Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 15-02-2003   #1
Ảnh thế thân của Khôi Vĩ Dâm Thần
Khôi Vĩ Dâm Thần
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 19-10-2002
Bài viết: 37
Điểm: 7
L$B: 7.412
Khôi Vĩ Dâm Thần đang offline
 
Xin chào tất cả,

Tam Thập Lục Kế được chép lại từ cuốn Tam Tập Lục Kế, NXB Long An, tác giả Trọng Tâm.

[center:3805652e75]Tam Thập Lục Kế [/center:3805652e75]

1. Dương đông kích tây (Đánh lạc hướng đối phương)
Kế "Dương đông kích tây" là reo hò giả vờ như thật sự đánh vào phía đông, nhưng chủ yếu lại đánh vào phía tâỵ

Trong tất cả mọi vấn đề của xã hội, từ chiến trường, thương trường, chính trường cho đến tình trường; nếu muốn điều này nhưng lại giả làm điều kia, nói điều này mà làm điều nọ, ấy là "Dương đông kích tây" vậỵ

Kế này mờ ảo vô song. Nó rất khó biết, khó đoán, bị đánh bất ngờ. Kế này nhằm chuyển mục tiêu để lừa dối đối phương, khiến cho địch sơ ý, lừa lúc bất ý tấn công kẻ không chuẩn bị.

Có nhiều cách thức để thực hiện kế này, như:

- Tạo tin đồn. - Làm rối tai rối mắt địch. - Buộc đối phương lo nhiều mặt. - Mê hoặc ý chí của địch. - Nghi binh. - Làm phân tán lực lượng đối phương. - Làm yếu lực lượng đối phương, lực lượng phòng vệ địch.
Nguyên tắc của " Dương đông kích tây" là bí mật và chủ động. Bị động coi như phải chịu sự khống chế của địch.

Điều kỵ khi dùng kế " Dương đông kích tây" là để lộ cơ.

Lộ cơ là mất hết khả năng phòng bị, chuẩn bị. Dù là trên chiến trường, thương trường hay chính trường cũng đều phải giữ bí mật và nắm được thế chủ động.


2. Điệu hổ ly sơn (Dụ hổ ra khỏi rừng)
Kế "Điệu hổ ly sơn" là nhử, dụ hay khuấy động làm cho con hổ ra khỏi rừng.

Kế "Điệu hổ ly sơn" có hai lối: Một là nhử hổ ra khỏi rừng để dễ dàng giết hổ. Hai là đuổi hổ đi để dễ bắt giết những loại hồ ly vẫn dựa oai hổ mà hoành hành.


3. Nhất tiễn hạ song điêu (Một mũi tên hạ hai con chim)
Kế "Nhất tiễn song điêu" là dùng một mũi tên bắn chết hai con chim.
Ý của mưu kế này là dùng sức lực tối thiểu để đạt đến hiệu quả tối đa.

4. Minh tri cố muội (Biết rõ mà làm như không biết)
Kế "Minh tri cố muội" là biết thật rõ chuyện đấy, nhưng làm ra vẻ không biết gì.

Với người xưa, đây là một triết lý xử thế rất cao, mục đích lại ẩn trốn tất cả những tiếng thị phi nghi hoặc, nhưng theo nghĩa mưu kế, nó là một thái độ thâm sâu.

Cái đức của người quân tử không thể không cho thiên hạ biết, nhưng cái mưu kế của trượng phu không thể không giấu thiên hạ.

Tóm lại, biết rất nhiều mà tỏ ra không biết một là kế "Minh tri cố muội" vậỵ

5. Du long chuyển phượng (Biến rồng thành phượng)
Kế "Du long chuyển phượng" là biến cái này thành cái kia, bên trong là hình rồng đó, nhưng làm cho nó trở thành phượng.

Cái kế này rất phổ biến, trong dân gian ta gọi là "Treo đầu dê, bán thịt chó".

6. Mỹ nhân kế (Kế dùng gái đẹp)
"Mỹ nhân kế" là dùng gái đẹp để làm xoay chuyển, thay đổi tình thế mà những cái khác không thể thực hiện được.

Giai nhân từ ngàn xưa đến nay bao giờ cũng là đề tài chính. Tuy là phái yếu, không thể vác gươm đao mà đánh giặc, nhưng các nàng có thể thắng được bằng đôi mắt biếc và nụ cười xinh đẹp.

Có những bức thành kiên cố cả mười vạn quân không hạ nổi, nhưng nó có thể bị sụp đổ bởi ánh mắt mỹ nhân.

Sức mạnh của mỹ nhân đặc biệt là có ảnh hưởng đối với người anh hùng, người có quyền thế.

7. Sấn hỏa đả kiếp (Theo lửa mà hành động)
Kế "Sấn hỏa đả kiếp" là lợi dụng lúc loạn để thao túng, lúc tình hình rối ren mà sắp xếp theo ý muốn.
Có hai loại "Sấn hỏa đả kiếp": Một là theo lửa để mà đánh cướp. Hai là chính ta phóng hỏa mà đánh cướp.
Theo lửa tức là thừa lúc người ở trong cơn nguy biến mà ta quấy hỗn loạn thêm.

Phóng hỏa tức là chính ta gây ra sự hỗn loạn mà thực hiện theo ý muốn của ta.

Theo lửa hay phóng hỏa cùng đi chung vào một mục đích là đánh địch và đoạt của địch để tạo cơ hội cho ta.

Theo lửa thì dựa vào thời cơ sẵn có.
Phóng hỏa thì tự ta tạo ra thời cơ.

Không thể phê phán theo lửa hay phóng hỏa, cái nào hay, cái nào dở, cái nào tốt, cái nào xấu, vì cả hai giống như một sự biến ảo giữa không khí và nước.

Trong sử sách, người ta thấy tay phóng hỏa giỏi là Trương Nghi. Một mình Trương Nghi đã phá tan thế hợp tung bằng cách dối Tề, lừa Triệu, dọa Ngụy, thuyết Yên, bịp Sở.

Trương Nghi thật là con người có cái lưỡi bằng lửa thiêu đốt cả sáu nước, dựng thành cơ nghiệp thống nhất cho nhà Tần.

Khổng Minh tuy là một nhà chính trị lỗi lạc tài tình, nhưng cái thế của ông ngay từ đầu chỉ là cái thế phải theo lửa để gây vốn: Lưu Bị bị Tào Tháo đánh chạy đến cùng đường, Khổng Minh đành tính kế nương nhờ Tôn Quyền rồi ăn theo cuộc chiến tranh Nam - Bắc, ăn theo trận Xích Bích để cướp Kinh Châu.

"Sấn hỏa đả kiếp" đòi hỏi một khả năng hành động mau lẹ như con ó bắt mồi.

8. Vô trung sinh hữu (Không có mà làm thành có)
Kế "Vô trung sinh hữu" là từ không mà tạo thành có.

Thiên hạ không loạn, trật tự không rối thì làm gì có anh hào xuất lộ! Bởi lẽ đó, những anh hào thường được gọi là kẻ "chọc trời khuấy nước". Mục đích của khuấy nước là làm rối beng sự việc lên để dễ bề thao túng. Thủ đoạn của khuấy nước là gây tiếng tăm, tung tiếng đồn, gây xáo trộn rồi dựa vào đó mà thủ lợi.

Kế "Vô trung sinh hữu" hình dung là tu hú đẻ nhờ, tổ thì chim khác làm, nhưng con tu hú cứ đến đặt trứng của nó vào đó, rồi lại nhờ loài chim khác ấp trứng luôn, khi trứng nở thành chim, tu hú con bay về với bầy tu hú.

9. Tiên phát chế nhân (Ra tay trước để chế phục đối phương)
"Tiên phát chế nhân" là ra tay trước để dành chiếm ưu thế, để đoạt lợi, để bắt lấy sự chiến thắng.

Kế "Tiên phát chế nhân" là không nói quá xa, viễn vông, mà phải nhìn vào thực tế gần nhất.

Các vụ xảy ra trong lịch sử như: Lý Thế Dân tại Huyền Vũ Môn, Võ Tắc Thiên phế lập Lư Lăng Vương, Ung Chính cướp Bảo Tòa, Từ Hi độc sát Quang Tự, Gia Cát Lượng lấy đất Quang Trung... Tất cả đều là áp dụng thủ đoạn "chớp nhoáng" không cho địch kịp trở tay, không cho dư luận phản ứng kịp.

Vẫn có câu "Tiên hạ thủ vi cường" là vậỵ

10. Đả thảo kinh xà (Đập cỏ làm cho rắn sợ)
Kế "Đả thảo kinh xà" là đập vào cỏ, làm động cho rắn sợ.

11. Tá đao sát nhân (Mượn đao để giết người)
Kế "Tá đao sát nhân" là mượn dao để giết người, mượn tay người khác để giết kẻ thù của mình.
Ngạn ngữ Trung Quốc có câu: “Sát nhân bất kiến huyết, kiến huyết phi anh hùng”. (Giết người không thấy máu, thấy máu không anh hùng).

Trên đời dĩ nhiên chưa có kẻ nào chỉ giết người mà thành anh hùng, nhưng cũng hiếm có tay anh hùng nào không giết người. Điểm khác nhau không ở có hay không, mà ở chỗ thông minh hay ngu xuẩn. Tào Tháo mượn Lưu Biểu giết Nễ Hành, mượn lòng quân giết Dương Tu rồi lại được làm cái việc mèo già khóc chuột, thật đáng kể là một tay thông minh, gian hùng.

12. Di thể giá họa (Dùng vật gì để vu khống người ta)
Kế "Di thể giá họa" là đem xác chết hay đồ vật gì bỏ vào nhà người khác để giá họa.

Kế này thường được dùng bởi khối óc quỷ quyệt thông minh, tự mình không ra mặt mà làm cho đối phương bị hại. Như vậy gọi là "giết người không thấy máu".

13. Khích tướng kế (Kế chọc giận tướng giặc)
"Khích tướng kế" là kế chọc giận tướng giặc, làm tướng giặc nổi giận. Nổi giận sẽ mất sáng suốt, thiếu suy nghĩ, không tự chủ được con người mình.

Mạnh Tử nói: "Nhất nộ nhi an thiên hạ".

Trong đời có nhiều sự việc được thành tựu bằng một cơn giận và cũng có nhiều việc thất bại bởi một cơn giận.

Bởi vậy cái kế khích tướng cũng là một trong những diệu kế, nếu đạt ra thì kiến thiên hạ, cùng thì mang họa vào thân.

Khích tướng còn là khơi dậy cái hùng khí của người khác để người ấy làm việc cho ta.

Đối tượng tốt nhất của kế khích tướng là những người có tính tình bạo tháo hay sẵn sàng phẫn nộ.

Tuân Tử bảo rằng: “Lời nói khéo êm như lụa, lời nói ác nhọn như giáo mác”.

Thuyết là tiến dẫn lời nói, cái nghĩa căn bản của thuyết làm cho người ta nghe theo. Hiệu quả của thuyết rất lớn. Bởi thế mới có câu: "Thiên hạ tĩnh, nhất ngôn sử chi động. Thiên hạ động, nhất ngôn sử chi tĩnh". (Thiên hạ đang yên lặng, một lời nói làm náo loạn. Thiên hạ đang náo loạn, một lời nói làm lắng dịu).

Căn bản mưu thuật của thuyết, theo Tuân Tử có bốn điều: Cơ, dũng, trí, biến.

- Cơ: Là xem thời độ thế, nhân lợi thuận tiện.
- Dũng: Là quyết đoán nói những điều không ai dám nói.
- Trí: Là biết rõ sự tình, tâm lý, giải quyết được thắc mắc, chế phục được người.
- Biến: Là biến hóa, trong các trường hợp bất trắc.

Mục đích của thuyết có năm điều:

- Làm cho người hiểu rõ.
- Làm cho người tin tưởng.
- Làm cho người đồng tình.
- Làm cho người phục.
- Làm cho người theo.

Đạt được năm mục đích trên thì kể như nắm chắc phần thắng trong tay.

14. Man thiên quá hải (Lợi dụng sương mù để lẩn trốn)
Kế "Man thiên quá hải" là lợi dụng lúc trời sương mù mà lẩn trốn, vượt qua hay hành động ngay trong lúc sương mù.

Man thiên, trời u ám không phải hoàn cảnh hoàn toàn bất lợi như một quẻ trong Dịch lý đã nói. Man thiên, không thể ngồi đợi nó tới như sương mù do thời tiết thiên nhiên, mà phải tạo ra nó.

Kế "Man thiên" đem áp dụng thực hiện được cả hai mặt: tiêu cực lẫn tích cực.

Tích cực là đem ánh sáng đến cho một tình thế mờ mịt.

Tiêu cực là lẩn tránh một tai họa, là lợi dụng cơ hội sơ hở của địch để thoát bí.

Ở trận Xích Bích, Khổng Minh đã giải quyết vấn đề thiếu tên bắn cho các cung thủ bằng cách lấy mười chiếc thuyền lớn chất đầy rơm, đợi lúc trời sương mù, âm thầm đến trại Tào Tháo nổi trống la hét làm như tấn công. Tào sợ ngụy kế, không dám xông ra, chỉ bắn tên như mưa vào các thuyền rơm. Bằng một đêm đánh trống reo hò, không chết một người, Khổng Minh đã lấy được của Tào Tháo cả trăm ngàn mũi tên.

15. Ám độ trần sương (Đi con đường mà không ai nghĩ đến)
Kế "Ám độ trần sương" là bí mật đưa quân qua con đường mà không ai nghĩ rằng ta sẽ đi qua.

Kế này áp dụng giữa lúc hai bên đang đấu tranh, chiến đấu với nhau.

Mỗi bên đều ra sức giấu mục tiêu thật của mình rồi đưa ra mục tiêu giả mà lừa đối phương.

Đây là công việc rất phức tạp, có một quá trình khúc triết. Như "Tôn Tử Binh Pháp" viết: “Việc binh là trá ngụy, có thể mà làm ra vẻ không có thể, dùng đấy mà tỏ ra không dùng, gần giả làm như xa, xa giả làm như gần. Lấy lợi mà dụ, gây rối mà đuổi, thấy khỏe thì tránh. Đầu tiên là làm mọi cách giảm nhược lực đối phương, sau rồi mới tiến hành dự định.

Muốn dụng kế này phải là người có tầm nhìn xa hiểu rộng và một khối óc tuyệt vời.

16. Phản khách vi chủ (Đổi vị khách thành vị chủ)
Kế "Phản khách vi chủ" là đổi địa vị khách thành địa vị chủ.

"Phản khách vi chủ" là trong đấu tranh đang ở vào thế bị động nên phải tìm kế hoạch đến chủ động, khách vốn là địa vị bị chi phối, mọi việc đều do chủ đặt định sắp xếp.

"Phản khách vi chủ" là nguyên tắc thường dùng trong đấu tranh. Có chủ động mới khống chế được cục diện. Không có chủ động, không thể thắng lợi.

17. Kim thiền thoát xác (Ve sầu vàng lột xác)
"Kim thiền thoát xác” là con ve sầu vàng lột xác.

Kế này dùng cho lúc nguy cấp, tính chuyện ngụy trang một hình tượng để lừa dối, che mắt đối phương, đặng đào tẩu chờ một cơ hội khác.

Kế "Kim thiền thoát xác" có một phạm vi rất rộng rãi và phổ biến, bất cứ ai ở hoàn cảnh nào cũng có thể sử dụng được.

18. Không thành kế (Kế bỏ trống cửa thành)
"Không thành kế" là kế bỏ thành trống, thành bỏ ngỏ.

Kế này có hai loại:

- Một là lúc tình thế cực khẩn cấp, nguy hiểm như treo trên sợi tóc, buộc phải dùng nghi binh để lừa dối đối phương mà dựa vào đó để trốn thoát.

- Hai là rút lui với đầy đủ kế hoạch dụ cho địch quân xâm nhập rồi mới bao vây tiêu diệt.

"Không thành kế" thực ra là một cách tạo nghi âm cho đối phương, mục đích là không cho đối phương sớm có một quyết định.

19. Cầm tặc cầm vương (Dẹp giặc phải bắt tướng giặc)
"Cầm tặc cầm vương" là dẹp giặc phải bắt chúa giặc.

Phương pháp bắt chúa giặc thật thiên biến vạn hóa, không cứ bằng sức mạnh hay bằng trí khôn. Các kế khác như "Điệu hổ ly sơn", "Mỹ nhân kế" hay "Man thiên quá hải" đều có thể dùng cho kế "Cầm tặc cầm vương". Để đối phó với một nhân vật anh hùng, thì dù một quả đạn mà giết hay dùng mỹ nhân kế mà nhử thì cũng như nhau.

Nhưng đa số âm mưu cầm vương được hiệu quả bằng kích thích anh hùng và mỹ nhân kế.

"Tự cổ anh hùng đa hiếu sắc" là vậy.

Việt Vương thua trận rồi, mà chỉ dùng một nàng Tây Thi đã đủ giam cầm Phù Sai. Lý Viên muốn đoạt quyền của Xuân Thân Quân, nên đã cho cô em là Lý Yên sang làm tì thiếp. Đó là những cách gián tiếp để cầm vương.

20. Ban chư ngật hổ (Giả làm con heo để ăn thịt con hổ)
Kế "Ban chư ngật hổ" là giả làm con heo để ăn thịt con hổ.

Lão Tử nói: “Người cực khôn khéo mà làm ra vụng về”, cũng như câu "đại trí nhược ngu". Người đi săn thường học tiếng heo kêu rồi tự giả làm heo để nhử con hổ.

Đối với kẻ thù, ta hãy giả ngu như một con heo, trên bề mặt cái gì cũng thuận chịu, lúc nào cũng cười, lúc nào cũng cung kính để cho địch mất hết nghi âm. Chờ thời cơ chín, tìm thấy chỗ nhược của kẻ thù mà đập đòn sấm sét.

- Dùng việc không gì quan trọng bằng bí mật.
- Hành động không gì quan trọng bằng thừa lúc bất ý.
- Dò xét không gì quan trọng bằng làm cho địch không hay biết.
- Bên ngoài ra vẻ loạn mà bên trong rất có cơ ngũ.
- Tỏ ra đói mệt nhưng thật là no khỏe.
- Làm ra ngu xuẩn nhưng rất tinh tường.

Những câu trên đây chính là căn bản lý luận của kế "Ban chư ngật hổ" vậy.

21. Quá kiều trừu bản (Qua cầu rồi phá cầu)
"Quá kiều trừu bản" là qua cầu rồi thì phá cầu, ý nói một người sau khi đã thành công, muốn hưởng thụ một mình nên giết hại hoặc xa lánh những người bạn đã đồng lao cộng khổ với mình.

Kế "Quá kiều trừu bản" thường trái ngược với kế "Ban chư ngật hổ". Qua cầu cất nhịp là lúc đắc thời đắc thế đem thuộc hạ ra mà khai đạo. Còn giả tiếng heo là kế áp dụng giữa lúc ở vào thế kẹt.

Đứng trên lập trường đạo lý thì cất nhịp cầu là một hành động vong ân bội nghĩa.

Lưu Bang nổi danh là người qua cầu cất nhịp lớn nhất trong lịch sử. Lúc Lưu Bang hàn vi còn đi ăn cắp gà, thôi thì Bang nói đủ các điều ngon ngọt dễ nghe để tựu chúng lập đảng. Đến khi nên cơ nghiệp rồi, lo việc củng cố quyền thế, Lưu Bang chẳng ngại gì hết, đổi lại thái độ, nghi ghét triều thần.

Người thứ nhất mà Lưu Bang lôi chém là Hàn Tín, rồi đến Bành Việt, Anh Bố, bỏ tù Tiêu Hà, Trần Hi, Phàn Khoái.

Trương Lương thấy họa chẳng chóng thì chày cũng đến với mình, nên bỏ trốn lên rừng học đạo tu tiên.

22. Liên hoàn kế (Kế móc nối nhau)
"Liên hoàn kế" là nối liền với nhau thành một dây xích.

"Liên hoàn kế" còn là vận dụng một quyền thuật để tạo phản ứng dây chuyền cho đối phương hoặc gây thành phản ứng nhiều mặt.

Mỹ nhân kế là vũ khí phổ biến nhất cần thiết cho việc dùng "Liên hoàn kế". Vì người đẹp ví như nước, anh hùng ví như bùn, nước làm cho bùn nhão ra.

Từ ngàn xưa, đa số anh hùng đã vì thương hoa tiếc ngọc nên bỏ lãng nhiệm vụ.

Tuy vậy, vẫn phải phân biệt "Mỹ nhân kế" với "Liên hoàn kế".

Liên hoàn kế là một hình ảnh của thực tiễn, bất cứ việc gì xảy ra cũng gây thành phản ứng dây chuyền. Việc xảy ra hôm nay cũng không tự dưng mọc ra, nó phải là kết quả dây chuyền từ những sự việc trước.

23. Dĩ dật đãi lao (Lấy khỏe để đối phó với mệt)
Kế "Dĩ dật đãi lao" là lấy sự thanh thản để đối phó với hấp tấp, nhọc nhằn; dưỡng sức mà đợi kẻ phí sức.

Kế này viết ở trong thiên "Quân Tranh" của bộ "Tôn Tử Binh Pháp": "Lấy gần đợi xa, lấy nhàn đợi mệt" nghĩa là trên chiến thuật phải tìm nắm trước địa vị chủ động để ứng phó với mọi tấn công của địch.

Cũng có ý nói nên chuẩn bị chu đáo, dễ dàng lấy cái thế bình tĩnh xem xét tình hình biến hóa mà quyết định chiến lược, chiến thuật. Đợi địch mỏi mệt, tỏa chiết bớt nhuệ khí rồi mới thừa cơ xuất kích.

Tôn Tử gọi thế là: "Ẩn sâu dưới chín từng đất, hành động trên chín từng trời".

Sử dụng sách lược này đòi hỏi thái độ tuyệt đối trầm tĩnh ứng biến, đo được ý kẻ thù, hoàn cảnh kẻ thù, thực lực kẻ thù. Nếu thời cơ chưa chín thì đứng yên như trái núi. Khi cơ hội vừa tới thì lập tức lấp sông, chuyển bể.

Tư Mã Ý ngăn Gia Cát Lượng ở Kỳ Sơn.
Chu Du phóng hỏa tại Xích Bích.
Tào Tháo đại phá Viên Thiệu nơi Quan Độ.
Tạ Huyền đuổi Bồ Kiên ở Phi Thủy.

Tất cả đều lấy ít đánh nhiều, thế kém vượt thế khỏe. Tất cả đều là kết quả sử dụng tài tình sách lược "Dĩ dật đãi lao".

24. Chỉ tang mạ hòe (Chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe)
"Chỉ tang mạ hòe" là chỉ vào gốc dâu mà mắng cây hòe. Ý nói vì không tiện mắng thẳng mặt nên mượn một sự kiện khác để tỏ thái độ.

25. Lạc tỉnh hạ thạch (Ném đá vào người dưới giếng)
"Lạc tỉnh hạ thạch" là ném đá vào đầu kẻ đã rơi xuống giếng.

Rơi xuống giếng lại còn ném đá vào đầu nạn nhân. Nếu đứng trên quan điểm đạo đức Khổng - Mạnh thì phải là hành động không chính nhân quân tử, nhưng nếu coi là một mưu kế thì hành động này lại là một hành động sáng suốt.

Căn bản triết lý của "Lạc tỉnh hạ thạch" là chi phối được thì mới chiếm đoạt được, và nhân từ với kẻ thù tức là tàn nhẫn với chính ta.

Lưu Bị lúc nào hé miệng cũng nói những điều nhân từ, lúc nào cũng chảy nước mắt, nhưng ông lại là người cũng giỏi thủ đoạn "Lạc tỉnh hạ thạch" nhất.

Chẳng vậy mà khi Lã Bố vốn là người làm nhiều ân huệ đối với Lưu Bị, nào việc bắn kích ở Viên Môn, nào việc cho Lưu Bị nương tựa ở căn cứ mình... Đến lúc Lã Bố bị bắt sau khi thất trận Từ Châu, Tào Tháo trong lòng còn đôi chút thương mến muốn dụ dỗ Lã Bố, Lưu Bị ngại Tào Tháo có thêm một mãnh tướng nữa nên đã ghé tai Tào Tháo mà nhắc khéo: “Ông không nhớ chuyện Đinh Nguyên và Đổng Trác hay sao?” (Đinh Nguyên và Đổng Trác đều nhận Lã Bố làm con nuôi, nhưng đều bị chết vì tay Lã Bố.

Lưu Bị đã không kể đến ơn nghĩa, lại còn đưa đòn độc "Lạc tỉnh hạ thạch" hạ Lã Bố. Như vậy, Lã Bố làm sao khỏi chết!

26. Hư trương thanh thế (Thổi phồng thanh thế)
"Hư trương thanh thế" là thổi phồng thanh thế để cho người ta chóa mắt, nể sợ.

Đời Tam Quốc, Tào Tháo tiến xuống Giang Định, rầm rộ cả trăm vạn hùng quân. Tháo định dùng ưu thế tuyệt đối để buộc Tôn Quyền phải hàng phục. Nhưng Khổng Minh trông thấy âm mưu này nên chỉ ba vạn quân với một số mưu kế và trận gió đông đã đánh bại quân Tào.

Khi sử dụng kế này, trước hết phải xem mục đích và giá trị của nó thế nào đã, rồi mới định cỡ to nhỏ.

27. Phủ để trừu tân (Bớt lửa dưới nồi)
Kế "Phủ để trừu tân" là bớt lửa dưới nồi, ý nghĩa là giải quyết trên căn bản một vấn đề, chủ ý không cho nó phát ra (bớt lửa cho nước khỏi trào).

Khi có một việc đã bùng nổ ra rồi thì tìm cách làm cho nó dịu đi, không để nó tiếp tục ác liệt.

Chỗ diệu dụng kế "Phủ để trừu tân" là không nghe thấy tiếng, không nhìn thấy hình, vô cùng như trời đất, khó hiểu như âm dương, khiến cho kẻ thù rơi vào kế của mình mà họ không biết.

Không kể tình trường, chiến trường hay thương trường, kế "Phủ để trừu tân" lúc nào cũng là kế rất âm độc, lớn mang hiệu quả lớn, nhỏ có hiệu quả nhỏ.

Ở tình trường, anh chàng kém vế thường o bế song thân hoặc anh em của đào, hơn là tấn công chính nàng!
Ở chiến trường, kế "Phủ để trừu tân" lại càng dày đặc, giăng mắc như mạng nhện.

28. Sát kê hách hầu (Giết gà cho khỉ sợ)
"Sát kê hách hầu" nghĩa đen là giết con gà cho con khỉ sợ.

Theo truyền thuyết dân gian, con khỉ rất sợ trông thấy máu, cho nên khi người ta muốn dạy khỉ, trước hết họ giết một con gà, bắt con khỉ nhìn thấy đống máu bê bết rồi mới bắt đầu giáo hóa. Lúc bắt khỉ cũng thế, người ta vặn cổ con gà cho nó kêu lên những tiếng ghê rợn, khiến cho khỉ bủn rủn chân tay thì đến bắt.

"Sát kê hách hầu" có tác dụng lớn, làm cho các vụ mới nở ra trong trứng nước bị rơi vào cảnh bối rối, sợ sệt.

29. Phản gián kế (Dùng kế của đối phương để quật lại)
"Phản gián kế" là dùng người của đối phương lừa dối đối phương, dùng kế địch lừa địch.

Tôn Tử nói: “Biết mình là biết thực lực và nhiệm vụ của mình. Biết người là biết thực lực và ý đồ của địch. Biết mình thì tương đối dễ hơn biết người. Cho nên muốn biết người thì phải dùng gián điệp”.

30. Lý đại đào cương (Đưa cây lý chết thay cây đào)
"Lý đại đào cương" là đưa cây lý chết thay cho cây đào.

Người lớn làm họa, bắt người bé chịu tội thay. Có rất nhiều kẻ tác gian phạm tội lại bắt người khác thế thân.

31. Thuận thủ khiên dương (Thuận tay dắt con dê về)
"Thuận thủ khiên dương" theo nghĩa đen là thuận tay dắt con dê về.

Sự việc trên đời, thiên biến vạn hóa rất kỳ diệu. Phải biết nắm lấy bất cứ cơ hội nào vụt hiện đến trước mắt, đó là những thâu hoạch, những cái lợi bất ngờ.

32. Dục cầm cố tung (Muốn bắt mà lại thả ra)
"Dục cầm cố tung" theo nghĩa đen là muốn bắt cho nên thả ra.
Muốn thực hành kế này, phải có một nhãn quan sâu rộng, một tấm lòng nhẫn nại vô song. Những kẻ cấp công cận lợi không bao giờ có đủ tài trí để thi hành nó.

Kế "Dục cầm cố tung" không thi hành theo cái nghĩa đen của nó. Kế này nói lên sự mềm dẻo cho mọi chính sách, thứ nhất là chính sách thu phục lòng người, giữ người.

33. Khổ nhục kế (Hành hạ thân xác mình để người ta tin)
"Khổ nhục kế" là hành hạ mình, rồi đem cái thân xác bị hành hạ ấy để làm bằng chứng mà tiếp cận với địch để hoàn thành một âm mưu nào đó.

34. Phao bác dẫn ngọc (Ném hòn ngói để thu về hòn ngọc)
"Phao bác dẫn ngọc" nghĩa đen là ném hòn ngói để thu về hòn ngọc. Tức là dùng tiểu vật để đoạt một đại vật, như người đi câu vậy.

Dân gian thường nói "thả con tép bắt con tôm" cũng là kế này.

35. Tá thi hoàn hồn (Mượn xác để hồn về)
"Tá thi hoàn hồn" nghĩa là mượn xác để hồn về.

Ý kế này chỉ rằng: Sau khi đã thất bại, buộc phải lợi dụng một lực lượng nào đó để khởi lên thi hành trở lại chủ trương của mình.

Tuy nhiên, dùng kế này rất dễ đi vào con đường nguy hiểm, nếu sơ xuất thì tỷ như rước voi về giày mả tổ.
Nếu mượn xác mà mượn ẩu thì chẳng khác gì vác xác chết về nhà.

36. Tẩu kế (Chạy, lùi, thoát thân)
"Tẩu kế" nghĩa là chạy, lùi, thoát thân.

Tại sao kế sau chót cổ nhân lại đặt là "kế chạy"?

Lại có câu: "Tam thập lục kế, tẩu vi thượng sách". (Ba mươi sáu chước, chạy là hơn hết!)

Bởi vậy kế này liên quan nhiều đến sự thành bại của một công việc lớn.

Bất luận là đánh nhau bằng văn hay bằng võ, không ai là có thể thắng hoài. Trong quá trình chiến đấu bao gồm nhiều kiểu thắng, nhiều kiểu bại, lúc ẩn lúc hiện, trong chớp mắt dồn dập cả trăm ngàn biến chuyển.
Nếu không ứng phó mau lẹ để tránh những cảnh bất lợi, để nắm mau lợi thế mà tiến tới thắng lợi, thì không phải là nhân tài.

Chạy có nhiều phương thức. Bỏ giáp, bỏ vũ khí mà chạy, bỏ đường nhỏ mà chạy tới đường lớn, bỏ đường bộ mà chạy sang đường thủy... Các phương thức tuy không giống nhau nhưng cùng hướng chung đến mục đích là tránh tai họa để bảo đảm an toàn, để bảo toàn lực lượng.

"Tẩu kế" không phải là chạy dài. Chạy chỉ là một giải pháp để mà sẽ quay lại. Tinh hoa của kế chạy là giành thời gian, bảo tồn sức khỏe, lực lượng.

Rút chạy đến một vị trí mới, cho tư thế vững mạnh hơn, tập trung nỗ lực và củng cố tinh thần, chọn một cơ hội thuận tiện để quật lại, ấy mới thực là "Tẩu kế".

Sau hết phải lo đến điểm nguy của kế chạy: Khi chạy, sẽ mất tinh thần, sự việc hoàn toàn lỏng lẻo, mất sự tin tưởng ở xung quanh. Nếu không giải quyết cho chính xác những vấn đề trên thì "tẩu" không còn là một kế hoạch nữa, mà là một sự tan rã vậy!

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 23-07-2003   #2
Ảnh thế thân của LSB-LuongSonAnhHao
LSB-LuongSonAnhHao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 11-09-2002
Bài viết: 248
Điểm: 100
L$B: 21.974
LSB-LuongSonAnhHao đang offline
 
Kế Tá Đao Sát Nhân

Đời Chiến Quốc, Sở Chiêu Vương mới lên ngôi, phong cho Nang Ngõa làm tướng quốc, cùng với nhóm Bá Ước Khuyển, Yên Tương SƯ, Phí Vô Cực cùng nhau chấp chính.

Năm ấy, Khước Uyển đem quân chinh phạt nước Ngô, thắng lợi lớn, bắt tù binh và được binh giáp rất nhiều. Chiêu Vương mừng lắm, đem chiến lợi phẩm chia cho Khước Uyển một nửa, việc gì cũng bàn bạc với Khước Uyển, sủng hạnh vô cùng.

Phí Vô Cực sinh lòng ganh ghét nên âm mưu với Yên Tương Sư hãm hại Khước Uyển. Kế hãm hại thi hành bằng cách Cực nói với tướng quốc Nang Ngoã rằng:

- Khước Uyển có ý muốn mời tướng quốc sang nhà dự yến, nhờ tôi thăm dò xem tướng quốc sẵn lòng giáng lâm chăng?

Nang Ngõa đáp ngay:

- Đã mời nhau thì sao lại không đến?

Phí Vô Cực lại tới bên Khước Uyển, nói:

- Quan tướng quốc muốn qua chơi quý phủ uống rượu để cùng vui vẻ với nhau, chẳng biết ý ông thế nào, nên cho tôi sang ướm hỏi trước.

Khước Uyển ngay tình, vội vã đáp:

- Tôi là thuộc hạ của quan tướng quốc, khó lòng dám đứng giáp mặt ngang hàng, nay ông hạ cố là một điều vinh hạnh cho tôi. Ngày mai tôi xin mở đại yến để mời quan tướng quốc ngay. Xin ông về thưa lại cho.

Phí Vô Cực hỏi thêm:

- Nếu quan tướng quốc tới thì ông tặng ngài lễ vật gì?

Khước Uyển suy nghĩ rồi nói:

- Vấn đề thật khó đối với tôi, vì tôi không rõ quan tướng quốc thích phẩm vật nào cả.

Phí Vô Cực nói:

Theo tôi biết thì quan tướng quốc Nang Ngõa ngôi vị cao, chắc cái gì cũng thừa thãi, duy nhất có giáp, giáo sắt mới là những vật sưu tầm làm ngài thích thú. Ngày thường ngài vẫn nói với tôi là rất ưa bộ chiến lợi phẩm mà vua đã chia cho ông.

- Tưởng gì khó khăn, chứ những thứ đó thì quả là quá dễ.

Vừa nói, Khước Uyển vừa gọi người nhà mang ra. Phí Vô Cực xem xét từng chiếc áo giáp, từng thanh kiếm rồi lựa ra trăm bộ, xong ghé tai Khước Uyển thì thầm:

- Ông hãy đem nó xếp ở hai bên cửa, lúc quan tướng quốc tới sẽ để mắt nhìn thấy rồi hỏi, ông liền đề nghị biếu xén, như vậy quan tướng quốc mới tiếp nhận mà không ngượng nghịu.

Khước Uyển tưởng Phí Vô Cực nói thật, sai gia nhân bày sẵn các bộ giáp hai bên cửa và lấy tấm lụa phủ lên.

Hôm sau, Khước Uyển bày yến tiệc, nhờ Phí Vô Cực sang mời Nang Ngõa.

Nang Ngõa sửa soạn qua dự yến bên phủ Khước Uyển, thì Phí Vô Cực vừa tới nói:

- Ít lâu nay, Khước Uyển kiêu ngạo lắm, chẳng biết lần này bày yến tiệc để làm gì, nhân tâm khó lường, xin để tôi đi trước dò xét sự thể rồi tướng quân hãy sang, như vậy là tôi thấy an toàn hơn.

Nang Ngõa cho là phải.

Phí Vô Cực đi lòng vòng một lúc sau quay về, dáng điệu hốt hoảng, lật đật chạy vào, suýt vấp ngã ở thềm nhà, vừa thở vừa nói:

- Chúng ta lầm rồi, tôi dò xét mới hay Khước Uyển mời khách là có mưu thâm đưa tướng quốc vào đất chết. Tôi thấy binh giáp ẩn núp hai dãy hành lang sát khí đằng đằng, nếu tướng quốc đi, tất là trúng kế.

Nang Ngõa nghe kể, tâm lý phân vân mà rằng:

-Ta với Khước Uyển vốn vẫn hòa mục, bình nhật chẳng có chi thất thố, sao lại có chuyện này?

Phí Vô Cực nói:

- Từ ngày Khước Uyển theo vua chinh phạt Ngô quốc, cậy vua trọng dụng, nên đã manh tâm muốn thay tướng quốc, ai ai cũng biết cả, hắn chỉ có thể che mắt một mình tướng quốc thôi. Tôi và Yên Tương Sư ngày đêm vẫn lưu ý, nay còn dò thêm một điều rất quan trọng đến vận mệnh xã tắc là lúc Khước Uyển sang đánh nước Ngô, vua Ngô đút lót cho rất nhiều nên y giả vờ lấy của vua Ngô ít giáp binh mang về làm chiến lợi phẩm, tạo một chiến thắng giả mà dối vua.

Nang Ngoã vẫn chưa tin, mật sai tâm phúc đi dò tra hư thực. Người nhà Nang Ngõa đi về cũng trình rằng có thấy binh lính mai phục nơi bày yến tiệc.

Nagn Ngoã nổi trận lôi đình, tức tối cho gọi Yên Tương Sư.

Yên Tương Sư là người đồng mưu với Phí Vô Cực, tất nhiên phải đẩy mạnh việc ám hại Khước Uyển, mới nói:

- Khước Uyển sửa soạn làm phản đã hai ngày nay, cấu kết với ba hội lớn trong thành nội để mưu đoạt chính quyền, nếu chậm trễ thì nguy.

Nang Ngõa vỗ bàn hét lớn:

- Đáng giận thật! Đáng giận thật!

Liền chạy vào điện tâu vua mọi sự thể, mặt khác sai quân baovây nhà Khước Uyển.

Khước Uyển bấy giờ mới vỡ lẽ đã bị Phí Vô Cực đưa vào bẫy, nhưng muộn quá rồi, Uyển dùng đao đâm vào cổ tự tử.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 23-07-2003   #3
Ảnh thế thân của LSB-LuongSonAnhHao
LSB-LuongSonAnhHao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 11-09-2002
Bài viết: 248
Điểm: 100
L$B: 21.974
LSB-LuongSonAnhHao đang offline
 
Kế Đả Thảo Kinh Xà I

Đời Tam Quốc, Gia Cát Lượng từng thi hành một kế nhỏ để chọc Chu Du.

Chu Du không biết làm sao đối phó với cái chuyện Lưu Bị mướn đất Kinh Châu, nên lúc nào cũng rình rập chờ cơ hội để chiếm lại.

Chợt có tin phu nhân của LƯu Bị chết. Bên Lưu Bị chuẩn bị ma chay. Chu Du mới bảo Lỗ Túc rằng:

- Lần này chúng ta có cơ lấy lại Kinh Châu.

Lỗ Túc hỏi:

- Kế của đô đốc ra sao?

Chu Du nói:

- Lưu Bị góa vợ, tất sẽ lấy vợ. Chúa công ta có cô em đẹp mà lại cương dũng. Trong phòng lúc nào cũng chứa vũ khí sáng choang, chức nữ thì vài trăm. Nay chúng ta nói với chúa công cho người ướm hỏi Lưu Bị để kết thân. Ta sẽ lừa LƯu Bị đến đây bắt giam lại và buộc phải trả Kinh Châu để chuộc.

Lỗ Túc gật đầu, cùng Chu Du lên gặp Tôn Quyền để trình bày kế hoạch, Tôn Quyền thỏa thuận, liền phái Lã Phạm qua làm ông mối.

Lưu Bị nghe tin, vội vàng thương nghị với Gia CÁt Lượng. Khổng Minh vui mừng cả cười, nói Lưu Bị bằng lòng. Lưu Bị qua Đông Ngô làm rể, đem theo Triệu Vân đi cùng. Lúc lên đường, Gia Cát Lượng gọi Triệu Vân, trao cho Vân ba túi cẩm nang, dặn rằng: cứ làm như thế... như thế...

Qua Đông Ngô, Triệu VÂn mở cẩm nang thứ nhất, xem kế dặn trong đó rồi gọi năm trăm quân đến quận phó bố trí đâu đấy. Rồi VÂn rỉ tai Lưu Bị, nói Bị vào yết kiến Kiều Quốc lão. Kiều Quốc Lão là nhạc phụ của Chu Du và Tôn Quyền. Tôn Quyền còn gọi ông bằng ngoại thúc nữa.

Lưu Bị ra mắt Kiều Quốc lão bằng một lễ vật rất hậu hĩ và kể chuyện mình qua Đông Ngô để xin cưới vợ. Mặt khác, năm trăm tên lính đi theo hầu đều mặc áo xanh đỏ rát mới, đi khắp phố phường rêu rao việc Lưu Bị sang làm rể Đông Ngô, chỉ trong khoảnh khắc, cả nước đều hay biết.

Kiều Quốc lão gặp Lưu Bị rồi, liền tức tốc đến mừng mẫu thân của Tôn Quyền là Ngô Quốc Thái. Bà hết sức ngạc nhiên, hỏi chuyện lạ ở đâu tới. Kiều quốc lão thấy vậy, trách móc:

- Lại còn giấu lão này, đã thoả thuận gả tiểu thư cho LƯu Bị, nay cả nước chẳng ai không rõ, còn nói làm gì!

Quốc Thái ngơ ngác hơn nữa:

- Có việc đó thật ư? Sao ta không biết?

Lập tức bà sai thâu thập tin tức. Quả nhiên có thật. Bà nổi giận, cho gọi Tôn Quyền vào.

Tôn Quyền vào gặp mẹ, bị mắng một trận tơi bời. Quyền biết kế hoạch mình làm hớ rồi, nên đành nói rõ duyên do.

Quốc Thái càng nổi nóng hơn:

- Làm sao?

Chu Du lại kể mình muốn mượn danh "cầu hôn" để bắt Lưu Bị mà đòi lại Kinh Châu.

Ngô Quốc thái mặt hầm hầm, vỗ bàn quát mắng:

- Mày và Chu Du thống lĩnh sáu quận, tám châu, không còn kế sách gì lấy lại Kinh Châu nữa hay sao, lại đem con ta đi làm mồi mỹ nhân kế sát hại Lưu Bị, để con ta góa bụa? Mày không biết thương em mày đến thế thì thôi!

Kiều Quốc Lão cũng nói vào:

- Dùng kế ấy mà lấy lại Kinh Châu, chẳng bỏ cho thiên hạ đàm tiếu, thạt đáng xấu hổ. Thôi sự đã trót rồi, hãy lấy sai mà sửa sai cho xong. Lưu Bị cũng là một tay anh hùng thời nay, vậy hãy chấp nhận hắn làm rể là đẹp nhất.

Tôn Quyền nói:

- Không được. Lưu Bị nay đã năm mươi tuổi, em gái ta mới mười tám đôi mươi.

Quốc Thái nói:

- Để mai ta gặp Lưu Bị. Nếu ta không ưng thì các ngươi muốn làm gì thì làm, nếu ta ưng, sẽ cho hắn làm con rể ta.

Hôm sau, Lưu Bị được vời đến chùa Cam Lộ để ra mắt Quốc Thái. Tuy Lưu Bị tuổi ngoài năm mươi nhưng thần thái oai vệ, bà thoạt nhìn đã vui ngay. Bà liền ghé tai Tôn Quyền bảo rằng:

- Lưu Bị xứng đáng làm con rể ta, từ đây về sau, ta cấm ngươi không được làm hại LƯu Bị.

Phao đồn ầm lên, báo cho Kiều Quốc lão để ông già này vào cho Ngô Quốc thái hay. Cỏ chung quanh đã bị động dữ dội thì con rắn phải sợ mà trườn ra bỏ chạy - ấy là mẹo Gia CÁt vậy.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 23-07-2003   #4
Ảnh thế thân của LSB-LuongSonAnhHao
LSB-LuongSonAnhHao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 11-09-2002
Bài viết: 248
Điểm: 100
L$B: 21.974
LSB-LuongSonAnhHao đang offline
 
Kế Đả Thảo Kinh Xà II

Đời Chiến Quốc, Trung Sơn Vương yêu quý hai sủng phi là Âm Cơ và Giang Cơ. Cả hai đều tranh nhau chức vương hậu.

Có một vị mưu thần là Tư Mã Hi, rất giảo hoạt, cách làm tiền cũng cao minh, thấy hai sủng phi tranh nhau giành chức vị nên nghĩ kế xoay xở. Ông ngầm sai người đến nói với Âm Cơ:

- Muốn đoạt ngôi vương hậu, không phải cười là xong, vì ngôi cao đó là chí tôn, ở đó có thể cai vạn dân, vạn nhất thất bại là thập phần nguy hiểm, họa đến cả gia tộc. ĐÃ tranh thì phải thắng lợi, muốn thắng lợi thì nên hỏi quan Tư Mã Hi.

Âm Cơ nghe bùi tai, liền bí mật liên lạc với Tư Mã Hi, Tư Mã Hi uốn ba tấc lưỡi thuyết phục nàng, khiến Âm Cơ vui thích, luôn miệng đa tạ.

- Nếu như tôi thành công, tôi sẽ hậu thưởng ông.

Đa tạ xong, nàng lại đưa cho TƯ Mã Hi cả chục món vàng. Tư Mã Hi làm sớ tâu lên vua Trung Sơn, nói mình có sẵn kế hoạch làm cường thịnh quốc gia và làm cho các nước lân bang yếu đi.

Vua Trung Sơn mừng lắm, cho gọi vào.

Tư Mã Hi tâu:

- Trước hết, xin cho thần qua Triệu quốc, danh nghĩa là viếng thăm nhưng thật ra là để dò biết tình hình, tìm hiểu động hướng quân sự, chính trị.

Vua Trung Sơn bằng lòng.

Tư Mã Hi đến nước Triệu. Sau khi việc công đã xogn ông mới ghé tai vua Triệu nói:

- Chúng tôi nghe nói ngài có rát nhiều mỹ nhân, thế mà từ ngày tôi đến đây chưa thấy ai đẹp cả. Rút lại, theo tôi chỉ có nàng Âm Cơ, sủng phi của vua nước tôi mới đáng là bậc tiên nữ giáng phàm mà thôi. Nàng đẹp đến nỗi không còn bút nào tả nỗi, chẳng những vậy, nghi biểu của nàng còn đáng bậc mẫu nghi.

Triệu Vương sáng mắt lên, hỏi:

- Làm sao đem nàng đến cho ta?

Tư Mã Hi cười mà rằng:

- Khó lắm, khó lắm. Âm Cơ tuy là cung phi, nhưng nàng được Trung Sơn Vương yêu quý lắm. Tôi chỉ khen vẻ đẹp của nàng thôi, xin ngài đừng đề cập chuyện đó, có thể đầu tôi sẽ rơi xuống không chừng.

Tư Mã Hi về nước, trình lên Trung Sơn Vương rằng:

- Vua Triệu là một ông vua tồi tệ, ưa dâm dật, nghe đâu y còn dòm ngó nàng Âm Cơ của bệ hạ nữa.

- Khốn nạn, tên khốn nạn!

- Ấy, xin Đại vương bớt giận, tình thế lúc này so sánh thì Triệu còn đang mạnh gấp bội ta. Nếu Triệu Vương đòi Âm Cơ, ta thoái thì nguy lắm, mà ta đem cho thì thiên hạ cười chê.

- Phải làm sao bây giờ?

- Theo hạ thần, chỉ còn biện pháp duy nhất là Đại vương nên phong cho Âm Cơ là vương hậu, để làm chết cái tà dâm của Triệu Vương, không lẽ làm vua mà lại đi đòi vợ kẻ khác, như thế chẳng bằng quân rợ!

Trung Sơn Vương gật đầu khen phải:

- Âm Cơ sẽ lên ngôi vương hậu.

Tư Mã Hi sau đó được Trung Sơn Vương và Âm Cơ sủng ái rất nhềiu, mỗi ngày giàu có, ăn mấy đời không hết.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 23-07-2003   #5
Ảnh thế thân của LSB-LuongSonAnhHao
LSB-LuongSonAnhHao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 11-09-2002
Bài viết: 248
Điểm: 100
L$B: 21.974
LSB-LuongSonAnhHao đang offline
 
Kế Tiên Chế Phát Nhân

Đời Hán, có Ban Siêu là một thanh niên đầy chí khí và đảm lược. Ban Siêu đã vứt bút để cầm gươm. Hán Vương phong cho Ban Siêu làm tư mã, đến TÂy Vực đảm đương sứ mạng.

Ban Siêu trước hết đến nước Bồ Thiện tiếp cận với Hung Nô. Nước Thiện là đối tượng tranh thủ của cả Hán và Hung. Vua nước này là Tự Khiếu TƯ, trước thế kẹp của hai nước lớn, không biết ngả về bên nào. Nay thấy Ban Siêu, sứ của nhà Hán tới, nên ân cần tiếp đãi trọng hậu, ý muốn nhân cơ hội này thăm dò mà quan hệ thân thiện với Hán triều. Nhưng mới chỉ mấy ngày mà thái độ ân cần dần trở thành lạnh nhạt.

Ban Siêu thấy tình thế thay đổi như vậy, tâm lý nghi hoặc, mới bảo bộ thuộc rằng:

- Thật là kỳ, các ngươi nhìn thấy không? Bồ Thiện Vương từ lúc ta đến vẫn tỏ ra tận tâm đãi khách. Nay bỗng nhiên thay đổi hẳn. Bên trong tất phải có nguyên cớ gì đây. Nhất định Hung Nô cũng đã phái sứ sang để cùng ta mở chiến trận ngoại giao, làm cho Bồ Thiện Vương trở về thế kẹt cũ. Nếu để nguyên tình trạng này, rất có thể chúng ta sẽ lâm nguy.

Nghĩ thế, Ban Siêu tức tốc hành động, cho người đi bắt cóc một tên Hung Nô vào tra tấn:

- Mày phải kể tình thật, bằng không tao chém chết. Hung No đã sai sứ đến đây từ ngày nào? Có chừng bao nhiêu người? Hiện chúng ở đâu?

Tên rợ Hồ sợ hãi kể hết.

Ban Siêu kiểm điểm lại lực lượng, thấy chỉ vẻn vẹn có bốn chục người cả quan lẫn quân. Ông đem giam kín tới rợ Hồ và cấp thời tập hợp quân sĩ lại, mở một tiệc rượu.

Giữa lúc tửu hứng lên cao, Ban Siêu chệnh choạng đứng dậy nói lớn:

- Chúng ta đều là người Hán triều đến cái nơi sa mạc khô khan này, ai cũng nghĩ sẽ vì quốc gia lập công cầu phú quý. Nay chúng ta bị vây khốn rồi, tién không được, rút không xong. Lúc chúng ta mới tới, Bồ Thiện Vương đối đãi thập phần chu đáo, nhưng sau này khi Hung Nô sai sứ giả sang thì thái độ bỗng dưng thay đổi hẳn. Như vậy tức là họ không ưa chúng ta. Nếu họ bắt chúng ta giao cho Hung Nô thì tất cả chúng ta đây sẽ không có đất mà chôn, hài cốt vứt nuôi lang sói. Các anh em phải nghĩ cách sao để thoát khỏi miệng cọp.

Tất cả nghe xong đều đồng thanh n ói:

- SỰ việc đủ nguy cấp rồi. Tư mã dạy sao, chúng tôi theo vậy.

Ban Siêu nói:

- Chỉ còn hai con đường: hoặc chạy, hoặc tấn công; chạy thì chúng ta chỉ có ba mươi mấy người, chạy đâu cho thoái, chưa biết chừng nửa đường là bị tiêu diệt hết. Duy nhất biện pháp là đánh. Kẻ nào hạ thủ trước, kẻ đó mạnh. Anh em có đồng ý chăng?

- Đồng ý!

Nghe vậy, Ban Siêu nói:

- Chúng ta nay đã biết chỗ sứ của Hung Nô trú ngụ và nhân số của chúng. Hôm nay, buổi tối chúng ta sẽ ra tay để cho chúng trở tay không kịp. Hiện thời chúng đang đắc ý, tất không để ý rằng ta quyết tâm hành động, tự nhiên là chúng không phòng bị ta, khi ta bất ngờ tấn công, tất chúng sẽ hỗn loạn hết. Chộp được chúng. Thiện Vương sợ tội sẽ phải theo ta.

Có người hỏi:

- Việc này lớn lao, e có thể ảnh hưởng rắc rối tới bang giao. Tốt hơn, soa chúng ta không điều đình?

Ban Siêu quắc mắt lên, nổi giận nói:

- Không đuwọc.

Rồi ông lại nói:

- Thành hay bại, hung hay dữ đều quyết định vào hôm nay, nếu điều đình mà không xong thì kế hoạch ta bại lộ hết.

Mọi người nghe theo, quyết liệt chuẩn bị vũ trang. Đêm xuống, cuồng phong gào thét khắp nơi, cát bay mù mịt. Một nhóm người ngựa lên đường, ngậm tăm đi đến sứ quán Hung Nô. Tới nơi, hơn ba mươi người được chia làm hai đội. Mười người mai phục, mỗi người mang một chiếc trống lớn. Đúng lúc lửa cháy thì nổi trống lên mà hư trương thanh thế.

Hai mươi người cởi hết quần áo, cầm dao lớn, dưới quyền lãnh đạo của Ban Siêu tiến vào dinh sứ Hung Nô, một mặt phóng hỏa, một mặt nổi trống, thấy tên nào có mặc quần áo là chém sạch. Sứ giả Hung Nô đang ngủ, nghe huyên náo, trở dậy chẳng kịp hiểu ất giáp gì, chỉ nghe trống dộng ầm ầm; định trốn, nhưng không biết đưòng nào mà trốn, định đánh, nhưng tìm đâu ra vũ khí nữa!

Một lúc sau, hơn trăm người trong sứ quán đều bị giết sạch.

Sáng ra, điểm quân lại, Ban Siêu thấy có vài người bị thương.

Rồi Ban Siêu ra lệnh treo đầu sứ Hung Nô vào cổ ngựa đến gặp Bồ Thiện Vương. Bồ Thiện Vương trông thấy , mặt cắt không còn giọt máu.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 24-07-2003   #6
Ảnh thế thân của LSB-LuongSonAnhHao
LSB-LuongSonAnhHao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 11-09-2002
Bài viết: 248
Điểm: 100
L$B: 21.974
LSB-LuongSonAnhHao đang offline
 
Kế Vô Trung Sinh Hữu

Đời Chiến quốc, Trương Nghi chỉ học có môn pháp "Tung hoành thuật", rồi cùng với mấy người bạn đồng môn đến nước Sở để mưu cầu phú quý.

Vì không tìm được còn đường bay bổng, nên ở Sở quốc, Trương Nghi và các bạn sống rất cơ cực. Nhiều người than oán Trương Nghi, đòi về nhà.

Trương Nghi nói:

- Các chú muốn về vì bấy lâu nay sống chậy vật chứ gì? Đừng lo, hãy chờ ít ngày nữa, khi tôi gặp được Sở Vương rồi, nếu chúng ta không no ấm giàu sang, các chú cứ vặn răng tôi đi.

Lúc ấy, vua Sở đang rất yêu thương hai mỹ nhân là nàng Nam Hậu vàng nàng Trịnh Tụ.

Trương Nghi gặp vua Sở, nói:

- Tôi đến nước Sở đã lâu mà bệ hạ chẳng giao cho công việc chi làm. Nếu như bệ hạ không vui lòng dùng lời nói của tôi thì xin cho tôi rời nước Sở sang nước Tần để tìm cơ hội may mắn.

Sở Vương vốn không thích chính trị, chỉ ưa hưởng thụ nên nghe Trương Nghị đê fnghị như thế, trả lời ngay:

- Tốt lắm, ông nên đi ngay đi.

Trương Nghi nói:

- Nhưng tôi xin hỏi Đại vương có cần gì ở nước Tần không? Đại vương ưa thích những đặc sản gì của TẦn quốc chăng? Tôi nguyện tìm tòi để mang về dâng.

Sở Vương lạnh lùng:

- Vàng bạc châu báu, ngà voi, sừng tê đã đủ hết, Tần quốc chẳng còn gì làm ta thèm khát nữa.

- Đại vương không thích gái đẹp bên ấy sao?

Lời nói như điện truyền, mắt Sở Vương sáng hẳn lên, hỏi vội:

- Thế nào? Ông nói thế nào?

- Thưa Đại vương, tôi muốn nói mỹ nữ , nước Tần xưa nay nổi tiếng là nhiều gái đẹp , má hồng, da trắng, tóc mây đen, đi đứng nhẹ nhàng, nói năng vận điệu suối reo...

Theo với lời Trương Nghi, mắt Sở Vương càng ngày càng say đắm.

Trương Nghi nói tiếp:

- Đàn bà nước Sở chẳng khác gì hoa mọc trên câ khô, như trăng bị mây che, tóc tai như núi, da lởm chởm.

Sở Vương ngắt lời:

- Đúng, đúng, nước của ta là một nơi hoang dã mà ta cũng chưa từng thấy con gái nước Tần, nếu ông không nói thì ta cũng quên mất. Nếu quả thật ông nghĩ đến ta, thì hay vì ta tìm về cho ta những vật phẩm thật quý giá.

Trương Nghi ngập ngừng thưa:

- Đại vương...

- Khỏi cần nói, ông muốn đề cập đến hóa khoảng chứ gì?

Nói xong, Sở vương sai lấy cho Trương Nghi mấy trăm lạng vàng để tùy nghi sử dụng.

Trương Nghi nhận vàng của Sở Vương, cốt để đến tai Trịnh Tụ và Nam Hậu. Cả hai nghe tin rất lo sợ, vội vã nhờ người đến nói với Trương Nghi:

- Chúng tôi nghe biết vua Sở phái ông sang Tần tìm mua đặc sản, nên có chút tiền đưa đến biếu tặng.

Trương Nghi nhận tiền xong, không cho loan tin tiếp nữa.

Lúc lên đường, Trương Nghi vào từ biệt vua Sở, nói:

- Tôi sang Tần lần này, đường sá khó khăn không biết đến bao giờ mới trở lại. Xin Đại vương thưởng cho một chén rượu để tôi được vui lòng.

Sở vương nói:

- Được , được!

Nói xong, Sở vương liền rót rượu mời Trương Nghi.

Truowng Nghi uống vài chén, mặt mày ửng đỏ, mới giả say tâu với vua Sở:

- Cúi xin đại vương một đại ân nữa, là Đại vương cho gọi những người mà Đại vương sủng hạnh nhất tự tay rót cho tôi vài chén rượu để cho tôi lấy phước lúc đi đường.

Sở Vương lúc ấy cũng ngà ngà, thấy đề nghị ngộ nghĩnh của Trương Nghị, nhân lúc cao hứng bèn cho vời Nam Hậu và Trịnh Tụ vào rót rượu cho Trương Nghi.

Hai nàng trang điểm cực kỳ đẹp đẽ rồi mới lộ diện.

Trương Nghị nhìn hai sủng phi của Sở Vương với vẻ mặt đắm đuối hồi lâu. Trương Nghi bỗng quỳ xuống mặt Sở Vương tâu rằng:

- Tôi đáng tội chết, xin Đại vương tha cho, tôi đã lừa dối Đại Vương.

- Ông nói sao? Ông nói sao?

- Tôi đã lê gót khắp bốn nẻo trời, thật chưa thấy người nào đẹp như nhị vị Vương phi đây, sở dĩ tôi đề nghị với Đại vương qua bên nước Tần tìm đặc sản là bởi vì tôi chưa được trông thấy dung nhan của hai nàng. BÂy giờ sau khi chiêm ngưỡng, tôi thấy tội "khi quân" của tôi đã rành rành đáng chết.

Sở vương thở dài nhẹ nhõm, nói với Trương Nghi:

- Tưởng chuyện gì! Ta cũng đã rõ từ lâu, trong thiên hạ chẳng có ai đẹp hơn hai nàng sủng phi của ta.

Trịnh Tụ và Nam Hậu cũng đưa mắt nhìn Trương Nghi thầm cám ơn.

Từ đấy về sau, hai nàng ra công tâng bốc Trương Nghi, dần dần vua Sở đã đổi hẳn thái độ với Trương Nghi.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 24-07-2003   #7
Ảnh thế thân của LSB-LuongSonAnhHao
LSB-LuongSonAnhHao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 11-09-2002
Bài viết: 248
Điểm: 100
L$B: 21.974
LSB-LuongSonAnhHao đang offline
 
Kế Sấn Hỏa Đả Kiếp

Cuối đời nhà Minh, giặc giã nổi lên công hãm kinh đô, vua Sùng Trinh chết ở Môi Sơn... Lý Tự Thành thừa cơ cướp đượ cung điện, tự xưng làm vua. Lý Tự Thành bắt Trần Viên Viên, vợ của võ tướng tài giỏi đương thời là Ngô Tam Quế đang trấn biên ải ngăn giặc Mãn Châu.

Lý Tự Thành còn bắt thân phụ Ngô Tam Quế viết thư dụ con đầu hàng.

Nhận được thư cha, Ngô Tam Quế thấy rằng thế lớn đã đổi thay, ý muốn quy hàng. Trong lúc viết thư thì tả hữu vào báo có người nhà tới. Tam Quế cho gọi vào và hỏi:

- Lý Tự Thành đánh cướp kinh đô, vậy gia đình ta ra sao?

Người nhà đáp:

- Bị bắt và bị vơ vét hết cả.

Ngô Tam Quế nói:

- Chẳng lo gì, lúc ta về kinh đô, họ phải trả lại ta. Nhưng cha ta hiện tại thế nào?

Người nhà đáp:

- Bị câu lưu trong ngục thất.

Ngô Tam Quế nói:

- Chẳng ngại gì, tương lai sẽ phải trả tự do cho cha ta. Thế còn phu nhân?

Tên người nhà ấp úng không nói nên lời, Tâm Quế đã mường tượng thấy có điều gì không hay xảy đến nên gắt lên:

- BÂy cứ việc nói, ta đâu có trách gì bây. Phu nhân hiện thời ra sao?

- Thưa, đã bị Lý Tự Thành cướp mang đi rồi!

Ngô TAm Quế giận run, nói:

- Khốn nạn! Quân khốn nạn!

Rồi Ngô Tam Quế quăng bút xuống đất, đập bàn quát lớn:

- Thù này ta thề phải trả. Không giết được lý Tự Thành , ta không dáng sống nwũa.

Nhặt bút lên, Ngô Tam Quế viết thư trả lời thân phụ: "Cha đã không thể làm được trung thần thì làm sao con thành người con hiếu?"

Ở Mãn Châu, vua Thuận Trị mới lên ngôi. Với bảy tuổi đầu, quyền hành đều giao vào tay nhiếp chính Đa Nhĩ Cổn. Đa Nhĩ Cổn thấy Trung Quốc đại loạn, định thừa cơ xâm nhập nhưng còn ngại Ngô Tam Quế nên không dám vọng động.

Ngô Tam Quế lúc này thù nhà đã thắng nhiệm vụ giữ nước, nên quyết tâm mượn quân Thanh về giết Lý Tự Thành. Ngô Tam Quế đến gặp Đa Nhĩ Cổn, Cổn hỏi:

- Ngô tướng quân giá lâm, chắc có đièu chi dạy bảo?

Ngô Tam Quế nói thẳng vào đề ngay:

- Minh với THanh, hai nước hòa mục với nhau từ lâu này. Lúc nội bộ Thanh rối loạn. Minh đã từng mang quân sang trợ giúp. Bây giờ triều Minh chẳng may trộm cướp hoành hành, kinh đô luân hãm, vua bị hãm hại, thù ấy khó đội trời chung. Buồn thay cả nước tôi không có lấy một đấng nam nhi hưng binh cần vương. Lực lượng binh bị của tôi lại quá ít ỏi, không đủ đương đầu, chắc quý quốc cũng niệm tình lân bang, động binh trợ giúp triều đình nhà Minh.

Đa Nhĩ Cổn nghe những lời Tam Quế mà mở cờ trong bụng. Đây thật là cơ hội ngàn năm một thưở, nhưng Nhĩ Cổn còn giả vờ từ chối:

- Nội loạn bên quý quốc, nghĩ theo tình lân bang thì phải giúp, chỉ hiềm nước tôi nhỏ, binh ít, e chẳng giúp được gì, còn mang họa nữa.

Ngô Tam Quế nói:

- Xin ông đừng quá lo ngại, giặc tuy đông, nhưng chỉ là lũ quân ô hợp.

Đa Nhĩ Cổn vẫn tiếp tục chối từ, khiến cho Ngô Tam Quế phải khẩn khoảng nhiều lần rồi mới bằng lòng.

Ngô Tam Quế mừng rỡ, đa tạ hậu ý của Đa Nhĩ Cổn, lập tức quay trở về doanh trại thu thập binh mã, hợp lực với quân Thanh tiến vào kinh đô.

Ngô Tam Quế dẫn quân Thanh về diệt Lý Tự Thành. Lý bị đại bại, phải bỏ kinh thành chạy trốn. Nhưng hỡi ôi! Ngô Tam Quế tuy trả được thù nhà mà không ngờ rằng cung điện, giang sơn xã tắc nay lọt vào tay nhà Mãn Thanh hết cả.

Sau khi Lý Tự Thành thua, quân Thanh thi hành chính sách tầm gửi, nắm giữ quyền hành, mua chuộc được ai thì mua chuộc, không mua chuộc được thì đem đi giết. Đa Nhĩ Cổn ở đây đã giỏi tận dụng kế "Sấn hỏa đả kiếp", mất ít công mà ngoạm miếng lớn vậy.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 25-07-2003   #8
Ảnh thế thân của LSB-LuongSonAnhHao
LSB-LuongSonAnhHao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 11-09-2002
Bài viết: 248
Điểm: 100
L$B: 21.974
LSB-LuongSonAnhHao đang offline
 
Kế Điệu Hổ Ly Sơn

Đọc Đông Chu Liệt Quốc có vụ Trịnh Trang Công đáng làm tiêu chuẩn cho kế "Điệu hổ ly sơn".

Trịnh Vũ Công lấy Khương Thị, con gái Thân Hầu sinh ra hai con. Con lớn là Ngu Sinh, con thứ là Đoạn.

Ngu Sinh được sanh ra sau cơn mộng dữ nên Khương Thị không ưa, còn Đoạn khí dũng hiên ngang nên Khương Thị yêu chiều.

Trước mặt chồng, Khương Thị thường nói những giọng ghét bỏ con lớn và tâng bốc con nhỏ, xui chồng bỏ trưởng lập thứ. Nhưng vua Vũ Công nói:

- Trưởng ấu phải có thứ tự, không thể hỗn loạn, huống chi Ngu Sinh chẳng có lỗi gì, tình lý đều trái cả.

Nghĩ thế, nên vua Vũ Công quyết lập Ngu Sinh làm thế tử và chỉ cho công tử Đoạn một thành nhỏ ở Nam Huy.

Khi Vũ Công chết, thế tử Ngu Sinh lên ngôi, hiệu là Trịnh Trang Công.

Mẹ là Khương Thị, thấy con thứ chẳng có quyền thế gì cả, không bằng lòng, nên nói với Ngu Sinh:

- Nay con thừa kế sự nghiệp ông cha được cả thiên hạ mà thằng Đoạn chỉ có vài trăm dặm đất, con nhẫn tâm thế sao?

Ngu Sinh nói:

- Ý mẹ thế nào, con xin vâng theo.

Khương Thị đáp:

- Mẹ nghĩ con nên cho Đoạn về một thành trấn, lớn như Chế Ấp chẳng hạn.

Ngu Sinh nói:

- Chế Ấp là hiểm địa, cha đã dặn con là không được phong đất ấy cho ai. Ngoài ra, mẹ muốn đất nào con cũng bằng lòng.

- Thế thì con cắt Nam Kinh thành mà phong cho em con vậy.

Ngu Sinh suy tư không nói gì.

Khương Thị giận dữ, phất tay áo đứng dậy mà rằng:

- Nếu mày không đồng ý thì để mẹ con tao đi.

Ngu Sinh sợ hãi vội nói:

- Mẹ đừng giận con, con xin tuân lời mẹ.

Ngày hôm sau, Trang Công thiết triều tuyên bố phong cho Đoạn trấn Kinh thành. Quan đại phu là Sái Túc lên khải tấu:

- Không được. Trời không hai mặt trời, dân không thể có hai chủ; Kinh thành là đất trọng yếu, đất rộng người nhiều, giá trị quân sự, chính trị không thua gì Hoàng thành. Thêm nữa, công tử Đoạn là con yêu của phu nhân, nếu phong thêm một vị vua nữa thì ngày kia e manh tâm làm loạn, thật là nguy khốn cho bệ hạ lắm!

Trang Công nghe đại phu Sái Túc can gián, gạt đi.

- Không nên nói, đó là lệnh của mẹ ta.

Nói về công tử Đoạn, trước khi lên đường, vào từ biệt mẹ. Khương Thị đuổi tả hữu ra nói nhỏ với Đoạn:

- Lần này việc phong ấp cho con rất là miễn cưỡng. Sau này thế nào cũng sẽ thay đổi, con phải sớm tính toán. Đến Kinh thành rồi nên tụ binh, tích lương mà chuẩn bị đợi thời cơ, mẹ sẽ làm nội ứng để đạp đổ thằng Ngu Sinh, như vậy mẹ mới hài lòng.

Đoạn vâng mệnh xuất thành, dương dương tự đắc, nghĩ mình sắp lên ngôi vua. Tới nơi, các thủ lĩnh địa phương đã nghênh đón chúc mừng, Đoạn nói:

- Các ngươi từ nay thuế má phải nộp giao ta, binh mã phải do ta cai quản, không được trái lệnh.

Các thũ lĩnh thấy Đoạn là con yêu của mẫu hậu, có thể làm quốc vương, vả lại phong thái Đoạn rất hiên ngang, có thể là người xuất chúng, nên ai nấy đều vâng lệnh.

Từ đó, Đoạn ra sức huấn luyện quân đội, thực lực mỗi ngày mỗi tăng.

Nhân viên tình báo đem việc này trình với Trang Công, Trang Công chỉ cười. Trong triều có một vị quan hô to:

- Xin hãy xử trảm công tử Đoạn.

Trang Công nhìn xuống thì ra là quan thượng khanh họ Lã!

- Quan thượng khanh có cao luận gì chăng?

Họ Lã đáp:

- Từ trước đến nay, những người được phong ấp không được nắm quyền quân sự, nếu có mưu đồ quân quyền thì tội đáng chết, không tha thứ. Nay Công tử Đoạn cậy mẫu thân yêu chiều, cậy Kinh thành kiên cố, ngày đêm luyện binh, thế chẳng phải là mưu thoán đoạt hay sao? Xin trao quyền cho tôi, tôi sẽ đến tận nơi thảo phạt để trừ hậu họa.

- Nhưng Đoạn chưa có hành vi tạo phản mà.

Lã thượng khanh nói:

- Nay theo báo cáo, các đất đai đang bị lấn, thuế má bị lạm, chính sách tằm ăn dâu của Đoạn đã bắt đầu.

Trang Công cười lớn mà nói:

- Đoạn là con cưng của mẹ ta, là em ta. Ta thà mất đất còn hơn làm phật ý mẹ ta, còn hơn là cắt tình máu mủ.

Lã thượng khanh tiến lên tâu:

- Tôi không sợ mất đầu mà tôi sợ nhân tâm đang biến, họ thấy thế lực Đoạn mỗi ngày một to, ai nấy đều chờ đợi mong ngóng. Nếu cứ nhẫn nhịn mãi, tôi sợ khó kịp trở tay. Nay chúa công dung công tử, chắc gì mai công tử sẽ dung chúa công.

Không đợi Lã thượng khanh nói hết lời, Trang Công đã gạt đi:

- Xin đừng nói bậy, ta sẽ có biện pháp để cảm hóa y.

Lã thượng khanh ra ngoài nói với Sái Túc:

- Chúa công thiên vị tư tình, quân mất đại kế quốc gia, tôi thật đau lòng.

Sái Túc nói:

- Đừng ngại, tôi xem chúa công vốn là người túc trí đa mưu, tôi chắc chúa công chẳng quân đâu, chẳng qua giữa chỗ đông người không tiện tiết lộ đó thôi. Ông là người trong họ, vậy nên yết kiến riêng hỏi xem sự tình mới rõ được.

Lã thượng khanh nghe lời Sái Túc, bèn vào cung cấm gặp Trang Công mà rằng:

- Chúa công lên ngôi, ai nấy đều biết mẫu hậu không muốn, vì mẫu hậu định đưa công tử Đoạn kế vị. Nay công tử hoành hành rõ ràng là có âm mưu đoạt quyền rồi, vạn nhất cả trong lẫn ngoài giúp cho nhau thì làm sao chúa công chống đỡ?

Trang Công nói:

- Ta đã biết cả, nhưng không muốn làm cho bẻ mặt mẫu hậu đó thôi.

Lã thượng khanh nói:

- Bệ hạ không nghe chuyện Chu Công chém Quản Sái hay sao? Việc phải giải quyết mà không quyết, e sau này hối không kịp.

Trang Công thở dài:

- Bởi thế nên ta đành phải giả câm giả điếc để cho nó muốn làm gì thì làm. TA đành đợi nó tỏ rõ hành động, lúc ấy ta phạt tọi nó cũng không muộn.

Lã thượng khanh bấy giờ mới tỉnh ngộ nói rằng:

- Chúa công thật là người nhìn xe thấy rộng, nhưng tôi vẫn sợ rằng để chậm một ngày, thế lực nó lớn lên một ngày.

- Việc ấy, ta cũng thấu hiểu cả! Đoạn tuy có âm mưu đoạt quyền, nhưng chưa rõ rệt, nếu ta trấn áp nó sớm, mẹ ta sẽ làm dữ, khiến người ngoài đàm tiếu chê ta không có tình nghĩa anh em, cười ta vô tình vô nghĩa.

- Chẳng bằng phải tính trước, bóp vỡ âm mưu từ trong trứng nước.

Trang Công hỏi:

- Tính kế nào?

Lã thượng khanh thưa:

- Chúa công lâu nay chưa đến triều kiến Chu Thất. BÂy giờ chúa công nên sửa soạn xuất du để ngử cho Đoạn khởi sự. Tôi sẽ phục quân để đợi lúc ra tay, một mặt đánh tan binh Đoạn, một mặt tiến vào chiếm luôn căn cứ địa của Đoạn. Như vậy Đoạn khó lòng thoát.

Trang Công gật đầu khen kế hay.

Hôm sau, lúc thiết triều, TRang Công giả đưa ra một mệnh lệnh giao cho quan đại phu Sái Túc trông nom quốc sự trong lúc Trang Công vắng mặt để đi triều kiến Chu Vương.

Khương Thị nghe tin, thấy cơ hội đã đến, vội vã mật sai người mang tin cho công tử Đoạn, ước hẹn đầu tháng năm khởi binh đánh chiếm Hoàng thành.

Vào hạ tuần tháng tư, Lã thượng khanh âm thầm điều động quân ngày đêm mai phục ở các nơi hiểm yếu, bắt được kẻ đưa thư giết đi, đem thư dâng lên Trang Công. Trang Công xem xong nói:

- Kẻ tự tác điều ác nghiệt sẽ phải chịu hết hậu quả.

Nó rồi, lại cho một người thân tín giả làm kẻ tâm phúc của Khương Thị đưa thư đến cho Đoạn. Đoạn hồi thư hẹn đúng ngày khởi sự, dấu hiệu là một lá cờ trắng ở trên lầu thành.

Trang Công cả mừng nói:

- Chứng cứ ở đây, thử xem nó còn chối cãi được nữa không.

Lập tức Trang Công vào từ biệt mẹ đi triều kiến Chu Vương. Khương Thị cũng đãi bôi vài lời.

Nói về Đoạn, Đoạn vội vã chuẩn bị cho con sang Vệ mượn quân phao tin là phải về chấp chính trong lúc Trang Công vắng nhà.

Giữa lúc ấy thì Lã thượng khanh cho quân tiềm nhập Kinh thầnh. Thấy Đoạn và quân đội đã ra khỏi thành, liền ra lệnh phóng hỏa chiếm luôn Kinh thành, xuất bảng an dân, kết tội bội phản của công tử Đoạn.

Đoạn đi đến nửa đường, nghe tin địa bàn của mình bị cướp rồi, tâm lý hoang mang, vội ra lệnh lui quân chuẩn bị phản công.

Nhưng lòng quân đã dao động rồi, hàng ngũ rời rạc, đồn đại lung tung, chưa được một ngày chúng binh bỏ đi mất hết, Đoạn sợ hãi xuất tàn binh bỏ chạy đến đất Yên, ý định chiêu binh mãi mã tái thực hiện mưu đồ.

Chẳng ngờ Trang Công đã biết, dự liệu cả, mang quân chặn đường đuổi bắt. Đoạn vừa chạy vừa khóc oán trách mẹ cùng đường, rồi rút gươm tự vận.

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 27-07-2003   #9
Ảnh thế thân của LSB-LuongSonAnhHao
LSB-LuongSonAnhHao
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 11-09-2002
Bài viết: 248
Điểm: 100
L$B: 21.974
LSB-LuongSonAnhHao đang offline
 
Kế Thanh Đông Kích Tây

Đời Chiến quốc, nước Tề có một vị thừa tướng là Mạnh Thường Quân, sau khi trốn khỏi nước Tần liền bị vua Tần cho phao tin là họ Mạnh về TỀ để mưu thoán đoại vương vị. Vua Tề nghe tin đồn, tin là thật, nên thâu hồi tương ấn của Mạnh Thường Quân, bãi chức đuổi về nơi thôn dã giam lỏng.

Môn khách của Mạnh Thường Quân bấy giờ có người tên là Phùng Huyên, rất mưu trí, lập kế phục vị cho người tri kỷ.

Phùng Huyên mới đến nước Tần, xin vào gặp vua Chiêu Tương Vương nói rằng: Mạnh Thường Quân nay đã bị triệt chức, Phùng Huyên khuyên vua Chiêu Tương Vương nên vời Mạnh Thường Quân về mà dùng.

Vua Tần mừng lắm, phái người bí mật đến đón gặp Mạnh Thường Quân, Phùng Huyên nói xin để ông ta về trước thông báo. Về nước TỀ rồi, ông vào thẳng vua Tề, cho biết rằng nước Tần đã cho người bí mật đón Mạnh Thường Quân, nếu để Mạnh Thường QUân bỏ sang Tần thì Tề bất lợi, Vua Tề sai người dò xét thì quả thực có chuyện đó, nên mới hỏi Phùng Huyên có biện pháp nào.

Phùng Huyên đáp:

- Xin bệ hạ hãy khôi phục tướng vị cho Mạnh Thường Quân.

Vua Tề nghe theo.

Đọc trong TÂy Hán chí, người ta hẳn phải thích thú đoạn: Trần Bình thiết kế cứu Lưu Bang. Câu chuyện như sau:

Lưu Bang và Hạng Vũ chia nhau tấn công Hàm Dương. Vua Sở Hoài Vương, trước mặt dân chúng, chỉ dụ rằng: Ai vào trước, người ấy làm vương.

Lưu Bang vào trước, nhưng Hạng Vũ thì lại nắm trọn quyền hành và chế ngự luôn Lưu Bang, phong cho Lưu Bang làm Hán Trung Vương đóng ở đất Nam TRinh.

Mưu thần của Hạng Vũ là Phạm Tăng, ghét cay ghét đắng Lưu Bang, nhiều lần bày mưu giết cho được, PHạm Tăng xui giữ LƯu Bang ở Hàm Dương trên danh nghĩa là phụ tá, nhưng sự thật là giam lỏng.

Lưu Bang ngày đêm lo thoát hang hùm, mới hỏi kế Trương Lương. Trương Lương mang ra bàn với Trần Bình. Trần Bình ghé tai Trương LƯơng nói nhỏ mấy câu, Trương Lương vỗ tay cười ha hả khen là diệu kế, diệu kế.

Sáng hôm sau, Trần Bình tâu với Hạng Vũ xin để Phạm Tăng đến BÀnh Thành thu xếp cho xong việc Sở Hoài Vương.

Phạm TĂng khi đi, nói với Hạng Vũ ba vấn đề:

1) Không nên rời Hàm Dương.

2) Phải trọng dụng Hàn Tín, nếu không muốn dùng thì phải giết đi, chớ để Tín lọt vào tay người khác.

3) Không nên để cho Lưu Bang về Hán Trung.

Hạng Vũ gật đầu hứa sẽ y lời khuyên đó.

Phạm Tăng yên trí lên đường.

Mới được ít lâu, Trần Bình dâng biểu lên Hạng Vũ nói đến vấn đề kinh tế quốc gia cần phải tiết kiệm, quân đội đang đóng ở Hàm Dương đến mấy chục vạn người, miệng ăn núi lở, tiếp vận cực kỳ khó khăn, nên để cho quân chư hầu về địa phương của họ để giảm bớt chi tiêu tốn kém.

Hạng Vũ chuẩn tấu, ra lệnh các người mới được thụ phong làm vương các nước chư hầu, ai nấy nội trong năm ngày đem quân về đất Phong. Riêng Lưu Bang, Hạng Vũ giữ lại.

Lưu Bang biết ý Hạng Vương muốn hại, nên lo cuống cuồng, vội cùng Trương Lương tính kế.

Trương Lương xui Lưu BAng cũng dâng biểu với lời lẽ thật tự hạ, xin về quê quán là đất Phong BÁi thăm cha.

Hạng Vũ xem biểu của Lưu BAng rồi, trầm ngâm hồi lâu mới nói:

- Ông muốn về quê thăm thân phụ, thật là lòng hiếu kính hiếm có. Nhưng tôi e không phải như vậy. Phải chăng ông ở Hàm Dương này nên mới nảy sinh ra lòng hiếu kính ấy.

Lưu Bang vẻ mặt âu sầu đáp:

- Cha tôi nay đã già, không ai hầu hạ, tôi ngày đêm mong được gặp mặt. Mấy bữa trước vì thấy chúa công mới lên ngôi cao, công việc bề bộn nên không dám hé răng xin. Nay chư hầu được về bản địa cả, chỉ mình tôi phải ở lại, chẳng biết đến bao giờ mới giáp mặt cha.

Nói rồi, LƯu BAng khóc rống lên một hồi.

Vừa lúc đó thì Trương LƯơng quỳ xuống tâu:

- Nếu không cho về quê hương thì xin cho được tới Hán Trung, rồi ở nơi ấy sai người về Phong Bái tìm rước thân phụ, cho được làm tròn bổn phận con cái.

Hạng Vũ vuốt râu gật gù:

- Cũng phải. Nếu ta không cho Lưu Bang về Hán TRung, tất họ Lưu sẽ oán ta mà sinh lòng kia khác.

Trần Bình cũng thừa cơ nói vun vào:

- Chúa công đã phong cho Lưu BAng làm Hán TRung vương, thiên hạ ai cũng hay biết, nếu không cho về thì e khó lòng gây được chữ tín với thiên hạ. Thần dân nghĩ rằng chúa công nói dối, pháp luật có thể vì vậy mà mất uy tín, chẳng bằng chúa công nghe lời TRương Lương, giữ quyến thuộc Lưu BAng làm con tin, để Lưu BAng tới Hán TRung, như vậy vừa giữ chữ tín với thiên hạ lại vừa buộc LƯu BAng phải trung thành với mình, thật là kế lưỡng toàn.

Hạng Vũ suy nghĩ hồi lâu nữa rồi mới bảo với Lưu BAng:

- Mọi người đều nói như vậy thì kể cũng hợp tình hợp lý! Được, bây giờ cho ông về Hán Trung, nhung tuyệt đối không được tới Phong Bái. Ngày mai ông có thể đi ngay.

Lưu Bang nghe thế, lòng mừng như kẻ chết được cứu sống, nhưng vẫn làm ra vẻ mặt thiểu não, cố nì nèo xin cho về Phong BÁi thăm cha.

Hạng Vũ thấy thế, an ủi rằng:

- Thì ông cứ về Hán Trung đi, tôi sẽ cho người đến Phong BÁi đón gia quyến về đây phụng dưỡng chu đáo. Đợi cho tình hình êm đẹp thì ông rảnh rang muốn gì cũng được.

Lưu Bang bấy giờ mới gượng đứng dậy cảm tạ ơn đức lớn của Hạng Vũ.

Lưu Bang trở về doanh trại, lập tức thu dọn đi gấp như mãnh hổ về rừng, trực chỉ Hán Trung.

Còn Hạng Vũ thì vì lỗi lầm này, sau phải tự đâm cổ chết tại Ô Giang.

Diệu kế của TRần Bình là mưu cho Lưu Bang xin về Phogn BÁi mà thực ra chủ đích là về Hán TRung, chứ về Phong Bái làm gì!

Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 09:11
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,18478 seconds with 14 queries