Trích dẫn:
Nguyên văn gởi bởi *Be_dang_yeu*
cũng như con người Hồ Xuân Hương,cái thế giới vô tri vô giác trong thơ của bà luôn luôn cựa quậy,động đậy như tuồng cái sức sống nội tại của nó tràn đầy quá,mãnh liệt quá:
Lắt lẻo cành thông cơn gió thốc
Đầm đìa lá liễu,giọt sương gieo
(Đèo Ba dội)
và nó bật thành tiếng:
Gió giật sườn non kêu răng rắc
Sóng dồn mặt nước vỗ long bong
Những cảnh vật vốn không hoạt động gì,hoặc không hoạt động gì lắm,dưới mắt Xuân hương cũng trở nên linh động vô cùng:
Cỏ gà lún phún leo quanh mép
Cá diếc le te lách giữa dòng
Nhất là trong hai câu thơ lạ lùng này làm trong một lúc rất buồn bực:
Xiên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây đá mấy hòn
Nói đến nghệ thuật tả cảnh của Xuân Hương,người ta thường đem so sánh với bà huyện Thanh Quan,một nữ thi sĩ ra đời sau Xuân Hương không xa mấy.Điều đó rất có ý nghĩa...ý nghĩa này khổng chỉ bó hẹp trong phgạm vi nghệ thuật mà còn bao quát một phạm vi rộng rãi hơn:vấn đề tư tưởng của thời đại.
Xuân hương đón nhận thiên nhiên bằng tất cả các con đường mở rộng của giác quan .Bà truyền vào đó sức sống của mình trong cảnh vật.Xuân Hương còn truyền vào đó cả cái đa tình của mình .Thiên nhiênn sẽ bừng tỉnh giấc mộng vô tri triền miên
của mình để cảm xuac và nhất là để yêu.Những giọt nước trong thơ cua Xuân hương không phải là nhưng giọt nước thông thường :đó là những giọt nước hữu tình.Đá cũng biết yêu nhau:
Gan nghĩa dãi ra cùng nhật nguyệt
Khối tình cọ mãi với non sông
Đá kia còn biết xuân già dặn...
Trăng cũng biết hò hen,chờ đợi:
Năm canh lơ lửng chờ ai đó
hay có tình riêng với nước non?
|
Khi nhắc đến HXH và Bà huyện Thanh Quan người ta thường bàn rất nhiều về phong cách của 2 nữ sĩ. Thơ Bà huyện luôn sử dụng rất nhiều danh từ mang nghĩa hoài cổ: bóng tịch dương, cô thôn, viễn phố,... bởi bà luon hoài cổ, đọc thơ bà ta như cảm thấy bà dường như không thiết tha mặn mà với cuộc sống (chỉ riêng việc sử dụng các danh tứ là chủ đạo trong thơ Bà đã nói lên điều đó). Còn HXH lại rất khác. Thơ của nữ sĩ luôn sử dụng nhiều động từ mạnh như: xiên ngang, đâm toạc, gió thốc, sương gieo...cũng sử dụng nhiều hình dung từ mà cụ thể là các trạng từ và tính từ như: cầu trắng phau phau, nước trong leo lẻo, của son đỏ loét, lún phún mọc, le te lách.Thơ bà xuất hiện đối rất chỉnh nhưng đậm dụng ý Phồn thực của bà: đối trai - gái ( Trai đu gối hạc khom khom cật, Gái uốn lưng ong ngửa ngửa lòng); trên - dưới ( Từng trên tuyết điểm phơ đầu bạc, thớt dưới sương pha đượm má hồng); trong - ngoài chành ra - khép lại để nói đến đối lập: đực - cái; nam - nữ; amm - dương nhằm tạo nghĩ lấp lửng hai mặt. Qua đó thấy Bà là người ham sống, ham hưởng thụ cuộc sống <> Bà huyện Thanh Quan mặc dù hai bà có rất nhiều điểm chung: cùng là đàn bà, cùng là người Thăng Long, cùng làm thơ Đường luật, ssoongs cùng thời đại.
Tại hạ sẽ còn quay lại để bàn tiếp !