[center:4323b18f50]6. Đoàn Thị Điểm[/center:4323b18f50]
Hiệu Hồng Hà Nữ Sĩ. Sang năm Ất DẬu (1705) niên hiệu CHính Hòa triều Lê Hi Tông (16776-1705). Con gái Đoàn Doãn Nghi, em gái Đoàn Doãn Luân. Người làng Giai Phạm, sau đổi là Hiếu Phạm, huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc (tỉnh Hưng Yên). Cha anh đều là nho sĩ có uy danh trong trấn.
Từ thuở bé, nữ sĩ đã nổi tiếng là thông minh, kinh sử chỉ xem qua là thuộc. Lớn lên cùng anh thường so tài bút mực, không bao giờ nữ sĩ chịu thua. Một hôm nữ sĩ ngồi trang điểm bên gương, ông Luân đứng rửa mặt nơi bể nước, đọc bỡn một câu:
- Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.
Nghĩa là: Đối kính vẽ mày, một nét (điểm) trở thành hai nét (điểm).
Không nghĩ ngợi, nữ sĩ đối ngay:
- Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.
Nghĩa là: Xuống ao ngắm nguyệt, một vầng (luân) hóa đến hai vầng (luân).
Tiếng nữ sĩ bay xa.
Ở Thăng Long lúc bấy giờ có bốn tay hay chữ là Nguyễn Huy Kỳ, Trần Danh Tân, Nguyên Bá Lân, Vũ Toại, đời xưng là Trường An Tứ Hổ, nghe danh nữ sĩ, bèn rủ nhau đến thử tài. Nữ sĩ bèn xuất đối:
- Đình tiền thiếu nữ động tân lang.
Đó là một câu tức cảnh: nhân trong vườn có mây cây cau bị gió nhẹ lay tàu, nữ sĩ bèn dùng chữ "thiếu nữ" vừa có nghĩa là gió vừa có nghĩa là cô gái nhỏ, chữ "tân lang" là cây cau đồng âm với chữ "tân lang" là chàng rể mới. Vế đối vừa có nghĩa: "Trước sân gió thổi lay động hàng cau", vừa có nghĩa: "Trước sân cô em nhỏ làm kinh động chàng rể mới". Vì thiếu cảnh gợi hứng, bốn "con hổ đất TRàng An" đành chịu xấu hổ trở về.
Một nhân vật có danh vọng lúc bấy giờ là Nguyễn Công Hãng, một hôm gặp nữ sĩ ở ngoài đường một mình, liền bảo thích thực hai chữ Độc Hành nghĩa là "đi một mình". Nữ sĩ liền ứng khẩu:
Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu
Truy tùy tả hữu cổ quăng thần.
Nghĩa là:
Bàn luận cổ kim, ruột gan ấy bạn,
Theo hầu tả hữu, vai vế là tôi.
Nguyễn công khen ngợi, mời về nhà thưởng cho 10 quan tiền.
Giám sĩ làng Nhân Mục ở phía tây thành Thăng Long là ĐẶng Trần Côn mộ tiếng nữ sĩ, làm một bài thơ đưa đến xin được diện kiến. Nữ sĩ xem rồi trả lại và nói:
- Học chưa được lăm chữ mà cũng khoe tài.
Đặng Trần Công xấu hổ về đóng cửa, quyết chí "mài sắt cho nên kim". Kinh thành lúc bấy giờ có lệnh cấm hỏa ban đêm, họ Đặng phải đào hầm dưới đất để thắp đèn đọc sách, làm văn. Sau trở nên hay chữ nổi tiếng. Để bày tỏ sức học và tài văn, họ ĐẶng soạn quyển Chinh phụ ngâm bằng Hán văn được truyền tụng.
Hồng Hà Nữ Sĩ kén chồng rất kỹ. Tuổi đã ngoài đôi mươi mà vẫn còn ở cùng cha mẹ. Lúc nữ sĩ được 25 tuổi thì cha mất, nữ sĩ cùng mẹ và gia đình anh dời nhà đến làng Võ Ngại, huyện Đường Hào. Được ít lâu anh mất, để lại một đàn con nhỏ. Một mình nữ sĩ vừa dạy học vừa làm thuốc, để lấy tiền nuôi mẹ và giúp chị dâu nuôi con. Nhiều nhà giàu có, sang trọng đến hỏi, nhưng không có nơi nào xứng đôi. Mãi đến năm 37 tuổi, nữ sĩ mới gá duyên cùng ông Nguyễn Kiều. Họ Nguyễn là bậc tài hoa nổi tiếng, đậu tiến sĩ, lúc bấy giờ làm Thị lang tại triều. Tuổi đã 47 vừa góa vợ. Năm ấy là Nhâm Túat, niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê Hiển Tông (1742).
Nữ sĩ về nhà chồng chưa được một tháng thì Nguyễn Kiều p hụng mệnh sang sứ Trung Hoa. BÀ ở nhà coi sóc gia sự, xem con chồng như con đẻ, dạy dỗ bậc cha thầy. Ngót 3 năm ông Kiều mới về (1745). Được triều đình thăng thưởng và cho về nhà nghỉ ngơi. Từ ấy vợ chồng sum họp, hết lòng yêu quí nhau và đãi nhau như khách. Những lúc nhàn rỗi, thường cùng nhau xướng họa, văn chương được truyền tụng khắp nơi.
Năm Mậu Thìn (1748), Nguyễn Kiều được lệnh vào làm Tham Thị trấn Nghệ An. Có linh cảm rằng mình đi không lợi, nhưng bị ép, nữ sĩ phải theo chồng. Bị cảm mạo dọc đường, đến Nghệ An thì bệnh trở nặng, thuốc thang không bớt. Nữ sĩ từ trần ngày 11 tháng 9 năm Mậu Thìn (1748), hưởng dương 44 tuổi.
Tác phẩm còn để lại:
- Truyền Kỳ Tân Phổ bằng Hán văn, chép những chuyện hoang đường của nước ta, tiếp theo tập Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Du.
- Bản dịch Chinh Phụ Ngâm của ĐẶng Trần Công ra Song Thất Lục Bát.
Tập Truyền Kỳ TÂn Phổ, phần quan trọng không phải ở nơi câu chuyện mà chính ở phần Thơ, vì câu chuyện là chuyện hoang đường mà được thuật lại, thơ mới là do Hồng Hà Nữ Sĩ sáng tác để mượn nhân vật trong câu chuyện nói dùm lên nỗi lòng u uẩn của mình.
Thơ rất hay, và toàn theo thể Đường luận. Xin trích dẫn đôi bài:
Hà Xứ Thị Tiên Hương
Lưu thủy phù vân lưỡng diếu mang
Bất tri hà xứ thị tiên hương?
Hư truyền Bồng ĐẢo kiền khôn biệt
Lãng thuyết Đào Nguyên nhật nguyệt trường
Sở Quán Bạc Tử hoàn mộng huyễn
Thiên Thai Lạc Phố tổng hoang đường
Đương niên Tần Hán thành hả sự
Cô trùng hàn lăng chỉ tịch dương.
Nghĩa là:
Mây trôi nước chảy mịt mờ
Làng tiên ai biết bây giờ nơi nao?
Non Bồng cảnh sắc chiêm bao
Năm dài tháng rộng Động Đào chuyện không
Chùa Bạc Hậu quán Vu Phong
Thiên Thai Lạc Phố cũng trong hoang đường
Ra gì mà đế mà vương
Gò côi lăng lạnh riêng nương bóng chiều.
Hoài Xuân
Dương liễu tùy phong đáo thượng phương
Thiên gian xuy hạ phấn chi vương
Sơ sơ sơn tảo thanh mi dạm
Nhiễu nhiễu vân thâu thúy mính trường
Nhan mạo dã ưng đăng tử các
Phong lưu chỉ hiệp phối tài lang
Hà đương tịch mịch thư song tịch
Lưu bạn thanh quang tứ bửu phương.
Nghĩa là:
Gió liễu phương trời tha thướt bay
Phấn son son Nhược thổi về đây
Mày in nét đạm xa xa núi
Tóc trải làn xanh dợn dợn mây
Những ước mặt hoa lồng gác tía
Mà đem giá ngọc chuốt tài hay
Tình riêng vắng vẻ song đèn sách
Cầm bóng thanh quang bạn tháng ngày.
Tập Truyền Kỳ Tân Phổ chắc là nữ sĩ đã sáng tác trong lúc chồng sang sứ Trung Hoa. Hầu hết những bài thơ trong tập đều diễn tả niềm nhớ thương mong đợi của tài tử giai nhân.
Còn bản dịch Chinh Phụ Ngâm còn ở trong chỗ nghi vấn.
+ Có người bảo rằng Chinh Phụ Ngâm do bà Nguyễn Thị Điểm dịch chớ không phải bà Đoàn Thị Điểm.
Nguyễn Thị Điểm sanh vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVII, niên hiệu Chính Hòa (1680-1705), triều Lê Hi Tông. Anh bà là Nguyễn Trác Luân, làm ngự sử sau làm Đốc Trấn. Đặng Trần Côn làm quan dưới quyền ông Luân. Do đó mà bà diễn Nôm Chinh Phụ Ngâm của họ Đặng.
Trong gia phả họ Đoàn chỉ ghi bộ Truyền Kỳ Tân Phổ mà không nói đến chuyện dịch Chinh Phụ Ngâm.
Trong Nữ lưu Văn học sử của Sở Cuồng Lê Dư, soạn giả lại nói rằng: "vì bà ưng Nguyễn Kiều nên đổi họ Đoàn làm họ Nguyễn". Và lại nói: "Lúc bà tuổi đã bảy mươi hãy còn qua lại nơi kinh ấp, mở trường dạy học trò, thành đạt được vài mươi người".
Ông Sở Cuồng đã nhập bà Đoàn và bà Nguyễn làm một.
Bà Đoàn sanh sau bà Nguyễn phỏng mười năm, và bà Đoàn mất ở Nghệ An, lúc 44 tuổi, còn bà Nguyễn sống đến trên 80 tuổi và lúc 78 tuổi còn ra giảng sách ở Kinh đô.
Hai bà có nhiều điểm giống nhau:
- Tên đã trùng mà tên người anh cũng trùng.
- Cũng đều hay chữ nổi tiếng, và cũng đều có dạy học.
- Cũng đều sống thời vua Lê chúa Trịnh.
Chỉ khác nhau ở những điểm:
- Bên họ Nguyên bên họ Đoàn,
- Chữ lót của hai ông anh khác nhau, một bên là Nguyễn Trác Luân, một bên là Đoàn Doãn Luân, và ông Luân họ Nguyễn làm quan đến Đốc Trấn, ông Luân họ Đoàn chỉ là giám sinh và mất trước khi bà Đoàn có chồng.
- Bà Đoàn mệnh yểu. Bà Nguyễn lên đến thượng thọ.
Nhưng chưa tìm được tài liệu chính xác để minh định bà nào là dịch giả Chinh Phụ Ngâm.
+ Phần đông các nhà viết văn học sử đều công nhân rằng bà Đoàn Thị Điểm có dịch Chinh Phụ Ngâm. Bản Chinh Phụ Ngâm quốc âm được lưu hành ngoài dân gian và được đem làm sách học ở học đường trong nước từ trước đến giờ, được coi là sản phẩm của bà Đoàn Thị Điểm. Nhưng gần đây, giáo sư Hoàng Xuân Hãn tìm được đến 5 bản dịch Chinh Phụ Ngâm và bảo rằng bản lưu hành bấy nay là của Phan Uy Ích, còn bản của bà Đoàn chưa xác định là bản nào.
+ Các nhà học giả nói gì thì nói, phần đông người yêu văn chương vẫn công nhận bà Đoàn Thị Điểm là dịch giả Chinh Phụ Ngâm đã được lưu hành rộng rãi lâu nay, bản khởi đầu bằng những câu:
Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy...
Nguyên nhân dịch Chinh Phụ có hai:
- Nhớ đến lời khích khí của bà mà họ Đặng cố gắng đến thành tài.
- Mượn lời người chinh phụ nhớ chồng để gởi gắm nỗi lòng của bà đối với ông Nguyễn Kiều đi sứ Trung Quốc.
Tập Chinh Phụ Ngâm của ĐẶng Trần Côn sáng tác theo lối tập cổ. Phần lớn các câu trong tập đều lấy ý hoặc phỏng theo thơ cổ của Trung Quốc để diễn tả nỗi lòng của mình đối với thời cuộc. Phan Huy Ích nói về nguyên nhân sáng tác Chinh Phụ Ngâm: "Vì đầu thời Cảnh Hưng xảy việc binh đao, cảnh biệt ly của người đi chinh thú khiến Đặng Trần Côn cảm xúc mà làm ra khúc ngâm". Nhờ có cảm xúc hiệp với học thức tài năng mới tạo nên một áng văn chương cao giá.
Bà Đoàn Thị Điểm nếu không có sẵn nỗi thương nhớ trong lòng, thì dù tài đến đâu, học đến đâu cũng không thể có được những vần thơ có sức truyền cảm dồi dào như:
Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông nhau đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc phơi hằn núi xanh.
Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng...
CÀng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngát một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
v.v....
Cái uy danh và công phu tìm kiếm của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã làm cho một số học giả tin theo lời Giáo sư họ Hoàng mà quả quyết rằng bản Chinh Phụ Ngâm diễn ca truyền tụng bấy nay là của Phan Huy Ích. Một số khác vẫn theo truyền thuyết cũ và bảo rằng văn Nôm họ Phan còn truyền thế vị nhạt chất khô, không thể nào có được những lời êm dịu xinh tươi. Họ Phan là một bậc hay chữ chớ không phải làm thơ vì cảm xúc, cho nên không rung cảm người đọc. Ông cũng dùng tài học mà dịch Chinh Phụ Ngâm, dịch vì "thấy bản dịch cũ không diễn được hết tinh túy của nguyên tác". Nghĩa là ông dịch bằng trí chớ không phải bằng tâm, không phải vì cảm xúc mà dịch. Cho nên chắc chắn bản dịch của Phan Huy Ích không phải bản truyền tụng xưa nay.
Chúng tôi vẫn tin rằng Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm là dịch giả bản CHinh Phụ Ngâm mà phần đông chúng tôi đã đọc và đã thuộc nhiều đoạn.
|