PDA

View Full Version : Oái-oăm Từ-ngữ


Lão Tiền Bối
22-07-2007, 13:04
Nay cho ra tiêu-đề này để có nơi mà phê-phán các lối xài Việt-ngữ oái-oăm tự cổ chí kim, lấy kim làm gốc. Lại lấy tiếng sau để làm mở-đầu:

“TRUY CẬP” ???

Lão t. ta đây làm đã rất nhiều tra-cứu, song cho tới giờ vẫn KHÔNG hiểu nổi nó có gốc-gác từ đâu, tuân-thủ cú-pháp ngôn-ngữ nào, ngữ-nghĩa là gì, v.v... Phàm là tiếng thì nói ra nghe phải hay-ho mà dễ hiểu, tại sao có nhiều tiếng khác nói ra nghe thì hay-ho mà dễ hiểu hơn (tiếng này) rất là rất nhiều mà thiên-hạ, như sợ bị quở là “quê” chi chi đó, lại không dám dùng!

Lạ thay! Lạ thay!


©LTB-7.22.2007

Lão Tiền Bối
22-07-2007, 20:55
Xưa thấy có tiếng “trang nhà” dịch trắng từ tiếng “home page” (Anh-ngữ) xem thiên-hạ bây giờ như đà muốn sửa,
Nay thấy còn tiếng “phần mềm” dịch trắng từ tiếng “software” thiên-hạ bao giờ có định sửa thì chăng!

v.v. & v.v...


©LTB-7.22.2007

Lão Tiền Bối
29-07-2007, 03:44
Một người Mexico (*) tình-cờ bắt được một cổ máy thời-gian bèn thử quay về quá-khứ, năm 1907, thì gặp phải một kiều-dân người Việt, mới hỏi:

“Đây là đâu?”

“Mễ Tây Cơ.” Người kiều-dân trả-lời.

Cho là máy có chút hư-hỏng nên đến lầm nơi, người ấy đổi hướng máy mà xoay lại tương-lai, năm 2107, thì lại gặp phải một kiều-dân người Việt khác, mới lại hỏi:

“Đây là đâu?”

“Mê Hi Cô.” Người kiều-dân này lại trả-lời.

Đoan chắc cổ máy hư-hỏng đã quá nặng, về tới hiện-tại người ấy liền đập nát nó đi.

–––––––––––––
(*) – Đọc có phần tờ-tợ như me(h)-ic-gô.


©LTB-7.28.2007

Sử Tiến
30-07-2007, 06:57
Mễ Tây Cơ là âm từ tiếng Hoa 墨西哥. Dân Mễ chính gốc sống ở Mexico mới phát âm Mexico là Mehico. Cái đó gọi là dialect. Cũng giống như dân Spanish chính hiệu con nai vàng sống ở Madrid phát âm b thành v.

Còn vì sao dân Việt lại "nhập khẩu" Mê Hi Cô thì tại hạ không rõ.

PS. Software thì đã có chữ nhu liệu để thay thế một cách tương thích rồi.

Lão Tiền Bối
06-08-2007, 10:31
Mấy hôm trước NASA đưa người tới mời lão t. ta đến giúp-đỡ.

*

Nhân-viên NASA: Chào Lão Tiền Bối!

Lão Tiền Bối: Chào Nhân-viên NASA! Liệt vị trong NASA có sự chi lại phải thỉnh lão nữa đây?

N/N: Không dám giấu-giếm, một du-khách Việt-nam đang làm chúng tôi đau đầu: Va đòi xem cho được cái va ta gọi là “tàu con thoi”.

LTB: (nghĩ thầm, “Bọn NASA này ngu thiệt!”). Dẫn nó tới bãi đậu phi-thuyền khứ-hồi cho nó coi!

N/N: Đã. Va coi xong thì rằng, “Đó chỉ là máy bay,” rồi hò-hét om-sòm với bọn tiếp-đãi-viên đòi dẫn tới “tàu con thoi” cho được mới thôi.

LTB: Bảo bọn thông-dịch-viên giải-thích cho nó rõ!

N/N: Đã. Va nghe xong thì rằng, “ Máy bay mà nói ‘tàu con thoi’, bây tính gạt tao,” rồi hò-hét om-sòm với bọn tiếp-đãi-viên đòi dẫn tới “tàu con thoi” cho được mới thôi.

LTB: (suy-ngẫm, rồi nói). Ra sau nhà ta vác cái búa tạ!

N/N: (đi vác cái búa tạ)

LTB: Theo ta ra vườn sau chỗ để xe cũ!

N/N: (theo ra vườn sau)

LTB: Lựa một chiếc rồi lấy búa đi vòng-vòng vồ đều bốn góc!

N/N: (lựa một chiếc xe cũ, lấy búa đi vòng-vòng vồ đều bốn góc)

...

Chừng nửa giờ thì chiếc xe trở thành hình thoi, lão t. ta liền bảo người ấy mang nó về cho thằng “du-khách” nọ xem.

*

Mấy hôm sau NASA lại đưa người tới, cảm-ơn lão t. ta rối-rít.


©LTB-8.5.2007

Cùng Nho
06-08-2007, 10:45
Nay cho ra tiêu-đề này để có nơi mà phê-phán các lối xài Việt-ngữ oái-oăm tự cổ chí kim, lấy kim làm gốc. Lại lấy tiếng sau để làm mở-đầu:

“TRUY CẬP” ???

Lão t. ta đây làm đã rất nhiều tra-cứu, song cho tới giờ vẫn KHÔNG hiểu nổi nó có gốc-gác từ đâu, tuân-thủ cú-pháp ngôn-ngữ nào, ngữ-nghĩa là gì, v.v... Phàm là tiếng thì nói ra nghe phải hay-ho mà dễ hiểu, tại sao có nhiều tiếng khác nói ra nghe thì hay-ho mà dễ hiểu hơn (tiếng này) rất là rất nhiều mà thiên-hạ, như sợ bị quở là “quê” chi chi đó, lại không dám dùng!

Lạ thay! Lạ thay!


©LTB-7.22.2007


Đùa chút chơi:
Tại hạ không biết lão hữu ở đâu, làm gì, nhưng cũng góp vui chơi.
Từ TRUY CẬP không biết lão hữu đã nghiên cứu những đâu mà không ra, nhưng thông thường thì người ta hiểu là xuất phát từ TRUY TÌM và CẬP NHẬT. Cái cách nối từ và nói tắt. Cũng giống như câu Nước TINH khiết tiệt TRÙNG, người ta nói tắt ngắn gọn đi cho dễ hiểu...:D.

Lão Tiền Bối
09-08-2007, 13:33
Ghi ra “Truy Cặp” thì thấy có đôi điều hợp-lý: “Cặp” trong “thuyền-bè cặp bến”, “Truy” trong “truy ra hung-thủ”, ghép với nhau mà lênh-đênh trên dòng w.w.w.(*) thì quả cũng lênh-đênh, lênh-đênh, ... song xưa-nay chưa thấy ai (ngoài lão t. ta) viết thành như vậy. Mặt khác, phép ghép Hán vào Nôm ít thấy được dùng để tạo một tiếng mới.

Bỏ đi được chữ “Truy” thì hay thay!

*

Hãy nghe thử:
– Cặp vô (vào) chỗ “luongsonbac đọt cồm”
– Cặp vô (vào) phòng “Ngôn Ngữ Học”
– v.v...
Xong tưởng-tượng mang chiếc laptop đến những miền Hoóc-bà-tó, Chắc-cà-đao, v.v... mà chỉ-trỏ rồi nói như trên, thì thử nghĩ có mấy ai mà không hiểu hay không!

–––––––––––––
(*) – Viết tắt của “World Wide Web”, vẫn là 3 chữ “w” nằm đầu địa-chỉ các trang web.


©LTB-8.9.2007

Sử Tiến
14-08-2007, 11:59
Chik chưa! Truy cập là tiếng Hán Việt mà. Lão thay cập bằng cặp khác nào trình diễn kiểu thời trang mới: mặc xường xám mang giày thể thao Adidas.

Nghĩa nôm na của truy cập là đuổi kịp, tùy theo văn cảnh có thể hiểu khác đi. Ví dụ như truy cập vấn đề tức theo dõi vấn đề, truy cập vào luongsonbac.com tức truy tìm đến trang web luongsonbac.com...

Mặc ý lão muốn dùng cặp riêng để phân biệt phong cách của lão cũng được, miễn đừng có ba rọi dùng truy cặp thì tại hạ dzô cùng cám ơn!

TC NGUYỄN
20-08-2007, 18:24
Từ-ngữ không có oái-oăm mà là con người oái-oăm đặt ra nó, tuy nhiên nó cũng có luật lệ của nó, chẳng hạn như chữ đôi thì Nho đi với Nho, Nôm đi với Nôm mới hợp cách như ST nêu ra.

Hai chữ truy cập thử phân tích nghĩa từng chữ rồi nhập lại sẽ tìm ra ý ngay.

-Truy: rượt theo, đuổi theo kịp, xét việc đã qua. Thí dụ: Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy- Một lời nói ra khỏi cửa miệng là xe bốn ngựa đuổi theo cũng không kiệp- hay tứ bất cập thiệt nghĩa là ta phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói (Đạo Đức Kinh)- Once a word is said, it is very difficult to retract it-->what is said cannot be unsaid.Trong hai câu chữ nho cùng nghĩa trên ta đã thấy có chữ truy và chữ cập..., suy ra chữ truy và chữ cập ghép vào nhau cũng không phải là gượng ép ?...

-Cập:đến, kịp, theo tới nơi. Thí dụ: Cập môn đệ tử- Học trò ở cửa- tức là học trò chính thức- Registered student và ta cũng có câu cập nhật hóa- to update,...

Như vậy chữ truy cập nghĩa nó rất rõ ràng không còn là oái-oăm nữa !

Lão Tiền Bối
21-08-2007, 19:30
Gốc Mỹ, “Hurricane Dean”: Vô-cùng dễ hiểu!

Sang ra, “Bão Dean”: Hơi hơi khó... đọc!

Biến thành, “Cuồng-phong Điên”(*): Hơi hơi khó hiểu!

Cải-tiến lên, “Cơn Bão Cuồng-phong Điên”(*): Vô-cùng khó hiểu!

-------------
(*) - Các tiếng này đều có thật!

vuhanam
05-11-2007, 04:27
Như vậy chữ truy cập nghĩa nó rất rõ ràng không còn là oái-oăm nữa !tôi cũng nghĩ như vậy.Bác thử Truy thêm từ này có họ hàng gì với ông CẬP THỜI VŨ không?

bachlongdailaogia
13-11-2007, 00:00
Nay cho ra tiêu-đề này để có nơi mà phê-phán các lối xài Việt-ngữ oái-oăm tự cổ chí kim, lấy kim làm gốc. Lại lấy tiếng sau để làm mở-đầu:

“TRUY CẬP” ???

Lão t. ta đây làm đã rất nhiều tra-cứu, song cho tới giờ vẫn KHÔNG hiểu nổi nó có gốc-gác từ đâu, tuân-thủ cú-pháp ngôn-ngữ nào, ngữ-nghĩa là gì, v.v... Phàm là tiếng thì nói ra nghe phải hay-ho mà dễ hiểu, tại sao có nhiều tiếng khác nói ra nghe thì hay-ho mà dễ hiểu hơn (tiếng này) rất là rất nhiều mà thiên-hạ, như sợ bị quở là “quê” chi chi đó, lại không dám dùng!

Lạ thay! Lạ thay!


©LTB-7.22.2007


Đùa chút chơi:
Tại hạ không biết lão hữu ở đâu, làm gì, nhưng cũng góp vui chơi.
Từ TRUY CẬP không biết lão hữu đã nghiên cứu những đâu mà không ra, nhưng thông thường thì người ta hiểu là xuất phát từ TRUY TÌM và CẬP NHẬT. Cái cách nối từ và nói tắt. Cũng giống như câu Nước TINH khiết tiệt TRÙNG, người ta nói tắt ngắn gọn đi cho dễ hiểu...:D.

************************************************** ******
trời ạ quảng cáo thời nào mà ngu dữ vậy ta đã NƯỚC TINH KHIẾT rồi mà lại còn tiệt trùng cái khỉ gì nữa .Chắc nó không biết thế nào là tinh khiết sứt. Thì lão gia bảo cho nó nghe ,NƯỚC TINH KHIẾT TỨC LÀ NƯỚC NGUYÊN CHẤT ... đã nguyên chất thì móc đâu ra trùng ... để mà tiệt !

bachlongdailaogia
13-11-2007, 00:05
Cac huynh giải thích chuối quá cho laong mỗ hỏi ta thừong nói "Cặp thười vũ Tống Giang" hay "Cập thời vũ Tống Giang " có thế thôi mà cũng phải bàn về mấy cái chữ ba lăng nhăng vớ vẩn long mỗ thấy rỗi hơi quá

Sử Tiến
13-11-2007, 10:30
Vũ trong Cập Thời Vũ chẳng phải mái nhà che mưa che nắng gì đâu. Chữ vũ này nghĩa đích xác của nó là mưa, ám chỉ Trại chủ họ Tống của Lương Sơn là cơn mưa nhuần kịp thời kịp lúc. Tôn chỉ cướp người giàu chia cho người nghèo của Lương Sơn đại trại đối với bình dân bá tánh đang phải chịu cảnh sưu cao thuế nặng mà nói thì chẳng khác nào đại hạn phùng cam vũ.

Nhân tiện nói luôn, danh hiệu Hô Bảo Nghĩa (kêu gọi chính nghĩa) rất hay "được" bỏ thêm dấu rất oai: Hổ Bảo Nghĩa mà chẳng có ý nghĩa tẹo nào. Lại nữa, danh tính của Địa Tuệ Tinh là Hỗ Tam Nương (biệt hiệu Nhất Trượng Thanh) chứ không phải Hổ Tam Nương hoặc Hộ Tam Nương như vẫn thường thấy.

TC NGUYỄN
16-02-2009, 16:40
Ngày nay trên đài phát thanh hay liên mạng toàn cầu người ta thường dùng hai chữ Thông Tin để thay cho hai chữ Tin và Tin Tức!.

Đây chỉ là đại diện cho cách dùng ngôn từ làm cho ngôn ngữ Việt trở thành “oái ăm” hơn!?- Xin thử xét xem từng ý nghĩa và từ đó suy rộng ra cách dùng từ ngày nay về điểm mạnh và yếu của nó như thế nào để tạo cho tiếng Việt ta chuẩn hơn…/ Xin cho ý kiến.

LSB-phucket
17-02-2009, 03:37
TC,
Thông: thông báo
Tin: tin tức
Thông Tin: thông báo tin tức cho mọi nguòi
vậy là hợp rồi đâu có gì đâu, đây cũng chỉ là ghép từ từ 2 chữ ngắn gọn

TC NGUYỄN
18-02-2009, 04:54
...
1/- Thông tin (information) có nghĩa truyền tin cho nhau biết, sự loan truyền tin tức
2/- Tin tức/tin (news) Những việc xảy ra, vừa biết được: Tin tức hàng ngày.

Rõ ràng thông tin và tin tức nghĩa hoàn toàn khác nhau, chẳng hạn khi ta nói hãng thông tấn gửi đi bản tin chứ không thể nói gửi đi bản thông tin vì bản tin là nói đến những tin tức mà ký giả tại chỗ thu lượm được; còn bản thông tin thì là bản thông báo cho nhau cái gì đó để liên lạc…

Hong_tien_nu18
18-02-2009, 17:06
...
1/- Thông tin (information) có nghĩa truyền tin cho nhau biết, sự loan truyền tin tức
2/- Tin tức/tin (news) Những việc xảy ra, vừa biết được: Tin tức hàng ngày.

Rõ ràng thông tin và tin tức nghĩa hoàn toàn khác nhau, chẳng hạn khi ta nói hảng thông tấn gửi đi bản tin chứ không thể nói gửi đi bản thông tin vì bản tin là nói đến những tin tức mà ký giả tại chỗ thu lượm được; còn bản thông tin thì là bản thông báo cho nhau cái gì đó để liên lạc…

Người ta sẽ thường nói "Hãng thông tấn gửi thông tin" hoặc "bản tin" chứ ta chưa từng nghe nói đến "bản thông tin". TC-N ngài có nhầm không vậy ?

Làm ơn, giải thích bằng tiếng Việt, hoặc cùng lắm là Hán - Việt. Hỏi cái oái oăm của tiếng Việt mà lại dùng tiếng Anh để giải thích ? Khi dịch từ tiếng Anh sang từ tiếng Việt chỉ mang tính chất tương đối cho mọi người dễ hiểu, ai dám đảm bảo nó chính xác tuyệt đối được ?

Từ Thông tin trong tiếng Việt chắc gì đã là từ Information của tiếng Anh ? Nhỡ đâu trên báo đài người ta dùng từ theo kiểu từ ghép như phucket giải thích thì sao ?

Nói tiếng Việt oái oăm, sao không bảo tiếng Anh cũng thế đi ? Nghe đâu dạo này từ điển tiếng Anh cũng phải sửa lại, thêm một số từ thông dụng mới được sáng tạo trong thời đại toàn cầu. Thế giới người ta cũng phải chấp nhận những từ ngữ mới đó, sao lại cứ quay mũi dùi sang tiếng Việt ? Tiếng Việt trong thi thơ, đôi khi các thi sĩ dùng cách đảo từ nọ kia để sáng tạo ra những từ mới cho hợp âm, hợp vần, nhưng người đọc vẫn hiểu vậy.

WyXieoBao
18-02-2009, 19:18
Từ-ngữ không có oái-oăm mà là con người oái-oăm đặt ra nó, tuy nhiên nó cũng có luật lệ của nó, chẳng hạn như chữ đôi thì Nho đi với Nho, Nôm đi vớ Nôm mới hợp cách như ST nêu ra.

Hai chữ truy cập thử phân tích nghĩa từng chữ rồi nhập lại sẽ tìm ra ý ngay.

-Truy: rượt theo, đuổi theo kịp, xét việc đã qua. Thí dụ: Nhất ngôn ký xuất tứ mã nan truy- Một lời nói ra khỏi cửa miệng là xe bốn ngựa đuổi theo cũng không kiệp- hay tứ bất cập thiệt nghĩa là ta phải thận trọng trong lời ăn tiếng nói (Đạo Đức Kinh)- Once a word is said, it is very difficult to retract it-->what is said cannot be unsaid.Trong hai câu chữ nho cùng nghĩa trên ta đã thấy có chữ truy và chữ cập..., suy ra chữ truy và chữ cập ghép vào nhau cũng không phải là gượng ép ?...

-Cập:đến, kịp, theo tới nơi. Thí dụ: Cập môn đệ tử- Học trò ở cửa- tức là học trò chính thức- Registered student và ta cũng có câu cập nhật hóa- to update,...

Như vậy chữ truy cập nghĩa nó rất rõ ràng không còn là oái-oăm nữa !
Huynh TC-Nguyễn phân tích khá chính xác.Nhưng Tiêu Bao xin mạn phép chỉnh lý lai một số sai sót nhỏ.
Truy từ gốc xuất phát từ tiếng Hán là Zhui.Và nếu chỉ một từ Zhui thì hok có một nghĩa nào khác.Một số nghĩa khác ví dụ như:
Truy hỏi: zhui wen
truy cứu: zhuijiu
truy nã: zhuibu.....vvv.......
Câu thành ngữ :"Nhất ngôn ký xuất Tứ mã nan truy"
Nghĩa đen của nó là Một lời đã thốt ra thì Ngựa Tứ đuổi theo hok kịp.Chứ hok phải là cỗ xe 4 ngựa hay 4 con ngựa chạy gì hết.
Ngựa Tứ là một dòng ngựa chiến thuộc JingCheng (Liêu Đông cũ).Hay còn gọi là Nội Mông-Trung Quốc.
Vậy nên từ Truy cập là một từ ghép Hán Việt cải cách.Chứ hok phải Hán mượn gốc.Đồng nghĩa với từ Truy nhập là từ Hán mượn gốc.
Xin lỗi huynh TC-Nguyên nhưng còn những nghĩa tiếng Việt huynh giải thích hoàn toàn hok thích hợp.
Vì từ Cập là từ thuần Việt hok có nghĩa khác chỉ có những từ đồng nghĩa.Xin huynh lưu ý cho.
Còn hai câu :Cập môn đệ tử.
Tứ bất cập thiệt.Thì đệ hoàn toàn hok hiểu huynh lấy ở đâu ra!
Có lẽ hoặc là huynh tự nghĩ ra hoặc huynh viết nhầm từ khác ru?
Thiết nghĩ huynh là đầu lĩnh box ngôn ngư học nên cận trọng hơn trong những bài phân tích ngôn ngữ để tránh cho danh tiếng của LS.

TC NGUYỄN
25-02-2009, 03:02
...Tiêu Bao xin mạn phép chỉnh lý lai một số sai sót nhỏ.
Truy từ gốc xuất phát từ tiếng Hán...
Nếu suy từ chính gốc từ tiếng Hán ta thường thấy những từ Hán-Việt khi dùng đôi khi nó đi xa với nghĩa nguyên thủy có lúc lại phản nghĩa nữa... Cảm ơn bằng hữu chia sẻ

Còn hai câu :Cập môn đệ tử.
Tứ bất cập thiệt.Thì đệ hoàn toàn hok hiểu huynh lấy ở đâu ra!
....
Một câu từ Đạo Đức Kinh đã trích ở trên & một câu rất thông thường của người có học chút ít chữ Nho có thể biết- Tại hạ không đủ sức để tự đặt, tất cả đều sưu tầm...

Thiết nghĩ huynh là đầu lĩnh box ngôn ngữ học nên cận trọng hơn trong những bài phân tích ngôn ngữ để tránh cho danh tiếng của LS.
Câu này bằng hữu đặt cao vọng quá.../ Tại hạ chỉ được BQT cho vào QL(là chính) một cái Box nho nhỏ để cùng chia sẻ "Học hỏi và bàn luận về ngôn ngữ" cùng quí bạn.../, còn về NNH thì không biết nói sao cho hết...tại hạ sẽ cố gắng cẩn trọng hết mình thế thôi, còn chuyện suy diễn xa hơn tại hạ không dám nhận...

TC NGUYỄN
26-02-2009, 10:35
Người ta sẽ thường nói "Hãng thông tấn gửi thông tin" hoặc "bản tin" chứ ta chưa từng nghe nói đến "bản thông tin"...
Xin dùng toán suy luận cho vui- như tiền đề nêu, ngày nay ta hay dùng hai chữ thông tin thay cho tin/tin tức như vậy:

thông tin = tin/tin tức

Bây giờ thí dụ ta nhân(x) (hay cộng+) vào cùng chữ bản chẳng hạn vào hai vế trên ta có hai vế trên nguyên tắc nó không đổi :

bản x thông tin = bản x tin/tin tức

hay:

bản thông tin = bản tin tức

Nhưng đến đây thì đúng như bằng hữu nói không được rồi, vì không ai dùng bản thông tin thay cho bản tin tức khi đi với Hãng thông tấn gửi…đi!, chính vào lời bàn này một lần nữa xác định chữ thông tin và tin/tin tức không thể dùng hồ lốn để thay thế cho nhau…nó sẽ mang nhiều sự hiểu lầm...

EVE
27-04-2009, 17:24
Em lang thang đến đây thấy có topic này hay hay, chữ Việt mình "oái oăm" thật, chẳng hạng như cái danh hiệu(title) Tiến Sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, nó từ đâu đến và khác nhau như thế nào, vì em thấy ngày nay ở quốc ngoại cũng như trong nước người ta dùng bừa bãi quá, có lẽ vì chữ Việt quá "oái oăm" mà ra nông nổi này chăng?- Xin các bạn giải thích dùm em đi...

Tiểu Hổ
28-04-2009, 15:48
EVE này theo tiểu đệ thì "Tiến Sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ," Tiến sĩ, Thạc sĩ và Bác sĩ kô giống nhau được, Bác sĩ là môt tên gọi nghề nghiệp như (y tá, nha sĩ, sinh viên, phi công...) Thạc sĩ, Tiến Sĩ, là danh hiệu "học vị" họ có được trong quá trinh nghiên cứu và bảo vệ công trình của họ ở các cấp độ khác nhau.
Theo tiểu đệ biết thì như vậy, mong cac huynh, tỷ chỉ giáo thêm, đa tạ ^^

TC NGUYỄN
02-05-2009, 17:45
...danh hiệu(title) Tiến Sĩ, Thạc sĩ, Bác sĩ, nó từ đâu đến và khác nhau như thế nào, vì em thấy ngày nay ở quốc ngoại cũng như trong nước người ta dùng bừa bãi quá, có lẽ vì chữ Việt quá "oái oăm" mà ra nông nổi này chăng?- Xin các bạn giải thích dùm em đi...

…Mạo muội xin trả lời :

1/-Học vị Thạc sĩ, Tiến Sĩ, Bác sĩ ?

Ở Việt Nam hiện nay bằng cấp hay học vị những người tốt nghiệp ở ngoại quốc được dịch ra và công nhận như sau:

- Master (M Sc, M.A, M.B.A…) = Thạc Sĩ
- Ph.D (Doctor of Philosophy) = Tiến Sĩ
- Tiến sĩ và Bác sĩ tiếng Việt ta phân biệt Nhưng trong tiếng Anh, những người có học vị Ph.D, D.Sc và M.D đều được gọi là Doctor; đó là chi những người trải qua một chưng trình học “Doctorate", là một từ chung dùng để chỉ học vị "Tiến sĩ".

Việc dịch các bằng ngoại quốc ra như thế này là không chính xác và gây nhiều tranh cải, nếu xét kỹ đến hệ thống giáo dục có ảnh hưởng sâu đậm đến nền giáo dục hiện đại Việt Nam như Pháp, Mỹ, Anh, Úc thì ta thấy rất nhiêu khê…

2/-Từ Tiến sĩ có từ đâu đến ?

Từ Tiến sĩ phát xuất từ chữ Hán, tiếng Anh phiên âm là là Chin-shih (Doctor), văn bằng này được cấp đầu tiên vào triều đại nhà Tống bên Tàu…

Khi các triều đại phong kiến VN dùng chữ Hán trong giáo dục, khởi đầu là nhà Lý năm 1075 mở khoa thi Minh Kinh đầu tiên, đến năm 1919 nhà Nguyễn tổ chức khoa thi Tiến sĩ cuối cùng. Trong suốt 844 năm với 180 khoa thi Hội rồi thi Đình, học vị Tiến sĩ luôn luôn chỉ chung cho những người đậu cao nhất trong cùng kỳ thi là Tiến sĩ đệ nhất giáp(Tsđng), và Tsđng này chia ra làm 3 hạng theo thứ tự từ cao đến thấp:

- Tiến sĩ đệ nhất danh hay Trạng nguyên (Tiến sĩ tối ưu)
- Tiến sĩ đệ nhị danh hay Bãng nhãn
- Tiến sĩ đệ tam danh hay Thám hoa

3/- Việc xử dụng bừa bải vì chữ Việt “oái ăm”?

Không phải vậy, vì những lý do là bạn chưa quen với hệ thống bằng cấp và khoa bảng hiện đại, vì những tên gọi những học vị ngay trên tiêu chuẩn quốc gia, các trường đại học các nước tân tiến, mang tính tự trị, nên họ đặc ra những tiêu chuẩn riêng cho các bằng cấp mà họ cấp phát, huống chi ta lại dịch ra mớ đa dạng bằng cấp ngoại quốc ấy thì sự lạm dụng có thể hiểu, việc quan trọng là ta phải tìm hiểu và đánh giá theo thời gian, có lẽ ta sẽ chấp nhận được nếu nhiều những người có học vị xứng đáng…Và như vậy nó không liên quan gì đến tiếng Việt của ta gọi là “oái ăm”!...

Lão Tiền Bối
05-06-2009, 08:52
Xưa, người trong Nam hay gọi là "máy đánh chữ", (ngoài Bắc, "...gõ..." (?)), có lẽ vì cần phải đập các ngón tay thật mạnh máy mới in chữ ra được, bởi thời ấy nó là một thiết-bị cơ-khí.

Nay, ai có xài bàn chữ máy-tính đều biết chỉ cần đè hơi mạnh tay chút thôi là nó in ra hàng chục chữ, nói gì tới đánh. Mặt khác, gõ cho mạnh thì không chóng-chầy lại phải mua bàn chữ mới mất!

Đặt tiếng khác đi! Thiếu gì tiếng! Bấm, nhấn, v.v. (Ø nói nữa:D)

Lâm Thiên Bảo
06-06-2009, 09:30
Ngày xưa nó là nguyên cái máy đánh chữ, còn bây giờ nó là bàn phím. Máy đánh chữ thì phải đánh nó mới có chữ chứ. Mà đánh là chính xác rồi. Hồi đó ông bố bà bố đánh chữ toàn là dùng viết chì để mà đánh, chứ tay chân nào mà đánh cho nổi. Với lại cái cách bày trí phím của nó cũng đâu có giống cái bàn phím bây giờ.

Bây giờ cái máy đánh chữ đó thuộc dạng cổ rồi, xưa như đời cô Lựu vậy. Với dân tình bây giờ lời nó sàng lại với nhau mất rồi. Bắc Trung Nam gì thì cũng sàng chung tiếng nói lại với nhau hết rồi. Nên phím thì phải gõ, lâu lâu thì bấm, mà thường thì là ấn.

Nói nào ngay, chứ bây giờ mỗi lần coi Tom&Jerry cái tập mà đánh đàn dương cầm ấy, là mình lại nhớ tới cái máy đánh chữ. Mà nhớ máy đánh chữ là lại nhớ tới ông bố bà bố. Mà hễ nhớ tới ông bố bà bố là lại muốn về quê. Mà hễ muốn về quê là muốn xin nghỉ việc. Mà muốn xin nghỉ việc là nghĩ ngay tới cái cảnh nằm chèo queo vì đói. Mà hễ nghĩ tới cái cảnh hẩm hiu đó thì không muốn xem Tom&Jerry nữa. Mà không muốn xem Tom&Jerry nữa thì lại hết nhớ tới cái máy đánh chữ. Mà hết nhớ tới máy đánh chữ là lại hết nhớ tới ông bố bà bố. Mà hễ hết nhớ tới ông bố bà bố thì.... có đứa sắp bị xáng bạt tai rồi, nên dừng phím thôi.

EVE
02-07-2009, 15:10
Ngôn ngữ hầu hết của dân tộc trên thế giới xoay quanh hai động từ “có” và “là”(être et avoir, to be and to have); riêng dân tộc Việt ta thì động từ căn bản lại là “ăn”, oái ăm là chữ “ăn”, xin các bạn giải thích và cho ý kiến cách dùng động từ này…

NhatVuong
02-07-2009, 20:17
Ngôn ngữ hầu hết của dân tộc trên thế giới xoay quanh hai động từ “có” và “là”(être et avoir, to be and to have); riêng dân tộc Việt ta thì động từ căn bản lại là “ăn”, oái ăm là chữ “ăn”, xin các bạn giải thích và cho ý kiến cách dùng động từ này…

Em chả hiểu gì cả mấy anh,chị ah! Tại sao ăn lại là động từ căn bản của người Việt vậy?

Hoài cổ
02-07-2009, 23:43
…Mạo muội xin trả lời :

1/-Học vị Thạc sĩ, Tiến Sĩ, Bác sĩ ?

Ở Việt Nam hiện nay bằng cấp hay học vị những người tốt nghiệp ở ngoại quốc được dịch ra và công nhận như sau:

- Master (M Sc, M.A, M.B.A…) = Thạc Sĩ
- Ph.D (Doctor of Philosophy) = Tiến Sĩ
- Tiến sĩ và Bác sĩ tiếng Việt ta phân biệt Nhưng trong tiếng Anh, những người có học vị Ph.D, D.Sc và M.D đều được gọi là Doctor; đó là chi những người trải qua một chưng trình học “Doctorate", là một từ chung dùng để chỉ học vị "Tiến sĩ".

Việc dịch các bằng ngoại quốc ra như thế này là không chính xác và gây nhiều tranh cải, nếu xét kỹ đến hệ thống giáo dục có ảnh hưởng sâu đậm đến nền giáo dục hiện đại Việt Nam như Pháp, Mỹ, Anh, Úc thì ta thấy rất nhiêu khê…

2/-Từ Tiến sĩ có từ đâu đến ?

Từ Tiến sĩ phát xuất từ chữ Hán, tiếng Anh phiên âm là là Chin-shih (Doctor), văn bằng này được cấp đầu tiên vào triều đại nhà Tống bên Tàu…

Khi các triều đại phong kiến VN dùng chữ Hán trong giáo dục, khởi đầu là nhà Lý năm 1075 mở khoa thi Minh Kinh đầu tiên, đến năm 1919 nhà Nguyễn tổ chức khoa thi Tiến sĩ cuối cùng. Trong suốt 844 năm với 180 khoa thi Hội rồi thi Đình, học vị Tiến sĩ luôn luôn chỉ chung cho những người đậu cao nhất trong cùng kỳ thi là Tiến sĩ đệ nhất giáp(Tsđng), và Tsđng này chia ra làm 3 hạng theo thứ tự từ cao đến thấp:

- Tiến sĩ đệ nhất danh hay Trạng nguyên (Tiến sĩ tối ưu)
- Tiến sĩ đệ nhị danh hay Bãng nhãn
- Tiến sĩ đệ tam danh hay Thám hoa

3/- Việc xử dụng bừa bải vì chữ Việt “oái ăm”?

Không phải vậy, vì những lý do là bạn chưa quen với hệ thống bằng cấp và khoa bảng hiện đại, vì những tên gọi những học vị ngay trên tiêu chuẩn quốc gia, các trường đại học các nước tân tiến, mang tính tự trị, nên họ đặc ra những tiêu chuẩn riêng cho các bằng cấp mà họ cấp phát, huống chi ta lại dịch ra mớ đa dạng bằng cấp ngoại quốc ấy thì sự lạm dụng có thể hiểu, việc quan trọng là ta phải tìm hiểu và đánh giá theo thời gian, có lẽ ta sẽ chấp nhận được nếu nhiều những người có học vị xứng đáng…Và như vậy nó không liên quan gì đến tiếng Việt của ta gọi là “oái ăm”!...

Theo tôi thấy tiếng Việt của chúng ta chẳng có gì là oái oăm cả, ngược lại là rất trong sáng, rõ ràng. Bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ là các học vị được Nhà nước Việt Nam công nhận sau quá trình học tập, nghiên cứu.
- Bác sĩ là chương trình đại học của ngành y (tương đương với cử nhân, kỹ sư ...);
- Thạc sĩ là hệ cao học (sau đại học), những người tốt nghiệp đại học (bác sĩ, cử nhân, kỹ sư ...) học tiếp chương trình cao học sẽ được cấp bằng thạc sĩ;
- Tiến sĩ là những người có bằng thạc sĩ nghiên cứu, bảo vệ đề tài, luận án (nghiên cứu sinh) sẽ được cấp bằng tiến sĩ.
Đơn giản thế thôi, rất dễ hiểu đâu có gì mà phải gọi là sử dụng bừa bãi, oái oăm...

AI_TAN_CAT_LANG
03-07-2009, 01:03
Ngôn ngữ hầu hết của dân tộc trên thế giới xoay quanh hai động từ “có” và “là”(être et avoir, to be and to have); riêng dân tộc Việt ta thì động từ căn bản lại là “ăn”, oái ăm là chữ “ăn”, xin các bạn giải thích và cho ý kiến cách dùng động từ này…

Theo ATCL nghĩ chữ "ăn" trong căn bản tiếng Việt ta là chử " anh ". "Anh" nghĩ ở đây là "anh , em " chứ không phải là " ăn , uống" vì cách đọc, phát âm "bừa, trật, không đúng chuẩn " nên thành " ăn". Có lẽ vì phép lịch sự hay mang tính chất tôn trọng nên động từ chính là " anh"; trong cách giao tiếp hàng ngày .

Ví dụ :
Bà ngoại ATCL hỏi phụ thân ATCL " ăn làm cái này hộ tôi" nhưng đúng thì viết " anh, làm cái này hộ tôi" .

Nhỏ bạn ATCL nói với anh hai nó : " ăn hai ơi " nhưng đúng thì viết " anh hai ơi !".

Phụ thân ATCL tới nhà bằng hữu thì các ông nói như thế này: "ăn ngồi chơi, ăn xơi nước " nhưng đúng thì viết " anh ngồi chơi, anh xơi nước".

ATCL tới nhà bạn gặp thằng em nó cũng chào " dạ, chào ăn" khi viết đúng thì là " da, chào anh ".

ATCL nghĩ như vậy đó, không biết có đúng với cách suy nghĩ của EVE và cũng như của mọi người ?

ATCL.

EVE
03-07-2009, 18:39
Theo ATCL nghĩ chữ "ăn" trong căn bản tiếng Việt ta là chử " anh ".
...
ATCL nghĩ như vậy đó, không biết có đúng với cách suy nghĩ của EVE và cũng như của mọi người ?
ATCL.

Theo Eve thì "anh" là danh từ hay đại danh từ..., còn "ăn" là động từ, hai chữ này không thể liên kết để cùng nghĩa được, khi nói âm địa phương làm ta lẫn lộn, nhưng khi viết thì từ nào ra từ nấy...

Eve thấy hiện nay ở VN ta dùng từ nghe ngộ nghĩnh và nhận thức rằng ngôn ngữ đổi thay nó liên quan đến quá trình lịch sử, tâm lý xã hội... của một nước.

Để rõ ràng hơn Eve lấy thí dụ các từ mới lạ ngày nay ở VN thường dủng:
-Cái nhà này hơi bị nhỏ đấy (cái nhà này hơi nhỏ đấy)
-Tao bán hơn năm ngàn mét đất được vài ngàn cây, sau khi lịch sự mất vài trăm cây(lịch sự = đút lót hay đưa hối lộ. @Lịch sự biến thành động từ)
-Thằng bạn nhờ đó được một trăm cây tiền lùi(Tiền lùi =có nghĩa là tiền mà kẻ được lịch sự bớt cho, còn gọi là tiền lại quả, cũng một tiếng thời thượng mới. Nó đi năm trăm cây nhưng lùi cho một trăm cây. Hắn tặng
-Túi mốt(mốt= thời trang)
-Hàng đểu(là hàng giả- đểu=giả)
...
Mời các bạn bàn đến động từ "ăn" cho vui.

Hoài cổ
04-07-2009, 12:55
Ngôn ngữ hầu hết của dân tộc trên thế giới xoay quanh hai động từ “có” và “là”(être et avoir, to be and to have); riêng dân tộc Việt ta thì động từ căn bản lại là “ăn”, oái ăm là chữ “ăn”, xin các bạn giải thích và cho ý kiến cách dùng động từ này…

Ngôn ngữ của các dân tộc khác trên thế giới thì tôi không biết đến. Riêng ngôn ngữ dân tộc Việt Nam thì tôi xin có vài ý kiến nhỏ như sau:

"riêng dân tộc Việt ta thì động từ căn bản lại là “ăn”, oái ăm là chữ “ăn", câu này chính tôi phải hỏi lại bạn: bạn dựa vào đâu mà nói từ "ăn" là động từ căn bản của dân tộc Việt Nam?

Chữ "ăn" có nhiều nghĩa, gồm nghĩa đen và nghĩa bóng và tùy theo nghĩa đen hay nghĩa bóng mà nó là động từ hay tính từ ...

Qua tra cứu từ điển tôi thấy có các từ "ăn" như sau:
*ăn
1. Cho vào cơ thể qua miệng: Ăn có nhai, nói có nghĩ
2. Dự bữa cơm, bữa tiệc: Có người mời ăn
3. Ăn uống nhân một dịp gì: ăn tết
4. Dùng phương tiện gì để ăn: Người âu-châu không quen ăn đũa
5. Hút thuốc hay nhai trầu: Ông cụ ăn thuốc bà cụ ăn trầu
6. Tiếp nhận, tiêu thụ: Xe này ăn tốn xăng; lò này ăn nhiều than
7. Nhận lấy để chở đi: Ô-tô ăn khách; tàu ăn hàng
8. Phải nhận lấy cái không hay: Ăn đòn; ăn đạn
9. Nhận để hưởng: Ăn thừa tự; ăn lương; ăn hoa hồng
10. Thông với, hợp vào: Sông ăn ra biển
11. Được thấm vào, dính vào: Giấy ăn mực; Sơn ăn từng mặt; Hồ dán không ăn
12. Phụ vào, thuộc về: Ruộng này ăn về xã tôi
13. Giành lấy về phần mình: Ăn giải
14. Có tác dụng: Phanh này không ăn
15. Tương đương với: Một cân ta ăn 600 gam
16. Ngang giá với: Hôm nay một đô-la Mĩ ăn mười ba nghìn đồng Việt-nam.

* ăn bám
- Có sức lao động mà không làm việc, chỉ sống nhờ vào lao động của người khác. Sống ăn bám. Không chịu đi làm, ăn bám bố mẹ.

* ăn bận
- ăn mặc: ăn bận gọn gàng.

* ăn bốc
- ăn bằng tay, không dùng đũa hoặc nĩa: Có những dân tộc quen ăn bốc, nhưng trước khi ăn, người ta rửa tay thực sạch sẽ.

* ăn bớt
- Lấy bớt đi để hưởng một phần, lợi dụng việc mình nhận làm cho người khác. Nhận làm gia công, ăn bớt nguyên vật liệu.

* ăn cánh
- Hợp lại thành phe cánh: Giám đốc và kế toán trưởng rất ăn cánh với nhau.

* ăn cắp
- Lấy vụng tiền bạc đồ đạc, của người ta, khi người ta vắng mặt: Ăn cắp quen tay, ngủ ngày quen mắt (tng).

* ăn chay
- Ăn cơm chay để tu hành, theo đạo Phật và một số tôn giáo khác. Ăn chay niệm Phật. Ăn chay ngày rằm và mồng một. Ăn mặn nói ngay còn hơn ăn chay nói dối.

* ăn chắc
- Nắm vững phần lợi hay phần thắng.

* ăn chơi
- Tiêu khiển bằng các thú vui vật chất (nói khái quát).

* ăn cỗ
- Dự một bữa ăn trọng thể nhân một dịp gì: ăn cỗ đi trước, lội nước đi sau.
* ăn cưới
- Dự đám cưới (thường là có ăn mặn): ăn cưới chẳng tày lại mặt (tng.).

* ăn cướp
- Dùng vũ lực để đoạt tiền của người khác: Vừa ăn cướp vừa la làng (tng).

* ăn giải
- Được phần thưởng trong một cuộc đua: Nếu không được ăn giải thì chí ít cũng hấp dẫn cảm tình người xem (NgTuân).

* ăn gian
- Cố ý tính sai, làm sai đi để thu lợi về mình. Chơi bài ăn gian. Nó đếm ăn gian mất mấy trăm.

* ăn giỗ
- Dự lễ và ăn uống trong ngày kị một người đã qua đời: Ông tôi đi ăn giỗ ở xóm trên.

* ăn hại
- Chỉ ăn và gây tốn kém, thiệt hại cho người khác, không làm được gì có ích. Sống ăn hại xã hội. Đồ ăn hại! (tiếng mắng).

* ăn hiếp
- Buộc trẻ con hoặc người yếu thế hơn phải làm theo ý mình bằng bắt nạt, doạ dẫm: Người lớn mà lại ăn hiếp trẻ con.

* ăn hỏi
- Đến nhà người con gái để xin cưới: Mới ăn hỏi được mấy hôm đã tổ chức lễ cưới.
ăn hối lộ
- Nhận tiền của hối lộ.

* ăn không
- 1. ăn tiêu mà không làm ra tiền, của cải: Cứ ngồi nhà ăn không thì của núi cũng hết. 2. Lấy không của người khác bằng thủ đoạn, mánh khoé: Kiểu kí kết như thế này thì quả là làm để cho chủ ăn không.

* ăn khớp
- 1. Rất khít vào với nhau: Mộng ăn khớp rồi 2. Phù hợp với: Kế hoạch ấy không ăn khớp với tình hình hiện tại.

* ăn kiêng
- Tránh ăn những thứ mà người ta cho là độc: Ông lang khuyên người ốm phải ăn kiêng thịt gà.

* ăn lãi
- Hưởng tiền lời khi bán một thứ gì: Ăn lãi nhiều thì không đắt khách.
ăn lương
- Hưởng lương tháng theo chế độ làm việc: làm công ăn lương nghỉ không ăn lương

* ăn lương nhà nước.

* ăn mày
- 1. Đi xin để sống: Đói cơm, rách áo, hoá ra ăn mày (cd) 2. Nói khiêm tốn một sự cầu xin: Ăn mày cửa Phật.

* ăn nằm
- Ăn và nằm (nói khái quát). Chỗ ăn nằm sạch sẽ. 2 (kng.). Chung đụng về xác thịt.

* ăn năn
- Cảm thấy day dứt, giày vò trong lòng về lỗi lầm đã mắc phải: tỏ ra ăn năn hối lỗi biết ăn năn thì sự tình đã quá muộn màng.

* ăn nhịp
- Hòa hợp với: Lời ca ăn nhịp với đàn.

* ăn nói
- Nói năng bày tỏ ý kiến. Có quyền ăn nói. Ăn nói mặn mà, có duyên.
ăn ở
- 1. Nói vợ chồng sống với nhau: ăn ở với nhau đã được hai mụn con 2. Đối xử với người khác: Cha mẹ thói đời ăn ở bạc (TrTXương); Lấy điều ăn ở dạy con (GHC).

* ăn sống
- ăn thức ăn sống, không nấu lên: ăn sống nuốt tươi (tng.).// ăn sống nuốt tươi 1. ăn các thức sống, không nấu chín. 2. Có hành động vội vã, thiếu suy nghĩ, cân nhắc. 3. Đè bẹp, tiêu diệt ngay trong chớp nhoáng.

* ăn sương
- 1. ăn trộm: Nó là một tên quen ăn sương, người ta đã quen mặt 2. Làm **: Đoán có lẽ là cánh ăn sương chi đây (NgCgHoan).

* ăn tạp
- Ăn được nhiều loại thức ăn khác nhau, cả thức ăn thực vật lẫn động vật. Lợn là một loài ăn tạp.

* ăn tết
- ăn uống, vui chơi trong những ngày Tết Nguyên đán: về quê ăn tết Năm nào Hà Nội ăn tết cũng vui.

* ăn tham
- 1. Muốn ăn thật nhiều, quá sự cần thiết: Thằng bé ăn tham 2. Hưởng một mình, không chia sẻ cho người khác: ăn tham vơ cả món lời.

* ăn thề
- Cùng thề với nhau một cách trang nghiêm trong buổi lễ. Uống máu ăn thề. Làm lễ ăn thề.

* ăn thua
- 1. Giành giật cho bằng được phần thắng: có tư tưởng ăn thua trong thi đấu thể thao chơi vui không cốt ăn thua. 2. Đạt kết quả hoặc có tác dụng nhất định nhưng thường chỉ dùng với ý phủ định, nghi vấn, hoặc sẽ xẩy ra trong điều kiện cho phép): cố gắng mãi mà chẳng ăn thua gì mới thế đã ăn thua gì, còn phải cố gắng nhiều.

* ăn thừa
- ăn thức ăn người khác bỏ lại: Thơm thảo bà lão ăn thừa (cd).

* ăn tiệc
- Dự bữa ăn được tổ chức trọng thể, có nhiều người thường là khách mời với nhiều món ăn ngon, sang, bày biện lịch sự: mời đi ăn tiệc Ngày thường mà ăn sang như ăn tiệc.

* ăn tiền
- 1. ăn hối lộ: Kẻ ăn tiền của dân 2. Có kết quả tốt (thtục): Làm thế mới ăn tiền.

* ăn tiêu
- Chi tiêu cho đời sống hằng ngày. Ăn tiêu dè sẻn.

* ăn trộm
- Lấy của người khác một cách lén lút vào lúc đêm hôm hoặc lúc vắng người: Đang đêm có kẻ lẻn vào nhà ăn trộm.

* ăn uống
- 1. Ăn và uống nói chung: Ăn uống đơn sơ nên ít bệnh (HgĐThuý) 2. Bày vẽ cỗ bàn: Cưới xin không ăn uống gì.

* ăn vạ
- Ở ỳ, nằm ỳ ra để đòi cho kì được hoặc để bắt đền. Không vừa ý, thằng bé nằm lăn ra ăn vạ.

* ăn vụng
- ăn giấu, không để cho người khác biết: ăn vụng không biết chùi mép (tng.) Những người béo trục, béo tròn, ăn vụng như chớp đánh con suốt ngày (cd.). // ăn vụng không biết chùi mép không biết che đậy, giấu giếm những hành vi xấu hoặc sai trái của mình. ăn vụng khéo chùi mép biết cách giấu giếm, che đậy những hành vi xấu hoặc sai trái của mình. ăn vụng như chớp chuyên ăn vụng và ăn vụng rất sành, khó lòng bắt quả tang.

* ăn xổi
- 1. Nói cà, dưa mới muối đã lấy ăn: Cà này ăn xổi được 2. Sử dụng vội vàng, chưa được chín chắn: Thực hiện kế hoạch đó phải có thời gian, không nên ăn xổi.

* ăn ý
- Hợp ý với nhau, tạo ra sự nhất trí trong hành động. Chuyền bóng rất ăn ý. Có sự phối hợp ăn ý.

Như vậy thì từ "ăn" có phải là "động từ căn bản của dân tộc Việt Nam" không? Bạn nên xem lại ...

Lão Tiền Bối
05-07-2009, 09:33
Thấy nhiều nơi hay ghi tắt chữ "không" ra thành: k, ko, hok, vân vân.

Viết làm chi cho khổ vậy? Bấm số "0" ra 0 dễ hơn 0!

TC NGUYỄN
06-07-2009, 15:08
...
Như vậy thì từ "ăn" có phải là "động từ căn bản của dân tộc Việt Nam" không? Bạn nên xem lại ...
Bạn Hoài cổ hay quá, sưu tầm một mớ động từ "ăn", chỉ một từ "ăn" thôi mà ta ghép vào tạo cho nghĩa đa dạng, như vậy thì bạn Eve nói có gì sai lắm đâu, vì ngôn ngữ của dân tộc nào cũng gắn liền với lịch sử. Cái gì thường trực và lâu dài cũng trở thành ám ảnh rồi đi vào ngôn ngữ. bạn thử xem, ngôn ngữ của nước nào cũng xoay quanh hai từ "có" và "là"(être et avoir, to be and to have), còn người Việt thì không “có” gì cả mà cũng chẳng “là” gì cả, chỉ có cái thân phận nô lệ, bị bóc lột và đói triền miên, vì thế mà động từ căn bản của tiếng Việt là "ăn", như trên bạn sưu tầm thật đầy đủ, nay xin thêm vài động từ "ăn" nữa để theo đó bàn chơi...

-Thắng bại thì gọi là ăn thua, thằng nào thắng thì có ăn, thằng nào thua thì đói
-sinh hoạt nghề nghiệp thì gọi là làm ăn
-vợ chồng ăn ở, ăn nằm với nhau
-nói chuyện là ăn nói, rồi ăn ý, ăn ảnh
-lúc chửi nhau cũng cho ăn cái này cái kia...

Cái gì cũng ăn cả vì thường bị đói quanh năm, nên lúc nào cũng bị miếng ăn ám ảnh. Bây giờ cũng thế, cái gì cũng đểu(=giả), mà nhiều bạn VN hay dùng nào là chính quyền đểu, nhà nước đểu, nhà trường đểu... Và rồi cái gì cũng đểu như hàng đểu, bằng đểu, rượu đểu, thuốc đểu…, từ đểu cũng như từ ăn hiện diện như một sự trấn áp qua ngôn ngữ….Nhân loại tiến triển qua các thời kỳ đồ đá, đồ đồng, đồ sắt. Chúng ta còn có thời kỳ đồ đểu hay nói khác hơn nước mình còn đang ở thời kỳ đồ đểu(giả)- Hàng Tàu nhập vào VN ta chứ lị?- Chữ Việt thật oái ăm!8-)

Dương Nghiệp
06-07-2009, 20:33
Nghe mọi người nhắc đến từ "ăn", tại hạ cũng nhớ đến một câu chuyện vui cười, cũng oái ăm không kém cạnh. Xin được kể lại cho mọi người cùng nghe:

Một chàng sinh viên chở bạn gái trên một chiếc xe đạp. Đang đi, bỗng nhiên chàng thắng lại cái "ké...é....ét" ngay trước một quán chè rồi quay ra sau hỏi:

- Ăn không ???

Nàng: - Ăn !!!

Chàng: - Có thế chứ! Bộ thắng này mới thay hồi sáng đó!

Nói rồi, chàng tiếp tục đạp xe đi....

Đúng là chỉ một từ "ăn", nhưng oái ăm thay, có đến thật nhiều nghĩa, mà người ta vẫn thường gọi là từ đồng âm. Trên đây từ "ăn" được dùng theo hai nghĩa:
- Nghĩa "cho thức ăn qua miệng"
- Nghĩa "có tác dụng"

Các nghĩa tra cứu đã được Hoài Cổ đề cập đến. Đúng là tiếng Việt phong phú.

EVE
13-10-2009, 10:15
Nhờ các bạn giải thích giùm cái tên Sông Mã, khi Eve về VN du lịch qua vùng này, cái tên con sông thật ấn tượng làm Eve cứ tưởng ở vùng này có nhiều ngựa lắm, nhưng không phải vậy!/ xin cảm ơn.

Hoa_phi_Hoa
13-10-2009, 13:34
Nhờ các bạn giải thích giùm cái tên Sông Mã, khi Eve về VN du lịch qua vùng này, cái tên con sông thật ấn tượng ... nhưng không phải vậy!/ xin cảm ơn.
Tại hạ cũng vậy :D nhưng nhờ Wikipedia thì có chút tài liệu về tên con sông (http://vi.wikipedia.org/wiki/S%C3%B4ng_M%C3%A3) nầy ... còn chính sát cở nào thì chỉ còn nhờ cư dân ở đó giải thích thêm :p .

EVE
29-11-2009, 01:44
Giang hồ là ẩn ngữ mang nhiều ý nghĩa, xin các bạn giải thích giùm.

TC NGUYỄN
03-12-2009, 17:28
Giang hồ là ẩn ngữ mang nhiều ý nghĩa, xin các bạn giải thích giùm.
Giải thích:

Giang hồ là từ chỉ sông Trường Giang và Động Đình hồ, còn ám chỉ là tam giang ngũ hồ(Trung Quốc). Xét trên phương diện địa lý, nó chỉ là từ chỉ địa danh bình thường, nhưng trong Hóa thực liệt truyện sách Sử Ký của Tư Mã Thiên có kể câu chuyện Phạm Lãi “cưỡi thuyền lênh đênh trên giang hồ”, thì chữ giang hồ này có nghĩa là ngũ hồ, điều này được xác nhận lại ở thiên Việt ngữ-hạ trong Quốc ngữ cũng nói về Phạm Lãi “cưỡi thuyền nhẹ lênh đênh ngũ hồ, sau không biết về đâu…”

@ Chú thêm:

Lồng vào câu chuyện phiêu bồng thoát tục trên, truyền đến đời sau, khi bàn đến giang hồ, họ quên đi nghĩa địa danh “tam giang ngũ hồ”, tự nó biến mất.

Sự biến nghĩa của từ giang hồ, xin lấy làm thí dụ trong những câu thơ của các thi hào:

Cao Thích:

Thiên địa Trang Sinh mã
Giang hồ Phạm Lãi châu
(Trời đất là ngựa Trang Sinh
Giang hồ Phạm Lãi lênh đênh mạn thuyền)


Đỗ Phủ:

Dục ký giang hồ khách
Đề huề nhật nguyệt trường
(Mong là khách giang hồ
Tháng ngày rong ruổi chơi)


Đỗ Mục:

Lạc phách giang hồ tái tửu hành
Sở yêu tiêm tế chưởng trung khinh
(Chếch choáng giang hồ ngấm bước say
Đan tay gái Sở múa như bay)

Như vậy ta thấy từ giang hồ không còn ý nghĩa nguyên thủy, mà là với ý nghĩa phân biệt giữa triều đình và thế giới giang hồ, đó là cõi nhân gian thuộc về giới lưu dân và ẩn sĩ, và cứ như thế càng đi xa, ta có thể thấy trong các truyện võ hiệp từ giang hồ luôn luôn được sử dụng trong nhiều ý nghĩa khác nhau… (mời góp ý.)

Lão Tiền Bối
09-01-2010, 07:07
Bây giờ thiên-hạ khắp nơi lạm-dụng chữ này đã quá đỗi, làm lão t. ta thấy mình thật lẩm-cẩm khi nay mở miệng.

*

"Vấn-nạn" là như vầy:

"Thiên-hạ ở luongsonbac.com thấy gã Lão Tiền Bối quả thật đáng ghét, bèn hè nhau mỗi lần trông thấy gã xuất~đầu~lộ~diện ở đây thì áp tới vấn-nạn cho gã ấy quê rát mặt chơi."

Đó, "vấn-nạn" là vậy đó!

*

Than ôi, thử hỏi ai tới luongsonbac.com đây, (nói riêng), chưa từng mắc các cuộc vấn-nạn!



©LTB-1.7.2010

sao_phu08
24-02-2010, 00:37
Giải thích:

Như vậy ta thấy từ giang hồ không còn ý nghĩa nguyên thủy, mà là với ý nghĩa phân biệt giữa triều đình và thế giới giang hồ, đó là cõi nhân gian thuộc về giới lưu dân và ẩn sĩ, và cứ như thế càng đi xa, ta có thể thấy trong các truyện võ hiệp từ giang hồ luôn luôn được sử dụng trong nhiều ý nghĩa khác nhau… (mời góp ý.)

Xin thêm đôi lời về nghĩa hai từ Giang Hồ :

TC_Nguuyen nói không có gì là sai . Tuy nhiên nên hiểu sát nghĩa là sông hồ . Đây là lối ví von ẩn dụ cổ ám chỉ cho cuộc sống không ổn định điểm đi và dừng như con thuyền bập bềnh trên sông nước . Đây cũng là chỉ cho những lối sống tự do phóng túng , không bị ràng buộc .

Ví dụ : Bước giang hồ , sống đời giang hồ

Từ Hồ Hải cũng mang một ý nghĩa gần tương đồng như vậy .

Tuy nhiên khi du nhập vào ngôn ngữ bình dân nó lại được hiểu theo một nghĩa " tối " hơn .Hàm ý về một lối sống bấp bên không rõ tương lai ( gái giang hồ ) hay mang ý nghĩa về một kiểu sống không tuân theo trật tự vốn có của xã hội và nặng mùi bạo lực coi thường pháp luật ( băng đảng giang hồ , tay anh chị giang hồ ) . Nói chung là dùng theo ngôn ngữ bình dân thì từ giang hồ bị hiểu theo một nghĩa xấu đi .

Vì đây vốn là một từ " mượn " nên nghĩa gốc của nó khi dùng không đúng chổ hay hoàn cảnh sẽ bị hiểu sai lệch . Ngày xưa nói : gã đó sống đời giang hồ , có ý là chỉ lối sống tự do , này đi mai đó . Bây giờ mà nói câu trên sẽ hiểu là một kẻ sống ngoài vòng pháp luật chuyên dùng bạo lực ...

Thêm thắt đôi ý !