án hương, xúc xúc mấy cái, rồi rút ra một thẻ. Tưởng Giới Thạch cầm lên xem, bên trên viết hai chữ Trung hạ. Tưởng liền có chút lo lắng, liền ra lệnh cho tên lính thị vệ tìm sư chủ trì trao giấy thẻ. Sự chủ trì rút ra một tờ giấy đưa cho lính thị vệ, trên đó viết mấy chữ đại ý thất Kinh Châu, Quan Công tẩu Mạnh Thành, Lính thị vệ vừa nhìn thấy là nghiêm trọng tỏ ý sư chủ trì rút lại một tờ khác đưa cho Tưởng Giới Thạch. Tưởng mở ra xem, bên trên viết khốn cư Trường Bản pha, thất hãm lạc Phượng Ba, chú thích ở dưới là: Xuất quân không được, vợ chết mất đôi, lùi sớm tìm đường. Tưởng Giới Thạch xem xong, không kìm nổi chau mày nhăn mặt. Tên thi vệ vội nói:
- Loại sự việc như thế này, không tin tưởng được.
Tưởng Giới Thạch nghiêm giọng nói:
- Không được phép nói bừa ! Bồ Tát ở miếu Vũ Sơn rất linh đó !
Báo chí Đài Loan, Hương Cảng đã từng đăng tải một đoạn dật văn lịch sử, nói rằng tháng 10 năm 1949, Tưởng Giới Thạch dẫn tùy tùng lên núi A lý với danh nghĩa là tỵ thử (tránh nóng) để quan sát một cây thần mộc cây đó có vòng xung quanh than hơn hai chục mét, cao quá hai chục tầng lầu, nghe nói đã mọc được trên ba ngàn năm. Lúc đó Cốc Chính Luân nịnh hót nói:
- Nguyện cho Tổng thống thọ tựa thần mộc, vạn niên trường thọ.
Tưởng Giới Thạch trái lại, cảm khác sâu sắc nói:
- Tuổi thọ của con người so sánh với tuổi thọ của Thần thụ quả thực là quá cấp bách vội vã !
Từ các điều kể trên có thể nhìn thấy, nếu nói Tưởng Giới Thạch sau khi quy y Jêsu đã biến thành một tín đồ Cơ Đốc, thế thì ông Tưởng đồng thời cũng còn là một tín đồ phật giáo, một tín đồ thần giáo nữa. Và như vậy thì, trong trái tim ông, chủ yếu là Jêsu hay là Phật tổ hoặc là cái gì khác, liền đã trở thành một vấn đề lý thú đồng thời cùng là một vấn đề khó có thể giải đáp được.
Phần 1
Chương 7
Một người cha khác của Tưởng Kinh Quốc
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Mặc dù trên lịch sử đã từng có người hoài nghi Tưởng Giới Thạch có phải là cha đẻ của Tưởng Kinh Quốc hay không. Thế nhưng đây đã là một vấn đề được rõ ràng bất tất phải thảo luận lại nữa. Thế nhưng lại có một vấn đề có liên quan tới vấn đề này đòi hỏi pải được nghiên cứu thêm. Đó chính là Tưởng Kinh Quốc ngoài cha đẻ của mình ra còn có một người cha khác nữa. Người cha khác nữa ấy chính là em trai Tưởng Thụy Thanh của Tưởng Giới Thạch.Tưởng Thụy Thanh tên gia phổ là Chu Truyền sinh năm 1895 mất năm 1899. Chỉ sống được bốn năm, thế nhưng Tưởng Thụy Thanh đã trở thành một người cha khác của Tưởng Kinh Quốc. Công việc cho làm con thừa kế này được tiến hành theo ý chỉ của Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc.
Tại sao Vương Thái Ngọc lại để cho cháu trưởng của mình làm con của người con nhỏ đã chết sớm, do vậy đã khiến cho Tưởng Kinh Quốc có một người cha khác. Có lẽ chúng ta sẽ có thể tìm được câu trả lời trong lời truy điệu Thụy Thanh người em đã mất do Tưởng Giới Thạch viết. Tưởng Giới Thạch viết rằng:Em tôi mất sớm, tôi mới chỉ 11 tuổi. Việc để tang cha tôi còn chưa đoạn, mẹ tôi đang đớn đau vì cái chết của cha tôi, những tháng ngày thảm đạm đang bùng cháy sục sôi (Cha Tưởng mất chưa đầy ba năm - Người dẫn chú thích). Từ khi em tôi qua đời, mẹ tôi đớn đau khóc lóc như dùi chích vào tim, bi phẫn thành ốm nặng. Kể từ khi em tôi chết yểu, gia đình tôi như sụp đổ chia lìa, không lúc nào được yên ổn đã hơn mấy chục năm nay. Riêng tôi lại càng cô đơn đau khổ, thê thảm lạnh lùng, vui cười gượng gạo, lòng nặng trĩu đã hơn chục năm nay. Phàm những đớn đau này đều do cái chết yểu của em tôi dẫn tới. Em tôi nào đâu biết được ? Em tôi làm sao biết được ? Ô hô ! Quan hệ của em tôi đối với gia đình tôi quan trọng và to lớn như vậy, còn như cái chết cũng là do mệnh mà thôi. Mỗi khi nhắc lại việc của hai mươi năm trước tôi thực sự chẳng muốn ngoảnh lại ngắm nhìn. Lúc đó tôi và em tôi, ngồi sát vai nhau, tôi thấy dung nhan của em hiền từ và xinh đẹp, tính tình của em tính lặng và dịu dàng. em tôi và tôi dắt tay nhau cùng đi, chỉ thấy em tôi thanh thoát nhanh nhẹn, cử chỉ chẳng khác gì người lớn. Tôi cùng em tôi cười nói dạo chơi, thấy em tôi nói hay hát khéo, tự thái dị kỳ, tuy là những lời nói của trẻ con mà chẳng muốn xa lìa, anh vẫn nhìn thấy em mãi về sau vậy ! Nhìn thấy em lớn lên, cung kính giữ lẽ, thân mật mà không nghịch ngợm, thật quá mến thương ! Nghe thấy tiếng mẹ khóc cha, tôi chạy nhanh tới cạnh người, khéo léo nói với mẹ: Mẹ ơi thôi đừng buồn, mẹ khóc thì con lại muốn khóc theo. Mẹ nghe tôi nói, nỗi buồn cũng bớt dần đi. Học xong tôi tốt nghiệp trở về, em tôi vẫn ngoan ngoãn ở bên cạnh, dường như đã giải bớt nỗ sầu cho mẹ, theo ý bề trên, tôi tự thẹn rằng mình chẳng kịp. Em tôi bị ốm, chỉ là cảm mạo lúc đầu, rồi về sau ho nặng, lúc lên lúc xuống, lúc nặng lúc nhẹ, kéo dài không khỏi, ước độ hai tuần. Lúc đầu không nguy kịch, y như sắp khỏi. Nếu như ông trời không đẩy tôi vào nghịch cảnh thì em tôi đã không chết sớm, nay đã chết rồi, đó chẳng phải là mệnh của tôi đó sao? Một hôm bệnh của em tôi hơi thuyên giảm, bỗng vọt chạy ra, chờ sẵn ở cửa, nhìn thấy anh tươi cười ra đón. Lúc này sắc mặt của em tôi xanh xao, thân hình tiều tụy, tôi đã kinh ngạc vô cùng. Từ đó trở đi em đã không được cùng tôi đi chơi nữa. Vào cái đêm em tôi ốm nặng, ngọn đèn lạnh lùng tỏa bóng cô đơn, thê lương bội phần. Mẹ tôi đau buồn khóc lóc. Em tôi nắm chặt tay mẹ tôi lau nước mắt cho mẹ mà nói:
- Mẹ ơi, con không có bệnh gì đâu, tất con sẽ khỏi mẹ chớ có quá đau buồn. Quá đau buồn mẹ sẽ ốm đó.
Mẹ tôi thấy khi em ốm chẳng ngủ được mấy ngày đêm liền. Em tôi lại an ủi mẹ tôi, nói:
- Mẹ mệt lắm rồi, xin mẹ hãy ngủ đi, đừng lo buồn gì nữa.
Lời an ủi của em tôi đối với mẹ tôi là như vậy đó. Đến bây giờ mẹ tôi vẫn còn nuốt nước mắt kể lại như vậy đó ! Ô hô ! Những lời nói của em tôi đã an ủi mẹ tôi, lấy điều chẳng vui khiến mẹ tôi đau đớn. Ai có thể biết được nó càng khiến cho mẹ tôi không thể không đau đớn càng khiến cho nỗi đau đớn của mẹ tôi sinh ra mà không thể tan biến đi được. Điều này có lẽ là pát sinh ra bởi tự tính của trời chứ chẳng phải là của con người đó vậy!
Lời truy điệu của Tưởng Giới Thạch đã nói rõ Tưởng Thụy Khanh là một đứa trẻ khiến cho mọi người thương yêu, hoàn toàn khác với Tưởng Giới Thạch lúc còn nhỏ. Trong Tiên từ Vương Thái phu nhân sự lược Tưởng Giới Thạch nói: Trung Chính lúc nhỏ nhiều bệnh tật hơn thế thường nguy kịch. Vừa khỏi đã thích tung tăng chạy nhẩy, phàm các vết thương do thủy hỏa dao gây gặp hại không chỉ một lần. Điều này đã làm cho mẹ hiền phải lo lắng gấp bội. Năm lên 6 tuổi đi học, quá ngang tàng bướng bỉnh, thế mà tiên từ vẫn dạy bảo không biết mệt mỏi, quanh năm xuân hạ, chẳng lúc nào ngơi
Trong bài viết Đối với việc cải chính và bổ sung của bài Tưởng Giới Thạch ở Khê Khẩu Hà Quốc Thao nói: Từ nhỏ Tưởng Giới Thạch đã ngang bướng thành nết, Thụy Thanh thì ôn tồn tao nhã, giỏi lực theo ý của người, được Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc vô cùng quý mến. Vì vậy, Thụy Khanh chết yểu, Tưởng mẫu đớn đau muốn tuyệt vọng, đã sắp xếp chôn cất Thụy Khanh như một người lớn bên cạnh mộ Tưởng Triệu Thông ở Đào Khanh.Đại để là do vì Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc rất yêu quý người con nhỏ của mình, mười sáu năm sau khi Thụy Thanh mất, đã bắt buộc lệnh cho Tưởng Giới Thạch đem con trai Kinh Quốc lấy danh nghĩa làm con thừa kế của Thụy Khanh. Lúc đó Tưởng Thụy Khanh đã có hai mươi nhăm tuổi thọ âm phủ, Tưởng Kinh Quốc mới lên chín tuổi. Thế nhưng Tưởng Thụy Khanh chết yếu từ năm còn bé, khi sống còn chưa có vợ, ngày nay làm sao lại có thể có con? Tức thì, với sự thao diễn điều khiển của Tưởng mẫu, bịa lập cho Thụy Khanh một cuộc hôn nhân âm phủ. Với sự sắp đặt như vậy, Tưởng Kinh Quốc không những đã có một người cha khác mà còn có một người mẹ khác nữa.
Đối với sự việc này, trong Lời truy điệu Thụy Khanh người em đã mất Tưởng Giới Thạch viết:Ngày em trai tôi qua đời, mẹ tôi đã chôn cất em như một người lớn, tuổi kỷ vị, mẹ tôi đã phối với Vương thị nữ để hợp táng, hơn thế cũng đã lập tự cho nó, để đánh dấu cho khỏi quên. Ngày nay tôi đã có hai con, sau khi mẹ tôi ra lệnh cho tôi đem Kinh Quốc làm con thừa tự em tôi, thế rồi người em chết yểu theo tộc quy của nhà tôi, không thể truyền được. Tới lúc này tôi đã không thể phá bỏ được tộc quy để nhận lấy sự chứng thực của mọi người, mà lại không nỡ chống lại lệnh của mẹ, để làm tổn thường đến tình cốt nhục, không làm khác được, tôi vẫn phải để con cả Kinh Quốc làm con thừa tự của em tôi. Hơn thế đã dùng lời nói này để ghi chép vào tộc phổ, biểu hiện ở trên bia mộ. Cho rằng em tôi là một sợi dây nối liền, đời đời con cháu, đọc những dòng văn này sẽ biết được nỗi khổ tâm của mẹ tôi và tôi tới nay vẫn còn yêu quý con tôi và em tôi tới mức nào.Từ đoạn văn trên đây có thể nhìn thấy, đem Tưởng Kinh Quốc làm con thừa kế của người em, Tưởng Giới Thạch đã như người hóc phải xương cá. Vì Tưởng Vĩ Quốc lúc này tuổi mới hơn ba, thế nhưng cuối cùng đã không phải là ruột thịt của mình nữa. Thế nhưng lời nói thực này lại không tiện nói ra với mẹ, do đó cũng đành phải ngậm đắng nuốt cay. Thế nhưng Tưởng mẫu vì quá yêu thương người con nhỏ Tưởng Thụy Khanh chứ cũng chẳng muốn bắt Tưởng Kinh Quốc đi làm con thừa kế, Tưởng Giới Thạch đành phải viết một bài Lời truy điệu để trút bỏ nỗi khổ sở cay đắng mà thôi. Nói như vậy thì, Tưởng mẫu thực ra không hoài nghị lai lịch của Tưởng Vĩ Quốc, dốc lòng tin thực sự nó là con trai của Tưởng Giới Thạch. Vậy thì Tưởng Kinh Quốc đã đối xử như thế nào về mối quan hệ bị thừa nhận là con thừa kế của mình? Căn cứ vào những điều được biết Kinh Quốc vẫn gọi Tưởng Giới Thạch là cha, đối với Mao Phúc Mai thì gọi là mẹ, gọi Tống Mỹ Linh là mẹ, đại để là coi như không có cái chuyện là mình có một người cha khác nữa.
Phần 1
Chương 8
Người con gái của Tưởng Giới Thạch mà ít ai biết đến
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Tưởng Giới Thạch có hai người con trai, đó là điều mà cứ ai cũng đều biết cả. Mặc dù đối với lai lịch của hai người nỳ đều có một số cách nói, thế nhưng trong tông phổ họ Tưởng, trong bản thảo truyện ký lịch sử của các nhà sử học, Tưởng Kinh Quốc và Tưởng Vĩ Quốc đều là con trai của Tưởng Giới Thạch, đều là người nối dõi cho gia đình họ Tưởng. Còn một người con gái khác, vốn cũng phải là người nối dõi của gia đình họ Tưởng, cũng cần phải có địa vị và vinh dự như nhau, thế nhưng do vì những sai sót bất ngờ, cũng còn do sự lựa chọn cân nhắc của con người, người con gái ấy cuối cùng đã phải viết bỏ loại địa vị và vinh dự này đi, từ chỗ danh môn quyền quý biến thành một người bình dân. Thế nhưng người con gái đó đích xác đã là con gái của Tưởng Giới Thạch, một người con gái mà ít ai biết đến của Tưởng Giới Thạch Người con gái ấy chính là Tưởng Dao Quang ngày trước và Trần Dao Quang sau này. Nói tới người con gái này của Tưởng Giới Thạch cần phải nhắc tới đệ tam phu nhân Trần Khiết Như của Tưởng Giới Thạch, về những điều ân ân oán oán giữa Tưởng Trần cuối sách này sẽ có riêng một chương tiết tường thuật tỉ mỉ ở đây chỉ trao đổi những vấn đề có liên quan tới người con gái này của Tưởng Giới Thạch mà thôi.
Tưởng Giới Thạch bắt đầu được phất lên từ sau sự biến Trần Quýnh Minh năm 1922. Trước đó trong một thời gian rất dài, Tưởng che dấu tung tích giang hồ ở Thượng Hải, hội hợp với Ngu Hiệp Khanh, Trương Tĩnh Giang v.v.. làm người mách mối cho sở giao dịch cổ phiếu, cuộc sống rất lãng mạn. Chính trong thời gian này, Tưởng đã chung sống rồi kết hôn với Trần Khiết Như. Năm 1924, Tưởng Giới Thạch nhận chức hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, Trần Khiết Như đã theo Tưởng đi cùng, sống lâu dài ở Quảng Châu. Tính từ năm 1921, Trần Khiết Như cùng chung sống với Tưởng Giới Thạch trở đi, lúc này đã được hơn ba năm, thế nhưng hai người vẫn chưa sinh ra được người con nào.Một hôm, Trần Khiết Nhị tới y viện Bình Dân Quảng Châu gặp một sản phụ là người thân trong gia đình kiều dân, muốn đem cháu bé mới sinh này cho người khác. Trần Khiết Như liền nói với Tưởng Giới Thạch, bà muốn xin đứa bé gái này về nuôi, Tưởng vui vẻ đồng ý. Có lẽ là Tưởng cảm thấy bản thân mình đã có hai người con trai, cũng nên phải có một người con gái. Có lẽ là Tưởng cho rằng bên cạnh Mao Phúc Mai có Tưởng Kinh Quốc, bên cạnh Diêu Di Thành đã có Tưởng Vĩ Quốc, dưới gối Trần Khiết Như cũng phải có con mới tốt. Trần Khiết Như ôm đứa bé gái ấy về nhà, đặt tên là Bồi Bồi. Tưởng Giới Thạch cảm thấy cái tên này quá tục nên đã đổi tên cho con gái là Tưởng Dao Quang. Dao Quang là tên của ngôi sao thứ bẩy trong bẩy ngôi sao Bắc đẩu, nó chứng tỏ rằng Tưởng Giới Thạch đã yêu quý và mong đợi đối với đứa con gái này.
Tháng 3 năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã quyết tâm kết hôn với Tống Mỹ Linh, liền ra lệnh cho Đỗ Nguyệt Sênh sắp xếp cho Trần Khiết Như sang Mỹ khảo sát, Tưởng Dao Quang được trao cho Trần mẫu nuôi dưỡng. Năm 1933 Trần Khiết Như về nước, lúc này đã chính thức ly hôn với Tưởng Giới Thạch, liền đem đổi tên con gái thành Trần Dao Quang.Sau này, Trần Khiết Như lại có một lần sang Mỹ nữa, bởi gia công nghiên cứu đã giành được học vị, suốt thời gian dài không về, Dao Quang vẫn được bà ngoại nuôi dưỡng dạy dỗ. Cuộc kháng chiến bùng nổ, Dao Quang vẫn chưa đầy hai mươi tuổi, đã lấy một người Triều Tiên mang họ An, đã sinh được hai người con trai. Thế nhưng An là một gián điệp Nhật Bản, sau khi cuộc kháng chiến thắng lợi hắn sợ tội, nên đã phải chạy trồn chui lủi, không biết đi về hướng nào. Dao Quang nuôi hai đứa con, cuộc sống vô cùng gian nan. Phu nhân của Hồ Tính Như thư ký chủ nhiệm đệ tam phương diện quân Quốc dân đảng là Chu An Kỳ vốn là bạn của Dao Quang, tỏ ra thông cảm sâu sắc với cảnh ngộ của Dao Quang, nên đã giới thiệu để Dao Quang kết hôn với Lục Cửu Chi, thiếu tướng tham mưu quân đội kiêm Tổng biên tập Cải tạo nhật báo, về sau đã sinh được một con gái. Năm 1971, Trần Khiết Như đã mắc bệnh qua đời ở Hồng Công. Dao Quang được phép đem con về Hồng Công chịu tang mẹ, từ đó định cư tại Hồng Công.
Phần 2
Chương 1
Tưởng Giới Thạch với cô em họ ở bên bờ suối Viêm
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Có một bức tranh biếm họa vẽ người đàn ông và người đàn bà thành công. Bức tranh nói lên: ở đằng sau lưng một người đàn bà thành công chỉ có một cái bóng cô độc của mình, còn ở đằng sau lưng một người đàn ông thành công lại là một lũ người đàn bà, bao gồm cả người đàn bà đã bị ông ta bỏ rơi.Tưởng Giới Thạch là người thành công đó. Mặc dù sự nghiệp mà ông đeo đuổi đã thất bại, thế nhưng ông đã giành giật được quyền lực và của cải khổng lồ. Vậy thì ở đằng sau lưng Tưởng Giới Thạch có bao nhiều người đàn bà?
Trong lịch sử hôn nhân và luyến ái của Tưởng Giới Thạch có một câu chuyện về tình duyên mà ít người biết tới.Tưởng Thụy Nguyên lúc còn niên thiếu, chẳng những cao hơn người một cái đầu trên mặt xử sự với người, hơn thế còn đi trước người một bước trên mặt trai lơ tình tứ. Năm 1899, Tưởng Thụy Nguyên 13 tuổi, đã học tư mấy năm ở quê nhà, hiểu biết được một số lí lẽ, phát ra lời nguyền rằng sẽ đi học để tiến lên, cầu lấy công danh, nổi trội hơn người, để làm vẻ vang cho gia tộc. Nhìn thấy con trai có bước tiến dài như vậy, Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc vui mừng hiện ra nét mặt, liền đi tìm kiếm danh sư ở khắp nơi. Không lâu, Vương thị hỏi thăm biết được danh sĩ huyện Thặng (tỉnh Triết giang) là Diêu Tông Nguyên mở trường dạy cho học trò ở Tố Nguyên Đường thuộc thôn Cát Trúc nơi quê hương của mình, liền nhịn nhục khổ sở đưa con về quê để cầu học.Diêu Tông Nguyên là danh sĩ ở nơi đó, việc học có nền móng, dạy dỗ có phương pháp. Tưởng Thụy Nguyên được thày chỉ bảo, chẳng bao lâu đã học xong Thượng Thư rồi đến Đường thi tam bách thủ, trình độ học vấn có bước tiến dài. Thôn Cát Trúc là nơi non xanh nước biếc, phong cảnh tươi đẹp, trúc xanh rợp rúi.
Một hôm, Diêu tiên sinh lấy trúc làm đầu đề bắt Tưởng đọc bài. Tưởng Thụy Nguyên liền làm một về đối vịnh trúc. Về trên là: Nhất vọng sơn đa trúc về dưới là: Năng sinh hạ nhật hàn, (nghĩa là: Thoáng nhìn trúc rợp núi, Tỏa lạnh những ngày hè.) Diêu Tông Nguyên vô cùng hài lòng, nói với mọi người Nếu giáo dưỡng có phương pháp, thì tiền đồ không thể có hạn lượng.
Thế rồi, chẳng bao lâu tính ngang ngạnh của Tưởng Thụy Nguyên bộc lộ, bởi đùa nghịch với ngựa nên bị ngựa cắn thành thương, để rồi kết tụ thành một huyết án.Sang năm sau, Vương thị không yên tâm để cho con đi học xa nhà, liền tìm được một vị giáo viên tư thục có danh tiếng để dạy cho Tưởng Thụy Nguyên ở thôn Du Lâm gần Khê Khẩu. Tức thi Tưởng Thụy Nguyên liền học được Tả truyện và Kinh Dịch ở Mao Phượng Mỹ. Kể từ khi Tưởng Thụy Nguyên tới Du Lâm học. Bà mẹ là Vương Thị người ở Khê Khẩu, miệng đọc kinh Phật, trong lòng nhưng chỉ lo lắng cho đứa con trai bướng bỉnh, chỉ sợ nó nhất thời bột phát nết cũ, lại gây ra sự việc gì rắc rối.Quả nhiên, chưa được bao lâu, những lời ong tiếng ve có liên quan tới Tưởng Thụy Nguyên từ thôn Nham Đầu gần thân Du Lâm truyền tới: Có một đứa trẻ con 14 tuổi cứ nằng nặc đòi lấy cô em họ là Mao A Xuân làm vợ !
Vốn dĩ, Mao A Xuân là con gái của người em gái họ Tưởng Trại Phượng của Tưởng Triệu Thông, với Mao Phượng Dương ở thôn Nham Đầu sinh ra. Mao Phương Dương đã bị bệnh chết sớm, để lại mẹ góa con côi. Do vì luống tuổi chồng chết, cảnh nhà tàn lụi, Tưởng Trại Phượng thường đem A Xuân về Khê Khẩu cư trú. Vương Thái Ngọc với cô em họ này cùng cảnh ngộ nên thương nhau, thường lại qua thăm hỏi, do đó Tưởng Thụy Nguyên có dịp được gặp mặt Mao A Xuân. A Xuân tính cách cởi mở, dung nhan xinh đẹp, tuổi cũng xấp xỉ với Thụy Nguyên. Hai người cùng chơi thanh mai trúc mã rất quyến luyến hòa vui. Sau khi Tưởng Thụy Nguyên tới thôn Du Lâm học tập, mỗi khi gặp ngày nghỉ, thường tới thôn Nham Đầu thăm bà cô họ, điều chủ yếu là để tìm A Xuân để đùa chơi. Lúc thoạt đầu, Tưởng Trại Phượng nhìn thấy đứa cháu họ thường tới chơi, chứng tỏ rằng nhà đằng mình cũng có người học hành, mét mặt cũng vui vẻ, càng nhiệt tình khoản đãi. Ai biết được, một qua hai lại, trong lòng đôi trai gái trẻ con này, đã nhú mọc một mầm non thương yêu lẫn nhau. Tưởng Thụy Nguyên đã có tình ý với A Xuân, trong lúc trò truyện không tránh khỏi để lộ ra những tình cảm si mê ngây dại. Người anh họ của Tưởng mẫu Vương thị là Trần Xuân Tuyền, có người cháu là Trần Viền Ly cùng học với Tưởng Thụy Nguyên, hai người cùng ngồi học một bàn, cùng ngủ một giường, cùng ăn một mâm, rất thân mật với nhau. Trần Viễn Ly thấy Tưởng Thụy Nguyên lúc nào cũng nói tới A Xuân, kể tới A Xuân, tinh thần hoảng hốt, liền nói đùa rằng.
- Nè A Nguyên, chú đối với A Xuân tốt như vậy, thì cứ cưới béng về làm vợ cho xong!
Tới lúc này Tưởng Thụy Nguyên chẳng còn giấu diếm, không những không tỏ ra chút nào e lệ thẹn thùng, trái lại đã nghiêm sắc mặt trả lời:
- Lấy vợ thì phải có người làm mối chứ, anh có thể làm mối được không?
Một câu hỏi làm cho Trần Viễn Ly không biết trả lời sao. Từ đó, tin đồn Thụy Nguyên muốn lấy A Xuân làm vợ đã không cánh mà bay...Thoạt nghe thấy lời đồng đại từ thôn Nham Đầu truyền tới, Vương Thái Ngọc xấu hổ tới mức không có lỗ để chui xuống đất, bà nghĩ: Con trai mình đã bậy bạ như vậy, lại không cố gắng vươn lên, chẳng phải là sẽ để cho họ hàng làng xóm chê cười sỉ nhục cho hay sao? Ngược lại là bà mẹ của Vương Thái Ngọc là Diêu thị tương đối thông suốt, bà cụ khuyên con gái dứt khoát tới nhà họ Mao dạm hỏi rồi cưới lấy A Xuân về; như vậy, vừa có thể dập tắt được nghị luận ở bên ngoài, lại vừa có thể khoác lên đầu con ngựa rừng bé nhỏ bất kham này một cái rọ, quả thực là một việc tốt nhất cử lưỡng đắc.
Vương Thái Ngọc vừa nghe đã thấy mẹ nói có lí, bỗng chuyển giận thành vui, lập tức hành động ngay, gấp rút khua chuông gióng trống, chuẩn bị mối manh, trù biện sính lễ, chọn ngày lành tháng tốt tới nhà Tưởng Trại Phương ở Nham Đầu để ăn hỏi.Thế nhưng hành động dạm hỏi vợ cho con trai của phía nhà bà Vương Thái Ngọc chỉ là công việc của một phía. Không lâu, người mối được Vương thị sai tới Nham Đầu dạm hỏi đã uể oải, rệu rã trở về. Thì ra là Tưởng Trại Phương mẹ góa con côi, sợ nhất là người ta đồn đại dị nghị con gái mình đã vụng trộm tư tình. Bà ta vừa nghe thấy Thụy Nguyên và A Xuân có chuyện như thế, liền hầm hầm tức giận, trước hết mắng nhiếc dạy dỗ con gái một hồi, bắt nó từ rày tuyệt đối không được phép tiếp cận với tên khốn kiếp ấy nữa. Sau đó bà ngồi chờ Tưởng Thụy Nguyên tới cửa, chuẩn bị chửi rủa làm cho tên vô lại nhục nhã một trận. May mà do những sai sót bất ngờ, Tưởng Thụy Nguyên không tới cửa, người lao đầu vào cửa lại là người mối do Vương Thái Ngọc sai đến. Tưởng Trai Phượng đang bực tức đầy đầu bà không những từ chối thẳng thừng, còn nham hiểm nói với người mối:
- Bà ấy cũng thật là ác nghiệt! Đứa con vô lại chẳng chịu phấn đấu vươn lên như vậy mà chẳng chịu trông nom dạy dỗ, mà lại còn đi chiều theo ý nó tới cầu thân. Sau này nó biến thành đứa con phá gia có hối khóc cũng chẳng kịp. Dù cho tôi có mười đứa con gái, tôi cũng chẳng thèm gả cho loại ấy. Hãy để cho nó chết già đi !
Vương Thái Ngọc dạm hỏi chẳng thành, lại còn bị Tưởng Trại Phượng chửi rủa, trong lòng rất không yên. May mà bà là người tụng kinh niệm phật, vạn sự đều bắt đầu từ một chữ nhẫn, liền đem nỗi bực tức này nuốt sâu vào trong bụng, lặng lẽ phát ra lời thề nguyền: Nhất định sẽ chọn một người con dâu xứng đáng cho con trai ! Đối với chàng thiếu niên Tưởng Thụy Nguyên mà nói tình yêu giữa chàng và A Xuân tuy đã vấp phải kết cục gậy đánh đôi uyên ương hai đầu tan tác, thế nhưng đó chẳng qua chỉ là một mối tình thuần khiết, ấu trĩ, khờ dại lúc thiếu niên... Loại tình yêu chân thật, thuần khiết, thoáng nở thoáng tàn, chơi bời với nhau từ thuở bé thơ như thế này, e rằng không thể tìm thấy nữa trên con đường phát lên sau này của Tưởng Giới Thạch.