PDA

View Full Version : Nét bút giai nhân


LSB-KỳCôngKỳThủ
02-08-2003, 02:03
nguồn: trích lại từ "Nét bút giai nhân", tác giả: Quách Tấn, NXB Phụ Nữ

Mục Lục

1. Đào Thị Hàn Na.
2. Ngô Chi Lan.
3. Nguyễn Thị Du.
4. Trương Thượng Hòa.
5. Nguyễn Thị Ngọc Vinh.
6. Đoàn Thị Điểm.
7. Phạm Lam Anh.
8. Ngọc Hân Công Chúa.
9. Trương Quỳnh Như.
10. Hồ Xuân Hương.
11. Bà Huyện Thanh Quan.
12. Diệu Liên Công Chúa.
13. Bà Bang Nhãn.
14. Bà Nhàn Khanh.
15. Lưu Thị Hiền.
16. Nguyệt Anh.
17. Trần Thị Hào.
18. Đào Trúc Tiên.
19. Đào Chi Tiên.
20. Tương Phố.

LSB-KỳCôngKỳThủ
02-08-2003, 02:19
[center:0f2441279f]1. Đào Thị Hàn Na[/center:0f2441279f]
Đời nhà Trần, dưới triều Trần Dụ Tông ( 1341 - 1369 ), có một danh kỹ ở phủ Tử Sơn, họ Đào, rất nhan sắc, hát hay lại có tài văn chương, nên thân phận tuy thấp mà thanh giá tuyệt cao. Khách tài tuấn phong lưu đều kinh phục. Tiếng bay thấu cung vua. Niên hiệu Thiệu Phong thứ 5 ( 1346 ), nàng đuợc tuyển vào cung, ngày ngày chầu bên mình ngự.

Mùa thu năm Bính Tuất, thuyền rồng dong chơi trên sông Nhĩ Hàn, đến bến Đông Bộ Đầu thì trời vừa chiều. Nhà vua cao hứng ngâm:

Vụ ế chung thanh tiểu
Sa bình thọ ảnh trường

Nghĩa là:

Mù che nhỏ tiếng chuông rền
Bóng cây tha thướt in lên cát bằng

Các quan theo chầu chưa ai nối kịp, Đào thị tiếp ngay:

Hàn na ngư hấp nguyệt
Cổ lũy nhạn minh sương

Nghĩa là:

Cá nằm bến lạnh đớp trăng
Lũy xưa tiếng nhạn nhọc nhằn kêu sương

Nhà vua khen tài, lấy hai chữ Hàn Na trong câu thơ ban là hiệu. Từ ấy mệnh danh là Đào Thị Hàn Na.

Vua Trần Dụ Tông thăng hà, Đào Thị lui về nương náu nơi Đô Hạ. Viên hành khiển là Ngụy Nhược Chân, mến tài thường lui tới. Người vợ ghen, làm nhục, Đào căm hờn thuê người đến thích khách. Chẳng may việc không thành, nàng sợ phải tội, trốn lên chùa Phật Tích Sơn xuống tóc đầu Phật. Nhưng vì văn chương mà bị lụy, phải bỏ trốn.

Nghe đồn tỉnh Hải Dương có chùa Lệ Kỳ non cao nước trong, nàng bèn tìm đến xin ở. Hòa thượng trụ trì là Pháp Vân không dung nạp, kêu đệ tử là Vô Di lên dặn:

- Người thiếu phụ ấy còn nặng trần duyên lại có sắc đẹp. Chỉ e lòng thiền chẳng bằng đá, chưa dễ mà không lay. Vả chăng cánh sen đó dù không lấm bùn đen, song một thước sa mù cũng đủ che mặt trăng sáng. Con khá nên từ nó đi.

Vo Di không nghe, Pháp Vân dời lên núi Phụng Hoàng ở.

Vô Di vốn là một tay hay chữ, vì đường khoa danh lận đận nên đến nương náu cửa Không. Cho nên tài tử gặp giai nhân, lửa hương dễ bén. Việc tu hành không còn nghĩ đến, ngày ngày đem nhau lên núi ngắm cảnh ngâm thơ, Thơ đuợc truyền tụng nhiều. Xin trích dẫn đôi luật:

Sơn Vân

Diêu đề nùng hoàn đạm
Thiên biên thấp vị hy
Hiền tùy sơn vũ khứ
Mộ đới lạc hà quy
Ải đãi nhân phong quyển
Du dương đáo xứ phi
Tăng dung đồng diệc lãn
Thùy vị yểm nham phi.

Nghĩa là:

Chân trời phơi đậm lợt
Ngắm vọi ướt chưa se
Sớm dựa mưa sưa tếch
Chiều nương ráng sáng về
Dịu dàng lưng uốn gió
Phơi phơi cánh tìm quê
Tăng nhác đồng thêm nhác
Ai đóng cửa bồ đề?

Sơn Võ

Nhất vũ sơn nham mính
Tiêu tiêu tác ý minh
Châu cơ đôi địa sắc
Tinh đẩu lạc thiên thanh
Lựu đoạt toàn lưu cấp
Lương hồi khách mộng thanh
Sơn phòng vô cá sự
Nhập dạ kỷ tàn canh.

Nghĩa là:

Giọt mưa ngàn đỉnh tối
Ào ào dục ý sanh
Đất trái màu châu ngọc
Trời giao tiếng đẩu tinh
Vội vàng khe cướp suối
Mát mẻ mộng lơi tình
Sơn phòng thư thả quá
Theo đêm canh rồi canh.

Còn nào Gió Núi, Trăng Núi, Chùa Núi, Vượn Núi, Chim Núi, Hoa Núi, Đứa Bé Sanh Trưởng TRong Núi, Lá Trong Núi, v.v... Phàm những cảnh vật trong núi, cái gì có thể ngâm vịnh được đều lọt vào mắt, ra nơi bút của hai người.

Đến năm Ký Sửu ( 1349 ), Đào thị có thai rồi bị ốm, cả ngày hết buồn lại giận, thuốc thanh vẫn như không. Một đêm gió lạnh mưa dầm, nàng nghiến răng đập giường mà kêu khóc:

- Thù xưa chưa trả, nhắm mắt sao yên hỡi trời?

Rồi uất lên mà chết!

Vô Di muôn phần thương xót, đem di hài quàn nơi mái hiên phía tây chùa, mai chiều vỗ hòm mà khóc:

- Em ngậm oan mà thác, lòng ta rất thương đau. Cõi âm có thiêng hay sớm đem nhau theo với.

Được vài tháng sau, Vô Dị thọ bệnh mà mất.

Khách phong tao thương tình lo việc chôn cất: Sau ngôi chùa Lệ Kỳ hai ngôi mộ nằm song song.

LSB-KỳCôngKỳThủ
03-08-2003, 18:46
[center:07722c57f0]2. Ngô Chi Lan[/center:07722c57f0]
Người huyện Kim Hoa thuộc xứ Kinh Bắc (Phúc Yên), nội tướng của danh sĩ Phù Thúc Hoành người làng Phù Lỗ cùng huyện.

Bà có sắc có tài văn chương, tiếng tăm lừng lẫy.

Vua Lê Thánh Tông ( 1460 - 1497 ) nghe danh, vời bà vào cung dạy các cung nữ. Mỗi khi yến tiệc, bà thường ôm giấy bút đứng hầu nhà vua. Hễ vua phán làm thơ, thì bà hạ bút là thành chương không cần phải sửa chữa.

Một hôm đi chơi núi Vệ Linh ở huyện Kim Anh tỉnh Phúc Yên, là nơi Phù Đổng Thiên Vương cỡi ngựa sắt về Trời, bà đề một tuyệt:

Vệ Linh xuân thụ bạch vân nhàn
Vạn tử thiên hòng diệm thế gian
Thiết mã tại thiên danh tại sử
Anh uy lẫm lẫm mãn giang san.

Nghĩa là:

Vệ Linh cây thắm trải mây nhàn
Muôn tía nghìn hồng quán thế gian
Ngựa sắt về trời danh tạc sử
Hừng hừng uy đức nhẫy giang san.

Không mấy chốc bài thơ truyền khắp trong cung, nhà vua khen thưởng cho một tấm gấm.

Lại một hôm vua ngự nơi Thanh Dương môn, truyền quan Thị thư họ Nguyễn làm bài từ khúc Uyên Ương. Khúc dâng lên, nhà vua không vừa ý, ngoảnh lại bảo bà:

- Khanh, thi tài vốn mẫn thiệp, thử vẫy bút xem sao.

Bà vâng mệnh, thảo một chương, câu cuối rằng:

Ngưng bích phi thành kim điện ngõa
Trừu hồng chức tựu cẩm giang la.

Nghĩa là:

Đọng biếc làm nên ngói điện vàng
Xe hồng dệt được là sông gấm.

Nhà vua cả khen, thưởng cho năm đỉnh huỳnh kim và ban cho hiệu Phù Gia Nữ Học Siữ. Từ ấy danh lại càng hiển hách, khách tao đàn phần đông đều ngưỡng mộ tài hoa. Nhưng cũng có kẻ tiểu tâm làm thơ chế diễu như:

Quân vương yếu dục tiêu nhàn hận
Ưng hoán Kim Hoa Học sĩ lai.

Nghĩa là:

Nhà vua ý muốn khuây sầu muộn
Nên triệu Kim Hoa học sĩ vào.

Lại như:

Yên bãi long lâu thi lực quyện
Lục canh lưu đãi hiểu miên trì.

Nghĩa là:

Tiệc bãi lầu rồng thơ mỏi sức
Sáng ra còn đợi giấc nằm trưa.

Bà không khỏi buồn tủi. Thi hào Thái Thuận, tác giả tập Lữ Đường, có lời khuyên giải:

- Nào p hải một mình phu nhân mới bị khốn vì ngòi bút trào lộng của những kẻ xú ác. Gái trinh liệt xưa nay đã thường bị những lời thơ khinh bạc trây bẩn, song nước Ngân Hà dễ gì khuấy cho nhơ. Nên chả cần bận tâm, giới ý.

Vua Lê Thánh Tông băng hà, bà có bài thơ văn:

Tam thập niên dư củng tử thần
Cửu châu tứ hải hựu đồng nhân
Đông tây địa thác dư đồ đại
Hoàng đế thiên khôi sự nghiệp tân
Tuyết ủng châu du vô xứ mịch
Hoa thôi thượng uyển vị thùy xuân
Dạ lai do tác quân thiều mộng
Trướng vọng Kiều Sơn lụy mãn cân.

Nghĩa là:

Ba chục năm dư ngự tử thần
Chín châu bốn biển thảy nhờ ân
Dư đồ đất mở đông tây rộng
Đế nghiệp trời xây vững mới dần
Dấu dõi xe loan mờ mịt tuyết
Hoa đơm vườn ngự bẽ bàng xuân
Quân thiều vẳng tiếng đêm theo mộng
Ngắm vọi Kiều Sơn lệ thấm khăn.

Vua Thánh Tông băng rồi, bà không còn vào ra cung cấm.

Bà mất năm ngoài 40 tuổi, an táng nơi bãi Tây Nguyên trong huyện Kim Hoa.

Tài cao học rộng, bình sanh bà sáng tác chắc phải nhiều. Song giai phẩm không phổ cập trong dân gian, nên không thường nghe nhắc nhở.

Trong VĂn ĐÀn Bảo Giám thấy có chép bốn bài thất ngôn tuyệt cú bằng quốc âm, vịnh cảnh tứ thời, ghi là của bà Ngô Chi Lan:

Vịnh Xuân

Khí trời ấm áp đượm hơi dương
Thấp thoáng lâu đài vẻ ác vàng
Rèm liễu líu lo oanh hót gió
Giậu hoa phấp p hới bướm châm hương

Vịnh Hạ

Gió bay bông lựu đỏ tơi bời
Tựa gốc cây đu đứng nhởn chơi
Oanh nọ tiếc xuân còn vỗ cánh
Én kia nhớ cảnh cùng gào hơi.

Vịnh Thu

Gió vàng hiu hắt cảnh tiêu sơ
Lẻ tẻ bên trời bóng nhạn thưa
Giếng ngọc sen tàn bông hết thắm
Rừng phong lá rụng tiếng như mưa

Vịnh Đông

Lò sưởi bên mình ngọn lửa hồng
Giải buồn chén rượu lúc sầu đông
Tuyết đưa hơi lạnh xông rèm cửa
Gió phẩy màu băng giải mặt sông.

Không biết đó là tác giả đã tự dịch hay là người đời sau phiên dịch 4 đoạn đầu của 4 bài từ 8 câu bằng chữ Hán rất được truyền tụng của bà Ngô Chi Lan:

Xuân Từ

Sơ tịnh huân nhân thiên tợ túy
Diệm dương lâu đài phù noãn khí
Cách liêm liễu nhứ độ oanh thoan
Nhiễu lãm ba tu xuyên điệp thúy
Giai tiền hồng tuyết nhân thiêm trường
Phân hạn vi vi tẩm lục thường
Tiểu tử bất tri xuân tứ khổ
Khuynh thân hàm tiếu quá nha sàng.

Nghĩa là:

Trời cao chếnh choáng hơi dương đượm
Rực rỡ lâu đài tia nắng nhuộm
Phất phơi rèm liễu quyến thoi oanh
Thấp thoáng giậu hoa dồi phấn bướm
Chỉ vàng óng ánh kéo ngày dài
Lụa đẵm mồ hôi hương láng lai
Trò nhỏ chẳng hay xuân tứ khổ
Giường thơ ghé mắt mỉm môi cười.

Hạ Từ

Phong xuy lựu hoa hồng phiến phiến
Giai nhân nhàn đả thu tiên viện
thương xuân bối lập nhất huỳnh oanh
Tích cảnh ai đề song tử yến
Đình châm vô ngữ thúy my đê
Quyện ỷ sa song mộng dục mê
Khước quải quyển liêm nhân hoán khởi
Hương hồn chung bất đáo Liêu Tê

Nghĩa là:

Gió đưa hoa lựu hồng phơi phới
Người đjep bên đu xiêm dấp dới
Én tía thương xuân réo rắc kêu
Oanh vàng tiếc cảnh chần chờ đợi
Dừng kim lặng lẽ nhíu đôi mày
Buồn tựa song thưa mộng rắp say
Trách kẻ cuộn rèm kêu tỉnh dậy
Hồn hương chẳng kịp đến Liêu Tây.

Thu Từ

Thanh thương phù không trừng tế cảnh
Sương tín diêu tương cô nhạn ảnh
T hập trương liên tàn Ngọc trinh hương
Tam canh phong lạc Ngô giang lãnh
Phi oanh dạ dạ bích lan can
Y bạc nan câm tiễn tiễn hàn
Thanh đoạn động tiêu ngưng lập cửu
Diêu đài hà xứ mích thanh loan.

Nghĩa là:

Tầng xanh lơ lửng giương trong vắt
Rải rác tin sương tình nhạn bắc
Giếng ngọc sen tàn hương vẩn vơ
Sông Ngô lá rụng canh hiu hắt
Lập lòe bóng đóm lọt qua mành
lạnh thấm từng cơn áo mỏng manh
Tiếng vọng lầu tiêu nghe đã dứt
Nơi nao đài ngọc dấu loanh xanh?

Đông Từ

Bửu lư bát hỏa ngân bình tiểu
Nhất bôi La Phù phá thanh hiểu
Tuyết tương lãnh ý thấu sơ liêm
Phong đệ khinh băng lạc hàn chiểu
Mỹ nhân kim trướng yêm lưu tô
Chỉ hộ vân song phiến phiến hồ
Ám lý vãn hồi xuân thế giới
Nhất châu phương tín tiểu sơn cô

Nghĩa là:

Lửa hồng lư nhúm sang bình bạc
Chén rượu tiêu sầu hương bát ngát
Hơi lọt rèm xưa tuyết lạnh lùng
Gió đưa ao quạnh băng xao xác
Nhà vàng ngược ngọc trướng lưu tô
Cửa sổ phòng văn giấy đắp hồ
Xuân đã âm thầm xoay vận thắm
Tin mai non vắng một nhành phô.

Không biết rõ thân thế của tác giả mà chỉ xem kỹ bốn bài thơ từ vịnh tứ thời thì cũng thấy được tinh thần và cốt cách cao sang của vị nữ sĩ tài danh đất Kim Hoa ngày trước.

LSB-KỳCôngKỳThủ
05-08-2003, 22:20
[center:3aa40af464]3. Nguyễn Thị Du[/center:3aa40af464]
Cũng có tên nữa là Nguyễn Thị Duệ, người làng Kiệt Đặc, huyện Chí Linh, xứ Hải Dương. Sanh trưởng thời Nam BẮc Triều, tức thời Lê Mạc.

Bà đã có sắc đẹp lại rất thông minh, nhưng tánh tình khẳng khái. Lúc nhỏ giả trai đi học. Sử sách chỉ xem qua là nhớ. Niên hiệu Hưng Trị nhà Mạc ( 1588 - 1590 ), bà thi hội thi đình đều trúng tuyển. Mạc Hậu Hợp thấy dung mạo đẹp đẽ, gạn hỏi, bà phải thú thật. Bà được đưa vào cung và được phong làm Hoàng Phi.

Lúc ấy bà mới 17 tuổi.

Năm Nhâm Nhìn ( 1593 ), nhà Mạc mất ngôi, bà trốn vào núi, sống hẩm hút cùng một đạo cô. Được ít lâu lại bị bắt nạp cho chúa Trịnh là Bình An Vương Trịnh Tùng. Bà rất được nhà chúa ân sủng, song chán mùi chugn đỉnh, bà xin cất một am nhỏ nơi vườn hoa, ngày ngày ra xem kinh và ngâm vịnh.

Trịnh Tùng mất ( 1623 ), bà xin về sống nơi quê hương.

Được mấy năm, Thanh Đô Vương TRịnh Tráng lại vời bà vào phong chức giáo thụ dạy cung nhân. Bà rất được kính trọng, người trong cung tôn xưng là Lễ Phi. Lúc bấy giờ bà đã 56 tuổi. Tiếng hay chữ nổi khắp cả trong triều ngoài quận. Vua Lê chúa Trịnh cùng triều thần, hễ gặp những câu gì điển gì không hiểu đều đến hỏi bà.

Khoa thi hội năm Đức Long thứ 3 ( 1631 ), có một quyền thi văn chương, thâm diệu, lắm câu bị quan trường phê là tối nghĩa, nhưng dám đánh hỏng phải đệ trình lên chúa Trịnh. Chúa vời bà đến. BÀ khen là văn chương tuyệt tác và giảng giải rành mạch cho chúa nghe... Quyển ấy là của Nguyễn Thọ Xuân, một tay bác học hùng tài có tiếng trong nước. Nguyễn Thọ Xuân được lấy đậu thám hoa. Câu chuyện bay ra ngoài, TÂn khoa nói cùng Bằng bối:

- Tôi đã biết trước rằng văn chương của tôi, có hiểu được chăng, chỉ có bà Lễ Phi. VÀ cũng vì có bà Lễ Phi, tôi mới chịu ra ứng thí.

Sau khoa thi đó, thanh giá bà Lễ Phi đã cao càng cao.

Bà thọ 80 tuổi.

Buổi bình sinh bà sáng tác nhiều, chữ có nôm có. Song chỉ lưu thế được hai tác phẩm bằng Nôm, một làm theo thể Đường luật, một theo thể lục bát.

Tập thứ nhất nhan đề là Ni Tần Thi Tập tức là tập thơ của "Ni cô làm cung tần" hay "Cung tần làm ni cô". Tên tập thơ cho chúng ta biết rõ thời gian sáng tác: Thời Bình An VƯơng Trịnh Tùng. Tập Thơ gồm trên 50 luật, vịnh tứ thời mỗi mùa 10 vịnh, và trên mười bài tập vịnh. Xin cử đôi bài:

Thu Ngâm

Đổi thay hạ nắng lại thu mưa
Chống Thượng Dương đà mấy sớm trưa
TRiều mượn phấn son lòng hãy thẹn
Mùi pha cá thịt dạ chưa ưa
Hoa bên triện ngọc ngồi ngơ ngẩn
Trăng lọt rèm châu đứng ngẩn ngơ
Qua lại chị em như có hỏi
Thẹn thuồng còn chửa biết lời thưa.

Đông Ngâm

Kể đã ba trăng chốn ngọc đài
Lần lần ngày vắn lại đêm dài
Vội nằm trướng cuốn thường quên rủ
Ngái ngủ trâm rơi những biếng cài
Sớm mặc hoa rơi bên đóa liễu
Khuya dù trăng ngã dưới cành mai
Không ai ghen cũng không ai ghét
Mà có ghen ai có ghét ai.

Lời thơ bình dị và tất cả đều xoay quanh cái ý "vô sự vô tâm".

Còn tập thứ hai, tập lục bát, là tập gia phả diễn ca thuật rõ gia tình gia cảnh và thân thế của mình, văn chương lưu lợi, như:

* Nữ nhi dù đặng có lề
Ai hay tay thiếp kém gì trạng nguyên...

* Hiềm vì một chút đảo điên
Song le Bạc thị vốn duyên Hán thần...

Sự nghiệp dư muôn mà còn sót lại chừng được một! Nếu không ra công gìn giữ thì trong vườn hoa dân tộc sẽ thiếu mất một khóm hương.

LSB-KỳCôngKỳThủ
09-08-2003, 14:30
[center:7ca3eeb68c]4. Trương Thượng Hòa[/center:7ca3eeb68c]

Nhũ danh là Ngọc Trọng, người lành Như Quỳnh, xứ Kinh Bắc (Bắc Ninh). Đến tuổi dậy thì, dung nhan như hoa nở, trí thông minh không ai bằng. TUy là cháu gọi Tấn Quang Vương phi, vợ chúa Định Vương Trịnh CĂn (1682 - 1709), bằng cô ruột, song Trương Thượng Hòa vẫn sống nơi quê lậu với ruộng lúa nương dâu. Khi được sung vào làm cung tần thời An Đô Vương Trịnh Cương (1709 - 1729) mới bắt đầu học và học một biết mười. Chúa rất yêu quí, nhưng không bao giờ bà lấn áp chị em trong cung.

Bà sở trường về quốc âm.

Bà có bài ca diễn sự tích bà Ỷ Lan Hoàng Thái Hậu đời Lý được phổ biến trong dân gian. Văn chương thanh nhã. Xín trích đôi đoạn:

Phương phi mày liễu mặt hoa
Má đào môi hạnh da ngà lưng ong
Quỳnh tư diệu chất lạ lùng
Miệng cười muôn tía nghìn hồng nở ra
Càng nhìn càng một nôn nà
Thu ba thua sắc xuân hoa thẹn màu
Mẹ cha mừng rỡ xiết đâu
Nâng niu vàng ngọc thể âu khác thường...
- Huyên hòa vừa tiết thanh minh
Đoàn loan lũ phụng khoe xinh đòi người
Dập dìu thôi hán lại hài
Kẻ khoe cốt cách người phơi tinh thần
Liễu xanh khoe nét thanh tân
Đào hồng rỡ rỡ cậy thân tươi màu
Chan hòa ánh sáng ngọc đua châu
Tầm thường hội trước thấy âu xa vời.

Đoạn trên tả nhan sắc bà Ỷ Lan. Đoạn dưới tả cảnh mùa xuân lúc vua nhà Lý mở hội kén cung nữ.

Trên 250 năm nay, không biết bài ca có còn được nguyên vẹn?

LSB-KỳCôngKỳThủ
23-08-2003, 13:20
[center:5d217ddf04]5. Nguyễn Thị Ngọc Vinh[/center:5d217ddf04]
Người làng Thịnh Mỹ, huyện Lôi Dương (Bắc Việt), con gái Luân Quận công. Đã thông minh lại có học vấn. Chúa Trịnh là Minh Đô Vương (1740-1767) kén vào cung, sắc phong làm Vương phi, thường gọi là Minh Đô Vương phi. Được chúa Minh Đô quí như vàng nên tục xưng là Đức Bà Vàng.

Vương phi thông chữ Hán lại giỏi quốc âm. Khách làng văn khoong mấy ai không biết tiếng.

Nhưng tác phẩm của Vương phi không phổ cập đến đại chúng, nên sau khi nhà Trịnh bị diệt, văn chương của Phi không còn "bia miệng thế gian" ghi để nghìn thu.

Trong quyển Nữ Lưu Văn học sử của Sở Cuồng Lê Dư xuất bản năm 1929 thấy chép một bài thơ lục bát và một bài thơ Đường luận nhan đề là Tự Tình Vãn:

Trời cao muôn dặm thẳm xa
Quảng Hàn nở để Hằng Nga lạnh lùng
Tưởng nguồn cơn khkéo chạnh lòng
Trách duyên, dám trách cửu trùng thắm phai
Vả tôi kém sắc phạp tài
Nhằm thương muôn đội lượng trời chở che
Xét mình bồ liễu le te
Dám rằng cù mộc dám khoe hảo cầu
Phận thường mọn mảy nữ lưu
Muôn mong xét biết ái ưu ghi lòng
Sách vàng rờ rỡ đề phong
Những mong xứng chỉ chút công báo đền
Tuy rằng kỳ ngộ thiên duyên
Gót đầu toàn đội ơn trên tài bồi
Non ân bể đức bằng trời
Muôn phần báo đáp chưa vời một ly
Trộm xem trên cả nhân nghì
Vậy nên áy náy bấc chì mỉa mai,
Tay đâu bưng được miệng ai
Nắng mưa cũng tiếng mỉa mai lọ là
Thấy chiều thưa nguyệt phai hoa
Thừa cơ dẽ khiến gièm pha nhiều điều
Nghĩ rằng đức Thuấn nhân Nghiêu
Chở che dù có đăm chiêu giày vò
Chắc rằng sông núi hẹn hò
Hay đâu bể ái chút dò cũng hao
Đạo màu há dám rằng sao
Canh chầy vò võ lầu cao nguyệt tà
Tưởng khi cầm sắc khúc hòa
Trăm năm cù mộc một nhà trúc mai
Bây giờ tin diễn vãng lai
Cửa ngăn giây gió nguyệt cài then sương
Tưởng khi đầm ấm thiên hương
Ngửa trông một nghĩa để gương muôn đời
Bây giờ gần bén xa dời
Một lòng khôn thở nhiều lời nể nang
Tưởng khi lạm sanh nhà vàng
Nhgìn năm để trách một trường áng xuân
Bây giờ cách diễn ải Tần
Một bề trực đức chín lần khôn thâu
Càng phen càng bối rối sầu
Ngu trung dễ thấu nhiệm mầu thiên cơ
Cớ chi nên nỗi sinh sơ
Bâng khuâng òng ước ngẩn ngơ dạ phiền
Vì con chồi quế non Yên
Thì chi đến nỗi nhiều phen thế này
Nhởn nhơ song dạ khôn khuây
Buồn xem bế nữ nước mây thêm ngừng
Nhiều phen sấm chớp vang lừng
Bồ hòn dã đắng thì gừng lại cay
Nào khi giá ngự bình Tây
Cần lao dám ngại nước mây sương hàn
Dày êm gối biếng ngôi Càn
TẤc gang nỡ để mấy ngàn riêng tây
Vụng lầm vả tiếng một ngày
Nỡ cho kẻ mọn sánh bầy rao ca
Quản bao phận tiện dã hoa
Nữa trong thể thống quốc gia dường nào
Dám xin tài quyết lượng cao
Quyền cương nỡ để tay trao kẻ ngoài
Vững phủ mạnh nước lâu dài
Dẫu sao thì cũng là người nhà vương
Trót đà lạm dự tảo khang
Trị bình cũng lấy tam cang làm đầu
Ngập ngừng kể lấy sự đầu
Bút hoa mấy chữ lệ châu đôi hàng
Cả lòng xin trước nhà vàng
Cây gương nhật nguyệt rõ ràng tiêu lâm
Nghìn năm khắc cốt minh tâm
Kẻ nông nổi chữ tình thâm thể cười
Nền vương sáng rỡ giữa trời
May nhờ hồng phúc muôn đời lâu xa.

Tự Tình Thi

Mon mảy muôn trông đức cửu trùng
Trời cao đất rộng kể khôn cùng
Trâm reo bệ ngọc còn e lệ
Hương bén phòng tiêu luống ngại ngùng
Đếm tóc chưa đền ơn thánh đức
Dắt tơ tay cậy sức thiên công
Khôn trinh ước vẹn niềm trung ái
Ngõ thỏa công sau đức thuận tông.

Hai bài thơ này là của Vương phi dâng lên cho Minh Đô Vương.

Nguyên bà Phi được nhà Chúa yếu quí, sợ có ngày bị thất sủng nên sanh lòng đố kỵ với đám cung tần. Năm Lê Cảnh Hưng thứ 20 (1760), vì ghen với người sủng cơ là Thị Mỹ, bà Phi cầm hộp trầu mà ném, chẳng may ném nhằm nhà chúa. Nhà Chúa nổi giận truyền đuổi ra khỏi cung, bắt giam vào bản dinh ngoài thành Thăng Long. Bà Phi hối hận soạn hai bài thơ trên đây dâng lên nhà Chúa. Nhà Chúa cảm động cho xe loan ra rước trở vào cung.

LSB-KỳCôngKỳThủ
25-08-2003, 17:44
[center:4323b18f50]6. Đoàn Thị Điểm[/center:4323b18f50]
Hiệu Hồng Hà Nữ Sĩ. Sang năm Ất DẬu (1705) niên hiệu CHính Hòa triều Lê Hi Tông (16776-1705). Con gái Đoàn Doãn Nghi, em gái Đoàn Doãn Luân. Người làng Giai Phạm, sau đổi là Hiếu Phạm, huyện Văn Giang, trấn Kinh Bắc (tỉnh Hưng Yên). Cha anh đều là nho sĩ có uy danh trong trấn.

Từ thuở bé, nữ sĩ đã nổi tiếng là thông minh, kinh sử chỉ xem qua là thuộc. Lớn lên cùng anh thường so tài bút mực, không bao giờ nữ sĩ chịu thua. Một hôm nữ sĩ ngồi trang điểm bên gương, ông Luân đứng rửa mặt nơi bể nước, đọc bỡn một câu:

- Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.

Nghĩa là: Đối kính vẽ mày, một nét (điểm) trở thành hai nét (điểm).

Không nghĩ ngợi, nữ sĩ đối ngay:

- Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.

Nghĩa là: Xuống ao ngắm nguyệt, một vầng (luân) hóa đến hai vầng (luân).

Tiếng nữ sĩ bay xa.

Ở Thăng Long lúc bấy giờ có bốn tay hay chữ là Nguyễn Huy Kỳ, Trần Danh Tân, Nguyên Bá Lân, Vũ Toại, đời xưng là Trường An Tứ Hổ, nghe danh nữ sĩ, bèn rủ nhau đến thử tài. Nữ sĩ bèn xuất đối:

- Đình tiền thiếu nữ động tân lang.

Đó là một câu tức cảnh: nhân trong vườn có mây cây cau bị gió nhẹ lay tàu, nữ sĩ bèn dùng chữ "thiếu nữ" vừa có nghĩa là gió vừa có nghĩa là cô gái nhỏ, chữ "tân lang" là cây cau đồng âm với chữ "tân lang" là chàng rể mới. Vế đối vừa có nghĩa: "Trước sân gió thổi lay động hàng cau", vừa có nghĩa: "Trước sân cô em nhỏ làm kinh động chàng rể mới". Vì thiếu cảnh gợi hứng, bốn "con hổ đất TRàng An" đành chịu xấu hổ trở về.

Một nhân vật có danh vọng lúc bấy giờ là Nguyễn Công Hãng, một hôm gặp nữ sĩ ở ngoài đường một mình, liền bảo thích thực hai chữ Độc Hành nghĩa là "đi một mình". Nữ sĩ liền ứng khẩu:

Đàm luận cổ kim tâm phúc hữu
Truy tùy tả hữu cổ quăng thần.

Nghĩa là:

Bàn luận cổ kim, ruột gan ấy bạn,
Theo hầu tả hữu, vai vế là tôi.

Nguyễn công khen ngợi, mời về nhà thưởng cho 10 quan tiền.

Giám sĩ làng Nhân Mục ở phía tây thành Thăng Long là ĐẶng Trần Côn mộ tiếng nữ sĩ, làm một bài thơ đưa đến xin được diện kiến. Nữ sĩ xem rồi trả lại và nói:

- Học chưa được lăm chữ mà cũng khoe tài.

Đặng Trần Công xấu hổ về đóng cửa, quyết chí "mài sắt cho nên kim". Kinh thành lúc bấy giờ có lệnh cấm hỏa ban đêm, họ Đặng phải đào hầm dưới đất để thắp đèn đọc sách, làm văn. Sau trở nên hay chữ nổi tiếng. Để bày tỏ sức học và tài văn, họ ĐẶng soạn quyển Chinh phụ ngâm bằng Hán văn được truyền tụng.

Hồng Hà Nữ Sĩ kén chồng rất kỹ. Tuổi đã ngoài đôi mươi mà vẫn còn ở cùng cha mẹ. Lúc nữ sĩ được 25 tuổi thì cha mất, nữ sĩ cùng mẹ và gia đình anh dời nhà đến làng Võ Ngại, huyện Đường Hào. Được ít lâu anh mất, để lại một đàn con nhỏ. Một mình nữ sĩ vừa dạy học vừa làm thuốc, để lấy tiền nuôi mẹ và giúp chị dâu nuôi con. Nhiều nhà giàu có, sang trọng đến hỏi, nhưng không có nơi nào xứng đôi. Mãi đến năm 37 tuổi, nữ sĩ mới gá duyên cùng ông Nguyễn Kiều. Họ Nguyễn là bậc tài hoa nổi tiếng, đậu tiến sĩ, lúc bấy giờ làm Thị lang tại triều. Tuổi đã 47 vừa góa vợ. Năm ấy là Nhâm Túat, niên hiệu Cảnh Hưng triều Lê Hiển Tông (1742).

Nữ sĩ về nhà chồng chưa được một tháng thì Nguyễn Kiều p hụng mệnh sang sứ Trung Hoa. BÀ ở nhà coi sóc gia sự, xem con chồng như con đẻ, dạy dỗ bậc cha thầy. Ngót 3 năm ông Kiều mới về (1745). Được triều đình thăng thưởng và cho về nhà nghỉ ngơi. Từ ấy vợ chồng sum họp, hết lòng yêu quí nhau và đãi nhau như khách. Những lúc nhàn rỗi, thường cùng nhau xướng họa, văn chương được truyền tụng khắp nơi.

Năm Mậu Thìn (1748), Nguyễn Kiều được lệnh vào làm Tham Thị trấn Nghệ An. Có linh cảm rằng mình đi không lợi, nhưng bị ép, nữ sĩ phải theo chồng. Bị cảm mạo dọc đường, đến Nghệ An thì bệnh trở nặng, thuốc thang không bớt. Nữ sĩ từ trần ngày 11 tháng 9 năm Mậu Thìn (1748), hưởng dương 44 tuổi.

Tác phẩm còn để lại:

- Truyền Kỳ Tân Phổ bằng Hán văn, chép những chuyện hoang đường của nước ta, tiếp theo tập Truyền Kỳ Mạn Lục của Nguyễn Du.

- Bản dịch Chinh Phụ Ngâm của ĐẶng Trần Công ra Song Thất Lục Bát.

Tập Truyền Kỳ TÂn Phổ, phần quan trọng không phải ở nơi câu chuyện mà chính ở phần Thơ, vì câu chuyện là chuyện hoang đường mà được thuật lại, thơ mới là do Hồng Hà Nữ Sĩ sáng tác để mượn nhân vật trong câu chuyện nói dùm lên nỗi lòng u uẩn của mình.

Thơ rất hay, và toàn theo thể Đường luận. Xin trích dẫn đôi bài:

Hà Xứ Thị Tiên Hương

Lưu thủy phù vân lưỡng diếu mang
Bất tri hà xứ thị tiên hương?
Hư truyền Bồng ĐẢo kiền khôn biệt
Lãng thuyết Đào Nguyên nhật nguyệt trường
Sở Quán Bạc Tử hoàn mộng huyễn
Thiên Thai Lạc Phố tổng hoang đường
Đương niên Tần Hán thành hả sự
Cô trùng hàn lăng chỉ tịch dương.

Nghĩa là:

Mây trôi nước chảy mịt mờ
Làng tiên ai biết bây giờ nơi nao?
Non Bồng cảnh sắc chiêm bao
Năm dài tháng rộng Động Đào chuyện không
Chùa Bạc Hậu quán Vu Phong
Thiên Thai Lạc Phố cũng trong hoang đường
Ra gì mà đế mà vương
Gò côi lăng lạnh riêng nương bóng chiều.

Hoài Xuân

Dương liễu tùy phong đáo thượng phương
Thiên gian xuy hạ phấn chi vương
Sơ sơ sơn tảo thanh mi dạm
Nhiễu nhiễu vân thâu thúy mính trường
Nhan mạo dã ưng đăng tử các
Phong lưu chỉ hiệp phối tài lang
Hà đương tịch mịch thư song tịch
Lưu bạn thanh quang tứ bửu phương.

Nghĩa là:

Gió liễu phương trời tha thướt bay
Phấn son son Nhược thổi về đây
Mày in nét đạm xa xa núi
Tóc trải làn xanh dợn dợn mây
Những ước mặt hoa lồng gác tía
Mà đem giá ngọc chuốt tài hay
Tình riêng vắng vẻ song đèn sách
Cầm bóng thanh quang bạn tháng ngày.

Tập Truyền Kỳ Tân Phổ chắc là nữ sĩ đã sáng tác trong lúc chồng sang sứ Trung Hoa. Hầu hết những bài thơ trong tập đều diễn tả niềm nhớ thương mong đợi của tài tử giai nhân.

Còn bản dịch Chinh Phụ Ngâm còn ở trong chỗ nghi vấn.

+ Có người bảo rằng Chinh Phụ Ngâm do bà Nguyễn Thị Điểm dịch chớ không phải bà Đoàn Thị Điểm.

Nguyễn Thị Điểm sanh vào khoảng cuối thế kỷ thứ XVII, niên hiệu Chính Hòa (1680-1705), triều Lê Hi Tông. Anh bà là Nguyễn Trác Luân, làm ngự sử sau làm Đốc Trấn. Đặng Trần Côn làm quan dưới quyền ông Luân. Do đó mà bà diễn Nôm Chinh Phụ Ngâm của họ Đặng.

Trong gia phả họ Đoàn chỉ ghi bộ Truyền Kỳ Tân Phổ mà không nói đến chuyện dịch Chinh Phụ Ngâm.

Trong Nữ lưu Văn học sử của Sở Cuồng Lê Dư, soạn giả lại nói rằng: "vì bà ưng Nguyễn Kiều nên đổi họ Đoàn làm họ Nguyễn". Và lại nói: "Lúc bà tuổi đã bảy mươi hãy còn qua lại nơi kinh ấp, mở trường dạy học trò, thành đạt được vài mươi người".

Ông Sở Cuồng đã nhập bà Đoàn và bà Nguyễn làm một.

Bà Đoàn sanh sau bà Nguyễn phỏng mười năm, và bà Đoàn mất ở Nghệ An, lúc 44 tuổi, còn bà Nguyễn sống đến trên 80 tuổi và lúc 78 tuổi còn ra giảng sách ở Kinh đô.

Hai bà có nhiều điểm giống nhau:

- Tên đã trùng mà tên người anh cũng trùng.

- Cũng đều hay chữ nổi tiếng, và cũng đều có dạy học.

- Cũng đều sống thời vua Lê chúa Trịnh.

Chỉ khác nhau ở những điểm:

- Bên họ Nguyên bên họ Đoàn,

- Chữ lót của hai ông anh khác nhau, một bên là Nguyễn Trác Luân, một bên là Đoàn Doãn Luân, và ông Luân họ Nguyễn làm quan đến Đốc Trấn, ông Luân họ Đoàn chỉ là giám sinh và mất trước khi bà Đoàn có chồng.

- Bà Đoàn mệnh yểu. Bà Nguyễn lên đến thượng thọ.

Nhưng chưa tìm được tài liệu chính xác để minh định bà nào là dịch giả Chinh Phụ Ngâm.

+ Phần đông các nhà viết văn học sử đều công nhân rằng bà Đoàn Thị Điểm có dịch Chinh Phụ Ngâm. Bản Chinh Phụ Ngâm quốc âm được lưu hành ngoài dân gian và được đem làm sách học ở học đường trong nước từ trước đến giờ, được coi là sản phẩm của bà Đoàn Thị Điểm. Nhưng gần đây, giáo sư Hoàng Xuân Hãn tìm được đến 5 bản dịch Chinh Phụ Ngâm và bảo rằng bản lưu hành bấy nay là của Phan Uy Ích, còn bản của bà Đoàn chưa xác định là bản nào.

+ Các nhà học giả nói gì thì nói, phần đông người yêu văn chương vẫn công nhận bà Đoàn Thị Điểm là dịch giả Chinh Phụ Ngâm đã được lưu hành rộng rãi lâu nay, bản khởi đầu bằng những câu:

Thuở trời đất nổi cơn gió bụi
Khách má hồng nhiều nỗi truân chuyên
Xanh kia thăm thẳm tầng trên
Vì ai gây dựng cho nên nỗi nầy...

Nguyên nhân dịch Chinh Phụ có hai:

- Nhớ đến lời khích khí của bà mà họ Đặng cố gắng đến thành tài.

- Mượn lời người chinh phụ nhớ chồng để gởi gắm nỗi lòng của bà đối với ông Nguyễn Kiều đi sứ Trung Quốc.

Tập Chinh Phụ Ngâm của ĐẶng Trần Côn sáng tác theo lối tập cổ. Phần lớn các câu trong tập đều lấy ý hoặc phỏng theo thơ cổ của Trung Quốc để diễn tả nỗi lòng của mình đối với thời cuộc. Phan Huy Ích nói về nguyên nhân sáng tác Chinh Phụ Ngâm: "Vì đầu thời Cảnh Hưng xảy việc binh đao, cảnh biệt ly của người đi chinh thú khiến Đặng Trần Côn cảm xúc mà làm ra khúc ngâm". Nhờ có cảm xúc hiệp với học thức tài năng mới tạo nên một áng văn chương cao giá.

Bà Đoàn Thị Điểm nếu không có sẵn nỗi thương nhớ trong lòng, thì dù tài đến đâu, học đến đâu cũng không thể có được những vần thơ có sức truyền cảm dồi dào như:

Chàng thì đi cõi xa mưa gió
Thiếp thì về buồng cũ chiếu chăn
Đoái trông nhau đã cách ngăn
Tuôn màu mây biếc phơi hằn núi xanh.

Chốn Hàm Dương chàng còn ngoảnh lại
Bến Tiêu Tương thiếp hãy trông sang
Khói Tiêu Tương cách Hàm Dương
Cây Hàm Dương cách Tiêu Tương mấy trùng...

CÀng trông lại mà cùng chẳng thấy
Thấy xanh xanh những mấy ngàn dâu
Ngàn dâu xanh ngát một màu
Lòng chàng ý thiếp ai sầu hơn ai?
v.v....

Cái uy danh và công phu tìm kiếm của giáo sư Hoàng Xuân Hãn đã làm cho một số học giả tin theo lời Giáo sư họ Hoàng mà quả quyết rằng bản Chinh Phụ Ngâm diễn ca truyền tụng bấy nay là của Phan Huy Ích. Một số khác vẫn theo truyền thuyết cũ và bảo rằng văn Nôm họ Phan còn truyền thế vị nhạt chất khô, không thể nào có được những lời êm dịu xinh tươi. Họ Phan là một bậc hay chữ chớ không phải làm thơ vì cảm xúc, cho nên không rung cảm người đọc. Ông cũng dùng tài học mà dịch Chinh Phụ Ngâm, dịch vì "thấy bản dịch cũ không diễn được hết tinh túy của nguyên tác". Nghĩa là ông dịch bằng trí chớ không phải bằng tâm, không phải vì cảm xúc mà dịch. Cho nên chắc chắn bản dịch của Phan Huy Ích không phải bản truyền tụng xưa nay.

Chúng tôi vẫn tin rằng Hồng Hà Nữ Sĩ Đoàn Thị Điểm là dịch giả bản CHinh Phụ Ngâm mà phần đông chúng tôi đã đọc và đã thuộc nhiều đoạn.

LSB-KỳCôngKỳThủ
30-08-2003, 16:28
[center:9b1c723512]7. Phạm Lam Anh[/center:9b1c723512]
Vùng đất từ Đèo Ngang vào đến Đèo Cả đã thuộc lãnh thổ Việt nam từ đời Lê Thánh Tông (1460-1497), nhưng việc học hành mãi đến hơn trăm năm sau mới được tổ chức dần dần. Đó là thời Trịnh Nguyễn phân tranh (1600-1786). Đất nước chia làm hai, từ Đèo Ngang trở ra gọi là Đàng Ngoài thuộc quyền chúa Trịnh, từ Đèo Ngang trở vô gọi là Đàng Trong thuộc quyền chúa Nguyễn.

Chính chúa Nguyễn đã tổ chức việc học hành ở Đàng Trong.

Khoa thi đầu tiên mở ở Đàng Trong là khoa Đinh Hợi (1647).

Từ ấy người Đàng Trong mới đua nhau học.

Bên phái nữ, người nổi tiếng nhất trong thời toàn thịnh của chúa Nguyễn tương truyền là bà Phạm Lam Anh.

Bà Phạm Lam Anh nhũ danh là Khuê, người huyện Diên Phúc, tỉnh Quảng Nam. Cụ thân sinh là Phạm Hữu Kính làm cai bạ thời chúa Định Vương Nguyễn Phúc Thuần (1756-1777).

Tư chất thông minh, học rộng, thơ hay, tự hiệu là Ngâm Si.

Chồng bà là Nguyễn Dưỡng Hiệu, người huyện Duy Xuyên (Quảng Nam), cũng có tài văn học. Vợ chồng rất tương đắc, những lúc nhàn hạ thường lấy việc xướng họa với nhau làm vui. Danh tiếng nổi một thời, danh sĩ Đàng Trong lẫn Đàng Ngoài đều ngưỡng mộ.

Tác phẩm còn truyền thế có tập Chiến Cổ Đường Thi, trong đó bài Vịnh Khuất Nguyên, câu:

Cô phân khí thành thiên khả vấn
Độc tinh nhân khứ quốc cơ không

Nghĩa là:

Khí uất riêng thành trời khá hỏi
Người ngay một khuất nước còn chi.

Được hầu hết những người biết chữ Hán ở Nam, Nghĩa, Bình, Phú đều thuộc nhập tâm.

Bà cũng rất giỏi về quốc âm. Có bài Cảnh Gần Sáng được truyền tụng:

Một giải thương lang lộn mắt mèo
Xóm chào mới dậy đuốc leo heo
Lằn kêu thức chúa chầu sân phụng
Gà gáy khuyên chồng dỏi dấu cheo
Ải sói Thường Quân vừa cất bước
Thuyền tên Gia Cát vội phân neo
Phương đông chửa lố vừng con ác
Cửa Khổng nho sinh nhóm tựa bèo.

Bài này bà làm lúc còn trẻ.

Truyền rằng trong hạt mở cuộc thi thơ treo giải thưởng. Đề bài "Vịnh Cảnh Gần Sáng", hạn vận "Mèo Heo Cheo Neo Bèo" và buộc mỗi câu phải có tên một con vật. Người dự thi có trên trăm, nhưng trúng tuyển không được chục. Bài bà được chấm đậu đầu. Khi đem ra bình bị "sĩ tử" phản đối vì câu 6 và câu 8 thiếu tên Vật. Bà cãi:

- 6, 8 thiếu nhưng 3, 4 thừa (Lằn, phụng, gà, cheo). Đem chỗ thừa bù chỗ thiếu. Vẫn nhập cách như thường.

Lý có phần cưỡng, nhưng những bài trúng tuyển phần nhiều đều khiếm ý. Đề là Vịnh Cảnh Gần Sáng mà phần đông bỏ sót ý Gần, mà chỉ đua nhau vịnh cảnh trời sáng. Lại thêm bài nào cũng bị "trường quy" bó buộc mà hoặc vận bị ép, hoặc câu ngượng ngập, lời lúng túng, không bài nào vượt nổi bài của bà. Rốt cuộc bà vẫn đoạt giải nhất. Và câu chuyện trở thành giai thoại trong làng thơ.

Phạm Liệu, một trong bốn tay hay chữ nổi tiếng đất Quảng Nam, triều Thành Thái thường nói rằng:

- Trong giớii nữ lưu từ trước đến giờ không có ai thơ hay bằng bà Phạm.

Tiếng hay thơ của bà bay sang tận Trung Quốc, và danh sĩ Trung Quốc đã từng mượn bà đem vào thơ để tặng Diệu Liên Công chúa, con gái vua Minh Mạng:

Nguyệt Đình Huệ Phố tài danh
Cảnh thuyết thi viên hữu Phạm Hồ.

Nghĩa là:

Nguyệt Đình Huệ Phố danh thơm nổi
Thêm ngát vườn thơ có Phạm Hồ.

- Khởi duy tài điệu siêu Hồ Phạm
Ban Tạ ư kim hữu thế nhân

Nghĩa là:

Tài cao há chỉ hơn Hồ Phạm
Ban Tạ ngày nay vẫn có người.

Như thế chứng tỏ rằng văn chương bà Phạm đã vượt không gian và thời gian: Văn chương bất hủ.

Rất tiếc chưa có người sưu tầm để phổ biến.

Quảng Nam đã nổi danh là "đất hay chữ". Đã có lần đậu một lượt đến 3 tiến sĩ, 2 phó bảng, được quan tổng đốc Nam Nghĩa là Đào Tấn cho thêu một lá cờ đề 4 chữ "Ngũ Phụng Tề Phi" để rước, lại một lần khác khoa hương và khoa hội đậu đến 28 người, thi nhân gọi là "Nhị thập bát tú".

Bậc hay chữ thì nhiều, song bên nữ giới chỉ nghe tiếng có bà Phạm Lam Anh. Một ngôi sao mai chói lọi, sao các nhà viết văn học sử ít lưu tâm?

LSB-KỳCôngKỳThủ
01-09-2003, 21:49
[center:3311352729]8. Ngọc Hân Công Chúa[/center:3311352729]
Công chúa là con gái thứ 21 vua Lê Hiển Tông (1740-1786). Từ bé đã thông kinh sử và biết làm thơ văn. Năm 1786, công chúa mới 16 tuổi. Nhân Bắc Bình VƯơng Nguyễn Huệ lấy danh nghĩa phù Lê diệt Trịnh kéo quân ra Bắc Hà, vua Hiển Tông bèn gả công chúa cho Bắc Bình VƯơng. Sau khi Bắc Bình VƯơng lên ngôi Đế thì công chúa được lập làm Bắc Cung hoàn hậu.

Được 5 năm, năm Nhâm Tý (1792), vua Quang Trung thăng hà, để lại cho Hoàng hậu hai con nhỏ. Bà rất đau khổ làm bà Ai Tư Vãn bằng quốc âm để khóc chồng, lời lâm ly bi thiết. Bài văn dài 164 câu song thất lục bát. Xin trích dẫn đôi đoạn:

... Từ cờ đỏ trỏ vời cõi Bắc
Nghĩa tôn phù vằng vặc bóng dương
Xe duyên vâng mệnh phụ hoàng
Thuyền lan chèo quế thuận đàng vu qui
Trăm ngàn dặm kể chi non nước
Chữ nghi gia mừng được phải duyên
Sang yêu muôn đợi ơn trên
Rỡ ràng vẻ thúy nối chen tiếng cầm
Lượng che chở vụng lầm nào kể
Phận đinh ninh cặn kẽ mọi lời
Dù rằng non nước biến dời
Nguồn tình ắt chẳng chút vơi đâu là
Lòng đùm bọc thương hoa đoái cội
Khắp tôn thân cũng đội ơn sang
Triều đình còn dấu chưng thường
Tùng thu còn nấm mấy hàng xanh xanh...

Đó là kể công đức vua Quang Trung đối với bà và dòng dõi nhà Lê từ ngày bà về với nhà vua. Sau đây là đôi nét tả nỗi lòng đau đớn lúc mơ tưởng đến người xưa:

Cuộc tụ tán bi hoan cấp mấy
Kể sum vầy mới mấy năm nay
Lênh đênh chút phận bèo mây
Duyên kia đã vậy thân này nương đâu?
Trằn tọc luống đêm thâu ngày tối
Biết cậy ai dập nỗi bi thương
TRông mong luống những mơ màng
Mơ hồ dường mộng bàng hoàng như say!
Khi trận gió hoa lay thấp thoáng
Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu
Vội vàng sửa áo lên chầu
Thương ôi quạnh quẽ trước lầu nhện giăng
Khi bóng trăng lá in lấp lánh
Ngỡ tàn vàng nhớ cảnh ngự chơi
Vội vàng dạo bước tới nơi
Thương ôi vắng vẻ giữa trời tuyết sa...

Lời văn do chí tình mà nên, do cảm xúc mà có, cho nên có sức rung động lòng người lâu dài mạnh mẽ. So với Chinh Phụ Ngâm của bà Đoàn Thị Điểm thì không êm đẹp bằng, song đối với Tự Tình Vãn của bà VƯơng phi Nguyễn Thị Ngọc Vinh thì thấm đậm gấp bội.

Còn một bài văn tế nữa tương truyền cũng của công chúa. SỰ thật là của một người trong triều đình làm cho công chúa đứng tế vua Quang Trung trong lúc thành phục. Mặc dù lời văn cũng rất thống thiết tả rõ nỗi đau xót của người có tang, sogn quyết là không phải tự tay công chúa thảo, bởi trong lúc ruột gan tan nát trước cảnh biệt ly, không còn tâm trí đâu để lo trau chuốt vần điệu cho du dương, sửa soạn câu biền câu ngẫu cho cân đối. Bài Ai Tư Vãn không phải làm ngay trong lúc vua Quang Trung mới mất chưa chôn, mà phải đợi lúc vết thương lòng đã dịu bớt nỗi đau nhức. Đó là kinh nghiệm bản thân của những người từng mượn văn chương thay tiếng khóc.

Trong Ai Tư Vãn bà Ngọc Hân kể lại mối tình của bà với vua Quang Trung từ những ngày đầu tiên cho đến khi nhà vua lâm bệnh nặng, thuốc thang không khỏi phải thăng hà. Nỗi bi thương thống khổ trước cái tang chồng được bà nói lên một cách chân thiết. Có lúc bà muốn tự tử theo chồng nhưng nghĩ đến 2 con nhỏ, bà phải gượng sống trong nỗi đoạn trường...

Sau khi vua Quang Trung băng hà, bà vẫn sống ở Phú Xuân, ngót 7 năm trường trong thương nhớ:

Chữ tình nghĩa trời cao đất rộng
Nỗi đoạn trường còn sống còn đau
Mấy lời tâm sự trước sau
Đôi vầng nhật nguyệt trên đầu chứng cho.

Bà mất vào mùa đông năm Kỷ Mùi (1799). Tuổi vừa chẳn 30. Triều đình Tây Sơn truy tặng miếu hiệu Như Y Trang Thận Trinh Nhất Vũ hoàng hậu.

Phan Huy Ích sọan năm bài văn tế bằng quốc âm để tế bà:

- một bài cho vua Cảnh THịnh đứng tế,
- một bài cho mẹ Vũ Hoàng Hậu là Phù Ninh Từ Cung đứng tế,
- một bài cho các công chúa con vua Quang Trung đứng tế,
- một bài cho các tôn thất nhà Lê đứng tế,
- một bài cho bà con phía bà Từ Cung đứng tế.

Những bài văn tế này làm sáng tỏ thêm mối tình thân thiết giữa công chúa Ngọc Hân và vua Quang Trung. Lại cho thấy thêm rằng đối với công chúa, chẳng những chỉ có vua Quang Trung yêu quí mà thôi, trong cung người người đều trọng vọng vì đức hạnh:

"Giọt ngân phái câu nên vẻ quí, duyên hảo cầu thêm giúp mối tu tề; Khúc thư châu thổi sánh tiếng hòa, khuôn nội tắc gây nên nhân nhượng.

"Hồ đỉnh ngậm ngùi cung nọ, những rắp chìm châu nát ngọc vốn từng nguyền; cung Khôn bận bịu gối nao, ép vì vun quén quế lan nên hãy gượng.
(Trong bài vua Cảnh Thịnh đứng tế)

"Nẻo thuở doành Hoàng phô vẻ, trau vàng chuốt ngọc vẹn mười phân; Trải phen bến Vỵ đưa duyên, phiếm sắc xoang cầm vầy một thể.

"Dầu gót ngọc vui miền Tịnh Độ, nỡ nào quên hai chồi lan quế còn thơ; Dẫu xiêm nghê mến cảnh Thanh Đô, nỡ nào lảng một bóng tang du hầu xế.

Đọc mấy câu trích dẫn, chúng ta biết thêm rằng hai người con của bà Ngọc Hân là một gái, một trai và bà còn mẹ già sống bên cạnh.

Năm tháng Ngọc Hân công chúa mất có ghi rõ trong Dụ Am Văn Tập của Phan Huy Ích. Tác giả lại có ghi rõ "Văn tế Vũ Hoàng Hậu". Thế mà một số nhà viết quốc sử và văn học sử lại chép rằng "Ngọc Hân công chúa bị Gia Long bắt"; kẻ thì thêm: "Nhà vua truyền đem nạp vào hậu cung, Lê Văn Duyệt can không nên lấy vợ thừa của giặc, nhà vua đáp "Tất cả giang san thành quách này, cái gì chẳng phải mình lấy lại từ tay giặc, cứ gì một người đàn bà". Vào cung, công chúa sanh thêm với Gia Long hai hoàng tử là Thường Tín và Quảng Oai"; người lại viết: "Thành Phú Xuân thất thủ, công chúa cùng hai con giả dạng bình dân dắt nhau chạy vào Quảng Nam lánh nạn, được ít lâu tung tích bại lộ, ba mẹ con bị bắt giải về Phú Xuân, bị triều Nguyễn gia hình bằng lối "tam ban triều điển".

Nhà Nguyễn diệt nhà Tây Sơn năm Nhâm Tuất (1802), thành Phú Xuân bị Nguyễn Phúc Ánh chiếm năm Tân DẬu (1801). Như thế Ngọc Hân công chúa đâu còn nữa mà bị bắt?

Còn về tác phẩm của công chúa, ngoài bài Ai Tư Vãn không nghe truyền bài nào khác nữa.

LSB-KỳCôngKỳThủ
08-09-2003, 18:49
[center:9aac04f2ca]9. Trương Quỳnh Như[/center:9aac04f2ca]
Con gái Kiến Xuyên Hầu Trương Đăng Quỹ, em gái Thanh Xuyên Hầu Trương Đăng Thụ cựu thần nhà Lê. Người làng Thanh Nê thuộc xứ Sơn Nam (nam Định). Sanh thời Lê Cảnh Hưng (1740-1786).

Sắc đẹp, trí sáng. Lúc bé mặc quần áo con trai đi học.

Nhà Tây Sơn thay nhà Lê, Kiến Xuyên Hầu lui về Thanh Nê, Thanh Xuyên Hầu vẫn giữ chức Hiệp trấn Lạng Sơn với ý đồ làm nội ứng cho nghĩa binh Cần vương đương ngấm ngầm lo việc khôi phục. Còn Quỳnh Như thì theo cha về quê hương.

Được ít lâu Thanh Xuyên Hầu bỗng nhiên ngộ bệnh mà mất. Bạn đồng chí của hầu là Phạm Thái đưa linh cữu hầu về Thanh Nê.

Phạm Thái là một trang thanh niên tài hoa lỗi lạc. Kiến Xuyên Hầu quí mến, lưu lại dạy các cháu trong nhà.

Giai nhân tài tử gặp nhau, Trương Quỳnh Như và Phạm Thái trở thành đôi tri kỷ, thường lén lút xướng họa cùng nhau. Kiến Xuyên Hầu định bụng sẽ gả Quỳnh Như cho Phạm Thái nhưng bà vợ không chịu và họ Phạm là bạch diện thư sinh. Phạm Thái phải ra đi, ra đi với hy vọng trở lại trong cảnh võng lọng biển cờ. Trương Quỳnh Như tặng biệt:

Sắt đá lòng này có biết chăng
Xe duyên mong mượn gió cung Đằng
Vườn đào sực thấy oanh đưa tín
Dặn liễu ai xui én cách chừng
Vàng ngọc ví không cùng một ước
Nước non thề đã có hai vầng
Ai sang cậy nhắn tri âm với
Chớ phụ cầm thư đợi dưới trăng.

Phạm Thái đi rồi bà mẹ ép gả Quỳnh Như cho một công tử quyền thế. Nàng uất ức thành bệnh mà chết.

Tuổi mới đôi mươi!

Phạm Thái hay tin, thương đau xé ruột! Bèn tìm đến mộ làm văn tế điếu.

Đồng chí chết, Tri kỷ chết, họ Phạm thất tình, chí khôi phục nhà Lê dần dần tiêu tán, hàng ngày tìm quên lãng trong làng say. Chàng có nhiều thơ khóc Quỳnh Như:

I

Xanh kia cao thẳm mấy từng khơi
Nỡ để duyên ai luống thiệt thòi
Nhớ đốt lò vàng hương nhạt khói
Sầu châm chén ngọc rượu không hơi
Lầu tây nguyệt gác mây lồng bóng
Ải bắc hồng sang bể tuyệt vời
Một khối chung tình tan mấy mảnh
Suối vàng ai có thấu lòng ai?

II

Oanh ru bên trướng giấc hoa nồng
Chợt tỉnh hồn mai nhớ lại mong
Non nước mơ màng chừng chỉ lữ
Mây mưa phảng phất đỉnh Vu Phong
Quyên về viễn phố hoa rầu rĩ
Nhạn tếch Hành Dương nguyệt não nùng
Đàn tiếng ly loan tay ngại gảy
Lấy ai lần gỡ mối sầu xong!

Trương Quỳnh Như chết để lại một tập thơ ghi chép mối tình giữa nàng và Phạm Thái:

Vinh Giờ Tý

Giờ Tý canh khuya thuở giáp canh
Vì ai thổn thức rộn tâm tình
Ngửa ngang đôi ngả ai là bạn
Trằn trọc đòi nao thấy những mình
Một tấm sắc son đà gắn bó
Mấy điều trăng gió cũng màng tênh
Thôi thôi dặn hãy làm thinh vậy
Mọi nỗi chung riêng hãy để dành.

Vinh Giờ Sửu

Đằng đẵng canh dài khá trách đêm
Đìu hiu giờ sửu giấc nào êm
Tiếng hàn châm nện hơi sương lạnh
Trận hỏa thanh hừng dạ sắt mềm
Eo óc giục người gà nội quạnh
Véo von gọi bạn dế bên thềm
Vắt tay lên trán nằm mong sáng
Thấy sáng mà sầu lại chất thêm.

Vinh Giờ Mão

Mão thì đến bữa tưởng là vui
Đến bữa mà sao những ngậm ngùi
Đũa gắp ngập ngừng không thấy miếng
Miệng ăn mặn nhạt chẳng ra mùi
Thức ngon vật lạ băn khoăng những...
Cổ đắng lòng cay gắng gỏi ngồi
Nhiều ít bây giờ ai ép uổng
Cũng mong qua bữa tếch cho rồi.

Vịnh đủ 12 giờ, giờ nào cũng gởi gắm niềm nhớ thương người cách trở. Thỉnh thoảng cũng có đôi bài vịnh vật vịnh cảnh:

Sơn Âm Cổ Tự

Thích nhàn từng trải thú sơn hà
Phong cảnh đây ru? Là gọi là...
Doành chở bè từ vờn sắc ngọc
Đỉnh in trăng tuệ tỏ màu hoa
Véo von kệ bối câu chim gióng
Ríu rít đàn xuân khúc gió hòa
Dù chẳng phải tiên nhưng chẳng tục
Mới hay rằng phật cũng là ta.

Mối tình thì éo le mà văn chương không có gì đặc sắc. Có lẽ vì tuổi còn trẻ quá, tài năng chưa đến độ phát triển mạnh, tâm tư chưa được nung nấu, chưa lắng được thật sâu.

LSB-KỳCôngKỳThủ
25-09-2003, 16:06
[center:d4c283b7ea]10. Hồ Xuân Hương[/center:d4c283b7ea]
Trong các nữ sĩ bất tử từ xưa đến nay, người được đại đa số nhân dân Việt Nam biết tiếng và thuộc thơ nhiều nhất, có lẽ là bà Hồ Xuân Hương.

Nhưng cuộc đời của bà cũng như một số thơ của bà chưa được xác minh. Các nhà khảo cổ đưa ra nhiều nghi vấn còn cần tìm bằng chứng đầy đủ mới có thể giải quyết.

Bà sanh dưới thời Lê Cảnh Hưng (1740 - 1786) và sống cho đến thời Gia Long triều Nguyễn (1802 - 1820).

Ông thân sinh là Hồ Phi Diễn ở làng Quỳnh Đôi, huyện Quỳnh Lưu, tỉnh Nghệ An, bỏ quê ra dạy học ở vùng Hải DƯơng, và lấy người họ Hà sanh ra Hồ XUân Hương.

Hồ XUân Hương biết làm thơ từ lúc nhỏ.

Một hôm trời mưa vừa xửng, XUân Hương đi ngang qua sân trường cha dạy học, chẳng may đất trơn bị trợt té nằm dài. Học trò vỗ tay cười, nàng chữa thẹn, ngâm:

Giơ tay vói thử trời cao thấp,
Xoạc cẳng đo xem đất vắn dài.

Lại một hôm khác đi chợ gặp một thiếu nữ cầm một trăm vàng hoa, nàng thách mấy thư sinh đương bàn chuyện thi phú nơi tửu quán thử vịnh "cô gái cầm trăm vàng hoa". Mấy người kia xin chịu. Nàng ứng khẩu:

Xuân xanh tuổi độ chừng hai tám
Nén đỏ tay cầm ngoại chín mươi. (1)

Lớn lên nàng kết duyên cùng một danh sĩ ngồi tri phủ Vĩnh Tường. Nhưng chỉ được 27 tháng ăn ở cùng nhau thì quan phủ mất, để lại một đứa con sơ sinh. Quan Phủ tuổi chưa đầy 30! Bà khóc:

Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi
Chưa chẵn ba mươi cũng một đời (2)
Chôn chặt văn chương ba thước đất
Ném tung hồ thỉ bốn phương trời (3)
Nắm xương dưới ván chau mày khóc
Hòn máu trên tay mỉm miệng cười (4)
Hăm bảy tháng tròn là mấy chốc (5)
Trăm năm ông phủ Vĩnh Tường ơi.

Ông phủ mất, cha mẹ bà cũng nối tiếp nhau qua đời. Bà phải chịu nhiều nỗi truân chuyên. Bà bị ép buộc làm lẽ một viên chánh tổng có quyền thế, tục gọi là Chánh tổng Cóc. Ở ngoài đời chịu nhiều đau khổ, vào nhà người chịu lằm nhục nhằn. Lòng bà sanh uất hận. Bà có bài thơ Kiếp Lấy Chồng chung:

Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung
Năm thì mười họa nên chăng chớ
Một tháng đôi lần có cũng không
Cố đấm ăn xôi xôi lại hẩm
Cầm bằng lâm mưới mướn không công (6)
Thân này sớm biết phần này thế (7)
Thà nỗi cầu hư nước đóng rong. (8)

Tổng Cóc chết, bà có thơ điếu:

Chàng Tổng Cóc, chàng Tổng Cóc ơi
THiếp bén duyên chàng có thế thôi
Nòng nọc đứt đuôi đà bỏ nước
Ngàn vàng khôn chuộc giống bôi vôi. (9)

Lòng uất hận đã phát tiết ra ngoài văn chương.

Thoát khỏi nạn "chồng chung", bà đến Tây Hồ mở quán bán rượu, lấy tên là Cổ Nguyệt, Khách thanh lẫn tục tới lui đông đúc. Một danh sĩ đương thời là Phạm đình Hổ, tục gọi là CHiêu Hổ thường cùng bà xướng họa. Chiêu Hổ, nhân tên Cổ Nguyệt là chiết tự chữ Hồ gồm chữ Cổ và chữ Nguyệt, có câu bỡn rằng:

Đã cổ sao còn đeo thói nguyệt
Có xuân mà lại vắng mùi huơng.

Tuy là bỡn song ngụ ý chê bà Hồ có tài có học mà thiếu đức. Bà phản ứng:

Bảng hổ trớ trêu phường mặt trắng,
Lưỡi lằn xoi bói bạn quần hồng. (10)

Ngụ ý chê ông Hổ học dốt nên thi không đậu, bạch diện thư sinh vẫn hoàn bạch diện thư sinh, thêm vô hạnh dùng lưỡi lằn miệng mối đi châm chọc hàng phụ nữ đã bị xã hội xem khinh.

Lại có người đọc rằng:

Bảng hổ chẳng treo phường bạch diện,
Lưỡi lằn khéo chọc mảnh hồng nhan.

Văn chương chải chuốt, ý tứ kín đáo hơn câu kia, song đem quần mà đối mặt, quần dàn bà, mặt đàn ông, đối như vậy mới xứng với thói trọng nam khinh nữ, với hạng đàn ông không biết thương đàn bà thất thế, cô đơn.

Những khách có chữ nghĩa, ngoài CHiêu Hổ còn nhiều người khác tới lui nơi quán bà như Tôn Phong THị, Sơ Phủ, Chí HIên... là những người có tư cách. Song những người này lại không đủ quyền đủ sức che chở bà. Còn hầu hết những người để ý đến bà lại là phường tâm địa không tốt. Không thoả mãn được ý muốn, họ tìm cách quấy phá làm cho bà không thể sống yên. Vì thế mà lòng uất hận của bà mỗi ngày mỗi tăng. Bà nhận thấy người đàn bà bị bọn đàn ông làm khổ nhục hay quí trọng chỉ bởi "cái này". Để đối phó, bà "dĩ độc trị độc", dùng "cái này" làm khí giới giấu trong văn chương mỗi lần ra trận:

Vịnh Quạt

I

Mười bảy hay là mười tám đây
Cho anh yêu dấu chẳng rời tay
Mỏng dày mấy cũng chành ba góc
Rộng hẹp nào bao cắm một cây
Càng nóng bao nhiêu càng thấy mát
Yêu đêm chẳng phỉ lại yêu ngày
Hồng hồng má phấn duyên gì cậy
Chúa dấu vua yêu một cái này.

II

Một lỗ xâu, xâu mấy cũng vừa
Duyên em dính dáng tự ngày xưa
Chàng ra ba góc da còn thiếu
Xếp lại đôi bên thịt vẫn thừa
Mát mặt anh hùng khi tắt gió
Che đầu quân tử lúc sa mưa.
Nâng niu ướm hỏi người trong trướng,
Phì phạch đêm ngày đã chán chưa?

Đèo Ba Dội (11)

Một đèo một đèo lại một đèo
Thợ trời khéo tạc cảnh cheo leo
Đất đùn hang thỏ tùm lum nóc
Đá trải gan gà lún phún rêu (12)
Lắc lẻo cành thông cơn gió giật
Đầm đìa lá liễu giọt sương gieo
Hiền nhân quân tử ai mà chẳng
Mỏi gối chồn chân cũng phải trèo.

Đến những bậc ngôi cao quyền cả, đến bậc đức sáng tài hay còn chuộng còn ham, huống hồ đám dung thương trong xã hội. Đến những bậc anh hùng, bậc quân tử còn đội trên đầu che trước mặt, huống hồ những phường "lòi tói", những bọn "ngẩn ngơ học làm thơ", những kẻ "hễ thấy để hớ hênh là dòm"...

Tuy dùng "cái này" làm vũ khí chiến đấu, song lời thơ của bà sắc bén chớ không tục tằn:

Hang Cắc Cớ

Trời đất sinh ra đá một chòm
Nứt làm hai mảnh hỏm hòm hom
Ké hầm rêu mốc trơ toen hoẻn
Luồn sóng thông xao vỗ phập phòm (13)
Giọt nước hữu tình rơi lỏm bỏm
Con đường vô ngạn tối om om
Khen ai đẽo đá tài xuyên tạc
Khéo hớ hênh ra lắm kẻ dòm.

Đánh Đu

Tám cột khen ai khéo khéo trồng
Người thời lên đánh kẻ ngồi trông
Trai co gối hạc khom khom cật
Gái uốn lưng ong nẩy nẩy lòng
Bốn mảnh quần hồng bay phấp phới
Hai hàng chân ngọc duỗi song song
Chơi xuân đã biết xuân chăng tá
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không.

Lắm bài văn chương rất thanh lệ tao nhã:

Vịnh Tranh Tố Nữ

Hỏi bao nhiêu tuổi hỡi cô mình
Chị cũng xinh mà em cũng xinh
Trăm vẽ như in tờ giấy trắng (14)
Nghìn thu vẫn giữ nét xuân xanh
Biệu mai chẳng bén mùi trăng gió
Bồ liễu đành cam phận mỏng manh
Còn thú vui kia sao chẳng vẽ
Trách người thợ vẽ khéo vô tình.

Tự Tình

CAnh khuya văng vẳng trống canh dồn
Trơ cái hồng nhan với nước non
Mùi rượu hương đưa say lại tỉnh
VẦng trăng bóng xế khuyết chưa tròn
Xuyên ngang mặt đất rêu từng đám
Đâm toạc chân mây núi mấy hòn
Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại
Mảnh tình xan xẻ tí con con.

Các nhà "đạo đức" chê thơ Hồ Xuân Hương là "dâm", vì hay đề cập đến "cái này", những "cái" có ít nhiều liên hệ đến "cái này". Nhưng xét kỹ thơ bà không một bài nào khêu gợi những dục vọng kín đáo của con người, thơ bà không hề khêu gợi sự ham muốn vật chất của người đọc. Như thế sao gọi là "dâm"?

Thơ Hồ Xuân Huơng là loại thơ độc đáo. Trước bà không, sau bà dù đôi người bắt chước, song chỉ mô phỏng được chút lông cánh của phụng hoàng chớ không giữ được cốt cách của phụng hoàng.

Một vị tấn sĩ thời Hán học thịnh hành đã nói:

- Trong làng thơ quốc âm, Hồ Xuân Hương ngồi chiếu nhất. Chiếu nhì bỏ trống, chiếu ba bỏ trống. Đến chiếu thứ tư mới có Tam Nguyên Yên Đổ Nguyễn Khuyến.

Tuy là ý kiến riêng của ông cụ, song cũng cho chúng ta thấy và tin giá trị thơ của Hồ Xuân Hương.

Nhưng từ trước đến nay trên tao đàn Việt Nam, chỉ nghe nói đến thơ quốc âm của bà Hồ. Có người cho rằng bà ít học, chỉ có tài Nôm mà thôi.

Không đúng. Bởi nếu chỉ giỏi về Nôm thì danh bà làm gì nổi tận Trung Hoa, và bà cùng bà Phạm Lam Anh đã trở thành điển cổ như chúng ta đã thấy:

- Nguyệt Đình Huệ Phố tài danh thạnh
Cánh thuyết thi viên hữu Phạm Hồ
- Khởi duy tài điệu siêu Hồ Phạm
Ban Tạ ư kim hữu thế nhân (15)

Về thơ quốc âm của Hồ Xuân Hương thì soạn giả Văn Đàn Bảo Giám đã sưu tập được trên dưới 50 luật. Mỗi người Việt Nam yêu thơ thuộc ít nhất cũng mươi bài.

Gần đây có phát hiện được tập Lưu Hương ký gồm 24 bài thơ chữ Hán và 26 bài thơ Nôm, ghi là của bà Xuân Hương sáng tác nơi Cổ Nguyệt Đường (16). Tập này chưa được phổ biến. Chỉ mới thấy một bài đăng trên tạp chí Văn Nghệ xuất bản ở Hà Nội năm 1971 và ghi là của Hồ Xuân Hương gởi cho Nguyễn Du:

Dặm khách muôn ngàn nỗi nhớ nhung
Mượn ai tới đó hỏi cho cùng
Chữ tình chốc đã ba năm hẹn
Giấc mộng rồi ra nửa khắc không
Xe ngựa trộm mừng duyên tấp nập
Phấn son càng tủi phận long đong
Biết còn mảy chút công đe đẳng
Lầu nguyệt năm canh chiếc bóng lồng.

VĂn bài này đối với những bài "nghịch ngợm" truyền tụng lâu này thật khác nhau như màu xanh và màu đỏ, mà đối với bài Khóc Chồng hay Tự Tình là những bài "đứng đắn", cũng không có hơi hướng gần nhau. Những bài kia tứ lạ mới, lời già dặn sắc bén, còn bài này cả từ lẫn ý đều ở mức bình thường. Không lẽ một cây mà sanh ra hai giống trái, cả hình dáng lẫn mùi vị đều không mảy may giống nhau.

Cho nên chư dám tin bài "Gởi Cho Tiên Điền" là của bà Hồ.

Nói tóm lại: Chỉ mấy chục bài thơ được truyền tụng xưa nay cũng đủ cho văn giới quả quyết rằng Hồ Xuân Hương là một tài nữ, một nhà thơ độc đáo, vô tiền khoáng hậu của Việt Nam.

Chú thích:
(1) VÀng hoa: là giấy mã xếp từng nén, các bà nội trợ mua về để cúng "kẻ khúat mặt", tương tự như giấy vàng bạc, thường màu vàng in hoa đỏ lá xanh.
(2) Bài khóc ông phủ Vĩnh Tường, nhiều sách chép khác.
Câu 2 chép là: "Duyên nợ phù sinh giũ sạch rồi".
(3) CÂu 4 chép là: "Tung hê hồ thỉ bốn phương trời".
(4) Cặp luận chép là:
"Đòn cân tạo hóa rơi đâu mất,
Miệng túi càn khôn xếp lại thôi".
(5) CÂu 7 chép là: "Hăm bảy tháng trời là mấy chốc" và giảng là "để tang 27 tháng". Đại tang chỉ ba năm 24 tháng. Nhưng con trai trưởng để tang cho cha, hoặc cho mẹ mà cha đã qua đời rồi, mới thêm 3 tháng dư ai mà thôi. Vợ để tang cho chồng không có lệ dư ai. Huống nữa theo các sách thì bà Hồ lại là vợ bé. Mà câu "Hăm bảy tháng tròn là mấy chốc" là câu nói về dĩ vãng chớ không phải về tương lai, bởi tương lai đã tới đâu mà biết mau hay chậm.
(6) Bằng là bằng cấp, là giấy vi bằng, giấy giao kèo.
Cao dao có câu:
"Tối tối chị giữ mất buồng
Chị cho manh chiếu nằm suông nhà ngoài
Sáng sáng chị gọi "Ớ hai,
Mau trở dậy thái khoai đâm bèo"".
Đó là làm mướn không công.
(7), (8) CÁc sách chép:
"Thân này ví biết phần này nhỉ
Thà trước thôi đành ở vậy xong".
Tầm thường quá, không phải bút pháp và khẩu khí bà Hồ. Câu:
"Thân này sớm biết phần này thế
Thà nỗi cầu hư nước đóng rong".
Mượn ý ca dao:
"Cầu hư liệu bắt cho xong
Để chi chờ đợi đóng rong cột cầu"
Vừa mỉa mai vừa chua xót, mà lại kín đáo vững vàng.
Sửa cặp luận bài Khóc Chồng và câu kết bài Chồng Chung như trong các sáng, là "điểm vàng thành thau". Có người bảo các câu sách chép mới là nguyên tác. Lấy chi làm bằng chứng? Ai đã thấy di cảo của bà Hồ, di cảo tự tay bà Hồ viết?
(9) Bài này câu đầu nhiều sách chép:
"Ối chàng ôi! Ối chàng ôi!
Thiếp bén duyên chàng có thế thôi"
Trong bài không dùng tiếng Cóc mà đọc lên đều hiểu rằng là thơ điếu Tổng Cóc, vì có "bà con dòng họ cóc" ở trong các câu.
(10) BẢng hổ: Bảng ghi danh những người thi đậu, đem yết cho quốc dân biết. Cũng như bảng mai, bảng vàng.
(11) Đèo BA Dội: Tên chữ là đèo Tam Điệp, có ba ngọn chồng lên nhau, thành ba lớp. Đèo ở gần biển, giáp giới tỉnh Ninh Bình và Thanh Hóa.
(12) Có sách chép:
"Cửa son đỏ loét tùm lum nóc
Vách đá xanh rì lún phún rêu".
Lại có sách chép:
"ĐẤt rồ mái giải xanh um cỏ
Đá chỏm gan gà mốc thếch rêu".
(13) Hang CẮc Cớ: ở Sài Sơn tỉnh Sơn Tây có chùa Thầy tức là chùa Phật Tích. Bên kia chùa ở lưng chừng núi có hang Cắc Cơ. Cửa hang khá rộng. Mới vào có một cái vực chắn ngay lấy cửa hang. Lách về phía bên trái có một con đường nhỏ dài chừng 500 thước, nằm sát vách đá. Hang tối om, người vào ra phải lần từng bước cho khỏi ngã xuống vực. Mỗi lần tránh nhau phải ôm lấy nhau, bất kể già trẻ, trai gái. Do đó mới mệnh danh là hang Cắc Cơ.
Trong hang có nhiều thạch nhũ. Nhưng bóng tối che khuất hình dạng chỉ nghe tiếng lõm bõm của nước trong vú nhỏ xuống vực.
(14) Có sách chép là:
"Đôi lứa như in tờ giấy trắng,
Nghìn năm vẫn giữ nét xuân xanh".
(15) Xem bài viết về bà Phạm Lam Anh ở trước và bài về Diệu Liên công chúa ở sau.
(16) Trong bộ Từ Điển Văn Học của nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội ấn hành năm 1983 - Quyển 1 - có nói rõ.