Chương 10
Những ngày không ánh sáng
Nguồn: MarReading
Thu gọn nội dung
Kim Tịch Hà Tịch hề, Tái Châu Trung Lưu.
Kim Nhật hà nhật hề, đắc dữ Quân vương đồng chu
Mộng nữu bị ho hề, bất tí cấu sỉ
Tâm kỷ phiền nhi bất tuyệt hề, đắc tri vương tử.
Sơn hữu mộc hề, mộc hữu chi
Tâm duyệt quân hề, quân bất tri.
Trên Cô Tô đài, gái Việt ca bản tình ca của nước Việt.
Ngô vương Phù Sai ngồi uống rượu, nhìn Tây Thi, nghe gái Việt ca, trông gái Việt múa, đó là những ngày an nhàn hưởng lạc. Những ngày yên tĩnh và êm đềm.
Tây Thi bệnh đi một dạo, dường như ốm hơn một chút, cũng dường như càng đẹp hơn lên. Hay ít ra, dưới mắt Ngô vương, nàng càng mảnh mai lại càng nhu hòa, kiều mỵ.
Vì thế, nhà vua bầu bạn bên nàng vui chơi, mong cho nàng cởi mở, khuây khỏa để tăng sức khỏe. Đó là nguyên nhân Ngô vương gác cuộc chinh Bắc. Vì cuộc chinh Bắc, Ngô vương đã giết hại đại thần Ngũ Tử Tư. Nhưng Tây Thi bệnh lại dễ dàng ngăn trở Ngô vương mở rộng biên cương lên mặt Bắc.
Điều ấy làm cho Tây Thi khổ sở hết sức tuy trên đài Cô Tô rất bình yên, phẳng lặng. Duy có dưới đài Cô Tô thì từ thành thị đến thôn quê nước Ngô, toàn dân bi thuơng, ta thán, thở dài... Đã ba tháng rồi, người dân nước Ngô mặt ủ mày châu vì họ đã mất đi vị tướng phụ tài ba Ngũ Tử Tư.
Bên núi bên sông, tại những nơi cây to bóng cả, ở những nơi có thầy đồng bóng, người Ngô thường hát nhỏ bài ca từ Sở loan truyền:
- Thành ký dũng hề, hữu dĩ vô,
Chung cưỡng cường hề, bất khả lăng.
Thân ký tử hề, thần dĩ linh,
Hồn phách nghị hề, vi quỷ hùng.
Bài ca ấy vốn của người nước Sở khóc cho vận nước Sở, nay người Ngô dùng để truy điệu vị tướng phụ nước Ngô.
Biết bao cuộc tế lễ cử hành bên ven sông. Bởi vì thi thể Ngũ Tử Tư đã bị Ngô vương vứt xuống sông.
Nguyên cái chết của Ngũ Tử Tư làm cho Ngô vương hối hận. Nhưng lời trối của Ngũ Tử Tư lại làm cho nhà vua nổi giận. Trước khi chết, Ngũ Tử Tư dặn lại kẻ gia thần hãy móc mắt mình đặt ở cửa Đông thành Ngô để sẽ nhìn rõ quân Việt tràn vào. Câu nói ấy làm cho Ngô vương sinh hận, truyền đem thây Ngũ Tử Tư vứt xuống sông.
Với nước Ngô, Ngũ Tử Tư trở thành bất tử. Chuyện về Người lúc chết đã phổ biến khắp nước. Truyền rằng lúc thị vệ mang Thuộc Lâu bửu kiếm đến tướng phủ, cũng vừa lúc đại phu Vương Tôn Hùng đến. Đại phu cố ngăn Ngũ Tử Tư tự sát đồng thời cho biết sẽ thâu hết can đảm đến gặp Ngô vương xin lượng tình. Ngũ Tử Tư lắc đầu, biết chắc Ngô vương sẽ không vì Vương Tôn Hùng mà thay đổi quyết định.
Vương Tôn Hùng lại khuyên Ngũ Tử Tư trốn đi, nhưng người vẫn lắc đầu nói:
- Làm kẻ vong thần thì ở đâu cho yên? Vương Tôn Hùng nhắc nhở:
- Trước kia, tướng phụ cũng từng chạy khỏi Sở.
- Trước kia à?
Ngũ Tử Tư sờ đầu tóc bạc, bỗng nhiên cả cười. Lặp lại mấy tiếng “Vong thần ở đâu cho yên”, Ngũ Tử Tư nhận kiếm, ngửa mặt than dài:
- Ta giúp cho phụ thân Phù Sai xưng bá. Ta lại giúp cho Phù Sai làm vua. Bấy giờ, Phù Sai muốn chia cho ta nửa nước Ngô để ta xưng vương nhưng ta không cần... Ngày nay Phù Sai lại đem Thuộc Lâu bửu kiếm cho ta... ha ha.
Vương Tôn Hùng run rẩy:
- Tướng phụ!
- Đừng lo cho ta, Vương Tôn Hùng, hãy lo cho quốc gia! Hãy đề phòng người Việt, sẽ có một hôm quân Việt kéo đến... Ôi...!
Nói xong, Ngũ Tử Tư quay lại dặn gia thần: Sau khi ta chết, người khoét mắt ta treo ở cửa Đông thủ phủ nước Ngô để ta nhìn thấy quân Việt tràn vào...
Sau đó, Ngũ Tử Tư dùng Thuộc Lâu bửu kiếm tự vẫn.
Tại Hội Kê, Việt vương Câu Tiễn mở tiệc khao lớn, mừng mặt trời nước Ngô đã rụng.
Mọi người đều dâng rượu cho Câu Tiễn khiến nhà vua say mèm, rút kiếm múa theo nhịp phách. Đến trước Phạm Lãi, Câu Tiễn bỗng dừng lại hỏi:
- Thiếu Bá có cảm tưởng gì trước cái chết của Ngũ Tử Tư?
- Trời giúp nước Việt ta!
Việt vương cả cười, vứt kiếm, nâng ly để trước mặt Phạm Lãi uống một hơi hết sạch. Kế đến, nhà vua lại vỗ vai Phạm Lãi nói:
- Sẽ có một hôm, chúng ta cùng đến Cô Tô, song không phải đến để giữ ngựa cho Phù Sai. Ha ha... Tại Cô Tô, Thiếu Bá còn một Tây Thi!
Phạm Lãi đáp cách vô tâm:
- Bẩm phải.
- Ha ha... nào, cạn ly!
Câu Tiễn lại loạng choạng bước đến trước mặt Văn Chủng.
Phạm Lãi không thấy vui gì. Cái chết của Ngũ Tử Tư đã làm cho chàng thứ cảm giác nặng nề. Huống chi còn có Tây Thi... Thời gian không làm phôi phai tình cũ. Cuộc sống có nhiều biến cải vẫn không làm sao ngăn chàng hồi nhớ chuyện ngày xưa. Tây Thi dường như vĩnh viễn sống trong lòng chàng. Hình ảnh lúc kề cận bên Tây Thi đã trở thành ảo ảnh xuất hiện trước mắt chàng. Đến cả vợ chàng nằm bên giường, chàng cũng thấy là Tây Thi nữa!
Phạm Lãi thầm trách mỹ nhân kế của Văn Chủng. Vì mỹ nhân kế mà chàng phải chia tay với người đẹp Tây Thi. Hơn nữa, chàng còn trách kế hoạch “Mười năm sinh sản, mười năm huấn luyện”. Kế hoạch ấy đã bắt chàng cưới vợ sinh con... trong khi Tây Thi vì chuyện quốc gia mà chấp nhận ly cách.
Phạm Lãi vốn muốn giữ thân phận trong sạch của một người con trai để chờ đợi ngày hội ngộ. Nhưng kế hoạch “tăng gia sinh sản” làm cho chàng không sao giữ được. Bao lần chàng nghĩ: “Tây Thi biết ta thành hôn ắt đau đớn lắm! Có thể nàng trách ta là kẻ phụ tình!”
Lệch lạc vấn đề, lệch lạc cảm tình làm cho lòng Phạm Lãi như biển chứa ưu sầu, từ bao lâu nay chàng cố gắng làm việc, dùng sự mệt mỏi để dẹp bỏ suy nghĩ. Chàng sợ rảnh rang, vì mỗi phút rảnh rang là một trào lòng tưởng nhớ.
Bây giờ, chàng nhìn ly rượu trống không mà nghĩ ngợi.
Văn Chủng lướt tới nói riêng với chàng:
- Thiếu Bá! Chúng ta vào trong bàn bạc, chứ quân vương say rồi. Chúng ta cần phải quyết định một số việc. Như sáng mai, phải đưa người sang Cô Tô.
Vào phòng trong, Văn Chủng cười hỉ hả mời Phạm Lãi ngồi. Đoạn mở cửa hông cho Phùng Đồng bước ra chào Phạm Lãi.
Sự có mặt của Phùng Đồng làm cho Phạm Lãi giật nẩy, buột miệng hỏi:
- Phùng huynh sao lại chạy về đây?
Văn Chủng đáp thay:
- Tác dụng của Ngũ Tử Tư là ở chỗ đó. Lúc Ngũ Tử Tư còn sống, Phùng Đồng không dám ra khỏi Cô Tô thành.
- à à!... (Phạm Lãi vòng tay hướng về Phùng Đồng) Phùng huynh thật có bản lĩnh, ở phủ Bá Hi mấy năm mà chẳng ai nghi!
Phùng Đồng mỉm cười:
- Làm gia thần của Bá Hi là an toàn nhất. Vừa rồi, tôi bàn với Bá Hi chuyện sai sứ đi tuần tra biên cảnh, nhân đó vượt Tiền Đường về đây.
- Thế còn...?
Phạm Lãi muốn hỏi liền tình trạng của Tây Thi nhưng kịp bẻ lửng, trở đề:
- ... Còn nước Ngô có gì đặc biệt sau khi Ngũ Tử Tư chết?
- Tạm thời chưa có gì đặc biệt. Chỉ thấy các ni, các bộ môn đều có hiện tượng chán chường, mệt mỏi. Bá Hi nắm quyền chính trị làm hỏng bét!
Phạm Lãi trầm ngâm. Văn Chủng liếc qua bạn hỏi:
- Thiếu Bá! Sao anh không hỏi chuyện Tây Thi?
Phạm Lãi ngẩng nhìn Phùng Đồng, Phùng Đồng cũng nhìn lại chàng chăm chú, dường như muốn tìm trên mặt chàng đường nét của tình yêu.
Phạm Lãi hỏi giọng âu lo:
- Tây Thi có biết Phùng huynh trốn về Việt không?
- Không. Tôi không nói cho nàng biết tuy tôi vẫn thường liên lạc với nàng. Tây Thi rất mạnh, dường như rất nhớ Thiếu Bá.
Phùng Đồng cố giấu chuyện Tây Thi yêu Phù Sai.
Phạm Lãi lập lại cách kéo dài: “Nàng rất mạnh...” với ngập tràn chua xót.
- Tây Thi đã sống thích ứng với hoàn cảnh nên từ bao giờ cho đến bây giờ, Ngô vương chẳng để tâm nghi ngờ nàng. Xem thế đủ biết nàng thành công ở Cô Tô đài.
Phạm Lãi khổ sở hỏi:
- Nghe đâu nàng bị bệnh mấy lần...
- Bệnh lúc trước, nhưng bây giờ nàng rất khỏe.
Phùng Đồng lại che giấu thêm một số việc mà sau khi thảo luận với Văn Chủng, cả hai đồng ý không nên nói cho Phạm Lãi nghe.
Phạm Lãi nói nhỏ như nói để chàng nghe.
- Mong cho nàng mạnh giỏi.
Văn Chủng chen nói:
- Bây giờ chúng ta đi vào vấn đề chính yếu. Theo tôi thì chúng ta nên hỏi mượn nước Ngô ba vạn thùng thóc.
- Mượn thóc? (Không hiểu ý Văn Chủng, Phạm Lãi nói luôn) Chúng ta có thiếu lương thực đâu?
- Mượn không vì thiếu mà muốn làm cho người Ngô hiểu rằng chúng ta có tính ỷ lại. Hơn nữa, còn làm cho Ngô vương hiểu rằng chúng ta nghèo, nghèo thì không phát động chiến tranh. (Văn Chủng thư thả nói thêm) Theo lời Phùng Đồng thì sau cái chết của Ngũ Tử Tư, Phù Sai để ý đến nước Việt chúng ta nhiều hơn. Vì trước khi chết, Ngũ Tử Tư tiên đoán chúng ta sẽ đánh Cô Tô.
- Thế à...?
- Mong được như vậy. (Văn Chủng bỗng bật cười) Đến lúc ấy, Thiếu Bá sẽ nhận Tây Thi về!
Phùng Đồng hỏi:
- Phạm đại phu có tin gì cần tôi mang sang Cô Tô?
- Không... có...
Phạm Lãi không muốn đưa tin tuy chàng có muôn lời vạn tiếng cần nói. Vì sự an toàn của Tây Thi, chàng không muốn thố lộ gì. Ngừng lại lúc lâu, Phạm Lãi hỏi:
- Bao giờ Phùng huynh trở lại Cô Tô?
- Vào tờ mờ sáng thì qua sông.
- Để tôi đưa Phùng huynh đến ven sông. (Văn Chủng nói thêm) Có gì, lên xe chúng ta sẽ bàn tiếp. Thiếu Bá, anh có thể đi chung không?
- Không được rồi. Sáng sớm, tôi phi duyệt binh.
Phạm Lãi không muốn nói nhiều với Phùng Đồng vì nói đến Cô Tô thì không thể tách rời Tây Thi. Và nhắc đến nàng thì chàng sốt ruột cơ hồ điên lên được.
Chẳng bao lâu, Phạm Lãi cưỡi ngựa đưa Văn Chủng và Phùng Đồng ra ngoài thành Hội Kê.
Trong đêm khuya, có một chiếc xe lao đi mất hút. Chỉ còn một mình Phạm Lãi đứng lặng, đưa mắt nhìn vào nguyên dã mịt mùng. Từ đó, chàng bỗng thấy ai mường tượng như Tây Thi, nàng độc hành trong đêm đen vô bờ...
***
Tin Ngũ Tử Tư chết đã truyền sang nước Sở.
Sở vương đội mũ cao, đeo trường kiếm, hướng dẫn các đại phu, triều thần đến văn miếu cúng tế tổ tiên. Nhìn các hình tượng của tổ tiên, Sở vương cất giọng oang oang:
- Tên sát sinh ấy chết rồi, từ đây nước Sở chúng ta không phi lo sợ nữa.
Dưới sự hướng dẫn của các thầy cúng rỗi, triều thần vừa ca vừa múa.
Vương tộc nước Sở vĩnh viễn không quên chuyện năm nào Ngũ Tử Tư thống lĩnh binh Ngô sang công phá thủ đô nước Sở. Ngũ Tử Tư đuổi vua Sở chạy, quật thây đời vua Sở trước lên để tự tay cầm roi đánh ba trăm roi. Đó là mối đại sỉ nhục từ thuở sơ khai đến giờ chưa có.
Hàng quý tộc nước Sở cũng vĩnh viễn không quên chuyện Ngũ Tử Tư để quân Ngô chiếm đoạt hết vợ con họ sau khi tràn chiếm thủ phủ.
Sở vốn là nước đứng đầu các quốc gia phưng Nam, nhưng sau lần càn quét của Ngũ Tử Tư, nước Sở tan hoang. Vua Sở không thể không dời đô cách xa Ngô hơn. Dầu vậy, tôi chúa Sở vẫn nặng lòng lo một ngày nào đó, binh Ngô sẽ đến nữa. Hôm nay, họ khỏi lo rồi bởi vì mặt trời Ngô quốc đã lặn.
Tại thành Lâm Truy, con trai của Ngũ Tử Tư mặc vải gai, thắt dây cỏ, mang tin thân phụ bị bức tử đến báo với vua Tề.
Tề vương cau mày, lập tức bãi triều, triệu tập riêng quần thần thân tín nghị sự. Vì Ngũ Tử Tư là người duy nhất phản đối việc Ngô phạt Tề. Ngũ Tử Tư chết đi, Ngô vương sẽ triệt để thi hành chính sách Bắc tiến. Bấy giờ, nước Tề được coi như tiền đồn phía Bắc, sẽ gặp điều bất hạnh nên Tề vương lo lắng mãi không thôi.
Nhưng họ Bao được giao chăm sóc việc học cho con của Ngũ Tử Tư lại hết sức mừng rỡ tâu:
- Ngũ Tử Tư chết rồi thì binh Ngô không thể hoành hành Trung Nguyên được. Trước kia, Phù Sai ngang dọc là bằng vào binh sĩ do Ngũ Tử Tư huấn luyện. Giờ Ngũ Tử Tư chết, binh Ngô sẽ mất tinh thần!
- Nhưng Phù Sai vẫn có thể tấn công chúng ta.
Họ Bao cả quyết:
- Tạm thời Phù Sai chưa phát binh đâu. Bằng có đến cũng bị đánh bại ngoài thành Lâm Truy!
Tại Khúc Phụ, công khanh nước Lỗ cũng theo luận về cuộc thế diễn biến sau cái chết của Ngũ Tử Tư. Bao năm qua, nước Lỗ thần phục nước Ngô. Nay Ngũ Tử Tư chết khiến chúa tôi nước Lỗ cảm thấy hoang mang, trống rỗng.
Vua Lỗ đau đớn nói:
- Nghiệp bá của nhà Ngô xem chừng phải đổi. Chúng ta lại phải tìm một chủ nhân khác!
Lý Tôn Thị lên tiếng khuyên ngăn:
- Muôn tâu, bây giờ chúng ta không nên vọng động. Bởi Ngũ Tử Tư tuy chết, nhưng binh sĩ do một tay Người huấn luyện hãy còn. Hơn nữa, binh Ngô có kỷ luật sắt, nhất thời chưa tan rã đâu! Theo thần đoán thì trong vòng đôi ba năm, nước Ngô vẫn chưa suy sụp hẳn.
Trong niềm lo sợ ấy, Lỗ vương phái người đi dò động tịnh của bốn nước: Ngô, Sở, Tấn, Tề.
Ngoài Hàn Cốc, cách Cô Tô thành không biết bao xa, nước Tần cũng được tin Ngũ Tử Tư chết. Người Tần trước đây cũng có việc đụng chạm với Ngũ Tử Tư. Nguyên lúc Ngũ Tử Tư công phá thành đô nước Sở, quân Tần giúp Sở mới đuổi được quân Ngô về. Lần ấy, binh Tần thắng nhưng người Tần biết rõ Ngũ Tử Tư là một nhân tài. Họ luôn luôn chú ý đến hành động của Ngũ Tử Tư nên cái chết của người rất được nước Tần xem trọng.
Ngũ Tử Tư là mặt trời của nước Ngô. Giờ đây, mặt trời đã lặn khuất rồi!
Từ đài Cô Tô nhìn xuống giáo trường, quân đội nhà Ngô vẫn cường tráng và có qui củ như trước.
Các cô gái Việt trên đài Cô Tô dĩ nhiên có phần thất vọng. Ai nấy tin rằng, cứ Ngũ Tử Tư chết đi thì binh Ngô sẽ tan rã. Nào ngờ, Ngũ Tử Tư chết đã hai năm mà binh lực nhà Ngô vẫn hùng mạnh như trước.
Di Quang thất vọng ê chề. Trong những đêm hôm vắng lặng, hoặc lúc Tây Thi ngủ trưa, Di Quang thường cùng chúng bạn tâm tình:
- Binh Hội Kê chưa phát động là họ đã láo khoét. Trước đây họ nói: “Ngày nay Ngũ Tử Tư chết, ngày mai binh Việt đến Cô Tô”.
Triền Ba biện gii:
- Có lẽ vì một biến chuyển quan trọng nào đó. Di Quang nhớ không, năm rồi quân vương cho người sang Ngô hỏi mượn lương thực. Lương thực không đủ thì làm sao đánh giặc cho được?
- Vì thế mà Ngô vương thêm phần quyết tâm tiến lên mặt Bắc. Sau cái chết của Ngũ Tử Tư, nhà vua định bỏ kế hoạch chinh phạt. Nhưng vì có người Hội Kê đến mượn lương mà nhà vua phát binh đánh Tề.
Các cô cùng thở dài:
- Đợi đến mình già chắc?
- Mười hai hay mười ba năm rồi nhỉ?
Thời gian ở Ngô quá lâu làm cho các cô gái Việt gần như không còn nhớ rõ nữa. Mỗi lần họp mặt than thở, chẳng mấy chốc là các cô nói đến Tây Thi.
- Thật là một con người kỳ cục!
- Tây Thi đã đến mức nguy hiểm rồi đó!
- Không hiểu chị ấy có mưu đồ gì trong cái chết của Ngũ Tử Tư, chứ theo mình thấy thì chị ấy rất thuơng tâm. Hình như không phải chị ấy chủ mưu giết Ngũ Tử Tư.
- Phùng đại phu nói Tây Thi là một nữ gián điệp tuyệt vời, nhưng tôi không tin.
- Có thể là Phùng đại phu nói mỉa đó!
- Không. Đại phu nói thật và tôi biết rõ ý người. Theo người, Tây Thi làm việc rất cẩn thận khiến ai cũng hiểu là chị ấy thật sự yêu Ngô vương và được Ngô vương yêu lại.
Các cô tha hồ bàn luận, không biết chắc đâu là đâu. Nỗi buồn phiền trong các cô ngày một gia tăng vì cả năm rồi, Phùng Đồng không cho các cô một chỉ thị nào cả.
Phần Ngô vương thì đã khởi binh phạt Tề chưa thấy trở về. Một mình trên Cô Tô đài, cuộc sống của Tây Thi rất đỗi bình yên nếu trông vào dáng vẻ bên ngoài. Nhưng ở tận đáy lòng nàng, mối khổ sầu đã đóng thành khối.
Thời gian dằng dặc càng lúc càng làm cho nàng cảm thấy cuộc đời rỗng tuếch. Sứ mạng nhận lãnh của quốc gia, thành thật nhìn nhận, nàng không có cố gắng thi hành. Về phương diện tình yêu, nàng cũng đã phụ tình. Nàng thường mong muốn trọn vẹn đôi đàng nhưng đây là một mối mâu thuẫn không có cách nào thống nhất.
Sáng nay, trên bình đài, Tây Thi đang tập múa kiếm, bỗng có tin báo thái tử Hữu một mình bước lên đài.
Lâu lắm rồi, Tây Thi và thái tử Hữu rất ít khi qua lại. Dưới mắt người Ngô, thái tử Hữu thuộc phe Ngũ Tử Tư. Tử Tư không ưa Tây Thi thì thái tử cũng bất mãn nàng. Vì vậy, ngay lúc vua cha ở nhà, thái tử cũng rất ít khi bước lên đài Cô Tô vì không muốn gặp Tây Thi.
Thế nên, khi nghe thị vệ báo có thái tử đến, Tây Thi rất ngạc nhiên. Nàng vội trao kiếm cho thị nữ, đoạn vào trong thay đổi y phục. Nàng thầm nghĩ, thái tử đến ắt có tin từ mặt trận. Và nếu vì tin mặt trận thì tin ấy hẳn quan trọng phi thường.
Tây Thi vội vàng trở ra tiếp người khách hiếm. Thái tử nghiêm trang hành lễ với nàng:
- Tây Thi phu nhân!
- Kìa! Thái tử, có phải có tin từ mặt trận không?
- Phụ vương sai tôi về vấn an phu nhân.
Nhìn thần sắc sợ hãi của Tây Thi, thái tử Hữu trở giọng nhẹ nhàng:
- Có lẽ phụ vương còn mất thêm một thời gian nữa ở mặt trận...
Tây Thi mẫn cảm, xanh mặt. Nàng có phần lo đo, khó khăn lắm mới nén được tiếng thở dài, hỏi giọng âu lo:
- Thái tử, có phải quân mình thất lợi...
- Bẩm phi, nhưng không lấy gì làm nghiêm trọng. (Thái tử vẫn giữ giọng hòa hoãn). Phụ vương không báo thẳng cho phu nhân biết vì sợ phu nhân sốt ruột. Phụ vương sai tôi về nói rõ tình thế: chúng ta chỉ thất bại nhỏ mà thôi.
Tây Thi cúi đầu, từ từ ngồi xuống.
- Thái tử! Tình trạng của đại vương như thế nào? Đã năm hôm rồi, thiếp chưa nhận được tin tức.
- Phụ vương rất bình yên.
Bấy giờ, Tây Thi mới mời thái tử ngồi.
Im lặng một lúc.
Đôi bên đều có bao lời muốn nói nhưng đều nhận thấy sự xa lạ giữa nhau nên chưa tiện nói ra. Vì vậy. Tây Thi truyền cho thị nữ dâng rượu.
- Tây Thi phu nhân!... Phụ vương hối hận về việc giết Ngũ tướng công...
Tây Thi giật nẩy, nhìn thái tử, nghĩ rằng thái tử sẽ dùng điểm ấy vào đề trách nàng. Nàng hỏi lại:
- Tướng phụ chết đi, phải chăng đã ảnh hưởng đến lần tác chiến này?
- Bẩm phi. Binh Tề không sợ chúng ta, về mặt khí thế, chúng ta không lấn át họ. (Thái tử thở dài tiếp). Tây Thi phu nhân! Phụ vương có viết ra đây niềm hối hận đã không nghe lời phu nhân để bảo toàn tướng phụ.
Tây Thi buồn bã lắc đầu, ngăn thái tử:
- Thôi đi!...
- Phụ vương còn nói, vì tướng phụ chết mà phu nhân bệnh một thời gian. Phụ vương bảo tôi thay người nhận lỗi với phu nhân...
- Thái tử! Thiếp không muốn nghe nhắc chuyện cũ.
- Bẩm phi. (Thái tử cao giọng). Trước đây, tôi cứ nghĩ rằng tướng phụ chết là vì phu nhân! Xin tha thứ cho ý nghĩ thấp kém của tôi.
Tây Thi có phần xốn xang:
- Thái tử, bỏ qua chuyện cũ đi! Trước kia, đại vương luôn luôn đối tốt với tướng phụ...
Tiếng nói của Tây Thi nhỏ rứt.
Im lặng thêm một lúc, thái tử Hữu mới thận trọng nói:
- Tây Thi phu nhân! Tôi muốn trưng dụng binh Bình Vọng đưa đi tiếp viện. Tôi biết, phụ vương không thắng trận này thì không chịu quay về.
Nghe nói đến “binh Bình Vọng”, Tây Thi không rét mà run. Lúc sống, Ngũ Tử Tư đã huấn luyện riêng số tân binh này để đề phòng nước Việt! Ngô vương từng muốn điều động cánh quân này nhưng Ngũ Tử Tư từ chối. Giờ thái tử Hữu lại cũng muốn rút cánh quân này khiến Tây Thi khó xử vô cùng.
- Tây Thi phu nhân! Mong được phu nhân cho ý kiến.
- Thái tử! Từ trước đến nay, thiếp không hề tham gia chính sự. Hơn nữa, thiếp là người Việt, đối với vấn đề này không nên nói gì. Nghe đâu tướng phụ lập đội quân ấy là để ngăn ngừa Việt vương sinh tâm.
- Phu nhân! Tình hình trước mắt khá nghiêm trọng. Nếu phụ vưng bại binh ở Trung Nguyên thì nghiệp bá của chúng ta đứt rồi... Huống chi, xây xong nghiệp bá thì nước Việt sẽ vĩnh viễn phát run, không dám làm ngụy. Chớ nếu rủi ra phụ vương thất bại ở Trung Nguyên thì Tấn, Tề, Sở có thể liên hiệp với Việt mà tấn công ta.
Thái Tử lo lắng nói tiếp:
- Tuy biết tân quân Bình Vọng không thể tùy tiện điều động nhưng với tình hình trước mắt, chúng ta không thể không dồn lực lượng vào Trung Nguyên.
- Thế thì xin tự thái tử quyết định lấy!
Tây Thi mỉm cười hiền hòa để che giấu nỗi băn khoăn trong nàng:
- Đối với quốc chính, thiếp không thể tỏ bày ý kiến.
- Phải rồi... (Thái tử Hữu trầm ngâm một thoáng đoạn tiếp). Tôi muốn nhờ thái tể Bá Hi dẫn đạo quân ấy lên mặt Bắc.
Đối với Bá Hi, Tây Thi luôn mất cảm tình tuy Bá Hi có lợi cho nước Việt. Nhưng trước sau như một, nàng vẫn xem Bá Hi không được chút nào. Thế nên, nàng phản đối, song là phản đối thật khéo:
- Thiếp thường nghe đại vương nói, Bá Hi sở trường về chính trị chớ không chuyên quân sự. Thái tử phái Bá Hi đi, biết đại vương có phản cảm gì không?
- Vậy để tôi phái Lâu Đông Trường Nhơn Ngu dẫn quân đi. Tự tôi sẽ đến trấn giữ Bình Vọng.
Lâu Đông Trường Nhơn Ngu là một dũng sĩ nổi danh của Ngô quốc. Năm xưa, tiếng tăm của người rất hiển hách trên chiến trường. Trong trận Hội Kê, Lâu Đông Trường Nhơn Ngu góp công nhiều nhất nhưng gần đây, Người già cả, bệnh hoạn, thối ngũ. Tây Thi rất biết Người, và cũng rất tin Người. Thế nên, lúc thái tử Hữu nhắc đến Lâu Đông Trường Nhơn Ngu thì Tây Thi mỉm cười, im lặng một thoáng mới nói giọng khẩn khoản:
- Thái tử! Thiếp có thể đi theo trong quân không?
- Tự nhiên có thể. Nhưng phụ vương mong phu nhân ở lại Cô Tô hơn!
- Thiếp sẽ tùy tình hình mà quyết định. Nếu có thể được, thiếp sẽ theo lên mặt Bắc với đại vương. Bằng không, thiếp sẽ ở Ngô cung chờ nghênh đón đại vương.
Cuộc bàn bạc đến đây là chấm dứt. Và lần thứ nhất, tân quân Bình Vọng bị điều động. Cũng lần thứ nhất Tây Thi đi theo quân đội chinh Bắc.
Lâu Đông Trường Nhơn Ngu nay đã già rồi. Người đứng trên chiến xa kéo quân lên mặt Bắc, tuy cũng ưỡn ngực uy nghi song đầu người trắng xóa khiến ba quân có cảm giác về chiều. Tây Thi vì thế mà buồn. Nàng thầm lo số tân binh này vì mất Ngũ Tử Tư mà mất tinh thần chiến đấu. Nàng cũng thầm lo vị lão tướng không đương nổi trọng trách lúc quyết chiến.
Ngoài thành Cô Tô, thái tể Bá Hi suất lãnh cung viên đến đưa tiễn. Bấy giờ, thái tử Hữu đã cẩn thận sang Bình Vọng trấn nhiệm nên không dự cuộc tiễn đưa. Nhận xong tiệc rượu của Bá Hi, Lâu Đông Trường Nhơn Ngu truyền lệnh bày đội ngũ cho Tây Thi và Bá Hi duyệt qua lần chót.
Bấy giờ, gia thần của Bá Hi là Phùng Đồng tự đến đánh xe cho Tây Thi.
Chiến xa đi từ hướng Tây vào trung ương. Phùng Đồng đưa cao roi ngựa, bảo các vệ sĩ xuống xe đem vật dụng đến cho Lâu Đông Trường Nhơn Ngu. Trên xe bấy giờ chỉ còn lại Tây Thi và Phùng Đồng.
Phùng Đồng nói giọng reo vui:
- Tây Thi! Thời giờ của chúng ta càng lúc càng gần. Rồi đây, Ngô quốc nhất định sẽ chiến thắng ở Trung Nguyên. Sau khi họ thắng là đến chuyện của chúng ta.
Tây Thi liếc qua Phùng Đồng không nói gì. Phùng Đồng tiếp:
- Cô nương đã vì Tổ quốc lập được đại công... Vấn đề điều động tân quân Bình Vọng đối với chúng ta thật hết sức quan trọng. Mong ở phương Bắc, cô nương cố gắng khuyến khích Ngô vương tranh bá với Tấn. Ngô - Tấn chống nhau là lúc chúng ta vào Cô Tô!
Lòng Tây Thi quặn thắt. Chuyện điều động tân quân Bình Vọng đã ghi khắc trên vai nàng. Đối với nước Việt, nàng lập được đại công. Nhưng đối với Ngô quốc thì nàng không sao tránh khỏi làm bia cho ngàn năm mắng chửi. Ôi, mà nào nàng có chủ tâm làm nên chuyện ấy cho cam!
- Tây Thi! Quân vương đã vì cô nương mà hãnh diện, Phạm đại phu cũng phái người đến nhờ tôi vấn an cô nương và báo rằng: Ngày giờ cả hai gặp lại gần rồi!
Phùng Đồng nhìn thấy lính mỗi lúc mỗi đến gần, nói thêm:
- Nhưng, lúc cô nương từ phương Bắc về thì quân ta đã vào thành Cô Tô.
Tây Thi chưa kịp trả lời thì vệ sĩ bảo vệ xe đã trở lại.
Phùng Đồng nói nhỏ lời bảo Tây Thi thận trọng đoạn giục xe vào trung tâm. Bấy giờ, tiếng trống vang rền, quân Ngô xuất phát.
***
Tình trạng giao chiến với Tề thật là thảm não!
Bao phen chinh chiến, đây là lần thứ nhất, Ngô vương Phù Sai bứt rứt, đứng ngồi không yên. Không phải thua lớn nhưng sau ba lần tấn công, quân Ngô đều bị quân Tề anh dũng đánh lui cả ba. Binh xa Ngô quốc tổn thất hơn trăm, bên Tề cũng thiệt mất ngần ấy. Thế nên, tuy quân Ngô tấn công không thủng, quân Tề cũng không đủ lực lượng phản công. Trận chiến nhì nhằng, cứ thế kéo dài.
Ngô vương mệt mỏi lắm rồi, ngài biết rằng trận chiến này phải thắng chứ không thể để bại. Nếu bại, hùng đồ tranh bá ở Trung Nguyên sẽ trở thành không. Và nước Ngô sẽ vì đó mà bị giáp công. Bao vây Ngô đầu tiên sẽ là Sở và Việt. Hai nước này chỉ vì quân Ngô quá mạnh mà ngần ngại, chưa hành động đó thôi. Nếu Ngô bại trận ở Tề thì họ sẽ không còn sợ gì nữa. Nước Ngô sẽ lâm vào nguy hiểm.
Thế nên, Ngô vương chỉnh đốn đội ngũ, cố giữ nguyên tình trạng, mong lấy việc không lui binh uy hiếp cho người Tề đầu hàng.
Chỉ cần Tề đầu hàng, Ngô sẽ rút quân liền. Ngô vương cho rằng Tề có thể đầu hàng. Vì trong quá khứ, đã bao phen Tề làm như vậy. Đầu hàng tượng trưng cũng được, cứ Tề lên tiếng đầu hàng thì Ngô rút quân, có gì là không hay đâu!
Ngô vương chờ đợi, đồng thời lén phái người liên lạc với Trần Hằng đang chấp chính nước Tề để giục Trần Hằng cầu hòa.
Nhưng Trần Hằng không cầu hòa. Tuy không đủ sức phản công, Trần Hằng đã nhìn thấy Ngô vương có ý định muốn rút lui. Thế nên, người cũng có cách tính toán riêng. Cứ quân Ngô mỏi mệt rút lui thì trong sách sử sẽ có tên Trần Hằng đẩy lui quân Ngô, hiển vinh biết mấy!
Vì những lẽ trên, đôi bên Ngô, Tề đều cố gắng cầm cự.
Quân Ngô đã được dày công huấn luyện, tuy sau ba lần tấn công không thắng, song dưới sự đôn đốc của nhà vua, tinh thần chiến đấu không sút. Duy có thời gian làm cho nhụt nhuệ khí đi. Thậm chí có binh sĩ hỏi nhau: “Chừng nào chúng ta có thể kéo về?”. Nhớ quê là một thứ tình cảm bất lợi trong quân.
Mỗi đêm, Ngô vương đều đích thân đi tuần tra. Có thể nói, chính sự nhọc nhằn của nhà vua làm cho binh sĩ còn tinh thần chiến đấu. Bất luận ngày đêm, Phù Sai đều có mặt giải quyết quân vụ. Mỗi ngày, nhà vua ngủ không quá ba giờ.
Đêm nay, nhà vua được tin có quân tiếp viện từ Giang Nam qua sông rồi theo đường thủy tiến lên mặt Bắc, vài ngày nữa là có thể tham chiến. Nhà vua không cho công khai tin ấy, định sẽ xuất kỳ bất ý tấn công một trận mà xoay trở cục diện.
Nhưng đồng thời nhà vua cũng có mối lo âu. Nếu lời tiên đoán của Ngũ Tử Tư trở thành sự thật, nếu Lâu Đông Trường Nhơn Ngu điều động tân quân Bình Vọng đi rồi, quân Việt thừa thế kéo rốc qua thì tình thế không sao tưởng tượng! Hơn nữa, nhà vua cũng có phần băn khoăn đối với Tây Thi. Nếu nàng nhìn thấy nhà vua bại trận thì thật không còn mặt mũi nào cho nhà vua hết!
Tây Thi, từ bao giờ vẫn xem nhà vua chồng nàng là anh hùng vĩ đại nhất. Nhà vua không muốn bị mất mặt trước người yêu. Ngô vương thầm nghĩ: Nhất định Tây Thi đã nghe được tin ta thất lợi ở chiến trường! Nhất định nàng vì ta mà lo âu... Nàng là người đàn bà quan tâm đến ta nhất! Nhất định ngày đêm nàng gọi tên ta... Nhất định ta phi thắng trận để cho nàng thấy...
Bồi hồi trước trận tiền, bao nhiêu ý nghĩ đổ xô vào Ngô vương. Tiếng trống điểm canh lại như thúc giục khiến tinh thần Ngô vương căng thẳng ghê gớm! Nhà vua bỗng nắm chặt tay, lẩm bẩm:
- Ta không thể thất bại!
Từ thoáng đã có tiếng yếu ớt vọng về:
- Ta không thể thất bại!
Tiếng vọng làm cho Ngô vương ngạc nhiên, chú mục nhìn quanh. Do đó, nhà vua bắt gặp một binh sĩ đi tới, khom mình nói:
- Đại vương có thể về nghỉ.
Nhà vua như một dã lang gio tai nghe động tĩnh từ xa đến gần. Đột nhiên, nhà vua đưa cao tay mặt hỏi:
- Bây giờ, quân địch ngủ cả phải không?
- Tâu vâng, đại vương!
- Thế thì bây giờ chúng ta tấn công.
Ngô vương nói như chỉ để nói với mình, đoạn khoa bước vào phòng đặt kế hoạch tấn công đêm. Ngài nghĩ: Bây giờ xua quân tấn công thì có thể bắt buộc Trần Hằng cầu hòa... Theo tưởng tượng thì dường như nhà vua mặc áo giáp, cầm mâu xông vào quân địch. Nhưng thời gian lặng lẽ trôi qua, kế hoạch tấn công ban đêm lần lần bị xóa bỏ. Không phải nhà vua không có hùng đồ mà là nhà vua bị mất niềm tin, sợ rằng rủi ra thất bại, cuộc diện bây giờ sẽ không giữ được. Nhà vua nằm trên giường thở dài.
Tiếng trống điểm canh lại vang lên lần nữa... Tiếng trống canh tư...
Gió đêm vi vu. Kế có tiếng sừng báo hiệu. Ngô vương biết đó là còi hiệu đổi phiên canh. Chiến trường qua được một đêm yên tĩnh.
***
Viện binh Ngô quốc đã đến chiến trường.
Tây Thi nhìn thấy nhà vua sạm nét phong trần tại chiến trường. Thần sắc của nhà vua khiến nàng âm thầm kinh mạng. Cách nhau năm tháng, Ngô vương dường như già hơn năm tuổi. Tóc râu không cắt, gió táp, nắng ăn khiến Ngô vương vừa đen vừa cằn. Bề ngoài nhà vua vẫn còn giữ vẻ tráng kiện nhưng từ đôi mi không sao giấu được nét ưu sầu.
- Tây Thi, nàng đến thật đúng lúc. Trẫm sẽ thắng trận cho nàng xem.
Nhà vua vừa nói vừa cười nhưng cười không được tự nhiên lắm. Tây Thi cố giữ điềm tĩnh, tươi vui nhẹ nhàng như lúc ở Cô Tô đài:
- Thiếp đến là để đón Quân vương ca khúc khải hoàn!
- Người Tề vì việc trẫm giết Ngũ Tử Tư mà có phần không sợ chúng ta. Họ cho rằng quân ta không có Ngũ Tử Tư thì không thể thắng. Có lý nào như vậy. (Ngô vương thẳng thắn trình bày chiến cuộc). Họ liều mạng cầm cự chờ ta rút lui! Họ thật hồ đồ, quân vương nước Ngô chưa bao giờ bại trận rút lui.
Ngô vương hít một hơi dài nói luôn:
- Tây Thi! Mấy lúc này, trẫm rất mệt...
- Tân quân Bình Vọng đến rồi, thiếp tin chắc chỉ đánh một trận là quân Tề tan rã.
- Tây Thi! (Nhà vua bỗng đầy vẻ sợ sệt, âu lo). Trẫm hỏi khanh...
Đợi một lúc, Tây Thi mới hỏi:
- Quân vương muốn hỏi gì?
- Việt quốc có thể nhân lúc ta rời Cô Tô mà tấn công không?
- Phù Sai!
Tây Thi thấy thẹn, trầm ngâm một thoáng mới lấy lại thản nhiên đáp:
- Nếu quân Việt đánh đến Cô Tô, thiếp sẽ thắt cổ trước mặt quân vương...
- Kìa, Tây Thi, trẫm không nghi ngờ lòng khanh. Trẫm chỉ muốn hỏi cho rõ tình hình... Quân Việt đánh vào Cô Tô có liên quan gì tới khanh đâu! Tuy là người Việt, khanh đã là quân phu nhân của nước Ngô! Trẫm hỏi khanh vì khanh và trẫm là một. Tây Thi, đừng quá nghi ngờ...
- Phù Sai! (Tây Thi tựa người vào nhà vua, thủ thỉ). Thiếp không có cách nào nói về vấn đề của nước Việt. Thái tử đóng quân ở Bình Vọng, thiếp tin rằng, tạm thời không có vấn đề gì. Nếu có, thái tử cũng có thể đối phó được.
Đó là cách nói như không nhưng Tây Thi đã phải cố gắng lắm mới nói được. Nàng cảm thấy, cứ có vấn đề liên quan giữa Ngô và Việt thì nàng nói gì cũng không tiện.
Ngô vương đặt một tay lên vai nàng.
- Trẫm mong thay đổi được cuộc diện.
Ngô vương từ từ quay lại, truyền cho thị vệ đi triệu Lâu Đông Trường Nhơn Ngu. Sau đó, nhà vua bước ra luôn, có Tây Thi bên cạnh.
Chẳng bao lâu, Lâu Đông Trường Nhơn Ngu đến. Tóc người trắng xóa, đầu cao hơn người khác một đầu. Đội Hiền Lương bày ra hai bên, Ngô vương nhìn Trường Nhơn Ngu với cảm giác xúc động. Bởi tuy lão thối ngũ đã bảy năm rồi, mọi người vẫn nhớ chuyện ngày xưa của lão...
Ngày xưa, Ngũ Tử Tư đã bảo lão:
“Ngươi rời khỏi chiến đoàn đi!”.
Trường Nhơn Ngu hỏi lại “Tại sao?”, thì Ngũ Tử Tư đáp: “Ta không thể để cho một danh tướng chết giữa chiến trường...”.
Bây giờ, Trường Nhơn Ngu có mặt tại sa trường, chứng tỏ cuộc thế đã đến mức nghiêm trọng lắm!
- Ngu! (Ngô vương nhìn thấy đầu lão trắng xóa cũng có phần cảm thán gọi nhỏ. Ngừng lại một lúc Ngô vương mới hỏi). Khanh thấy tình hình thế nào?
Thái độ Trường Nhơn Ngu rất nghiêm túc:
- Chúng ta có thể thắng trận!
- Khanh và tân quân Bình Vọng thật quen thuộc nhau không?
- Thần có thể chỉ huy như ý.
- Được rồi, vậy trẫm và khanh cùng xuất phát.
Ngô vương nắm chặt đầu tay gọi:
- Vương Tôn Hùng!
Vương Tôn Hùng nai nịt gọn gàng, bước tới mấy bước, đứng nghiêm trước mặt Ngô vương. Nhà vua phân công:
- Khanh phụ trách trung quân, dùng cờ hiệu của ta, thử tấn công địch trước có tính cách đánh nhứ. Đợi khi hai cánh khác khởi tấn công, khanh mới thật sự tấn công. (Ngô vương quay bảo Phó Nghi là người chỉ huy đội Hiền Lương). Khanh chuẩn bị binh xa, phụ trách cánh mặt.
Ngô vương đích thân chỉ huy hai trăm chiến xa và ba ngàn bộ binh từ bên mặt công thẳng vào đội ngũ kiên cố của quân Tề. Ngô vương phái tám tên lực sĩ chia nhau ở lại trên bốn chiến xa kiên cố để bảo vệ Tây Thi phía sau. Trước khi chia tay, nhà vua đặc biệt dìu Tây Thi lên xe, đồng thời gọi tên đánh xe đến dặn nhỏ:
- Nếu mặt trận phía trước bất lợi, ngươi phải đưa xe gấp rút trở về, đừng để Tây Thi phu nhân lâm cảnh nguy hiểm! Lại nữa...
Ngô vương muốn nói: “Nếu ta gặp điều bất trắc...”, song rồi Ngô vương bỏ lửng, không nói. Dặn dò một tên đánh xe về chuyện hậu sự thật không tương xứng với thân phận nhà vua.
Bốn chiến xa bảo vệ Tây Thi ở khu trung tâm. Tây Thi đứng trên xe, vẫy tay chào vị vua nước Ngô lâm trận.
Binh xa rầm rộ kéo đi lốc bụi mịt mù.
Cờ hiệu vang vang, tiếng trống như sấm. Một chiếc xe chở thầy đồng bóng phất cờ dũng sĩ...
Từ cánh trái, Lâu Đông Trường Nhơn Ngu hướng dẫn ba mươi loại xe xung phong đi trước, theo sau có hai trăm kỵ binh. Sau nữa, còn có một trăm hai mươi xe và một ngàn bộ binh. Tất cả là phân nửa số quân Bình Vọng từ xa đến. Số tân binh còn lại thì dành để ngăn giữ mặt sau và tiếp ứng cho trung ương.
Chiến trận bắt đầu, đầy khu nguyên dã toàn tiếng giết chóc.
Tây Thi đứng yên trên xe, chờ nghe báo cáo. Kỵ binh cứ mang lệnh truyền từ sa trường đi đi lại lại.
Tin đầu tiên Tây Thi nhận được đúng như dự liệu của Ngô vương:
- Báo cáo với phu nhân, đại phu Vương Tôn Hùng cho hay, Ngô vương đã xông vào trận địch.
Tây Thi nghĩ thầm: Phù Sai còn can đảm hơn Trường Nhơn Ngu! Đồng thời, nàng cũng thầm lo cho sự an toàn của Ngô vương.
- Phu nhân! Trường Nhơn Ngu đã tấn công rồi. Tân quân Bình Vọng của chúng ta thật dũng cảm.
Tin ấy làm cho Tây Thi mỉm cười. Nhưng kế tiếp là những tin báo làm cho nàng rầu: binh Tề đã phản công. Họ gọi tên Ngũ Tử Tư để làm cho quân Ngô rối loạn.
Tây Thi lại nghĩ: Thế này thì quân Ngô sẽ mất tinh thần!
Kế tin báo, một cánh quân Tề từ trung lộ xuất hiện cắt đứt người ngựa cánh phi của Ngô vương. Một giờ sau lại có tin báo:
- Phu nhân! Đại phu Vương Tôn Hùng đã tấn công vào trung lộ tiếp ứng cho đại vương.
Nghe thế, Tây Thi vẫn không có cách nào giữ được điềm tĩnh. Máu huyết trong nàng như mỗi lúc một chạy nhanh thêm khiến nàng nghe tim đau nhói... Nàng nhắm mắt, ngửa mặt van vái với trời xanh:
- Trời ơi! Xin đừng để thiếp trở bệnh nơi này!
Xa hữu nhận ra sắc mặt của phu nhân nước Ngô mỗi lúc một xanh tái!
Chẳng bao lâu có thêm tin báo:
- Đội cảm tử Bao Thị nước Tề đã xông vào đội ngũ trung ương của quân Ngô.
Thế là chiến trận đã thành hỗn loạn. Quân Ngô tuy có chiếm ưu thế song hơn chẳng bao nhiêu. Bất cứ một vài thay đổi nào cũng có thể làm mất đi ưu thế ấy.
Thời gian lặng lẽ trôi qua. Từ tuyến đầu có một số thuơng binh được đưa về.
Nhìn máu me bê bết đường đi, tim Tây Thi lại quặn thắt...
Thứ đến, có một chiếc xe từ tiền phương chạy bay về, trên xe có một tướng đứng tựa cột cờ, rõ ràng đã bị thuơng. Tây Thi nhìn rõ xe của đội Hiền Lương nên ra lệnh cho xe nàng lướt tới.
Người thọ thuơng là chỉ huy trưởng Phó Nghi, bị thuơng ở tay phải và vai phải. Lúc nhìn thấy Tây Thi, Phó Nghi cố gượng nói giọng reo vui:
- Tây Thi phu nhân! Chúng ta thắng rồi! Đại vương thần dũng đã công phá trại địch.
Trận chiến ác liệt đã thâu được kết quả sơ bộ.
Tây Thi chờ đợi, nhìn thuơng binh, xe hư lần lượt rút về. Trong giây phút ấy, nàng chợt nhận ra tim nàng trầm trầm như mặt trời lặn, tụt xuống, tụt xuống... Trước kia, nàng hy vọng Ngô vương sẽ là chúa tể anh hùng trong thiên hạ. Nhưng sau khi tận mắt nhìn cảnh chiến trường, hùng tâm của nàng lập tức vỡ vụn, tan đi.
Anh hùng là tắm máu đồng loại thế này!
Anh hùng là phải giết biết bao nhiêu người mới được công nhận! Và biết bao người chưa được xưng tụng anh hùng đã bị giết rồi!
Chẳng bao lâu sau, có một cánh quân trở về. Thắng trận đó nhưng trông họ không có hào tính chút nào! Họ cúi gầm, tỏ vẻ mệt mỏi không chịu được.
Ngày đã hết rồi, hoàng hôn đến.
Chiến địa sáng choang với không biết bao nhiêu ánh lửa. Tuy rất mệt mỏi, Tây Thi không muốn trở lại cung trướng mà còn chờ đợi Ngô vương.
Tin tiền phương dội về cho hay, toàn bộ binh Tề đã bại thối. Ngài vẫn bình yên. Đồng thời, Ngô vương khuyên nàng hãy nghỉ ngơi. Bấy giờ Tây Thi mới thở phào, vào trướng. Trong giây phút ấy, nguyện vọng duy nhất của nàng là: Từ rày về sau, đừng bao giờ có chiến tranh nữa!
Về đêm, hoạt động chiến trường vẫn chưa ngừng nghỉ. ở tiền phương, Ngô vương xuất lĩnh đại quân truy Nam rượt Bắc, mưu định tạo nên nhuệ khí cho tân quân Bình Vọng công phá thủ phủ Lâm Truy của Tề. Nhưng ở hậu phương, chung quanh nơi Tây Thi nghỉ có đến hàng trăm hàng ngàn tiếng rên đau...
Trăng sao trên trời, gió đêm phe phẩy.
Sáng ngày thứ hai chẳng bao lâu, Ngô vương và Trường Nhơn Ngu trở lại. Đại phu Vương Tôn Hùng lãnh nhiệm vụ truy kích đại binh Tề.
Tuy thắng lợi đó nhưng sự thâu hoạch thật nghèo nàn! Hơn nữa, lúc Ngô vương truy kích bại quân thì bị hậu quân Tề ngăn cản, phải nhờ cánh quân của Trường Nhơn Ngu đánh đuổi. Hơn nữa, chủ lực hậu phòng của Tề không bị tổn thất. Theo Ngô vương định thì có đến bốn trăm xe Tề vẫn còn nguyên! Vì thế, Ngô vương rút đội chủ lực về, để Vương Tôn Hùng với ba trăm xe và ba ngàn người lấy công làm thủ mà trông chừng Tề binh.
Sau một ngày đêm quyết chiến ác liệt, Ngô vương cường tráng cũng tỏ ra thảm não khôn cùng. Lúc Tây Thi cởi áo giáp cho Ngài, nàng nhận ra y phục toàn đẫm ướt.
- Quân vương, để thiếp lau...
- Không đâu, tự trẫm lau lấy được.
Tuy mệt mỏi, nhà vua vẫn không muốn cho Tây Thi phục dịch mình. Ngài vỗ nhẹ cánh tay nàng, nhưng Tây Thi dịu dàng nói:
- Để thiếp vì quân vương một lần.
Tây Thi dùng nước nóng tắm cho nhà vua, sau đó lại giúp ngài gội đầu, chải tóc.
Ngô vương cảm thấy toàn thân nhẹ nhàng, thơ thới. Ngã mình trên nệm, nhà vua cao giọng nói:
- Tây Thi! Trận đánh thật quyết liệt, thiếu chút nữa chúng ta đại bại.
Tây Thi vừa xoa bóp cho nhà vua vừa đáp:
- Thiếp biết... Thiếp cũng nhìn thấy nữa.
- Xoa bóp thế này dễ chịu quá! Tây Thi, nếu nàng không mệt thì làm lại đôi lần.
Tây Thi mỉm cười:
- Thiếp không cảm thấy mệt gì.
- Ơ... (Chập sau, Ngô vương thở dài nói thêm) Quân Tề như điên ấy, cứ liều chết, chết bao nhiêu lại tiến lên bấy nhiêu!
- Thiếp nghe nói, quân vương còn dũng cảm hơn cả Trường Nhơn Ngu.
- Lão ấy già rồi... nhưng đánh giặc rất giỏi. Có thể nói đây là trận lão đánh hay nhất. (Không vui vẻ gì, Ngô vương lại thở dài) Trận này, chúng ta cũng bị tổn thất nặng nề. Hư ít nhất cũng trăm năm chục xe và vừa chết vừa bị thuơng có đến trên hai ngàn rưỡi!
Tây Thi âm thầm giật nẩy song không để lộ ra.
- Trẫm nghĩ là quân Tề sẽ chạy thẳng về Lâm Truy, không ngờ họ bày thêm trận ở giữa đường. Tây Thi, trận ấy làm trẫm mệt ngất!
Tây Thi mỉm cười, chuyển đề:
- Còn bây giờ?
- Bây giờ rất dễ chịu!
Ngô vương nhắm mắt, chẳng bao lâu ngủ vùi. Tây Thi cũng nằm xuống, ngủ bên cạnh.
Tề xin hòa rồi! Lúc Ngô vương ngủ say, Trần Hằng phái người đến Vương Tôn Hùng xin hòa. Nhưng lúc Ngô vương thức giấc thì tin nhận được đầu tiên là tin Trường Nhơn Ngu thổ huyết.
Ngày đêm lăn xả vào cuộc chiến ác liệt đã làm mất hết nguyên khí tàn tạ của vị lão tướng nước Ngô. Chiến trận kết thúc, bao nhiêu tinh lực tập trung căng thẳng được xã ra thì vị lão tướng ấy không còn giữ mình được nữa.
Đối với Ngô vương, tin ấy như tin sét đánh! Ngài vội choàng áo đi vào doanh trại viếng thăm.
Hơi thở trầm trầm, nhìn thấy nhà vua, Trường Nhơn Ngu cố nhếch nụ cười thê thảm nói:
- Đại vương! Đáng kể là thần không chết tại chiến trường. Năm xưa, Tướng phụ bảo: “Một vị tướng thành danh không thể để địch nhân đánh chết! Vì như thế sẽ làm mất uy phong của mình và tăng dũng khí cho địch!” May mà thần đã đứng vững trên chiến xa quay về!
- Ngu! (Ngô vương cầm tay vị tướng già) Trẫm muốn cho thầy thuốc đưa khanh về Cô Tô, để khanh ở trên Cô Tô đài trị bệnh.
- Cm tạ hậu ý của đại vương nhưng thần đã sức cùng lực kiệt. Theo thần nghĩ thì thần không thể sống đến ngày mai. (Ngừng lại một lúc, vị tướng già nghiêng đầu gọi). Bị Ly! Đem trường mâu của ta ra đây để hiến lại đại vương.
Bị Ly là một thanh niên lùn thấp, vạm vỡ, tóc tai bù xù. Nhưng phía trước trán có dấu kéo cắt ngắn, chừa một ít tóc phủ trán. Đó là kiểu cắt tóc dành cho người bị hành phạt.
Ngô vương lạ sao Trường Nhơn Ngu lại dùng một người bị hình phạt ở bên mình, nên hỏi:
- Người ấy là ai?
- Bị Ly là một dũng sĩ, phạm tội lúc tướng phụ mất. Lúc thần từ Cô Tô đi thì thái tể đem giao Bị Ly cho thần làm một xa hữu.
- à, Bị Ly đã lập được công... (Ngô vương liếc qua Bị Ly) Trẫm xá tội cho!
- Bị Ly đã lập được đại công... (Tiếng nói của vị tướng già nhỏ rứt) Hôm qua, Bị Ly đã dùng trường mâu vít lật ba xe Tề và đâm chết năm tên... Bị Ly là một dũng sĩ...
Bị Ly cầm mâu đứng yên, không một phản ứng.
Nhìn trường mâu của vị tướng già, Ngô vương cảm khái khôn cùng. Hơi thở của vị tướng bạc đầu càng lúc càng yếu ớt.
Cảm thấy sinh mạng của vị tướng già sắp chấm dứt, Ngô vương ứa nước mắt nói:
- Ngu! Khanh cần trẫm làm điều gì cho khanh không?
- Tâu không. (Trường Nhơn Ngu phều phào) Kể là thần đã thêm một lần thắng trận!
Nhắm mắt dưỡng thần một lúc, vị tướng già lại mở mắt nói:
- Đại vương! Thần mong được chôn cất ở Cô Tô.
- Trẫm hứa với khanh.
Ngô vương thuơng cảm nhận lời. Vị tướng già mỉm cười, vặn mình rồi chết.
- Ngu!
Ngô vương gọi một tiếng lần cuối rồi cúi gầm đứng lặng. Mãi đến khi các vu sư vào, nhà vua mới chậm rãi bước ra.
Bị Ly bước theo Ngô vương ra ngoài, hai tay dâng trường mâu. Ngô vương nhận lấy, vung lên, nhìn chữ khắc trên cán mâu. Thì ra là binh khí do Ngũ Tử Tư chế tạo. Một hàng chữ ấy làm cho nhà vua bứt rứt trầm ngâm rồi buột miệng hỏi:
- Bị Ly, ngươi có chuyên dùng mâu không?
Bị Ly rống giọng ồ ồ đáp:
- Tâu Đại vương, thần có thể dùng.
- Trẫm ban cho ngươi đó!
Bị Ly nhanh nhẹn đưa tay phải nhận mâu nhưng không nói cám ơn. Ngô vương vừa đi vừa hỏi:
- Trước kia, ngươi phạm tội gì?
- Phạm tội... (Bị Ly nói thẳng) Thần đến ven sông tìm vớt thây tướng phụ và khiêu võ trong rừng cây nên bị thái tể trừng phạt.
- Ngươi là gia nô của Ngũ tướng?
- Thần là đồ tể ở Bình Vọng được tướng phụ thâu dụng dưới cờ vì có sức khỏe.
- Ngươi theo trẫm đến đội Hiền Lương.
Bị Ly vẫn không nói cám ơn, chỉ đi cách khoảng với Ngô vương.
Bấy giờ, Vương Tôn Hùng mới cho người đến báo tin Tề xin cầu hòa. Ngô vương muốn hỏi thêm Bị Ly đôi câu nhưng tin ấy làm cho nhà vua xúc động vội vã quay về nói lại với Tây Thi.
Nàng nhảy dựng, ôm chầm cánh tay nhà vua, hứng khởi nói:
- Quân vương, chúng ta có thể về rồi. Mong rằng từ đây vĩnh viễn không có chiến tranh.
Ngô vương choàng ngang lưng nàng:
- Khanh muốn thế à?
- Vâng, thiếp muốn cùng quân vương trở lại Cô Tô.
- Trẫm nghĩ, bây giờ thì có thể...
Ngô vương kéo dài âm điệu, ngừng lại một lúc mới nói tiếp:
- Trước ngày hôm qua thì thật khó nói. Trẫm không dám loan tin Tấn đã phát binh, chuẩn bị đánh với ta. Nhưng sau trận chiến hôm qua, thì trẫm đoán chừng họ không dám nữa.
Tây Thi ôm mặt nhà vua, cười vang như trẻ thơ.
Vào hai tháng trước, Tấn đã động viên năm trăm chiến xa, chờ đợi thời cơ để phối hợp với Tề. Nhưng sợ uy dõng của quân Ngô nên Tấn không ra quân trước mà chỉ đồn trú ở biên cảnh chờ thôi. Nếu Ngô thất bại thì Tấn sẽ thừa cơ tiến tới.
Ngày hôm sau, Ngô vương tiếp kiến sứ thần Tề quốc tên Bao Bí chính thức sang cầu hòa, đồng thời định ngày hội minh uống máu ăn thề. Thời hạn mười ngày sau rất vừa ý Ngô vương. Ngài muốn tranh thủ thời gian để chỉnh đốn đội ngũ hầu che giấu tổn thất trong trận đánh Tề.
Nhưng sau khi tiếp kiến sứ Tề quay về, Ngô vương đã nhận được tin cấp báo của thái Tử Hữu khiến nhà vua giật nẩy.
Quân Việt đã tấn công rồi.
Nhìn thư cấp báo trong túi vải, đôi mày Ngô vương nhăn tít. Nhưng chớp mắt sau, nhà vua lại nhếch mép cười, vẫy tay cho người đem tin theo vào trong hỏi:
- Ngươi biết nội dung thư báo của thái tử không?
- Tâu biết. Hạ thần là tiểu thần của thái tử. Thái tử còn dặn dò hạ thần phải trình rõ tình hình với đại vương.
Ngô vương gật đầu, ra lệnh cho thị vệ và các tiểu thần bên trong thối lui rồi mới hỏi:
- Binh Việt khởi sự tấn công thế nào? Tại sao quân ta lại bại?
- Muôn tâu, thoạt đầu tù nhân nước Việt trốn sang biên cảnh nước ta có đến bảy tám chục người. Quân Việt theo bắt mà không báo cho bên ta biết. Bọn hạ thần đi tuần bắt gặp nên hai bên choảng nhau. Quân Việt bị quân ta giết hết mười người, số còn lại chạy trốn.
- Đó chỉ là việc tầm thường ở biên giới, sao có thể gây nên can qua được?
- Muôn tâu, tuần binh Việt chạy về thì sang ngày hôm sau có chiến xa và đại đội binh mã tràn tới. Quân tuần của ta bị đánh tan rã. Thái tử nhận được tin ấy liền cho người đi chất vấn, một mặt hạ lệnh chuẩn bị đối phó ở Dư Hàng. Nhưng quân Việt thừa cơ công thẳng vào Dư Hàng, Hiệp Thạch, tiến gần Đồng Hưng... Theo tin bắt được thì quân Việt do Gia Kê Dĩnh thống lĩnh.
- à...
Ngô vương sậm mặt xem kỹ tờ mật báo của thái tử Hữu, chặp sau lại hỏi:
- Lúc ngươi đi đây, Thái tử đã phát binh chưa?
- Thưa chưa.
- Thái tử nhát gan rồi!
Ngô vương cho báo sứ ra ngoài nghỉ, đoạn gọi Cáo Tư vào bảo:
- Ngươi gọi Bị Ly đi giết báo sứ từ Cô Tô đến. Nhớ dặn Bị Ly không cho báo sứ nói một câu nào, cũng đừng để báo sứ nói lọt phong thanh gì.
Mục đích Ngô vương làm thế là để giấu nhẹm tin quân Việt tấn công. Bị Ly hoàn thành nhiệm vụ rất dễ dàng song vẫn để cho Cáo Tư phục lệnh.
Ngô vương trở vào phòng riêng, buồn bã nói với Tây Thi:
- Quân Việt đã xâm phạm biên giới chúng ta!
Từ tận đáy lòng Tây Thi đã có sự run lên vì câu nói này. Ngô vương bắt gặp mặt nàng trắng như tờ giấy thì rất lấy làm hối hận. Ngài yêu nàng, thuơng hại nàng, không muốn cho nàng bị kinh mạng. Thế nên, nhà vua lập tức nở nụ cười, hỏi giọng như nói chi:
- Khanh đoán thử xem tin ấy là thật hay gi?
Biết rõ là thật, Tây Thi vẫn lấp lửng đáp:
- Chưa bao giờ quân vương dối gạt thiếp.
- Nhưng vừa rồi là trẫm nói chơi đó. Ha ha... (Ngô vương cười cởi mở nói thêm) Câu Tiễn muốn đưa binh trợ giúp trẫm đánh Tề nên có hiểu lầm ở biên cảnh.
Cách giải thích nghe xuôi khiến Tây Thi nửa tin nửa ngờ song không hỏi thêm.
- Trẫm muốn làm khanh giật mình chơi... (Ngô vương cả cười, ôm choàng nàng một lúc đoạn đặt xuống) Trẫm còn có việc...
Ngô vương vừa nói vừa đi vào phòng làm việc riêng, dùng dao bén khắc chữ lên phiến trúc trả lời thư thái tử Hữu: Nếu Câu Tiễn đích thân cầm binh thì thái tử hãy giữ chặt Bình Vọng. Bằng chỉ có Gia Kê Dĩnh thì thái tử nên lập tức cho đội chủ lực tấn công ngay.
Viết xong, tự tay Ngô vương cho vào bao da, phong lại, cho người đem đi. Nhưng càng lúc nhà vua càng bối rối, càng nôn nóng. Mười ngày sau có cuộc ước hẹn với Tề nên Ngô vương không thể kéo quân về liền. Huống chi đoàn quân viễn chinh chưa được nghỉ ngơi, không thể tác chiến nữa. Vì thế, nhà vua lại rầu rĩ.
Ba ngày sau lại có tin: Đồng cỏ phía Tây Hiệp Thạch đã bị quân Việt chiếm cứ. Nhưng thái tử Hữu tỏ ra bình tĩnh hơn cho rằng tự mình có thể giải quyết vấn đề này, mong vua cha không phải nặng lòng lo.
Dầu vậy, Ngô vương cũng chẳng yên tâm. Ngài lại viết thư cho Bá Hi, ra lệnh trợ giúp thái tử. Trong thư, Ngài chỉ trích Bá Hi, buộc phi giải thích nguồn cội lý do Việt binh xâm phạm. Bởi vì Bá Hi từng bảo đảm Câu Tiễn không sinh lòng phản trắc.
Tuy không biết rõ tình hình Việt lấn Ngô, nhưng từ thần sắc của Ngô vương, Tây Thi đoán biết đôi phần. Nàng biết, việc Việt lấn Ngô không phải gì, đúng như năm xưa Ngũ Tử Tư đã cảnh cáo. Song nàng không dám hỏi Ngô vương về vấn đề này.
Vận số Ngô vương hình như rất tốt. Hôm nhà vua cùng Trần Hằng hội minh kết hòa thì tin từ quốc nội đưa sang rất lạc quan: thái tử Hữu đã chỉ huy quân Bình Vọng đánh ở Đồng Hưng, đánh tan một cánh quân Việt.
Tin ấy làm cho Ngô vương yên tâm phần nào. Sang ngày thứ hai của cuộc hội minh, Ngô vương còn tổ chức hội yến, mời vua tôi Tề đến xem quân thế Ngô. Sang ngày thứ ba, Ngô vương mới suất lãnh ba trăm xe đi trước, để Vương Tôn Hùng ở lại đoạn hậu.
Tình hình đã hòa dịu nhưng Ngô vương vẫn còn phiền muộn...
Trên đường về nước, nhà vua luôn giữ trầm mặc, đồng thời rất hận Câu Tiễn theo quan điểm của mình. Nhà vua nghĩ, nếu không có Câu Tiễn tấn công phía sau thì quân Ngô đã lấn Tề, lấn Lỗ, bắt buộc Tấn phi hội minh(1). Và nếu được thế thì nước Ngô ở phưng Nam đã trở thành bá chủ Trung Nguyên.
Lúc đại quân qua Trường Giang thì những tin tức liên quan đến việc Việt xâm phạm quân Ngô không còn giấu giếm được nữa. Tây Thi cũng biết rõ cả, liền sai tiểu thần Cáo Tư vời Ngô vương đến trách:
- Tại sao quân vương lại đi giấu thiếp?
- Tây Thi! Trẫm sợ khanh biết rồi buồn. Hơn nữa, tình hình cũng không lấy gì làm nghiêm trọng.
Mắt ửng đỏ, nước mắt Tây Thi chạy ra không có cách nào ngăn được:
- Quân vương!... Thiếp đối với quân vương có chỗ khiếm khuyết... Thiếp ái ngại mình là người Việt... Cũng rất ái ngại quốc gia Việt không cùng Ngô chung sống hòa bình...
- Rồi chuyện sẽ qua mau. Câu Tiễn muốn thăm dò lực lượng phòng vệ hậu phương của ta nhưng trẫm tin rằng Câu Tiễn sẽ biết khó mà rút lui.
Ngô vương và Tây Thi kéo quân về đến Ngô cung ở Cú Khúc.
Bá Hi dâng biểu chương đến, báo rằng quân Việt đã rút lui. Việt vương Câu Tiễn lại còn gửi thư tạ tội. Sau đó, cũng có tin báo của thái tử Hữu: Quân Việt ,bị đánh bại, Gia Kê Dĩnh rút khỏi Dư Hàng, đại phu nước Việt là Văn Chủng đã sai sứ đến Bình Vọng nhận lấy trách nhiệm. Sau bản báo cáo, thái tử Hữu còn kèm lời nhận xét Việt binh: Khả năng chiến đấu không quá như lời đồn. Duy có quân sĩ dũng cảm, hành động cơ trí và bắn tên rất chính xác.
Do đó, Ngô vương đã trút được tất cả nỗi niềm tâm sự. Nhà vua truyền lệnh cho đại quân nghỉ dưỡng ở Cú Khúc năm ngày, đồng thời mở tiệc khao quân, ăn mừng thắng lợi.
Đêm nay, tại Ngô cung, Ngô vương cùng ba quân tướng sĩ uống đến say khướt. Tiểu thần Cáo Tư cùng hai tên nội thị đỡ dìu Ngô vương lên thềm vào cung, có Tây Thi đứng ở hành lang nghênh đón.
Bấy giờ dũng sĩ Bị Ly đang giữ nội cung bỗng rời cương vị, nâng cao trường mâu đâm thẳng vào hậu tâm Ngô vương.
Tây Thi đứng bên trên, nhìn thấy liền phát tiếng hô hoán.
Nghe biết có chuyện lạ, Cáo Tư nghiêng mình nhìn thấy thế liền hô: “Thích khách!” Bấy giờ, trường mâu lao tới, Cáo Tư chỉ còn có cách dùng thân che chở cho Ngô vương.
Bị Ly sức mạnh vô cùng, đâm qua thân Cáo Tư còn chạm vào làm thuơng tổn đến Ngô vương khiến cho cả hai đồng thời cùng ngã. Ngô vương đang say khướt song không chút do dự rút kiếm chặt đứt trường mâu. Bị Ly vứt mâu, rút lưỡi trủy thủ nhảy xổ tới.
Tây Thi không kể gì thân mình, sà lại ngăn cản. Nhưng Bị Ly đã dùng tay trái đẩy nàng ngã vật ra vừa lúc Ngô vương đứng lên được, thốc trường kiếm đâm tới. Hai tên nội thị vừa hô thích khách, vừa áp vào cứu nhà vua.
Máu chảy dầm dề nhưng tinh lực Ngô vương thật kinh người. Ngài lách tránh được Bị Ly, nhảy xổ tới bên Tây Thi dùng thân mình ngăn che cho nàng khỏi thuơng tổn rồi mới vung kiếm tấn công.
Bị Ly đã quyết tâm liều mạng, dùng tay trái đón hứng mũi kiếm, vung lưỡi trủy thủ trong tay mặt đâm vào yết hầu của Ngô vương.
Nhà vua chưa bao giờ gặp phải một người có lối chống trả như vậy. Kiếm của nhà vua đã chặt đứt hai ngón tay Bị Ly, đồng thời ngài lại bị lưỡi trủy thủ của Bị Ly đâm chĩa vào ngực. Nhà vua chỉ còn có cách vung tay trái ngăn chặn, nên bả vai bị trúng thuơng liền.
Thị vệ xông đến, nhưng Ngô vương đã khống chế được thích khách trước khi thị vệ xuất thủ. Vừa lúc ngã xuống, nhà vua đã dùng kiếm chặt chân Bị Ly khiến thích khách không sao đứng lên được.
Hai ngọn trường mâu của thị vệ chĩa kềm thích khách. Ngô vương nén đau gượng đứng lên, nhổ lưỡi trủy thủ ở bả vai ra, dùng tay đè miệng vết thuơng, nhìn Bị Ly đang co rúm, trầm giọng hỏi:
- Ai sai khiến ngươi? Tề hay Việt?
Trên mặt Bị Ly lại hiện nét đau đớn nhưng chỉ thoáng sau thì gã lại cười đáp:
- Phù Sai, ngươi quên Ngũ Tử Tư...? Ha ha... Ngươi quên Ngũ Tử Tư!
Thì ra Bị Ly vì Ngũ Tử Tư mà rắp tâm báo thù.
Biết nhà vua đã bị trọng thuơng, sợ máu ra nhiều có hại, Tây Thi chen lấn ra trước, khuyên Ngô vương vào nghỉ, để thẩm vấn sau.
Gượng vào được nội thất, Ngô vương ngã quỵ tựa trường kỷ. Sau lưng nhà vua đã bị trường mâu rạch một đường dài hai tấc, vai trúng lưỡi trủy thủ khá sâu, máu ra ướt đẫm y phục.
Lang y và nội thị lo rịt vết thuơng, bốc thuốc, Tây Thi ngưng khóc, đứng bên nhìn Ngô vương. Trọn chuyện vừa rồi làm nàng hết vía!
Được băng bó xong, Ngô vương vẫy tay mặt gọi:
- Tây Thi!
Nàng run rẩy, sụp quỳ, ôm chầm cánh tay nhà vua, nức nở vì kinh hoàng tột độ. Ngô vương gượng cười:
- Không việc gì đâu, ngày mai trẫm sẽ lành ngay.
- Quân vương! Quân vương!...
Tây Thi nghẹn ngào, toàn thân run rẩy. Ngô vương đưa tay vuốt sẽ tóc nàng:
- Không việc gì đâu, Tây Thi!
Vương Tôn Hùng được tin, vào vấn an. Nhà vua nén đau phán bảo:
- Trẫm chỉ bị thuơng ngoài da... Khanh truyền cho mọi người biết ngày mai vẫn duyệt binh như thường.
Phù Sai là một anh hùng. Sẽ là bá chủ Trung Nguyên. Ngài không muốn để cho thần dân nhìn thấy Ngài bị thích khách đâm trọng thuơng.
Đêm ấy, giáp sĩ như rừng giữ chặt bốn bên Ngô cung bảo vệ nhà vua. Qua cơn say, bị đâm chảy máu, chẳng bao lâu nhà vua ngủ vùi. Nhưng Tây Thi thì không ngủ được. Nàng ngồi bên Ngô vương, để Thuộc Lâu bửu kiếm bên chân với ý rằng: Nếu có thích khách tới nữa thì nàng sẽ chống trả. Nàng muốn được như Cáo Tư, dùng thân che chở vua Ngô.
Trong khi ngủ, thỉnh thoảng Ngô vương cất tiếng rên khẽ... Anh hùng hay thường dân, lúc cơ thể mang thuơng tích đều có cách phản ứng như nhau. Nhưng tiếng rên của nhà vua lại làm cho Tây Thi khổ sở vô vàn. Những ý tưởng về anh hùng trong nàng lại một lần nữa bị dao động, bị tiêu diệt... Chỉ vì một tên thích khách mà một vị anh hùng đã ra nông nỗi! Nàng nhớ lúc Ngô vương một tay bịt miệng vết thuơng, trầm giọng hỏi:
- Ai sai khiến ngươi? Tề hay Việt?
Tề hay Việt đều có thể cho thích khách đến! Tây Thi thoắt lạnh lòng, mở to mắt, kêu thét...
Ngô vương choàng tỉnh. Trong mơ hồ, nhà vua nghĩ rằng Tây Thi thân yêu của ngài bị ác mộng. Ngài đưa tay sờ soạng tìm nàng, đồng thời bảo:
- Tây Thi, nàng đừng sợ, trẫm không việc gì đâu!
Bên ngoài có tiếng bước chân của võ sĩ tỏ ra họ đang có mặt.
Từ chỗ kinh hoàng, Tây Thi dần lấy lại bình tĩnh. Nàng ôm kiếm, ngã mình xuống, rúc người tựa ngực Ngô vương sám hối... Sám hối vì những quan niệm quốc gia và ái tình mà nàng không có cách nào tìm được lối thoát trong bao nhiêu mâu thuẫn: Thù hận của quốc gia và tình yêu của con người dằn vặt nàng, dày vò, xung đột mãi không thôi...
*****
(1) Hội minh là họp lại để cam kết giữ thế hòa nhau; có cắt máu, hòa máu, uống máu thề nguyền không gây chiến.
Hội Kê thành cần lao, thịnh vượng như hoa viên vào một ngày xuân, cỏ hoa tươi tốt dưới gió xuân đưa, mưa xuân rây rắc. Nhưng đây là hoa cừu cỏ hận.
Câu Tiễn, một vị vua từng chịu nhục đã gieo rắc khắp nước mối hận thù của chính mình. Ngày, tháng, năm chồng chất, hận thù cũng theo đó chồng chất. Hôm nay, mỗi người dân Việt đều có khái niệm lấy việc phục thù rửa hận làm ý nghĩa tồn tại trong cuộc sống. ý sống của họ là phải diệt Ngô.
Ai là người trai Việt hôm nay cũng đều cầm đao thuơng chiến đấu. Ai là chiến sĩ cũng đều được Việt vương kính trọng.
Gần như lấy việc phục thù làm cơn ru ngủ, Việt vương đã xem nỗi phẫn hận là thần minh. Một hôm, Việt vương hướng dẫn lính đi tuần, bắt gặp trên đất sình một con ốc đang giận dữ, giưng vòi, chuẩn bị chiến đấu. Việt vương ra lệnh cho toàn đội tránh ra, không làm kinh động con ốc. Nhà vua còn nói với mọi người có mặt:
- Bất luận là người, thú, hay côn trùng, nếu biết chiến đấu đều có giá trị đáng kính trọng. Không phải trẫm xem trọng một con ốc mà là trẫm kính trọng ý chí phấn đấu!
Đối với thần dân Việt quốc, lời ấy là một khi thị quan trọng. Nghĩa là không lười, không mệt mỏi gìn giữ phấn chí, đốt lửa căm thù.
Nhưng Gia Kê Dĩnh nhân lúc Ngô vương đi đánh trận xa mà xâm nhập nước Ngô thì người ở Hội Kê không mảy may hay biết.
Gia Kê Dĩnh đã rút quân về rồi, lưu đội ngũ ở bên kia sông Tiền Đường, chỉ kéo một tiểu đội sang sông về Hội Kê.
Câu Tiễn, Văn Chủng, Tiết Dung v.v... kéo tới Vũ Xã (1) chờ đợi Gia Kê Dĩnh. Vị tướng quân dừng ngựa ngoài miếu thờ, đứng yên một lúc mới bước vào hành lễ với Quân vương. Đoạn móc trong người ra một tấm vải có đường nét ngang dọc và viết chữ chi chít, dâng hai tay cho Văn Chủng.
Lúc mới gặp nhau, tất cả đều lặng thinh.
Văn Chủng trải tấm vải ra trên bàn lễ, nói nhỏ:
- Đây là đồ hình tỉ mỉ ghi sự bố trí của quân Ngô ở Bình Vọng.
Việt vương cũng nói nhỏ:
- Đợi Thiếu Bá về sẽ xem lại.
Vì vậy, Văn Chủng quay hỏi Gia Kê Dĩnh:
- Tại sao Phạm đại phu không về cùng lượt với tướng quân?
Hiểu được dụng ý của Văn Chủng, Gia Kê Dĩnh đáp:
- Phạm đại phu đưa sứ giả vào Ngô, có lẽ sắp đến rồi.
Câu Tiễn hạ giọng thật thấp:
- Người Ngô không biết có Phạm đại phu ở trong quân sao?
- Tâu phải. Ngay trong đội ngũ của hạ thần cũng chỉ có hơn mười người biết Phạm đại phu có mặt. (Gia Kê Dĩnh nhếch cười) Phạm đại phu cải trang thành một vu sư rất giống. Đại phu biết cả đọc thần chú. Mọi người trở lại trầm mặc.
Kh6ong một khắc sau, Phạm Lãi đội mũ cao hăm hở bước vào. Trông thấy chàng, Câu Tiễn mới cười được tươi tắn, tự nhiên nói:
- Thiếu Bá! Nghe nói Thiếu Bá cải trang làm vu sư sao bây giờ mặc lễ phục đại phu?
- Thưa, thần đã thay đổi đồ trên sông. Sau khi đưa sứ giả vào Ngô, tự nhiên cần phải mặc lễ phục. (Phạm Lãi cười hỉ hả tiếp) Đại vương! Lần này chúng ta thâu hoạch thật lớn. Những bẫy rập bố trí quanh Bình Vọng thần đều biết. (Phạm Lãi quay bảo kẻ hầu cận) Nào, dâng rượu mừng cho Đại vương chúng ta.
Đó là ly rượu mừng. Đợi Việt vương uống cạn, Phạm Lãi mới lần lượt báo cáo:
- Tại Bình Vọng, quả Ngũ Tử Tư đã bố trí như thiên la địa võng. Trên một tuyến dài bảy mươi dặm, Ngũ Tử Tư đã kiến lập trên ba trăm bao lũy, thần đều có ghi trong họa đồ. Vừa rồi, chúng ta bại trận lần thứ nhất song đều là trá bại về mọi phương diện.
Việt vương vội hỏi:
- Thái tử Hữu của Ngô là người như thế nào?
- Một tín đồ của Ngũ Tử Tư song không phải là đối thủ của hạ thần. Sau này tấn công, thần sẽ giết chết thái tử Hữu tại Bình Vọng.
- Thiếu Bá định bao giờ chúng ta mới có thể cất binh?
- Thưa, thần không thể đưa ra lời dự đoán. Bằng vào ý chí chiến đấu của quân Ngô, tạm thời chúng ta không nên hành động.
Câu Tiễn rất đỗi ngạc nhiên:
- Tử Tư chết rồi quân Ngô còn đánh được à?
- Vâng. Tại Ngô, không một ai quên Ngũ Tử Tư! (Phạm Lãi nghiêm giọng tiếp) Nhưng thời gian thì không còn bao lâu. Thần nhận được tin, Phù Sai công Tề lại thắng nữa, do đó, Người sẽ bị các nước phương Bắc hấp dẫn nên không dừng lại được. Về phần chúng ta sẽ có cơ hội phát binh tấn công sau lưng họ.
Cuộc họp để quyết định tương lai quốc gia ở Vũ Xã kéo dài hai giờ mới giải tán. Câu Tiễn đích thân đưa Phạm Lãi về nhà. Trên đường về, nhà vua nói:
- Thiếu Bá! Lúc Thiếu Bá rời Hội Kê, ở nhà có chuyện bất hạnh xảy ra... Phu nhân của Thiếu Bá đã qua đời!
Tin thật đột ngột. Phạm Lãi giật nẩy, hơn nữa, không tin là thật, lúc chàng rời Hội Kê, sức khỏe của vợ chàng rất bình thường.
- Quân phu nhân đã vì nàng mà lo liệu chu toàn hậu sự. Trẫm chọn Sơn Dương của Hội Kê làm nơi an táng... (Giọng Câu Tiễn thật thấp) Trẫm cũng có đưa đi...
- Đại vương!
Phạm Lãi gọi hai tiếng rồi thôi. Một thứ tình cảm phức tạp đã làm cho chàng không nói thêm được.
- Cuộc đời, ôi, thật vô thường! (Câu Tiễn bỗng như trở thành nhà thơ) Nàng trẻ hơn chúng ta... Nàng, ôi, Thiếu Bá, may là nàng chứ nếu đổi là trẫm hay Thiếu Bá thì chuyện thù hận của chúng ta vứt hẳn rồi!
Lời ấy làm cho Thiếu Bá chấn động.
- Thiếu Bá! Nếu trẫm chết trước, hy vọng Thiếu Bá tiếp tục sự nghiệp phục thù, tiêu diệt Phù Sai! Nếu Phù Sai chết trước chúng ta, trẫm sẽ quật mồ hắn lên như Ngũ Tử Tư, dùng roi đập vào thi thể.
- Đại vương, thần tin tưởng tự mình có thể tấn công tiêu diệt Ngô quốc!
Giọng Phạm Lãi nặng về, lòng Phạm Lãi răn rúm.
Trong giây phút này, chàng bỗng nhận ra vị vua nước Việt không có chút nhân tình nào. Cừu hận, nhà vua chỉ biết cừu hận! Và toàn thể nhân dân nước Việt chỉ là công cụ cho nhà vua phục thù rửa hận mà thôi.
Xe về đến cửa, Câu Tiễn cầm tay Phạm Lãi nói:
- Thiếu Bá nghỉ ngơi đêm nay, ngày mai chúng ta bàn tiếp.
Từ trong nhà, hai con Phạm Lãi mặc đồ tang ra đón cha.
Nhìn con, Phạm Lãi chợt thấy buồn man mác, mênh mông.
Chàng cưới vợ chỉ vì thi hành quốc sách tăng gia dân số. Ngoài ra, thực không có ý nghĩa gì nên chàng chưa bao giờ yêu vợ thật sự. Nhưng cả hai vợ chồng đã sống chung bao năm, nàng đã là vợ của chàng... Mười tám năm qua, các cô gái Việt gần như không được hưởng một hạnh phúc nào. Vì mối hận thù của nhà vua, họ làm việc quần quật ngày đêm như đàn ông. Họ có nhiệm vụ sinh con nuôi cái, tề gia, tăng gia sn xuất.
Trong dòng tư tưởng đó, Phạm Lãi chạnh lòng nghĩ đến thời gian. Từ ngày chàng theo vua đi làm nô lệ ở Cô Tô về đến nay là đã mười tám năm. Chàng lại nghĩ đến Tây Thi: Nàng bị chọn đưa đi sau ba năm chàng quay về nước Việt. Tính ra thì nàng rời Hội Kê đã mười lăm năm. Mười lăm năm, không thời gian dằng dặc ấy đã cho chàng biết bao thê thiết... Con chàng đã mười hai tuổi. Mười lăm năm, việc đời thay đổi cả rồi!
Phạm Lãi tự hỏi:
- Mười lăm năm... Tây Thi còn nhớ đến ta không?
Rồi chàng tự trả lời:
- Không đâu! Có là năm mươi năm, nàng cũng không thể quên đâu! Tình yêu của ta và nàng...
Ký ức quay lại, bao nhiêu hình ảnh ngày xưa như vạn cổ trường xuân. Trong ký ức, mười lăm năm biệt ly như mới là ngày hôm qua. Mỗi lời nói của nàng, mỗi thư thái của nàng đều rõ ràng như nghe lại, thấy lại được.
Nhưng rồi, Phạm Lãi không có nhiều ngày giờ để ôn nhớ. Sáng ngày hôm sau, chàng lại bận rộn dị thường, bận rộn đến không có thì giờ nói chuyện với hai con.
Chàng bận rộn bố trí trận chiến sau cùng với Ngô quốc mà chàng bắt buộc phải thắng. Hơn nữa, chàng tin là chàng có thể thắng.
ở Việt có biết bao nhiêu người nghĩ như chàng, tin như chàng. Nhưng sau trận đánh Bình Vọng, Nam Lâm Xứ Tử lại không tin Việt thắng. Sự phòng vệ và chiến khí của quân Ngô khiến cho con người thần bí ấy đâm lo, đem nói ý mình với Việt vương và cả Văn Chủng.
Văn Chủng rất bình tĩnh, sau khi nghe hết, bỗng trở nghiêm hỏi:
- Nam huynh đã đem tài bộ truyền dạy hết chưa?
Nam Lâm Xứ Tử liền miệng vâng dạ, đồng thời giải thích:
- Chuyện này không liên quan gì đến kỹ thuật của tôi. Mà là vì bên họ...
- Tôi biết, tôi lo trong hàng ngũ chúng ta... Mà không, ý tôi là học trò của Nam huynh đã không học được bản lĩnh của Nam huynh.
- Họ học được hết. Trong hơn mười năm qua, trong số học trò của tôi có đến bốn người chẳng kém tôi.
Nam Lâm Xứ Tử cảm khái nói thêm:
- Ôi, tôi cũng già rồi!
- Ha ha... (Văn Chủng bỗng bật cười nói tiếp) Chúng ta uống một ly rượu, chúng ta sắp già cả rồi!
Sau đó Nam Lâm Xứ Tử thần bí và là nhà huấn luyện quân sự nổi danh đã uống rượu say như chết tại nhà Văn Chủng. Mọi người cho thế là thường nhưng Phạm Lãi được tin lại thấy không thường. Chàng vội vã đến hỏi, được Văn Chủng đáp cách lạnh nhạt:
- Tôi phục rượu Nam Lâm Xứ Tử. Sứ mạng của hắn đã xong rồi.
Phạm Lãi phản đối, hỏi lại:
- Sứ mạng xong là phải giết sao?
- Thiếu Bá, huynh cũng xúc động nữa à?...
Văn Chủng cười nhạt, lấy bình rượu đưa Phạm Lãi xem. Chàng nhìn nhãn hiệu vương thất, cảm thấy ngạc nhiên:
- Rượu của quân vương cho hả?
- Phải. Sau trận Bình Vọng, Xứ Tử gặp tôi, gặp cả quân vương, tỏ ra mất tin tưởng vào tương lai của chúng ta. Trong quân ngũ, loại tư tưởng ấy truyền nhiễm sẽ hết sức nguy hiểm. Quân vương đã nói với tôi: “Chúng ta không cần người bi quan, chúng ta không cần người mất tin tưởng” Thế là, quân vương bo tôi đầu độc Nam Lâm.
- Thế à? - Thế thì quá ác độc! Nam Lâm thiếu tin tưởng thì cứ trả về quê có hơn không? Mười mấy năm rồi, Nam Lâm đã tận tụy phục vụ quốc gia đó.
- Được rồi, chúng ta đừng bàn đến chuyện đó nữa.
Văn Chủng trở giọng, trở đề:
- Thiếu Bá! Thử hỏi anh có lễ vật gì cần đưa sang Ngô không?
- Không! Không!
Cái chết của Nam Lâm Xứ Tử làm cho Phạm Lãi bấn loạn, đáp thế. Nhưng Văn Chủng lại nhếch cười bí mật:
- Không à? Theo tôi nghĩ, nếu anh muốn thông tin tức với Tây Thi thì bây giờ có thể được rồi...
- Bây giờ? (Hai tiếng Tây Thi đã hấp dẫn Phạm Lãi hỏi thêm) Tại sao?
- Chúng ta sẽ đưa một số lớn cống vật sang Ngô để tạ tội với Ngô vương. Trong đó có một phần dành tặng Tây Thi. Phùng Đồng đã báo cho biết, địa vị của Tây Thi ở Cô Tô đài rất vững, tặng phẩm cho nàng là danh chánh ngôn thuận. Thế nên, tôi muốn hỏi anh có định gởi phụ thêm vật gì không?
- Tôi... Tôi có gì để đưa sang Ngô?
- Chúng ta sẽ đưa sang Ngô hai trăm cặp da thú, một ngàn thạch thóc, một ngàn bao lúa giống, hai trăm ngựa, hai trăm bò, một ngàn dê, có cả hai ngàn hũ “Hội Kê tửu”.
Nói đến rượu, Văn Chủng mỉm cười:
- Rượu chúng ta chế tạo có thể được Phù Sai thích. Ngoài hai ngàn hũ rượu ấy, còn có thêm hai trăm hũ đặc biệt tặng riêng Phù Sai nữa. Hơn nữa, chúng ta sẽ ngỏ ý ngầm cho Phù Sai biết nên dùng rượu của chúng ta trong các hội minh với chư hầu Trung Nguyên.
- Thế thì, phần nào tặng cho Tây Thi?
- Lông chim, tơ lụa và giày vớ.
Trầm ngâm một lúc Phạm Lãi mới nói:
- Tôi không có gì để tặng cho nàng cả.
***
Tại Cô Tô, vết thuơng Ngô vương dần lành nhưng tâm tính nhà vua không còn như trước, Tây Thi nhận ra, sau chuyện công Tề hào tình van tương của Ngô vương dần dần mòn mỏi, tiêu trầm. Râu tóc nhà vua điểm bạc, trán khắc sâu mấy rãnh tháng năm.
Điểm làm cho Tây Thi lo nghĩ là Ngô vương vẫn không chịu nằm im dưỡng thuơng. Sau khi từ Cú Khúc về, vào còi hiệu báo sáng mỗi ngày, Ngô vương liền trở dậy cắp kiếm đi vào giáo trường. Xem ra thì quang cảnh bây giờ có phần giống với hồi Ngũ Tử Tư năm xưa.
Đúng vậy, Ngô vương Phù Sai đã học theo Ngũ Tử Tư.
Thời gian càng làm cho Ngô vương ngày thêm hối hận. Một phút xung đột năm nào, nhà vua đã truyền giao Thuộc Lâu bửu kiếm cho Ngũ Tử Tư tạo nên bi kịch. Ngày nay, để đền bù lầm lỗi của mình, Ngô vương làm theo các việc Ngũ Tử Tư làm.
Thi thể của tên thích khách đã bị bằm nát vứt vào một khu ác hiểm ở Cú Khúc. Hơn nữa, còn có vu sư (các thầy đồng, bóng) trù ếm. Nhưng sau khi Ngô vương về Cô Tô chẳng bao lâu thì ngài lại sai người lượm mót thây Bị Ly đem chôn bên phần mộ của Lâu Đông Trường Nhơn Ngu. Tuy bị Bị Ly hành thích thọ thuơng rất nguy song Ngô vương nhìn nhận lỗi giết lầm Ngũ Tử Tư nên tự thấy không nên ngược đãi Bị Ly đã chết.
Đó là tâm lý mâu thuẫn trong lòng một vị anh hùng, người ngoài không sao hiểu được.
Sáng nay, Tây Thi thức dậy chẳng bao lâu, ngồi đọc tin hàng ngày ở đại sảnh trên hai thanh trúc đầy dẫy những tin liên quan đến nước Việt. Đó là cống phẩm của Việt đưa sang Ngô, do Bá Hi đề nạp.
Tây Thi hỏi thầm:
- Lại âm mưu gì nữa đây?
Nàng biết rõ, về phía người Việt tuyệt đối không thể không có âm mưu trong việc tiến cống. Hôm nay, nàng muốn bình yên, muốn sống cầu an. Được tạm thời yên ổn, không phải nghe không phải biết gì, nàng cảm thấy rất dễ chịu! Nhưng cống phẩm của nước Việt lại làm cho mất ngày giờ thư thái của nàng.
Bấy giờ, Di Quang chợt xuất hiện hỏi Tây Thi xem gì, nàng tảng lờ đáp:
- Không có gì, Thái tể báo cáo nước Việt đưa sang một số cống vật gồm ngựa, bò, dê...
Sau lần đánh nhứ rồi rút lui của quân Việt, tinh thần Di Quang xuống rất thấp. Nhưng quan niệm của nàng khác hẳn Tây Thi. Nàng xuống tinh thần vì quân Việt không đánh thẳng vào Cô Tô. Thế nên, nghe Tây Thi đáp, Di Quang chỉ nhếch cười.
Chợt có tin báo: Đại vương về. Tây Thi chậm rãi bước khỏi đại sảnh, nghênh đón Ngô vương ở dưng đài.
Trán lấm tấm mồ hôi, mắt ra chiều mệt mỏi, lúc nhìn thấy Tây Thi, Ngô vương đứng lại, với cầm tay Tây Thi, thở phào nói nhỏ:
- Tây Thi! Không hiểu sao hôm nay trẫm mệt quá, dường như gân cốt rã rời!
Dùng khăn riêng lau mồ hôi trán cho Ngô vương, Tây Thi nhìn nhà vua âu yếm hỏi:
- Có phải vì hôm qua quân vương ngủ chẳng ngon giấc không?
- Có thể. (Ngô vương kéo tay nàng cùng đi vào nói thêm) Liên tiếp đến giáo trường cũng có phần ảnh hưởng. Sinh lực của trẫm không còn được như xưa nữa.
- Không phải đâu! Thiếp nghĩ là tại quân vương không nghỉ dưỡng đầy đủ. Nhiều người nói, sau khi bị thuơng phải nghỉ dưỡng một thời gian dài!
Ngô vương ậm ờ, bước vào đại sảnh liếc qua miếng trúc báo trên bàn rồi đi luôn vào trong. Nhà vua ngồi nghỉ ở phòng ngoài phòng ngủ, lúc Tây Thi cúi xuống cởi giúp hia thì tự nhà vua mở kiếm...
- Tây Thi! (Nhìn kiếm lúc lâu, nhà vua bỗng nói) Khanh giữ kiếm này thay trẫm, trẫm không muốn đeo nữa.
Kiếm ấy là Thuộc Lâu bửu kiếm, là hung khí giết chết Ngũ Tử Tư.
Tây Thi rất đỗi ngạc nhiên, nhìn sững Phù Sai rồi từ từ nhận kiếm.
- Tây Thi, nàng vừa nói gì? Trẫm vẫn đầy đủ sinh lực phải không?
- Dạ.
Ngô vương vẫn thở dài:
- Chỉ một lần trẫm không nghe khanh mà gây ra lầm lẫn lớn.
- Quân vương! Chuyện gì thế?
- Chuyện giết Ngũ Tử Tư!
Tây Thi ôm chầm chân nhà vua:
- Chuyện đã qua rồi, nhắc lại làm gì?
- Chuyện đã qua rồi... (Ngô vương buồn bã lắc đầu) nhưng ảnh hưởng của nó chưa qua, cũng có thể vĩnh viễn không qua. Tây Thi! (Tiếng nói Ngô vương thật nhỏ) Hôm nay, đứng trên chiến xa, trẫm bỗng nháy mắt lia lịa, lúc nhắm mắt lại thì thấy Ngũ Tử Tư.
- Đại vương!...
- Trẫm hối hận lúc bấy giờ đã không nghe lời khanh mới để xảy ra tình trạng hôm nay.
Ngô vương cúi gầm, im lặng một lúc mới xoa vai Tây Thi nói nhỏ:
- Tây Thi, nhưng trẫm tin rằng sẽ bổ cứu được.
- Đại vương! Đại vương!
Tây Thi nức nở, nhưng chỉ thoáng sau nàng ngăn lại được, nói giọng thản nhiên:
- Tình hình chúng ta rất tốt. Tuy lúc đánh Tề, chúng ta có tổn thất nhưng rồi cuộc chiến thắng lợi rất khả quan. Tấn đã phát binh vẫn không dám chống với chúng ta, chứng tỏ uy vọng của Đại vương đã lan truyền rất xa.
Đúng vậy, sau khi chinh Tề, uy vọng của Ngô vương như vào trưa trong ngày chói chang, sáng lòa. Song đó là chỉ đối với các nước chứ với bản thân thì Ngô vương âm thầm tự biết: quốc lực đã bị tổn thuơng khá nặng... Không phải chỉ có việc hao binh tổn tướng mà là chiến khí xuống đến mức thật thấp. Ngô vương còn nhận ra, sau cái chết của Ngũ Tử Tư, trong quân dần có hiện tượng biếng nhác. Thế nên, sau khi hồi sư, Ngô vương đích thân đôn đốc, mong cứu vãn không khí về chiều ấy.
Ngô vương nói:
- Trẫm không biết lúc toàn thịnh, tình trạng của Tề Hằng công và Tấn Văn công như thế nào?
- Quân vương đã qua mặt họ! Sự thành tựu của họ không thể bì kịp với quân vương. Những điều chúng ta thấy ghi trong lịch sử có lẽ do người đời sau phụ họa tuyên truyền thêm. Phù Sai! Thiếp cho rằng, bây giờ không ai dám xâm phạm chúng ta. Chúng ta có thể tự thủ. Còn về phần nước Việt...
Ngô vương nối lời:
- Câu Tiễn hận trẫm, cũng sợ trẫm! Trẫm biết, lần xâm phạm biên cảnh trước là Câu Tiễn muốn thử thăm dò thực lực của Ngô lúc trẫm không có mặt. Giờ biết trẫm về rồi, Câu Tiễn lại sợ dâng cống phẩm tạ tội.
- Quân vương, thiếp vừa nhìn thấy báo cáo của Thái tể bên ngoài.
- Thế là cống phẩm đến rồi!
Không xem trọng lễ vật, Ngô vương thư thả nói thêm:
- Sáng nay, trẫm và Vương Tôn Hùng có bàn, với tình thế này thì xem chừng tạm thời người Việt không dám vọng động. Về phần chúng ta, chỉ cần hai năm nghỉ ngi, bồi dưỡng thì sẽ lấy lại mức độ cường thịnh như trước lúc chinh Tề.
- Hai năm? (Tây Thi cười yêu kiều). Không có lâu dữ vậy đâu!
- Phải.
Ngô vương ôm chầm nàng, chợt thấy cảm hứng nói:
- Chúng ta đã bỏ rơi Quán Oa cung, để rồi chúng ta sẽ sang đó ở ít hôm.
- Hay lắm! Nhưng tốt nhất là đợi hai năm sau.
- Hai năm sau?... (Ngô vương nhếch cười trầm ấm, liền đó lại cảm thấy áy náy, nói thêm bằng giọng cảm khái). Tây Thi! Trẫm đã làm cho khanh lo nghĩ.
- Quân vương cũng khiến thiếp sung sướng!
Tây Thi đỡ tay nhà vua:
- Bao năm qua, chúng ta sống trong sung sướng đó! Bây giờ chúng ta vẫn còn sung sướng... Tuy có đôi điều không như ý, song rồi tất cả sẽ qua mau.
- Sẽ qua rất mau!
Ngô vương lim dim mắt, dưỡng thần. Trong giây phút ấy, với dáng vẻ đó cho thấy dường như tráng chí của nhà vua đã tiêu mất hết. Khá lâu sau nhà vua mới nói thêm:
- ... Được như bây giờ, Tây Thi, chỉ có hai ta, không có bất cứ chuyện gì quấy rầy thì hay biết bao nhiêu!
Sống trong cuộc sống không bị quấy rầy vốn là khát vọng lâu rồi của Tây Thi. Năm năm trước, nàng mong cho Ngô vương trở thành một đại anh hùng hơn hẳn Tề Hằng, Tấn Văn. Không như bây giờ, có lẽ do tuổi tác chồng lên, người suy nhược đi, hoặc khó khăn mài giũa khiến nàng chỉ mong được sống bình yên. Nàng mong cảnh gió lặng sóng yên để sống nốt chuỗi ngày còn lại. Vì thế, nàng ôm chầm Ngô vương thật ấm áp, thật chí tình, không một chút dục vọng. Ngô vương mệt mỏi, ngủ vùi trong vòng tay nàng.
Chẳng bao lâu, Di Quang nhón chân đi vào nói nhỏ:
- Thái tể lên đài tấn kiến Đại vương.
Tây Thi xua tay rồi chỉ lại nhà vua. Nàng không đành gọi thức nhà vua lúc này.
Do đó, Thái tể Bá Hi chậm rãi bước xuống đài, có gia thần Phùng Đồng chờ chực hỏi:
- Thái tể, Đại vương bảo sao?
- Đại vương ngủ rồi, ta không gặp được. (Bá Hi rút vai).
Phùng Đồng cũng rút vai, nhếch mép cười.
Bá Hi dường có ý trách:
- Đại vương đối với Tây Thi rất tốt, nàng cũng rất đẹp. Nhưng lạ sao trong bao nhiêu gái Việt chỉ được có mỗi một Tây Thi. (Bá Hi lắc đầu). Tám cô kỳ này cũng đều không được.
- Kỳ này cũng có mấy cô được lắm chứ! Trong số đó có một cô tên Gia Dĩ, nghi thái phi phàm, thần nghĩ là không nhượng gì Tây Thi.
- Không bằng được đâu! (Bá Hi tỏ ý tiếc rẻ). Gia Dĩ thế nào? Ta không có lưu tâm nhìn kỹ...
- Gia thần nhận thấy nghi thái của nàng cao vời.
Bá Hi bỗng cười:
- Vậy thì ta giữ tám cô ấy lại. Mà không, ta sẽ tuyển hai cô cho ngươi! Trong số gái Việt đưa sang lần trước, ta cũng tuyển cho ngưiơ hai cô phải không?
- Bẩm phải, chỉ có hai cô thuộc phần gia thần.
- Ha ha... Người thấy thiếu à?
- Thưa, đủ rồi. Gia thần đối xử với họ rất tử tế, không bắt họ làm việc.
- Phi lý nhất là cái lão Vương Tôn Hùng. Lần trước ta đưa cho lão năm cô, lão không dùng, lại cho các cô đi dệt vải, bắt làm từ sáng đến tối, thật tội nghiệp!
Phùng Đồng nói:
- Mười năm rồi, gái đẹp nước Việt đưa sang không phải ít.
- Nhưng ba năm gần đây không có đưa, lần này mới được tám cô. Tổng cộng tất cả, kể luôn Tây Thi thì không một trăm.
Với gái Việt, Bá Hi nhớ rất rõ. Lão vừa cười vừa nói thêm:
- Đáng tiếc là không có gái Sở. Mấy năm rồi, ta không được gần gái Sở.
- Thái tể thấy thú gái Sở?
- Ta vốn là người Sở đấy! Sinh trưởng ở Sở nhưng ta không có một thước một tấc đất dung thân. Nhưng cứ nhắc đến gái Sở thì ta cảm thấy thú vị thật khó nói.
Câu nói ấy khiến Phùng Đồng sậm mặt nghĩ ngợi. Bởi vì Phùng Đồng cũng là người Sở, bị câu nói ấy làm cho liên tưởng đến người và cảnh ở khu vực Đông Nam. Kể từ Ngũ Tử Tư, Văn Chủng, Phạm Lãi, Bá Hi, thêm cả Phùng Đồng nữa đều là người Sở!
Người Sở đã chia đi vào hai nước Ngô, Việt và tổ tiên của vua hai nước này cũng là hậu duệ của các tông chi ở Sở. Phùng Đồng chợt nghĩ rằng nếu ba nước liên hiệp lại thì có thể thay thế ngôi bá chủ của Châu bá Vương. Tự nhiên, việc liên hiệp này tuyệt đối không thể được.
Về đến Thái tể phủ Bá Hi nhắc Phùng Đồng giới thiệu Gia Dĩ. Gia Dĩ lập tức có mặt.
Gia Dĩ rất thanh tú, có thể so sánh mặt này với Tây Thi. Ngoài ra đều kém. Hơn nữa, lúc Bá Hi nắm tay nàng thì nhận thấy liền tay nàng rất thô. Vì vậy, Bá Hi quay nói với Phùng Đồng:
- Ngươi thích nàng thì ta cho đó!
Phùng Đồng đắc ý nở cười:
- Đa tạ thái tể!
- Nhưng, kể từ ngày mai ngươi mới bắt đầu. Còn đêm nay... phần ta! (Bá Hi cười to). Ngoài ra, ngươi được tuyển thêm một cô cho phần ngươi đêm nay.
Các cô này thuộc một phưng diện khác của gái Việt đưa vào Ngô. Sau nhóm Tây Thi, Trịnh Đán, thỉnh thong, trong số cống phẩm, Việt vương có gửi kèm đôi cô. Nhưng tính chất của các cô này khác hẳn nhóm Tây Thi. Họ không đảm nhận một nhiệm vụ gì, vả lại, họ cũng không phải thuộc hàng gái đẹp nhất nước Việt. Các cô lần lượt đến Cô Tô đài nhưng Ngô vương không nhìn thấy cô nào.
Cho dầu Ngô vương không màng, cứ đôi ba năm, Văn Chủng lại gửi các cô đi, dụng ý làm cho bớt sự chú ý đối với các cô có nhiệm vụ gián điệp.
Thời gian dần trôi. Sau lần chinh Tề, nhà vua nước Ngô có mặt thường xuyên ở giáo trường nhưng quần thần nước Ngô thì lại lơ lỏng việc triều chính. Bá Hi lại là người hưởng thụ số một. Cũng có thể Bá Hi tìm hưởng thụ nhan sắc để nguôi ngoai nỗi buồn nhớ quê.
Thái tử Hữu đóng ở Bình Vọng, cẩn mật đề phòng, Vương Tôn Lạc trú quân ở phía Bắc Trường Giang, mở đường thông thuơng hai bên bờ làm thành mũi tên chĩa bắn vào Trung Nguyên. Mãnh sĩ Ngu Thúc đã đầu nhập dưới cờ Vương Tôn Lạc. Riêng ở Cô Tô thì Vương Tôn Hùng trở thành người phụ trách vấn đề quân sự cho Ngô vương.
(1) Vũ Xã là nơi thờ phượng nhà vua Vũ đời Hạ, cũng gọi là Hạ Vũ, nhà vua có công trị thủy rất lớn trong việc cứu dân kiến quốc. (Chú thích của dịch giả)
-Vương vãng đồ... kiết.
- Tam tam... Lý hổ vĩ, bất diệt nhân... hưởng.
Bói quẻ mu rùa và quẻ cỏ thị đều ra điềm lành. “Vương vãng đồ, kiết” tức đã chỉ rõ ràng chuyến đi của nhà vua đại kiết. Riêng quẻ cỏ thị thì tuy có nguy hiểm lúc đầu song rốt cuộc cũng lành. Từ hai loại quẻ, thần minh đã chỉ rõ việc người cầu hỏi gặp hung sẽ hóa kiết, gặp nạn sẽ thành bình yên.
Trên đây là kết quả bói toán do Tây Thi mời thầy ở Cú Khúc đến Ngô cung xủ quẻ. Với Tây Thi, bói ra đại, kiết là điều đáng mừng nhất. Chứ từ Cô Tô đến Cú Khúc, nàng cứ hồi hộp mãi. Tây Thi muốn hỏi việc nơi quỷ thần song Ngô vương phản đối, có muốn không đi cũng không được, cần gì phải bói toán nữa?
Tây Thi có cách nghĩ khác. Nàng cho rằng cần biết vận mạng để dầu hung dầu kiết, bản thân mình có sự chuẩn bị vẫn hơn. Nhưng rồi nàng không muốn tỏ ra nghịch ý quân vương nên phải đợi lúc Phù Sai kéo đại quân qua sông, nàng mới rước thầy đến bói.
Kéo quân lên mặt Bắc kỳ này không phải do Ngô vương chủ động và hài lòng. Mà chỉ là một chuyện bất đắc dĩ. Để duy trì địa vị một minh chủ, để xác nhận trách nhiệm của một minh chủ, Ngô vương chỉ còn có cách phải phát binh - kéo một cánh quân đông đô chưa từng có - vượt qua Trường Giang, thị uy với chư hầu Trung Nguyên trong cuộc hội minh giải quyết chiến tranh giữa các nước.
Địa điểm cuộc hội là Hoàng Trì (thuộc huyện phụ cận tỉnh Hà Nam bây giờ). Địa điểm thật phức tạp, nằm trên đất Trịnh song biên giới thì giáp với Tề, Tấn, cả Lỗ và một phần bắc Tống.
Hoàng Trì, có thể nói là trái tim của Trung Nguyên nằm ở giữa mấy quốc gia quan trọng, lại rất gần với Đồng Bưu, Hổ Lao của Châu Vương. Chọn địa điểm này để cử hành lễ kết minh tự nhiên là có dụng ý: Nước nào làm chủ cuộc uống máu ăn thề sẽ là minh chủ, sẽ trở thành lãnh tụ các nước chư hầu Trung Nguyên. Châu Vương cũng dự định cử Đơn Bình Công thuộc hàng tông thất đại thần đến giám sát cuộc hội. Phần nghi thức long trọng thì do nhị bá Tề Hằng và Tấn Văn phụ trách. Ngô vương Phù Sai vì được mời mà đến. Tề, Lỗ, Trịnh đều xem Phù Sai như minh chủ, tha thiết mong người đảm nhận trọng trách sắp đặt và giải nạn cho Trung Nguyên.
Nguyên nhân có cuộc họp này là vì có sự lục đục giữa năm nước Tề, Vệ, Trịnh, Tấn, Tống. Bởi sau cuộc chiến thua Ngô, tạm thời Tề thần phục Ngô. Điều ấy làm cho nước bạn Tấn không vui, dồn quân ở biên giới chuẩn bị xâm phạm Tề. Về một phương diện khác, Vệ, Trịnh lại xảy ra xung đột. Vệ được Tấn khuyến khích, xâm phạm biên giới Trịnh. Nói về thực lực thì Trịnh đủ sức tiêu diệt Vệ, nhưng sau có Tấn nên Trịnh không dám vọng động. Vì vậy, Trịnh phải liên hiệp với Tề để đối phó với Vệ.
Tình hình bên phía Nam hết sức khẩn trương. Gián điệp Tấn du thuyết cho Tống xuất binh đánh Lỗ do Ngô bảo vệ. Tề liền giữ thái độ sẽ theo nước nào mạnh. Riêng Sở, từ suy nhược đang dần dần quật cường trở lại. Nhận được tin tình báo từ Việt nói Ngô không đáng sợ, một mặt, Sở lén giúp Tống, mặt khác lại xúi giục Trần phản Ngô. Hãy còn nước Tào xua quân khuấy rối lân bang thuộc Ngô nữa.
Xem thế đủ biết cuộc diện Trung Nguyên như đống lửa, lúc nào cũng có thể bùng cháy; muốn dập tắt mầm mống này thì chỉ có Tấn và Ngô liên hiệp lại, đề ra việc cam kết giữa các nước với nhau. Bằng không, không có cách nào tránh khỏi can qua rối nùi.
Từ Cô Tô của Ngô đến Hoàng Trì, đường xa diệu vợi. Nhưng từ thủ phủ của Tấn đến Hoàng Trì rất gần. Lẽ đương nhiên, Ngô vương biết rõ, mang đại quân vào can thiệp chuyện quan qua giữa các chư hầu Trung Nguyên là một việc đòi hỏi nhiều cố gắng. Nhưng Ngô vương cũng biết không thể đặt mình ra ngoài. Vạn nhất Trung Nguyên xảy ra chiến tranh, nước Ngô không tham gia không được, thà rằng bây giờ dùng cuộc hội minh để giải quyết tranh chấp, tranh ngôi bá chủ luôn.
Phù Sai rất thận trọng. Trên đường diệu vợi, nhà vua bố trí đội ngũ và hệ thống tiếp ứng của mình làm ba trạm. Trạm đầu ở Cú Khúc, trạm thứ nhì ở Hàn Giang, thuộc vùng giáp giới Ngô - Lỗ. Trạm thứ ba đặt ở phía Tây Ngải Lâm thuộc địa khu biên giới nước Trịnh.
Cuộc hội ở Hoàng Trì trù liệu vào đầu xuân. Nhưng Cô Tô, Ngô vương đã xuất phát vào đầu hạ năm trước bởi vì nhà vua có nhiều việc phải sắp đặt. Tại quốc nội, cần phải giữ một cánh quân phòng ngừa Việt. ở hai bên bờ Trường Giang cũng phải có quân phòng thủ. Bởi nếu xảy ra chiến tranh thì Sở có thể dốc hết toàn lực cắt đứt tuyến liên lạc của binh Ngô. Quan trọng hơn hết là cuộc họp ở Hoàng Trì không phải cuộc họp của áo mão, cân đai. Mà là cuộc họp binh, chỉ một lời nói không thuận sẽ có đánh nhau. Vì vậy, Ngô vương phải tuyển bảy trăm chiến xa tiến lên mặt Bắc cộng thêm với số quân do Vương Tôn Lạc thống lĩnh ở phía Bắc Trường Giang gồm ba trăm chiến xa, một ngàn kỵ binh, bốn trăm bộ binh.
Con số cả ngàn chiến xa làm kinh hãi mọi người. Năm xưa, các đại quan Tấn, Tề, Tần, Sở đưa ra năm trăm chiến xa đã kể là ghê gớm lắm rồi. Năm xưa, lúc Tấn Văn Công xưng bá Trung Nguyên đã dùng một ngàn binh xa làm hậu thuẫn đủ khiến chư hầu bở vía. Nhưng với lực lượng to lớn như vậy, Ngô vương vẫn không lạc quan. Từ xuân đến hạ, Tây Thi luôn thấy nhà vua u uất. Nàng không hiểu vì sao, chỉ thấy là cờ xí quân Ngô mới mẻ, rợp trời. Nhưng rồi, niềm u uất của Ngô vương cảm nhiễm sang nàng. Cho nên, sau khi nhà vua cất quân qua sông thì nàng đi bói.
Tại Cú Khúc, quẻ đại kiết được loan đi nhanh chóng. Vì thế, quân phòng thủ rất phấn khởi kháo nhau:
- Đại vương chúng ta sẽ thành bá vương Trung Nguyên!
- Người phương Nam sẽ khống chế người phương Bắc!
Lời đồn dội lại Ngô cung, lọt vào tai Di Quang khiến nàng thấy lòng tan nát.
Triền Ba cũng có thứ cảm giác ấy. Uy danh Ngô quốc ngày một lên cao thì hy vọng phục thù của Tổ quốc họ ngày một xuống thấp, nhạt nhòa.
Lúc quân Ngô ca vang ở Cú Khúc thì Triền Ba trong Ngô cung không tiếc lời nguyền rủa. Di Quang cũng hậm hực nói:
- Chớp mắt đã hai mươi năm rồi, Đại vương chúng ta vẫn còn ở Hội Kê. Chúa tôi nước Việt đã quên rồi cái nhục Hội Kê!
- Nào chỉ có họ! (Triền Ba cười nhạt). Tây Thi của chúng ta cũng quên rồi mối nhục Hội Kê! Chị xem Tây Thi đã lo lắng cho Phù Sai biết bao nhiêu!
- Bây giờ tôi không trách Tây Thi, một người con gái được một người trai chí thành yêu thuơng... Thời gian dằng dặc, trước sau gì Phù Sai cũng đối với Tây Thi y như một thì làm sao Tây Thi nhẫn tâm cho được? Đổi là Triền Ba hay tôi rồi cũng thế thôi!
Triền Ba lên giọng:
- Nhưng chúng ta đều vì quốc gia!
- Tây Thi cũng không quên quốc gia! (Di Quang hạ giọng tiếp). Phùng Đồng đã nói một câu rất đúng: Nếu Tây Thi thật sự quên Tổ quốc thì đã tố cáo âm mưu gián điệp. Nhưng Tây Thi không tiết lộ một điểm nào, chứng tỏ chị ấy đã trung thành với quốc gia, mặc dầu chị ấy không có lý tưởng hành động như chúng ta.
Triền Ba vẫn cười nhạt. Vì thù hận quốc gia kéo dài quá lâu và cuộc sống độc thân thui thủi đã khiến Triền Ba trở thành khô khan hết sức.
Ngoài ra, còn bốn cô gái Việt khác theo đến Ngô cung cũng sống trong chuỗi ngày buồn thảm. Mỗi ngày Tây Thi đều nhìn thấy gương mặt đưa ma của họ. Nàng biết họ ngầm bất mãn nàng nhưng nàng không có cách nào giải thích được. Nàng chỉ cố tránh nói chuyện với họ mà thôi.
Ngày hè oi bức, Tây Thi đàn, xem sách giết ngày giờ.
Cứ cách một ngày, Ngô vương viết một phong thư gửi lại Ngô cung, tối đa phần đều do Tích Lặc, vị đại phu có nhiệm vụ bảo vệ Cú Khúc đích thân chuyển cho Tây Thi.
Tích Lặc giữ chức cao nhất trong đội Hiền Lương, thời trẻ đã từng dùng tay không giết hổ, báo. Tích Lặc được phụ thân Phù Sai thâu dụng, cho chỉ huy một tiểu đội dũng sĩ. Năm Ngũ Tử Tư chết, Tích Lặc mới được lên chức đại phu. Trong đội Hiền Lương chỉ có một vị đại phu là nhân vật quan trọng, song Ngô vương lưu Tích Lặc lại ở Cú Khúc, vừa để bảo vệ hậu phương, vừa để bảo vệ Tây Thi.
Hôm nay, lúc Tây Thi nhận được tin Ngô vương từ Hàn Giang đưa về xong thì cũng nhận được liền một tin quan trọng của thái tử Hữu và Bá Hi từ Cô Tô chuyển đến.
Việt và Sở chạm binh rồi.
Tin ấy làm cho Tây Thi ngạc nhiên. Nàng biết, phía Tây nước Việt giáp ranh với Sở nhưng từ phía Tây ấy đến Hội Kê xa lắm. Hơn nữa, vùng ấy hoang lưng, người Sở không thể có hứng thú gì. Nói cách khác, phía Nam nước Sở cũng là khu sình lầy, lạnh lẽo, hoang vu, người Việt cũng không thể nào ham chiếm lấy. ấy thế mà có chuyện động binh khiến Tây Thi không dám tin là thật.
Các tin từ Cô Tô đến đều do Tích Lặc lần lượt chuyển đến cho Ngô vương. Nhưng trên đường vào Trung Nguyên, Ngô vương đã nhận được tin ấy. Trong thư gửi cho Tây Thi, Ngô vương có nhắc đến chuyện ấy, cho đó là một tin đáng mừng. Đồng thời Ngô vương cũng cho biết ngài nhận được tin đó theo báo cáo của Tào, Tề.
Thế thì Tây Thi không thể không tin được, nhưng nàng vẫn không ngừng tự hỏi: “Tại sao?”.
Năm ngày sau lại có tin báo của Bá Hi, nêu đích danh Phạm Lãi thống lĩnh binh Việt kéo xuống phía Tây chận đánh quân Sở.
Ngày xưa, cứ nghe tin về Phạm Lãi là Tây Thi chấn động, không như bây giờ, nàng rất thản nhiên. Lúc Di Quang hỏi lại, Tây Thi đáp cách lạnh nhạt.
- Có thể Phạm đại phu sẽ làm như Ngũ Tử Tư, đánh đến kinh đô nước Sở.
Di Quang đau khổ hỏi:
- Tại sao Phạm đại phu không đánh Cô Tô chứ? Lẽ thì người phi nhân cơ hội này mà đánh Cô Tô?
Tây Thi nhếch cười, không đáp.
***
Chúa hùng ở Giang Nam, tân bá ở Trung Nguyên, Ngô vương Phù Sai đã đến Hoàng Trì.
Tại Hoàng Trì, trước khi Ngô vương đã đến có mặt chín vì vua của chín nước Tấn, Trịnh, Vệ, Tề, Lỗ, Tống, Trần, Tào và Trâu. Trong khu vực Hoàng Trì; lều căng san sát đầy dẫy các khu, đài hội minh đã hoàn thành từ lâu. Đơn Bình Công do Châu Vương phái đến giám sát cuộc hội minh đã xây nhà ở giữa Minh đàn.
Chín vì vua đều nhẫn nại chờ Ngô vương từ xa tới. Đồng thời, tin tức về Ngô không ngừng đưa lại. Vua Tống nói với Tấn vương:
- Dẫn binh phó hội, lúc đi ngang biên giới nước Tống, Ngô vương đã đoạt mất của Tống một số lớn bò, dê và trên mười xe lương thực.
Vua nước Tào cũng cho biết: Lúc đi ngang biên giới, Ngô vương đã hủy diệt của Tào năm mươi chiến xa và thiêu rụi một dãy thành trại. Riêng vua nước Lỗ, một mặt theo hùa với Tấn, mặt khác lại âm thầm thông báo tin tức cho Ngô vương ở biên giới Lỗ.
Ngoài ra dũng sĩ của Trịnh và Vệ đã chong nhau một trận tại Hoàng Trì, đôi bên đều bị chết trên mười người, may có binh xa của Tề xông đến dàn giải. Phần vua nước Tấn lại làm áp lực với Tề, muốn Tề theo Tấn.
Trên đây là tình hình Hoàng Trì trước khi Ngô vương đến.
Ngô vương sắp đến thì Vương Tôn Lạc đã mang một trăm binh xa và một ngàn kỵ binh chọn chỗ lập xong dinh trại. Chẳng bao lâu, Ngô vương hướng dẫn ba trăm binh xa dẫn đến Hoàng Trì.
Ngày thứ nhất, tông thất của Châu vương là Đơn Bình công thết tiệc khảon đãi mười nhà vua. Về mặt danh nghĩa thì đây là tiệc đãi của Ngô vương. Nhưng trong thực tế thì chính Đơn Bình công yêu cầu Tấn, Ngô cho vương triều một chút thể diện. Sang ngày thứ hai và ba thì mười vua luân phiên thết tiệc xã giao với nhau. Sau ngày thứ tư, đại phu các nước trao đổi ý kiến. Cứ thế, cuộc hội binh kéo dài mười ngày.
Sở vương có phái một vị đại phu đến xin lỗi mười nước về việc Sở có chuyện giao tranh với Việt nên Sở vương không thể tham gia cuộc hội. Đồng thời, đại phu của Sở còn xin được Tấn vương viện trợ.
Đêm ấy, sau khi viết thư cho Tây Thi xong, Ngô vương cùng Vương Tôn Lạc nghiên cứu các vấn đề của cuộc hội minh, Vương Tôn Lạc nói:
- Đại vương! Xem xét kỹ bất cứ góc cạnh nào cũng thấy Tấn hầu muốn đoạt trước ngôi vị Minh chủ. (Vương Tôn Lạc hậm hực). Tấn Hầu mang đến năm trăm xe...
- Trẫm biết. (Ngô vương cười nhạt). Trẫm còn được tin Tấn hầu dành sẵn ba trăm xe ở biên giới để chuẩn bị. Ngoài ra hãy còn năm ngàn bộ binh đóng ở Xuân Lăng thuộc hướng Tây Bắc cách Hoàng Trì sáu mưi dặm.
- Đại vương, chúng ta mang theo có bốn trăm xe, hình như quá ít. Mấy hôm nay, một số nước nhỏ cứ theo nịnh Tấn, đến cả Lỗ vương cũng sợ...
- Trẫm biết.
Ngô vương nghiến răng gằn giọng:
- Trẫm đã nói trước đây là cuộc hội của binh xa, ai có lực lượng mạnh, người ấy sẽ là thủ lĩnh!
- Đại vương! Binh xa chúng ta không cần lưu lại dọc đường.
- Bây giờ thì có thể, chứ lúc trước ta lưu quân là có ý nghĩa khác. Lúc trước, trẫm sợ Sở và Việt đánh chận đường hậu của ta. Giờ họ đánh nhau thì ta khỏi lo.
- Thế thì chúng ta nên điều động đội ngũ đóng ở Hàn Giang đến đây.
Ngô vương lấy một miếng trúc ra xem rồi nói:
- Có thể. Ngày mai, số quân ở phía Tây Ngải Lâm có thể đến kịp Hoàng Trì. Đội đó có một trăm năm chục xe. Trẫm cũng nghĩ, điều động binh Hàn Giang không bằng điều động đội Hiền Lương ở Cú Khúc để cùng Tấn so sánh thực lực một phen.
- Đại vương! Chuyện Sở - Việt giao binh thật ngoài ý liệu. Trong thư của anh hạ thần đưa lại nói là hoàn toàn không có lý do.
- Không có lý do thật, nhưng chiến tranh không nhất thiết phải có lý do đâu! (Ngô vương lại cười nhạt). Trẫm nghĩ là Việt vương muốn thử dò binh lực của mình, nhưng không dám chạm đến chúng ta mới xoay sang Sở.
Vương Tôn Lạc có vẻ khó xử nói:
- Mong được như thế.
- Có phải ngày mai thảo luận trình tự vấn đề của cuộc hội minh không?
- Thưa, tạm thời đã gác nghị trình rồi. Ngày mai thảo luận trước hết là chuyện rắc rối giữa Trịnh - Vệ, kế tiếp là vấn đề của Tống...
Vương Tôn Lạc lắc đầu:
- Theo thần thấy, cuộc họp sẽ kéo dài ngày giờ.
- Có thể là do quỷ kế của Tấn hầu. (Ngô vương dang tay vưn vai). Họ cho rằng chúng ta từ xa đến, tất nhiên không thể ở lâu. Ha ha... Nhưng Tấn hầu lầm rồi, trẫm sẽ làm cho hắn biết!
Đối với cuộc họp ở Hoàng Trì, thoạt đầu Ngô vương không lạc quan. Nhưng sau khi được tin Sở - Việt chống nhau, Phạm Lãi đích thân phát binh từ Hội Kê thì hùng tâm của Ngô vương bấy lâu trầm lắng bây giờ lại bộc khởi. Nhà vua phái người đi luôn ngày đêm về điều động gấp đội ngũ ở Hàn Giang và Cú Khúc mau đến Hoàng Trì. Cánh quân của Tích Lặc cũng bị điều động, nhường chỗ trống ấy cho binh của thái tử Hữu từ Cô Tô đến điền khuyết.
Trong âm thầm, Ngô vương đã tập trung một ngàn hai trăm chiến xa quanh khu vực Hoàng Trì.
***
Tại Hội Kê, từ sáng sớm, binh sĩ trang bị đầy đủ lương thực kéo đi hướng Tây. Nhưng chiều đến thì họ đổi hướng, một số lên thuyền đi sông Tiền Đường đi ngược về Đông, số khác vượt sông Tiền Đường sẽ lén đi sang hướng Nam.
Biên giới nước Sở rất yên lành. Tin Sở - Việt giao tranh chỉ là tin do hai nước cùng lượt tung ra nhằm gạt Ngô vương trên đường đi sâu vào Trung Nguyên.
Đại tướng quân Gia Kê Dĩnh của nước Việt thống lĩnh binh sĩ kéo đến Dư Hàng trước nhất. Liền đó, Đại phu Tiết Dung cũng đưa một cánh quân qua sông Tiền Đường, hợp với thủy quân, đi theo một con đường mới âm thầm tiến lần về hướng Đông-Bắc.
Hai ngày sau hai cuộc phát binh ấy, Câu Tiễn chuyển giao nội chính nước Việt cho thái tử. Văn Chủng trao quyền trông coi tài chính và kho lương cho Duy Giáp.
Sang ngày thứ ba, Câu Tiễn cùng một số đại phu cùng đến ven sông Tiền Đường, được nhóm Văn Chủng và Phạm Lãi chờ đón.
Câu Tiễn rất bình tĩnh, thư thả nhảy từ chiến xa xuống, đứng bên thành xe chờ vợ xuống xe. Nhưng Việt quân phu nhân không được như chồng. Từ trên xe xuống, mặt bà đỏ như gấc.
Câu Tiễn đón vợ, bảo nhỏ:
- Phu nhân, chúng ta lại đến Cô Tô.
Giọng Quân phu nhân run run:
- Vâng. Quân vương, còn Thiếu Bá đâu?
Phạm Lãi bước ra thi lễ:
- Thưa, thần ở đây.
- Kìa, Thiếu Bá! Khanh nhớ rõ chuyện năm xưa chứ? Ba ta cùng đến Cô Tô giữ ngựa cho Phù Sai, vào ngày tuyết lớn, ngón tay chúng ta rét cóng...
- Thưa, thần nhớ, quân phu nhân!
Câu Tiễn trầm giọng nói:
- Giờ khắc bồi thường cho chúng ta đã đến rồi. Suốt hai mươi năm, trẫm không có một ngày quên... Tử Hội! Thiếu Bá! Giờ phục hận đã điểm. Lấy được nước Ngô, chúng ta sẽ chia ba, hai khanh mỗi người một phần, trẫm cũng một phần. Ôi, nếu không có hai khanh trẫm không có được ngày này.
Câu Tiễn nhìn về Hội Kê sơn, buông tiếng thở dài.
Văn Chủng và Phạm Lãi đứng nghiêm, mỗi người đều lấy vẻ khiêm tốn hồi đáp.
Câu Tiễn ngửa mặt nói tiếp:
- Tổ tiên, hồn thiêng sông núi của nước Việt... Xin hãy giúp cho Câu Tiễn này trong ngày báo hận rửa thù.
Câu Tiễn vừa nói vừa lột mão, sụp quỳ xuống.
Phạm Lãi cũng lột mão. Hai mươi năm gian khổ đã làm cho tóc người điểm bạc hoa râm.
Vị quan lo về tế tự dâng rượu đến. Câu Tiễn rưới rượu ra đất, đoạn rút đỏan kiếm bên mình ra, lẩm bẩm:
- Câu Tiễn xin thề trừ diệt nước Ngô, báo thù rửa hận!
Còi hiệu nổi lên, hai trăm võ sĩ trùm đầu bằng da thú, tay cầm trường mâu lần lượt đi qua trước mặt Việt vương. Họ là vệ đội của Việt vương Câu Tiễn.
Trên sông Tiền Đường có bè cây để nằm dọc dài năm mươi trượng. Trên bè đã sắp đầy chiến xa... Đây là một cuộc qua sông qui mô và lớn nhất trong lịch sử nước Việt. Nhưng việc dùng bè chở chiến xa là kế hoạch của Phạm Lãi.
Chiếc bè thứ nhất lướt đi rồi, kế tiếp là chiếc thứ hai. Vợ chồng Câu Tiễn, Phạm Lãi và Văn Chủng xuống bè thứ ba vượt sông Tiền Đường.
Bè đến giữa dòng, Việt vương vẫn hướng về Hội Kê sơn mập mờ, khấn vái:
- Lạy trời hộ độ chúng con!
Ba chiếc bè cây chở gần ba trăm chiến xa. Nhưng ở bờ sông bên kia đã có sẵn tám mươi xe nữa.
Phạm Lãi lên bờ, lập tức đốc thúc chiến xa đi trước. Thế là, đại quân của nước Việt đã chia làm năm đội xuất phát.
Xe Phạm Lãi đi hơn một giờ thì bắt gặp nhóm thủy quân đi trước. Chàng truyền cho họ chờ ở Ô Thọ trấn đi lệnh. Đợi đội thuyền lục tục kéo đến, Phạm Lãi mới lên một chiếc thuyền nhỏ có phần hơi lạ.
Trưởng tử của Phạm Lãi mình mặc áo giáp, đứng ở đầu thuyền kêu lên:
- Đại nhân!
Phạm Lãi nghiêm mặt hỏi:
- Có đem theo đủ các vật không?
- Thưa, con đã làm đúng lời thân phụ dặn dò.
Phạm Lãi gật đầu, bước vào khoang thuyền, xem lại từng gói một. Tất cả đựng đầy hạt giống lúa mạch và rau cải. ở về một góc thuyền còn chất mấy mươi bao bông vải.
Phạm Lãi bước ra sau thuyền, nơi chất đầy nông cụ bằng cây có, bằng sắt có. Phạm Lãi kiểm điểm một lượt, tỏ ra rất hài lòng. Đoạn từ phía sau ấy bước lên tầng nhì. Thì ra thuyền này có hai tầng, được đóng khéo che giấu để chia làm hai phần. Phần trên trần thiết đầy đủ cho một gia đình ở. Phạm Lãi xem xét tỉ mỉ rồi từ lầu ấy đi ra phía sau.
Con thứ của Phạm Lãi đang giữ tay lái, gọi chào:
- Đại nhân!
- Giỏi! (Phạm Lãi mỉm cười hài lòng). Lúc đến Ô Thọ trấn, con phải đậu thuyền này sau hàng thứ ba.
- Dạ vâng, Đại nhân!... (Thanh niên tên Phạm An đảo mắt nghi ngờ hỏi). Bây giờ, con có thể hỏi không?
- Không cần... (Phạm Lãi nghiêm trang tiếp). Cũng không nên hỏi: Chỉ biết là chúng ta dốc lực báo thù, nếu không thành công thì vĩnh viễn sẽ không có ngày trở lại.
Phạm An ngập ngừng, dường như có biết bao điều muốn hỏi phụ thân. Nhưng khi tiếp mắt với cha thì Phạm An lại không dám hỏi gì cả.
- Kể từ bây giờ, các con không được phép rời thuyền.
Dặn dò lần sau cùng, Phạm Lãi rời thuyền nhỏ lại dùng thuyền khác lên bờ. Đoạn lên chiến xa giục tới.
Sau ngày thứ tư, hai cánh quân của Gia Kê Dĩnh và Tiết Dung đã chuyển đội hình sang thế công, bao vây đội thủ quân có nhiệm vụ gìn giữ biên giới nước Ngô. Tất cả bị bắt trọn gói. Liền đó, Phạm Lãi hướng dẫn bốn ngàn bộ binh tiến nhanh về trước.
Hai ngày sau, đại quân Việt từ Dư Hàng xuất phát vào Tú Thủy, đánh tan rã quân Ngô trấn giữ Tú Thủy.
Mãi đến bấy giờ, thái tử nước Ngô mới được tin, vội vã đến Bình Vọng dàn trận. Đồng thời phái một cánh quân chận đánh quân Việt xâm nhập, thái tử Hữu cũng cho người cấp báo đến Hoàng Trì.
Đại quân do chính Câu Tiễn thống lĩnh đã đến rồi.
Quân của Tiết Dung xông trận trước, đôi bên không phân biệt hơn thua. Sau đó, Phạm Lãi chỉ huy một cuộc đánh đêm, làm cho đội tiền phương của thái tử Hữu bị đánh gục. Câu Tiễn dẫn đại quân đến thẳng Bình Vọng.
Tại Hoàng Trì, sự nghiệp của Ngô vương đã đến hồi cao tuyệt, đồng thời cũng gặp phải một khiêu chiến nghiêm trọng.
Hội nghị thảo binh thâu đoạt kết quả, vấn đề của các nước lần lượt được giải quyết. Sau cùng chỉ còn vấn đề nghi thức... Việc hòa máu thề nguyền cũng đã được trù liệu xong. Đa số các quốc gia dự hội đồng ý nhường Ngô vương tháp huyết trước, cũng có nghĩa công nhận Ngô vương là Minh chủ. Kế đó là Tề Hằng công và Tấn Văn công.
Nhưng vào giờ chót, vua Tống lại nói với Tấn quân: Theo ý của Đơn Bình công, quan sát viên do Châu Vương phái đến bảo là không thể để cho người phương Nam làm chủ cuộc tháp huyết(1) Trung Nguyên là trung tâm văn hóa, có lịch sử huy hoàng, Tấn quân lại là hậu duệ của Bá vương, Tấn lại là quốc gia mạnh nhất Trung Nguyên, phải giữ thể diện cho Trung Nguyên. Vì thế, Tấn quân yêu cầu thẳng với Đơn Bình công để cho mình cắt máu trước.
Đơn Bình công ngạc nhiên nói thẳng:
- Tôi nào có ý đó. Ngô vương từ ngàn dặm kéo binh xa đến đây, e rằng chỉ vì giành làm chủ cuộc tháp thuyết. Tấn quân muốn làm minh chủ, e rằng Ngô vương không thuận!
- Đơn Bình công! Họ là hạng người man di, chúng ta có thể để họ làm lãnh tụ được sao. Không! Tôi hoàn toàn không đồng ý! Hơn nữa, tin rằng các nước
Tề, Tống cũng không thật sự muốn cho Phù Sai làm minh chủ.
Đơn Bình công sậm mặt:
- Thế này thì phiền lắm! Phù Sai có thể nhân đây phát động chiến tranh.
- Có chiến tranh chúng ta cũng không sợ. Phù Sai từ xa đến, tôi đã sớm bày binh chờ hắn. Nếu hắn muốn động võ, tôi cũng không ngại chống nhau.
Tấn quân vốn sợ Ngô nhưng vì vấn đề thể diện mà bỗng nhiên nói cứng. Đơn Bình công lắc đầu:
- Thế này là làm mất hết ý nghĩa hội minh.
- Chư hầu Trung Nguyên có phải rưới máu ngàn dặm cũng không thể để cho Ngô vương lãnh đạo. Thoạt đầu, tôi vì muốn yên đâu đó nên đã nhượng bộ bao phen. Nhưng giờ thì không. Xin Đơn Bình công đi nói cho Phù Sai biết, Tấn quốc có truyền thống minh chủ nhất định không để cho ai tháp huyết trước.
Đơn Bình công không làm sao hơn được là nhận nhiệm vụ này đi hỏi lại Ngô vương.
Gần như lúc ấy, Vương Tôn Lạc nhận được thư cấp báo, đi thẳng vào doanh phòng của nhà vua. Tin báo Việt đã nhập Ngô khiến Ngô vương nghiến răng:
- Câu Tiễn không phải là người nên mới nhân lúc vắng mặt ta mà giở trò.
- Đại vương! Theo thần thấy, tình hình bây giờ khá nghiêm trọng.
- Ơ... Nhưng trẫm không thể về liền. Vương Tôn Lạc, sáng sớm mai, khanh ra lệnh cho Tích Lặc dẫn quân về Cô Tô trước. (Nhìn bản tin cấp báo, Ngô vương trầm ngâm một thoáng, nói tiếp). Chúng ta không có cách nào kết thúc cuộc hội trong vòng ba ngày.
Bấy giờ, có tin báo Đơn Bình Công đến. Vị đại diện nhà Châu uyển chuyển trình bày ý kiến của vua Tấn, mong được Ngô vương thông cảm, tôn trọng truyền thống của Trung Nguyên.
Ngô vương cười nhạt:
- Làm minh chủ cũng có truyền thống nữa sao? Nếu nói đến truyền thống thì ngôi minh chủ sẽ xoay sang Tề.
- Quân vương! Mấy năm gần đây, hội minh chư hầu đều do Tấn vương làm chủ...
Ngô vương lại cười nhạt, không trả lời liền nên Đơn Bình Công nói tiếp:
- Thật ra minh chủ là một hư danh, quan trọng là xử sự hòa bình với các nước.
Ngô vương nói giọng uy hiếp:
- Tấn hầu giữ ngôi minh chủ, e sẽ khó làm cho các nước hòa bình.
- Quân vương! Mong ngài thử nghĩ xem. Bây giờ cũng không nên xem đây là quyết định tối hậu. Trông chừng Tống, Tề cũng có xu hướng...
Đơn Bình Công bỏ lửng song Ngô vương cũng hiểu ra dụng ý. Nhà vua phừng giận, muốn đập ngay một quyền cho gục vị đại diện nhà Châu. Nhưng chợt nghĩ đến quân Việt xâm lăng, Ngô vương nén giận, hừ giọng khinh miệt.
Vương Tôn Lạc nhìn thấy tình thế như cung giưng kiếm tuốt liền chen nói:
- Đại vương! Việc ấy để thủng thẳng bàn lại.
- Cũng được.
Ngô vương bảo Vương Tôn Lạc thay mình tiễn khách. Ra khỏi doanh phòng, Vương Tôn Lạc mới thư thả nói:
- Công gia! Do mối quan hệ giữa nước tôi và Trung Nguyên, có lẽ Đại vương chúng tôi không làm trái ý chư hầu Trung Nguyên lắm đâu!
Đơn Bình Công vòng tay cám ơn trước, chào về. Lúc trở lại doanh phòng, Vương Tôn Lạc nghe Ngô vương thét:
- Có lý nào như vậy? Bọn họ những ngờ ta chịu bỏ ngôi minh chủ à? Trong chư hầu Trung Nguyên có ai bằng được ta không? Có lý nào như vậy?
- Đại vương!... Chuyện này đến thật đột ngột vừa khi chúng ta nhận tin cấp báo của Cô Tô...
- Trẫm thấy, không nên tiết lộ tin tức quốc nội, Bọn họ không thể vì chuyện Câu Tiễn xuất binh mà thừa gió bẻ măng. Hơn nữa, trẫm không tin Tề dám phản đối trẫm, giành làm minh chủ. Tống thì có thể nhưng Tống thì có lực lượng gì?
- Đại vương! Còn về việc hồi sư của Tích Lặc về gấp Cô Tô.
Trời vào hoàng hôn lại có tin cấp báo. Bản tin nói rõ có Phạm Lãi trong quân, có thể có cả Việt vương Câu Tiễn. Đồng thời bản tin cũng báo quân phòng vệ của Ngô ở Tú Thủy đã gặp điều bất hạnh.
Ngô vương phiền não vô cùng, đi đi lại lại. Ngài biết một khi có Phạm Lãi xuất hiện thì tình hình nghiêm trọng lắm rồi. Nếu có cả Việt vương thì đây là trận chiến một sống một chết.
Hùng tâm của Ngô vương lại một phen xuống thấp. Ngài hối hận về việc đã đến Hoàng Trì. Việc của các quốc gia Trung Nguyên có cần ngài sốt sắng thế này đâu! Minh chủ, đúng như Đơn Bình Công đã nói, chỉ là một hư vinh!
Vì vậy, Ngô vương lại cho đòi Vương Tôn Lạc đến nói:
- Trẫm thấy, trẫm phải đi đêm về Cô Tô, không màng đến cuộc hội ở Hoàng Trì nữa!
- Đại vương! (Tôn Lạc kinh hãi kêu lên). Không được đâu, Đại vương làm thế, nhất định các chư hầu sẽ biết rõ nội tình của chúng ta. Tấn có thể thừa cơ đuổi theo đánh chúng ta thì tình hình sẽ tệ hại đến mức không tưởng tượng được.
Ngô vương trầm ngâm, biết rõ thế cỡi cọp của mình ở Hoàng Trì. Ngài sốt ruột bảo:
- Vương Tôn Lạc, chúng ta dần dà ở đây không được!
- Muôn tâu, chúng ta nên cho quân rút từ từ. Trước hết, nên nghĩ cách cho quân trấn ở Hàn Giang về Cô Tô trước, rồi đưa quân ở Ngải Lâm về trấn ở Hàn Giang...
Bấy giờ lại có tin báo làm cho Ngô vương xanh mặt. Thư này đứng tên Tây Thi từ Ngô cung ở Cú Khúc gởi đến. Nàng chuyển đạt báo cáo của Thái tử Hữu về việc quân Việt xâm phạm bờ cõi chứ tự nàng không có ý kiến.
Thư như thế tuy không có nội dung gì mới mẻ song đã làm cho Ngô vương thêm thuơng tâm, u uất. Ngài lẩm bẩm:
- Ta lại để cho nàng lo lắng nữa!
Vương Tôn Lạc bỗng chen nói:
- Đại vương! Chúng ta có cách buộc Tấn!
- Sao?
- Ngày mai, ngày mai chúng ta dàn quân ở Hoàng Trì với tư thế tác chiến thử xem người Tấn làm sao? Họ không phục, chúng ta sẽ tấn công liền.
- Không được đâu, Vương Tôn Lạc! Làm sao ta có thể chống với các chư hầu Trung Nguyên được? Lưỡng đầu thọ địch, chúng ta sẽ bị thua!
Vương Tôn Lạc khẳng định:
- Chúng ta bày một ngàn xe, người Tấn dám đánh sao? Nếu Tấn dám đánh thì lúc ta chinh Tề, Tấn đã chong với ta rồi.
Ngô vương trầm ngâm. Ngài nhận thấy cách ấy thật nguy hiểm song ngoài cách ấy thật không có con đường nào khác.
Ngài cắn răng đáp:
- Được, khanh phát lệnh trong đêm nay, tập trung binh xa.
Sáng ngày hôm sau chẳng bao lâu, trên bình nguyên Hoàng Trì đầy dẫy binh xa Ngô với mâu với kiếm, ngập tràn không khí chết chóc. Nhưng vua Ngô thì cáo bệnh, không xuất hiện.
Tráng sĩ của đội Hiền Lương cỡi chiến xa, giục ngựa, đột nhiên xuất hiện phía sau doanh trại Tấn rồi vượt qua Tấn bày khai trận địa, hoàn toàn không xem người Tấn vào đâu. Làm thế là một cách khiêu chiến nghiêm trọng!
Quân Tấn được lệnh không đối phó. Thực tế thì họ sợ lắm. Từ chỗ cao nhìn xuống thì trên bình nguyên Hoàng Trì, quân Ngô quá đông! Hơn nữa, ở về phía Đông-Nam, bụi lốc mịt mù đủ biết quân Ngô từ phía sau kéo đến Hoàng Trì, không nghi ngờ gì nữa. Vì vậy, các chư hầu trong cuộc hội minh đều thất sắc.
Trước lúc hoàng hôn, Đơn Bình Công đến trại Ngô xin yết kiến. Nhưng Ngô vương từ chối, không tiếp. Đêm ấy, quân Ngô không ngừng điều động... Vương Tôn Lạc áp dụng kế nghi binh của Ngũ Tử Tư, dùng một trăm chiến xa không ngừng di chuyển. ở mặt sau, Vương Tôn Lạc lại dùng ba mươi ngựa quét cho cát bụi lốc mịt mù bằng cành cây buộc ở đuôi ngựa. Hơn nữa, Lạc còn cho binh sĩ ở phía sau hướng Đông-Nam đốt lửa sáng trời. Làm như thế thì từ Minh đàn Hoàng Trì nhìn thấy hậu phương Ngô trùng trùng lớp lớp...
Đêm ấy, các vua Tấn, Tống, Vệ họp bàn cách đối phó. Vua Tống sợ nhất, thoạt đầu muốn đẩy cho Tấn đối phó với Ngô song bây giờ không dám mở miệng.
Vệ vương nói:
- Binh xa của Ngô nhiều quá, đi gì mà đi không ngớt. Họ đi như nước, không ngừng thao thao tràn ngập Hoàng Trì!
Tấn quân lạnh lòng, nhìn lửa sáng lòa ở chốn mù khi, bảo nhỏ:
- ở phía sau, quân Ngô e có đến một hai vạn...
Vệ vương cau mày:
- Có thể Phù Sai đã đưa đến Hoàng Trì hai ngàn binh xa.
Tấn quân phát run, vừa lúc đó có khanh sĩ (một chức vụ tương đương với Đại phu) là Triệu Thị hối hả đến báo:
- Người ở bên Tân tùng Bách đến báo cáo, có một cánh quân Ngô không rõ quân số từ Ngải Lâm kéo lên mặt Bắc, dường như muốn đi Thiết ấp.
- Thiết ấp? Thiết ấp là hậu phương của chúng ta!
Tấn quân thảng thốt kêu lên. Tấn muốn làm lãnh tụ Trung Nguyên song dưới sự uy hiếp của quân Ngô, Tấn co rút rồi. Sáng sớm ngày thứ sáu, Tấn, Tống đều tự động ngỏ ý mời Ngô vương làm chủ cuộc tháp huyết, tức là làm Minh chủ chư hầu Trung Nguyên.
Nhưng sáng hôm ấy, lại có tin báo của Cô Tô: Rằng quân Việt đã kéo thẳng đến tấn công Bình Vọng.
- Chúng ta có thể kịp thời lui về! (Ngô vương sậm mặt nói với Vương Tôn Lạc) Mong cho Thái tử có thể giữ được Bình Vọng một thời gian.
Đoạt ngôi Minh chủ rồi song Ngô vương không lạc quan chút nào. Vào trưa, Ngài cho đội Hiền Lương bo vệ Minh đàn nhưng riêng Ngài thì rút trong quân, không ngừng dùng dao bén khắc chữ lên phiến trúc.
Ngài khắc thư cho Thái tử, cũng khắc thư cho Bá Hi và Vương Tôn Hùng. Sau rốt, Ngài khắc thư cho Tây Thi ở Ngô cung, bảo với nàng rằng: Chư hầu Trung Nguyên đã khiếp phục rồi, Ngài đã trở thành Minh chủ! Ngài còn khắc, quân Ngô sẽ lục tục kéo về, tin chắc sẽ kịp nghênh chiến với Câu Tiễn.
Chẳng bao lâu, Tích Lặc bước vào bẩm báo: Quân hậu bị đóng ở Ngi Lâm đã triệt thoái. Bây giờ có ba trăm xe đang tức tốc về nước.
Ngô vương vỗ vai Tích Lặc:
- ở đây không có thay đổi gì đâu, khanh mau về đi! Phải cẩn thận lúc đi đường, nhất là lúc đi ngang biên giới Sở.
Chư hầu Trung Nguyên run sợ hoàn thành thủ tục sau cùng của cuộc hội minh trong lúc quân Ngô không ngừng rút lui. Qua hai hôm khẩn trương, cuộc hội ngộ ở Hoàng Trì được tuyên bố kết thúc thành công.
Ngô vương mặc đồ rỡ ràng bước lên Minh đàn, chích lấy máu trước tiên, trở thành Minh chủ các chư hầu Trung Nguyên. Kế đến là các vua Tấn, Tề, Lỗ, Trịnh, Vệ, Tống...
Sau cùng, Đơn Bình Công thay mặt cho Châu vương có lời hiếu dụ. Đoạn dùng thịt cúng tế ban cho Ngô vương...
Quân Ngô ở bốn bên Minh đàn dậy tiếng hoan hô. Cung hạ vị anh hùng của họ, họ rập tâu:
- Ngô vương vô địch! Ngô vương muôn năm!
Vua các nước đều ngại ngùng, thầm nghĩ: Làm một vị Minh chủ không nên thiếu lễ độ như vậy!
Sau khi hoàn thành thủ tục, Ngô vương vòng tay chào cám ơn mọi người, đoạn bước xuống Minh đàn. Vương Tôn Lạc thay mặt nhà vua tuyên bố:
- Kính mời tất cả dự yến.
Ngay khi tiệc tùng, một số lớn quân Ngô đã rút lui.
Tuy nhìn thấy quân Ngô không ngừng điều động song các chư hầu không dám suy đoán. Bởi vì, trong năm hôm, quân Ngô đã hành động một cách xuất quỷ nhập thần khiến họ hong quá, mất hết thông minh cần có.
Kết thúc cuộc hội minh, vào nửa đêm, Ngô vương sẽ lén cho chiến xa rời khỏi Hoàng Trì.
Đại quân rút lui, không sao tránh khỏi hỗn độn. Huống chi, Ngô vương hạ lệnh cho toàn quân đi ngày đi đêm khiến binh sĩ bắt đầu hồ nghi. Họ thắc mắc: Đại vương đã làm Minh chủ chư hầu, tại sao lại vội vã rút lui?
Đồng thời, các chư hầu Trung Nguyên cũng hoài nghi tự hỏi: Tại sao?
Lúc đại quân về tới Ngải Lâm, Ngô vương nhận được tin báo tương đối gây yên tâm: Quân Việt tấn công Bình Vọng đã bị đẩy lui. Hiện giờ, quân hai bên đang chạm mặt nhau ở Huề Lý.
Ngô vương thở phào:
- Chúng ta có thể về kịp để bo vệ Cô Tô!
Bấy giờ là mùa thu. Lúc đại quân Ngô đi qua biên giới Lỗ thì gặp mưa thu.
Nước mưa làm chậm bước quân đi, hơn nữa, còn khiến cho đại quân lâm cảnh khó khăn hết sức. Đường đất sình lầy làm cho người ngã, xe lật.
Lúc đi ngang Tống, Ngô vương muốn trừng phạt Tống không thần phục. Hơn nữa, để đề cao sĩ khí, Ngô vương hạ lệnh tấn công, đốt cháy một dãy nhà Tống.
Đại quân về đến Hàn Giang có Tích Lặc đã chuẩn bị sẵn đội thuyền chờ Ngô vương. Nhưng đoàn quân của vị Minh chủ Trung Nguyên đã bị mưa thu làm cho rét mướt không sao chịu nổi. Họ kéo lê chân sình đất lên thuyền, mệt nằm phờ phạc như người chết.
Hơn nữa, còn có sự không may ở phía sau. Lúc Ngô vương lên thuyền độ quân qua sông thì Sở phát binh đánh lén hậu đội. Tướng quân Ngô là Tư Đường bị trúng tên chết. Tư Đường chỉ huy một trăm xe và một ngàn năm trăm bộ binh đã bị chết mất quá nửa.
Đối với toàn quân, sự thiệt thòi ấy không đáng kể. Nhưng theo báo cáo của các bại binh thì toàn quân rung động.
Ngô vương giận lắm, muốn kéo rốc đại quân đánh Sở. Song đó chỉ là ý niệm chứ thực tế nhà vua không làm được. Bởi vì Ngô quốc đang lâm nguy và binh Ngô đã bị mưa thu đánh bại.
Mưa cứ liên miên không dứt. Nước sông dâng cao, đẩy thuyền đi rất nhanh.
Những lời đồn bây giờ mỗi lúc một nhiều. Đồn rằng, quân Việt đã tấn công vào Ngô quốc... Đồn rằng Sở vương đích thân thống lãnh binh mã báo thù. Cả hai vị vua ấy đều có thâm thù với Ngô.
Ngô vương phẫn nộ thét:
- Ta sẽ nghiền nát họ! Ta có thể nghiền nát họ... Nhưng mong trời đừng mưa!
Dường như Trời cũng chiều người, mưa tạnh rồi. Đã nhìn thấy bên kia bờ Trường Giang và lại có tin: Quân Ngô-Việt vẫn còn dàn nhau ở Huề Lý.
Câu Tiễn cũng có mặt trong quân ấy, Văn Chủng cũng có mặt.
Cuộc diện chưa ngặt nghèo nhưng Ngô vương rất lấy làm lo. Bởi quân Việt mang trọn ý khuynh quốc mà tới thì đây là trận quyết chiến một sống một chết. Tuy no giận, Ngô vương vẫn thấy lo sợ... Và đây là lần thứ nhất nhà vua cảm thấy lo sợ trước khi giáp trận.
Đại quân Ngô đã qua Trường Giang, đại quân đã từng uy hiếp chư hầu Trung Nguyên nhưng sau khi vượt được Trường Giang thì lại tỏ ra vô cùng chán nản. Đến cả Ngô vương cũng sợ khi nhìn họ. Để chỉnh đốn lại trước khi tác chiến, đại quân đến phía Nam Trường Giang thì Ngô vương truyền lệnh cho nghỉ ngơi ba ngày ở Cú Khúc.
Cảnh vật Cú Khúc vẫn như xưa. Tây Thi hướng dẫn quần nữ Ngô cung đến đầu biên giới đón rước Ngô vương.
Kể từ quân Việt mở cuộc xâm lăng, Tây Thi chìm trong bấn loạn. Nàng sợ thay đổi. Bất cứ hình thức hay kết quả thay đổi nào cũng đều bất lợi không sao tưởng tượng được. Nàng còn được tin đặc biệt. Câu Tiễn xua quân đi lần này là quyết rửa sạch mối huyết hải thâm thù hai mươi năm. Trong những ngày học tập ở quê nhà, Tây Thi từng nghe Câu Tiễn thề rằng: “Đến ngày xá tang thì ta với ngươi cùng chết!”. Tây Thi tưởng tượng, lần này là một cuộc chiến tranh diệt tuyệt.
Tây Thi là người đã bị đặt nằm giữa cuộc thảm khốc đó. Nàng sợ sự tiêu diệt, bởi vì bất cứ bên nào gục xuống cũng làm cho nàng đau khổ. Một bên là Tổ quốc, một bên là chồng, nàng không có cách nào phân biệt được nặng nhẹ giữa đôi bên.
Lúc được tin Ngô vương làm Minh chủ Trung Nguyên, Tây Thi phấn khởi. Nàng thầm nghĩ: Kết quả này sẽ làm cho Việt vương ngán sợ mà lui binh. Chỉ cần Câu Tiễn lui binh, nàng tự tin mình sẽ đủ sức ngăn Ngô vương cất binh đánh Việt.
Nhưng tin tức từ tiền phương gửi về cho biết, dường như Việt vương không xem sự thành công vĩ đại của Ngô vương vào đâu. Điều ấy khiến Tây Thi bàng hoàng đâm lo và bấn loạn.
Tin Ngô vương gấp rút trở về làm cho Tây Thi yên tâm phần nào. Nhưng khi nàng đến biên giới đón tiếp vị bá chủ Trung Nguyên thì từ trong thâm tâm nàng đã có sự run sợ: Ngô vương tiều tụy quá rồi! Sạm nét phong trần, trông mặt nhà vua khô khốc, không có chút phấn khởi nào, cũng không có nét anh hào nào. Thần sắc của nhà vua mà như thần sắc của một tên quân từ đội ngũ trở về, lại là thứ đội ngũ bại trận, tả tơi, lam lũ...
Lúc nhìn thấy Tây Thi, Ngô vương mỉm cười, ào lại ôm chầm nàng. Sau đó Ngài hỏi bằng giọng nặng nề:
- Tây Thi! Nàng biết việc ở Hoàng Trì...
- Tâu biết. (Nàng cố gắng tỏ ra chính mình thật sung sướng) Đại vương, chư hầu Trung Nguyên đều quy thuận với Đại vương!
- Ơ, chuyến này trẫm thành Minh chủ Trung Nguyên!
Nhà vua cố tỏ vẻ vui mừng, nhưng từ đôi mắt lờ đờ mệt mỏi, Tây Thi không nhận ra một chút hào khí nào. Nàng muốn khích lệ nhà vua song khi nghĩ đến quân Việt, bản thân nàng cũng mất tinh thần nốt!
Dường như hiểu điều Tây Thi muốn nói, Ngô vương nắm nhẹ tay nàng bảo nhỏ:
- Chúng ta về Ngô cung hẵng nói. Bây giờ trẫm còn mấy việc cần làm.
Vừa nói, Ngô vương vừa kéo Tây Thi lên gò nổi, tuyên bố cho toàn quân được nghỉ ba ngày. Binh sĩ đang mệt mỏi rập tiếng hoan hô, gọi to “Đại vương!” Nhà vua cười khổ nói với Tây Thi:
- Ba quân mệt mỏi quá, trẫm muốn cho họ nghỉ xả hơi.
- Tại Hoàng Trì, không có tác chiến chứ?
- Không. Nhưng trên đường về, chúng ta bị mưa thu đánh bại. Thật là bất hạnh, suốt đường mưa...
- ở đây không mưa... Chỉ có hôm trước, có mưa một lần...
Tây Thi ngẩng nhìn trời, bắt gặp vòm trời xuống thấp. Phương Bắc đã mưa, ở đây hôm trước có mưa, thế là mùa mưa đã bắt đầu. Nghĩ ra thế, nàng ảo não.
Về đến Ngô cung, Tây Thi ra lệnh ca hát ăn mừng thắng lợi Hoàng Trì. Tuy là một “hư vinh thắng lợi”, nhưng về hình thức, không thể không tổ chức ăn mừng để quân dân Ngô biết sự thành công vĩ đại của nhà vua họ.
Được nghỉ ngơi, binh sĩ cũng ăn mừng thắng lợi.
Nhưng tin tức từ cuộc giao tranh Ngô Việt cứ loan truyền "trong những ngày thắng lợi” ấy. Cú Khúc nhận được nhiều tin tức, chẳng bao lâu, quân sĩ đều hiểu rõ tình hình Việt tấn công Ngô. Họ biết thêm địa danh Huề Lý, có nghĩa quân Việt đã xâm nhập Ngô rồi và chiếm cứ một vùng khá rộng lớn.
Mọi người đang ca vang, ăn uống, nhưng cũng đang nơm nớp âu lo... Sau ba ngày nghỉ ngơi sẽ là một trường quyết chiến.
Trong quân, nhiều người lần lần nhắc lại di ngôn của Ngũ Tử Tư. Theo dự đoán của vị lão thần nhà Ngô thì quân Việt sẽ tấn công Cô Tô... san bằng Cô Tô thành bình địa.
Rồi người ta tự hỏi:
- Bây giờ đã đến lúc chưa?
Tại Ngô cung, Ngô vương tiếp kiến vài vị tướng quân đoạn tắm rửa, thay đồ ngủ rộng và mềm rồi kéo Tây Thi đến Sùng đài. Gọi Sùng đài vì đài rất cao, hình thức kiến trúc có phần giống Cô Tô đài. Nhưng vì diện tích Ngô cung nhỏ nên Sùng đài cũng nhỏ theo cho cân đối.
Sùng đài được kiến tạo bằng nhóm thợ Lỗ đã kiến tạo Quán Oa cung tuy không vĩ đại nhưng rất tinh xảo. Sùng đài có hai tầng. Bốn bên tầng đều có cửa sổ, từ cửa phía Nam nhìn xuống có thể thấy toàn khu chợ Cú Khúc. Nhìn từ cửa phía Bắc và Tây thì thấy một dãy ngô đồng. ở mặt Đông có rừng trúc và hồ, nhìn xa hơn nữa có thể nhìn thấy chợ búa. Đến Ngô cung, thời gian Tây Thi và Ngô vương ở Sùng đài nhiều nhất.
Bấy giờ, Tây Thi đặt Ngô vương nằm xuống rồi ngồi kề bên xoa bóp cho nhà vua. Ngô vương lim dim mắt nói:
- Cho trẫm một ly!
Nốc cạn ly rượu từ tay Tây Thi, Ngô vương nắm luôn tay nàng hỏi:
- Khanh mệt?
Sự dịu dàng của nhà vua làm cho Tây Thi cúi gầm, úp mặt trên vai ngài.
- Tây Thi! Thật không ngờ...
Tuy Ngô vương không nói hết câu nhưng việc không ngờ đây tự nhiên là việc không ngờ quân Việt xâm nhập. Bởi từ gặp mặt, cả hai chưa nói đến chuyện giao tranh giữa Ngô Việt. Thế nên, bây giờ Tây Thi nói:
- Quân vương, Câu Tiễn đã hướng dẫn khá đông binh...
- Phải. Trai tráng toàn nước Việt đều xung vào quân đội. (Ngô vương thở dài thườn thượt) Câu Tiễn muốn đấu cùng trẫm một trận sống chết.
- Quân vương! (Tây Thi lo ra mặt) Thái tử ở Bình Vọng có thể ngăn được đám binh của Câu Tiễn không?
Tây Thi hỏi thật nhỏ, vừa hỏi vừa lựa lời. Nàng không dùng hai tiếng “đánh bại”, bởi với thân phận của nàng, hai tiếng ấy đáng thẹn khi dùng. Hơn nữa, theo nàng thấy, Thái tử Hữu mà đánh bại quân Việt là một hy vọng quá xa vời.
Ngô vương còn thiếu tin tưởng hn nàng:
- Ngăn được... có thể ngăn được vài ngày... Duy có một việc trẫm sai lầm là tân quân Bình Vọng...
- Quân vương không lầm đâu!
Tây Thi chận lời nhà vua, không muốn để nhắc đến vấn đề đau khổ “Tân quân Bình Vọng”. Vì số quân này, Ngô vương đã giết Ngũ Tử Tư. Rồi cũng vì Ngô vương đích thân điều động số quân này, đến Hoàng Trì mà mặt trận Bình Vọng ngày nay suy yếu. Để tránh tất cả, Tây Thi nói:
- Cuộc họp mặt ở Hoàng Trì quan trọng hơn tất cả!
- Trẫm cũng nghĩ vậy. (Ngô vương nghiến răng) Hận là hận Câu Tiễn không có lương tâm! Ôi, cho thêm trẫm một ly...
Ngô vương lại nốc cạn ly thứ hai, Tây Thi tiếp tục xoa bóp cho nhà vua, khá lâu sau mới hỏi:
- Quân vương, thiếp có thể hỏi được không?
Nàng nhìn rót vào Ngô vương, chập sau hỏi:
- Bình Vọng khẩn trương, tại sao Quân vương lại cho quân nghỉ ở đây?
- Cánh quân này không nghỉ thì cũng không thể tác chiến. Ngô vương uống ly thứ ba. Vào lúc huy hoàng nhất lại là lúc Ngô vương gặp cảnh gian nan nguy hiểm nhất, không ai có thể tưởng tượng được. Ngô vương đoạt ngôi Minh chủ chư hầu Trung Nguyên để bị quân Việt chiếm mất một phần lãnh thổ.
Nhưng lúc Ngô vương o não thế này lại là lúc Tây Thi nhận thấy nàng đã yêu sâu xa nhà vua. Tình yêu có lúc là sự an ủi, vỗ về, có lúc là của kẻ mạnh dành cho người yếu, có lúc như mẹ đối với con...
Tây Thi như thế đó, với sự xúc động không sao giải thích, nàng gục xuống ôm chân nhà vua. Ngô vương hiểu được, nhắm mắt nghĩ thầm: Cứ được gần nàng thì trong bất cứ gian khổ nào cũng có được hạnh phúc...
Ngô vương ngủ trong vòng tay người đẹp. Tây Thi nghe tiếng ngáy của nhà vua, không muốn làm kinh động ngài nên cắn răng chịu mỏi tay, chịu tê chân giữ tròn tư thế.
Lâu lắm, lâu lắm mới có tiếng Ngô vương lẩm bẩm:
- Tây Thi! Chỉ cần chúng ta ở bên nhau...
Ngô vương vẫn nhắm mắt, vẫn ngủ say và lời nói kia là lời trong mộng, gây xúc động mãnh liệt hơn cả lúc nhà vua thề nguyền gắn bó khi tỉnh. Tây Thi vì lời trong mộng mà ứa nước mắt.
Ngô vương trở mình, thoát khỏi vòng tay của nàng.
Tây Thi vẫn ngồi trơ đó, trầm tư.
Đêm trầm trầm, tiếng người bên ngoài im bặt.
Gió thu lay nhẹ cành trúc xào xạc ngô đồng, tiếng cành lá lắt lay, tiếng lá rơi, tiếng lá rơi song nghe chừng trĩu nặng.
Gió thu cũng không ngừng ngắt tỉa lá ngô đồng gây nên thanh âm xào xạc làm cho Tây Thi cảm thấy xốn xang, bấn loạn. Nàng đứng lên bước ra ngoài, nơi Di Quang và bốn thị nữ nghiêm trang đứng chờ.
Nàng nói:
- Không có chuyện gì. (Tây Thi chỉ tay) Vào thu gọn đồ đạc bên trong đem ra.
Bảo xong, Tây Thi bước đến bên cửa sổ. Chợt có tiếng động nhỏ phía sau cây ngô đồng dường như tiếng sáo, cũng dường như tiếng gió lùa cành trúc khiến Tây Thi rùng mình.
Tây Thi lắng nghe rõ hơn, thì ra là tiếng người:
- Đoạn trúc, tục trúc, phi thổ, trục nhục...
Đó là bài ca bắn tên của nước Việt, nay lời ca lại vang lên tại Ngô cung, tại Cú Khúc. Nghe đi nghe lại hai lần, Tây Thi mới nghe rõ. Nàng biến sắc, đưa mắt nhìn chầm chập vào các thị nữ, hỏi giọng run run:
- Ai?
Trên Sùng đài vắng ngắt như tờ. Không có tiếng người hồi đáp vì các thị nữ bấy giờ cũng bị lời ca Việt thu hút.
- ...Đoạn trúc, tục trúc, phi thổ, trục nhục...
(Chặt trúc, nối trúc, liệng đất, đuổi thịt).
Lời ca chưa dứt, Tây Thi càng sậm mặt hỏi lại:
- Ai?
Di Quang cũng có phần bối rối hồi đáp:
- Không hiểu là ai.
- Di Quang... tìm Bốc thần đến đây!
Tây Thi ưỡn thẳng người, nhưng cùng lúc ấy nàng nhớ đến Ngô vương bên phòng trống nên vội chạy vào. Ngô vương ngủ vùi.
Trên mặt nhà vua đầy những đường nhăn năm tháng. Tây Thi chợt nhớ đến tình cảnh lúc nàng mới đến cung Ngô. Bấy giờ, Ngô vương là một thanh niên cường tráng... Con người miệt mài bao tháng năm, con người ấy già rồi.
Di Quang đến gần màn gọi nhỏ:
- Tây Thi!
Ngỡ kẻ bề tôi đã tới, Tây Thi lại bước ra. Không ngờ bắt gặp Triền Ba mặc áo choàng đi mưa đứng ở đầu bên trái. Tây Thi bất mãn hỏi:
- Không đi gọi người à?
- Không, Triền Ba có việc muốn nói...
Di Quang đáp nhỏ. Tây Thi đi sang bên trái, nhìn chầm chập vào Triền Ba. Triền Ba nói liền:
- Tây Thi, Đại phu Phùng Đồng đã đến.
Tây Thi phát giận:
- Phùng Đồng đứng ca bên dưới à?
- Không phải Người đâu! Phùng đại phu đã đến từ khuya đêm qua, gặp phiả hôm nay đại vương về nên mãi đến chiều nay mới liên lạc với tôi được.
Tây Thi cắn răng, không muốn nghe nói về Phùng Đồng. Nhưng nàng không dám không nghe.
Triền Ba nhếch cười, hạ giọng tiếp:
- Tây Thi! Phùng đại phu sợ Phù Sai về kịp Cô Tô. Người bảo với tôi, quân binh chúng ta có thể đánh phá Cô Tô thành trước khi Phù Sai về đến. Không ngờ Phù Sai về nhanh quá.
- Có phải Phùng Đồng muốn tôi ngăn Phù Sai trở về?
- Không, Người chẳng nói gì đến điểm ấy, tự nhiên Người biết không ai có thể ngăn được Phù Sai (Triền Ba lại nhếch cười) Nhưng Phùng đại phu lại mong chúng ta dốc toàn lực trong cố gắng sau cùng.
Tây Thi xanh mặt. Nàng không muốn hỏi thêm, bởi nàng tự biết nàng không thể làm gì hơn.
- Tây Thi! Ngày mai Phùng đại phu sẽ yết kiến đại vương người phụng mạng Bá Hi đến Cú Khúc đón tiếp đại vương đó.
Tây Thi cúi gầm, trầm ngâm lúc lâu mới hỏi:
- Phùng đại phu có nói gì về quân sự không?
- Không. Đại phu cũng chẳng nói gì đến chuyện đánh chác.
Tây Thi lách mình, giấu vẻ buồn phiền. Triền Ba nói luôn:
- Tây Thi, tinh thần đại vương dường như kém lắm. Nhìn thấy quân binh vừa về, đại phu nhận xét họ không thể giao đấu.
Câu nói ấy như mũi tên cắm phập vào tim Tây Thi. Nàng nhận thấy tim nàng nhói đau và theo thói quen, nàng ôm ngực, đi vào trong.
Bên ngoài đã dứt tiếng ca. Tây Thi không lên cơn đau tim nữa nhưng nàng không có cách nào trở lại bình tĩnh. Ngày mai, ôi ngày mai đáng buồn làm cho nàng day dứt mãi không thôi.
Tiếng trống canh trong quân nổi lên lần thứ nhất.
Từ cây ngô đồng bỗng có tiếng lắc rắc. Tây Thi lại bước đến bên cửa sổ nhìn ra, giọt mưa lạnh phả vào mặt nàng.
Mưa len lén bủa xuống Giang Nam rồi! Mưa thu, thứ mưa đáng nguyền rủa đã đánh ngã quân Ngô ở Giang Bắc, giờ lại đuổi theo quân ấy xuống Giang Nam!
Sáng sớm ngày sau, Cú Khúc chìm trong gió thảm mưa sầu. Trời xuống rất thấp, tinh thần Ngô vương càng xuống thấp... Đúng lúc ấy bỗng có tin cấp báo từ Cô Tô đài đưa đến. Người đưa tin ướt đẫm mưa thu, không có áo choàng, không giữ lễ tôn kính nhà vua, mà cầm miếng bài đồng đi thẳng vào cung, Ngô vương nhận được tin báo liền ra lệnh cho sứ giả bước lên Sùng đài.
Sứ giả ấy do Vương Tôn Hùng phái đến để báo một tin vô cùng ác liệt: Thái tử Hữu bại trận ở Huề Lý, tình trạng sống chết không rõ.
Ngô vương sửng sốt, nhìn sững Vương Tôn Lạc đứng kề bên, không nói được lời nào.
Vương Tôn Lạc cố tình giữ bình tĩnh hỏi sứ giả:
- Tình hình chiến trận như thế nào, ngươi có biết không?
- Thái tử đã giao tranh với quân Việt ba lần ở Huề Lý, đều không bị bại. Về sau Phạm Lãi mang đến một cánh quân và thay quyền chỉ huy của Gia Kê Dĩnh thì... (Báo sứ thở dài) Đầu tiên, Phạm Lãi cho lùa một số tù nhân ra mặt trận bày thành hàng chữ nhất. Liền đó số tù nhân ấy tự sát hết. Quân ta thấy thế không hiểu vì sao, lại cho rằng Việt vương biết tội nên muốn nhân đây cầu hòa. Không ngờ Phạm Lãi bày mưu ở mặt chính để cho hai cánh quân hai bên dùng xe xung phong bao vây thái tử.
Ngô vương tròn xoe mắt:
- A!... Về sau thế nào?
- Sau đó, chúng ta mới biết cánh quân của Gia Kê Dĩnh chuyển sang tấn công Bình Vọng. Lại thêm có quân Cố Lăng của Việt vương dùng đường thủy vượt qua Huề Lý, quân của thái tử bị đánh tách ra làm nhiều nhóm và bị bao vây. Theo người trốn thoát được về nói thì...
Ngô vương lại kêu lên tiếng “A!” lần thứ hai. Theo tin báo ấy thì thái tử dữ nhiều lành ít.
Vương Tôn Lạc trịnh trọng đề nghị:
- Đại vương! Chúng ta nên gấp rút phát binh đi cứu.
Ngô vương nín lặng lúc lâu rồi truyền lệnh cho báo sứ nghỉ ở phòng bên phải. Ngài nhìn đăm đăm vào chỗ báo sứ đã đứng, ở đó nước đọng vũng! Mưa thu liên miên, nước ướt thế này là một sự thật nói rằng không thể hỏa tốc phát binh đi cứu được.
- Đại vương! Sau trận Huề Lý là tới Cô Tô thành đó!
- Vương Tôn Lạc! (Hai tay Ngô vương vịn chặt ghế nhỏ) Trước hết phải truyền toàn quân tinh nhuệ phái đi một cánh chứ xe không đi được. Không có xe thì cho binh sĩ cỡi ngựa! Phải nhớ, liệu thấy tình hình không ổn thì muôn vạn lần cố tránh giao tranh. Cứ lui về phòng thủ Cô Tô cũng không có gì trở ngại. Quân Việt từ xa đến, lợi ở thế tốc chiến. Chúng ta có thành để thủ thì phi cố thủ, đợi họ mệt mỏi, hết lương, chúng ta sẽ tấn công. Vương Tôn Lạc, khanh mang báo sứ đi theo luôn.
Dường như sấm gầm, sét chớp thoáng chốc qua đi, Ngô cung trở lại vẻ lặng lờ. Ngô vương đứng lặng phòng ngoài, Tây Thi đứng lặng ở phòng trong.
Mưa thu sụt sùi nhỏ giọt trên mái hiên chy xuống, chảy mãi.
Còi hiệu vang vang, trống giục ầm ầm, binh xa điều động.
Lúc đồ ăn trưa đưa đến Sùng đài, Tây Thi từ trong bước ra.
- Tây Thi!
Tiếng gọi của nhà vua đang đứng lặng làm cho Tây Thi giật mình. Nhà vua cúi gầm nói tiếp:
- Tây Thi! Trẫm muốn đi xem...
- Ăn xong rồi hẵng đi có được không?
Ngô vương giở nắp thố, tùy tiện gắp đại một đũa thịt cho vào miệng, uống thêm một ly rượu. Rượu thịt hình như giúp cho nhà vua dần bình tĩnh. Ngập ngừng một thoáng, Ngô vương đặt hai tay lên vai Tây Thi:
- Tây Thi! Trẫm có thể đủ sức đối phó với các khó khăn.
- Đại vương! Tại sao Vương Tôn Lạc không xuất binh đi cứu?
- Báo cáo không rõ lắm. (Ngô vương dường chẳng mấy quan tâm) Trẫm tin là Vương Tôn Hùng không thể ngồi nhìn! (Ngô vương bỗng vung tay) Hận là Bá Hi sáng nay còn cho gia thần đến gặp trẫm bảo là cuộc diện hòa hoãn!
Sau bữa ăn, Ngô vương mang giáp rời Ngô cung đi xem đội ngũ do Vương Tôn Lạc tập trung. Vương Tôn Lạc tuyển ngay trong đội quân mình hai trăm chiến xa, năm trăm kỵ binh và hai ngàn năm trăm bộ binh, chia làm ba cánh xuất phát. Kỵ binh đi trước, binh xa ở giữa và bộ binh đoạn hậu.
Vương Tôn Lạc trịnh trọng nói:
- Thần hy vọng trong vòng ba hôm có thể đến Cô Tô.
Bấy giờ, có tướng quân Tích Lặc tới, Vương Tôn Lạc liền chuyển giao binh vụ ở Cú Khúc cho Tích Lặc. Tích Lặc cũng báo cho Ngô vương biết đám quân đi trước đã vượt qua Vô Tích, có lẽ giờ này đã đến Cô Tô. (Cánh quân này đã được Ngô vương cho về lúc Ngài còn ở Hoàng Trì).
Ngô vương yên tâm phần nào, ra lệnh cho Tích Lặc điều chỉnh lại quân Cú Khúc, để người già cả, yếu đuối ở lại, số tinh tráng thì phi sẵn sàng để bất cứ lúc nào cũng có thể xuất phát.
Mưa rất lớn, đoàn quân của Vương Tôn Lạc lên đường giữa cơn mưa lũ.
Quá trưa chẳng bao lâu, lại có tin từ Giang Bắc gởi về: Binh Sở đã phát động rồi.
Tình thế hết sức rõ ràng: Sở và Việt liên kết thành kẻ hô người ứng! Nhưng Ngô vương không xem binh Sở là trọng. Ngài biết quân Sở không có sức qua sông tấn công. Chỉ cần Ngài đối phó được với quân Việt thì lực lượng dư ra cũng đủ đối phó với binh Sở. Hơn nữa, chiếu theo ý kiến của người đưa tin báo cáo, Ngô vương hạ lệnh cho quân đội ở bờ Giang Bắc cố tránh giao tranh với Sở. Đồng thời Ngài ra lệnh cho đội ngũ ở Hàn Giang lui dần về Giang Nam, tập trung tại Cú Khúc chờ lệnh.
Ngô vương lại đi khắp nơi xem xét. Quân sĩ tập trung ở Cú Khúc quá nhiều, ướt loi ngoi trong mưa. Đa số mệt mỏi không chịu được. ở về ngoại ô phía Bắc lại có hn trăm xe hư hỏng chất đống ngùn ngụt.
Thăm qua từng trại binh, thăm hỏi từng đơn vị, Ngô vương trở lại Ngô cung thì trời sắp hoàng hôn.
Lại có báo sứ đến nữa, mang theo tin báo tồi tệ: Thái tử Hữu hạ lạc về đâu không rõ. Quân Việt từ Huề Lý kéo đến công hãm Bình Vọng, Vương Tôn Hùng xuất binh đến giữ Ngô Giang.
Ngô vương bứt tóc:
- Thái tử chết rồi!
Nhà vua ảo não ngồi xuống, chẳng bao lâu lại truyền đòi Tích Lặc vào nhận lệnh: Sáng sớm mai hồi sư. Ngô vương không sao giữ được hạn phép cho quân nghỉ ba ngày.
Đợi nhà vua lấy lại bình tĩnh một chút, Tây Thi mới xuất hiện cởi áo đi mưa cho nhà vua. Nhưng ngoài hai tiếng gọi: “Đại vương!”, nàng không nói thêm gì cả.
Ngô vương lại nói:
- Tây Thi! Không việc gì phải lo!
Bữa ăn đêm thật buồn. Cả hai ngồi đối diện nhau, Ngô vương không ngừng uống rượu. Tây Thi cũng uống. Tâm tình cả hai như giọt mưa thu giữa trời không ngừng rơi xuống, xuống thấp mãi.
Còi hiệu vang lên trong mưa rồi chìm vào tịch mịch. Sau đó, trong tiếng mưa rơi chợt có tiếng ca run run như tiếng Tây Thi đã nghe được đêm qua. Duy có nội dung lời ca thì khác.
Trong tiếng mưa ri có tiếng ca rằng:
- Ngô Cung thu, Ngô vương sầu!... Ngô Cung thu, Ngô vương sầu, Ngô vương sầu... Ngô vương sầu...
Ngô vương lắng nghe, lắng nghe... chợt đẩy ly ra giận thét:
- Bắt lấy nó! Ai...? Hãy bắt lấy nó! Giết!
- Phù Sai! - Tây Thi ôm chầm nhà vua.
Tiểu thần phụng vương mạng, vội vã xuống lầu. Thị vệ Ngô cung cũng được huy động tìm bắt người ca.
Ngô vương thét rống:
- Bắt lấy nó! Giết!
- Phù Sai, đừng màng đến chuyện ấy. Nghe tiếng hát thì hình như là tiếng con nít ca tầm ruồng!
Ngô vương ngồi xuống, giận nốc nguyên ly rượu.
Chẳng bao lâu, Tiểu thần vào báo cáo đã bắt được bốn đứa con nít ca hát. Ngô vương nghiến răng hạ lệnh:
- Giết hết!
- Quân vương, xin tha cho chúng! (Không đợi nhà vua đồng ý, Tây Thi quay bảo Tiểu thần) Đem chúng đi đi cho thật xa!
Nói xong, Tây Thi nâng ly kề môi Ngô vương:
- Quân vương! Chúng ta không nên để bị ảnh hưởng của người khác. Thiếp kính quân vương một ly, chúc ngài sẽ đuổi quân Việt ra khỏi bờ cõi.
Ngô vương lặng thinh, sau đó nhận uống một ly rượu đắng. Trong đời Ngô vương, đây là ly rượu đắng đầu tiên.
(1) Cũng có cách đọc trại là “sáp huyết”, nghĩa là cắt máu hòa nhau.
Gió lạnh căm căm từ thành thị, gió lạnh căm ,căm quét qua chiến trường. Lá cây lả ảt rơi đầy, trơ cành khẳng khiu run run trong gió.
Vũ trụ dường như bị một sức ép khủng khiếp làm cho thấp xuống, trải màu xám đục trùm phủ đất dày. Một bầy quạ đen từ khung trời xám bay qua phát tiếng kêu vội vã không có dư âm. Tiếng kêu cụt ngủn, khô khốc ấy làm cho người nghe cảm thấy khó chịu.
Vách thành Cô Tô một màu đen nhạt, bao quanh một khu đất và một con sông. Sừng sững, uy nghi, chịu đựng từ thu tới đông, bất chấp cả gió đông, dường như nói với người ngoài tường rằng: “Ta không thể sập đâu!”.
Vào ngày đông ảm đạm, trời xuống tuyết. Tuyết bay trắng xóa, tuyết ngập bình nguyên, tuyết ngập Khưu Lăng. Mặt đất trắng xóa, sạch sẽ và lặng im, nhưng lại là chiến trường!
Đại quân Việt đóng trại san sát ngoài Cô Tô thành, run lên trong gió lạnh. Nhưng họ vẫn chịu đựng, vẫn chờ đợi. Trong gian khổ, họ cố vùng dậy, dùng sức nóng tự nhiên của cơ thể để chống lạnh, dùng ý chí để chống sự mệt mỏi của cơ thể. Nghĩa là họ tập trung bao nhiêu tàn lực cho hy vọng sau cùng.
Phạm đại phu đã từng nói với họ: “Chiến tranh không chỉ là dốc sức xông xáo, sát thuơng đối phương. Mà còn là cùng địch nhân đấu tranh về mặt tinh thần, chỉ cần mình đứng vững thì sau cùng sẽ thắng!”.
Quân Việt nghe lời Phạm đại phu, họ dốc sức giữ vững tinh thần.
Việt vương cũng từng nói với quân Việt:
- Chúng ta phi đứng vững đến lúc sau cùng. Chúng ta muốn thấy Phù Sai ngã xuống!
Đại phu Văn Chủng cũng động viên họ:
- Chỉ cần chúng ta kiên trì, con cháu chúng ta sẽ sống đời hạnh phúc không có chiến tranh, không có máu đổ nữa. Chúng ta vì sự an khuơng của thế hệ mai sau mà chiến đấu!
Việt quốc Quân phu nhân cũng nói:
- Mối thù vong quốc của chúng ta phải được rửa sạch. Quân Ngô đã dẫm chân lên Hội Kê của chúng ta, bây giờ chúng ta phi đạp nát Cô Tô.
Vì vậy mà quân Việt kiên trì chịu đựng mùa đông, chịu đựng cả đói khát. Bao giờ đánh sập Cô Tô, không một ai dám nói trước. Nhưng quân Việt tin rằng sẽ có một ngày...
- Sẽ có một hôm, chúng ta xô ngã Cô Tô thành, bước lên Cô Tô đài! (Đứng giữa tuyết dày, Câu Tiễn nói với các cấp quân binh) Tuyết sẽ tan, gió lạnh sẽ ngừng và mặt trời sẽ mọc. Lúc mặt trời mọc là lúc chúng ta công phá thành Cô Tô!
Chiến sĩ dậy tiếng hoan hô.
Câu Tiễn đi từ doanh trại này đến doanh trại khác, đôi chân trong hia da chẳng bao lâu cứng ngắt. Mũi Người bị lạnh đã phát đỏ, đến cả ngón tay cũng co duỗi thật khó khăn. Và đôi môi không còn nghe chỉ huy nữa. Nhưng Câu Tiễn vẫn cố gắng... Lúc trở lại đại doanh, Câu Tiễn rét cóng cơ hồ không nhích động được.
Quân phu nhân vội vã bưng thùng nước nóng ra cho chồng ngâm chân. Lại đem bồn nước nóng cho chồng ngâm tay. Sức nóng từ tay chân chuyển lan đến toàn thân, Câu Tiễn mới thở dài nói:
- Chịu đựng thật hết nổi... Trẫm lo đông lạnh vẫn còn dài!
Quân phu nhân cả kinh. Câu Tiễn nói thêm:
- Phù Sai như ma ấy, vẫn còn chưa ngã xuống!
- Đại vương! (Quân phu nhân tiếp giọng cương quyết) Chúng ta sẽ làm cho Phù Sai ngã xuống.
- Ôi! Trời lạnh thế này đến trẫm cũng cơ hồ chịu không thấu.
- Câu Tiễn! (Quân phu nhân nghiêm mặt) Chàng còn nhớ chúng ta chịu đựng mùa đông ở Cô Tô không? Chúng ta giữ ngựa cho Ngô vương...
Câu Tiễn rùng mình, cúi gầm. Phu nhân tiếp:
- Bấy giờ, chàng lạnh đến không sờ được nắm tóc!
Câu Tiễn thê thảm ngước nhìn hai tai phu nhân đã đóng ngấn tuyết.
ở mặt trận, Quân phu nhân chịu đựng gian khổ như một binh sĩ. Ngoài việc phục dịch quân vương, quân phu nhân còn lãnh nhiệm vụ vận tải. Ba hôm trước, bà đốc thúc quân sĩ vận lương và chở áo bông từ Tiền Đường ra mặt trận. Trên đường đi, hai vành tai bà ửng đỏ, rét cóng.
Nhìn hai vành tai vợ, Việt vương cảm thấy khổ sở không nói được.
Vào bữa ăn chiều, Việt vương uống nửa lóng trúc rượu. (Rượu đựng trong lóng trúc). Mỗi đêm, mỗi chiến sĩ có nhiệm vụ canh gác đều được chia cho ngần ấy rượu để chống lạnh đêm đông.
Bữa cơm tối không vĩ vèo lắm đủ giúp Việt vương lấy lại ấm áp. Ngài nằm duỗi thẳng tay chân trong hầm gần bên bếp lửa, xem sổ, (viết trên tranh trúc) ghi lại công việc hằng ngày... Cố Lăng có hai vạn năm ngàn thạch mễ đã vận chuyển sang Tiền Đường hết.
Việt vương giật mình nói thầm: Đây là số lương tồn trữ cuối cùng của Cố Lăng sao?
- Phải. (Quân phu nhân nói) Chúng ta phải lập tức vận lơng từ kho Hội Kê ra mặt trận.
- A... (Việt vương vứt thanh trúc vào lò lửa) ở đây, chúng ta còn bao nhiêu lương?
- Kể cả số lương thiếp đưa đến hôm kia thì có thể đủ ăn từ hăm tám ngày đến một tháng. Lưong thực Cố Lăng có thể chuyển đến trong vòng nửa tháng tới. Hai vạn năm ngàn thạch mễ không đủ dùng trong một tháng mà kể từ xuất binh đến nay đã nửa năm rồi. Còn phải đánh thêm bao lâu nữa? Câu Tiễn rùng mình trước câu hỏi ấy.
Nhưng Quân phu nhân nói giọng lạc quan:
- Tại Hội Kê, kho lương thực của ta có đến trên mười vạn thạch mễ. Quân vương, kho lương trong thành Cô Tô cũng phong phú lắm!
- Mong chúng ta có thể ăn kịp gạo Ngô. Bây giờ, phu nhân đưa giùm ta roi da.
Chẳng bao lâu, Câu Tiễn giục ngựa đến chiến trường đang đóng tuyết, ngẩng nhìn đèn trên mặt thành Cô Tô. ánh đèn rọi xuống mặt tuyết trắng xóa đẹp làm sao!
Xem qua một lúc, Việt vương bước vào doanh phòng của Phạm Lãi. Phạm Lãi không ở trong trại, nhà vua lại thúc ngựa đến doanh phòng của Văn Chủng. Văn Chủng cũng không có mặt. Quân báo:
- Khi bẩm Đại vương, Phạm đại phu và Văn đại phu đều ở trong dinh của tướng quân Gia Kê Dĩnh.
Việt vương lại bước đi trên bốn trăm bước.
Phạm Lãi, Văn Chủng, Tiết Dung và Gia Kê Dĩnh đang ở dưới hầm thảo luận về hình thế hiểm trở. Việt vương không cho quân vào báo, tự tay vén tấm màn làm bằng da dày, bước xuống hầm nói giọng ôn hòa:
- Hôm nay lạnh ghê gớm!
Tiết Dung nói cách tức bực:
- Trời lạnh khiến Phù Sai co rút như rùa!
Vào đông, Ngô vương cẩn mật phòng thủ Cô Tô thành, hoàn toàn không màng đến nhu cầu đánh dã chiến của đại quân Việt. Vì vậy, chiến tranh coi như tạm xếp dưới chân thành, rõ ràng Ngô vương muốn nhờ khí lạnh đuổi dùm quân Việt.
Việt vương nói nhỏ:
- Trong thành Cô Tô có tin gì mới không?
Văn Chủng đáp:
- Không có tin gì đặc biệt. Thái tể Bá Hi đã bị Phù Sai quản thúc nên Phùng Đồng ở kề bên cũng không còn chút tác dụng nào hết.
- Ôi, lẽ ra vào lúc khẩn trương này phải có tác dụng của Tây Thi.
Hai tiếng “Tây Thi” Việt vương vừa nói ra khiến Phạm Lãi như thấy sáng trước mặt, bẩm:
- Theo nhiều lần báo cáo của Phùng Đồng thì Tây Thi đã cố gắng hết sức rồi.
- Kìa, Thiếu Bá không quên được nàng! (Câu Tiễn nhếch mép cười) Không hiểu nàng như thế nào rồi?
Không ai trả lời câu hỏi ấy. Câu Tiễn dường như cũng không muốn chờ nghe trả lời, chuyển sang đề khác:
- Thiếu Bá, chúng ta có thể đào địa đạo không?
- Khó lắm! Hơn nữa, cũng không thực tế. Lực lượng từ địa đạo ngoi lên không đủ để đánh sập Cô Tô.
Chúa tôi im lặng.
Lửa trong lò phát tiếng nổ lách tách, đêm đông dài ra dường như trời không sáng.
Câu Tiễn bỗng ưỡn thẳng người:
- Tử Hội! Thiếu Bá! Trẫm thấy chúng ta nên kéo về, đầu thu năm sau sẽ kéo tới...
ý ấy bất ngờ như số mạng. Trước đó, người Việt dưới chân thành Cô Tô không một ai dám nghĩ, tuy ai cũng cảm thấy không ở lại được.
- Đại vương! (Văn Chủng phát ngôn trước nhất) Chúng ta chờ được hai mươi năm mới có cơ hội này đến được chân thành Cô Tô! Bây giờ rút về, biết sang năm có đến được đây không?
Phạm Lãi nghiêm trang tiếp lời:
- Đại vương! Chúng ta không thể rút lui, một khi rút lui sẽ làm mất hết nhuệ khí. Sang năm, e rằng chúng ta sẽ không đến được dễ dàng như hôm nay. Bây giờ chỉ có một con đường là phải công phá Cô Tô thành cho được.
- Quân sĩ của ta có thể làm chuyện ấy không? Hôm nay có trên ba trăm quân đau vì giá lạnh, phải theo thuyền vận lương quay về.
- Bất luận làm được hay không cũng đều phải làm. (Phạm Lãi nhấn mạnh) Đó là yêu cầu của cuộc chiến! Câu Tiễn vụt đứng lên, vòng tay trước Phạm Lãi:
- Phải, đó là yêu cầu của chiến tranh. Yêu cầu đó đòi hỏi hoặc chết dưới chân Cô Tô, hoặc sống vào Cô Tô thành. Thiếu Bá, khanh sẽ là vua Cô Tô sau này.
- Thành Cô Tô là của Đại vương!
Phạm Lãi bình tĩnh vô cùng, chậm rãi tiếp:
- Thiếu Bá này vĩnh viễn chỉ là nô bộc của đại vương mà thôi!
Trong thành Cô Tô, Ngô vương đang ở trên lầu tựa vách mà ngủ. Trước mặt nhà vua chẳng bao xa có một lò lửa, than trong lò đỏ rực.
Ngô vương rút chân trái lên, duỗi chân mặt ra, tay trái kê gác đầu, tay mặt cầm kiếm. Bốn dũng sĩ thuộc đội Hiền Lương đứng gác ngoài cửa, người như hình cây, không nhích động.
Ngô vương cất tiếng ngáy đều. Mỗi lần có tiếng trống sang canh, bốn vệ sĩ đều lách đầu nhìn vào nhà vua.
Rõ ràng Ngô vương đã mệt mỏi quá sức chịu đựng. Có ít nhất hai mươi ngày rồi, nhà vua không cạo râu, râu dưới cằm đâm ra tua tủa. Trên trán ngài bao nhiêu âu lo đã đan thành những vệt nhăn ngày một sâu thêm theo tháng năm chồng chất. Tên vệ sĩ hầu cận theo sát Ngài có cảm tưởng mặt quân vương già đi hơn trước rất nhiều.
Trên lầu thành, tiếng còi sừng đã báo hiệu một lần để binh sĩ đổi phiên gác đêm. Đèn lồng được châm thêm dầu một lần, sáng hơn. Hoa tuyết bay bay dưới ánh đèn.
Ngô vương bị tiếng còi sừng làm cho thức giấc, nhướng mắt hỏi:
- Trời còn tuyết không? à... được rồi, không có chuyện gì...
Nhà vua lẩm bẩm xong, trở mình ngủ nữa. Vệ sĩ của Ngài lên tiếng đề nghị:
- Xin đại vương lên giường.
Nhưng Ngô vương không nghe. Giá có nghe, Ngài cũng không đi. Bởi vì nhà vua chịu trách nhiệm trông coi phiên gác ba đêm này.
Bên trong thành đã có tiếng gà gáy, lần này rồi lần nữa.
Đại phu Vương Tôn Hùng nện gót lên lầu, đứng nhìn bình dã phía ngoài thành. Tuyết đã ngừng rơi, nhưng ngoài thành là một dãy trắng xóa mênh mông, trông không thấy gì cả.
Tên vệ sĩ trực bước đến báo cáo:
- Đại vưnơg còn đang ngủ say!
- Ơ... Đừng làm kinh động Đại vương. (Vương Tôn Hùng hạ thấp giọng) Ngươi đi tìm vị chỉ huy trực ngày đến đây, ta có lệnh.
Các phiên trực ngày trên thành do các sĩ quan cao cấp trong đội Hiền Lưng thay phiên nhau nhận lãnh. Vương Tôn Hùng đứng trên thềm lầu đợi vị quan trực đến, ra lệnh thứ nhất:
- Ngươi phái mười hai dũng sĩ sẽ lén ra thành dò xét tình hình vận lương của quân Việt.
Kế tiếp là lệnh thứ hai:
- Ngươi phái đội xích hầu ra thành quan sát doanh trại quân Việt.
Đó là những công tác thông thường trong cuộc chiến. Phát lệnh xong, Vương Tôn Hùng lên ngựa đi tuần thành.
Đa phần tuyết đóng trên thành đã được quét đùa đi. Các tay cung tiễn giữ thành đứng nguyên vị trí, đội thứ nón che gió đặc chế thật thấp, che khuất cả lông mày của họ. Vương Tôn Hùng lẳng lặng quan sát, không thấy có sự biểu lộ nào.
Tiếng trống báo sáng trong quân đã nổi lên, quân sĩ mệt nhoài cố gượng dậy, dường như tiếng trống ấy giúp được họ phục hồi nguyên khí.
Ngô vương cũng thức theo tiếng trống, vưn vai, lấy mũ đội lên đoạn nhận khăn nóng và nước nóng do thị vệ dâng tới để lau mặt và súc miệng. Liền đó, theo thói quen, nhà vua đưa tay nhận báo cáo thứ nhất do thị vệ đưa. Báo cáo thứ nhất là của Tây Thi, từ Cô Tô đài gửi đến. (Cô Tô đài thuộc về cung điện của Ngô vương, nằm trong Cô Tô thành nhưng Ngô vương hiện đang ở vòng đài). Ngô vương chậm rãi bước ra khỏi lầu thành, vừa đi vừa nhảy. Cũng như Vương Tôn Hùng, nhà vua đưa mắt nhìn ra ngoài thành, hỏi:
- Vương Tôn Hùng có đi tuần thành không?
- Thưa có. Nhưng không có việc gì đặc biệt.
Thị vệ lại đem đến sữa dê và thịt khô. Ngô vương đứng ăn trong gió buốt lạnh, vừa ăn vừa hỏi qua công việc phòng thủ.
Vị quan trực kính cẩn thưa:
- Đại vương có thể nghỉ ngiơ...
- Ờ, trẫm chợp mắt được một lúc, bây giờ không buồn ngủ nữa.
Ngô vương dang tay cho dãn gân cốt, nói thêm:
- Câu Tiễn không dám phát động tấn công, đã bảy hôm rồi hắn không động tĩnh.
- Đại vương! Tính đến hôm qua thì đã được bảy ngày họ không công thành. Trước đó, họ công thành liên tiếp mười ngày không quyết liệt lắm! Nhưng thưa đại vương, đêm rồi, đội tuần tiễu của Việt kéo đến cách thành ba dặm.
Ngô vương mở to đôi mắt đầy gân máu đỏ nhìn xa lúc lâu, đoạn quay nói với viên quan trực:
- Trẫm đi ngủ, đầu ngọ thì gọi trẫm dậy. Nhưng nếu có gì đặc biệt thì cứ gọi.
Ngô vương nói xong bước chậm rãi xuống thành. Nhà vua đi rất chậm, mắt không nhìn thềm đá mà là nhìn về nơi cao vút phía Tây Nam. Nơi ấy là Cô Tô đài. Từ bờ thành nhìn sang, Cô Tô đài như người khổng lồ sừng sững.
- Có lẽ Tây Thi thức giấc rồi!...
Ngô vương lẩm bẩm, đầu dần dần cúi xuống, rời mắt khỏi Cô Tô đài. Nhớ đến mấy mươi ngày rồi không gặp Tây Thi, theo tưởng tượng của nhà vua, ắt Tây Thi đang nức nở!
Trên Cô Tô đài, Tây Thi chưa rời giường, mỗi đêm nàng ngủ rất trễ.
Hai mươi ngày trước, Câu Tiễn phát động một trận công thành mãnh liệt, dự định phá vỡ cửa Đông thành Cô Tô. Trước tình thế nguy ngập, Ngô vương đích thân lên thành đốc chiến. Kể từ hôm ấy, Ngô vương ở luôn trong quân, giải quyết các việc chính trị cũng ở đó. Nhưng mỗi hôm, Ngô vương đều gửi tin tức phòng vệ đến đài Cô Tô cho Tây Thi xem..
Trong các tin tức, lúc nào cũng có tên Phạm Lãi. Đối với Tây Thi, việc ấy hết sức khó chịu. Bây giờ nàng rủa thầm cả Việt vương lẫn Phạm Lãi.
Nửa tháng trước, Ngô vương sai Bá Hi ra thành xin cầu hòa với Việt, tình nguyện cắt mười hai huyện phía Đông-Nam của Ngô cho Việt. Cũng tình nguyện dâng lễ cống mỗi năm mười vạn thạch, thực tế đó là một cách thần phục. Nhưng Việt vương từ chối không một chút nghĩ ngợi. Hơn nữa, Câu Tiễn còn tỏ ra ác độc: Không kết thúc mạng sống của Ngô vương không được.
Lúc ấy, Ngô vương hết sức thuơng cảm nói với Tây Thi:
- Người Việt quá ác tâm! Chúng ta với họ có thù hận gì chứ? Tổ phụ trẫm bị người Việt giết, phụ thân của trẫm cũng bị người Việt giết rồi, nghĩa là trong bốn đời nhà trẫm thì đã hết ba đời chết trong tay người Việt! Bây giờ họ lại muốn giết thêm trẫm nữa... (Giọng điệu nhà vua thật nặng nề, đầy rẫy u uất và phẫn nộ). Năm xưa trẫm tha Câu Tiễn, không ngờ có ngày nay. Ôi, sự nhân từ của trẫm đổi lại thành ác báo, phải chăng đó là ý trời? Phải chăng trời che chở Việt?
Mấy câu ấy như dao rạch nát tim Tây Thi. Nàng khổ sở hết sức và chợt nhận ra mình đã lung lay lập trường. Trước khi nàng cảm thấy mình hành động có ý nghĩa phục hận cho quốc gia, có lý do để hành động. Nhưng bây giờ, theo Phù Sai nói thì bốn đời nhà Ngô đều chết trong tay người Việt, thì Việt vương làm sao có thể nêu cao khẩu hiệu phục thù cho được?
Kể từ Bá Hi bị mất địa vị thì Phùng Đồng cũng vắng mặt luôn. Liên lạc giữa Tổ quốc và Tây Thi hoàn toàn bị cắt đứt. Nàng biết, yêu cầu của quốc gia đối với nàng đã dứt hẳn rồi. Đại quân kéo đến bên thành thì một nữ gián điệp không còn có chỗ dùng. Tây Thi trở thành một người cô độc trên Cô Tô đài, bị bắt ép giữa hai gọng kềm. Sáng sớm hay hoàng hôn, vào trưa hay xế bóng, nàng đứng nhìn chiến trường bên ngoài thành mà tâm tưởng, ngổn ngang trăm mối bồi hồi. Có đêm nàng ngước nhìn sao lấp lánh trên trời mà nguyện cầu. Cầu cho Tổ quốc và chồng nàng lưỡng toàn. Cầu cho Việt - Ngô đều tồn tại...
Nguyện cầu là thế, Tây Thi vẫn biết không thể được. Nhưng ngoài lời cầu nguyện ấy, nàng biết phải làm gì?
Buổi sáng sau đêm tuyết ri, trời rất lạnh. Gió bấc vi vu thổi thốc Cô Tô đài. Vừa thức giấc, Tây Thi hỏi liền câu đầu tiên:
- Khuya rồi, không có đánh nhau chứ?
Thị nữ giữ gìn nội cung nhanh nhẩu đáp:
- Bẩm không. Chiến trường im lặng đến không nghe tiếng chó sủa.
- à... lại qua được một đêm.
Tây Thi chực nhổm người khiến thị nữ hỏi:
- Phu nhân muốn dậy?
- Không, để ta nằm thêm chút nữa. Trong phòng rất ấm, thật thì không cần cho nhiều than vào lò sưởi.
- Bẩm, đại vương đã có lời căn dặn. Với lại, trên Cô Tô đài còn nhiều than lắm!
Bấy giờ, Triền Ba bên ngoài nghe được tiếng nói liền cầm một cuộn vải đi vào dâng. Trên vải có nét mực đen... Tây Thi vẫn nằm trên giường, mở vải liếc qua mấy hàng rồi đọc nhỏ:
- Quân Việt thiếu lương, số bị chết lạnh trong nửa tháng nay đến hàng ngàn. ..
Đọc đến đây, Tây Thi thở dài nói nhỏ:
- Vậy là có thêm một ngàn bà mẹ mất con...
Triền Ba liếc xéo Tây Thi:
- Cũng có hàng ngàn đàn bà mất chồng! (Triền Ba trầm giọng). Tây Thi, nghe nói trong thành Cô Tô cũng không ít người chết lạnh.
- Ôi, chiến tranh này còn muốn kéo dài đến bao giờ?
Tây Thi ngồi dậy.
- Quân phu nhân của tôi, xin hãy mặc thêm áo da! Lúc đi, quân vương có dặn, nếu để Tây Thi phu nhân bị lạnh thì quân vương sẽ giết hết số người có mặt trên Cô Tô đài. (Triền Ba cố nén cười). Nhưng Triền Ba này không muốn chết. Mà muốn nhìn thấy...
Triền Ba bỏ lửng, chỉ tay về phía Nam, rõ ràng có ý nói: “Muốn nhìn quân Việt nhập thành”.
Một thị nữ khác bước vào thưa:
- Phu nhân! Lộc Xuất đến rồi.
Lộc Xuất là tên hầu cận mới bên mình Ngô vương, từng tham gia trận chiến phòng thủ thành Cô Tô, vít ngã hai xe quân Việt nên được Ngô vương tuyển theo bên mình làm cận vệ. Lúc Ngô vương xuất trận thì Lộc Xuất đánh xe.
Tây Thi nói:
- Bảo Lộc Xuất chờ ở ngoài, ta ra bây giờ.
Lộc Xuất đem dâng một thố thịt thỏ cho Tây Thi. Trong chiến trận, tìm được món ăn này thật quý.
Tây Thi hỏi:
- Đại vương mạnh chứ? Tại sao đại vương không dùng đi?
- Thưa, thỏ rừng khó kiếm lắm, đại vương dặn hạ thần giục ngựa đi nhanh... Có lẽ thịt còn chưa nguội! (Lộc Xuất sung sướng ra mặt nói thêm) tinh thần đại vương rất sung mãn.
- Còn chiến trận thế nào?
- Thỏ đi lung tung để bị bắt làm thịt thế này thì tự nhiên là chiến trường yên lắm!
Ngừng lại một thoáng, Lộc Xuất tiếp:
- Xem chừng, một hai hôm nữa đại vương có thể trở lại Cô Tô đài.
- A... Còn Tích Lặc ra sao? Cả Vương Tôn Hùng nữa?
Tây Thi hỏi thăm hai viên đại tướng bên mình Ngô vương. Trận đánh Cô Tô làm cho Ngô tổn thất các tướng Vương Tôn Lạc, Tôn Thần, Kiết Lý. Tướng già trong quân bây giờ chỉ còn Vương Tôn Hùng và Tích Lặc mới thăng lên. Ngoài ra, trong vòng tháng nay, Ngô vương chọn cho thăng thêm ba tướng nữa.
Lộc Xuất đáp liền:
- Tất cả đều mạnh. Tình trạng của chúng ta so ra dễ chịu hơn bên Việt. Đại phu Vương Tôn Hùng nói, giữ thành được đến mùa xuân thì Câu Tiễn sẽ như chó ấy, chạy cụp đuôi.
Tây Thi vừa nghe nói vừa ăn thịt thỏ. Chập sau nàng lại nói:
- Ngươi đi hỏi quân vương xem ta muốn đến ven thành thăm ngài có được không? (Thốt thành lời rồi, Tây Thi vội xua tay). Mà thôi, đừng hỏi chuyện ấy, ta không đi!
- Phu nhân!
Lộc Xuất đã nghe Tây Thi nói ra mấy lần như thế. Nàng muốn đến thăm Ngô vương, song sợ làm quấy nhiễu ngài nên cứ nói ra rồi tự động rút ý kiến. Lần này, Lộc Xuất tiến thêm một mức thưa:
- Thật ra phu nhân có lên thành cũng chẳng làm phiền một ai.
- Thôi thôi, ta làm biếng!... Tây Thi mỉm cười.
Lộc Xuất đi rồi, Tây Thi ngồi lại trang điểm đoạn bước ra nhìn khắp nơi trong thành. Trên đường, chiến xa đi đi lại lại. ở giáo trường có một đội bộ binh đang thao luyện gồm những trai tráng mới động viên. Tuyết đã ngập khu chợ không có an ninh chút nào...
Tây Thi lại đưa mắt nhìn về Thái Hồ đã bị mất hết dấu vết vì tuyết. Sau cùng, nàng nhìn ra ngoài thành... Thành Cô Tô bị quân Việt bao vây ba mặt. Nhưng ở ba mặt ấy đều rất yên tĩnh. Quân Việt vây thành lâu rồi song Tây Thi chưa bắt gặp lần nào sự hoạt động của Việt binh.
Lúc Tây Thi đứng nhìn, Di Quang xoa tay bước đến sau lưng:
- Trời lạnh quá!
- ờ... (Tây Thi không cảm thấy lạnh, bần thần nhìn ra mặt tuyết ngoài thành). Chúng ta chưa từng thấy quân nước Việt.
- Mấy hôm trước, quân Việt công thành ban đêm. Đáng tiếc, đêm ấy chúng ta đều ngủ rất ngon!
- Lâu quá rồi, gần như mình quên mất quân Việt thế nào?
Di Quang trầm tư một thoáng nói:
- Quân Việt thế nào à?... Chắc cũng hùng tráng hơn trước. Tôi tin rằng, trong vòng vài hôm nữa, chúng ta sẽ nhìn thấy. Tây Thi!...
Di Quang xoay nhìn bốn bên rồi hạ giọng thật thấp:
- Mình nhận ra chị có ý tưởng kỳ lạ trong đầu... Chị không muốn thấy quân Việt phá thành Cô Tô phi không?
Tây Thi không thừa nhận cũng không phủ nhận. Khá lâu sau, nàng mới thở dài, quay gót bước vào phòng có lửa ấm. Di Quang bước theo nàng chờ nghe trả lời.
Tây Thi thư thả ngồi xuống, đưa tay kéo mền trên giường, tư thái hưỡn đãi. Tay nàng chạm nhằm Thuộc Lâu bửu kiếm liền nâng lên, rút ra. Nàng nhìn đăm đăm ánh kiếm sáng lạnh, trầm giọng:
- Kiếm này đã giết Ngũ Tử Tư! (Nàng vừa nói vừa cung tay búng vào sóng kiếm). Nếu Ngô vương gặp điều bất trắc, Tây Thi sẽ dùng kiếm này kết thúc
đời mình.
Di Quang kinh hãi kêu lên:
- Tây Thi! Chị nói thế là sao?
- Thôi đừng bàn đến chuyện ấy nữa.
Trong chớp mắt Tây Thi đã ngăn được trào lòng, bình tĩnh nhếch cười, tra kiếm vào vỏ, đặt kiếm trên ghế:
- Mình đừng nói đến chuyện ấy. Di Quang ra xem dùm tôi coi có bánh sữa không? Bỗng nhiên tôi muốn ăn cái gì đó.
Bánh sữa là loại bánh do Tây Thi sáng chế lúc ở Ngô cung, dùng một phần nước pha trong sữa chưng cho sệt lại. Thêm trong bánh chút muối, có thể để bánh ăn khá lâu. Cả năm gần đây, Tây Thi rất thích ăn bánh sữa. Nhưng bây giờ không phải nàng thèm ăn mà là muốn mượn cớ để đuổi khéo Di Quang. Bởi nàng không muốn bị kéo vào cuộc tranh luận.
Bây giờ, Tây Thi chỉ muốn yên ổn, cho dầu là sự yên ổn tạm thời cũng được.
Trên Cô Tô đài, một ngày như thế trôi qua. Trên Cô Tô đài, Tây Thi chán chường, mệt mỏi như một bà già trong cuộc đời nhuộm màu u ám...
Chương 15
Một ngày đóng tuyết, ánh thái dương rọi trên mặt tuyết trắng
Nguồn: MarReading
Thu gọn nội dung
Từ xưa đến nay, những ngày tuyết đóng đều không thích hợp cho chuyện giao tranh. Vì vậy, ngoài thành Cô Tô rất yên tĩnh. Vì vậy, Vương Tôn Hùng hạ lệnh cho toàn thể binh sĩ được phép nghỉ ngi trừ số phòng thủ.
Vì vậy, Ngô vương cũng từ thành lui về Cô Tô đài.
Nhà vua bước lên Cô Tô đài lúc mặt trời lặn. Gió lạnh như cắt, số tuyết rơi dày đã đóng thành băng cứng. Nước trên mái hiên chảy xuống trở thành cột băng loang loáng trong sắc chiều buồn.
Ngô vương đem theo mười hai xe đến dưới chân Cô Tô đài, tự mình gỡ lấy cây mâu treo ở thành xe làm gậy chống. Ngài bước lên Cô Tô đài như một lão già đi chống gậy.
Nhà vua đã ở trên thành phòng vệ cả tháng rồi. Tuy suốt thời gian đó không có trận đánh chính thức nào, nhà vua vẫn không dám để có một giờ sơ xuất. Bảy hôm trước, Vương Tôn Hùng đến khuyên nhà vua về Cô Tô đài nghỉ nhưng ngài cự tuyệt. Ngài chỉ gửi thỏ rừng về cho Tây Thi. Nay là ngày tuyết đóng băng, đoán chừng ít nhất cũng có được hai ngày yên tĩnh, ngài mới quay về Cô Tô đài trước lúc mặt trời lặn.
Theo bảo vệ Ngô vương có mười hai xe và tám mươi danh kỵ trong khi Cô Tô thành rất cần được bảo vệ khiến nhà vua thuơng cảm hết sức. Nhưng nhà vua biết rõ, ngài cần phải được bảo vệ.
Mãi đến khi nhà vua đến dưới đài, Tây Thi mới hay. Nàng vội vã mặc áo choàng chạy ra nghênh đón, song khi nhìn thấy nhà vua thì lòng nàng phát lạnh. Một tháng cách xa, nhà vua như đổi khác hết: râu ria xồm xoàm, tóc bạc trắng thêm. Vào đông, mặt trời đâu đủ nóng nhưng trông Ngô vương đen đúa, gầy còm, già nua.
Vì thế, Tây Thi cả kinh, dừng chân ở thềm đá bên trên.
- Tây Thi!
Nhìn thấy nàng, Ngô vương nở nụ cười hiền hòa, dường như cả tháng nhục nhằn chỉ trong thoáng chốc này là tiêu tan hết cả. Giao trường mâu cho tên hầu cận Lộc Xuất, Ngô vương gấp rút bước lên nắm lấy hai tay nàng:
- Tây Thi! Mọi việc đều rất tốt... Ơ, bao tay đâu sao nàng không mang? Trời lạnh thế này, coi chừng bị cảm đó!
- Đại vương!
Tây Thi nghe nhói đau chua xót, nước mắt trào ra ươn ướt. Một người từ gió tuyết chiến trường lại chỉ nghĩ đến cái lạnh của riêng nàng thì thật là chí ái chí tình!
- Tây Thi, mau vào thôi! Thật thì nàng cũng không cần phải ra đón trẫm. Tây Thi, cả tháng rồi nàng thế nào? Cả tháng rồi chúng ta không gặp nhau...
- Thiếp khỏe lắm! (Tây Thi cố ngăn nước mắt). Thiếp luôn nhớ đến quân vương, cảm thấy dường như có quân vương bên cạnh. Duy có điều ban đêm thì hơi sợ!
- Coi, trẫm đã ra lệnh cho thị nữ kề cận bên nàng mà!
- Họ khác với quân vương...
Tây Thi nhếch cười thê lương, chuyển đề:
- Quân vương! Tình hình chiến trường ra sao?
- Vẫn không có gì thay đổi. Nhưng so với lúc trước khi trẫm từ Hoàng Trì kéo về thì bây giờ tương đối vững chắc hơn nhiều.
Ngô vương dìu Tây Thi bước vào đại đường, gỡ mũ rồi gỡ kiếm để xuống, thở phào nói thêm:
- Binh sĩ ta tuy cực khổ song quân Việt càng tệ hại hơn.
- Nói thế thì họ có thể nhân cơ hội này mà rút lui không?
- Theo trẫm đoán, lúc trở xuân ấm, quân Việt không rút lui không được. Vì lương thực của họ không nhiều đâu!...
Ngô vương liếc qua Tây Thi, bỗng bỏ lửng, lắc đầu ái ngại:
- Khanh hơi ốm!
- Thật à? Sao thiếp không cảm thấy...
Tây Thi ngã tới gần nhà vua nhưng Ngô vương ngăn nàng:
- Ơ... đừng, mình trẫm dơ lắm! Để trẫm tắm rửa, thay đồ cho xong đã.
- Quân vương! Quân vương cho rằng thiếp chê quân vương dơ sao?
Nhà vua hiền từ vỗ vai nàng như cha đối với con:
- Không đâu! Hãy nghe lời trẫm, trẫm cũng cần ngâm chút nước nóng.
- Thế thì thiếp chờ...
Tây Thi nói rất thành thật. Nhưng nhà vua bỗng nói:
- Mà không... (Ngô vương hôn má nàng và nhận ra râu ria xồm xoàm đã làm đau nàng nên đưa tay sờ râu rồi cười nói luôn). Để chút nữa, trẫm nhờ khanh cạo dùm râu!
Tây Thi truyền cho thị nữ bỏ thêm than vào lò sưởi trong tường, kéo mền gối đến gần hơ cho ấm. Liền đó, nàng lại bảo thị nữ chuẩn bị bữa ăn tối trong khi Ngô vương bước vào phòng tắm khoảng mười lăm phút. Do quá mệt mỏi, lại bị nước nóng làm cho xuất mồ hôi, mặt mày nhà vua thật khó trông.
- Mệt quá... Tây Thi!
Ngô vương ngồi phịch xuống ghế, nhờ Tây Thi mặc đồ ngủ cho ngài. Ngài uốn mình, nhắm mắt... Tây Thi dịu dàng nâng ly rượu đặt trên môi ngài nói:
- Quân vương uống một hớp cho ấm.
Uống xong một hợp, Ngô vương đẩy ly ra nói nhỏ:
- Khanh cạo dùm râu cho trẫm, trẫm đang muốn hôn khanh!
- Quân vương!
Tây Thi nở cười hạnh phúc, để ly xuống, ôm choàng cổ nhà vua hôn đậm đà. Nhà vua choàng ngang lưng nàng, nhìn dán vào nàng:
- Bao nhiêu mệt mỏi mất hết rồi. Tây Thi, vừa rồi, trên đường về đây trẫm nhớ lại chúng ta đã sống chung mười bảy năm. Tính từ ngày Câu Tiễn đầu hàng đến nay thì đã hai mươi năm rồi.
Mười bảy năm vội vã qua mau. Mười bảy năm sau, cả hai vẫn hôn nhau một cách mặn nồng!
Con số mười bảy năm với bao nhiêu biến thiên làm cho Tây Thi nghĩ ngợi đến xuất thần.
Ngô vương nâng mặt nàng, nói thêm:
- Mười bảy năm rồi, khanh vẫn như xưa.
- Vì quân vương, thiếp không chịu già đâu!
- À!... (Câu nói ấy như mồi ngon giúp Ngô vương uống một cái ực cạn ly). Tây Thi, lúc mới đến, tánh tình khanh thật oái oăm.
- Sau này, thiếp sửa đổi dần... do quân vương dạy dỗ.
Ngô vương uống cạn ly thứ hai:
- Tánh tình các cô bé nhiều thay đổi lắm!
Hai tiếng “cô bé” làm cho Tây Thi cảm thấy xốn xang. Không phải vì sự bất đồng của tuổi tác ngày nay mà là vì suốt mười bảy năm rồi, nàng không sinh con với nhà vua. Nàng nghĩ, giá nàng có con thì giờ này con nàng đã cao bằng nàng.
- Tây Thi, nàng đang nghĩ gì?
Tây Thi thẳng thắn đáp:
- Thiếp muốn có một đứa con.
- Đợi xong giặc, chúng ta sẽ kiếm một đứa! Giờ khanh cạo râu dùm ta. Trước khanh, trẫm muốn “đẹp trai” hơn một chút.
- Dưới mắt thiếp, quân vương luôn anh tuấn như trong mắt quân vương thiếp vĩnh viễn đẹp.
Tây Thi vuốt râu nhà vua khiến cả hai cùng cười.
Trong sự bàng hoàng của bá tánh trong thành, trong ngày lạnh tuyết đóng thành băng, Phù Sai và Tây Thi rất cởi mở, đẩy đưa, nếm trải sự ấm áp của tình yêu.
Cả hai đối ẩm, thì thầm... không một lời liên quan đến chiến tranh. Ngô vương bàn định trùng tu Quán Oa cung, định khi quân Việt rút, cả hai sẽ sang đó ở.
Tây Thi nói:
- Thiếp thích ở Cô Tô đài. ở đây nhìn được Thái Hồ chứ ở Quán Oa cung thì không nhìn thấy.
- Khanh thích Thái Hồ như thế?
- Cô Tô đài như quân vương thì Thái Hồ càng giống quân vương hơn, hùng tráng và ôn nhu... (Tây Thi cười, rót rượu cho nhà vua). Quân vương, mùa hạ năm sau, chúng ta rong chơi Thái Hồ.
Đêm xuống dần. Tuyết đang đóng băng, giọt nước chảy lan từ mái hiên xuống buông tiếng tí tách dường như tấu nhạc. Khá lâu rồi, Cô Tô đài không có nhạc.
Văng vẳng từ xa, tiếng hiệu sừng truyền đến. Còi hiệu khiến Ngô vương nghĩ đến chiến tranh. Ngài vươn vai, nhảy mũi liên tiếp mấy cái:
- Ô, chiến tranh không ngưng hẳn à?
- Quân vương ngủ đi!
- Không đâu, trẫm muốn cùng khanh chuyện vãn.
- Sau ngày mai vẫn là ngày mai, chúng ta còn biết bao nhiêu ngày mai trước mặt.
Tây Thi hôn Ngô vương như hôn một đứa bé. Ngô vương nhắm mắt dưỡng thần, chẳng mấy chốc ngủ vùi.
Tây Thi ôm cho nhà vua ngủ. Nhưng lúc nhà vua cất tiếng ngáy đều thì nàng nhích ra, đi gom hết y giáp và vũ khí cần dùng lại một chỗ trong tư thế chuẩn bị. Theo ý nghĩ của nàng quân Việt có thể nhân đêm đóng băng mà khởi tấn công. Tây Thi biết rõ, bất cứ qui luật thông thường nào cũng không thể gò bó Câu Tiễn và Phạm Lãi. Họ là những người rắp tâm trả thù và người mang thù sẽ không nề hà hoàn cảnh và giờ khắc.
Ngô vương ngủ rất say, bao nhiêu mệt mỏi biến mất bên cạnh người yêu. Nhưng chẳng bao lâu, ngài lại rên khẽ trong mộng.
Tây Thi đích thân đi xem lại lò sưởi, truyền cho thị nữ phi giữ một độ ấm nhất định. Sau đó, nàng đội mũ lông, choàng bao tay da nai, bước ra khỏi phòng.
Di Quang và Triền Ba đứng giữ bên ngoài, mặt lạnh xanh tái dưới ánh đèn. Tây Thi liếc thấy cả hai, hỏi nhỏ:
- Chỉ có hai người ở đây à?
- Tôi đã cho tất cả sang phòng bên kia chờ. (Di Quang chỉ tay nói thêm). Tây Thi, tôi hiểu rõ lòng chị.
Không hiểu câu nói bất ngờ ấy, Tây Thi hoang mang nhìn cả hai. Triền Ba tiếp:
- Ngô vương và chị thật đẹp đôi, Ngô vương đối với chị thật đẹp. Mười bảy năm qua, Ngô vương đối với chị vẫn như ngày đầu.
Nói thế là xác nhận cả hai đã nghe được lời thì thầm giữa Ngô vương và Tây Thi. Di Quang hít một hơi dài nói:
- Mình biết chị tình nguyện muốn vì Ngô vương mà chết. Bất cứ người con gái nào đứng trong hoàn cảnh của chị cũng đều như thế cả. Tây Thi, có chết chị cũng hạnh phúc lắm.
Tây Thi mỉm cười, nàng đã sớm nhận ra hạnh phúc của nàng. Nhưng đó là thứ hạnh phúc nàng không có cách từ chối mà ngày nay ai nấy đều biết.
Di Quang lại nói:
- Tây Thi, người xưa nói, có được một tri kỷ là đủ sống, việc chết sống không có gì đáng ngại. Và chị đã có rồi...
Triền Ba thuơng cảm thở dài:
- Mười bảy năm qua, chị em tôi đều không có. Tổ quốc, ôi Tổ quốc có ghi tên chị em mình không?
- Cần gì phải được ghi tên? (Di Quang nhìn đắm đuối ánh đèn). Chị em mình chỉ biết hết lòng vì Tổ quốc. Nói cách khác, có được ghi tên trong sử sách thì đối với chị em mình có ích lợi gì đâu! Mười bảy năm đã làm cho chị em mình già cả hết rồi, nào ai có thể bồi thường được thời xuân thắm ấy!
Thời xuân, dường như các cô chưa từng nghĩ qua trong quá khứ. Nhưng một khi nghĩ đến thì tất cả lại thê thiết vô cùng. Trong tổng số mỹ nhân từ Việt sang Ngô đợt đầu, chỉ có một mình Tây Thi hưởng được năm tháng xuân xanh. Ngoài nàng, Trịnh Đán tự vẫn chết từ lâu, Gia Tề nổi danh ca múa làm trưởng đoàn ca vũ Việt sang Ngô thì bệnh mất một năm, chỉ còn có da bọc xương. Bệnh lành từ lâu, Gia Tề vẫn còn nằm liệt trên giường dưỡng sức... do Tây Thi truyền đưa sang ở Quán Oa cung. Riêng Trịnh Nguyệt là một vũ công mềm mại như người không xương, tay đàn Gia Thi và Bàng Nhi nhịp phách giỏi đều là người thiên cổ. Hãy còn vài cô bỏ trốn hoặc ở Ngô hoặc về Việt nghe đâu đã lấy chồng vào mấy năm trước. Mười bảy năm qua, cuộc tang thuơng nhân sự trên Cô Tô đài là như thế đó.
Tổ quốc Việt đã phục hưng trong gian nan khốn khổ thì tuổi xuân của các cô gái Việt đã mất mát hết rồi. Di Quang lớn hơn Tây Thi một tuổi nhưng vì không được nếm trải hương vị ái tình mà già cỗi, khô cằn như mảnh đất không mưa. So với Tây Thi tươi mát, Di Quang và Triền Ba cảm thấy cuộc đời mình thật bất hạnh, thê thảm!
Đối với các bạn cùng vượt Tiền Đường, Tây Thi cũng có phần áy náy. Tuổi xuân của nàng huy hoàng trong khi thời xuân của các bạn mất hút khiến nàng ảo não thở dài:
- Mười bảy năm rồi!
- Tây Thi! (Di Quang cố nén lòng buồn, hỏi) Chị ra đây làm gì?
- Mình ra xem bên ngoài... Nghĩ là đêm nay không thể bình yên (Tây Thi hạ thấp giọng) Mong cho Ngô vương được ngủ ngon một đêm.
Vì vậy, Di Quang và Triền Ba cùng đi với Tây Thi ra ngoài nhìn xuống nguyên dã hun hút trong đêm. Gió lạnh sắt se, nguyên dã đóng băng bốc hơi buốt lạnh.
Chuông đồng treo ở góc đài Cô Tô cũng bị đóng băng nên tuy bị gió lắc mạnh, chuông vẫn không phát ra được một âm thanh nào.
Tây Thi nhìn khắp bốn bên phẳng lặng như tờ, lẩm bẩm:
- Mong được một đêm bình yên.
Di Quang đáp lời:
- Mong được một đêm bình yên... vì chị.
Tây Thi hiểu ý bạn, mỉm cười cám ơn. Vì đó là tình bạn cao hơn ý thức quốc gia.
Cả ba cùng quay vào ngủ trong phòng ấm. Cô Tô đài rất ấm và cũng rất bình yên. Nhưng trên chiến trường thì trong đêm gió thốc lạnh lùng không có bình yên.
Theo binh thư, vào lúc tuyết rơi, băng đóng, không thể đánh nhau được. Nhưng với chí phục thù cùng nghị lực và hi vọng, Việt vương yêu cầu Phạm Lãi phát động dạ tập. Bởi vì vào lúc rét mướt như thế này, nhất định quân Ngô sẽ lơ là việc canh phòng.
Ngoài thành có ít nhất là hai tấc băng dầy, không dụng cụ nào có thể giúp bò từ băng lên mặt thành. Lăn đá để phá vỡ cửa thành chăng? Trên mặt băng, công tác ấy rất ít hi vọng. Huống chi, cho dầu sơ xuất thế nào, binh Ngô cũng không thể sơ xuất tại cửa thành. Bằng áp dụng hỏa công, vứt lửa tấn công thì cũng không thể được trong ngày băng tuyết.
Nhưng Phạm Lãi vẫn tuân vương mạng, tuyển ba ngàn quân tấn công Cô Tô thành.
Đêm nay, người phụ trách giữ thành là Tích Lặc vốn không xem vào đâu việc quân Việt kéo đến gần. Mãi đến khi xe xung phong của Việt chở cây to đến giộng cửa thành, Tích Lặc mới ra lệnh cho lăn đá và bắn tên xuống. Trên thành Cô Tô, không có hiệu còi sừng nào thổi báo động.
Quân Việt không làm sao hơn được, đến cả tiếng hô cũng không có khí lực. Phạm Lãi đứng quan sát hơn một giờ rồi ra lệnh cho quân sĩ thiếu điều bị đóng thành băng rút lui.
Chẳng bao lâu, Việt vương đích thân kéo một toán quân khác đến tấn công. Bấy giờ gần sáng, quân Việt đứng trên băng tuyết ngoài thành la hét một lúc rồi cũng rút lui. Nhưng lúc quay về thì Câu Tiễn lại nói giọng phấn khởi với ba quân tướng sĩ:
- Chúng ta làm kinh động bọn họ cả đêm, trẫm tin rằng đêm nay Ngô Phù Sai mất ngủ và phát rét.
Từ bao giờ, lời của Câu Tiễn cũng được thần dân tín nhiệm. Tín nhiệm đến quân binh đang khổ sở, rét run cũng tạm thời quên cái lạnh của mình đi. Trở về dinh trại, họ vừa run lập cập vừa ca.
Phần Câu Tiễn có thể gạt người nhưng không thể gạt mình. Nhà vua mong mỏi tự mình sáng tạo nên kỳ tích, thâu đoạt chiến thắng một cách nghịch thường. Như bao anh hùng Câu Tiễn dự định thâu đoạt kỳ tích để phân biệt anh hùng và người thường. Nhưng cuối cùng, Câu Tiễn cũng như bao anh hùng khác đều cảm thấy mình chẳng khác với thường nhân là mấy.
Một đêm tấn công không thành công làm cho Câu Tiễn u uất. Trước khi đi ngủ, Câu Tiễn trịnh trọng nói với Phạm Lãi:
- Đành là chúng ta phải chờ đợi. Mong sẽ có được mười ngày trời quang.
Sáng sớm hôm nhau, mặt trời mùa đông nhợt nhạt chiếu trên băng tuyết, tuyết tan đi. Bấy giờ, Vương Tôn Hùng đến thay thế Tích Lặc và trên Cô Tô đài Ngô vương đã thức.
Đêm rồi có lẽ là đêm ngủ ngon nhất trong đời của nhà vua nước Ngô, ngủ như một đứa trẻ thơ trong vòng tay mẹ. Sau khi thức giấc, tinh thần nhà vua sung mãn, Ngài dang tay, sung sướng gọi Tây Thi.
Tây Thi thức đã từ lâu nhưng nàng còn co rút trong mền. Ngô vương nhìn thấy tóc mây của nàng tri xõa trên gối, Ngài lắc nhẹ nhàng:
- Tây Thi... Nàng chưa thức hả?
- Thiếp thức lâu rồi. (Tây Thi thò tay đưa ra một tấm vải) Đây là báo cáo thiếp xem xong mới ngủ lại.
Báo cáo của quan giữ thành nói về khí trời, băng tuyết... Ngô vương xem qua một lượt rồi vứt sang bên, đoạn lăn qua ôm choàng Tây Thi:
- Có khanh kề bên, trẫm ngủ ngon quá.
- Mong rằng từ rày về sau, đêm nào cũng thế. (Tây Thi trở mình, gối đầu lên cánh tay nhà vua! Quân vương hãy nằm thế này nửa giờ rồi hãy dậy... Có làm cản trở công việc của ngài không?
- Ồ, không đâu.
Nhà vua đáp một cách sung sướng nhưng thật ra nhà vua có việc. Hôm qua ngài đã dặn Lộc Xuất sáng sớm nay tới để cùng Ngài đi soát xét tráng binh. Nhưng ngài không đành nghịch ý Tây Thi và lại cảm thấy có chậm trễ một vài giờ cũng không thành vấn đề.
***
Mùa đông qua rồi. Trời xuân lướt đến, cỏ cây ở Cô Tô thành hiện lên sức sống.
Cuộc chiến lại bộc phát. Tích Lặc đưa quân ra thành phản công, nhưng trận đánh không phân thắng bại. Tích Lặc đã hủy diệt của Việt trên bốn mươi xe, nhưng bên Ngô cũng bị tổn thất chừng đó. Điều đó không quan trọng, quan trọng là ở chỗ trận thế bị bẻ gãy nhưng quân Việt không có ý rút lui.
Quân giữ thành dần dần ảo não. Họ từng nghĩ rằng cứ mùa xuân thì địch quân sẽ rút, nay xuân đến rồi mà địch lại cường tráng hơn mùa đông. Lại còn điều bất hạnh này: Lúc mùa xuân đến, trong thành Cô Tô không ngừng có chuyện quỷ lộng. Nghe nói thì có đến mấy ngàn người nghe được tiếng quỷ khóc đêm.
Tiếng quỷ khóc đến người trên Cô Tô đài cũng nghe được. Tiếng khóc rất dài và rất thê thảm so với tiếng người...
Do lời thị nữ đồn đại mà Di Quang và Triền Ba biết có tiếng quỷ khóc nên nói với Tây Thi. Thoạt đầu Tây Thi không xem chuyện ấy vào đâu. Nhưng vài hôm sau, lời đồn đại quá nhiều khiến nàng run lên mọc ốc.
Người ta đồn rằng, tiếng quỷ khóc trong thành Cô Tô là do Ngũ Tử Tư tạo ra. Lời đồn có tính cách hoang đường nhưng càng lúc càng nhiều.
Đồn rằng, Ngũ Tử Tư trung thành với Ngô, một lòng vì nước mà bị vua giết. Ngày nay, vận số nước Ngô đến đúng như lời tiên đoán của Ngũ Tử Tư nên anh linh của người lại vì vận nước suy vi mà khóc. Tiếng khóc của người nhằm cảnh cáo thần dân Ngô quốc, Quốc gia sắp mất rồi.
Đồn rằng, bao nhiêu chiến sĩ anh hùng từng theo Ngũ Tử Tư chinh chiến đó đây, vì nước mà chết, bây giờ cũng lên tiếng khóc. Vì vậy, khắp thành Cô Tô đâu đâu cũng nghe tiếng quỷ khóc.
Lời đồn khiến Tây Thi chấn động, không kịp nghĩ ngợi xem hư hay thật. Nàng cho vời vu sư đến làm lễ cầu siêu.
Vu sư vâng lệnh đi khắp nơi lập đàn cầu siêu. Nhưng lời đồn về tiếng quỷ khóc do các vu sư nói ra lại càng thêm ghê rợn khiến cho nhân dân trong thành bị vây càng thêm sợ sệt. Họ sợ quân Việt, sợ tiếng quỷ khóc, sợ quỷ càng nhiều hơn. Bởi vì họ nghe được tiếng quỷ khóc gào nhưng không làm sao thấy được quỷ.
Quân trong các trại cũng nghe được tiếng quỷ khóc rồi.
Một buổi chiều, từ thành trở lại Cô Tô đài gặp Tây Thi, Ngô vương cũng nói về tiếng quỷ khóc. Tây Thi biết trước song cố giấu để bây giờ tự nhà vua nghe được, nói ra:
- Người ta đồn là Ngũ Tử Tư.
Tây Thi lạnh lòng nhưng gượng đáp:
- Lời đồn vô căn cứ...
- Đêm qua, chính trẫm nghe được tiếng quỷ khóc.
Tây Thi thoắt nhìn bốn bên. Nàng sợ quỷ đang đến gần nhà vua.
Ngô vương ôm giữ nàng, giọng có phần thê thảm:
- Quân ta đã bị tiếng quỷ khóc gào đánh bại. Ôi, Ngũ Tử Tư... sau khi chết rồi, tướng phụ vẫn khống chế quân dân.
- Đại vương. (Tây Thi ứa nước mắt, run môi kêu lên. Rồi nước mắt chảy theo nỗi kinh hoàng, nàng nghẹn ngào tiếp) Đại vương. Chuyện ấy không thật đâu...
Ngô vương cũng không biết thật giả, chỉ biết chính nhà vua có nghe.
Tây Thi bàng hoàng hỏi:
- Quân vương. Lòng quân dao động lắm phải không?
- Phần nào tiếng quỷ khóc có làm cho chúng sợ.
Bấy giờ Di Quang bình tĩnh đi đến cởi hia cho nhà vua. Tây Thi chợt nhớ ra, kể từ ngày có lời đồn về tiếng quỷ khóc, trước sau như một Di Quang không nhận có nghe. Hơn nữa, Di Quang cũng không bày tỏ ý gì về chuyện quỷ khóc. Tây Thi biết Di Quang cũng sợ quỷ như nàng nên không ngại nói thẳng:
- Quân vương. Tiếng quỷ khóc có thể do người Việt giở trò để tác động tinh thần quân sĩ chúng ta không?
- Ơ... (Ngô vương chớp mắt) Quân Việt còn ở ngoài thành đó.
Ngô vương không nghĩ đến chuyện gián điệp. Phần Tây Thi, chỉ nói được đến đó mà thôi. Bởi chính nàng đã là gián điệp của Việt và người bạn gián điệp Di Quang đang ngồi kề bên. Lúc Tây Thi nói, Di Quang có liếc mắt nhưng Tây Thi không mấy để ý.
Ngô vương trầm mặc. Kể từ Cô Tô thành bị vây, đây là lần thứ nhất nhà vua trầm mặc lâu như vậy. Cũng lần thứ nhất trong suốt mười bảy năm, Tây Thi cảm thấy gần gũi nhà vua hơn. Sự trầm mặc của nhà vua làm cho nàng se lòng, tay chân có phần quýnh quáng.
Bỗng nhiên Ngô vương bật dậy, truyền đòi Vương Tôn Hùng lên đài:
Tây Thi hoảng quá, run run hỏi:
- Quân vương. Thế nào...?
- Ơ, không có gì... Trẫm muốn quyết chiến, muốn cùng Câu Tiễn quyết chiến (Ngô vương rít răng) Trẫm muốn điều động cánh quân ở Cú Khúc về đây, tập trung đánh trận sau cùng.
Xa xa có tiếng sấm gầm. Chẳng bao lâu, có những lằn chớp sáng, tiếp theo là tiếng sấm sét rồi mưa rào đầu xuân sầm sập trút xuống.
Ngô vương nhìn trời, mặc áo giáp, ra lệnh cho Di Quang tròng hia lại cho nhà vua. Tây Thi chấn động hỏi:
- Đại vương. Ngài còn muốn đi?
- Phải. Trẫm cần lên mặt thành, thông thường, lúc sấm sét mưa giăng là lúc nguy hiểm nhất.
Trở về Cô Tô đài chưa đầy một giờ, Ngô vương lại đi.
Tây Thi nhìn tiễn đưa nhà vua trong làn chớp nháng sáng. Di Quang còn ở bên nàng. Lúc thấy Ngô vương bước khuất xuống tầng thứ nhất, Di Quang cất giọng hậm hực trách Tây Thi:
- Chị che giấu bớt một chút thông minh không được sao? Tiếng quỷ khóc là do Phùng Đồng vâng lệnh của Phạm đại phu làm ra theo kế hoạch sau cùng đấy.
- Sao? (Vừa cất tiếng kinh mang, Tây Thi vừa tất t chạy ra kêu) Phù Sai.
- Tây Thi. Nàng đừng chạy lung tung.
Tây Thi xông đại vào mưa, ngã ập vào Ngô vương khiến nhà vua bối rối:
- Sao thế? Nàng làm sao thế?
Nước mưa dây ướt hai thân. Tuy cả hai đều có mặc áo che mưa, song khi chạy vội áo bị nghiêng lệch, nước mưa rớt ướt vai, mặt Tây Thi. Nhưng nàng không chú ý đến điều ấy, nàng chỉ ôm chầm nhà vua, khóc sướt mướt chua xót não nề.
- Nàng sao thế này?... Tây Thi?
- Đại vương.
Tây Thi khóc gọi rồi sụp quỳ trên thềm đá đọng nước, hai tay ôm chặt chân nhà vua. Hình ảnh ấy bi thuơng, nước mắt Tây Thi chẳng nhường những giọt mưa xuân sầm sập.
Có tiếng sấm gầm thật lớn, dường như muốn trấn át tiếng khóc của nàng.
Ngô vương quýnh quáng không biết làm sao. Trên tầng thượng có hai cô gái Việt - Di Quang và Triền Ba - cũng bị hình ảnh ấy và tiếng khóc kia làm chạnh lòng, toàn thân tê dại.
Trong mưa tuôn sấm sét, Ngô vương kinh hoàng gọi:
- Tây Thi.
- Tây Thi. - Di Quang và Triền Ba cũng nghẹn giọng kêu lên.
Trong lòng Tây Thi đang có sự dằn vặt khổ đau. Nàng muốn đem tất cả mọi việc nói ra để rửa sạch tội nghiệt của nàng. Nàng cũng muốn lấy cái chết để đền tội.
Trong giây phút này, nàng cảm thấy chỉ có nói ra tất cả mới có thể cứu vãn Ngô quốc. Nàng cũng cảm thấy chỉ có cái chết của nàng mới đáp tạ được sự chí tình của Ngô vương... Mười bảy năm vẫn một mực chí tình.
Nhưng mười bảy năm che giấu đã thành thói quen, không dễ gì tiết lộ trong phút chốc. Nàng vừa nghĩ ngợi vừa khóc. Từ linh hồn nàng có sự soát xét lại nhục thể hoặc nhục thể này làm tan biến linh hồn. Tây Thi muốn tự nghiền nát nàng. Rồi sau đó sẽ gom góp lại xem còn được những gì. Khổ nỗi, linh hồn và nhục thể của nàng đã không bị nghiền nát thì rồi cũng không thể tập trung.
Vì vậy, nhà vua cứ gọi hỏi mà nàng không thể trả lời.
Một lằn điện chớp vạch sáng bầu trời, tiếp theo là tiếng nổ long trời. Tây Thi nghe thấy được cả, nhưng nhục thể nàng đã nghe được tiếng nói của linh hồn: Tây Thi! Ngươi vì ái tình mà bội phản quyền lợi Quốc gia?... Ngươi hy sinh Tổ quốc để đáp ân riêng chăng?...
Ngô vương cúi đỡ nàng, run rẩy gọi:
- Tây Thi!
Lại có sét chớp sấm gầm... Trong làn điện bất chợt lóe sáng, Tây Thi cảm thấy người nàng như bay bổng, huyết quản dường như vỡ vụn. Nàng ngẩng đầu lên, mặt tràn nước mắt nước mưa.
- Đại vương! (Tây Thi dùng toàn lực kêu lên) Hãy giết thiếp đi! Giết thiếp đi!
Chuyện quá đột ngột, đột ngột đến Ngô vương bấn loạn.
- Đại vương! Hãy giết thiếp... một người con gái Việt!
Tây Thi vừa gào vừa khóc, toàn thân run bần bật trong mưa to.
- Tây... Thi!...
- Đại vương! Quân Việt tấn công Cô Tô thành mà thiếp... thiếp là gái Việt đã chịu ơn nuôi dưỡng của Đại vương những mười bảy năm... Đại vương! Đại vương!...
Tây Thi nghẹn lời, áo che mưa của nàng hoàn toàn tuột xuống. Tóc bị nước mưa làm cho ướt rối, Tây Thi vẫn tận lực gào:
- Giết thiếp đi!
- Tây Thi!
Ngô vương chợt nghĩ đến tiếng quỷ khóc, đoán chừng Tây Thi bị quỷ hớp hồn làm cho mê loạn. Ngài cũng run run toàn thân, tìm cách lay tỉnh Tây Thi.
- Giết thiếp đi!
Tinh thần dường như vỡ tan, nói được tiếng nói thật lớn sau cùng, Tây Thi ngất lịm. Ngô vương bồng xốc nàng, vừa khóc vừa gọi, vừa tất tả trở vào Cô Tô đài.
Bấy giờ bỗng có Lộc Xuất sấn tới báo cáo:
- Đại phu Vương Tôn Hùng không thể đến được. Vì bên ngoài thành, quân Việt khởi tấn công!
Nhà vua dường như không nghe. Ví bằng có nghe Ngô vương cũng không màng đến. Trước mắt nhà vua, không có chuyện nào quan trọng bằng chuyện Tây Thi ngất lịm.
Ngô vương bước lên đài, gọi ầm mọi người tiếp cứu.
Phần Tây Thi, sau khi ngẫu nhiên xúc động đến ngất xỉu, được Ngô vương bồng vào phòng chẳng bao lâu thì nàng tỉnh lại. Nhưng thần trí của nàng hãy còn mơ màng, nàng ngước nhìn, cảm thấy đầu đau dữ dội.
May lúc nàng ngước lên, Ngô vương nhìn thấy bật gọi:
- Tây Thi!
Tây Thi không trả lời song mặt nàng có chút chuyển động của hình thái nhếch cười khổ. Ngô vương đặt nàng lên giường, hối thúc đốt lửa và hong khô quần áo cho nàng.
Tây Thi nghe hết các lời nhà vua song nàng không chen nói. Bởi vì muốn chết cũng phải có đủ sức chết cơ!
- Tây Thi! Khanh làm trẫm sợ quá! (Ngô vương dán mặt sát vào nàng, ứa nước mắt) Khanh đừng lo, thong thả rồi tình trạng của chúng ta sẽ tốt đẹp.
Có tiếng sấm gầm rền rền thật to. Cô Tô đài dường bị sấm lay động.
Ngô vương vẫn kề tựa má nàng, chí thành nói:
- Nàng bình tĩnh một chút! Nước Ngô là của trẫm và khanh, hai người chúng ta là một!
Nước mưa đã thấm ướt toàn thân Tây Thi. Lúc Ngô vương giúp cởi áo trong cho nàng, nàng gượng nói:
- Bảo thị nữ vào đây!
- Trẫm là chồng, để trẫm phục dịch khanh một lần.
Tây Thi không nói gì thêm. Thật ra, đầu đau nhức quá, nàng không làm sao tập trung được tinh thần để nói.
Ngô vương cởi hết áo quần, giầy vớ cho nàng, đoạn dùng vải lau khô khắp mình nàng. Đây là lần thứ nhất sau trong mười bảy năm chung sống, nàng hoàn toàn không phản ứng, hoàn toàn phơi bày trước mặt nhà vua.
Giờ khắc này hết sức khẩn trương, không một ai có thể thèm muốn. Nhưng toàn thân ngọc ngà đã khiến nhà vua nhìn lâu, mỗi ánh mắt đưa là một lời khen nức nở. Ngô vương cho rằng lúc trang trọng này Tây Thi mới đúng là một bức tranh nghệ thuật. Ngài yêu nàng sâu xa quá, nàng là tinh thần của ngài.
Nhà vua dùng viả lót bông trùm nàng, tự tay rót nước trái cây để đút từng muỗng cho nàng.
Trời vẫn sấm chớp, vẫn mưa giăng, Tây Thi bình phục rồi. Nhưng lòng nàng như giọt mưa rơi, nặng nề rớt xuống rớt xuống. Chẳng bao lâu, nàng nói nhỏ:
- Quân vương lên thành đi!
- Không, trẫm ở giữ khanh, sánh với thành Cô Tô, khanh vẫn quan trọng hơn.
Mặt xanh xao phớt gợn nét cười, Tây Thi nói:
- Vậy quân vương cũng nên đi thay y phục! Thiếp không thể thay dùm...
Lúc Ngô vương thay đồ, Lộc Xuất lại đến báo cáo: Quân Việt dốc toàn lực công thành ngay khi mưa lớn. Ngô vương “ờ!” một tiếng, song không hỏi thêm. Chẳng bao lâu, quân phòng vệ lại đến báo cáo: Tướng quân Tích Lặc đã dẫn quân ra đối địch.
Tây Thi mềm nhũn nói:
- Quân vương nên sang bên ấy! ở thiếp không có chuyện gì hết, còn ở bên thành là chiến tranh!
- Ơ... (Ngô vương do dự một thoáng rồi gật đầu) Khanh nằm đây đừng động, chờ trẫm đi một lúc rồi trở lại.
- Thiếp vâng lời quân vương.
Ngô vương lại mặc áo giáp, từ từ bước ra khỏi tẩm cung. Tây Thi nhìn theo phía sau nhà vua, tự nhiên ứa nước mắt.
Nhà vua nước Ngô bước xuống Cô Tô đài với bước chân dường như nặng lắm. Lòng nhà vua cũng thế, lòng Ngài như từ trên cao rớt xuống... Tây Thi bỗng có thái độ thất thường như thế khiến nhà vua trĩu lòng, cảm thấy không còn nắm vững được gì.
Thế nên, lúc bước xuống Cô Tô đài, nhà vua bỗng sờ đốc kiếm, quay nhìn đài cao sừng sững trong sấm chớp mưa giăng, Ngài hít một hi dài.
Một làn chớp nháng sáng lòa một góc mái góc Cô Tô.
Trong tư tưởng hoang mang, trong ý nghĩ thảng thốt, nhà vua lẩm bẩm:
- Phải chăng những ngày tốt đẹp của Cô Tô đài đã qua rồi?
- Năm nào, lúc Cô Tô đài toàn thịnh thì Việt vương Câu Tiễn giữ ngựa dưới đài...
- Trước đây chẳng bao lâu, trong cuộc hội minh các chư hầu ở Hoàng Trì, Ngô vương của Cô Tô đài đã trở thành bá chủ thiên hạ... Phải chăng sự nghiệp bá vương cũng chỉ như làn chớp kia, lóe sáng rồi thôi?
- Phải chăng bốn đời nhà Ngô đều chết trong tay người Việt?
Bao nhiêu ý nghĩ xông đùa vào óc nhà vua rồi lần lượt biến mất. Ngài nhìn Cô Tô đài hùng vĩ, chợt cảm thấy ngày tàn, đường cùng...
Nhà vua chợt nhớ đến lời Tây Thi: “Đại vương hùng vĩ như Cô Tô đài!...” Cô Tô đài hùng vĩ có thể ngã đổ chăng?
- Đại vương! - Lộc Xuất đứng nghiêm trong mưa bỗng cất tiếng gọi. Lẽ tự nhiên là tên cận vệ ấy nôn nóng, muốn hối thúc Ngô vương lên xe.
Ngô vương quay lại, liếc qua cây mâu trong tay Lộc Xuất, thứ binh khí mà quân Ngô chuyên dùng, thứ binh khí đã được Tôn Võ và Ngũ Tử Tư cải tiến. Chiến sĩ nhà Ngô đã từng dùng loại trường mâu ấy tung hoành thiên hạ. Ngô vương thầm nghĩ: “Bây giờ họ phải dùng trường mâu để bảo vệ Cô Tô thành!”.
Lộc Xuất trịnh trọng nói:
- Kính mời đại vương lên xe... Ngoài thành đang đánh dã chiến!
Ngô vương nhảy lên xe, đứng thẳng, dường như muốn mượn thế đứng thẳng để tỏ ra ngài còn mạnh. Đoạn quay nhìn Cô Tô đài lần nữa. Lúc xe chuyển bánh, nhà vua mới hỏi:
- Ai đem quân ra thành giao chiến?
- Tâu, tướng quân Tích Lặc, tướng quân Thổ Tang...
Ngô vương không nói gì thêm. Chiến xa lăn bánh trong mưa, đỉnh nóc Cô Tô đài dần dần nhạt nhòa. Ngô vương chậm rãi đưa tay mặt áp ngực, khấn:
- Lạy trời phù hộ cho Tây Thi bình an! Tội nghiệp, nàng đã xem việc phản loạn của Câu Tiễn là tội lỗi của chính mình!
***
Ngoài thành Cô Tô, quân Ngô đã lập hai dinh trại tựa lưng vào vách thành. Trong hai dinh có một ngàn bộ binh. Kể từ ngày vào đông, quân Việt không mở cuộc tấn công tại hai dinh lập theo thế ỷ giác đó. Mấy lần quân Việt công thành đều cố tránh hai nơi ấy. Nhưng vào lúc mưa to, Gia Kê Dĩnh lại đem quân tấn công. Ngoài ra có hai cánh quân của Tiết Dung và Phàn Lũy đốc lực công thành. Thế nên, Tích Lặc tức giận, kéo quân ra đánh vùi với quân Việt trong mưa. Vương Tôn Hùng liền phái tướng quân Thổ Tang đem binh áp trận.
Cuộc chiến đang hồi quyết liệt. Lúc Ngô vương lên thành thì Tích Lặc đã đánh lui binh của Gia Kê Dĩnh. Nhưng Câu Tiễn lại đích thân xua quân cảm tử đến đẩy lùi Tích Lặc. May có quân của Thổ Tang đến kịp, hỗn chiến với Việt binh.
Xem qua quân số thì Việt lấn thế hơn khiến Ngô vương nghiến răng nói:
- Vương Tôn Hùng, trẫm muốn kéo quân xông ra!
- Đại vương! Xin ở trên thành giám thị, để hạ thần kéo quân tác chiến. Chúng ta hãy đề phòng cánh quân của Phạm Lãi hãy còn chưa xuất hiện, cánh quân ấy mới là bộ phận chủ lực.
Vương Tôn Hùng không muốn cho nhà vua mạo hiểm giữa mưa to gió lớn, e có điều thất thố. Nhưng Ngô vương hậm hực:
- Trẫm đi, trẫm muỗn cùng Câu Tiễn thử sức một phen! Trẫm muốn đánh Câu Tiễn từ trên xe ngã xuống! (Nhà vua quay lại bảo Lộc Xuất) Truyền lệnh tập trung đội Hiền Lương!
Vương Tôn Hùng ái ngại, biết mình không thể ngăn trở quân vương. Đồng thời người cũng mong cho quân vương có thể đánh tan đội quân của Câu Tiễn. Phù Sai từ bao giờ đã là một người thiện chiến, dũng cảm. Trải bao phen chiến trận, nhà vua luôn luôn chiến thắng vẻ vang!
Thật vậy, Ngô vương hãy còn hùng phong lẫm liệt. Lúc ngài thống lĩnh đội Hiền Lương và quân giữ thành ra thành, ngài nhận trường mâu, thét lên một tiếng vang dài dường chuyển đất long trời. Từ đó, quân Ngô dốc sinh lực tiến tới.
Quân Việt tức khắc lui lại song không phải lui vì thất bại. Đợi khi Ngô vương xua quân đuổi theo, Gia Kê Dĩnh liền trở lại chống trả, Câu Tiễn cũng quay lại phản công.
Hai cánh quân giáp chiến trên vùng đất sũng nước có hơn một giờ rồi mạnh ai nấy rút về vị trí cố thủ. Bộ hạ của Tích Lặc bị thuơng vong hơn ngàn trong khi quân Việt phơi xác tại trận hơn trăm. Ngoài ra, phó tướng Việt Phàn Lũy đã bị Ngô vương dùng trường mâu đâm chết. Lộc Xuất kéo luôn thây tướng địch vào thành để triển lãm. Trận đánh ấy không phân thắng bại tuy Ngô vương có phần ưu thế. Song quân Ngô không thể chiến đấu đến lúc phân thắng bại vì trận mưa lớn quá, nước ngập sâu trận địa khong hai thước, quân sĩ bị ngập trong sình nước, không sao hoạt động được.
Vua hai nước đều bực bội chuyện rút lui trước khi phân thắng bại. Bởi vì cả hai đều hận ngập lòng.
Ngô vương muốn tự mình đâm chết kẻ vong ân bội nghĩa Câu Tiễn. Việt vương cũng muốn tự mình chặt chết kẻ thù Phù Sai để rửa mối nhục Hội Kê, rửa cả ba năm làm nô lệ giữ ngựa cho nhà Ngô. Rửa luôn mối nhục của toàn thể thần dân nước Việt đã bị quân Ngô lăng nhục. Năm xưa, quân Ngô đóng ở Hội Kê giám thị như là ngồi trên đầu trên cổ dân Việt, mối nhục ấy, mối thù ấy không rửa sạch không được.
Nhưng nước ngập sâu quá, tạm thời tách đôi hai kẻ thù.
Ngô vương vào thành hạ lệnh dùng trường mâu đâm xuyên ngực Phàn Lũy treo thây trên mặt thành. Câu Tiễn trở về dinh, họp liền cận thần và tướng lãnh.
Câu Tiễn trút bỏ mũ sắt, tóc xòa ra, dĩ nhiên là ướt hết cả. Nước mưa chảy rỉ xuống từng giọt, từng giọt. Quân phu nhân đem khăn khô đến lau cho chồng nhưng Việt vương xua tay ngăn lại, đoạn trịnh trọng tuyên bố:
- Hôm nay, trẫm nhìn thấy xe của Phù Sai tại chiến trường. Nếu không vì nước ngập quá sâu, trẫm đã theo kịp Phù Sai, kẻ thù của chúng ta. (Câu Tiễn nghiến răng nói thêm) Người Việt chúng ta từng bị Phù Sai bắt làm nô lệ, cái ăn, cái mặc của chúng ta đều bị cướp giật. Hơn nữa, đến cả con gái chúng ta cũng phải đem cống hiến, hai mươi năm rồi, chúng ta đều nhớ!
Căm thù được nung nấu bao năm giờ như bốc cháy mọi người có mặt, Việt vương nói thêm:
- Trẫm phải bằm nát Phù Sai, trẫm phải dẫm nát Cô Tô. Đêm nay hay sáng mai, chúng ta phải phá cho được Cô Tô thành.
Bấy giờ, Phạm Lãi mang vải dầu vừa đến, tự nhiên đưa tay có ý bảo Việt vương ra lệnh tấn công.
- Thiếu Bá đến đây! - Việt vương nhường chỗ để Phạm Lãi đứng giữa trực tiếp truyền lệnh.
Phạm Lãi không ngần ngại đứng thay thế chỗ nhà vua, quay lại nói với Văn Chủng:
- Văn đại phu, tôi cần phái ba ngàn quân công thành.
- Chiến trường ngập nước rất sâu.
- Thì lội nước vào tấn công. Đêm nay, chúng ta phi tiến đánh không ngừng (Phạm Lãi cương quyết nói thêm) Văn đại phu, ba ngàn quân ấy do đại phu thống lĩnh.
Văn Chủng vội vàng nói “Tuân lệnh”. Phạm Lãi tiếp:
- Văn đại phu phải giữ chiến trường cho được ba giờ, tôi sẽ cho người đến thế. Nếu quân Ngô xuất thành, đại phu cho quân lui lại năm dặm (Phạm Lãi quay sang Tiết Dung) Bây giờ Tiết tướng quân cho quân mình nghỉ, ba giờ sau thì kéo đến thế cho Văn đại phu.
Cả hai phụng mạng đi rồi, Phạm Lãi hướng về Gia Kê Dĩnh:
- Tướng quân theo tôi!
Việt vương cẩn thận hỏi lại:
- Thiếu Bá đã chuẩn bị bên ấy ra sao?
- Bước đầu chuẩn bị kể như xong, nhưng kế hoạch dự định của chúng ta phải trễ lại vài giờ vì mực nước cao ngoài mức chúng ta dự liệu. (Phạm Lãi hơi run giọng) Thần mong vào lúc hừng sáng thì có thể...
- Ô...! Lòng bàn tay Câu Tiễn xuất mồ hôi.
Phạm Lãi cố ngăn xúc động, nói thêm:
- Bây giờ, xin đại vương dẫn binh sang chỗ đất cao. Lúc thần phá thành thì cuộc chiến trong thành là do Đại vương làm chủ.
- Câu Tiễn tuân mạng!
Việt vương đáp giọng cung kính như bao binh sĩ dưới quyền chỉ huy của Phạm Lãi. Quân phu nhân bỗng bước tới gọi:
- Phạm Thiếu Bá!... (Quân phu nhân sụp quỳ trước Phạm Lãi) Mối thù, mối nhục của nước Việt toàn nhờ một tay Thiếu Bá rửa giùm!
Phạm Lãi liếc qua Việt vưong, đoạn cúi đỡ quân phu nhân đứng lên:
- Kế hoạch sau cùng của Phùng Đồng đã có tác dụng, tạo lời đồn đại rất thành công. Quân phu nhân! Xin phu nhân theo đại vương lên chỗ gò cao thâu nhận thuơng binh.
Phát lệnh xong, Phạm Lãi vội vã ra đi, đi về một nơi bí mật. Gia Kê Dĩnh cũng theo ra nói với bốn ngàn binh sĩ đã nai nịt gọn gàng.
Trời vẫn tiếp tục đổ mưa, sét chớp sáng lòa, sấm gầm ầm ĩ.
Trên Cô Tô đài, đồng hồ đựng cát tính giờ chỉ còn lại phân nửa, có nghĩa là nửa đêm.
Tây Thi đang ngủ say... Từ hoàng hôn nàng đã ngủ rồi, tuy thỉnh thoảng có bị ác mộng, song nàng chưa một lần tỉnh hẳn. Phần các cô gái Việt trên Cô Tô đài thì tinh thần ai nấy hết sức căng thẳng trong chờ đợi. Họ đứng tựa nhau nhìn ra nguyên dã ngoài thành có đám đông người di động.
Triền Ba nói:
- Đến rồi... rốt cuộc rồi quân ta cũng đến!
Các cô cứ nhìn, cứ nhìn, không dám làm kinh động Tây Thi. Sau khi rời Cô Tô đài, Ngô vương đã lần lượt phái đến ba nhóm trông chừng Tây Thi. Ngài cũng ra lệnh cho tất cả thị nữ phải bảo vệ Tây Thi.
Đúng chánh tý, Tây Thi lại thấy ác mộng, choàng dậy. Di Quang bước tới đỡ nàng, gọi:
- Tây Thi!
Tây Thi mở to mắt nhìn bốn bên, hỏi lại:
- Đại vương đâu?
- Đại vương ở trên thành (Di Quang không nói thật) Bên ngoài rất yên tĩnh.
- Yên tĩnh? Yên tĩnh...
Tây Thi lẩm bẩm rồi lại ngã xuống ngủ nữa. Di Quang quay nói nhỏ với Triền Ba:
- Ban chiều, mình thật sợ chị Tây Thi phát điên.
Trầm ngâm lúc lâu, Triền Ba mới đáp:
- Tây Thi hạnh phúc hơn chúng ta, lại được xem quan trọng hơn mọi người chúng ta.
- Mong cho quá khứ mau qua.
Di Quang đáp xong, bảo hai thị nữ khác nấu cháo cho Tây Thi, riêng nàng đến bên cửa sổ nhìn ra. Triền Ba bước theo hỏi nhỏ:
- Bây giờ làm sao rồi?
- Không có một lằn chớp, trời tối quá, không nhìn thấy gì cả.
Triền Ba nói giọng đầy tự tin:
- Trận chiến không thể ngưng ngang như thế được.
Qua làn chớp sáng, các cô gái Việt lại nhìn thấy phía ngoài thành, có quân sĩ kéo đi trong mưa...
Vào giờ dần, Tây Thi thức ăn cháo. Bấy giờ, Di Quang và Triền Ba đã ngủ ngồi tựa bờ tường Cô Tô đài. Tây Thi không muốn làm kinh động cả hai, ăn cháo xong nàng lại lên giường dỗ giấc.
***
Trước lúc hừng sáng, sau cơn mưa dứt chẳng bao lâu, một tiếng nổ long trời làm thức giấc hết mọi người trong Cô Tô thành đang say ngủ. Tiếng nổ dường như làm rung rinh cả Cô Tô đài hùng vĩ khiến Tây Thi bật dậy, kinh sợ hỏi:
- Gì thế?
Không một ai có thể trả lời nàng. Các cô đều lấm lét run run. Nhưng ở mỗi cô đều tỏ vẻ “không có chuyện gì” nên Tây Thi nằm lại.
Nhưng rồi nàng nghe tiếp tiếng rầm rập huyên náo như sóng trào nước lũ, như vạn mã bôn đằng. Nàng lại bật dậy và lần này thì nàng chạy thẳng đến bên cửa sổ.
Trước lúc hừng sáng, bầu trời vẫn còn mờ mờ khiến nàng không sao trông thấy cảnh tượng bên ngoài thành. Nhưng tiếng ồn ào không dứt nên Tây Thi vừa choàng áo, vừa truyền cho thị nữ đi đòi quan thị vệ lên Cô Tô đài.
Trên Cô Tô đài chưa có tin báo cáo, dưới Cô Tô đài hãy còn yên tĩnh, song bằng trực giác, Tây Thi cảm thấy tiếng huyên náo kia là triệu chứng bất thường. Vì vậy, nàng bước ra bình đài. Di Quang, Triền Ba và bốn thị nữ lật đật bước theo khuyên nàng trở vào.
Nhìn thần sắc của sáu cô bấy giờ hết sức khẩn trương, Tây Thi lấy làm lạ hỏi:
- Các người làm gì thế?
Triền Ba cố trấn tĩnh nói:
- Chị nên vào nghỉ đi!
Đúng lúc ấy lại có một tiếng nổ như sơn băng vọng lại.
Tây Thi run rẩy, từ tiềm thức nàng đã có sự run sợ, nàng thất thanh kêu lên:
- Cô Tô thành sập rồi!
Đúng lúc ấy, quân thị vệ dưới Cô Tô đài rung chuông báo động. Đó là tiếng chuông báo động đầu tiên trong lịch sử Cô Tô.
Kế có tin báo quân Việt thừa lúc nước sông dâng cao, dùng bè cây phá hủy thư môn, bao nhiêu doanh trại của quân Ngô ngoài thành chìm trong nước lũ. Quân trong các dinh tự nhiên bị nước cuốn trôi.
Qua thoáng sững sờ, Tây Thi chạy xốc vào phòng, gỡ Thuộc Lâu bửu kiếm, đoạn mang hia vội vã chạy ra. Di Quang và Triền Ba lật đật chạy theo ngăn cản, song đều bị Tây Thi giận dữ xô ra, đồng thời nàng gọi quan thị vệ chuẩn bị xe.
Di Quang cố nắm áo Tây Thi kêu to:
- Tây Thi! Chị định đi đâu?
- Tôi muốn đến bên đại vương, đừng ngăn cản.
Tây Thi dốc toàn lực vùng ra, chạy xuống. Nhưng Triền Ba nhảy theo chận lại:
- Tây Thi!
- Mấy chị muốn gì? (Tây Thi nổi giận) Tôi đi... phải để cho tôi đi.
Di Quang nghiêm giọng hỏi:
- Chị đi, có thể giúp gì cho chiến trận?
Câu hỏi ấy làm cho Tây Thi dừng bước. Thành thật mà nói, nàng không biết nàng đi để làm gì. Chứ theo thói thường, nàng đi chỉ làm phiền toái thêm cho nhà vua. Nhưng cũng thành thật mà nói lúc nâng kiếm chạy ra, nàng thoáng có ý: “Cùng chết một chỗ với quân vương!”. Song khi nghe Di Quang hỏi thì nàng thấy hoang mang. Cuộc diện chưa rõ thế nào, lẽ ra nàng không nên xúc động như vậy.
Bấy giờ, có một báo sứ từ xa chạy bay đến. Tây Thi đứng lặng trên bình đài chờ người ấy tới. Người ấy đã bị hồng thủy và bè cây phá thành đẩy giạt vào, được Ngô vương đặc biệt phái đến bảo Tây Thi cứ bình tĩnh ở trên Cô Tô đài, chờ nhà vua đích thân trở lại.
Tây Thi hỏi:
- Lúc người vào thành, người thấy gì?
- Bẩm, quân Việt dùng hơn trăm bè cây lớn, mượn sức nước dâng cao, đẩy mạnh, tông sập bờ thành. Ngoài thành nước ngập lênh láng, quân ta chết rất nhiều.
- Đại vương ra sao?
- Đại vương và đại phu Vương Tôn Hùng lui vào giữ phía bên trong. Tướng quân Tích Lặc đang chiến đấu với quân Việt. (Báo sứ thở hổn hển tiếp) Đại vương nói nước sông lên nhanh sẽ thối mau, xin quân phu nhân yên tâm.
Khoảng một giờ sau chợt có lời đồn đại: Anh hồn của Ngũ Tử Tư chỉ huy quân Việt mượn sức nước để phá thành. Lời đồn loan nhanh khắp Cô Tô đài.
Tây Thi ảo não, siết chặt cán kiếm Thuộc Lâu, lảo đảo bước vào phòng.
Bấy giờ, vách thành bên trong cũng bị bè cây phá vỡ. Tướng quân Tích Lặc của nhà Ngô đã chết ngoài thành. Ngô vương và Vương Tôn Hùng gom quân lại một chỗ, bị nước trào và quân Việt bủa vây nên phải vừa đánh vừa rút lui sang hướng Tây Bắc. Địa thế bên ấy hơi cao, đỡ bị nạn hồng thủy uy hiếp.
Vương Tôn Hùng đề nghị đột xuất phía Tây để rút về hướng Bắc, bỏ Cô Tô thành mà về giữ Tích Sơn rồi sẽ tính chuyện phản công.
Nhưng Ngô vương bỗng thét to:
- Trẫm không thể bỏ Cô Tô thành. Không! Trẫm phải chiến đấu tại đây chứ không thể giao kinh thành nhà Ngô cho Câu Tiễn. Nó... nó vốn là thần nô của trẫm!
- Đại vương! Thành Cô Tô đã bị phá vỡ, quân ta chết chìm trong nước bốn năm phần, Đánh bây giờ thì chúng ta không có một cơ hội chắc chắn nào. Song sau khi về Tích Sơn chúng ta gom quân phía Bắc thì có thể phn công lấy thành chiếm đất lại.
Ngô vương trợn mắt, nghiến răng, trông phát sợ. Nhưng nhà vua không nói ra một tiếng nào mà chỉ có đôi môi nhấp nháy, mũi phùng ra.
Vương Tôn Hùng trầm giọng nói thêm:
- Đại vương! Vì tương lai, bây giờ chúng ta phải nhẫn nhịn. Gom quân phía Bắc của chúng ta thì cũng gần ba ngàn, sau khi nghỉ ngơi, chúng ta có đủ lực lượng phản công.
Ngô vương hoang mang nhìn khắp bốn bên, đoạn đau khổ gật đầu. Vương Tôn Hùng liền vẫy đại kỳ, truyền lệnh cho tàn quân kéo về hướng Tây Bắc.
Sau khi phá vỡ tường thành Cô Tô, quân Việt như nước vỡ bờ, mặc sức tung hoành. Bè cây của Phạm Lãi hủy diệt khá nhiều nhà dân. Số quân Việt trên bè cứ gặp chỗ nước cạn thì nhảy xuống, chạy ào tới với ý định chận đường rút lui của Ngô vương.
Quân Ngô giữ thành đã bị đánh tách thành bảy tám nhóm. Sau cái chết của Tích Lặc, tàn quân do Ngưu Cân thống lĩnh, rút vào giữ khu trung tâm. Nhưng số quân dưới quyền Ngưu Cân không còn tới ba ngàn, cộng với số quân của Ngô vương và Vương Tôn Hùng vẫn không đến năm ngàn. Tất cả cùng rút về hướng Tây Bắc, vừa chạy vừa khổ chiến, số tổn thất hàng giờ lên đáng sợ.
Tướng quân Thổ Tang cố tìm cách gom quân tản lạc để bổ sung, nhưng quân Việt kéo tới tấn công càng lúc càng đông.
Lúc chúa tôi nhà Ngô xông phá trùng vây phía Tây thì trời gần trưa. Cuộc đột phá ấy làm lớp chết lớp bị thuơng thêm cả ngàn quân nữa.
Vương Tôn Hùng giục ngựa chạy đến bên Ngô vương nói:
- Đại vương! Chúng ta mau nhắm thẳng hướng Tích Sơn thối gấp! Đến Tây thự thì có thể gom góp quân sĩ tn lạc độ khong ba bốn ngàn.
-Ờ!...
Ngô vương quay nhìn Cô Tô thành, đó đây lửa khói xông lên. Nhà vua bỗng quay nhìn về Cô Tô đài hùng vĩ, nguy nga... Bóng hình Tây Thi chợt hiện lên trong đầu óc Ngài.
Thời gian kịch chiến cơ hồ làm cho nhà vua quên mất Tây Thi trên Cô Tô đài. Cô Tô đài bị hủy diệt có thể kiến tạo lại. Nhưng Tây Thi lại là một phần của cuộc đời nhà vua! Mất nàng, cuộc sống nhà vua không còn ý nghĩa gì. Một thoáng nhớ ra cũng là một thoáng quyết định, Ngô vương nghiêm trang, cả quyết phát lệnh:
- Tấn công, tiến về Cô Tô đài!
- Đại vương!
Vương Tôn Hùng cả kinh kêu lên. Phải trải bao gian nan mới phá được trùng vây, bây giờ lính ít quân thưa, người ngựa mệt nhoài mà phải tấn công để tiến về Cô Tô đài thì đâu là chuyện dễ!
Ngô vương không để cho Vương Tôn Hùng kịp nói:
- Tấn công ngay, tiến về Cô Tô đài!
Trong cơn nguy hiểm như ngàn cân treo sợi tóc, Vương Tôn Hùng không tuân lệnh được, cất cao giọng nói:
- Đại vương! Chúng ta chỉ còn mấy ngàn, không thể mở cuộc tấn công.
- Phải tấn công với bất cứ giá nào, trẫm cũng phải lên Cô Tô đài. Nếu có phải kết thúc đời mình như vua Trụ trên Lộc Đài, trẫm cũng chịu! (Ngô vương không một chút nghĩ ngợi nói tiếp) Bây giờ chúng ta tấn công!
Lời phản đối của Vương Tôn Hùng hoàn toàn không được nhà vua xem vào đâu. Vì Tây Thi, bất cứ gian nan nguy hiểm nào, nhà vua vẫn sẵn sàng hứng chịu.
Ngô vương hướng dẫn quân của Thổ Tang xoay làm tiền đội trước để Vương Tôn Hùng đoạn hậu, từ góc Tây Bắc kéo thẳng vào. Hành động ấy hoàn toàn ngoài ý quân Việt. Sau cả giờ tấn công, Ngô vương đã đánh tan hơn ngàn quân Việt, lọt vào thành trở lại. Nhưng khi quân Việt phát giác Ngô vương còn ở đó thì kéo rốc đến bao vây.
Tiết Dung đến trước nhất, truyền lệnh cho ba quân ngăn đường tiến của Ngô vương. Không ngờ Ngô vương trên đường đánh chẻ thẳng vào lại cứu được một cánh quân Ngô bị vây. Hợp hai cánh quân chiến đấu hơn nửa giờ, Ngô vương tiến bước được, còn cách Cô Tô mỗi lúc một gần. Có thể nhìn thấy người trên Cô Tô đài rồi, Ngô vương nhìn thấy trên bình đài có khoảng mười mấy người.
Ngô vương mừng rỡ kêu lên:
- Cô Tô đài ở trong tầm tay chúng ta! Chắc chắn rồi, chúng ta xung phong!
Lộc Xuất huy động trường mâu, hai mươi chiến xa vọt tới.
Tiết Dung xuất hiện, kêu đích danh Ngô vương khiêu chiến, Ngô vương huy động trường mâu xốc ra thét lên một tiếng vang trời, đâm ngã danh tướng nước Việt rớt từ trên xe xuống.
Mắt thấy cánh quân ấy vừa tan rã, Ngô vương chưa kịp mừng thì một cánh quân khác lại kéo tới. Cánh này do Phạm Lãi thống lĩnh, không trực tiếp giao chiến mà chuyện đầu tiên là lăn cây to đến chận đường. Đoạn dùng tên bắn vào quân Ngô khiến Ngô vương đã đến gần đài Cô Tô rồi vẫn phải trở lui.
Tiến tới khó khăn biết bao nhiêu, song khi rút ra thì nhanh như chớp!
Ngô vương quá giận, hối hận năm xưa đã không giết Phạm Lãi. Năm xưa, Ngũ Tử Tư đã khuyên nhà vua, hoặc phải giết Phạm Lãi, hoặc giữ mà dùng. Năm xưa, Ngô vương chẳng nghe lời khuyên đó để bây giờ bị chính Phạm Lãi đánh lui.
Nỗi bất hạnh của Ngô vương nào phải chỉ bấy nhiêu. Quân đoạn hậu của Vương Tôn Hùng đã bị quân Việt tập kích. Vương Tôn Hùng phải khổ chiến trong góc chật hẹp, cả giờ sau mới hợp được với đoàn quân của Ngô vương.
Bấy giờ, chúa tôi nhà Ngô lại bị đẩy bật ra ngoài thành về phía Bắc! Mình đẫm mồ hôi nhưng Ngô vương vẫn gào thét:
- Đánh về hướng Cô Tô đài! Đánh về hướng Cô Tô đài!
Bây giờ, Vương Tôn Hùng không dám có lời đề nghị nào. Bởi vì con đường rút lui về Tích Sn đã bị chận nghẹt, muôn ngàn lần không thể rút lui được. Hơn nữa, buổi chiều mùa xuân sắp đến rồi.
Tiểu thần Lộc Xuất đánh xe cho Ngô vương lên tiếng:
- Tâu đại vương, chúng ta nên đến bên núi nhỏ tạm nghỉ, chờ đêm sẽ tấn công vào thành.
Nơi Lộc Xuất đề nghị là một gò đất cao, núi đất, Ngô vương đã chiến đấu từ tờ mờ sáng đến chiều kiệt lực rồi. Huống chi quân đội của Phạm Lãi không ngừng tiến tới, ngoài việc rút sang tòa núi ấy thật không còn đường thứ hai.
Chinh chiến lâu năm, Vương Tôn Hùng bỗng sinh nghi... Lẽ nào quân Việt không chiếm vùng cao ráo ấy mà lại để cho mình? Chuyện ấy không hợp lý chút nào. Song đã hết đường rút lui, Vương Tôn Hùng bất dĩ phải đồng ý rút về núi nhỏ ấy là vùng cao ráo nhất.
Bại binh Ngô lảo đảo đến nơi, kiểm điểm lại thì còn hơn hai ngàn. Ngô vương nhìn về Cô Tô đài nguy nga, có thể thấy nhưng không sao đến được.
Mặt trời lặn khuất về Tây, Cô Tô đài nhạt nhòa trong ánh nắng rớt. Thời tiết dường đùa cợt Ngô vương, một đêm mưa to, một buổi sáng u ám để từ
quá trưa trở đi thì trời lại trong lành. Mặt trời như được lau rửa để bây giờ huy hoàng lạ!
Mặt trời trầm khuất, ánh nắng chiều tàn in bóng
Ngô vương ngả dài trên đất ốm như thân trúc. Cô Tô đài có thể nhìn thấy nhưng nhà vua tiến đánh không đến được Cô Tô!
Bấy giờ, bỗng có hơn trăm bại binh Ngô chạy đến núi đất tạm đóng quân. Trưởng cánh quân ấy bị trúng tên ở tay trái, sấn đến trước Vương Tôn Hùng bẩm:
- Đại phu! Bốn bên đây đều có quân Việt!
Ngô vương đứng cách Vương Tôn Hùng hơn trượng, nghe được câu nói ấy. Song nhà vua không biểu lộ gì, đôi mắt cứ dõi nhìn về ánh chiều tàn rơi rớt trên mái ngói Cô Tô đài.
Vương Tôn Hùng trịnh trọng tâu:
- Đại vương! Chúng ta phi lập tức công phá trùng vây!
Ngô vương vẫn không nói gì.
Lâu lắm, lâu lắm... ánh nắng rớt đã rút về tận phương trời nào, Ngô vương mới như từ mộng choàng tỉnh, lẩm bẩm:
- Tây Thi còn ở trên Cô Tô đài đấy!
Câu nói rất nhỏ song Vương Tôn Hùng nghe được và hiểu ra. Nhà vua nhìn Cô Tô đài không phải vì luyến tiếc đài Cô Tô, mà vì một người khiến Vương Tôn Hùng thuơng cảm. Nếu không vì Tây Thì thì giờ này chúa tôi nhà Ngô đã ra khỏi trùng vây, rời bỏ Cô Tô thành song với mảnh dư đồ vẫn còn có thể dựng lại sự nghiệp. Nhưng, ngày tàn rồi, cơ hội qua rồi, mãi đến giờ này Ngô vương vẫn lưu luyến nơi đây! Ngày tàn rồi, đường cùng rồi, nếu còn ở thêm một phút giây nào tất nhiên sẽ lãnh kết cuộc bi thảm.
Bỗng nhiên, Vương Tôn Hùng nhớ đến lời trăn trối của Ngũ Tử Tư. Vị lão thành ấy từng chỉ trích việc thâu nhận gái Việt, cho gái Việt sẽ là cái họa làm cho mất nước. Chưa bao giờ Vương Tôn Hùng nghĩ thế, song giờ này lão hiểu ra nguyên do hai tiếng “họa thủy”. Không phải ở tự Tây Thi có sự xúi giục nào, mà do ở chính Ngô vương vì Tây Thi đến mất sáng suốt.
Sắc đêm dần xuống. Sắc đêm trùm phủ Cô Tô đài.
Ngô vương bỗng quay lại hỏi Lộc Xuất:
- Từ đây còn cách Cô Tô đài bao xa?
- Muôn tâu, khoảng bảy... hay tám dặm!
Trong sắc hoàng hôn buồn, Ngô vương phát tiếng thở dài. Nhà vua đã từng đi mấy ngàn dặm để đến Trung Nguyên xưng bá mà bây giờ không sao đi nổi bảy tám dặm đường!
Gió đêm vi vu, vi vu...
Bỗng nhiên có tiếng còi sừng vang lên như bốc tận mây. Tiếng còi chưa dứt, một cánh quân Việt xông đến tấn công vùng núi đất.
Vương Tôn Hùng vung mâu, hú một tiếng dài quát:
- Ta đi!
Cùng lúc ấy, tám chín dũng sĩ đội Hiền Lương và Lộc Xuất cũng tỏ ra sẵn sàng. Lộc Xuất quỳ trước Vương Tôn Hùng, trịnh trọng xin ra nghinh địch.
Liếc qua Lộc Xuất và toán dũng sĩ muốn theo, Vương Tôn Hùng rốt cuộc phả gật đầu. Do đó, có hơn trăm dũng sĩ đội Hiền Lương hướng dẫn hai trăm quân xông vào quân Việt.
Vương Tôn Hùng biết rõ đây là trận đánh liều mạng. Lão hoành mâu đứng lặng, chờ đợi kết quả cuộc chiến tàn khốc này.
Liền đó, hai bên tả hữu lạicó quân Việt xuất hiện. Họ dùng tên bắn vào quân Ngô. Kế đến, phía sau cũng có tiếng còi sừng. Câu Tiễn cùng Phạm Lãi, Văn Chủng xuất hiện với vô số ánh đuốc.
Vương Tôn Hùng liếc qua nhà vua. Tay Ngô vương run run đè lên đốc kiếm, không phả sợ mà là giận. Cùng lúc ấy, cánh quân của Lộc Xuất đã bị tiêu diệt như cá lớn nuốt cá bé, như đá chìm đại dương.
Về phía Cô Tô đài, từ sau giờ ngọ, cuộc chiến thật ác liệt. Quân hai bên tử thuơng có trên ngàn nhưng quân Việt cứ đạp nhầu trên máu không ngừng tiến lên. Quân Ngô giữ thành cũng quyết liệt chẳng kém, còn tấc đất nào giữ tấc đất ấy, năm trăm chiến sĩ thuộc đội Hiền Lương trấn giữ bên ngoài Cô Tô đài đều chiến đấu đến chết cả Toán quân trung ương lui vào giáo trường và miếu mạo, đại diện dưới Cô Tô đài dùng tên bắn ngăn đà tiến của đối phương. Quân Việt liên tiếp xung phong song không có cách nào đến gần Cô Tô đài được.
Lúc mặt trời sắp lặn, Bá Hi xuất hiện với tám mươi xe đi an nhiên qua hàng rào quân Việt đến dưới Cô Tô đài.
Gia thần của Bá Hi là Phùng Đồng ngang nhiên nhả từ trên xe xuống ra lệnh cho quân phòng vệ ngưng chiến. Cháu của Ngô vương là tướng quân Tín có nhiệm vụ trấn giữ Cô Tô đài bước tới hỏi nguyên do. Phùng Đồng hất mặt đáp:
- Đại vương bị vây, ra lệnh cho Thái tể cầu hòa với Việt. NgưuCân đã chết trong trận địa rồi.
Tín tướng quân hoài nghi, nhìn vào xe Bá Hi, đáp:
- Nhưng ta có nhiệm vụ phòng vệ ở đây!
Tên đánh xe của Bá Hi từ bên phả nhả xuống, bất ngờ dùng trường mâu đâm chết Tín; đoạn vẫy tay cho hai ngàn tráng sĩ giám thị chặt chẽ bốn vị quan giữ đài. Bá Hi đứng trên xe tuyên bố:
- Vương lệnh là Ngô - Việt giảg hòa, ba quân tướng sĩ phả tập trung vào giáo trường chờ đại vương.
Quân Ngô tuy có nghi ngờ và bất an, song sau một lúc do dự rồi cũng nghe lời Bá Hi. Tên đánh xe đâm chết tướng quân Tín vứt trường mâu, rút kiếm đeo lưng ra vẫy lên cho khoảg hai trăm binh sĩ từ phía sau đoàn xe của Bá Hi chạy tới. Tuy họ mặc đồ quân Ngô đó, song rõ ràng họ không phả là người Ngô.
Phùng Đồng quay nói với Bá Hi:
- Thái tể thu dọn bên dưới, để tôi lên đài giả quyết.
Phùng Đồng áp giảihai tên võ sĩ lên đài sau khi số quân vừa mới tước khí giới và trói xong họ.
Bấy giờ, Tây Thi được các cô gái Việt bảo vệ kiểm soát rất chặt chẽ. Từ sáng đến tối, nàng không có một giây phút nào được ở riêng một mình. Bởi các cô gái Việt đã được lệnh đặc biệt phải trông chừng nàng.
Lúc Phùng Đồng xuất hiện, Tây Thi vụt nhảy nhổm. Cùng lúc ấy, một võ sĩ sấn tới trước hành lễ với nàng. Võ sĩ ấy là người vừa giết Tín, là Tử Thường, gia thần của Phạm Lãi. Lúc Tây Thi ở Hội Kê, cả hai có gặp nhau song mười bảy năm phân ly làm cho nàng không sao nhận ra.
Hành lễ xong, Tử Thường cao giọng nói:
- Tây Thi đại cô! Gia thần là Tử Thường, phụng mạng Phạm đại phu đến bảo vệ đại cô!
Phạm Lãi đến Cô Tô đài thì tự nhiên là Cô Tô đài đã mất! Ngô vương cũng bị hủy diệt rồi! Trong giây phút ấy, Tây Thi chợt cảm thấy trống hoang, mất hút, tự đáy lòng nàng có một luồng ớn lạnh chạy rần toàn cơ thể.
Di Quang ra hiệu, có hai thị nữ sấn đến đỡ kịp Tây Thi. Phùng Đồng nói thêm:
- Tây Thi! Thiên đạo tuần hoàn, rốt cuộc rồi chúng ta cũng đến được Cô Tô. Tây Thi cô nương đã vì nước lập được công...
Tây Thi run rẩy hỏi:
- Ngô vương đâu?
- Ngô vương... (Phùng Đồng nhếch cười). Phù Sai bị vây, chẳng bao lâu nữa ắt cũng xong!
Gần như bao nhiêu máu huyết chạy dồn lên đầu óc, Tây Thi hổn hển, song nàng cố gắng giữ bình tĩnh. Bây giờ, tuy là gái Việt, nàng không có niềm hãnh diện của kẻ chiến thắng. Trái lại, nàng còn thầm nghĩ: “Một thắng lợi đáng nhục!”... “Ta muốn được chết chung với Ngô vương. Ngô vương thất bại, cũng có nghĩa là ta thất bại!”.
Tây Thi không nói lộ cho ai biết ý nghĩ của mình, cũng không muốn để ai thấy sự yếu mềm của nàng, sự yếu mềm của kẻ thất bại.
Phùng Đồng nhìn quanh cách trần thiết trong phòng, vui vẻ nói:
- Tây Thi! Tôi còn cần đi quan sát các nơi. Hì hì... bây giờ tôi không cần phả che giấu thân phận nữa. Ơ, thái tể Bá Hi của Ngô quốc đã đầu hàng rồi.
- Tôi biết trước người ấy sẽ đầu hàng. Năm xưa Ngũ Tử Tư từng chỉ trích Bá Hi tư thông với ngoại quốc.
- Ha ha... Ngũ Tử Tư... (Phùng Đồng ngửa mặt cười dài). Chúng ta đánh bại quân Ngô cũng là nhờ Ngũ Tử Tư đó! Tôi làm ra tiếng quỷ khóc, rồi bè cây mượn sức nước phá vỡ tường thành Cô Tô cũng do tôi bảo: “Ngũ Tử Tư dâng nước, trợ giúp quân Việt công thành”. Ha ha...
Tây Thi nghiến răng, liếc xéo Phùng Đồng. Thắng lợi bằng phương cách không quang minh chính đại là một thắng lợi nhục nhã!
Phùng Đồng ngang nhiên bước xuống Cô Tô đài, Tử Thường vội nói với Tây Thi:
- Đại cô! Phạm đại phu sẽ đến đây. Quanh Cô Tô đài hiện giờ toàn do quân trực thuộc của Phạm đại phu trấn giữ.
Nghĩ đến Phạm Lãi, Tây Thi lại thấy ớn lạnh.
- Phạm đại phu mong đại cô yên tâm, mọi việc đều rất mỹ mãn.
Tây Thi không chịu đựng được nữa, run run nói:
- Ta cần phải nghỉ mtộ chút... Cứ có tin gì về Ngô vương thì báo cho ta biết.
- Dạ vâng, gia thần sẽ cho người đi thám thính. Hiện giờ, đại vương chúng ta, Phạm đại phu và Văn đại phu đều có mặt bao vây Ngô vương ở gò đất cao.
Tây Thi không dám nhìn theo tay chỉ của Tử Thường, nhưng từ tuyệt vọng nàng lóe thấy có tia hi vọng. Bởi Ngô vương có nói với nàng, một mai Cô Tô không giữ được thì nhà vua sẽ lui về Tích Sơn, tạm dùng Cú Khúc làm kinh đô để chờ dịp phản công. Nàng biết cánh quân Ngô giữ ở mặt Bắc đã từng theo Ngô vương đi Trung Nguyên thì ắt khá tinh nhuệ. Nàng không hiểu rõ tình hình bên ngoài nên nghĩ rằng Ngô vương có đủ khả năng đột phá trùng vây.
- Ta nghỉ một lúc.
Gượng nói được bấy nhiêu với Tử Thường, Tây Thi đi liền vào phòng. Bấy giờ, nàng chợt nghe tim nhói đau. Đó là bệnh cũ song lâu rồi không tái phát, đợi đến lúc này mới tái phát khiến nàng đưa hai tay ôm ngực.
Di Quang bước theo Tây Thi, nói giọng vừa phấn khởi pha lẫn thuơng ảm thê lương:
- Tây Thi, rốt cuộc rồi chúng ta cũng có một ngày quang đãng.
Tây Thi từ từ ngồi xuống, tựa lưng vào gối với hàng trăm ý nghĩ đổ xô vào. Ví bằng Ngô vương có thoát được vòng vây thì chính nàng cũng lọt vào tay quân Việt rồi. Quân Việt thắng lợi, quyết không để cho nàng đến với Ngô vương nữa. Thế thì cuộc đời nàng còn ý nghĩa gì để sống?
Tây Thi nhắm mắt, âm thầm khấn với trời cao:
- Lạy trời phù hộ cho Ngô vương thoát hiểm!
Chợt có hai cô gái Việt chạy vào báo:
- Lửa nổi lên rồi, Quán Oa cung bị hỏa thiêu!
Bên mình Tây Thi có Di Quang và ba cô gái Việt khác đồng quay mình chạy đến bên cửa sổ nhìn ra. Riêng Tây Thi ngồi lại, chụp Thuộc Lâu bửu kiếm, tay sờ vào đốc kiếm. Nàng muốn lợi dụng kẽ hở thời gian ấy để kết thúc đời mình chứ từ sáng đến giờ nàng bị kiểm soát chặt quá!
Nhưng kẽ hở thời gian ấy Tây Thi cũng không lợi dụng được. Kiếm vừa ra khỏi vỏ thì Di Quang đã chận vai Tây Thi. Triền Ba cũng đồng thời từ bên ngoài sấn vào.
Không muốn vạch trần ý định của Tây Thi, Di Quang nói giọng thản nhiên như không:
- Tây Thi, chị ra xem lửa bên ngoài kìa...
- ờ! - Tây Thi nhìn ánh kiếm, cả thấy lạnh xương sống.
Triền Ba hiểu ý Di Quang nên nói thêm:
- Quân ta đốt Quán Oa cung!
Thật ra trong ngày nay lửa đã cháy nhiều nơi. Chiến tranh và lửa vốn là hai vật đi đôi, không sao tách rời được.
Tây Thi bỗng ôm kiếm ngã ra giường, bật khóc. Đó là bi ai, đó là tuyệt vọng và cũng là trống không!
Mười bả năm thù hận và ái tình đã mọc rễ chằng chịt phức tạp. Vào giờ này, ở tại nơi này,tất cả lại trở thành như mộng như sương, như trống như không, như ả tưởng. Với Tây Thi bây giờ, tất cảhình như không thật, kể cả đời nàng nữa. Trong nức nở và nghĩ ngợi, nàng cảm thyấ khung trời của nàng đã chết.
Nàng không nghĩ đến Phạm Lãi, tuy nàng từng yêu chàng sâu xa, tuy chàng là người yêu đầu tiên. Bây giờ, nàng chỉ nghĩ đến những gì nàng có đang bị tiêu diệt một cách đau thuơng. Bây giờ, nàng chảynước mắt, khóc cho tình yêu nàng đã thụ hưởng và không mong đền trả
Tử Thường bỗng vào báo:
- Ngô vương xin đại vương ta cho cầu hòa nhưng đại vương ta cự tuyệt! Bây giờ, thủ hạ của Ngô vương không còn đến năm trăm và trong thành Cô Tô còn đôi ba nhóm nhỏ ngoan cố chống cự. Nhiều nhất là khoảg hơn giờ nữa, tất cả sẽ hoàn toàn bị tiêu diệt
Hoàn toàn tiêu diệt... không cho cầu hòa... mấy tiếng ấy như dao đâm lút cán vào ngực Tây Thi. Nghe Tử Thường hí hửng nói thế, Tây Thi thấy đầu nhức quá, hai tay nắm lại càng lúc càng chặt. Cuối cùng nàng không sao ngăn được bật kêu: “Phù Sai!”. Tiếng gọi tuyệt vọng sau cùng!
Hơn ngàn ngọn đuốc chận đứng một vùng u ám.
Sau năm lần xông phá trùng vây thất bại, thủ hạ dưới tay Ngô vương còn không đến hai trăm. Hết phân nửa lại bị thuơng đủ cách trong khi số quân Việt bao vây gò này có đến cả vạn.
Ngô vương hoàn toàn mất hẳn khả năng đột phá trùng vây, tuyệt đối không sao đến được Cô Tô đài. Hơn nữa, vai trái Ngô vương cũng bị sây sát chút ít.
Đại phu Vương Tôn Hùng mất cảmũ mão, thả tóc bạc xòa đứng bên cạnh Ngô vương.
- Vương Tôn Hùng, bọn họ không có lý do không cho ta đầu hàng! (Ngô vương chống trường mâu khổ sở nói thêm). Năm xưa, ta từng cho họ hàng...
Vương Tôn Hùng không nói gì. Lão biết rõ Câu Tiễn đến đây với hai mươi năm chất chồng thù hận thì chỉ có cái chết của mình hay đối phương, chiến tranh mới chấm dứt.
Ngô vương hổn hển:
- Vương Tôn Hùng! Khanh đi nói lại lần nữa xem. Trẫm hàng, trẫm vứt bỏ tất cả.. Nếu Câu Tiễn không cho trẫm ở trên lục địa thì trẫm sẽ vĩnh viễn sống dưới thuyền. Khanh đi đi, nói đi! Trẫm chỉ cần được sống với Tây Thi, không màng gì tất cả !
Như người máy, Vương Tôn Hùng cầm đuốc bước tới từng bước. Cách đó khoảng năm mươi bước có tám tên quân Việt cưỡi ngựa chạy đến đón Vương Tôn Hùng. Ngựa rẽ làm đôi, Vương Tôn Hùng đi bộ giữa mỗi bên bốn ngựa. Bước thêm năm mươi bước nữa, Vương Tôn Hùng được Phạm Lãi sấn ra nghênh đón, vòng tay cung kính nói:
- Vương Tôn đại phu lại đến!
- Tôi phụng vương mạng đến xin với Việt vương cho hàng... Ngô quốc chúng tôi đầu hàng! Mong Việt vương nghĩ tình ngày xưa, bảo toàn cho đại vương chúng tôi và vợ con ngài.
Câu Tiễn bỗng xuất hiện bên cạnh Phạm Lãi cương quyết trả lời :
- Trẫm đã nói rồi, không nhận cho hàng!
Vương Tôn Hùng quắc mắt nhìn thẳng Câu Tiễn:
- Đại vương!
Câu Tiễn chận lời:
- Cần phi Phù Sai đích thân đến nói.
- Đại vương, Phạm đại phu!... Thế có nghĩa là cho phép vua tôi hàng?
- Cho phép à? Ha ha... (Câu Tiễn bật cười khanh khách một cách tàn nhẫn). Vương Tôn đại phu, chúng ta đối địch, trẫm hoan nghênh đại phu.
- Cảm tạ hảo ý của đại vương. (Vương Tôn Hùng ngang nhiên sờ đốc kiếm). Xin đại vương khoan dung đối với vua nước tôi. Phần tôi là tướng giặc, tôi chỉ có chết theo vua tôi. (Vương Tôn Hùng lùi lại một bước). Tôi về mời đại vương tôi đến yết kiến đại vương!
Câu Tiễn khoát tay ngăn:
- Khoan đã! Trẫm không cho phép Phù Sai đầu hàng. Nhưng đại phu hãy về nói với Phù Sai, trẫm muốn gặp người.
Vưong Tôn Hùng nặng nề bỏ đi. Việt vương ra lệnh tập trung mấy mươi ngọn đuốc đến chỗ nhà vua, có Văn Chủng và Phạm Lãi chia đứng hai bên.
Tuy đứng yên đó, song Phạm Lãi nghĩ đến chuyện khác... Nghĩ đến người yêu đã mười bảy năm riồ không gặp.
Câu Tiễn nói:
- Thiếu Bá! Trẫm muốn biến nước Ngô thành huyện của nước Việt, trẫm muốn chiếm nước Ngô thay Ngô vương. Ơ mà này, Thiếu Bá phải làm vua nứơc Ngô.
- Đại vương! Thần muốn khi xong trận rồi sẽ lui về nghỉ.
- Không. Chúng ta đã từng chung chia hoạn nạn, bây giờ phải cộng hưởng vinh hoa phú quý. Tại sao Thiếu Bá muốn quy ẩn? Trẫm không đồng ý cho Thiếu Bá rút lui.
- Đại vương! Thù hận chúng ta đã trả mong đại vương cho phép thần tự do.
Lúc chúa tôi Việt nói chuyện, Ngô vương chỉ đi một xe đến. Thấy người, Câu Tiễn cả cưòi:
- Ha ha ha... Phù Sai, lâu rồi không gặp, ngài rồi cũng có ngày này chứ!
Ngô vương rất giận nhưng cố gắng đè nén, giữ bình tĩnh đáp:
- Nghe nói ngài nghĩ đến tình xưa cho phép tôi đầu hàng... Từ rày về sau, tôi sẽ là một thường dân dưới mái nhà của ngài.
- Ha ha... Ngài là bá chủ của Trung Nguyên chứ! Ha ha... Năm xưa, ngài bắt ta làm nô lệ giữ ngựa cho ngài, lại còn sai quan binh sang nước Việt bắt cảtoàn dân Việt làm thân trâu ngựa. Phù Sai, ngài có nghĩ đến ngày này chăng?
- Không ngờ.
Ngô vương thản nhiên tiếp:
- Giá biết thì năm xưa ta đã giết ngài! (Ngừng một lúc, Ngô vương mới nói). Năm xưa, tuy ta bắt ngài giữ ngựa, song rồi cũng tha cho về và còn giúp cho phục quốc.
- Hay! Ngài còn nhớ rõ, đó là sai lầm của ngài!
- Nhưng ta không hối hận.
Trầm ngâm một lúc, Câu Tiễn lại nói:
- Ngài không muốn đánh nữa thì được, ta tha thứ cho một mình. Ngài sống, sống một mình bên bờ Đông Hải của ta (Câu Tiễn bật cười ngạo mạn). Bên bờ Đông Hảicủa ta, ha ha ha... ở đó không phải là vùng đất xấu, ta sẽ tuyển cho ngài năm trăm nô lệ... Để ngài làm vua năm trăm người ấy. Ha ha ha... Phù Sai, (Câu Tiễn trở giọng thật cay độc) việc đến nước này, ngài còn muốn sống sao?
Ngô vương nghĩ ngợi về điều kiện đầu hàng, muôn vạn lần không thể không nghĩ ngợi.
- Phù Sai! Ngài về suy nghĩ đi! Ngài cần bao nhiêu quân? Ha ha... Nếu muốn đánh thì không việc gì ngài phải sợ. Bởi dầu sao thì ta cũng tha mạng cho mỗi mình ngài!
Câu Tiễn cợt đùa tàn ác với vua Ngô đang không lối thoát. Ngô vương không trả lời, dùng trường mâu gõ vào thành xe. Dũng sĩ đội Hiền Lương nặng nề dắt ngựa tới, bảo vệ nhà vua quay về. Họ gồm bốn mươi người, trợn mày nhăn mặt, thỉnh thong tỏ ý muốn liều mạng với đối phương.
Khi hai nhà vua cách nhau khoảng bốn mươi bước, Ngô vương vừa lên xe, Phạm Lãi liền nói nhỏ với Câu Tiễn:
- Quân vương, Bắn!...
- Không. (Câu Tiễn nghiến răng). Ta căm hận Phù Sai, phải làm cho hắn bị chết trong ê chề nhục nhã, chết một mũi tên thì dễ dàng cho hắn quá!
Phạm Lãi ngạc nhiên:
- Vậy là Đại vương nhận cho Phù Sai đầu hàng?
- Đó là một cách làm cho hắn chết tốt nhất... - Câu Tiễn nhe răng, cười hiểm độc như lang sói.
Bây giờ Phạm Lãi mới biết Câu Tiễn thù Ngô sâu xa hơn mình tưởng tượng. Thù đủ hận thù, thù vô tiền khoáng hậu trong lịch sử.
Chiến xa của Ngô vương mất hút trong vùng u ám, Câu Tiễn chỉ về một địa khu, cuồng ngạo nói:
- Thiếu Bá! Chỉ cần trẫm phát một lệnh, quân trẫm sẽ đạp bằng vùng ấy.
- Vâng, chúng ta có thể nghiền nát Phù Sai như bột bánh.
- Thiếu Bá đoán xem Ngô vương còn được bao nhiêu quân?
Phạm Lãi thận trọng đáp:
- Có lẽ không hơn một ngàn.
- Trẫm thấy ắt không tới năm trăm! (Câu Tiễn cười gằn). Nếu còn một ngàn, Phù Sai không chịu đầu hàng đâu. Hắn mang xác đến chịu nhục thì chắc chắn hoàn toàn không còn khả năng giao chiến
Ngừng lại một chập, Câu Tiễn bỗng ra lệnh tàn nhẫn:
- Thiếu Bá! Tử Hội! Trẫm muốn làm nhục Phù Sai thêm nữa. Chúng ta chia làm ba mặt, mỗi người kêu nói chuyện với hắn. Hai khanh cố nghĩ câu nào cay cú nhất!
Câu Tiễn giục xe đi về hướng Nam, không muốn cho kẻ thù chết một cách dễ dàng, Phạm Lãi nghĩ ngợi một lúc, cười khổ nói với Văn Chủng:
- Quân vương quá ác độc, chúng ta biết nói gì với Phù Sai?
Phần Ngô vương, sau khi bị Câu Tiễn làm nhục đã trở về vùng đất cao với hai mắt rỉ máu. Nhà vua bực tức nói với Vương Tôn Hùng:
- Câu Tiễn là người lòng lang dạ sói!
- Đại vương! (Một dũng sĩ trong đội Hiền Lương bỗng sấn lên tâu) Chúng ta hãy thử xông phá trùng vây lần nữa. Chịu nhục cầu sống sao bằng được đánh đến chết.
Tinh lực của nhà vua đã hết rồi. Tuy biết không còn có ngảđầu hàng, Ngô vương càng biết rõ hơn địch tình, muốn xông phá trùng vây phải có ý chí và lực lượng. Song tất cả đả hết Ngô Vương lắc đầu
Vương Tôn Hùng bỗng lên tiếng:
- Đại vương! Để thần đi gặp Phạm Lãi. Lúc ở Cô Tô, Phạm Lãi đã nhận sự tiếp đãi của chúng ta. Đại vương viết cho Phạm Lãi một phong thư, mong người thảlỏng cho chúng ta một đường để xông ra... chỉ cần Phạm Lãi nới tay một chút thì chúng ta có thể ra được tuy chúng ta người ít.
Ngô vương đứng lặng một lúc rồi rút dao nhỏ khắc trên thanh trúc mấy câu:
“Ta nghe: Săn được thỏ thì chó bị giết, phá xong nước địch thì mưu thần chết, đại phu sao không chừa cho Ngô ta một đường làm đất dung thân...”.
Vua Ngô viết chưa xong, chợt nghe có tiếng hú dài từ phương Nam vọng tới. Ngô vương định thần, lắng tai nghe Câu Tiễn kêu nói:
- Phù Sai! Ngài còn nhớ chuyện hai mươi năm trước ta quỳ dưới chân ngài không? Nhớ không? Ha ha... Nhớ không?
Ngô vương nghiến răng, thê thảmcúi gầm nói nhỏ:
- Vương Tôn Hùng! Không cần đưa thư nữa. Hận đã thâm... Ôi, tất cảchỉ vì sai lầm của ta mà thành cả Năm xưa, ta đã chẳng giết chết Câu Tiễn.
Vương Tôn Hùng còn muốn chụp lấy cơ hội sau cùng, đưa tay cầm thanh trúc xông thẳng ra. Ngô vương biết là vô ích song cũng không còn hơi sức đâu ngăn cản Vương Tôn Hùng.
- Phù Sai! (Việt vương lại kêu nói) Tổ phụ ngài đã chết trong tay người Việt! Bây giờ ngài, ha ha... Bửu kiếm của ngài không bén đối với người Việt ta rồi. Ha ha... ha ha ha... Phù Sai, ngài đã quên thù cha ông để tha ta, giờ ta cũng tha cho ngài cái chết!
Bao nhiêu hy vọng của Ngô vương chết trong mấy câu nói ấy. Thế nên, nhà vua run run gọi tên Lộc Xuất.
Một vị quan đáp:
- Muôn tâu, Lộc Xuất đã chết trong trận!
Nhà vua như từ mộng choàng tỉnh. Lộc Xuất đã chết trong trận chẳng bao lâu, chao ôi! Nhà vua quay nhìn vị quan vừa nói, nhận ra là Chuyên Nghị, con của dũng sĩ Chuyên Chư.
- Chuyên Nghị, khanh cuốn cờ ta lại!
- Tâu vâng!
Chuyên Nghị tuân lệnh song không hiểu vì sao. Ngô vương long lanh nước mắt phán bảo:
- Ngưiơi hảy bịt mắt ta lạiTa không còn mặt mũi nào dám thấy Ngũ Tử Tư nơi chốn cửu tuyền.
Nước mắt nhà vua lăn dài, rớt xuống từng giọt, từng giọt. Nhà vua bỗng vứt mão, rút lấy kiếm của một binh sĩ đứng trên xe.
Chuyên Nghị run rẩy kêu lên:
- Đại vương! Đại vương! Xin chờ Vương Tôn đại phu!
- Không ích lợi gì đâu! Chuyên Nghị, hãy dũng cả như cha ngươi. Dùng cờ bịt mắt ta, nhanh lên! Ta không muốn nghe thêm tiếng nói của Câu Tiễn.
Chuyên Nghị run tay dùng lá cờ quấn ngang mắt nhà vua mấy vòng. Nhưng Ngô vương bỗng nói:
- Khoan đã! Để ta nhìn thêm Cô Tô đài một chút!
Trong giờ phút sau cùng, Ngô vương vẫn nhớ đến Tây Thi. Đưa mắt về hướng Cô Tô đài, nhà vua thê thảm nói thêm:
- Tây Thi! Trẫm bất lực không bảo vệ được ái khanh... Khanh là người Việt, mong sẽ được Câu Tiễn tha tội cho nàng. Tây Thi! Tây Thi!...
Lại có tiếng Câu Tiễn oang oang. Ngô vương thở dài thúc hối:
- Chuyên Nghị, nhanh lên!
Chuyên Nghị run toàn thân, bịt xong mắt nhà vua thì liền đó, ngài vung kiếm lên, tự đâm vào yết hầu. Toàn thân vạm vỡ của nhà vua gục xuống bên chiến xa.
Vương Tôn Hùng quay về, thấy thế liền sụp quỳ trước thi thể quân vương, đoạn rút kiếm tự vẫn.
Chuyện Nghị cũng quỳ xuống, rút kiếm tự vẫn theo.
Từng dũng sĩ trong đội Hiền Lương đều tự vẫn theo. Đó là tấn tuồng cuối cùng của vua nhà Ngô song chưa phải màn chót của Cô Tô thành.
Hoàng Thiên hỗ trợ, vua ta hưởng chức.
Lưng thần hiệp mưu, vua ta có đức.
Tông miếu tu bổ, quỷ thần phò dực.
Vua không quên thần, thần ra công sức.
Trời xanh mênh mông, không thể che được.
Mấy thăng rượu ngon, phước hưởng vô cực.
Trên đây là lời ca của quan quân nước Việt tại đại điện nhà Ngô để chúc tụng nhà vua nước Việt.
Thi thể của vua Ngô bị phải bày trước thềm điện Câu Tiển ngồi thay thế vua Ngô, chúc tụng của quan quânBêntrái Việt vương có Văn Chủng, bên phảicó Phạm Lãi.
Bấy giờ là nửa đêm. Thi thể của Ngô vương bày ở thềm kia nhưng chiến trận trong thành Cô Tô hãy còn chưa dứt hẳn. Phạm Lãi chọn giờ lành vào buổi sáng sớm để tuyên bố Việt thôn tính Ngô, xóa bản đồ Ngô. Vì thế, Câu Tiễn ở lại cung điện nước Ngô đợi chờ buổi sáng vĩ đại ấy.
Bấy giờ là gần giờ Ngọ, tướng quân Tiết Dung
kéo rốc xe về, báo cáo đã dẹp xong các ổ kháng cự mặt đông thành. Nhạc lại trỗi lên hòa theo các lời ca chúc tụng để Câu Tiễn cùng Tiết Dung đối ẩm.
Phùng Đồng lại tới, sau khi hành lễ với nhà vua liền hướng dẫn Thái tể Bá Hi của nước Ngô vào yết kiến. Câu Tiễn bỏ mặc cho Bá Hi quỳ đó, sau khi nâng ly đối ẩm với Phùng Đồng mới quay sang Văn Chủng nói cách lạnh nhạt:
- Văn đại phu, Thái tể của nhà Ngô thì phải đi yết kiến Ngô vương mới đúng. Khanh truyền lệnh cho đem Thái tể đến gặp Ngô vương!
Bá Hi ngạc nhiên ấp úng:
- Đại vương! Thần đã quy thuận trước rồi. Thần mong Đại vương...
Không đợi nghe nói hết, Câu Tiễn vẫy tay cho võ sĩ lôi Bá Hi ra xử tử. Đoạn nói:
- Một người không trung thành với quân vương thì không thể cho sống được.
Cùng lúc ấy, đại tướng Gia Kê Dĩnh bước vào, không uống rượu mừng liền mà đi thẳng đến bên Việt vương tâu:
- Đại vương! Đại phu nước Ngô là vương tử Cô Tào chỉ huy quân đồn trú từ Tích Sơn kéo đến. Người có ba trăm chiến xa, hiện đang tấn công Tề nữ môn.
Việt vương ờ một tiếng, chưa kịp nói gì thêm, Phạm Lãi đã đứng lên với thần sắc trịnh trọng thưa:
- Tâu đại vương, quân của vương tử Cô Tào là quân tinh nhuệ của nước Ngô. Xin cho thần cùng tướng quân Gia Kê Dĩnh cùng đi thanh toán.
Việt vương tỏ vẻ khinh thường:
- Vua của họ chết rồi, ba trăm xe làm được chuyện gì? Họ có thể phản công lấy lại Cô Tô sao?
- Đại vương! ở Cô Tô, chúng ta chưa đứng vững đâu! Hơn nữa, thần mong sẽ giải quyết xong cánh quân ấy trước khi trời sáng. Mong lúc giờ lành đến, toàn diện cuộc chiến tranh này phải kết thúc.
Phạm Lãi nói rất lọt tai, Việt vương mỉm cười, gật đầu và căn dặn Phạm Lãi, khi xong việc phải lập tức trở về.
Phạm Lãi đội mũ trận, cùng Gia Kê Dĩnh song song bước ra khỏi đại điện, Gia Kê Dĩnh cảm thấy lạ về hành động của Phạm Lãi nên vừa ra đến bên ngoài thì hỏi ngay:
- Phạm đại phu, tôi chưa báo cáo hết với đại vương.
- Tôi biết Cô Tào không đánh chác gì được đâu. Nhưng tôi khuyếch đại chuyện để cho tướng công lập thêm một công nữa đó! (Phạm Lãi vỗ vai Gia Kê Dĩnh) Tướng quân đi trước, tôi sẽ theo sau. Tướng quân gắng đánh đuổi Cô Tào cho thật nhanh.
- Tôi muốn hỏi ý đại phu cách làm cho Cô Tào đầu hàng.
- Không cần cứ tiêu diệt bọn họ. Chỉ cần tướng quân đứng trên xe nói lớn tin Ngô vương đã chết, bọn họ khỏi đánh cũng loạn. Thôi tướng quân đi đi!
Gia Kê Dĩnh đi rồi, Phạm Lãi mới thở phào nhẹ nhõm. Gia thần Tử Thường đã đứng chờ sẵn bên cạnh. Phạm Lãi nói:
- Cơ hồ ta không thể thoát thân được. Mà này, Tử Thường, tình hình ra sao?
- Bẩm tất cả đều đúng như lời đại nhân dặn dò, gia thần đã đem tin Ngô vưng chết nói cho đại cô biết.
- Được rồi... Người mau chuẩn bị một xe và thông tri cho đng thuyền biết, sẵn sàng chờ ta sử dụng.
Dặn xong, Phạm Lãi hối hả chạy lên Cô Tô đài.
Trên thềm đá Cô Tô, vẫn do cánh quân trực thuộc của Phạm Lãi canh giữ. Thủ hạ nhìn thấy chủ tướng liền nâng mâu chào. Phạm Lãi vẫy tay chào lại:
- Các anh em chúng ta thành công rồi! Chúng ta mười năm tan hợp, mười năm dạy dỗ lẫn nhau, đã rửa xong thù!
Hai võ sĩ đứng ở bình đài cũng khom mình chào chủ tướng, bẩm:
- Các cô gái Việt đều an toàn chờ đại phu đến.
- ờ... (Ngừng lại một lúc, Phạm Lãi rút ở lưng ra một thẻ bài bằng đồng vuông vức trao cho võ sĩ đứng bên trái, dặn) Ngươi thay ta truyền lệnh cấm tất cả binh sĩ dâm ngược với dân chúng nước Ngô.
Phạm Lãi tiếp tục đi tới, đến tầng chót của Cô Tô đài. Lại có một võ sĩ trưởng bước ra nghênh đón, báo cáo:
- Tây Thi bình an!
- Tây Thi! - Phạm Lãi cất tiếng gọi to, tiếng gọi oang oang lớn nhất sau mười bảy năm xa cách.
- Tây Thi! - Phạm Lãi lại gọi. Mười bảy năm xa cách để chớp mắt đây sẽ gặp lại làm cho Phạm Lãi mừng quá, nôn nóng quá, cảm khái khôn cùng. Phạm Lãi cứ vừa chạy vừa gọi: “Tây Thi! Tây Thi!”.
Tây Thi nằm nghiêng trên giường, ôm chặt Thuộc Lâu bửu kiếm.
Sau khi được tin Ngô vương chết, nàng cứ nằm như thế, hai tay ôm kiếm, mặt úp vào mền, không kêu gào, cũng không khóc. Cái chết của Ngô vương làm cho thần trí nàng phiêu diêu, cơ hồ nàng thoát khỏi thế gian này. Gần như mọi việc ở thế gian này không còn liên quan tới nàng nữa.
Tiếng gọi thứ nhất của Phạm Lãi làm cho toàn thể các cô gái Việt trong phòng kinh động. Tiếng gọi thứ hai của Phạm Lãi làm cho các cô nàng reo mừng:
- Phạm đại phu! Phạm đại phu!
Riêng Tây Thi thì toàn thân run lên đáng sợ. Nàng cố dùng hết ý chí để tự trấn tĩnh, ngón tay bấu chặt thân kiếm, dường như sức mạnh toàn thân tập trung ra đầu ngón tay.
- Tây Thi!
Có tiếng một nam nhân phấn khởi gọi tên nàng, tiếng bước chân đến gần, tiếng hia da rồi có tiếng vén màn.
- Tây Thi (Di Quang lắc lắc bạn, nói thêm) Phạm đại phu đến kìa!
Di Quang dùng sức trở nghiêng mình Tây Thi cho xây mặt ra ngoài. Đúng lúc ấy Phạm Lãi bước vào phòng. Đôi mắt của đôi tình nhân mười bảy năm ly biệt giờ nhìn nhau trân trối. Một cảm giác chạy luồn nhanh như điện, Phạm Lãi giang tay, bước tới vừa lúc ở Tây Thi cũng có thứ cảm giác đó làm cho nàng ngất đi.
- Tây Thi! Tây Thi!... - Phạm Lãi xốc tới, ôm chầm nàng, lay nàng, gọi ầm lên bảo đem nước đem rượu.
Cơn xúc động mạnh bất ngờ làm cho Tây Thi ngất xỉu song chẳng bao lâu sau thì nàng mở mắt. Như ảo như mộng, như thật như giả, Tây Thi có cảm giác như nàng từ cõi chết trở về. Nàng đưa mắt lướt qua một số vật trước mắt, lướt qua gưng mặt người tình xưa... Rồi tránh đi... Nàng chợt thấy thẹn, xong rồi xoay mắt lại... nhìn dán vào Phạm Lãi. Cuộc hội ngộ sau mười bảy năm là đây! Bao nhiêu chuyện ngày xưa đã chôn vùi, ký ức cũng nhạt nhòa, giờ trỗi dậy.
Đắm chìm vào đâu đâu, Tây Thi lại nhắm mắt. Mắt nàng nhắm nhưng nước mắt chua cay cứ từng giọt từng giọt chảy trào ra khóe mắt.
- Tây Thi!...
Gần như không nghe được tiếng gọi, Tây Thi đắm chìm trong dòng tư lương của nàng. Nàng đã nhìn thấy Phạm Lãi rồi, biết Ngô vương bại trận chết rồi, biết nước Việt đã phục hưng và Việt vương sẽ thống trị nước Ngô.
Người Việt đã trả xong mối hờn bị bắt làm nô lệ. Người Việt đã rửa xong mối đại sỉ đại nhục là một sự nghiệp vĩ đại chấn động cổ kim. Nàng, người nhận lãnh trách nhiệm lớn lao và gian khổ vô tiền khoáng hậu đứng về phương diện lý luận lẽ phải dính dáng thật nhiều với thắng lợi của quốc gia. Nhưng tự đáy lòng nàng, nàng không thấy được chia xẻ quang vinh mà chỉ thấy riêng mang tủi nhục. Nước Việt phục hưng, có khía cạnh lỗi lạc đặc biệt, nhưng điều ấy không một chút liên hệ với nàng. Vinh quang ấy không thuộc về nàng trong khi nước Ngô bị diệt thì tội tình nàng quá lớn!
Tây Thi tự hỏi: Ta chỉ là người có tội không chăng?
Phạm Lãi rót nước đem lại, trầm ấm nói:
- Tây Thi! Nàng không nên xúc động nhiều. Hạn kỳ chờ gặp bao năm của chúng ta đã đến rồi.
Tây Thi không nói gì. Cổ nàng nghẹn cứng, chỉ phát được một tiếng thở dài não nuột, song cách phản ứng đó cũng khiến cho Phạm Lãi cảm thấy được an ủi nhiều lắm. Chàng lột mũ trận, kéo mí màn lau khô mồ hôi trán, đoạn vỗ nhẹ vai Tây Thi:
- Tây Thi, trận chiến không làm nàng sợ chứ?
Di Quang đưa ra dấu, ý bảo đừng nói đến chiến trận nhưng Phạm Lãi không thấy. Riêng Tây Thi vẫn nhắm mắt.
- Tây Thi! Nàng nhìn ta đi, mười bảy năm rồi chúng ta chưa gặp.
Vừa nói, Phạm Lãi vừa kéo tay người yêu, hôn ở mu bàn tay. Tây Thi nhận thấy, cái hôn ấy hoàn toàn khác hẳn bao nhiêu nụ hôn của Ngô vương suốt mười bảy năm. Nụ hôn này đã làm rung động tận đáy lòng nàng, bắt nàng mở mắt nhìn đăm đăm người yêu năm cũ. Nhưng rồi, nàng lách mắt tránh, nhận thấy nàng nhìn Phạm Lãi bao nhiêu là bất trung bấy nhiêu đối với cái chết của Ngô vương. Nàng thở dài:
- Thiếu Bá! Bằng vào cơ sở tình cảm cũ, thiếp yêu cầu chàng... để cho thiếp chết!
- Kìa (Phạm Lãi giật nẩy, choàng cả hai tay ôm bả vai nàng) Tây Thi! Mười bảy năm rồi chúng mình mới gặp lại, sao nàng nói thế?
Tây Thi nhắm mắt, không nhìn, cũng không trả lời. Phạm Lãi kéo lật thân nàng lại nhìn thẳng vào mặt nàng.
Mười bảy năm xa cách, Tây Thi đã mất đi sự thơ ngây tươi mát của thời thiếu nữ lúc ở Hội Kê. Mười bảy năm trước nàng như một đóa hoa mới nở, ngậm sương sớm long lanh. Không như bây giờ, nàng như người ở giữa năm, mất rồi mùa xuân. Tuy nàng vẫn đẹp đó, song là nét đẹp trưởng thành, chín mùi, đang lúc nàng nức nở, đang lúc nàng cảm thấy thất bại và có tội, nàng vẫn biểu lộ nét đẹp chín chắn.
Gương mặt Tây Thi vẫn không có gì thay đổi so với trước, đường nét rực rỡ. Da mặt nàng được giữ gìn hết sức cẩn thận, vẫn mơn mởn, mịn màng.
Nhìn nàng bây giờ, Phạm Lãi nhớ lại Tây Thi ngày xưa: Tây Thi với đôi mắt long lanh, sáng rực, trong suốt... Chàng lại yêu cầu nàng mở mắt, lần này rồi lần khác.
Tây Thi vẫn nhắm mắt, ứa nước mắt.
Điều đó làm cho Phạm Lãi khổ sở quá, thuơng cảm quá!
- Tây Thi! Mười bảy năm rồi không gặp, giờ gặp lại đây mà một ánh mắt nàng cũng không muốn nhìn ta sao?
Lẽ tự nhiên Tây Thi thấy nàng không nên làm thế. Mười bảy năm trước, cả hai là đôi nhân tình chí thành chí ái. Trải bao biến thiên, bằng vào tình cảm cũ mà mãi đến giờ nàng vẫn chí thành nên Tây Thi mở mắt, vì ngày xưa ấy mà mở mắt.
Nàng nhìn thấy rõ chàng rồi: Tóc người năm cũ bây giờ đã bạc hoa râm. Trên trán chàng, trên má chàng đâu đâu cũng có in vết hằn bụi bám nắng chang. Điều đó chứng tỏ chàng đã miệt mài lao khổ suốt mười bảy năm.
Tây Thi u buồn gọi nhỏ:
- Thiếu Bá!
- Tây Thi!
Phạm Lãi sung sướng kêu lên, có thể vì cuộc trùng phùng, cũng có thể vì chàng đã nhìn rõ mắt nàng rồi.
Trong giây phút ấy, lòng như tấu nhạc tưng bừng, Phạm Lãi nói như reo:
- Tây Thi! Ta không đến nỗi uổng công, rốt cuộc rồi chúng ta vẫn trùng phùng... Bé con của ta... , mà không, ngày xưa nàng cũng không đồng ý cho ta gọi bé con...
Phạm Lãi bỏ lửng, ôm chầm người yêu cũ. Về phần Tây Thi, nàng không nhận thấy có cảm giác gì đặc biệt nên tự cho rằng tình yêu của nàng đã chết theo Ngô vương.
Phạm Lãi vẫn phát ngôn với tư cách người yêu:
- Tây Thi! Nàng không nói gì với ta sao?
- Thiếu Bá! (Nàng nhìn mái tóc hoa râm của người yêu cũ) Thiếp muốn được chết.
- Kìa, đừng nói đến tiếng ấy. Một cô gái Việt lại muốn tuẫn tiết theo Ngô vương là một chuyện không thông đâu!
- Sống và chết không cần có lý do giải thích thông hay chẳng thông. Thiếu Bá! Thiếp từng trải quá nhiều, thiếp... già rồi, nên muốn chết!
Dưới mắt Phạm Lãi. Tây Thi vẫn rực rỡ, vẫn mỹ lệ nên tiếng “già rồi” của nàng khiến chàng bắt buồn cười, cười thành tiếng. Ngược lại, Tây Thi thấy giờ phút này nghiêm trọng mà Phạm Lãi cười được tức là xem thường nàng. Nàng bất mãn, liếc xéo.
Dưới mắt Phạm Lãi, cách liếc xéo kia đầy dẫy những phong tình ngày xưa. Từ đó, chàng nhận thấy quá khứ hãy còn, quá khứ bất biến... Trong quá khứ, c hai đã thề non hẹn biển và cuộc hẹn thề tự nhiên cũng bất biến. Thế nên, Phạm Lãi rùn vai. Và nhân lúc chuyển mình, chàng nhận ra giáp đeo ngực có phần gây khó chịu nên đặt Tây Thi xuống, cởi áo giáp ngực, chân và bả vai, cởi luôn cả chiến bào. Nhận thấy chiến bào có dính máu dơ, Phạm Lãi nhìn sững lại mình, nói với nhóm Di Quang:
- Ta muốn thay đồ, ở đây có không? áo của Ngô vương...
Tây Thi phản ứng liền:
- Hôm nay, Thiếu Bá là người chiến thắng, còn những gì của Phù Sai có đều...
- Tây Thi! Nàng làm sao thế?
- Thiếp không làm sao cả, sinh mạng của thiếp đã cùng rồi. Thiếp đã sống trên Cô Tô đài mười bảy năm, giờ muốn được chết trên Cô Tô đài.
Bấy giờ Di Quang đem đến bộ trường bào bằng tơ bông. Nhìn thần sắc Tây Thi hết sức nghiêm trọng, Phạm Lãi khoát tay từ chối, đoạn nắm chặt tay Tây Thi, kể lể:
- Tây Thi, mười bảy năm rồi, ta luôn tưởng nhớ nàng. Ngày đêm làm việc, lúc mệt mỏi không chịu được, cứ nghĩ đến nàng thì ta lại phấn chấn tinh thần. Ta nhớ lời hẹn thề trước lúc phân ly, nhớ lắm từng lời từng chữ lúc ở Hội Kê, lúc ven sông Tiền Đường...
Tây Thi rùng mình nhớ lại.
- Tây Thi! Tất cả những hình ảnh đó ghi khắc trong đầu óc ta, trong trái tim ta như chỉ là chuyện hôm qua.
Nàng còn nhớ không, lúc trong phòng làm việc của quân phu nhân, nàng có hỏi: “Đại ca! Từ rày về sau, chúng ta có còn gặp lại nhau không?”. Ta trả lời: “Lúc nước Ngô bị tiêu diệt, chúng ta sẽ gặp lại. Bấy giờ, chúng ta sẽ chung đôi!” Ta còn nhấn mạnh: “Nước Ngô sẽ có ngày bị diệt, bị diệt trong tay chúng ta!” Tây Thi, ngày đó là của chúng ta, ngày đó là đây.
Phạm Lãi nói miên man:
- Tây Thi, lúc đưa nàng lên thuyền, ta có bảo: “Lúc thành Cô Tô bị phá là lúc chúng ta gặp lại!”. Nàng còn nhớ không, lúc ấy, ta gọi nàng liên tiếp bằng mấy tiếng “bé con”. Nhưng nàng không đồng ý bị xem là bé bỏng. Tây Thi, việc ngày hôm nay đã được chúng ta dự đoán vào mười bảy năm trước. Và nàng đã trả lời khẳng định: “Thiếu Bá, thiếp chờ chàng!”. Tây Thi, nàng còn nhớ không?... Nàng còn nhớ không?
Sự thật là thế, Tây Thi có nhớ. Và khi mới đến cung Ngô, Tây Thi quả có lòng chờ đợi Phạm Lãi. Nhưng bây giờ là mười bảy năm sau với biết bao cuộc biến thiên. Hơn nữa, Phạm Lãi càng nhắc chuyện ngày xưa càng làm cho Tây Thi thuơng cảm. Ôi, thời gian đã làm thay đổi con người, sự đời, cả tình yêu. Đáng sợ quá thời gian! Thời gian đẩy trôi tất cả, đẩy đi quyến luyến năm nào.
Tây Thi thở dài:
- Thiếu Bá, đừng nhắc chuyện ngày xưa. Đối với thiếp, nó không có ý nghĩa gì. Một người có tương lai mới có quá khứ, chứ với thiếp thì không còn có tương lai.
- Tây Thi! Tương lai là chúng ta chung sống bên nhau, ta đã vì nàng an bài xong tất cả. (Phạm Lãi rất mực chí thành) Mười bảy năm rồi, ta vừa làm việc vừa lo sắp đặt. Tây Thi, tương lai của chúng ta sẽ hết sức bình yên, tuyệt đối không có sóng gió ba đào.
Tây Thi nhìn người yêu cũ đăm đăm, không có cách nào hiểu được niềm tin của chàng. An bài cho tương lai của hai người không biết sẽ đi về đâu trong suốt mười bảy năm thì quả là chuyện lạ lùng đến hoang đường!
- Tây Thi, hãy nhận lời ta, cười với ta! Đừng vì kết cuộc bi thảm của nước Ngô mà sầu khổ. Mọi chuyện xảy ra đều được chúng ta dự liệu, mười bảy năm trước chúng ta đã đoán biết ngày này. (Phạm Lãi ôm choàng nàng) Tây Thi, chúng ta đã hẹn nhau ngày này.
Tây Thi không cự tuyệt, song cũng không phản ứng. Nàng nhận ra nỗi đau khổ vì yêu của Phạm Lãi đã để lộ trong vòng tay ôm siết run run.
Tình cũ, chuyện xưa tuy đã phôi phai song có bôi xóa được hết đâu! Tây Thi gượng ngồi dậy:
- Thiếu Bá! Người ta đối với thiếp quá tốt, quá tốt đối với một nữ gián điệp... Ôi, Thiếu Bá, trong mấy năm đầu, thiếp ngày ngày chờ đợi đoàn quân Việt tới. Chờ đến mỏi mòn theo hi vọng mỏi mòn... Thiếu Bá, ngay lúc ấy thiếp muốn chết quá! Nghĩ đến việc không thể chung sống với chàng, thiếp không chịu nổi, nên phó mặc, buông lung đối với Phù Sai. Thiếp cho rằng không có người thứ hai nào có thể chịu đựng nổi sự thay đổi tính tình kỳ quặc của thiếp. Nhưng rồi, sự chịu đựng của nhà vua lần hồi làm cho thiếp thấy mình mang tội nghiệt. Thiếp ăn năn... Thiếu Bá, người ta tốt với thiếp!
Tây Thi ứa nước mắt, dùng hai tiếng “người ta” để tránh nói đến hai tiếng “Ngô vương”. Nhận ly rượu Phạm Lãi đưa cho, Tây Thi nốc cạn, đoạn tiếp:
- Rồi sau đó, thiếp yêu người ta với mâu thuẫn nặng nề. Trách nhiệm đối với quốc gia và tình cảm của một con người xung đột nhau trong thiếp. Thiếu Bá, thiếp thấy ái ngại về nhiệm vụ mình mang chẳng vinh quang.
- Chỉ cần có lợi cho quốc gia thì hành động nào cũng vinh quang cả.
- Không, đó là lý... (Tây Thi ngừng lại một thoáng mới trầm giọng nói) Thiếu Bá! Thiếp cám ơn chàng, nhưng mọi việc giữa chúng ta đã qua rồi. Thiếp nghĩ rằng chàng không nên moi tìm dĩ vãng.
- Qua rồi à? Không đâu, cuộc sống của chúng ta chưa bắt đầu đó! Tây Thi, ta muốn cùng nàng sống chung trong cuộc sống mới.
- Chàng đừng nghĩ thế, thiếp sẽ làm tổn hại chàng. Thiếp không còn là Tây Thi của ngày xưa... Thiếp đã là một người đàn bà dày dạn...
Phạm Lãi cả quyết:
- Bất luận thế nào, kể từ bây giờ chúng ta cũng sẽ chung sống. Tây Thi, ta đã an bài tất cả rồi.
Tây Thi lắc đầu. Nàng chấp nhận kể lể nỗi niềm với người yêu cũ song không muốn kéo lại tình xưa. Thế nên nàng nghiêm trang nói:
- Thiếu Bá! Về mặt tình cảm, thiếp đã dày dạn quá mà về mặt thực tế thì thiếp có thể làm thiệt hại cho chàng. Thiếu Bá, chàng đã làm cho Việt diệt Ngô, lập được kỳ công. Nếu thiếp sống chung với chàng, đối với chàng là một bất lợi.
Bất lợi? (Phạm Lãi bỗng cười) Nàng cho rằng ta còn có thể bị bất lợi sao? Không đâu, vĩnh viễn không đâu. Một ngày trước đây, ta vì nước Việt nhưng kể từ giờ này, ta vứt tất cả. Tây Thi! Việt vương muốn giao nước Ngô cho ta trị vì, song ta từ chối. Ta không màng gì cả ngoài việc sắp đặt cho ta và nàng một con đường... Chúng ta sẽ rời xa mọi người, đến một nơi không ai biết để sống bình yên trong những ngày còn lại.
Tây Thi gần như không tin là thật. Phạm Lãi dám vứt đi tất cả để cùng nàng đi ẩn cư sao? Nàng ngạc nhiên, há hốc.
- Tây Thi! Chúng ta đến một nơi xa sống đến bạc đầu. Tây Thi, ta đã sắp đặt sẵn sàng, chỉ cần rời khỏi Cô Tô đài thì chúng ta như cá trong nước, như chim trên trời, tự do vẫy vùng không một ai làm phiền chúng ta được. Chúng ta cũng không có trách nhiệm gì đối với ai cả.
- Thiếu Bá!...
Đúng lúc ấy Tử Thường đứng ngoài màn bẩm vọng vào:
- Bẩm đại phu, tất cả đã chuẩn bị xong... Quân vương và quân phu nhân đã đến đại điện. Cuộc chiến ngoài Tề nữ môn chúng ta đã chiếm thượng phong, quân của vương tử Cô Tào bị phá vỡ, thoái lui rồi.
Phạm Lãi bình tĩnh cho Tử Thường bước vào ra mắt Tây Thi, đoạn nói:
- Ngươi trở lại đại điện dò la tin tức. Ơ, mà thôi, không cần nhà ngươi phải đi, ngươi phái vài tên tin cậy cũng được. Riêng ngưi ở lại đây chờ lệnh.
Tử Thường khom mình chào, lui ra. Tây Thi hoang mang nhìn người yêu cũ. Hiện cảnh bắt nàng đâm nghi ngờ.
Phạm Lãi êm nắm tay nàng:
- Tây Thi, nên nghe theo sự áp đặt của ta. Thời gian của chúng mình không nhiều đâu!
Tây Thi toan mở miệng nhưng Phạm Lãi khoát tay ngăn lại. Phạm Lãi vẫy tay gọi mấy cô gái Việt, nghiêm trang nói với họ:
- Hôm nay, quốc gia chúng ta đã tẩy xong thù rửa xong hận, đó là công lao của mọi người mà đóng góp của các nàng lại lớn hơn tất. Quân vương lúc nào cũng nhớ đến các nàng. Sau này trở lại Hội Kê, các nàng sẽ được tưởng thưởng xứng đáng. Bây giờ ta muốn nhờ các nàng vì ta và Tây Thi mà làm một việc, có được chăng?
Di Quang thay mặt các chị em rước đáp:
- Đại phu cứ dạy, lẽ tự nhiên chị em tôi tình nguyện.
- Nhờ các nàng dọn hết đồ đạc của Tây Thi cho vào bao lớn, rương lớn, càng nhanh càng tốt... Ta muốn cùng Tây Thi đi trước. Sau đó, các nàng cùng gom góp đồ đạc của mình, Tử Thường sẽ đến đưa các nàng rời khỏi Cô Tô đài.
- Thiếu Bá! (Tây Thi sốt ruột nói) Đừng kể có thiếp, thiếp không thể rời Cô Tô đài.
- Bé con, ta với nàng sẽ đi chung rời Cô Tô đài, rời nước Ngô, rời nước Việt, đến một nơi hoàn toàn xa lạ để xây dựng một đời mới. Chúng ta sẽ không bị một quấy nhiễu nào, chúng ta sẽ bình yên vui sống bù lại những ngày đã mất... Ta đã nói rồi!
Tây Thi cắn môi, nghe toàn thân rợn lạnh. Tình xưa nghĩa cũ đồng thời tràn ngập tâm linh nàng, xung đột mãnh liệt. Một mặt, nàng nhớ đến Ngô vương đã xử đẹp với nàng mười bảy năm. Mặt khác nàng nhớ rõ mồn một tình cảnh lúc ở Hội Kê hẹn biển thề non cùng Phạm Lãi. Nàng nghĩ:
- Ta phải làm sao đây? Theo Ngô vương xuống suối vàng hay cùng Phạm Lãi bỏ đi xa? Nếu chết, ta trả được ơn mưa móc của Ngô vương thì lại trở thành người phụ rẫy tình yêu cũ. Bằng theo Phạm Thiếu Bá thì kể như vĩnh viễn mang tội nghiệt đối với Ngô ân sủng.
Tây Thi nghĩ ngợi, hỏi thầm, sau cùng nhìn rót vào Thuộc Lâu bửu kiếm bên gối. Không biết đã bao lần nàng định dùng bửu kiếm giải quyết đời nàng nhưng nàng chưa thực hiện được. Bây giờ, nàng lại nghĩ... Rồi với thái độ thản nhiên như không việc gì xảy ra, nàng nhích mình về phía bửu kiếm hy vọng Phạm Lãi không chú ý đến nàng. Không ngờ lúc tay nàng vừa chạm vào thân kiếm thì Phạm Lãi đưa tay đỡ kiếm trước, đồng thời nhanh nhẹn rút kiếm ra. Kiếm quang loang loáng, Phạm Lãi thản nhiên nói luôn:
- Thuộc Lâu là danh kiếm trong thiên hạ, nên để lại cho Câu Tiễn về sau ắt có chỗ dùng.
Thêm một lần thất bại, Tây Thi ảo não vô cùng.
Bấy giờ, Di Quang cùng bốn cô gái Việt khiêng ra hai rương lớn. Bọn Triền Ba cũng vác để bên ngoài phòng mấy bao to, Phạm Lãi nghiêm giọng nói luôn:
- Chỉ lấy đồ riêng của Tây Thi, chứ đừng động đến đồ đạc của Ngô vương.
Tây Thi chấn động, bật khóc.
Phạm Lãi hoang mang kêu lên:
- Tây Thi, nàng thật yêu người sao?
- Phải. (Tây Thi nói qua tiếng nấc). Thiếp yêu người ta, nhất là bây giờ người ta chết rồi. Người ta đối với thiếp quá tốt, nhưng thiếp lại làm cho người ta chết!
- Tây Thi! Nếu Ngô vương còn sống, ta chẳng cưỡng ép nàng. Nhưng nay người đã chết rồi...
Có tiếng chuông từ đại điện nhà Ngô vang lên. Kế thấy gia thần Tử Thường hối h bước vào nói:
- Bẩm chủ nhân, đến giờ rồi!
- Ta biết. Ngươi cho người dọn các đồ này đi trước, ta sẽ theo sau. Về tương lai của ngươi thì ta sẽ gửi gấm cho Văn đại phu. Các cô gái này cũng do ngươi đưa đến gặp Văn đại phu.
Phạm Lãi vừa nói vừa khắc chữ trên thanh trúc:
- Ngô vương nói: “Cắn chết thỏ, chó bị làm thịt, phá xong nước địch thì mưu thần chết...”. Con người Việt vương cổ dài như chim, chịu nhục, ganh công, có thể chung chia hoạn nạn nhưng không thể cộng hưởng giàu sang. Ngày nay Tử Hội không đi, ngày sau ắt khó tránh họa.
Nhờ Tây Thi phụ đề thanh trúc cho mình khắc xong, Phạm Lãi dùng luôn khăn xanh của nàng bao thanh trúc lại trao cho Tử Thường nói:
- Đợi khi ta rời khỏi Cô Tô đài khoảng nửa giờ, ngươi đem vật này trao cho Văn đại phu. (Phạm Lãi quay sang Tây Thi nói luôn). Chúng ta đi!
- Thiếp không hiểu...
Tây Thi chỉ tay vào thanh trúc, cau mày hỏi thêm:
- Thiếu Bá cùng Văn đại phu đã dốc toàn lực làm khuynh đảo nước Ngô, giờ lập được đại công sao lại bỏ đi?
- Nàng nhớ chuyện Ngũ Tử Tư không? Việc xong là phi đi, không đi thì sẽ như Ngũ Tử Tư vậy. Chúng ta phải hiểu rõ lẽ bảo mạng này: công thành thân thối.
- Thế còn Văn đại phu?
- Tây Thi, chúng ta không màng đến chuyện người khác. Bây giờ chúng ta lo chuyện của chúng ta, chúng ta đi!
Không đợi Tây Thi hồi đáp, Phạm Lãi vụt bồng xốc nàng khiến nàng kêu lên:
- Thiếu Bá, thiếp còn có điều muốn nói.
- Không có ngày giờ đâu! Rời Cô Tô đài rồi hẵng hay.
Bồng Tây Thi bước ra, Phạm Lãi còn quay nói với nhóm Di Quang lời từ giã. Di Quang bước theo gọi:
- Tây Thi!...
- Tây Thi!... - Triền Ba cũng bước theo gọi.
Tây Thi vùng vẫy trong tay Phạm Lãi, nhưng chàng là một dũng sĩ, lẽ tự nhiên Tây Thi không vùng thoát được. Hơn nữa, đang lúc hoang mang tột độ, nàng không còn chút sức lực nào.
Phạm Lãi nói lớn với các cô gái Việt:
- Chúc các nàng may mắn!
Tây Thi trách:
- Thiếu Bá! Theo lẽ chàng không nên làm như vậy!
- Ta chỉ làm một lần.
Phạm Lãi bước vội xuống thềm đá Cô Tô đài. Bọn thị vệ đứng thành hai hàng dài rạp mình chào Phạm đại phu. Họ lạ sao Phạm đại phu của họ lại ôm trong tay một người con gái.
Tiếng chuông từ đại điện nhà Ngô lại vang lên lần nữa.
Dưới Cô Tô đài có mười mấy xe nằm giăng giăng. Phạm Lãi bước lên một chiến xa, đặt Tây Thi nằm xuống song vẫn để một tay giữ kềm nàng, tay phải giật giây cưng ngựa, tự mình đánh xe lướt tới.
Tây Thi bối rối quá, không ngừng kêu thét:
- Thiếu Bá! Thiếu Bá!...
Nhưng Phạm Lãi liên tiếp phát tiếng hú dài, ngăn chận tiếng kêu của nàng vẳng ra. Chiến xa vùn vụt lao tới.
***
Sương sớm trắng xóa dần dần bị bứt phá rời khỏi Cô Tô thành. Từ phương Đông, mặt trời ban sáng dần dần nhô lên thay chỗ sương sớm. Buổi sáng mùa xuân đã đến rồi, buổi sáng với ngàn vạn tia sáng túa ra, buổi sáng vĩ đại và âm thầm trùm phủ nhân gian.
Một chiếc thuyền lớn ba buồm từ từ căng lên trong sưng sớm.
Nước sông cuồn cuộn, gió bọc buồm no, thuyền lướt về phương Bắc. Phạm Lãi và Tây Thi đứng ở tầng nhì đại thuyền.
Bây giờ, Tây Thi đã bình tĩnh lại, đứng tựa vào người yêu đã mười bảy năm xa cách biền biệt, hồi nhớ chuyện cũ, bắt mộng ngày xưa.
Thành quách Cô Tô dần hiện rõ trong sưng sớm. Phạm Lãi chỉ tay vào khu trung tâm thành, nói:
- Tây Thi! Nàng trông, cao chọc trời mây chỉ có Cô Tô đài.
Tây Thi cảm thấy lạnh, nhảy mũi, tựa vào người yêu cũ sát hơn. Nàng nhớ lại lời nàng từng nói: “Cô Tô đài như Ngô vương...”. Thế mà nay vật đổi, người chết... Nàng lại thở dài.
- Bé con! Từ sông nhìn lên, Cô Tô thành cũng đẹp đấy.
Tây Thi không trả lời, thả dòng suy tư theo thành quách Cô Tô. Nàng đã ở trong thành này những mười bảy năm, nghĩa là đã tiêu pha trọn tuổi thanh xuân của nàng. Trong thành này, nàng đã nhìn thấy một sự nghiệp lẫy lừng, nhìn thấy vị chủ thành vang danh thiên hạ và cũng nhìn thấy vị chủ thành bị tiêu diệt. Quan trọng hơn cả là trong thành này nàng hưởng được tình yêu sâu xa, chân thành và trong trắng. Bây giờ mất hết, thành quách xa mờ...
- Bé con, có lẽ giờ này Câu Tiễn đã biết chúng ta đi rồi.
Tây Thi liếc nhìn Phạm Lãi, vẫn không trả lời.
- Bé con, Câu Tiễn chắc thỏa mãn lắm... Duy có một điều không vui là ta mang nàng đi không lời từ biệt. (Phạm Lãi thúc thúc Tây Thi). Bé con, đáng tiếc là ta không kịp đưa nàng đến gặp Văn Chủng.
Tây Thi như bừng tỉnh, chớp chớp mắt.
- Chắc nàng không ngờ ta dụng cách này để bắt cóc nàng đi!
- Bé con hoài! (Tây Thi trề môi bất mãn). Chàng gọi bé con bao nhiêu lần rồi? Bộ không biết là thiếp không thích nghe gọi thế sao?
- Vậy chứ nàng cũng không biết ta không thích nàng ở bên ta mà đi nghĩ đến người khác sao?
Tây Thi mỉm cười, nụ cười đầu tiên dành cho người yêu cũ.
- Một người không thể ngăn một người đừng nghĩ tới một người. (Tây Thi thở dài). ở bên chàng, thiếp có thể không nghĩ đến “người ta” bao lâu nữa? Lúc không còn nhìn thấy thành quách Cô Tô, thiếp sẽ chôn vùi suy tư chăng?
- Nói thế nghĩa là chẳng bao lâu nàng sẽ quên?
- Không, thiếp không thể quên... (Giọng Tây Thi đang rất nặng nề bỗng trở nhẹ). Nhưng còn chàng, chàng mưu trí khôn lường, có thể làm cho thiếp thôi nhớ...
Phạm Lãi cả cười, lắc mạnh người yêu vừa cởi mở:
- Trên thế gian này chỉ có mình nàng hiểu được ta. Bé con...
- Nữa!
- Từ rày về sau, ta sẽ nhớ. Tây Thi, nửa giờ nữa, chúng ta sẽ đến cửa vào Thái Hồ.
Tây Thi nhìn khắp mặt sông:
- Văn đại phu không phái người đuổi theo sao?
- Tin rằng không.
Gió sông thổi mạnh, thuyền lướt đi nhanh hơn. Thái Hồ mênh mông đã nhìn thấy trước mặt.
- Bấy giờ, mặt trời đỏ rực phưng Đông.
Bấy giờ, từ thành Cô Tô có một làn khói đen ngùn ngụt bốc lên, Tây Thi nhìn thấy trước, chỉ cho Phạm Lãi. Chàng quan sát một lúc rồi nói:
- Có thể là Cô Tô đài. Câu Tiễn rất hận Cô Tô đài nên phóng hỏa.
- Cần gì phải thế? Từ bao giờ, Cô Tô đài có làm hại Việt đâu! (Tây Thi thở dài, nói thêm). Tại sao lại phải nhỏ mọn như vậy?
- Lòng người rất khó giải thích, huống chi mầm cừu hận đã bám rễ sinh sôi.
Im lặng một lúc, Phạm Lãi cũng thở dài:
- Tất cả đã kết thúc rồi. Hận cũ tiêu tan thì thù mới sẽ lần lượt tới... Việt vương ngày nay rồi sẽ đi theo vết xe của Ngô vương. Văn Chủng hôm nay không bỏ đi rồi sẽ như Ngũ Tử Tư vậy.
Tây Thi lạnh mình, không tin lịch sử là sự tuần hoàn miên viễn. Nàng đưa mắt nhìn khói bốc lên từ Cô Tô đài và lấm lét nhìn mặt người tình.
Mặt trời dần lên cao, khói đen trùm phủ thủ đô nước Ngô, kết thúc lịch sử nước Ngô. Kể từ nay, một trang lịch sử lật qua để cho Câu Tiễn viết tiếp.
Thuyền đến cửa Thái Hồ, khói sóng chờn vờn. Mặt trời chiếu trên Thái Hồ dát vàng lấp loáng. Thái Hồ hào hùng lắm, vĩ đại lắm, luôn luôn chuyển động không ngừng.
Phạm Lãi bỗng bật cười:
- Ân cừu, Ngô quốc, Việt quốc, Sở quốc, với ta có liên quan gì chứ? Tây Thi, từ rày về sau chúng ta không màng gì đến các chuyện ấy. Sóng nước Thái Hồ rửa sạch ân cừu, rửa sạch tất cả để cho kể từ bây giờ chúng ta không dính dấp gì với nhân gian. Tây Thi, để ta giới thiệu cho người nhà ta ra mắt nàng.
Phạm Lãi kéo Tây Thi vào khoang thuyền, giới thiệu hai con.
Con lớn Phạm Lãi tên Bình, mười lăm tuổi, con thứ tên An, mười một tuổi. Cả hai lớn lên trong gian khổ, người hơi gầy song chắc nịch. Tây Thi nhìn Phạm Bình mười lăm tuổi đăm đăm rồi quay sang Phạm Lãi nói nhỏ:
- Có phần giống chàng năm lên mười bảy.
- Mười bảy năm trước, ta... (Phạm Lãi bỗng cảm thán). Mười bảy năm qua, ta già mau quá!
- Già? Thiếp không nhận thấy chàng già.
- Hôm nay ta phản lão hoàn đồng!
Phạm Lãi lại đưa Tây Thi đi xem các nơi trong thuyền. Thuyền do cháu của Tử Thường là A Mang cường tráng cai quản. Trên thuyền có chín trai, mười gái, cộng thêm A Mang là hai chục người. Tất cả đều còn trẻ, Phạm Lãi dự định cho họ kết làm vợ chồng với nhau. Chàng nói:
- Chúng ta đến một nơi không có khói lửa nhân gian, mười cặp vợ chồng này vẫn có thể sinh con đẻ cháu không ngừng.
Phạm Lãi cũng đưa Tây Thi đi xem các đồ vật trên thuyền: hạt giống, nông cụ, thổ mộc, công cụ, lưng thực, muối ăn, có cả một đống rương tráp.
Tây Thi rất đỗi ngạc nhiên hỏi:
- Chàng đã chuẩn bị từ trước?
- Phải, lúc rời Hội Kê thì ta chuẩn bị đâu vào đó.
- Nghĩa là chàng chắc chắn chiến thắng?
Tây Thi không có cách nào hiểu được niềm tin của Phạm Lãi. Chàng giải thích:
- Ngô quốc có phần mạnh hơn chúng ta, song lúc phát binh ta đã quyết thắng. Không thắng thì thà chết trong thành Cô Tô. Để có ngày nay, ta đã chuẩn bị bao năm... Mười bảy năm rồi, vì muốn được nàng nên ta phải cố gắng.
- Thiếp đáng thế à?
Tây Thi nhoẻn cười, nụ cười yêu kiều như mười bảy năm trước.
***
Rời bỏ tất cả, Phạm Lãi và Tây Thi cắt đứt mọi liên hệ với thế giới bên ngoài. Trên mặt Thái Hồ bát ngát, thuyền họ nay chỗ này mai chỗ kia, bao nhiêu ân cừu trong lòng họ như được sương khói và bóng nước Thái Hồ rửa sạch. Họ vô tư vô lự ca hát trên thuyền, câu cá bên mạn thuyền, phó mặc thời gian trôi theo sóng nước.
Có một hôm, thuyền họ dừng lại ở bến Vô Tích, đem cá đổi muối và thức ăn. Đó là việc của bốn tháng sau khi Cô Tô thành thất thủ.
A Mang lên bờ rồi trở xuống báo cáo với chủ nhân:
- Việt vương treo giải thưởng nhiều vàng cho ai tìm được Phạm đại phu... Việc thứ hai là Việt vương cùng nhóm Văn đại phu hướng dẫn tám trăm xe kéo lên mặt Bắc Trung Nguyên, hội minh với Tề, Lỗ.
- Còn gì nữa không?
- Bẩm còn, Việt vương chia nước Ngô thành quận, huyện, cắt một phần đất cho Sở.
Tây Thi chen nói:
- Thiếu Bá! Chàng hỏi nhiều như thế để làm gì? Các việc ấy không liên quan gì đến chúng ta. Chúng ta rày đây mai đó, không nhà không cửa thì mọi việc trên đất liền chúng ta không nên biết tới.
- Nhưng Thái Hồ quá nhỏ, cũng quá gần, e có một hôm, chúng ta phải dời đi... Lúc Việt vương từ Trung Nguyên về, chúng ta sẽ không dễ dàng an cư ở Thái Hồ.
- Không ai biết trước được ngày mai, chuyện của ngày mai hãy để ngày mai nói!
Rất ít người chú ý việc Phạm Lãi đưa Tây Thi thả thuyền trên Ngũ Hồ sống trong cuộc sống thế nào? Ân cừu Ngô - Việt chấm dứt, người ta không còn quan tâm đến hai nhân vật ấy nữa. Nhưng lịch sử ghi về họ rất phong phú. Trong lịch sử Trung Quốc, nửa đời sau của một người đẹp lừng danh kim cổ được nói tới rất nhiều, được thế giới coi trọng. Chuyện về họ như sau:
Ở bên biển nước Tề có một cửa khẩu, núi non vây quanh, là nơi hoang vu, chưa từng có khói nhân gian, sau đó trở thành thôn ấp, có đất cày, có chợ cá, có ruộng muối.
Khu vực đó có trên năm trăm nóc nhà mà chủ nhân là Si Di Tử Bì đã đến đây dày công khai phá từ sáu năm trước.
Si Di Tử Bì là một nhân vật truyền kỳ. Người ngoài nhìn thấy người nhà Tử Bì nói tiếng “ngoại quốc” (1) đồng thời nhận ra mối quan hệ trong gia đình họ hết sức kỳ lạ.
Họ làm việc quần quật hơn bất cứ tên nô lệ nào. Tinh lực của họ hơn người và hình như trí tuệ cũng siêu phàm nữa. Không ai bắt gặp họ chán nản hay mệt mỏi. Họ thường cười, nụ cười trong sáng, vô tư lự. Nụ cười của họ có tác dụng lây vui và khuyến khích người khác.
Si Di Tử Bì lại có một bà vợ tuyệt đẹp, cao nhã. Cả hai vợ chồng có chỗ khác nhau này: Bà vợ thường điểm trang tuyệt vời như sắp đi dự hội và tuyệt nhiên không tham gia một công tác lao động nào. Nhưng người nhà của Si Di Tử Bì lại hết sức kính trọng vị trung niên mỹ phụ ấy.
Vào những buổi sáng bình thản, người ta bắt gặp vị trung niên mỹ phụ ấy cưỡi ngựa sánh vai với chồng chạy trên đường cái. Người ta nhận thấy kỹ thuật cưỡi ngựa của đôi vợ chồng ấy rất cao.
Người ta còn bắt gặp những hiện tượng không tương xứng: Ví như Si Di Tử Bì trông rất mạnh khỏe song đầu tóc bạc phơ. Người ta cũng không biết Si Di Tử Bì từ đâu tới, tới được bao lâu. Họ chỉ biết là vào mấy năm gần đây, tên tuổi của Si Di Tử Bì rất lớn. ở hải cảng này thường có khách quý từ Lâm Truy đến thăm viếng Si Di Tử Bì.
Người ta nghe không hiểu được những gì Si Di Tử Bì bàn chuyện cùng khách. Nào là ba nhà cường thịnh tại Tấn, nào là Lỗ công khai thần phục Việt, Việt không thể vào Trung Nguyên lần nữa...
Hàng năm Si Di Tử Bì ra đi mấy lần. Nhất là ba năm gần đây Si Di Tử Bì ra đi rất đều với vợ và một gia đồng. Họ cưỡi ngựa, đa phần là đi Lâm Truy. Lúc đi, Si Di Tử Bì lại đeo trường kiếm.
Si Di Tử Bì là ai, không một ai biết được. Hàng quý tộc Lâm Truy ngỡ Tử Bì là một công hầu vong quốc nào đó, hay một công tử giàu sang chạy trốn gia cừu đổi họ thay tên. Nhưng rồi cũng không ai dám xác định điều gì, bởi Si Di Tử Bì quá rành nước Tề, chứng tỏ không phi người nước lạ.
Si Di Tử Bì tận lực làm việc song xem tiền bạc rất nhẹ. Người thường đem của ci giúp kẻ bần hàn. Nghe nói quan viên cao cấp thành Lâm Truy cũng thường tiếp được một cách bí mật quà tặng của Tử Bì. Vì vậy, gần như mọi người trong triều đều hết lời ca tụng. Thật ra sự hiểu biết của Si Di Tử Bì thật hiếm có ở Lâm Truy.
Bấy giờ là mùa thu, khí hậu ở Tề khác hẳn Ngô, Việt. Trung thu ở Tề, cỏ cây vàng úa, nhưng vòm trời rất cao, tạo nên mỹ cảnh yên lành, trong vắt.
Vào hoàng hôn, vợ chồng Si Di Tử Bì đến Lâm Truy, được đón tiếp ở tân quán hoa lệ. Đó là nơi Tề dùng tiếp đãi sứ thần các nước hoặc khách thật quý.
Cả hai vừa đến thì có tướng quốc nước Tề là Trần Hằng viếng liền... Trần Hằng là nhân vật quyền thế ở Tề, đã phế Tề vương lập tân quân, một mình độc chiếm quyền bính.
Sáng ngày hôm sau có hai vị đại phu đến đưa Si Di Tử Bì sang Tướng phủ thăm tr lễ Trần Hằng quá trưa mới về, khiến bà vợ ở nhà mỏi lòng trông đợi.
Si Di Tử Bì đã uống rượu, mặt bừng đỏ, lúc nhìn thấy vợ liền vòng tay có ý xin lỗi, nói:
- Chắc nàng lo lắm!
- Không. Xa phu trở về có nói chàng được Trần tướng quốc giữ lại ăn trưa. (Bà vợ cười yêu kiều). Nên thiếp ăn trưa một mình.
- Ô, nụ cười của nàng rất đẹp.
- Nữa... (Bà vợ rút người bên ông chồng vừa sấn tới). Từ xưa đến nay không có ai cứ mỗi ngày mỗi khen vợ mình.
- Tình ta khác hẳn người đời. Tây Thi, chúng ta vào trong, ta có nhiều điều muốn nói với nàng.
Cả hai là vong thần Phạm Lãi và Tây Thi của Cô Tô đài.
Sau khi Cô Tô đài thành bị phá, cả hai thả thuyền trên mặt Thái Hồ, sống vô gia cư gần một năm. Kế bị Việt vương phái người đi khắp ni tìm kiếm, cả hai mới cưỡi thuyền lớn ba buồm từ Thái Hồ du nhập Trường Giang, từ Trường Giang lướt ra biển cả, đi dọc theo biển đến nước Tề. Từ đó Phạm Lãi đổi tên là Si Di Tử Bì.
Phạm Lãi không cần nổi danh nhưng tên mới Si Di Tử Bì vẫn vang dội nước Tề. Mọi người không biết Phạm Lãi là ai, song mọi người đều biết tài năng của Si Di. Người nước Tề đem Si Di Tử Bì so sánh với Khổng Khâu (tức Khổng Tử), song Khổng Khâu đã chết mà Si Di Tử Bì còn sống.
Si Di Tử Bì kéo vợ vào phòng trong, nửa như đắc ý, nửa cười khổ nói:
- Tây Thi! Tướng quốc nước Tề rất phục ta, muốn lưu ta lại làm quan.
- ờ...
- Thay tên đổi họ, rốt cuộc rồi vẫn chạy không thoát được.
- Tự nhiên là tại chàng có tài nổi bật. (Tây Thi mỉm cười). Và có lẽ cũng tại chàng thích làm cho nổi bật, phải không?
- Nàng lại nói móc ta rồi.
Si Di Tử Bì cười khổ, nói thêm: - Xuất thân của ta bắt ta không thể nào lãng quên chuyện theo dõi tình hình các nước. Ta bắt buộc phải tiếp xúc với vài người, không ngờ việc đến thế này!
Tây Thi cố ý nói đùa:
- Thiếp cho là tại chàng không thể sống đời đạm bạc.
- Ta phản đối nàng nói thế. Trên mặt Thái Hồ, chính nàng mới không thích sống yên phận.
- Nhưng thiếp cũng đâu có mong cho chàng đến Tề giao tiếp với các bậc công hầu để lòi chân tướng ẩn sĩ ra.
Tây Thi cười đùa:
- Có lần thiếp thấy chàng bàn chính trị với một vị đại phu nước Tề đầy hứng thú, chứng tỏ chàng rất hứng thú trong việc làm chính trị.
- Thôi thôi... May mà họ không biết rõ thân phận của ta nên chẳng sao. Vả lại ta cũng không dứt khoát nhận lời mời của Trần Hằng. Nếu nàng không đồng ý thì ta sẽ không nhận lãnh gì cả.
- Thiếp đâu có phản đối. (Tây Thi nhếch môi cười). Thiếp biết tinh lực của chàng hơn người nên nào có ngăn cấm chàng làm việc gì đâu!
Si Si Tử Bì nâng siết tay vợ:
- Tinh lực hơn người...
Bấy giờ lại có một vị đại phu đến viếng. Si Di Tử Bì bước ra tiếp rước, khoảng nửa giờ sau mới quay vào với vẻ mặt dàu dàu. Tây Thi lo ngại thầm, rước hỏi:
- Thiếu Bá! Có chuyện gì rồi?
- Văn Chủng đã chết!
Si Di Tử Bì đóng chặt cửa phòng, nặng nề ngồi xuống nói tiếp:
- Ta dự đoán Việt vương không thể dung tha Tử Hội. Nhưng Tử Hội lại không thể ra đi.
- Việt vương giết Văn đại phu à?
- Phải. Việt vương lại dùng Thuộc Lâu bửu kiếm trao cho Văn Chủng.
- Thuộc Lâu bửu kiếm?
Tây Thi nghe tim đập mạnh. Vĩnh viễn nàng không thể quên thanh kiếm ấy, thanh kiếm mà năm xưa Ngô vương đã gửi cho Ngũ Tử Tư. Thuộc Lâu bửu kiếm đã tắm máu Ngũ Tử Tư để sau đó nước Ngô dần dần suy yếu, đi đến diệt vong. Riêng với nàng, sau khi Ngô vương chết, nàng cũng muốn dùng thanh kiếm ấy để tự sát. Tây Thi còn nhớ, sau cùng Phạm Lãi để kiếm lại Cô Tô đài, lẽ đương nhiên Việt vương chiếm giữ.
Ngũ Tử Tư là trụ cột nước Ngô, mất Ngũ Tử Tư, nước Ngô bị diệt. Ngày nay Văn Chủng lại là trụ cột của nước Việt, mất Văn Chủng, nước Việt rồi cũng sẽ như Ngô. Vì thế, Tây Thi đau khổ kêu lên:
- Tại sao?
- Không tại sao cả, Văn Chủng bị giết như Ngũ Tử Tư vậy.
- Việt vương phải biết, mất Ngũ Tử Tư nước Ngô sụp đổ...
- Nhưng Việt vương lại cho rằng vương nghiệp của mình vĩnh viễn không thay.
Si Di Tử Bì hạ giọng nói thêm:
- Hơn nữa, Việt vương còn có quan niệm phân biệt quốc gia. Văn Chủng và ta đều là người Sở, dưới mắt Việt vương thì Văn Chủng không thể mãi mãi trung thành với Việt. Lúc Việt nguy, vua Việt cần người Sở, nhưng khi bình yên rồi thì trở lại hoài nghi. Ôi, Việt vương không biết Văn Chủng và ta đã trở thành người Việt!
Đối với chính sự phức tạp, Tây Thi không làm sao hiểu được rõ ràng. Đứng về phương diện cảm tình, nàng xem Văn Chủng và Phạm Lãi đều là người Việt, trung thành với Việt như Ngũ Tử Tư đã trung thành với Ngô vậy.
Tây Thi bỗng nghĩ đến nguyên nhân đưa họ từ Sở sang Việt mà nàng chưa biết, cũng chưa từng nghe ai nói nên hỏi:
- Thiếu Bá! Tại sao chàng và Văn Chủng không ở Sở phục vụ? Năm xưa, Ngũ Tử Tư bị bắt buộc mới phải đầu Ngô chứ như các người...
- Chư huynh đều vì nước Sở đó.
- Thiếp chưa hiểu... nước Việt đâu phải là bản quốc của chàng.
- Nhưng là quốc gia của nàng.
Si Di Tử Bì đầu bạc chợt hôn nhẹ má vợ khiến Tây Thi giãy nẩy:
- Thiếu Bá, thiếp nói chuyện đàng hoàng mà!
- Nhưng trước nàng, ta không có cách nào đàng hoàng cho được.
Si Di Tử Bì rút lui, giải thích:
- Thật ra thì thế này: Sở thường bị Ngô quấy nhiễu, Ngũ Tử Tư lại mượn quân Ngô kéo sang Sở trả tư thù khiến quốc gia ta không đối phó nổi. Vì thế, Sở vương mới phái chư huynh vào Việt, giúp đỡ Việt vương thành lập một quốc gia minh hữu với Sở để phụ kiềm chế Ngô. Chư huynh vào Việt ban đầu chỉ là để thi hành một chiến lược!
- Thế thì sau khi thành công dẹp Ngô, tại sao chàng và Văn Chủng không trở về cố quốc?
- Chư huynh đã biến thành người Việt hết rồi, thời gian đã làm biến đổi tất cả.. Chư huynh có về Sở thì cũng bị người Sở xem là người Việt thôi.
- à, thiếp hiểu... Vì thế nên Văn đại phu mới không rời Việt.
Si Di Tử Bì nói giọng trầm trầm:
- Nếu không vì nàng, ta cũng không rời Việt. Nếu còn ở Việt, giờ này e ta cũng như Văn Chủng!
- Đối với chàng, Việt vương không xử thế đâu!
- Mà thôi, Tây Thi! Chúng ta đã chạy thoát vòng hệ lụy ấy thì cần gì nói nữa. Nào, để ta trông nàng... coi giống... (Phạm Lãi đưa cao hai tay nâng mặt người yêu) Tây Thi, trông nàng dường đẹp hơn hôm qua.
- Quỉ nà! Chàng cho thiếp hãy còn mười tám chắc?
Tuy nói thế, Tây Thi vẫn tựa sát người vào Phạm Lãi. Gái nào cũng thích được trai khen, Tây Thi không ngoại lệ. Nàng vui mừng tuy nàng vẫn biết không thể như thế được.
Cả hai ôm nhau như tình nhân lén lút thì thầm. Phạm Lãi bỗng kề sát tai Tây Thi bảo nhỏ:
- Ta quên nói với nàng một việc: Đêm nay, cả ta và nàng sẽ cùng đi đến tướng phủ dự yến.
- Ô, nói như thế là chàng đã nhận chức rồi? Vậy mà vừa rồi chàng bảo là không nhận.
- Trần Hằng ngỏ ý mời ta làm Thượng khanh. Ta chưa suy nghĩ, chưa tuân mạng thì kể là chưa nhận.
Si Di Tử Bì cà râu trên mặt vợ, cười khúc khích:
- Nhưng ta nhận đưa nàng đến dự yến để cho Trần Hằng thấy ta có một bà vợ xuất sắc vốn là bảo vật của ta.
- Đó là Tây Thi của hai mươi năm trước kìa...
- Ta cảm thấy nàng bây giờ đẹp hơn hai mươi năm trước. Bây giờ, nàng là của ta chứ hai mươi năm trước thì không phải. (Si Di Tử Bì bỗng nâng cằm vợ) Tây Thi! Nàng ở với Phù Sai bao lâu không con, nhưng ở với ta được một đứa.
Tây Thi đẩy gạt tay chồng:
- Thiếp không muốn nghe nhắc chuyện cũ.
- Được rồi... Nàng cũng không cần tỏ vẻ giận dữ.
- Với người như chàng thì nên dữ hơn một chút.
Si Di Tử Bì chu miệng đùa:
- Đừng có khinh ta... Khinh khi một ông chồng già là đáng tội!
- Thiếp ghét nghe chàng tự xưng già. (Tây Thi bỗng đưa mười ngón tay thon đan tóc chồng) Có lúc thiếp sẽ cạo sạch ba cái tóc bạc.
Cả hai bật cười. Cùng sống bên nhau, cuộc sống của cả hai rất thoải mái, nhẹ nhàng. Có phải buồn phiền thì cũng chỉ buồn phiền đến mức đó.
***
Làm Thượng khanh Tề quốc, Si Di Tử Bì trở thành nhân vật đặc biệt ở thành Lâm Truy. Người giúp cho Trần Hằng cải tiến ngành đánh cá, nghề làm muối, thâu hoạch hai lần nhiều hơn trước. Người cũng hướng dẫn cho nông dân cày sâu, làm cho đất phì nhiêu, đồng thời cải tiến quân đội dường như mới lại hoàn toàn. Người còn đem cả “Ngư lê trận”, một trận pháp trứ danh dạy cho quân Tề nữa.
Mọi người đều lấy làm lạ về tài năng đa diện của Si Di Tử Bì. Họ nghĩ, bằng vào tài hoa ấy thì đi đến nước nào, Si Di Tử Bì cũng được trọng dụng và ủy thác triều chính. Vì vậy, người ta lại hoài nghi thân thế của Si Di.
Người ta biết Si Di Tử Bì nói được làu làu phương ngôn của ít nhất là ba quốc gia: Tề, Sở, Ngô. Ngoài ra, Tử Bì lại còn nói được một số thổ ngữ nước Lỗ - ngôn ngữ của Tề - Lỗ có phần giống nhau - Lại nữa, Tử Bì còn am hiểu âm nhạc nước Tần. Lẽ tự nhiên, Tử Bì phải nói được tuyệt vời tiếng Việt song Người chưa nói ra trong mưu định che giấu thân thế. Si Di Tử Bì đưa mọi người đoán mình là người Sở, người Ngô, người Tề...
Người ta bắt đầu điều tra Si Di Tử Bì, bắt đầu kiểm điểm hàng ngũ công hầu nước Tề, nước Ngô, nước Sở. Thậm chí người ta còn kiểm điểm lại tên các đại phu nước Sở, song cũng không tìm ra ai lỗi lạc như Si Di.
Có lúc, người ta đem tên Phạm Lãi của nước Việt ra so với Si Di. Nhưng khi nói ra với Trần Hằng thì Trần Hằng cả cười:
- Chư vị suy đoán quá nhiều rồi! Phạm Lãi của Việt sao lại đi nhận chức Thượng khanh của Tề được? Sau khi phá Ngô, Việt vương Câu Tiễn từng ngỏ ý muốn cắt đất Ngô giao cho Phạm Lãi làm vua cai trị. Thế mà Phạm Lãi còn từ chối, lén bỏ trốn đi. Câu Tiễn phái người tìm kiếm khắp các nơi cũng không ra. Làm vua nước Ngô, Phạm Lãi còn không màng thì tội gì lại đi nhận chức Thượng khanh nước Tề?
Giả thiết Si Di Tử Bì là Phạm Lãi bị gạt bỏ.
Nhưng giả thiết ấy lại lọt vào tai Si Di Tử Bì khiến người bất an. Một buổi chiều cùng vợ đối ẩm, Si Di Tử Bì ý nhị và cảm khái thuật lại chuyện người Lâm Truy đoán mò thân thế mình. Đoạn cả cười:
- Hôm kia, tướng quốc Trần Hằng bàn về Phạm Lãi, thấy buồn cười!
Tây Thi trề môi hỏi:
- Trần Hằng không mắng Phạm Lãi chứ?
- Tự nhiên là không, Phạm Lãi đã được mọi người sùng kính!
- Chà, mèo khen mèo dài đuôi!
Si Di Tử Bì rùn vai, nắm lấy tay vợ:
- Nàng xem thường ta? Nàng cho rằng chồng nàng không đáng cho người khác tôn kính?
- Thiếp cảm thấy... Phạm Lãi phải chờ Tây Thi mới được người ta sùng kính. Nếu mãi đến giờ Phạm Lãi vẫn ở bên Việt, biết có được sùng kính chăng?
- Tự nhiên! Nhưng tài học và sự uyên bác bản thân cũng có quan hệ.
Si Di Tử Bì thẳng thắn nói thêm:
- Ví dụ, sau khi thay tên đổi họ, ta vẫn vang danh trùm nước Tề, không một nhọc công nào vẫn được cử giữ chức thượng khanh.
- Cũng là nhờ thiếp... có thiếp bên cạnh... (Tây Thi cười yêu kiều) Thiếu Bá, chàng quả là một thiên tài đó.
- Ơ... ờ... ờ...
Si Di Tử Bì xoa má vợ đã ngã tựa vào mình:
- Người Việt thích nói tiếng đệm ở cuối câu!
- Người Sở cũng thế thôi. (Tây Thi vuốt lại tóc bạc của chồng) Chàng không nên cười thiếp mới phải chứ?
- Tây Thi!
Si Di Tử Bì hớp một ngụm rượu, “mớm” lại từng chút cho Tây Thi, dùng động tác ấy thay lời đáp phải hay không. Tuy đã trọng tuổi, vợ chồng Si Di Tử Bì vẫn say sưa và đầy nhiệt tình lúc ở bên nhau.
Uống rượu qua miệng chồng, Tây Thi hỏi giọng nhẹ nhàng:
- Chàng vừa nói người Lâm Truy bàn luận về chàng, sao không nghĩ cách đối phó?
- Ta nghĩ, mình không thể ở Tề được nữa!
Nói về một vấn đề hết sức nghiêm trọng, thần sắc của Si Di Tử Bì vẫn nhẹ nhàng như rất thản nhiên. Cứ có Tây Thi bên mình, nằm trong lòng thì không có việc gì làm cho Si Di Tử Bì nôn nóng cả. Nhưng Tây Thi sốt ruột:
- Không thể ở Tề à? Tại sao? Chúng ta phải làm cách nào?
- Tại vì Si Di Tử Bì quá nổi danh. Một người muốn an cư thì không nên để cho nổi danh. Thế nên, để được sống mãi với nàng như thế này, chúng ta chỉ còn cách phải rời Tổ quốc. Chuyện giản dị quá, chúng ta không có liên hệ gì với Tề thì lúc nào cũng có thể bỏ đi được.
- Đi? Chúng ta đã tạo được gia nghiệp lớn lao thế này lại bỏ đi sao?
Si Di Tử Bì đáp không một chút ái ngại:
- Có đáng gì đâu! Gia nghiệp thì lúc nào ta cũng tạo dựng được.
Đầu tuy bạc trắng, Si Di Tử Bì vẫn còn hào tình vạn trượng.
Tây Thi cúi gầm. Nàng quen hưởng lạc, thiếu hẳn niềm tin trong việc bỏ rơi cơ nghiệp cũ để kiến tạo cái mới nên dàu dàu:
- Thiếu Bá! Thiếp không có hùng tâm như chàng, thiếp cho rằng việc này không giản dị.
- Phải, song cũng chẳng có gì khó khăn.
- Thiếu Bá! Đến địa phương khác chàng cũng lại nổi danh nữa. Tên Phạm Lãi sáng chói quá, chàng thay đổi thành Si Di Tử Bì rồi vẫn nổi như thường. Thế là cứ phải bỏ đi, phải kiến tạo lại, ở đâu vài ba năm rồi cũng nổi danh. Chàng vẫn là chàng, không vì việc thay tên đổi họ mà che giấu được khả năng.
Tây Thi nhỏ nhẹ khuyên:
- Thiếp cho rằng chàng từ chức Thượng khanh quay về hải cảng thì có thể an cư lạc nghiệp được.
- Nếu ta từ quan mà vẫn sống ở Tề thì sẽ bị Trần Hằng giết chết. Trần Hằng sợ người nước khác dùng ta. Tây Thi! (Si Di Tử Bì vẫn cười ngọt ngào) Chính trị là vô tình vô nghĩa như vậy.
- Phải. Nhưng chàng là người có tình có nghĩa nhất, không thể làm chuyện vô tình vô nghĩa như vậy.
Tây Thi đưa tay xoa nhẹ má chồng lúc lâu mới tiếp:
- Nói thế nghĩa là không đi không được rồi!
- Nếu nàng không phản đối thì theo ta, không đi không được.
- Chàng biết thiếp không phản đối bất cứ quyết định nào của chàng.
Tây Thi mang tình lai láng trong ánh mắt liếc chồng đang cười. Bỗng nhiên, nàng ra sức đẩy chồng, ngồi bật dậy:
- Thiếu Bá! Thôi thiếp biết cả rồi, chàng chuẩn bị xong đâu đó rồi, phải không? Nói thật đi!
Si Di Tử Bì rút vai, nhăn mặt làm xấu. Tây Thi bị trêu đến tức cười, giá tay:
- Nói đi! Thiếp không đồng ý để chàng xem thiếp như con nít vậy!
- Phải đó, bẩm phu nhân... Ta đã chuẩn bị hơn hai tháng rồi.
- Tại sao không nói cho thiếp biết trước?
- Nàng biết chồng nàng là nhà chính trị mà! Một chính trị gia phải bảo mật với cả vợ con.
Tây Thi bỗng cảm khái, thở dài:
- Ôi, chàng đã kinh lịch quá nhiều mà mãi đến hôm nay vẫn còn không sao quên được chính trị.
Si Di Tử Bì ngưng cười, nâng tay vợ, trở nghiêm nói:
- Tây Thi, lần này là lần sau cùng. Hôm nào rời Tề, ta sẽ không màng đến chuyện chính trị nữa. Ta là người sinh nhai bằng nghề làm chính trị, nhưng kể từ hôm nay, ta tuyên bố kết thúc.
- Năm xưa, lúc đưa thiếp vào Thái Hồ, chàng cũng nói như vậy.
- Đúng. Nếu được ở mãi trên hồ, tự nhiên ta không chen vào chính trị. Hồi ấy, ta không làm trái lời. Bây giờ, ta nói lại lần nữa, từ rày về sau, dầu có ở trên lục địa ta cũng không màng đến chính trị.
Tây Thi lắc đầu cười đùa:
- Thiếp không hứng thú nghe chàng thề thốt mãi.
- Thế thì chuyện gì mới làm cho nàng hứng thú? Kế hoạch tương lai của ta chăng?
Tây Thi gật đầu, Si Di Tử Bì hưỡn đãi nói thêm:
- Ta nghiên cứu đại thế trong thiên hạ (1) biết rằng chẳng bao lâu nữa sẽ có cuộc biến động mới. Nhưng chúng ta cũng không cần phải sợ biến động, vì biến động là một cách nâng chức tiến bộ của xã hội. Sau này, người làm chính trị sẽ nhiều, họ chọn con đường chính trị để vinh thân phì da. Nhưng ngoài chính trị, ta đã phát hiện được con đường khác mà nhiều người trước đây không biết.
Ngừng lại một chút, Si Di Tử Bì trịnh trọng tiếp:
- Đó là con đường thuơng mãi. Thế giới chúng ta mỗi ngày mỗi thêm đông đúc, cuộc sống sẽ càng lúc càng phức tạp hơn. Dân chúng rồi sẽ cần nhà thuơng mãi hơn nhà làm chính trị. Ta sẽ dốc hết tinh lực lo công việc này, đem cá, muối nước Tề sang Tần bán, rồi chở bông vải từ Tần, Tấn đến Trung Nguyên. Thực phẩm của Ngô, Sở dư dả khá nhiều trong khi ở ba nước Tống, Trần, Trịnh lại thiếu hụt. Hơn nữa, tơ lụa của Sở, Hán có thể chở đến Tề, Lỗ và Lạc Dương đổi lấy đồ đồng, đồ thau. Ô, tính ra thì có biết bao việc phải làm, ta nói cả đêm cũng không hết việc. (Si Di Tử Bì hít một hi dài) Tây Thi! Ta đã chọn được một nơi thích hợp.
- Thiếp biết rồi, mấy hôm trước chàng cho An ra cửa thành, chắc chắn là để thay chàng bố trí công việc.
- Đúng vậy. (Si Di Tử Bì nhếch mép cười) Ta chọn Đào ấp vốn là đất lành phát tích vua Nghiêu, giờ trở thành một nước nhỏ không có xung đột, ở về phía Nam nước Tề. ở địa phương ấy rất tiện lợi trong việc giao thông, An đến đó để thay ta mua trước một ngàn mẫu đất. Lúc chúng ta đến, có lẽ vùng ấy sẽ tốt hơn nơi này.
Nhận thấy chồng đã chuẩn bị đầy đủ hết, Tây Thi hỏi:
- Thế bao giờ chúng ta đi?
- Có thể đi liền trong đêm nay, nhưng tốt nhất là để đêm mai. Vì ta đã hứa cho Tử Hòa một cái đỉnh, ta đặt làm trưa mai mới có.
Tử Hòa là đứa con chính thức giữa Tây Thi và Phạm Lãi.
Tây Thi đâm ra bàng hoàng:
- Thế thì nhanh quá, gấp quá! Đồ đạc chúng ta ở hải cảng hoàn toàn bỏ hết sao?
- Nửa tháng trước, ta đã cho Bình đến giải quyết công việc đó, lúc nào mình cũng có thể ra đi.
Tây Thi bối rối ngay khi Si Di Tử Bì bình thản nói luôn:
- Tây Thi, đêm mai chúng ta lên đường nhé!
Tây Thi sững sờ, khá lâu sau mới dàu dàu nói:
- Thế thì đêm nay là đêm cuối cùng của chúng ta ở tại Lâm Truy.
Sáng ngày hôm sau, Si Di Tử Bì vẫn vào triều như thường. Không một ai nhận ra có điều khác lạ. Nếu có thì là việc Si Di Tử Bì đem đồ vật tặng vài bằng hữu, ít lắm có đến ba vị đại phu và hai vị thượng khanh nhận được quà biếu.
Đêm ấy, sau mười hai giờ, Si Di Tử Bì đánh xe nhẹ cùng vợ ra cửa phía Đông thành Lâm Truy. Cửa thành đã đóng nhưng Si Di Tử Bì có đủ giấy tờ chứng minh, bảo quân canh mở cửa cho mình đến xem qua binh tình ở bờ biển dưới trăng.
Xe ra khỏi thành, có hai gia nô cưỡi ngựa mở đường chạy thẳng trên đường cái. Đi được ngoài mười dặm thì có sáu xe lớn chờ sẵn vợ chồng Tây Thi. Xe nào cũng chở đồ ăm ắp, xe nào cũng dùng bốn ngựa khỏe mạnh kéo xe.
Tại hải cảng, mọi việc đã chuẩn bị sẵn sàng. A Mang tự động đốc thúc mọi người đem hết đồ đạc lên thuyền. Sáu xe từ Lâm Truy tới cũng cho xuống thuyền chở luôn.
Tây Thi thắc mắc hỏi:
- Thiếu Bá! Chàng bỏ rất nhiều đồ quý trọng, tại sao lại đem theo mấy chiếc xe ngựa này?
- Trong tương lai, khoảng năm năm nữa, ta có thể có ba trăm xe kéo đi thành dọc dài. Vì vậy, xe và ngựa này là vật cần thiết nhất.
Nói xong, Si Di Tử Bì kéo Tây Thi lên thuyền, kiểm điểm lại đồ đạc.
Dưới trăng mờ, bên ven biển, có ba chiếc thuyền lớn. Trong khoang lớn chiếc thuyền thứ nhất chở khoảng trên năm mươi ngựa. ở lòng thuyền chất đầy ắp sắt miếng, sắt khúc, gỗ cứng, những nguyên liệu cần thiết cho việc đóng thuyền. Trên mui thuyền ngổn ngang dụng cụ làm mộc.
Thuyền thứ hai chở mười chiếc xe ngựa, vài con bò sữa, bò giống và những dụng cụ làm ruộng.
Thuyền thứ ba là thuyền đã chở vợ chồng Si Di Tử Bì bềnh bồng trên mặt Thái Hồ, chất đầy vi sồ, đồ dệt, của riêng tây.
Si Di Tử Bì nói:
- Tại hải cảng này, ta để lại gần năm mươi bò, nhiều đồ vật. Tại Lâm Truy, ta cũng lưu lại chẳng ít đồ đạc, có lẽ Trần Hằng thỏa mãn rồi.
Tây Thi buột miệng khen:
- Thiếu Bá! Chàng thật là thần xuất quỷ một!
- Bây giờ chúng ta khai thuyền. (Hạ lệnh xong, Si Di Tử Bì tuyên bố chung) Các người nên nhớ, từ rày về sau, danh hiệu của ta là Đào Châu công.
Tây Thi mỉm cười:
- Lại đổi tên mới nữa... Tương lai rồi cũng sẽ như Si Di Tử Bì!
- Không đâu, Si Di Tử Bì đã chết, cũng như Phạm Lãi đã chết. (Đào Châu công thản nhiên nói luôn) Kể từ nay, Đào Châu công sẽ sống an phận thủ thường với Tây Thi!
Ba thuyền trương buồm một lượt, dàn thành hình chữ phẩm lướt ra biển cả (Hình chữ phẩm là một chiếc đi trước, hai chiếc còn lại đi song song theo sát phía sau - chú thích của dịch giả).
Đào Châu công hỏi:
- Tây Thi, lần này khác hẳn lần rời Cô Tô chứ?
- Khác à? (Tây Thi nhìn về hải cảng dưới trăng). Không khác nhau là mấy, vì cùng có dự mưu chạy chết!
- Nhưng khác ở chỗ lúc rời Cô Tô, trong lòng nàng còn có Phù Sai, chứ lần này thì chỉ có một mình ta!
Tây Thi nghiêm mặt:
- Không cho phép nhắc đến tên người ấy. Vĩnh viễn không được phép nhắc.
- Được rồi, ta không nói nữa đâu.
Tây Thi cười yêu kiều. Đào Châu công tức Phạm Lãi đã đoán đúng... Trong lòng Tây Thi không còn có tên Ngô vương... Phù Sai...
***
Trong thành Lâm Truy, Trần Hằng vào triều không gặp Si Di Tử Bì. Nhưng khi về nhà thì được quản gia trao cho một hộp làm bằng gỗ cứng. Mở hộp ra xem, Trần Hằng thấy mô hình nhà cửa, điền viên làm bằng kim khí. Dưới đáy hộp có một tờ giấy viết bốn chữ: “Phạm Lãi kính tặng”.
- Ô! (Trần Hằng nhảy dựng, hạ lệnh) Các ngươi mau đến nhà Si Di Tử Bì xem thử rồi lập tức trở về báo cho ta biết.
Vợ chồng Si Di Tử Bì không còn ở đó nữa...
- Thì ra là Phạm Lãi!... - Sau khi nhận được báo cáo, Trần Hằng thở dài thườn thượt, không phái người đuổi theo.
Trần Hằng biết rõ, đối với Phạm Lãi có đuổi theo cũng không kịp. Việt vương đã dùng toàn lực khuynh đảo cả nước để đuổi theo Phạm Lãi biết bao năm vẫn không đuổi được nữa là... Chỉ có mỗi một việc làm được, đó là thái sử nước Tề phụng mạng ghi chuyện Si Di Tử Bì vào lịch sử.
------------------
(1 ) Không như Trung Quốc bây giờ có ngôn ngữ thống nhất, nước Tàu xưa có đến hàng trăm cách nói khác nhau. Người trong một nước nhỏ vẫn chưa chắc nói cho nhau hiểu, huống chi là khi đi sang nước khác. Vì thế, Phạm Lãi là người nước Sở, sang ở Việt, đến khi sang Tề mới bị coi là người ngoại quốc, nói tiếng ngoại quốc. - Chú thích của dịch gi.
(2) Vào thời Đông Châu, phương tiện giao thông hạn hẹp, chữ “thiên hạ” dùng đây chỉ có nghĩa là toàn thể nước Tàu bị phân chia chứ không phi thế giới gồm năm châu như ngày nay. - Chú thích của dịch giả