Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 17-07-2009   #64
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.413
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
63. Matthêu Lê Văn Gẫm (1813-1847)

Matthêu Lê Văn Gẫm, Sinh năm 1813 tai Gò Công, Biên Hòa, Giáo dân, Thương gia, bị xử trảm ngày 11 tháng 5 năm 1847 tại Chợ Ðũi dưới đời vua Thiệu Trị, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 11/05.

Liều thân vì đại nghĩa

Năm 1844, theo lời yêu cầu của Đức cha Cuénot Thể, Đức Giáo Hoàng Grêgôriô XVI chia giáo phận Đàng Trong thành hai giáo phận: Giáo phận Đông gồm các tỉnh miền Trung, và giáo phận Tây gồm các tỉnh Miền Nam và Campuchia. Giáo phận tây được giao cho Đức cha Lefèbvre Nghĩa, khi đó đã bị trục xuất và đang ở Singapour. Phải đưa Đức cha về giáo phận, đó là điều mong ước của toàn thể tín hữu và hàng giáo sĩ ở Nam Việt. Thánh Matthêu Gẫm đã đứng ra đảm nhiệm công tác này, dù đã lường trước được những nguy hiểm đến tính mạng. Và thực tế, ngài đã bị bắt và đã hy sinh vì sứ mạng này. Tấm gương sáng ngời của thánh nhân sẽ muôn đời sống mãi trong lòng các tín hữu Việt Nam yêu mến Giáo Hội mình.

Người gia trưởng gương mẫu

Matthêu Lê Văn Gẫm chào đời năm 1813 thời vua Gia Long, tại họ Tắt, thuộc làng Long Đại, xứ Gò Công, tỉnh Biên Hòa (nay thuộc quận 9, TPHCM). Là con đầu lòng trong một gia đình năm anh em trai và một em gái út, Matthêu Gẫm đã thừa hưởng nơi thân phụ, ông Phaolô Lê Văn Lại và thân mẫu, bà Maria Nguyễn Thị Nhiệm, một truyền thống đạo đức thâm sâu.

Năm 15 tuổi, cậu Gẫm xin phép cha mẹ gia nhập chủng viện Lái Thiêu để tu học linh mục. Nhưng chỉ một tháng sau, song thân đã đến xin cậu về. Vì là anh cả một đàn em nhỏ dại, cậu đã vâng lời cha mẹ về phụ giúp gia đình lao động kiếm sống. Và Chúa đã hướng dẫn cậu theo lối khác. Khoảng 20 tuổi, chàng thanh niên vạm vỡ ấy kết hôn với một thiếu nữ thuộc họ Thành, làng Long Điền, Bà Rịa (Nay thuộc huyện Châu Thành, tỉnh Đồng Nai). Hai vợ chồng sống với nhau rất êm ấm thuận hòa và sinh dạ được bốn người con.

Trong nghề thương mại thường phải xa nhà, một lần kia Matthêu Gẫm sa ngã, theo đuổi mọt thiếu nữ khác. Nhưng khi nghĩ lại, ông cương quyết từ bỏ mối tình ngang trái. Để bù lại, ông tỏ ra yêu vợ nhiều hơn, và chú tâm vào việc giáo dục con cái, nhất là về đời sống đạo đức. Trong bốn người con thì con trưởng và con út qua đời vì bệnh, người thứ hai ra cản việc đốt nhà thờ Cầu Ngang nên bị giết, còn người thứ ba bị bắt vì đạo và chết thiêu trong khám đường cùng với nhiều người khác tại Bà Rịa ngày 07.01.1862. Hai người con sẵn sàng chết vì đức tin, quả là bằng chứng rõ rệt về đường lối giáo dục đức tin của ông.

Người thương gia quảng đại

Vì có thuyền riêng và rành nghề sông biển, công việc buôn bán của ông Matthêu Gẫm càng ngày càng phát đạt. Ông quảng đại giúp đỡ các giáo sĩ, và được các thừa sai tín nhiệm. Trong chương trình của cha Lợi, quản lý nhà chung Bà Rịa thì thỉnh thoảng ông lại làm một chuyến qua Hạ Châu (Singgapour) hay Pénang (Mã Lai) để đón các thừa sai và các chửng sinh Việt Nam du học về nước, hoăc chuyển các đồ thờ tự và sách báo đạo. Một số chuyến đi về êm xuôi, nhưng rồi công việc bại lộ, và các quan địa phương để ý theo dõi ông rất gắt.

Năm 1846, vì nhu cầu của giáo phận, ông nhận lời với cha Lợi sang Singapour đón Đức cha Đaminh Lefèbvre Nghĩa, cha Duclos Lộ và ba chủng sinh về Sài Gòn. Như có linh cảm chuyến này khó thoát, nên ông đến từ giã cha mẹ nội ngoại, dặn dò vợ con kỹ càng ước vọng của mình rồi lên đường. Chuyến đi được êm xuôi. Ngày 23.05, thuyền nhổ neo quay về thì gặp bão tố, và mất thêm bốn ngày trốn chạy một tàu cướp biển, nên ông chễ hẹn. Ngày 06.06, ông Gẫm mới vào đến cửa Cần Giờ, ông trùm Huy họ Chợ Quán đã chờ ở đó sáu ngày để chuyển người mà không gặp, nên đã chở về nhà.

Vì biết mình là đối tượng bị theo dõi, ông Gẫm đã cẩn thận neo thuyền chờ thêm hai ngày, đến khi không thấy ai ra đón, mới quyết định đánh liều đi sâu vào Sài Gòn. Vừa thoát qua một đồn canh, ông gặp một chiếc thuyền tuần tiễu, ông nhanh trí hối lộ cho họ 10 nén bạc để thoát thân. Năm người lính trên thuyền này, sau một hồi tranh luận, sợ chuyện bị bại lộ, nên quay thuyền lại và rượt theo để trả tiền rồi bắt thuyền ông. Ông Gẫm kêu gọi các anh em trên thuyền hợp lực, định chống trả, nhưng Đức cha Nghĩa không đồng ý, vì cho rằng trái với tinh thân nhân hậu của Kitô giáo.

Khổ giá và vinh quang

Sáng ngày 08.06.1846, với sự yểm trợ của một số lính trên thuyền khác mới tới, quan lính nhà vua áp tải thuyền ông Gẫm về Bến Nghé. Đức cha Nghĩa và cha Lộ bị giam ở Công Quán. Cha Lộ qua đời trong tù ngày 17.07.1846, còn vị Giám mục thì được giải ra kinh đô Phú Xuân. Tại đây vua Thiệu Trị lên án xử trảm, sau đổi thành án trục xuất về Singapour, sau ngài lại tìm cách vào Việt Nam. Ông Matthêu Gẫm tự nhận là người chủ mưu nên bị biệt giam ở Sài Gòn.

Vài ngày sau, các quan đưa ông ra tòa lấy khẩu cung và kêu gọi quá khóa. Dù bị đòn đánh đau đớn, ông Gẫm vẫn hiên ngang chịu đựng, không khai một ai, cũng không chịu bước qua Thánh Giá. Trước tòa, ông khai tên là Lê Văn Bửu, còn bản án lại ghi tên Lê Văn Bối. Sau 20 ngày, các quan làm án gửi về kinh đô xin xử chém, nhưng nhà vua chần chừ đến năm sau mới quyết định.

Trong thời gian chờ vua phê án, ông Gẫm phải mang gông xiềng nặng nề, nhưng lúc nào cũng giữ được bình tĩnh vui vẻ. Ông nói : "Tôi có ăn trộm ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Được chết vì đạo là điều tốt lắm". Cha Thán ba lần cải trang vào thăm giải tội và trao Mình Thánh. Cha Phan Văn Minh (tử đạo ngày 03.07.1853) cũng vào thăm và khích lệ. Các tín hữu Chợ Quán, Thị Nghè, An Nhơn và họ Lăng (Chí Hòa) cũng rủ nhau đến thăm viếng người anh hùng của giáo phận. Thân phụ ông Gẫm và người em, ông đội Phaolô Bằng, vì liên hệ gia đình cũng bị bắt giam tại Biên Hòa. Thân mẫu ông và các em khác trốn tránh quanh vùng Thủ Đức cũng vào ngục thăm ông một vài lần.

Sau bảy tháng ông Gẫm bị giam, bản án được vua Thiệu Trị châu phê, nhưng vì trùng vào dịp cuối năm, vua ra lệnh dời qua tết mới thi hành. Sau tết, một vài viên quan ở trấn Gia Định có cảm tình với người thương gia hiền lành, viện cớ chính vị giám mục cũng không bị xử tử, làm đơn xin vua giảm án của ông Gẫm thành án lưu đày chung thân. Nhưng tháng 03.1847, khi quân đội triều đình giao tranh và thua quân Pháp ở Đà Nẵng, nhà vua quyết định không ân xá gì nữa.

Ngày 11.05.1847, ông Lê Văn Gẫm được đưa đến pháp trường "Da Còm", tên một cây đa tróc gốc cằn cỗi ở đó (nay là xứ Chợ Đũi, khi đó còn thuộc xứ Chợ Quán), các vị tín hữu và lương dân hiện diện rất đông. Ba người em của vị anh hùng đức tin, là Tôma Trọng, Phaolô Bằng và Anrê Nguyện, cũng có mặt trong cuộc xử anh mình. Ông đội Bằng và ông Trùm Phước phải xô đẩy đám đông để đưa cha Thán đến gần giải tội lần cuối cùng cho anh mình. Ông đội cũng tặng đao phủ ba quan tiền đề anh ta chém thật gọn, giúp anh mình đỡ đau đớn.

Thế nhưng nghe tiếng chiêng trống, và thấy thái độ thương tiếc của nhiều người tham dự, viên đao phủ không giữ được bình tĩnh phải chém đến ba nhát, đầu vị tử đạo đạo mới lìa khỏi cổ. Các người en vị tử đạo và các tín hữu ùa vào, ráp đầu vị chứng nhân với thân mình, khâu lại, thay áo trắng, lấy khăn xanh quấn quanh cổ ngài, rồi đặt lên võng khiêng về an táng tại họ Chợ Quán.

Năm 1870, bà nhiệm, thân mẫu vị tử đạo thuật lại ở tòa điều tra phong thánh rằng : "Hai vợ chồng chúng tôi nghe con chết thì chẳng còn thảm thiết gì, một vui lòng mà rằng : chết vậy đặng làm thánh".

Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII suy tôn ông Matthêu Lê Văn Gẫm lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo

Giáo dân Lê Văn Gẫm tử đạo
Sinh Quý Dậu (1813) thông thạo Gò Công
Mười lăm tuổi xin vào dòng
Mẹ cha chẳng chịu buộc lòng phải ra

Theo mẹ cha về nhà sinh sống
Lập gia đình khăn đóng áo dài
Họ Thành bên vợ sánh vai
Long Ðiền Bà Rịa miệt mài bán buôn

Nghề thương mại Gẫm luôn xa vợ
Ðã ngã sa nên lỡ đèo bòng
Hồng ân Thiên Chúa quan phòng
Hồi tâm từ bỏ thoát vòng trái ngang

Rồi sau đó sẵn sàng hoán cải
Sống thủy chung con cái yêu thương
Bốn con giáo dục theo đường
Gia đình đạo đức Chúa thương thuận hòa

Bị thử thách thật là quá nặng
Hai người con bệnh nặng ra đi
Còn anh cản trở chưa đi
Nhà thờ chúng đốt ắt thì ra can

Cả bọn chúng dã man đã giết
Con thứ tư đặc biệt hơn nhiều
Bắt vì đạo bị chết thiêu
Khám đường bốc cháy với nhiều tù nhân

Về gia cảnh, thập phần gian khổ
Việc bán buôn, Chúa đổ ơn riêng
Làm ăn phát đạt triền miên
Ông luôn giúp đỡ, khắp miền thừa sai

Giúp giáo sĩ, trong ngoài ẩn trốn
Rất nhiệt thành khiêm tốn sớm trưa
Ðức cha Ngãi ông nhận đưa
Sài Gòn về đến, kẻ thưa bắt liền

Lính giải ông và truyền tống ngục
Ðến ngày mai tiếp tục khẩu cung
Lệnh quan mi phải phục tùng
Tên chi khai báo ở vùng nào đâu

Thưa quan lớn khởi đầu tên Bửu
Sau đổi Gẫm dắt díu tới nay
Singapore buôn muối qua ngày
Gặp Tây giáo sĩ nơi này quá giang

Tôi chở họ trên đàng về nước
Lấy tiền công có được đâu sai
Quan cho lính nọc nằm dài
Ba mươi trượng đánh mi khai dối lừa

Lê Văn Gẫm kính thưa quan án
Tại Hạ Châu mua bán đã xong
Chuyến về thuyền chạy xuôi dòng
Quá giang Giáo sĩ thuận lòng chở theo
Gẫm khai đúng, quan đèo đánh mãi
Chở Tây về làm cái gì đây
Lòng tôi mộ mến hai Thầy
Sang đây giảng đạo tràn đầy tình thương

Về Chợ Sỏi, mở đường rao giảng
Tôi chở đi có phản ai đâu
Cải tà quy chánh ngõ hầu
Phượng thờ Thiên Chúa nhiệm mầu uy linh

Quan nổi giận bực mình quát lớn
Về nhà ai, chẳng ớn sợ ta
Tôi khai thành thật rõ mà
Nếu quan không thuận, tôi đà nói theo

Quan Thượng giận, gông đeo tống ngục
Ðể lính canh tiếp tục tấn tra
Hôm sau quan dụ sẽ tha
Nếu chịu quá khóa, quan đà thưởng công

Tôi khẳng định sẽ không bỏ đạo
Dù Vua Quan tàn bạo tới đâu
Triều đình bản án về tâu
Chứng nhân anh dũng cứng đầu kiên gan

Các Linh Mục, cải trang giải tội
Trao Máu Mình, sám hối ăn năn
Gia đình thân phụ vào thăm
Chia tay an ủi khuyên răn nguyện cầu

Mấy quan chức đơn tâu giảm án
Cho lưu đầy, ly tán chung thân
Giao tranh thua Pháp thiệt quân
Nhà Vua quyết định nên cần thẳng tay

Ðến pháp trường, ở ngay Chợ Quán
Gọi Da Còm buổi sáng tháo gông
Ðưa tiền đao phủ chém ông
Sao cho thật gọn để không đau lòng

Vừa mới dứt tiếng, xong chiêng trống
Người tiếc thương, xô đống khóc than
Viên đao phủ quá vội vàng
Phải ba lần chém, đứt ngang rơi đầu

Phúc tử đạo từ lâu mong ước
Năm Ðinh Mùi (1847) mới được hiến thân
Võng khiêng đem sẵn lại gần
Thay liền áo trắng, cổ cần khăn xanh

Ðưa Chợ Quán vinh danh an táng
Một chứng nhân xứng đáng kiên trung
Tuyên xưng đạo Chúa uy hùng
Matthêô Thánh Gẫm Thiên Cung đón chào

Người chiến sĩ máu đào tuôn đổ
Tại Sài Gòn giữa chỗ thành đô
Vinh danh Thiên Chúa tung hô
Nêu gương tử đạo điểm tô rạng ngời

Năm Canh Tý (1900) tuyệt vời phong thánh
Ðức Thánh Cha Lêô mười ba
Từ Roma lệnh ban ra
Lên hàng Á thánh hoan ca Nước Trời

Lời bất hủ: Khi thánh Gẫm bị mang gông xiềng xích nặng nề ngài bình tĩnh vui vẻ nói: "Tôi có ăn trộm, ăn cướp gì đâu mà sợ, mà buồn. Ðược chết vì đạo là điều tốt lắm". Thân mẫu của thánh Gẫm là cụ Nhiệm thuật lại trước toà phong thánh rằng: "Hai vợ chồng chúng tôi nghe con chết thì chẳng có thảm thiết gì, một vui lòng mà rằng: chết vậy đặng làm thánh".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #65
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.413
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
64. Mactinô Tạ Ðức Thịnh (1760-1840)

Mactinô Tạ Ðức Thịnh, linh mục; sinh năm 1760 tại Kẻ Sặt, Hà Nội; tử vì đạo ngày 8 tháng 11 năm 1840, tại Bảy Mẫu. Cha Máctinô, là thành viên của Hội Thừa Sai Balê, hoạt động như một linh mục trong mấy chục năm. Ngài đã trên 80 tuổi vào lúc bị xử trảm (chém đầu) cùng với bạn là Thánh Máctinô Thọ. Được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, lễ kính vào ngày 8/11.

Thánh Phaolô NGUYỄN NGÂN - Linh mục - (1790 – 1840)

Điều bận tâm nhất trong đời linh mục của thánh Phaolô Ngân là theo gương Đức Giêsu, vị mục tử nhân hiền. Trong thời bách hại, cha thường than với mọi người rằng: "chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tin từng con một quá…". Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từngn tín hữu của mình được. Phaolô Nguyễn Ngân sinh năm 1790 tại họ Cự Khanh, tỉnh Thanh Hóa. Cậu đi tu từ nhỏ, đến khi vào chủng viện thì học cùng lớp với cha Nghi. Sau khi thụ phong linh mục, cha về giúp xứ Phúc Nhạc, phu6 trách luôn họ Duyên Mậu và các họ lẻ chung quanh. Được ít lâu cha bị sốt rét nên phải nghỉ và dạy học ở chủng viện Vĩnh Trị được bẩy năm. Khi khỏi bệnh, cha phụ trách xứ Trình Xuyên ba năm nữa. Cuối cùng về làm phó xứ Kẻ Báng giúp cha Nghi mới được khoảng một năm thì bị bắt.

Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI - Linh mục - (1793 – 1840)

Đọc lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu theo thánh Gioan, ta thấy : khi thuộc hạ các thượng tế đến bắt Đức chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, ngài nói với họ : "Tôi đã bảo với các anh là chính tôi đây. Vậy nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi".

Thế là ứng nghiệm lời Ngài đã nói : "Những người cha đã trao phó cho con, con không để thất lạc một ai"(Ga. 18, 8-9). Đó là điều cha Giuse Nguyễn Đình Nghi hằng suy niệm trong thời bách hại. Lúc nào trong người cha cũng mang sẵn một vài nén bạc, để nếu bị bắt ở nhà người khác thì có tiền chuộc chủ nhà. Cha sẵn sàng hy sinh tử đạo nhưng không muốn liên lụy đến ai.

Giuse Nguyễn Đình Nghi sinh năm 1793 tại xứ Kẻ Vồi, huyện Thượng Phúc, nay thuộc Hà Nội, trong một gia đình trung lưu. Ngay từ nhỏ, cậu Nghi đã dâng mình cho Chúa, sống với cha Liêm ở xứ Kẻ Vồi. Học xong trường thày giảng, thày lại trở về giúp xứ nhà. Các cha thấy thày thông minh hiền hậu, nên cho theo thần học, và năm 30 tuổi, thày Nghi thụ phong linh mục. Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha làm phó xứ Sơn Miêng một năm, phó xứ Kẻ Vạc bốn năm, rồi phụ giúp cha Khoan ở xứ Phúc Nhạc. Do khả năng quản trị, ngài được về làm cha sở xứ Đa Phạn khoảng mười năm. Cuối cùng đang làm cha xứ Kẻ Báng thì bị bắt.

Cha Nghi có nếp sống rất đạo hạnh, chuyên chăm việc giảng dạy và siêng năng ngồi tòa giải tội. Cha có biệt tài giúp tội nhân thống hối, hoán cải. Cha ăn chay nhiều ngày cách nghiêm ngặt, cha thày giảng lo cho sức khỏe, phải can gián cha nhiều lần. Tính tình cha hòa nhã vui vẻ, nhanh nhẹn hoạt bát, nhất là thông thạo luật đạo đời, nên trong giao tế, cha được mọi người kính trọng mến yêu. Lương dân chung quanh thường đồn đãi với nhau là: Nếu ông này không đi tu chắc làm quan lớn lắm…

Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm mong ước tử đạo, nhưng ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ, cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt.

Thánh Martinô TẠ ĐỨC THỊNH - Linh mục - (1760 – 1840)

Thánh Martinô TẠ ĐỨC THỊNH - Linh mục - (1760 – 1840)

Sau 80 năm phụng sự Chúa, tóc đã bạc, chân mỏi, sức hầu cạn, cộng với cơn bệnh đang dằn vặt trong mình, cha Martinô Thịnh vẫn cảm thấy phải dâng hiến cho Chúa phần còn lại là chính mạng sống để làm chứng cho Người. tuy có thể thoát thân trong cuộc truy lùng, cha đã trả lời cho người lính hỏi: "Ông có phải là đạo trưởng không", bằng lời xác nhận "Phải tôi đây". Lời xác nhận đó đưa cha đến chỗ chết, nhưng cũng đưa cha lên đài vinh quang cho muôn đời noi gương.

Martinô Tạ Đức Thịnh sinh năm 1760 tại làng Kẻ Sét, huyện Thanh Trì, nay thuộc khu vực Hà Nội, trong một gia đình nề nếp. Năm 18 tuổi, gia đình định cho anh kết duyên với một thiếu nữ thùy mỵ, duyên dáng và đạo hạnh, nhưng anh xin hãn lại để suy nghĩ, và cuối cùng quyết định xin đi tu dâng mình cho Chúa.

Thày Thịnh thụ phong linh mục trong thời Cảnh Thịnh cấm đạo. Cha làm bí thư cho Đức cha Giacôbê Longer Gia một thời gian, đã tháp tùng Đức cha đến yết kiến vua Gia Long về đăng quang tại Thăng Long năm 1803.

Theo sự bổ nhiệm của Đức Giám mục, cha phục vụ tại nhiều giáo xứ: trước tiên là Cửa Bạng rồi Đồng Chuối, sau về xứ Nam Sang phục vụ hai mươi năm liền. cuối cùng, làm cha sở xứ Kẻ Trình khi đó cha đã 80 tuổi. ngài là một người cha già, đạo đức, hiền lành, được tất cả các tín hữu kính nể và yêu mến.

Một hôm cha bị nhọt ở má, rồi lở miệng, nửa hàm răng bị mưng mủ và đau nhức khôn tả. Ông Cỏn lên thăm, thấy tình cảnh cha như vậy liền rước cha về nhà cháu ở xứ Kẻ Báng để chăm sóc chữa trị. Được độ tám tháng, cha bị bắt cùng hai cha Nghi và Ngân.

Tai họa cho làng Kẻ Báng.

Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là một công tác viên đắc lực nhất của vua Minh Mạng trong việc bách hại đạo Công Giáo. Trong vòng ba năm, ông phá hủy hơn 400 nhà thờ, tu viện và chủng viện. Ông cho phóng thích một tội nhân phạm tội hình sự đang bị giam ở Nam Định, để anh ta đến làng Kẻ Báng do thám, lập công chuộc tội. Anh này tuy không trong đạo, nhưng quen biết nhiều, nên ra vào và gặp gỡ các giáo hữu dễ dàng. Khi biết chắc trong làng có ba linh mục, anh liền đi tố giác với quan.

Ngày 30.5.1840, theo tin mật báo, quan Tổng đốc liền đem 1000 quân đến vây làng Kẻ Báng. Rồi ông cho phát loa kêu gọi dân ra đình điển danh. Tất cả đàn ông, thanh niên trên 15 tuổi đều bị trói lại và tập trung ở một chỗ, quân lính canh gác cẩn thận. Họ bắt cứ phải ngồi vậy phơi nắng, phơi sương suốt hai ngày. Anh chị em phụ nữ lo cơm nước tiếp tế cho lính và thân nhân. đồng thời quan sai lính đi lục soát tất cải "hang cùng ngõ hẻm". Ngày đầu tiên không tìm thấy linh mục nào, ông nản lòng định rút quân, nhưng người tố giác cứ nhất quyết, lấy đầu ra mà thề, nên ông lại cho lục soát tiếp.

Ngày thứ ba, quan ra lệnh phá các vách dầy trong làng thì quả thật bắt được cha Nghi đang ẩn giữa hai lớp vách nhà bà Duyên. Quan cho gọi bà ra bước qua Thánh Giá, nhưng may mắn quân lính nghe lộn ra bà Doãn, bà này ngoại giáo nên sẵn sàng bớc qua, nhờ đó bà Duyên thoát mạng. Khoảng giữa trưa thì quân lính bắt được cha Ngân đang ẩn ở nhà ông Thọ và cha bị bắt trói, điệu ra chỗ cha Nghi ngoài đình.

Về cha Thịnh thì giả điếc nằm ngay võng nhà ông Chiền là cháu ông Cỏn, quân lính đi ngang thấy cụ già nhà quê bệnh tật, nên chẳng nghi ngờ gì. Nếu có hỏi thì co Thanh, một nữ tu họ Kẻ Trình đi theo phục vụ cha khai là : "Bố tôi đấy, ông bị bệnh nặng nên không ra điểm danh được". Đến khi nghe tin cha Nghi và Ngân bị bắt, cha Thịnh khôngh muốn im lặng nữa. Nhân một cai đội họi cụ : "Ông có phải là đạo trưởng không ?" Cha liền đáp: "Phải tôi đây". Thế là cha Thịnh đồng số phận bị bắt với hai cha bạn cùng chí hướng. Lợi dụng cơ hội này, quân lính ùa vào làng cướp tiền của, thóc lúa, trâu bò… Họ vừa đập phá, vừa reo hò chiến thắng vang dậy cả làng. Sau đó quan cho đóng gông và áp giải ba linh mục, ông Thọ, ông Cỏn và 20 tín hữu Kẻ Báng về nhà lao Nam Định.

Vững vàng tuyên tín…

Suốt một tháng đầu, ba cha, ngày mang gông xiềng, tối bị cùm chân, nhưng chưa phải ra tòa. Đến đầu thàng bẩy, quan gọi ra công đường, bắt bước qua Thập Giá, các cha đều can đảm từ chối. Cha Thịnh lên tiếng: "Tôi đã bằng này tuổi đầu mà còn sợ chết nữa sao ? Tôi không thể làm theo lời quan được". Quan lại hỏi về tên và chỗ ở của các thừa sai, nhưng các cha đều chối không biết. Quan liền truyền trói ba vị bắt quỳ giang nắng suốt ngày không cho ăn uống nước.

Ba ngày sau (06.7), Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại cho gọi ba cha và nói : "Nếu các ông không đạp lên Thập Tự, các ông sẽ phải chết". Cha Nghi trả lời: "Thưa quan, nếu quan thương chúng tôi nhờ; nếu không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mộ, còn bước qua Thập Giá, chúng tôi không dám". Quan liền cho đánh mỗi người 50 roi. Thấy không hiệu quả, ông cho đánh cha già Thịnh thêm 10 roi nữa, vì nghĩ tuổi già sức yếu, cha sẽ chịu khuất phục. Nhưng ông không ngờ cha Thịnh mạnh mẽ can đảm chịu đòn cách vui vẻ. Tức giận, quan lại bắt ba vị ra phơi nắng một ngày nữa.

Hạnh phúc thiên thu.

Thấm thoát ba cha ở trong ngục được năm tháng. Với nhiều trận đòn chí tử, nhiều ngày giang nắng ngoài trời…, các vị vẫn không nản lòng, cứ một mực tuyên xưng niềm tin vào Đấng chịu khổ nạn. Các quan thấy các ngài cương quyết giữ vững lập trường, liền làm án gửi về kinh đô. Vua Minh Mạng phê chuẩn và ra lệnh thi hành. Được tin ấy, ba cha hớn hở vui mừng, giải tội cho nhau và chuẩn bị tâm hồn sốt sắng lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Ngày 08.11.1840, cha Thịnh, cha Ngân, cha Nghi, ông Thọ, ông Cỏn bị đoàn lính 500 người điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Đến nơi, tất cả các ngài quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi ra hiệu đã sẵn sàng. Theo lệnh quan, lý hình chém rơi đầu năm chiến sĩ đức tin, kết thức cuộc đời dương thế và khai mở cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc.

Thi thể hai cha Nghi và Ngân được đưa về Kẻ Báng. Còn cha Thịnh được mai táng ở xứ Vũ Điện, sau đưa về quê hương ngài là Kẻ Sét, Hà Nội.

Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Trương Minh Giảng lên đường qua Pháp
Ðể điều đình hợp tác hai bên
Vua Minh Mạng lại giết thêm
Gồm ba Linh mục, dân tên hai người

Là Cỏn, Thọ cũng thời bị bắt
Cha Thịnh, Ngân, Nghi dắt giáo dân
Quang Khanh chuộc tội thấy cần
Truy lùng đạo trưởng xa gần thẳng tay

Cho đập phá tháng ngày cơ sở
Nhiều nhà thờ chỗ ở nhà chung
Tội nhân khét tiếng trong vùng
Ông cho phóng thích để dùng mưu sâu

Với điều kiện khởi đầu chuộc tội
Ði đó đây sớm tối săn tin
Khắp nơi đạo trưởng kiếm tìm
Lên quan báo cáo cho nghìn lính vây

Làng Kẻ Báng quân đầy loa phát
Tới Ðình Làng đề bạt điểm danh
Mười lăm tuổi phải tuân hành
Toàn là nam giới lão thành quý ông

Quang Khanh nói khỏi gông trói lại
Và tập trung ngồi tại sân đình
Xung quang canh gác quân binh
Phơi sương phơi nắng dân tình xót thương

Các phụ nữ lo đường tiếp tế
Nấu nước cơm, tập thể cùng ăn
Quang Khanh cho lính đi săn
Hang cùng ngõ hẻm từng căn từng nhà

Nản lòng kiếm chẳng ra đạo trưởng
Cả quan quân như tưởng rút quân
Nhưng người tố quyết không lầm
Lấy đầu ra để thế cầm cam đoan

Xin lục soát qua sang ngày nữa
Tôi cam đoan xin hứa thành công
Phá nhà phá vách tây đông
Quả nhiên bắt được mấy ông Cha liền

Hai lớp vách Ba Duyên trú ẩn
Quan gọi ra lại lẫn tên Ðoan
Bước qua Thánh Giá lệnh quan
Bà này ngoại giáo dám làm được tha

Bà Duyên thoát rõ là ý Chúa
Ðến gần trưa nơi nữa bắt thêm
Cha Ngân đang ẩn tuổi tên
Ở nhà ông Thọ bắt lên trói liền

Cha Thịnh điếc nằm yên trên võng
Nhà ông Chiến lính bỗng ngang qua
Thấy Cha sức yếu tuổi già
Không nghi chẳng hỏi thế là bỏ đi

Nếu có hỏi ắt thì chẳng lộ
Có nữ tu thuộc họ Kẻ Trình
Ði theo giúp đỡ hy sinh
Nhận ngay là Bố của mình ốm đau

Biết Cha Ngân, Nghi cùng nhau bị bắt
Cha Thịnh không lánh mặt làm ngơ
Một cai đội đã nghi ngờ
Ông này đạo trưởng trước giờ ở đây

Cha Thịnh đáp, ốm gầy đạo trưởng
Chúng bắt ngay một hướng dẫn theo
Hai đồng bạn đã gông đeo
Bọn quan quân lính hò reo vào làng

Có cơ hội sẵn sàng cướp bóc
Lấy bạc tiền lúa thóc trâu bò
Dân Làng Kẻ Báng âu lo
Mất người mất của đầy no ơn lành

Chúng dẫn giải về thành Nam Ðịnh
Ðể Quang Khanh toan tính tấn tra
Lần này đạo trưởng bắt ba
Còn hai người nữa toàn là giáo dân

Tạ Ðức Thịnh chuyên cần Kẻ Sặt
Sanh Canh Thìn (1760) quê thật Hà Ðông
Mẹ cha sắp xếp coi trông
Muốn anh duyên kết vợ chồng tề gia

Anh xin hoãn để mà suy nghĩ
Nhưng cuối cùng quyết chí đi tu
Hồng ân Thiên Chúa hộ phù
Thụ phong Linh mục đời tu nhiệt thành

Bí thư giỏi nổi danh Giáo phận
Cùng Ðức Cha vào tận Bắc Thành
Gặp Gia Long để họp hành
Tự do tôn giáo rõ rành tỏ thông

Ðức Cha bổ nhiệm trông giáo xứ
Là Cửa Bạng coi giữ đầu tiên
Nam Xang, Ðồng Chuối khắp miền
Kẻ Tình Nam Ðịnh sau liền về hưu

Các giáo hữu dắt dìu cảm mến
Cha bị đau cháu đến đón về
Gia đình Kẻ Báng nhà quê
Sau Cha bị bắt giải về Quang Khanh

Nguyễn Ðình Nghi quê anh Hà Nội
Năm Quý Sửu (1793) rửa tội (do) cha Liêm
Học xong Thầy giảng trong miền
Trở về giúp xứ chân chuyên Tông đồ

Rồi sau đó được về thần học
Phong Linh mục coi sóc Sơn Miêng
Cha Nghi phục vụ khắp miền
Tính tình hòa nhã giảng khuyên biệt tài

Cha không muốn để ai liên lụy
Ðem theo tiền chuẩn bị chuộc dân
Cha Nghi Kẻ Báng lãnh phần
Cũng đều bị bắt một lần Cha Ngân

Ðây tiểu sử mấy vần nhỏ bé
Cậu Nguyễn Ngân họ lẻ Cựu Khanh
Canh Tuất (1790) sinh tại tỉnh Thanh
Vào tu chủng viện học hành thông minh

Thầy chịu khó chân tình phục vụ
Sau thụ phong Linh mục Tông đồ
Phụ trách Duyên Mậu tiền hô
Cha Nhân lâm bệnh nhập vô cấp thời

Cha được về nghỉ ngơi chủng viện
Khoảng bảy năm tăng viện nhà tràng
Trình Xuyên phụ trách đảm đang
Thêm ba năm nữa Kẻ Bàng tiến mau

Ông Trùm Cỏn sinh đầu Ất Sửu (1805)
Tại Kẻ Bàng tiêu biểu Thành Nam
Ðinh Mùi (1787) ông Thọ cùng làng
Nhiệt tâm sắp xếp nhẹ nhàng Thừa sai

Luôn bố trí các ngài ẩn trốn
Khi quan quân vây khốn làng này
Hai ông lanh lẹ tiếp tay
Các Cha chạy trốn cả ngày lẫn đêm

Vùng Nam Ðịnh có tên hùm xám
Bủa lưới vây phân tán vào lùng
Cha con bị bắt gom chung
Bắt quỳ phơi nắng lại dùng đòn roi

Ðể Thập Giá chúng đòi quá khóa
Năm chứng nhân đều đã chịu đòn
Một lòng vì Chúa sắt son
Quang Khanh tức giận chỉ còn xử thôi

Năm trăm lính đứng ngồi Bảy Mẫu
Năm chứng nhân làm dấu nguyện cầu
Lý hình được lệnh chém đầu
Anh hùng tử đạo hát câu khải hoàn

Năm Canh Tý (1840) chu toàn ơn phước
Năm chứng nhân đều được tuyên phong
Gian nan cực khổ chịu chung
Suy tôn Canh Tý (1900) họ cùng sáng danh

Lời bất hủ:

-Trong thời bách hại, cha thường than thở với mọi người rằng: "Chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tên từng con một quá.". Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từng tín hữu của mình được.
-Quan gọi cha ra công đường bắt bước qua Thập giá, cha đều can đảm từ chối, cha nói: "Tôi đã bằng này tuổi đầu, mà còn sợ chết nữa sao! Tôi không thể làm theo lời quan được".
-Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm ước mong tử đạo, nhưng ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt. Lần bị quan tra hỏi, cha Nghi trả lời: "Thưa quan thương, chúng tôi nhờ, nếu không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mồ, còn bước qua Thập giá chúng tôi không dám".
-Tổng đốc Trịnh Quang Khanh truyền cho lính khiêng các ông qua Thánh giá, các ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố: "Ðạo tại tâm, quan lớn cưỡng bách và lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì". Quan tra tấn các cha máu me loang lổ khắp mình, quan truyền hai ông (Thọ và Cỏn) liếm máu nơi các vết thương đó hoặc bỏ đạo, các ông đã quỳ xuống liếm máu như quan đã yêu cầu một cách cung kính,khiến quan rùng mình, khiếp sợ và kinh ngạc.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #66
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.413
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
65. Martinô Thọ (1787 – 1840)

Martinô Thọ, Sinh năm 1787 tại Kẻ Bàng, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, Đức Lêo XIII suy tôn hai ông Martinô Thọ và Gioan Baotixita Cỏn lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 8/11.

Tiểu sử thánh Martinô Thọ được ghi nhớ cách đặc biệt qua những lời trăn trối với các con vào thăm trong tù. Di ngôn của ông đáng trở thành bản mẫu cho những người cha Kitô hữu trong giờ phút cuối của cuộc đời : Vừa thực tế, vừa dạt dào tình cảm, mà cũng đầy tin tưởng:

"Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các chúng con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm em mình. các con nhỏ phải biết kính trọng và vâng lơi anh chị. Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hàng ngày. Chúa trao cho mỗi người một Thánh Giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo".
Martinô Thọ sinh khoảng năm 1787 tại làng Kẻ Báng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông tên thật là Nho, còn Thọ là tên người con thứ chín. Tuy gia đình đông con, nhưng ông đã khéo léo giáo dục chúng bằng đời sống gương mẫu của chính mình.

Dân trong làng biết ông ngay thẳng, nên cử ông phụ trách việc thu thuế đinh. Ông sống rất thanh liêm, không nhận hối lộ, không ăn chận của ai, cũng không qùy lụy cấp trên, cứ theo lẽ công mà làm nên rất có uy tín. Ngoài ra, ông Thọ còn thức khuya dậy sớm lao động như mọi người, vừa làm ruộng, vừa ươm tơ nuôi tăm.

Ông thường khuyên các con: "Sống công bằng thôi chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện". Dành dụm được chút nào, ông giúp đỡ người nghèo, hoặc góp phần vào việc chung, trong làng, trong giáo xứ. Nhà ông luôn mở rộng cửa tiếp đón các linh mục đến giáo xứ làm việc. Ông không sợ chết, lại còn tỏ ra muốn được chết vì đạo nữa.

Năm 1838, khi nghe tin hai ông Trùm Đích và ông Lý Mỹ bị xử trảm tại pháp trường Bẩy Mẫu, ông thu xếp công việc đến viếng xác, và về nhà dặn dó con cái :"Các con yêu dấu, nếu Chúa cho cha theo chân hai đấng ấy, các con hãy vui lòng. Phần các con, nếu bị bắt, hãy can đảm giữ vững đức tin".

Ngày 30.5.1840, nghe báo tin ở làng Kẻ Báng có linh mục, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đưa hàng ngàn lính về bao vây làng. Ông chia lính thành những tốp 10 người đi sục sạo hết các xó xỉnh, các bụi rậm. Sau hai ngày lục soát họ bắt được ba linh mục: cha Nghi, cha Ngân và cha Thịnh. Ông Thọ và ông Cỏn cũng bị bắt vì tội chứa chấp đạo trưởng. quan lệnh đóng gông và giải tất cả về tỉnh Nam Định.

Một tháng đầu quan bỏ lơ không nói gì đến. Sau đó, cho gọi ra bắt bước qua Thập Giá, các ông không chịu, quan truyền đánh mỗi người 50 roi, rồi bắt phơi nắng cho đến tối không được ăn uống gì cả. Lần khác, quan lại gọi ra và dụ dỗ : "Cứ đạp đi rồi xưng tội là khỏi tội thôi mà". Hai ông vẫn từ chối. Trịnh Quang Khanh liền cho lính nắm gông khiêng các ngài qua ảnh chuộc tội. Hai ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố : "Đạo tại tâm. Quan lớn cưỡng bách mà lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì".

Thế là quan nổi giận, nảy ra một sáng kiến kinh dị : Khi ba vị linh mục cùng bị bắt vừa chịu tra tấn, máu me loang lổ khắp mình, quan bắt hai ông hoặc liếm máu nơi các vết thương ấy, hoặc bỏ đạo. Hai ông liền quỳ xuống thực hiện điều quan yêu cầu một cách cung kính. Trịnh Quang Khanh vừa rùng mình, vừa kinh ngạc nói với các quan : "Xem kìa ! Bọn chúng kính trọng các đạo trưởng biết bao ! Chẳng lẽ chúng bị bỏ bùa mê sao. Rồi ông truyền đem trói hai ông lại, bắt quỳ trên cát giữa trời nắng gắt suốt ngày.

Một lần quan tra hỏi về các thừa sai, ông Thọ trả lời : "Thưa quan, tôi có biết Đức cha Giacôbê, nhưng ngài đã qua đời, còn các thừa sai khác vua bắt hết rồi, còn đâu ? Hơn nữa chúng tôi ở trong tù làm sao biết các vị ấy ở đâu được ?". Tức giận, quan cho lính hôm đó tự do đánh đập tùy thích. Ông Cỏn chịu được 61 roi thì kiệt sức, máu miệng trào ra, được quân lính khiêng về trại. Còn ông Thọ bị đánh đúng 150 roi. Về sau ông nói với con cái rằng : "50 roi đầu đau đớn khôn tả, còn 100 roi sau, nhờ ơn Chúa, cha thấy nhẹ nhàng như gió thoảng qua vậy".

Quan thấy hình khổ không làm cho các ông xiêu lòng, nên cho lệnh bắt vợ con để áp lực, buộc các ông bỏ đạo. May măn hai ông biết trước, vội nhắn tin cho gia đình lẩn tránh nơi khác. Tuy thế, quan vẫn nói với các ông: "Nếu ta đưa vợ con các ngươi đến đây để giết thì các ngươi có chịu bỏ đạo không?".

Ông Cỏn đáp: "Thưa quan, cửa nhà vợ con đều do Chúa ban, chúng tôi chẳng có gì tiếc xót cả. nếu vợ con tử đạo, chúng tôi càng mong ước về Thiên Đàng". Ông Thọ nói thêm: "Gông cùm và roi vọt của quan là hai cánh đưa chúng tôi bay về Thiên Quốc".

Nghe thế, quan càng giận dữ hành hạ ác liệt hơn nữa : Ban ngày phơi nắng, ban đêm bắt nằm ngoài cống rãnh nước thải của trại tù, và bớt phần ăn suốt tuần lễ. Đến ngày thứ bày, cô Thuyên con gái ông Thọ tìm cách vào thăm cha. Thấy cha nằm dài bất tỉnh, cô lấy nước rót vào miệng, nhưng phải khá lâu ông mới hồi tỉnh nhận ra con mình. Lần khác, khi gặp lại con cái, ông nói với chúng những lời dặn dò sau hết.

Bản án trảm quyết gởi vào kinh đô và được vua Minh Mạng ký duyệt. Ngày 06.11, các ông biết tin, tìm cách gặp các cha cũng bị bắt để xưng tội và chuẩn bị tâm hồn. Ngày 08.11.1840, cùng với ba vị linh mục, hai ông bị điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Dọc đường hai vị vẫn tươi cười chào hỏi mọi người. đến nơi, hai ông quỳ cầu nguyện một lát, rồi đưa tay cho quân lính trói vào cọc.

Theo lệnh quan, lý hình vung gươm, đưa các ngài về Quê Hương mong ước. Một vị 35 tuổi, một vị 53 tuổi, từ nay mãi mãi bên nhau trong vinh quang bất diệt. Thi hài hai đấng tử đạo được đưa về an táng ở xứ Kẻ Báng.

Đức Lêo XIII suy tôn hai ông Martinô Thọ và Gioan Baotixita Cỏn lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường Thi Tử Đạo

Trương Minh Giảng lên đường qua Pháp
Ðể điều đình hợp tác hai bên
Vua Minh Mạng lại giết thêm
Gồm ba Linh mục, dân tên hai người

Là Cỏn, Thọ cũng thời bị bắt
Cha Thịnh, Ngân, Nghi dắt giáo dân
Quang Khanh chuộc tội thấy cần
Truy lùng đạo trưởng xa gần thẳng tay

Cho đập phá tháng ngày cơ sở
Nhiều nhà thờ chỗ ở nhà chung
Tội nhân khét tiếng trong vùng
Ông cho phóng thích để dùng mưu sâu

Với điều kiện khởi đầu chuộc tội
Ði đó đây sớm tối săn tin
Khắp nơi đạo trưởng kiếm tìm
Lên quan báo cáo cho nghìn lính vây

Làng Kẻ Báng quân đầy loa phát
Tới Ðình Làng đề bạt điểm danh
Mười lăm tuổi phải tuân hành
Toàn là nam giới lão thành quý ông

Quang Khanh nói khỏi gông trói lại
Và tập trung ngồi tại sân đình
Xung quang canh gác quân binh
Phơi sương phơi nắng dân tình xót thương

Các phụ nữ lo đường tiếp tế
Nấu nước cơm, tập thể cùng ăn
Quang Khanh cho lính đi săn
Hang cùng ngõ hẻm từng căn từng nhà

Nản lòng kiếm chẳng ra đạo trưởng
Cả quan quân như tưởng rút quân
Nhưng người tố quyết không lầm
Lấy đầu ra để thế cầm cam đoan

Xin lục soát qua sang ngày nữa
Tôi cam đoan xin hứa thành công
Phá nhà phá vách tây đông
Quả nhiên bắt được mấy ông Cha liền

Hai lớp vách Ba Duyên trú ẩn
Quan gọi ra lại lẫn tên Ðoan
Bước qua Thánh Giá lệnh quan
Bà này ngoại giáo dám làm được tha

Bà Duyên thoát rõ là ý Chúa
Ðến gần trưa nơi nữa bắt thêm
Cha Ngân đang ẩn tuổi tên
Ở nhà ông Thọ bắt lên trói liền

Cha Thịnh điếc nằm yên trên võng
Nhà ông Chiến lính bỗng ngang qua
Thấy Cha sức yếu tuổi già
Không nghi chẳng hỏi thế là bỏ đi

Nếu có hỏi ắt thì chẳng lộ
Có nữ tu thuộc họ Kẻ Trình
Ði theo giúp đỡ hy sinh
Nhận ngay là Bố của mình ốm đau

Biết Cha Ngân, Nghi cùng nhau bị bắt
Cha Thịnh không lánh mặt làm ngơ
Một cai đội đã nghi ngờ
Ông này đạo trưởng trước giờ ở đây

Cha Thịnh đáp, ốm gầy đạo trưởng
Chúng bắt ngay một hướng dẫn theo
Hai đồng bạn đã gông đeo
Bọn quan quân lính hò reo vào làng

Có cơ hội sẵn sàng cướp bóc
Lấy bạc tiền lúa thóc trâu bò
Dân Làng Kẻ Báng âu lo
Mất người mất của đầy no ơn lành

Chúng dẫn giải về thành Nam Ðịnh
Ðể Quang Khanh toan tính tấn tra
Lần này đạo trưởng bắt ba
Còn hai người nữa toàn là giáo dân

Tạ Ðức Thịnh chuyên cần Kẻ Sặt
Sanh Canh Thìn (1760) quê thật Hà Ðông
Mẹ cha sắp xếp coi trông
Muốn anh duyên kết vợ chồng tề gia

Anh xin hoãn để mà suy nghĩ
Nhưng cuối cùng quyết chí đi tu
Hồng ân Thiên Chúa hộ phù
Thụ phong Linh mục đời tu nhiệt thành

Bí thư giỏi nổi danh Giáo phận
Cùng Ðức Cha vào tận Bắc Thành
Gặp Gia Long để họp hành
Tự do tôn giáo rõ rành tỏ thông

Ðức Cha bổ nhiệm trông giáo xứ
Là Cửa Bạng coi giữ đầu tiên
Nam Xang, Ðồng Chuối khắp miền
Kẻ Tình Nam Ðịnh sau liền về hưu

Các giáo hữu dắt dìu cảm mến
Cha bị đau cháu đến đón về
Gia đình Kẻ Báng nhà quê
Sau Cha bị bắt giải về Quang Khanh

Nguyễn Ðình Nghi quê anh Hà Nội
Năm Quý Sửu (1793) rửa tội (do) cha Liêm
Học xong Thầy giảng trong miền
Trở về giúp xứ chân chuyên Tông đồ

Rồi sau đó được về thần học
Phong Linh mục coi sóc Sơn Miêng
Cha Nghi phục vụ khắp miền
Tính tình hòa nhã giảng khuyên biệt tài

Cha không muốn để ai liên lụy
Ðem theo tiền chuẩn bị chuộc dân
Cha Nghi Kẻ Báng lãnh phần
Cũng đều bị bắt một lần Cha Ngân

Ðây tiểu sử mấy vần nhỏ bé
Cậu Nguyễn Ngân họ lẻ Cựu Khanh
Canh Tuất (1790) sinh tại tỉnh Thanh
Vào tu chủng viện học hành thông minh

Thầy chịu khó chân tình phục vụ
Sau thụ phong Linh mục Tông đồ
Phụ trách Duyên Mậu tiền hô
Cha Nhân lâm bệnh nhập vô cấp thời

Cha được về nghỉ ngơi chủng viện
Khoảng bảy năm tăng viện nhà tràng
Trình Xuyên phụ trách đảm đang
Thêm ba năm nữa Kẻ Bàng tiến mau

Ông Trùm Cỏn sinh đầu Ất Sửu (1805)
Tại Kẻ Bàng tiêu biểu Thành Nam
Ðinh Mùi (1787) ông Thọ cùng làng
Nhiệt tâm sắp xếp nhẹ nhàng Thừa sai

Luôn bố trí các ngài ẩn trốn
Khi quan quân vây khốn làng này
Hai ông lanh lẹ tiếp tay
Các Cha chạy trốn cả ngày lẫn đêm

Vùng Nam Ðịnh có tên hùm xám
Bủa lưới vây phân tán vào lùng
Cha con bị bắt gom chung
Bắt quỳ phơi nắng lại dùng đòn roi

Ðể Thập Giá chúng đòi quá khóa
Năm chứng nhân đều đã chịu đòn
Một lòng vì Chúa sắt son
Quang Khanh tức giận chỉ còn xử thôi

Năm trăm lính đứng ngồi Bảy Mẫu
Năm chứng nhân làm dấu nguyện cầu
Lý hình được lệnh chém đầu
Anh hùng tử đạo hát câu khải hoàn

Năm Canh Tý (1840) chu toàn ơn phước
Năm chứng nhân đều được tuyên phong
Gian nan cực khổ chịu chung
Suy tôn Canh Tý (1900) họ cùng sáng danh

Lời bất hủ: Tổng đốc Trịnh Quang Khanh truyền cho lính khiêng các ông qua Thánh giá, các ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố: "Ðạo tại tâm, quan lớn cưỡng bách và lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì". Quan tra tấn các cha máu me loang lổ khắp mình, quan truyền hai ông (Thọ và Cỏn) liếm máu nơi các vết thương đó hoặc bỏ đạo, các ông đã quỳ xuống liếm máu như quan đã yêu cầu một cách cung kính,khiến quan rùng mình, khiếp sợ và kinh ngạc.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #67
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.413
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
66. Micae Hồ Ðình Hy (1808-1857)

Micae Hồ Ðình Hy, Sinh năm 1808 tại Như Lâm, Thừa Thiên, Giáo dân, Quan Thái Bộc, bị xử trảm ngày 22 tháng 5 năm 1857 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn quan Thái bộc Hồ Đình Hy lên bậc Chân Phước ngày 02-05-1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 22-05.

Bức chân dung sống động

Đứng trước bức tranh "NÀY LÀ NGƯỜI" (Ecce Homo), diễn tả Đức Giêsu sau cuộc tra tấn được Philatô đem trình diện dân chúng (Ga 19, 5), Thánh nữ Têrêsa thành Avila thuật lại như sau:

"Bức tranh sống động trình bày Đức Giêsu mình đầy thương tích đó đã khiến tôi xúc động ngay khi vừa trông thấy. Tôi thấy mình run lên, vì cảm nhận được những đau khổ Chúa chịu vỉ chúng ta. Tim tôi như rạn nứt vì hối hận những bất trung của tôi đã đả thương ngài. Tôi liền quỳ xuống trước mặt Ngài, nước mắt đần đìa, xin Ngài ban chio tôi sức mạnh một lần cho trọn đời, để từ nay không bao giờ tôi làm phiền lòng Ngài nữa…"

Trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, bức tranh "NÀY LÀ NGƯỜI" đã được phác họa không phải trên vải, mà là nơi chân dung Quan Thái bộc Hồ Đình Hy mình đầy thương tích, bị dẫn qua khu chợ và quanh thành nội Huế ba ngày, lính mở đường đi trước rao tên và tội "Tả Đạo". Bức chân dung ấy, thánh nhân đã nhận để biểu lộ lòng sám hối và đức tin của mình.

Là một trung thần

Micae Hồ Đình Hy sinh năm 1808 tại Nhu Lâm, tỉnh Thừa Thiên trong một gia đình quan chức. Cậu là con út trong số 12 anh chị em. Từ nhỏ, cậu đã theo học các thày đồ nho. Hình như cậu cũng biết đôi chút sinh ngữ Anh, Pháp. Khi ra làm việc, anh là một thơ lại bộ Công. Năm 20 tuổi, anh Hy kết hôn với cô Lucia Tân, sinh hạ được năm người con. Người con cả sau này đi tu, học tại Pénang, rồi sau thụ phong linh mục là cha Thịnh. Dần dần, vì ông Hy thực hiện tốt mọi công tác được giao, nên được thăng lên chức Tham tá, hàm Lục phẩm.

Dưới triều vua Tự Đức, ông lên tới chức Thái bộc, hàm Tam phẩm, đặc trách ngành dệt tơ lụa vải vóc trong cả nước. Uy tín ông ngày càng lớn và được vua tín cẩn. Khi một số quan lại ghen tương, xin truất chức quan Hồ Đình Hy, vua Tự Đức trả lời :

"Không thể truất nhiệm ông ta được, vì ông đã chu toàn trách nhiệm theo lương tâm. Trước đây chưa ai giữ chức ấy được hai năm cả. Cho đến nay, ta chưa có gì phải khiển trách ông ta. Có lẽ ta sẽ tăng lương cho xứng với việc của ông ấy nữa là khác".

Dù làm quan dưới triều vua bách hại đạo, quan Thái bộc không ngại tỏ ra mình là người Công Giáo. Trong nhà, ông đạt bàn thờ Chúa nơi xứng đáng, thắp đèn trưng hoa mỗi ngày. Thế nhưng, khi giao dịch với giới quan lại, ông chịu ảnh hưởng nhiều tật xấu và xa ngã đôi phen : Ông quan hệ với một thiếu nữ trẻ, và sinh được ba người con ngoại hôn. Để chuộc lại lỗi lầm, ông đã rửa tội và đưa chúng về nuôi nấng tử tế như con chính thức của mình. Ông cố gắng làm nhiều việc thiện để đền bù tội lỗi xin Chúa thứ tha. Một hôm, ông tâm sự với bạn bè : "Tôi nghĩ dù có lấy nước của các con sông trên địa cầu, cũng không rửa sạch tội của tôi được. Có lẽ chỉ có thể rửa sạch chúng bằng chính máu của tôi thôi".

Ở đây chúng ta có thể ôn lại một vài mẫu gương sống trong đời ông:

- Có một người bị tố cáo lấy trộm kho lẫm nhà vua. quan Thái bộc can thiệp xin vua Tự Đức ân xá. Người này đến xin tạ ơn vị cứu tinh, và đặt lên bàn một túi tiền lớn. Nhưng ông nói với anh ta rằng : "Cầm tiền và đi ngay, bằng không tôi sẽ giao anh cho công lý bây giờ". Nhiều người nghe chuyện phải thốt lên : "Chưa bao giờ chúng tôi thấy ai tốt như thế". Người được ân xá không ngờ mình đã chạm đến đức thanh liêm của vị ân nhân.

- Một người khác nghiện thuốc phiện bị bệnh trầm trọng, và được giới thiệu đến nhà quan Thái bộc. Quan tiếp đón bệnh nhân rất tận tình, thu xếp cho ở trong căn lều phía sau nhà. Rồi mỗi ngày trước khi tới nhiệm sở và khi về, quan Thái bộc đều ghé thăm hỏi và chăm sóc bệnh nhân. Khi có người trách, ông trả lời rằng : "Phải làm nhiều việc thiện để đền bù tội lỗi chúng ta. Mà đã làm thì đừng máy móc qua lần chiếu lệ, phải làm với thiện ý, có thể mới lập được nhiều công phúc". Và ông cứ tiếp tục săn sóc suốt 15 ngày, cho đến khi người bệnh qua đời. Ông còn tổ chức lễ an táng một cách cẩn thận, chu đáo.

- Trong vùng có một người quá nghèo, nên bán hai bé gái cho một người ngọai giáo. Nghe biết chuyện, quan Hồ Đình Hy bỏ tiền ra chuộc lại hai cháu này đem về rửa tội, và nuôi nấng cho đến khi trưởng thành. Sau đó, với tất cả lòng quảng đại, ông đã đáp ứng theo như ý của hai cô : một người xin đi tu, một người lập gia đình.

Đức cha Pellerin Phan phụ trách giáo phận Đông Đàng Trong, tỏ ra tín nhiệm ông và trao cho ông trọng trách hỗ trợ các thày giảng ở tỉnh Thừa Thiên; sau đó lại ủy thác cho ông việc coi sóc tài sản và cơ sở truyền giáo trong giáo phận. Với trách vụ mới, ông đã quảng đại đóng góp nhiều tiền của, công sức cho Giáo Hội. Một lần kia, Đức cha đi thăm các giáo hữu, thuyền của Đức cha bị một thuyền khác tông vào. Chủ thuyền lạ này đòi bồi thường, ông Hy liền cởi chiếc áo quý ông đang mặc, trao cho người chủ thuyền đó, dù biết tai nạn này không do lỗi mình gây ra, nhưng vì ông muốn bảo đảm an toàn cho vị Giám mục.

Một lòng vì chúa

Cuối năm 1856, khi quân Pháp bắn phá cảng Đà Nẵng thì quan Thái bộc Hồ Đình Hy bị bắt. Triều đình lấy cớ ông đã gửi con đi học ở Pénang, nghĩa là có giao thiệp với nước ngoài. Ông bị giam ngay tại Trấn phủ (Huế).

Vua Tự Đức ra lệnh cho quân lính bằng mọi cách bắt ông nhận tội, bắt bước qua Thập Gia và kê khai cac linh mục thừa sai hoặc linh mục Việt Nam, kể cả quân lính có đạo. Ông cương quyết không bỏ đạo, nhưng vì bị tra tấn quá đau đớn, ông lỡ lời nói tên một vài tín hữu. Thực ra, ông nghĩ rằng những người này đã trốn đi nơi khác, nào ngờ "bứt dây động rừng", dựa vào lời ông, triều đình bắt được 29 người. Trong đó tám người xuất giáo, còn 21 người kia kiê trung với đức tin, dù bị khắc trên má chữ "Tả Đạo" và bị lưu đày. Ông cho rằng tất cả bị bắt là bởi mình, nên khóc lóc ân hận, xưng tội xin Chúa thứ tha và kiên quyết dùng chính máu mình để rửa sạch lỗi lầm đó.

Một lần chính vua Tự Đức xét xử và khuyên ông nghĩ lại ít là giả bộ bước qua Thập Giá. Ông thẳng thắn từ chối : "Tâu bệ hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước và tôi trung. Hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Đức Kitô, đền bù tội lỗi và chết thánh thiện".

Trở về ngục, ông nói với các bạn : " Tôi thấy đời tôi sắp tận số rồi, chỉ mong sao giữ vững được đức tin đến giờ phút cuốic đời".

Để nên giống Thày Chí Thánh.

Ngày 30.4.1857, vua kết án quan Hồ Đình Hy : "Khinh luật nước, theo tả đạo, lại gởi con đi Tân Gia Ba thăm đạo trưởng Oai và bàn chuyện liên lạc với tàu Pháp. Rõ ràng là đứa hai lòng đáng chết nghìn lần. Ta truyền phải chém đầu làm gương".

Vua còn ghi chi tiết phải xử thế nào: "Ta hạ lệnh cho năm quan triều đình và 15 binh sĩ dẫn y đi vòng quanh Thành Nội ba ngày. Khi đi ngang qua chợ và nơi công cộng, phải rao tội nó lên cho dân biết… Hơn nữa, tại mỗi ngã ba đường, ta truyền đánh thêm 30 trượng. Sau ba ngày như thế thì chém đầu nó. Có thể bọn Gia Tô sẽ lấy làm tủi nhục mà lo sửa mình".

Tháng 5 năm đó, vào những ngày 15, 18 và 21 quân lính đã thi hành lệnh vua : Dẫn quan Thái bộc qua các nẻo phố Huế, dừng lại đánh đòn ở hai nơi, tổng số 60 trượng mỗi ngày. Một người lính đi trước tuyên bố theo lệnh rằng: "Hồ Đình Hy, kẻ theo tà đạo đứa ngỗ nghịch bất hiếu với mẹ cha, chống lại luật lệ triều đình. Vì thế y bị kết án phải chết. Bọn Gia Tô tin rằng chết vì đạo sẽ được phúc Thiên Đàng. Điều đó đúng hay sai không ai biết. Giêsu của Hồ Đình Hy đâu rồi, sao thấy y khổ mà không đến cứu ?"

Như thế đó, quan Hồ Đình Hy, bức chân dung "NÀY LÀ NGƯỜI" Việt Nam bị lôi qua các đường phố cách thảm thương và tủi nhục. Nhưng quan Thái bộc vẫn kiên nhẫn cho đến cùng, không bỏ đạo. Sáng ngày 22.05, ông bị đưa ra pháp trường. Dân chúng tuôn đến xem rất đông. Dù lương hay giáo, họ bùi ngùi thương tiếc vị quan thanh liêm tốt bụng. Lúc qua cầu An Hòa, ông nói với lính rằng: "Đi xa làm chi, ở đây tôi có nhiều bạn hữu bà con". Thế là thay vì đến cống Đốc Sơ, ông được xử ngay tại đó.

Vì là quan nổi tiếng, lính cũng đành cho ông chút đặc ân cuối cùng : Ông thong thả rửa chân tay, rồi ngồi xếp bằng trên chiếu, bình tĩnh hút hết một điếu thuốc. Sau đó đứng lên, thật bình thản sửa soạn lại đầu tóc y phục cho chỉnh tề, rồi sốt sắng qùy gối cầu nguyện… Hai linh mục Việt Nam ẩn trong đám đông ra dấu tha tội cho ông. Cuối cùng, ông đưa đầu cho lý hình thi hành phận sự. Nước trời đã mở sẵn cửa để đón linh hồn vị chứng nhân anh dũng.

Đức Piô X suy tôn quan Thái bộc Hồ Đình Hy lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Hồ Ðình Hy là quan Thái Bộc
Năm Mậu Thìn (1808) quê nội Thừa Thiên
Học hành Hán Pháp chăm chuyên
Tính tình khiêm tốn vốn riêng của chàng

Ra làm việc giỏi giang thơ lại
Thuộc bộ công hăng hái nhiệt tình
Hai mươi tuổi lập gia đình
Cô Tân đức hạnh xinh xinh gần nhà

Hôn nhân kết hợp đa hạnh phúc
Sinh năm con Chúa chúc ơn lành
Con trai trưởng, ơn gọi anh
Cha Thinh linh mục nhiệt thành giảng rao

Cố Hy giỏi vua trao Tham Tán
Chức Thái Bộc xứng đáng vua ban
Coi về ngành dệt Việt Nam
Phong hàm Tam Phẩm đảm đang lâu dài

Ông uy tín vua ngài tin cẩn
Một số quan trắc ẩn ghen tương
Xin truất chức nói trật đường
Nhưng vua Tự Ðức tăng lương cấp hàm

Dưới triều Nguyễn, vua ban bách đạo
Hồ Ðình Huy mạnh bạo tuyên xưng
Bàn thờ đèn nến sáng trưng
Hằng ngày lần hạt không ngừng nguyện kinh

Khi giao dịch thân tình Quan Lại
Ảnh hưởng nhiều mê gái ngã sa
Ngoại hôn con cái có ba
Ðược ơn Chúa xuống nhận ra lỗi lầm

Ông quyết chí tĩnh tâm sám hối
Ba đứa con rửa tội dưỡng nuôi
Gia đình hạnh phúc êm xuôi
Làm nhiều việc thiện khôn nguôi hướng tìm

Ông tâm sự nhận nhìn với bạn
Lấy nước sông rửa cạn còn nhơ
Hồng ân của Chúa con nhờ
Cho con tử đạo tôn thờ Chúa trên

Ta ôn lại nêu lên gương mẫu
Cứu giúp người tốt xấu thanh liêm
Ðược tha chẳng có nhận tiền
Một người khác bị bệnh ghiền muốn cai

Ðược giới thiệu kêu nài Quan giúp
Rất thân tình ở túp lều sau
Thân hình tiều tụy ốm đau
Ði về ông ghé thăm nhau nghĩa tình

Và chăm sóc đệ huynh tận tụy
Người trách ông ngồi nghỉ thảnh thơi
Yêu người mến Chúa đạo Trời
Phải làm việc thiện Chúa thời thứ tha

Ðền bù những lỗi ta sai phạm
Làm tận tâm chớ nản qua lần
Gắng công bác ái cho cân
Chớ đừng máy móc nặng phần phô trương

Có người nọ tai ương gặp khó
Quá bần hàn vì đó cho con
Trẻ thơ hai gái gầy mòn
Quan Hy chuộc lại sau còn dưỡng nuôi


Cho học đạo xong xuôi rửa tội
Khi trưởng thành Quan hội ý riêng
Hai cô phát biểu nói lên
Gia đình thành lập cô liền đi tu

Giám Mục giao trách vụ hỗ trợ
Các Thầy dòng, tu ở Thừa Thiên
Quản coi tài sản giáo quyền
Tấm lòng quảng đại giúp tiền của thêm

Thuyền Giám Mục đi bên thuyền lạ
Ðụng vô nhau bắt vạ bồi thường
Quan Hy chạy lại thân thương
Cởi ngay áo quý bồi thường cho êm

Khi tàu Pháp bắn lên Ðà Nẵng
Triều Ðình nghi chắc hẳn Ðình Hy
Quan Thái Bộc nhốt tức thì
Buộc ông bỏ đạo bắt quỳ giữa sân

Tiếp sau đó nhiều lần tra tấn
Ông quá đau lầm lẫn đã khai
Tưởng rằng họ đã chạy dài
Ai ngờ lùng bắt gần vài chục ông

Ông than khóc cậy trông hối hận
Xin Chúa thương bớt giận thứ tha
Sẵn sàng đổ máu mình ra
Tôn vinh danh Chúa xót xa lỗi lầm

Vua Tự Ðức dã tâm dụ giỗ
Ðã khuyên ông giả bộ bước qua
Trên cây Thập Giá dưới nhà
Hạ thần chịu chết vì Cha trên Trời

Vua Tự Ðức cấp thời kết án
Hồ Ðình Hy phản kháng luật vua
Liên can với Pháp vào hùa
Chém đầu đem xử lệnh vua ký vào

Ta hạ lệnh ban trao binh sĩ
Quanh thành nội dẫn Hy ba ngày
Rêu rao tội nó dân hay
Thêm ba mươi trượng chốn này ngã ba

Bọn đạo Chúa thấy mà tủi nhục
Bỏ đạo tà quy phục quyền ta
Hồ Ðình Hy chém đầu mà
Hắn theo tả đạo nước nhà bất trung

Hồ Ðình Hy anh hùng tử đạo
Bị dẫn đi tố cáo Thừa Thiên
Dọc đường cầu nguyện thản nhiên
Ông xin ân huệ sông liền rửa chân

Ngồi trên chiếu rồi châm điếu thuốc
Sau đứng lên tóc buộc chỉnh y
Nguyện cầu sốt sắng bái quỳ
Lý hình trảm quyết biệt ly thế trần

Phúc tử đạo dành phần Ðinh Tỵ (1857)
Ít có người địa vị tuyên xưng
Mừng vui Giáo hội khôn ngừng
Kỷ Dậu (1909) phong thánh tưng bừng hoan ca

Lời bất hủ: Quan Thái Bộc có sa ngã phạm tội, ông có thống hối: "Tôi nghĩ dù lấy nước của các con sông trên địa cầu, cũng không thể rửa sạch tội của tôi được, có lẽ chỉ có thể rửa sạch chúng bằng chính máu của tôi thôi". Có lần chính vua Tự Ðức xét xử và khuyên quan, ít là giả bộ bước qua Thập giá, ông trả lời thẳng thắn: "Tâu Bệ Hạ, đã 30 năm phục vụ dưới ba triều vua, lúc nào hạ thần cũng là người hết lòng yêu nước và tôi trung. Hạ thần cam chịu mọi cực hình để nên giống Chúa Kitô, đền bù tội lỗi và được chết thánh thiện". Trở lại ngục ông nói với bạn bè: "Tôi thấy đời tôi sắp tận số rồi, chỉ mong sao giữ vững được đức tin đến giờ phút cuối đời". Vua kết án quan Hồ Ðình Hy như sau: "Khinh luật nước, theo tả đạo, lại gởi con đi Tân Gia Ba, thăm đạo trưởng Oai và bàn chuyện liên lạc với tàu Pháp. Rõ ràng là đứa hai lòng đáng chết nghìn lần. Ta truyền phải chém đầu làm gương". Vua thêm chi tiết: "Dẫn y vòng quanh thành nội ba ngày, khi ngang qua chợ hay chỗ công cộng phải rao tội nó, đến ngã ba phải đánh y 30 trượng. Có thể bọn Giatô sẽ lấy làm tủi nhục mà lo sửa mình". Lúc qua cầu An Hoà đến chỗ xử, quan nói câu cuối cùng: "Ði xa làm chi, ở đây tôi có nhiều bạn hữu bà con." Quan được xử tại đó.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #68
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.413
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
67. Micae Nguyễn Huy Mỹ (1804-1838)

Micae Nguyễn Huy Mỹ, Sinh năm 1804 tại Kẻ Vĩnh, Hà Nội, Giáo dân, Lý Trưởng, bị xử trảm ngày 12 tháng 8 năm 1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn lên hàng Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 12/08.

Người con chí hiếu

Qua những vần thơ của thánh Micae Mỹ dưới đây: Gông xiềng, đòn đánh là những hình phạt dành cho phạm nhân, làm thân thể con người phải đau đớn, suy giảm sức khỏe thể xác thì đối với ngài, người tín hữu trung kiên "say về đạo" Chúa Kitô, gông xiềng đã trở lên hành trang qúi báu vô cùng. Chính bản thân ông đã tự nguyện lãnh đòn thay cho nhạc phụ tuổi già sức yếu (ông trùm Antôn Nguyễn Đích) để rồi trở lên người đồng hành làm chứng cho Đức Kitô, cùng lãnh phần thưởng cành lá vạn tuế tử đạo, và cũng được tôn phong lên bậc hiển thánh. Ông Micae Lý Mỹ quả thực là người con chí hiếu, một môn đệ trung kiên, đã thực hiện trọn hảo lời Thày Chí Thánh: "Ai muốn theo Ta, hãy từ bỏ mình, vác Thập Giá mà theo" (Mt. 16,24).

Gông đóng xiềng mang, dạ nguyệt kinh
Những say vì đạo hả vì tình
Vai mang bốn điệp (gông) tai thêm ấm
Xổng xểnh ba vòng (xích sắt) cổ lại thanh
Phép nước đành lòng không oán thán
Nghĩa thày để dạ vẫn đinh ninh
Khiến sao nên vậy nào lo nghĩ
Phó mặc Hoàng Thiên sự tử sinh".


Tốt đời đẹp đạo

Thân phụ cậu Mỹ nguyên quán ở Đại Đăng, tỉnh Ninh Bình, đến lập nghiệp và kết hôn tại làng Kẻ Vĩnh, Nam Định. Micae Nguyễn Huy Mỹ sinh năm 1804, mồ côi cha năm lên mười, rồi hai năm sau mồ côi mẹ. Được người thân tận tâm nuôi dưỡng giáo dục, cậu tỏ ra rất thông minh và đạo đức : thông thạo chữ Hán và nghề thuốc, siêng năng đọc kinh sáng tối, tham dự và lãnh nhận các bí tích, nhất là bí tích Thánh Thể. Cậu thường tìm nơi thanh vắng yên tĩnh trong vườn để đọc kinh Mân Côi và cầu nguyện.

Năm 20 tuổi, anh Mỹ kết duyên với cô Maria Mến (Miều), con gái ông trùm Antôn Nguyễn Đích. Cuộc sống gia đình đầm ấm với tám người con đạo hạnh, khiến hết thảy dân làng đều mến phục kính nể. Họ đồng thanh thỉnh ông làm chánh tổng, nhưng ông từ chối. Sau cùng vì vâng lời Đức cha Havard Du, để trợ giúp chủng viện và giúp đỡ giáo dân trong thời cấm đạo, ông nhận chức Lý Trưởng.

Dù đời sống gia đình và xã hội nhiều phức tạp, ông luôn sống xứng đáng là một gia trưởng đạo đức gương mẫu. Bà Lý Mỹ kể rằng : "Gia đình tôi sống trong hòa thuận yêu thương. Ông Micae chuyên chăm đạo đức, dự lễ hằng ngày, nếu vợ con hay người giúp việc bận rộn không đi lễ được, ông bắt phải đọc kinh chung và nghe sách thiêng liêng để suy niệm. Ông xưng tội nhiều lần trong năm, mỗi lần ông kỹ lưỡng xét mình hai ngày trước. Mùa chay, ông giữ chay các ngày thứ tư và thứ sáu. Ông không uống rượu, không đánh bạc hay to tiếng với ai bai giờ".

Làm Lý trưởng, ông Mỹ tỏ ra là người liêm khiết, không nhận tiền hay quà hối lộ. Khi phân xử, ông rất công bằng chính trực, không thiên vị bên nào. Với những người vướng mắc tệ đoan xã hội, ông khuyên răn, sửa trị nghiêm minh. Lo cho gia đình thế nào, ông Lý cũng chăm sóc làng xã như vậy : Mỗi tối, ông thường đọc kinh chung với phu tuần trước khi thi hành công tác. Ông khuyên nhủ người khô đạo, giúp đỡ người nghèo khổ, tạo điều kiện cho họ năng nhận các bí tích, tu thân sửa lỗi, để họ trở thành người giáo hữu tốt lành và người công dân lương thiện. Hàng tổng vẫn lấy làng Kẻ Vĩnh ra làm gương cho các làng khác.

Phép nước đành lòng không oán thán

Như các làng khác ở Miền Bắc trong những năm cấm đạo (1833-1938), dưới triều vua Minh Mạng, vì quan quân không ráo riết chấp hành, nên Kẻ Vĩnh được tạm yên trong mấy năm.

Nhưng năm 1837, Tuần Phủ Hưng Yên bị cách chức, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh bị triệu về kinh quở trách nặng lời, nhà vua trao cho Tổng đốc 40 Thánh Giá, truyền phải triệt để áp dụng chiếu chỉ cấm đạo. Từ đó, quan Tổng đốc trở thành con người tàn bạo, người ta gọi ông là "hùm xám tỉnh Nam". Hai giáo phận Đàng Ngoài vào cuối triều Minh Mạng phải chịu những cơn bão táp dữ dội. Quan quân từng đội, từng đoàn đi khắp nơi, bao vây từng làng, khám xét từng nhà, chủng viện Kẻ Vĩnh hai lần giải tán chủng sinh sang các miền xung quanh.

Một lần, quan quân bao vây làng Kẻ Vĩnh đúng lúc Đức giám mục và một số linh mục đang trú ẩn tại đó. Ông Lý Mỹ can đảm và khôn khéo, đánh lạc hướng, dẫn quan quân đi khám xét từng nhà mà không bắt được vị nào. Ông thường nói với các giáo hữu : "Việc nhà vua cấm đạo ví như thử thách Thiên Chúa gởi đến, ta phải kiên tâm trung thành với đạo". Khi nghe tin Tổng đốc bắt các lính Công Giáo phải quá khóa, ông Lý vì ở xa, nên gởi thư khuyên bốn người thuộc làng Kẻ Vĩnh : "Xin anh em giữ vững đức tin, mấy ngày nữa tôi sẽ đến với các anh em".

Ngày 02.07.1838, quan Tổng đốc chỉ huy cuộc bao vây làng Kẻ Vĩnh, ông Lý Mỹ thưa với nhạc phụ : "Cha con ta đồng sinh tử với nhau, việc Chúa quan phòng đã đến rồi, xin cha đừng hãi sợ chi". Nói xong, ông ra đón quan Tổng đốc tại đình làng, quan truyền các giáo hữu và linh mục phải ra trình diện, nếu không Lý trưởng phải làm tờ cam đoan. Ông viết : Lý trưởng Nguyễn Huy Mỹ làm tờ cam đoan: làng chúng tôi không có đạo trưởng, cùng các đồ quốc cấm, nếu khai man tôi xin nộp mạng cả gia đình tôi".

Tờ cam đoan chưa ráo mực thì quân lính đã dẫn linh mục Giacôbê Mai Năm đến. Quan ngạc nhiên hỏi phải xử thế nào ? Ông thưa: "Thưa quan lớn, quan thương thì chúng tôi xin tạ ơn, bằng không tôi xin nộp đầu chịu tội". Bấy giờ quan truyền đánh ông Lý 40 roi, rồi đóng gông giải ra tỉnh cùng với linh mục Mai Năm và ông trùm Nguyễn Đích.

Gông đóng, xiềng mang, dạ nguyện kinh

Trên đường ra tỉnh Nam Định, một kỳ mục trong làng bàn luận với ông Lý xin nộp tiền chuộc để ông được về, ông Lý từ chối : "Xin cám ơn lòng tốt của dân làng, nên để tiền đó giúp vợ con tôi và mở tiệc mừng khi đưa thi hài tôi về". Trong ba người bị bắt, vì biết không thể dùng áp lực lay chuyển đức tin của cha Mai Năm, nên quan không thúc ép nhiều. Với ông trùm Đích đã 70 tuổi già sức yếu thì quan cũng nương tay. Riêng ông Lý Mỹ, đang tuổi cường tráng, lại nói năng lưu loát, nên quan dùng đủ các phương thế dụ ông chối đạo : - Anh còn trẻ trung, thông minh sắc sảo, dân chúng đều quý sao anh lại dại khờ không bước qua Thập Tự ?

Ông Lý đáp : - Trước khi tôi sinh ra, đã có dân chúng. Vậy khi đó, ai lãnh đạo ? Nên tôi không vì thế mà làm theo lời quan được.

- Anh không thương người vợ hiền với đàn con sao ?

- Thiên Chúa chao phó người vợ và con cái cho tôi săn sóc khi tôi có thể, nên tôi không thể chối bỏ. Giá như có ai nói quan lớn đạp đầu Đức Vua đã ban chức trọng cho quan, ắt hẳn quan chẳng dám làm, thì tôi đây lẽ nào giám cả gan đạp ảnh Chúa tôi thờ kính…

Quan Tổng đốc nổi giận truyền đánh đòn ông Lý nhiều lần, tính tổng cộng trong suốt thời gian bị giam giữ, ông Lý phải chịu đến 500 roi, kể cả ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ. Nhìn ông trùm Đích tuổi già, sức yếu, ông Lý ngày đên lo lắng, thiết tha cầu khẩn Thiên Chúa trợ giúp ban ơn cho nhạc phụ vững tin cho đến giờ phút cuối cùng. Ông Lý thường khuyến khích nhạc phụ :

"Cha đã tuổi cao sức yếu, chẳng sống được bao lâu nữa, nếu không chết vì đạo thì cũng chết vì bệnh, nhưng nếu tử đạo, sẽ làm vinh danh Thiên Chúa và được hạnh phúc Thiên Đàng. Cha đừng luyến tiếc sống thêm ít ngày, con đây còn khỏe mạnh, đời còn dài, vợ trẻ với đàn con thơ dại thật đáng yêu đáng quý, nhưng con tin Thiên Chúa sẽ lo liệu thật tốt đẹp cho chúng. Hơn nữa khi cha con ta được lên Thiên Đàng, sẽ cầu bầu trước nhan Thiên Chúa thì có ích hơn cho cả gia đình dòng tộc. Cha đừng lo về những hình khổ phải chịu, con sẽ chịu đòn thay cho cha hết thảy. Cha hãy can đảm làm chứng và sẵn lòng chết vì yêu mến Chúa Giêsu Kitô, Đấng đã chết vì chúng ta…"

Quả thực, mỗi lần quan truyền đánh đòn ông trùm Đích thì ông Lý Mỹ đứng lên thưa : "Cha tôi đã già nua tuổi tác, xin quan lớn tha cho, tôi xin chịu đòn thay". Quan lớn thấy ông có lòng hiếu kính, nên chấp thuận đề nghị ấy. Ông Lý chịu đòn gấp hai lần nê y phục rách nát, thân mình đầm đìa những máu, tứ chi bầm tím khắp nơi. Ông còn phải mang gông xiềng nặng hơn, bị cùm xiết chặt hơn, khiến càng thêm đau đớn khủng khiếp, nhưng vị chứng nhân Chúa Kitô luôn tỏ ra hân hoan vui mừng, không một lời oán thán :

"Vai mang bốn điệp, tai thêm ấm,
xổng xểnh ba vòng, cổ lại thanh".

Cuộc giã từ rơi lệ

Người con gái ông Lý, cô Mỹ tuy mới 12 tuổi, cũng lén mẹ ra tỉnh tìm cách qua ba lần cửa có lính gác, vào thưa với cha : "Xin cha cam đảm chịu chết vì Chúa". Cậu Tường mới 9 tuổi, con trai ông Lý Mỹ, không đi xa được, cậu cũng cố gắng nài nỉ dân làng đi thăm chuyển lời đến ông: "Cha đừng lo cho chúng con, cha hãy an tâm vững lòng xưng đạo và chịu chết vì đạo". Bà Lý bồng con mới sinh được mấy thàng ra thăm chồng, trao con cho chồng ẵm một lúc, bà thấy những cực hình chồng phải chịu, bà không cầm được nước mắt, bà nói trong nghẹn ngào :

"Vợ con ai mà chẳng thương chẳng tiếc, nhưng ông hãy hy sinh vác Thánh Giá rất nặng vì Chúa, hãy trung thành với Chúa cho đến cùng, đừng lo nghĩ về mẹ con tôi. Thiên Chúa sẽ quan phòng tất cả. Đến thăm ông lần này có lẽ là lần sau hết, cầu xin Chúa cho ông vâng theo thánh ý Chúa".

Ông Lý Mỹ lòng đau như cắt. Ông biết rằng sự ra đi của ông sẽ là nỗi thương đau vô cùng cho vợ con, nhưng vững tin vào tình yêu và sự quan phòng của Thiên Chúa, ông bình tĩnh an ủi vợ: "Lời bà khuyên nhủ đốt thêm lửa kính mến Chúa trong lòng tôi, bà đem con về săn sóc chúng thay tôi, sớm tối cầu nguyện ngày sau gặp bà và các con chung hưởng hạnh phúc vĩnh cửu nơi quê thật là nước Thiên Đàng".

Nhờ lời khích lệ của vợ con, ông Lý như được tăng thêm sức mạnh, nên càng vững lòng tin hơn, sẵn sàng hy sinh tính mạng vì đạo Chúa. Có lần một vài phu tuần làng Kẻ Vĩnh vì mộ mến ông, khuyên ông qúa khóa để trở về coi sóc dân làng như trước, ông liền mắng họ: "Ai bảo các anh đến thăm tôi và nói những lời sai trái như vậy, bây giờ tôi về thì các anh sẽ khóc, nhưng khi đưa thi hài tôi về làng thì các anh sẽ ăn mừng".

Say vì đạo, hả vì tình

Suốt một tháng trời, quan vừa hành hạ vừa khuyên dụ ông Lý Mỹ bước qua Thánh Giá không thành công, dù phải những trận đòn tan xương nát thịt, dù gông cùm, xiềng xích nặng nề đau buốt thịt xương, vị chứng nhân Chúa Kitô vẫn một lòng kiên trung với đức tin. Quan làm án tâu về kinh :

"Nguyễn Huy Mỹ, làm Lý trưởng làng Kẻ Vĩnh, can tôi theo đạo Gia Tô triều đình nghiêm cấm, cùng với Nguyễn Đích là nhạc phụ, chứa chấp đạp trưởng Mai Năm trong nhà. Đã khuyên dụ nhiều lần chối đạo nhưng chúng không chịu quá khóa, nên luận phải xử trảm ba người đó để làm gương cho dân chúng".

Ngày 12,08.1838, được tin vua Minh Mạng đã châu phê y như án nghị, cả ba tông đồ Chúa vui mừng hớn hở chuẩn bị tâm hồn lãnh bí tích giải tội và rước Mình Thánh Chúa cách sốt sáng. Các ông hân hoan bước đến nơi xử, vừa đi vừa hát kinh tạ ơn Chúa. Dọc đường ông Cả Tú (là anh em thúc bá với ông Lý Mỹ) khích lệ: Anh Lý ! Hãy vững tâm nhé". Ông Lý Mỹ đáp lại: "Anh cả yên chí, đừng lo, tôi không sợ đâu".

Đến pháp trường Bảy Mẫu, ba vị chứng nhân quỳ xuống cầu nguyện một lúc. Ông Lý Mỹ xin xử cha Giacôbê Mai Năm và ông Antôn Nguyễn Đích trước, quan chấp thuận. Ông Lý Mỹ bị chém sau cùng.

Thi hài của ba vị tử đạo được rước về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. dân chúng vui mừng đốt đèn đuốc đón rước cách trọng thể, đúng như lời tiên báo của ông Lý Mỹ.

Ông Micae Lý Mỹ lãnh phúc tử đạo, chiến thắng tất cả những thử thách cực hình nhờ tình yêu tuyệt đối vào Chúa Giêsu Kitô và với tinh thần đạo đức say mê giáo lý tin mừng của Ngài. Tình yêu và tinh thần được vun trồng ngay từ thời niên thiếu phát triển theo thời gian đến tuổi trưởng thành, và cho đến giờ phút quyết liệt nhất của cuộc đời, bằng một tình yêu tuyệt đỉnh, ông Lý Mỹ xứng đánh lãnh nhận phần thưởng trọng hậu Thiên Chúa trao ban : Khải hoàn Thiên Quốc với cành lá tử đạo.

Ông Micae Lý Mỹ thực là con người chí hiếu của người cha dưới thế cũng như Cha trên trời.

Đức Lêo XIII suy tôn lên hàng Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Ông Lý Mỹ sinh năm Giáp Tuất (1804)
Trại Ðại Ðăng tỉnh lỵ Ninh Bình
Mẹ cha về sớm Thiên Ðình
Nhờ Dì nuôi nấng chân tình chăm lo

Mới mười tuổi chữ Nho khó học
Rất siêng chăm cậu học thuộc ngay
Tinh thông khéo dạ khéo tay
Cụ Ðồ khen tặng cậu này thủ khoa

Ðến lập nghiệp quê nhà Kẻ Vĩnh
Ở nơi đây đã đính kết hôn
Với cô Niệm gái nông thôn
Con cụ Trùm Ðích tiếng đồn nết na

Rồi anh Mỹ học qua nghề thuốc
Chữa mát tay thân thuộc tin yêu
Nhà thờ kinh sớm kinh chiều
Siêng năng lần hạt là điều chẳng quên

Có Cha tới ta nên xưng tội
Phải xét mình sai lỗi với ai
Thật lòng sám hối xưng khai
Tại tôi đấm ngực xin ngài thứ tha

Ông Lý Mỹ xùng la tát vợ
Cũng chỉ vì kiếm cớ bỏ kinh
Sau này ông biết lỗi mình
Vợ chồng hòa thuận nghĩa tình sắt son

Ông Lý Mỹ hết còn tái phạm
Không rượu chè kết bạn bê tha
Tu thân rồi mới tề gia
Việc nhà ổn định thiết tha cộng đoàn

Một lần nọ họp bàn đám hiếu
Của Thầy Ðồ phúng điếu lễ nghi
Anh em Phật giáo thầm thì
Thầy Ðồ an táng lễ nghi nhà Chùa

Nhưng Lý Mỹ đâu thua, phản đối
Ðược Thầy Ðồ chỉ lối lại cho
Nhà thờ phép đạo tôi lo
Nhờ Thầy Kẻ Giảng giúp cho tốt lành

Ông Lý Mỹ lẹ nhanh bố thí
Giúp người nghèo thiện chí hăng say
Giỏi giang lý sự trình bày
Khuyết chân Chánh Tổng làng này cử ông

Ông không chịu nên ông từ chối
Lý trưởng làng dân hối ông làm
Nhưng ông không thích chẳng ham
Ðức Cha Dụ bảo giúp làng giúp dân

Ðề che chở khi cần lúc khó
Ðức Cha khuyên khi đó mới ra
Xin vâng giúp đỡ quê nhà
Dân làng thấy vậy thật là an tâm

Xử kiện cáo không lầm Lý Mỹ
Ông đứng ra xử lý công bằng
Không quen thuộc, khéo nói năng
Chẳng qua lẽ phải thưa rằng công minh

Một bữa nọ ông rình bắt bạc
Có đông người đĩa bát quả tang
Ðầy tớ riêng có trong hàng
Bốn mươi roi phạt cả làng tới coi

Tên đầy tớ thêm roi sáu chục
Ðủ trăm roi nằm gục chổng mông
Ðàn bà cũng giống đàn ông
La lối chửi rủa thì ông phạt đòn

Bà nào lỡ có con đi kiếm
Lấy cái nia cắt khiến chui đầu
Cái nồi đất cũ từ lâu
Bôi vôi bắt đội lên đầu dẫn đi

Làng nhìn mặt bà thì xấu hổ
Cả dân làng khu phố khen hay
Lý Mỹ có tính tốt này
Ông không nóng giận khoan thai hiền từ

Là Lý Trưởng cũng như việc đạo
Vẫn đọc kinh loan báo làm gương
Phiên tuần canh gác ngoài đường
Ông đi đôn đốc đảm đương tháng ngày

Các trẻ nhỏ tính hay trốn học
Ông kiểm tra săn sóc tới nơi
Giục người xưng tội kịp thời
Ai mà lười biếng ông thời ghi danh

Ðối với bậc tu hành kính nể
Ðón các ngài đến để giảng rao
Làng Kẻ Vĩnh rất tự hào
Ðạo đời tốt đẹp Chúa trao phúc lành

Ðược như vậy nhờ danh Lý Mỹ
Rất hiên ngang suy nghĩ đảm đang
Lính quan đến ông dẫn đàng
Từng nhà lục soát dân làng vững tin

Ông ngầm báo đi tìm lối thoát
Nếu chưa thông lối khác dẫn đi
Quan quân chẳng bắt được gì
Nhờ ông Lý Mỹ rất thì tinh nhanh

Tại Nam Ðịnh Quang Khanh bắt lính
Bỏ đạo trời quan tính kiểm tra
Ông Lý Mỹ lại ở xa
Cho người về báo phải là kiên trung

Mấy ngày nữa, sẽ cùng các đệ
Ra gặp quan nói để tuyên xưng
Quang Khanh thấy thế thì ngừng
Hồng ân tử đạo đón mừng cầu xin

Ngay sau đó báo tin cho vợ
Tôi chiêm bao sẽ ở xa bà
Phúc lành tử đạo không xa
Ông được phúc trọng thì ta vui lòng

Lời ước nguyện cầu mong sắp đặt
Ba ngày sau quan bắt ông đi
Hai tên do thám Xuân, Ty
Nằm vùng giúp việc nó thì báo quan

Trịnh Quang Khanh chia làm hai cánh
Ðường thủy bộ điểm chánh đình làng
Quân quan gươm giáo nghênh ngang
Cho đòi lý trưởng với hàng quan viên

Ông Lý Mỹ báo liền Trùm Ðích
Cha con ta bị địch bắt rồi
Quang Khanh tới chắc lôi thôi
Cho đòi trai tráng bắt ngồi điểm danh

Bao đạo trưởng các anh phải nộp
Lý trưởng làng lính ốp trả lời
Quan cho lục soát khắp nơi
Nếu mà bắt được tội rơi bay đầu

Phải làm giấy ngõ hầu phải ký
Cầm bút ngay ông ký hiên ngang
Hai tên do thám dẫn đàng
Cụ Năm có mặt sẵn sàng nhận ngay

Lính xô lại trói tay Trùm Ðích
Giấy tờ đây giải thích cho quan
Lý Mỹ nói khỏi luận bàn
Phép vua quan xử chẳng van kêu nài

Liền sau đó quan sai lính trói
Cả ba người chẳng nói năng gì
Giải về Lục Bộ hướng đi
Một huynh thứ đến, bàn thì chuộc ông

Nhưng Lý Mỹ nói không cảm tạ
Ðây hồng ân Chúa đã quan phòng
Làm cơm khoản đãi cầu mong
Ðón mừng chôn xác liệm trong quan tài

Lý hình tức, chém sai không trúng
Trượt vô cằm nảy búng thịt ra
Chém năm nhát mới đứt mà
Thật là đau đớn xót xa dân làng

Dân xin xác cả ba mai táng
Ðến nửa đêm mới cáng tới làng
Giáo dân đốt đuốc sáng choang
Thổi kèn đánh trống cả làng mừng vui

Phúc tử đạo bùi ngùi Mậu Tuất (1838)
Của lễ dâng đẹp nhất đời con
Một lòng trung nghĩa sắt son
Suy tôn Canh Tý (1900) xác hồn Thiên cung

Cha Năm, cụ Trùm Ðích, ông Lý Mỹ tử đạo
12/8/1838 an táng tại nghĩa trang làng Kẻ Vĩnh

Lời bất hủ: Trước quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh, ông Lý Mỹ trả lời với lý luận sắc bén đối chất với quan: "Thưa quan lớn, tôi đã suy xét và tin nhận đạo Thiên Chúa là đạo thật, nên tôi không thể chối bỏ. Giá như có ai nói quan lớn đạp đầu Ðức Vua đã ban chức trọng cho quan, ắt hẳn quan chẳng dám làm, thì tôi đây lẽ nào cả gan đạp ảnh Chúa tôi thờ kính". Ông Lý Mỹ chịu đánh đòn nhiều lần cả những lần chịu thay cho nhạc phụ tổng cộng đến 500 roi.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #69
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.413
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
68. Nicôla Bùi Ðức Thể (1792-1839)

Nicôla Bùi Ðức Thể, Sinh năm 1792 tại Kiên Trung, Bùi Chu, Giáo dân, Binh sĩ, bị lăng trì ngày 12/06/1839 tại Thừa Thiên dưới đời vua Minh Mạng cùng với thánh Augustinô Phan Viết Huy, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Leô XIII, lễ kính vào ngày 12/06

Vào năm Minh Mệnh thứ 19, nhà vua truyền cho các quan phải bắt các lính có đạo trong quân ngũ phải quá khóa. Quan tổng đốc tỉnh Nam Ðịnh hồi đó là Trịnh Quang Khanh. Chiếu chỉ của vua cho Trịnh Quang Khanh như sau: "Nếu khanh muốn giữ vững thủ cấp trên cổ, khanh phải tuân theo lệnh của trẫm. Trẫm trao phó cả ngàn quân sĩ và đặt hết tín nhiệm nơi khanh. Hạn cho khanh trong vòng một tháng phải bắt tất cả các linh mục trốn tránh trong tỉnh, và thanh trừng các lính Công Giáo trong quân ngũ đến đứa cuối cùng. Trẫm không muốn giết chúng, nhưng trẫm muốn chúng bỏ đạo."

Thừa lệnh của vua, Trịnh Quang Khanh đã thề tiêu diệt đạo Công Giáo đến nỗi không có một quan nào dữ tợn hơn ông trong lịch sử bách đạo tại Việt Nam. Ðể thi hành đắc lực lệnh của nhà vua, Quan Trịnh Quanh Khanh còn sáng chế ra những hình phạt kinh khủng để làm cho người Công Giáo hoảng sợ mà chối đạo. Ðối với những người nhất định không chối đạo, thì ông dùng tù đày, hoặc khuyến dụ bằng những lợi lộc hoặc chức quyền. Ông cũng không quên dùng những người Công Giáo đã bỏ đạo để làm lung lạc các chiến sĩ của Chúa. Có khi ông còn dùng áp lực phạt thân nhân của các người Công Giáo, để vì thương hại thân nhân mà chối đạo. Trong thành Nam Ðịnh vào năm 1838 có tất cả chừng 500 lính Công Giáo bị điệu ra trước tòa để xử. Dĩ nhiên không phải cả 500 người đều là những Công Giáo tốt. Trong số này, có đủ loại người, có người đạo đức và có người sống đời bê bối. Nhưng họ đều có đức tin. Tuy nhiên Trịnh Quang Khanh cho điệu tất cả các lính tới hầu tòa. Trước khi hầu tòa, quan cho các ông ăn uống no say. Sau khi ăn uống, quan cho cả ngàn quân lính võ trang bao vây các ông lại. Trên khán đài, quan tổng trấn ngồi chễm trệ, với các chức sắc dân sự và quân sự ngồi theo thứ tự đẳng cấp. Ở một phía bên của tòa án, lý hình với đủ mọi hình cụ dữ tợn để dọa các lính trung kiên với giáo hội. Ở phía khác, quan truyền đặt nhiều cây thánh giá để lính Công Giáo phải bước qua. Trịnh Quang Khanh đứng lên, bước tới phía trước khán đài, rồi truyền lệnh cho quân sĩ. Ông hứa hẹn rất nhiều lợi lộc của vua ban cho quân sĩ chối đạo. Ông cho họ biết ông đối xử với quân lính như người cha, như người mẹ. Tuy nhiên ông muốn biết chắc chắn rằng quân sĩ của ông phải nghe lời ông thì mới được hưởng tước lộc vinh hoa phú quý. "Ðức vua không thể sai lầm, ngài đã cấm theo đạo Gia Tô. Vậy mọi người phải bỏ đạo đó."

Quan không đòi hỏi gì khác, chỉ cần quân lính bước qua thập giá. Quân lính đó sẽ được phục chức trong quân đội và không ai đả động đến tôn giáo này với họ trong tương lai nữa. Ông cũng không quên đe dọa những phần tử bất tuân lệnh của ông. Ông chỉ về phía các hình cụ để đe dọa những phần tử bất tuân.

Sau khi tuyên bố những lời vừa khuyến dụ vừa đe dọa, quan truyền cho các quân sĩ phải lần lượt bước qua thập giá. Một số rất lớn đã vâng lời quan bước qua thập giá, một số khác thì từ chối ngay từ đầu. Nhưng quân lính dùng sức lôi họ qua thập giá rồi kể như họ đã bỏ đạo. Cũng có người thì dùng tiền hối lộ để khỏi bị lôi qua thập giá. Những người này, quan cũng coi như đã bỏ đạo.

Sau cuộc xét xử hỗn loạn bắt 500 lính Công Giáo bỏ đạo, các quan vô cùng hoan hỉ, vì phần lớn đã chối bỏ đức tin. Những người chối đạo này trở về nhà bị lương tâm cắn rứt. Nhiều người suốt đời ăn năn thông hối, mỗi khi đi xưng tội thì chỉ khóc lóc vì tội phản bội của mình. Có người hối hận suốt đời. Có người vẫn khóc khi đi xưng tội dù đã 40 năm sau. Như trong truyện của các cha truyền giáo kể lại, có người vào tòa xưng tội chỉ khóc lóc, còn tội thì chẳng phạm tội gì nặng cả. Cha hỏi tại sao con cứ khóc mỗi khi con đi xưng tội, thì ông trả lời: "Thưa cha, con bất hạnh đã đạp thánh giá Chúa, đã 40 năm nay con hối hận khóc lóc mỗi ngày. Sao con còn dám phạm tội nào khác nữa?"

Trong số 500 quân lính cũng còn 15 người nhất định không để cho lính kéo qua thập giá. Họ nhất quyết xưng mình là Kitô hữu. Lập tức họ bị đánh đập tra tấn. Quan truyền lấy gông nặng đeo vào cổ các ông và truyền lệnh giải các ông vào nhà lao. Trong nhà lao, chân tay các ông bị cùm, và bị bỏ đói, tuy nhiên các tín hữu vẫn có thể hối lộ để nuôi các ngài. Ngày hôm sau, quan tìm cách khác thay vì đánh đập, quan bắt bạn bè, vợ con của 15 ông này phải khuyên nhủ các ông bỏ đạo. Những lính đã bỏ đạo cũng được lệnh phải khuyên nhủ các ông. Nhưng các ông vẫn trung thành. Quan lại truyền quân lính đánh đập các ông. Quân lính lại lôi các ông qua thập giá, nếu ông nào nhấc chân lên không chịu đạp lên thánh giá thì bị quân lính dùng roi đánh vào chân các ông. Thậm chí chúng còn buộc thánh giá vào chân các ông để các ông bước đi, rồi hô lên các ông đã bỏ đạo. Các ông phản đối và quyết xưng mình là Kitô hữu. Quân lính tức giận lại đánh các ông rất đau đớn. Vừa bị đòn đánh, vừa bị thân nhân và bạn bè dùng đủ mọi lý do để khuyên nhủ các ông bỏ đạo, sau cùng không chịu được nữa, sáu ông đã xin bỏ đạo.

Bây giờ con số còn lại chỉ còn có chín ông. Can đảm nhất trong chín ông là ông Augustinô Huy. Chín ông bị điệu về ngục thất. Ðêm ấy ông Huy, dù đã xưng đạo ra hai lần vẫn cảm thấy mình tội lỗi cần phải gặp cha để đi xưng tội. Ông Huy là người Công Giáo nhưng ông có hai vợ. Ông đã cưới người vợ có đạo, rồi sau lại cưới một người ngoại đạo ở tỉnh. Ông tìm cách hối lộ để có thể về nhà giải quyết vấn đề gia đình và gặp cha để lo xưng tội. May mắn, ông gặp Cha Thiều cũng có tên là Cha Năng đang làm phúc tại họ Phú Ðường gần nhà ông. Ông đến xin Cha Thiều tha tội. Cha Thiều buộc ông phải làm tờ giấy bỏ vợ hai. Cha cũng an ủi ông và khuyên ông vững lòng chịu khổ vì đạo. Ông Huy vâng lời. Sau khi chịu các phép bí tích, sáng ngày hôm sau, ông lại trở lại nhà giam để chuẩn bị cho cuộc xưng đạo thứ ba.

Ngày ấy, chín người lính lại bị điệu ra trước tòa. Trong phiên tòa, quan Trịnh Quang Khanh lại hứa hẹn ban nhiều bổng lộc của nhà vua cho ai chối đạo, và sẽ phạt nặng nề những ai bất tuân. Trong số chín ông, bốn ông lại xin bỏ đạo. Chỉ còn năm ông nhất định không chịu quá khóa. Quan Trịnh Quang Khanh thấy vậy rất tức giận, truyền cho quân lính đánh các ông nát cả thịt ra. Quan còn truyền lấy búa đập vào các ngón tay cùng nhiều hình khổ khác đánh đập các ông làm các ông đau khổ mà không thể chết được. Ông không muốn giết các ông mà chỉ mong muốn các ông bỏ đạo.

Sau khi thất bại làm lay chuyển lòng dạ sắt đá của năm ông, quan bực mình vừa nguyền rủa vừa truyền tống giam các ông vào ngục như cũ.

Thất bại trong việc diệt trừ đạo Công Giáo, quan Trịnh Quang Khanh bị vua khiển trách và cất chức tổng đốc Nam Ðịnh. Ông bị giáng cấp xuống tuần phủ. Ngày 12 tháng 4 nhuận năm ấy, ông Lê Văn Ðức đang làm tổng đốc Sơn Tây, được cử làm tổng đốc Nam Ðịnh. Ông Lê Văn Ðức cũng theo lối của Trịnh Quang Khanh mà bắt các ông này phải bỏ đạo. Ông Huy và các bạn vẫn cương quyết trung thành với Chúa.

Ngày 25 tháng 6 năm 1838, tại tỉnh Nam Ðịnh quan truyền xử tử Ðức Cha Minh (Henares) và Thầy Phanxicô Chiểu. Quan thượng cũng truyền đem cả năm ông lính đi nữa, giả cách như phải xử một trật với hai đấng kia. Mục đích của quan là để các ông sợ chết mà bỏ đạo. Trái lại các ông vẫn không sợ mà lại vui mừng vì tưởng giờ tử đạo của mình đã đến. Các quan thấy các ông vui mừng lại càng ngạc nhiên, không hiểu tại sao các ông lại muốn được chết vì Chúa. Quan lại truyền điệu các ông về ngục như cũ. Các ông thấy mình không được chết vì đạo, thì lại buồn hết sức.

Sáng ngày hôm sau, 26 tháng 6 quan tổng trấn lại truyền năm ông phải hầu tòa, ông cố gắng hết sức nào áp dụng các hình cụ mà ông mới sáng chế ra, nào đe dọa, nào khuyên nhủ với nhiều hứa hẹn. Các ông vẫn không chịu bỏ đạo. Quan tổng trấn lại truyền đánh đập các ông sưng cả mặt mũi, máu chảy đầm đề. Dù bị đánh đập tàn nhẫn không còn hình tượng người ta nữa, khi hỏi có còn xưng mình là Kitô hữu nữa không, các ông vẫn khẳng khái tuyên xưng các ông vẫn là kẻ có đạo. Thấy mình thất bại, quan tổng trấn càng giận dữ, ông chửi bới thậm tệ, và truyền cho lý hình đánh các ngài cho tới khi nào các ông chịu bỏ đạo thì thôi. Quan tổng trấn mới hành hạ các ông này hơn tuần lễ, nhưng vẫn vô ích.

Ngày kia ông truyền cho lý hình, buộc gông rất nặng vào cổ các ông rồi kéo các ông qua thập giá. Các ông nhất định giơ chân lên chứ không chịu đạp vào thập giá, thì quan lại truyền cho lính đánh đập vào chân các ông đến nỗi các ông không còn sức để mà giữ chân co lên cao được nữa, tức thì chân phải hạ thấp xuống và đạp lên tượng thì quân lính reo hô thật to: "Ðã quá khóa rồi."

Quan án lúc đó truyền không hành khổ các ông nữa, và hỏi các ông: "Sau cùng, các ngươi đã tuân lệnh nhà vua chưa?"

Vừa bị đánh đập đau đớn, vừa sợ hãi, hai ông Siêu và Dụ nói: "Quan lớn dậy thế nào thì chúng tôi xin vâng."

Lậy tức hai ông được quan lớn tha và hứa hẹn đủ điều. Quan lại hỏi ông Huy, ông Thể và ông Ðạt thì cả ba ông đều thưa: "Quan lớn dậy việc gì khác chúng tôi xin vâng, còn bỏ đạo thì chúng tôi không bỏ."

Quan lại truyền giam ba ông vào ngục thất và đeo xiềng và đóng gông nặng hơn nữa.

Thấy hai bạn đã bỏ đạo, ông Huy, ông Thể và ông Ðạt càng ăn chay đánh tội nhiều hơn nữa để xin ơn bền vững. Hai ngày sau khi hai ông lính bỏ đạo, quan thượng nghĩ rằng ông cũng có thể làm cho ba ông này bỏ đạo như hai ông kia. Ông liền truyền dẫn ba ông vào dinh của ông rồi truyền cho ba ông phải bỏ đạo. Ba ông không chịu. Quan thượng lúc đó cũng muốn biết các ông theo đạo và sống đạo thế nào. Quan truyền cho ba ông đọc kinh trước mặt quan. Quan đưa sách cho các ông và truyền cho các ông đọc. Bấy giờ ông Huy, cầm lấy sách đạo mà quan trao cho, đọc theo như cung cách quen đọc trong nhà thờ. Các quan cùng mọi người trong dinh, nín lặng để nghe các ông đọc kinh. Nhân dịp này ông Huy lợi dụng để giảng giải về lẽ đạo cho quan. Quan lắng nghe, nhưng khi giảng tới đoạn không vừa ý quan. Quan liền truyền quân lính vả vào miệng ông. Sau đó quan thượng lại truyền ba ông phải bỏ đạo. Ba ông cương quyết từ chối. Quan thượng lại truyền quân lính khiêng các ông qua tượng thánh giá như những lần trước. Lần này quan truyền đánh dữ tợn hơn lần trước, đánh đến nỗi chân các ông đầy máu me. Khi chân các ông chạm vào thánh giá, thì quân lính lại hô lên: "Quá khóa rồi, quá khóa rồi."

Lúc đó ông Huy, đại diện hai ông kia kêu lên: "Quan lớn dậy đánh đòn cùng kéo ép chúng tôi, có lẽ nào mà nói chúng tôi đã quá khóa được ru?"

Tức thì quan thượng truyền nọc ba ông này ra đánh đòn. Ông bị đánh 20 roi, ông bị đánh 30 roi. Riêng ông Huy thì bị đánh 40 roi ngay hôm đầu. Có chứng nhân nói rằng trong ba ngày liên tiếp mỗi ông bị đánh chừng 130 trượng. Khi hỏi các người khác rằng các đấng bị đánh nhiều trượng như thế thật không? Ai ai cũng đồng ý như vậy.

Dịp khác các quan lấy nhiều lý lẽ mà khuyên ba ông bỏ đạo. Ông Huy lại đại diện anh em thưa rằng: "Bẩm quan lớn, quan lớn dậy chúng tôi bỏ đạo Thiên Chúa, thì chúng tôi sẽ theo đạo nào, vì trong các đạo khác chẳng có đạo nào là đạo thật."

Quan thượng nghe thế liền nói: "Nếu ngươi bảo đạo chúng bay là đạo thật, sao vua nghiêm cấm đạo ấy?"

Sau đó quan còn nói nhiều điều phạm thượng tới đạo Công Giáo. Ông Huy lại có dịp cắt nghĩa lẽ đạo cho các quan, cùng bẻ các lý lẽ mà quan đã nói. Thất bại về tranh biện với các đấng này, quan thượng lại truyền đánh đập và phạt các ông.

Vào những buổi trưa hè nóng bức, các ông bị cạo trọc đầu, cổ mang gông, chân tay xiềng xích, phơi nắng trước cổng dinh. Giữa lúc nắng hè, các ông đau khổ phần vì nóng bức, phần vì ruồi nhặng bậu vào để hút những vết máu mà tay chân các ông bị xiềng xích không thể đuổi đi được. Giữa lúc đó các bạn hữu, các bạn đồng đội theo lệnh quan thượng phải tới khuyên nhủ các ông bỏ đạo. Hơn nữa, quan lại còn thưởng cho những tín hữu bỏ đạo, hay thăng cấp. Ðiều này cũng làm cho các ngài dễ dàng bị lung lạc. Có lần vợ ông Ðạt đến khóc lóc và dùng đủ mọi cách để chồng dẵm lên thánh giá. Ông Ðạt đã đủ can đảm trách mắng vợ và cấm bà lần sau không được đến gặp ông nữa. Các ông vẫn bị phơi nắng từ ngày này sang ngày khác. Lần kia có một người tín hữu thấy ông Huy bị phơi nắng khổ sở như vậy, liền lấy quạt che cho ông. Khi ông Huy thấy cử chỉ của bà như vậy, ông cám ơn bà và nói với bà: "Chúa để chúng tôi chịu sự khốn khó để đền tội chúng tôi. Tôi xin bà đừng che nắng cho tôi."

Trong ngục tù, các đấng này còn ăn chay hãm mình bốn lần một tuần: thứ Hai, thứ Tư, thứ Sáu và thứ Bảy. Dù đồ ăn trong ngục đã ít oi, mà các đấng còn hy sinh để giúp cho những tù nhân khác. Các ông cầu nguyện không ngừng và còn xin các bổn đạo khi đến thăm các ngài: "Xin các ông các bà cầu cho chúng tôi để chúng tôi bền vững, vì chúng tôi biết chúng tôi rất yếu đuối."

Quan thượng là người thông minh, học rộng thế mà lại tranh luận thua những người học thức tầm thường này. Ðức Cha Marti nói: "Về vấn đề này, tôi rất tiếc không đủ tài liệu chi tiết về những lý luận ngu xuẩn và phi lý của quan trên về đạo giáo đối với ba quân binh này. Tôi biết họ hỏi rất nhiều câu hỏi đặc biệt về bí tích giải tội và hôn phối. Ông Huy đã trả lời rất đúng và khúc chiết và dễ dàng đập tan những ý xảo quyệt của những người vô đạo và thờ ngẫu tượng này. Ông thường nói về mục đích của Chúa ban phép bí tích, sự thánh thiện của bí tích, sự thánh thiện của nghi thức đi kèm với bí tích. Về bí tích giải tội, ông nói nếu giải ban đêm là vì trong thời cấm đạo. Còn bình thường các cha giải tội ban ngày."

Ðức Cha Marti còn kể tiếp ít nhất là một lần, quan thấy ông Huy đối đáp khôn khéo, quan truyền đuổi ông ra ngoài, kẻo ông nghe được những người quanh quan thượng khen ngợi hoặc ông lại ảnh hưởng trên các người chung quanh quan.

Một ngày kia, quan lại hạch hỏi và tranh luận với ông Huy về quá khứ đời tư của ông, để làm ông chán nản: "Giả dụ như có ai từ trước tới nay sống đời đạo đức mà muốn chết vì đạo còn hiểu được, chứ như ngươi trong quá khứ đã sống như người ngoại, có hai vợ, ngươi sống dường như không phải là bổn đạo. Mà bây giờ ngươi cứ giữ luật Kitô hữu, thì quả là điên khùng, không thể chấp nhận được."

Về vấn đề này, ông Huy đã trả lời quan với hết lòng khiêm nhường rằng cho tới nay ông đã sống đời sống Kitô hữu như gương mù, theo tính xác thịt, theo sự yếu đuối của ông. Nhưng Chúa nhân lành vô cùng đã thương ông, cho ông biết thống hối, và bỏ vợ hai. Ông đã bỏ mọi sự ngay cả mạng sống nữa chứ không bỏ đạo Kitô giáo.

Không lay chuyển ông được, quan thượng lại dùng bạo lực. Ðức Cha Marti kể lại rằng quan thượng còn dùng nhiều hình khổ đặc biệt để lay chuyển ý chí sắt đá của ông Huy. Quan bắt lính kéo ông qua thánh giá, và dùng roi đánh chân ông bắt chân ông chạm vào thập giá. Khi chân ông đụng vào thập giá chúng lại reo lên: "Nó đã quá khóa rồi, nó đã quá khóa rồi."

Ông Huy lại đáp lời: "Các ngươi dùng võ lực lôi thân xác ta, các ngươi cố dùng sức lực lôi chân ta, nhưng các ông có dùng sức mạnh để lung lay ý chí ta được không? Bao lâu ta không chịu, thì dù có đánh đập các người cũng không đạt được mục đích đâu!"

Trong hồ sơ phong thánh của ông và hai vị có đoạn nói lên rằng lòng tin và lý luận của các ông phần nào làm cho quan tổng trấn Lê Văn Ðức phải cảm động. Quan nói: "Các ngươi làm cho ta thấy tội nghiệp các ngươi quá. Ta không muốn hành hạ các ngươi hơn nữa. Dù ta có hành hạ các ngươi thế nào các ngươi cũng không bỏ đạo và bước qua thập giá. Tôn giáo các ngươi là tôn giáo gì vậy? Hãy nói đi ta muốn nghe các ngươi nói."

Ông Huy đã cắt nghĩa cho quan mười điều răn Ðức Chúa Trời và bảy phép bí tích. Quan lớn cảm động và ngạc nhiên về đạo lý của đạo Công Giáo, cảm động quá, ông liền ca ngợi đạo Công Giáo, ông còn xin lỗi các đấng và nói: "Tôi không biết tôi có còn ở đây lâu nữa không. Nếu tôi trở về triều đình, mà các ông phải chịu chết vì đạo các ông, xin hãy nhớ tới tôi và xin làm ơn đừng báo thù tôi."

Ðến tháng chín, có tin đồn ông Huy và hai bạn bị xử tử. Các ông rất vui mừng. Các ông nhắn tin cho vợ con lên tỉnh để vợ chồng, cha con được giã từ nhau lần cuối. Lúc đó có Cha Năm, ông trùm Ðích, và ông lý Mỹ cũng bị giam gần đấỵ Các bà cũng vào thăm các ngài. Cha Năm bảo các bà rằng: "Hôm nay không biết ba ông binh sống chết thế nào, song chắc các ông còn phải chịu nhiều sự khốn khó nữa. Cụ gần đến ngày chịu chết rồi, dù cụ là thày cả mặc lòng cũng nghĩ rằng mình khó mà có thể chịu đựng vì Chúa như ba ông binh."

Cùng ngày hôm ấy, ba ông lại bị điệu vào hầu quan, ba ông lại bị một trận đòn nên thân, đến nỗi trong mình chẳng có chỗ nào lành. Tuy nhiên các ông vẫn không chịu quá khóa. Quan lại đành giam các ông vào ngục thất. Khi trở lại ngục thất, Cha Năm hỏi các ông: "Sao, hôm nay chúng con được trận hay thua?"

Cả ba ông đều trả lời cha: "Chúng con chẳng chịu quá khóa lúc nào, mà chỉ trông được chịu chết vì đạo, vì quan lớn đã dậy làm án xử cho chúng con rồi."

Quả thật các quan lúc đó đã làm án xử tử ba ông, và đệ tấu nhà vua. Vua Minh Mệnh, đọc tấu sớ của các quan, nhưng ông chẳng muốn giết các ông này. Nhà vua liền ra chiếu chỉ truyền cho các quan phải tìm hết cách để khuyên dụ các ông binh bỏ đạo: "Ta lấy sự sống người ta làm trọng lắm, khi đã cắt đầu chẳng còn phép nối lại được nữa, ta truyền cho các quan phải dùng mọi cách, làm sao cho ba tên lính bỏ đạo Gia Tô, nhất là truyền đem ra ngoài cửa thành cho dân chúng xỉ vả. Nếu khi sự ấy chẳng đủ, thì đem ra ngoài mà giả cách chặt ngang lưng cho sợ hãi."

Các quan vâng theo chiếu chỉ của vua, đóng gông đem ông Huy và ông Thể ra cửa Ðông, ông Ðạt ra cửa Nam. Ông Huy và ba ông đều không sờn lòng.

Tháng 10 năm 1838 quan tổng trấn Trịnh Quang Khanh phục chức tổng trấn Nam Ðịnh thay thế Lê Văn Ðức. Quan tổng trấn thấy ba ông vẫn cứ vững lòng trung kiên thì cũng lại đệ án xin nhà vua xử tử các ông. Tuy nhiên vua Minh Mệnh không cho giết, trái lại còn truyền cho ông Trịnh Quang Khanh phải tìm đủ mọi cách khuyên dụ. Chẳng những thế, vua còn quở trách ông Trịnh Quang Khanh: "Mày không bảo được ba thằng lính phàm hèn, mà cai quản cả tỉnh thế nào được."

Ba ông bị điệu ra ngoài thành cho xỉ vả liên tiếp 21 ngày, rồi lại bị giam vào ngục vừa bị hành hạ vừa bị dụ dỗ. Quan lại truyền cho những người đã bỏ đạo trước phải vào để dụ dỗ ba ông. Nhưng các ông không nghe còn dùng nhiều lý lẽ để làm cho họ phải xấu hổ và ăn năn. Quan Trịnh Quang Khanh thấy đã hết kế, sau cùng ông dùng một âm mưu rất độc. Quan bắt anh em họ hàng của ba ông, cùng lý dịch ba xã Hạ Linh, Phú Nhai, Kiên Trung. Khi các người tới trước mặt quan thượng, ông truyền cho họ phải làm sao cho ba ông quá khóa, nếu không làm nổi thì tất cả đều phải chịu chết với cả ba ông. Anh em họ hàng cùng huynh thứ trong xã rất sợ hãi, nên cố sức để dụ dỗ ba ông. Khỏi mấy ngày quan thượng đòi cả ba ông vào để xem các ông đã sẵn lòng bỏ đạo chưa. Nhưng ba ông cứ một mực vững lòng. Tức thì quan truyền cho thân nhân, huynh thứ trong ba xã, và các lính đồng đội phải vào để khuyên nhủ ba ông. Nhưng dù các người này cám dỗ thế nào các ông vẫn một lòng trung kiên. Quan Trịnh Quang Khanh tức giận lắm, ông chửi các lý dịch cùng huynh thứ trong xã: "Tại chúng mày, mà ba thằng này bất trị, vì chẳng dậy bảo chúng nó vâng chịu luật phép nhà nước cho sớm, nên chúng mày phải chịu tội với chúng nó."

Nghe quan thượng nói vậy, huynh thứ và lý dịch rất sợ hãi, xin khất quan một tháng để khuyên bảo các ông này. Các ông cũng không quên xin quan thượng đừng giam các ông này chung với nhau, xin giam mỗi người một nơi để dễ dàng khuyên bảo. Quan thượng ưng cho khất một tháng, và giam ba ông riêng biệt.

Hết hạn một tháng, quan nghĩ chắc ba ông đã mềm lòng có thể chịu bỏ đạo, quan liền truyền điệu các ông đến. Song các ông vẫn không chịu quá khóa. Bấy giờ quan truyền nọc đánh một người huynh thứ xã Kiên Trung. Ông Thể thấy người huynh thứ bản xã bị nọc đánh đòn thì thương hại, ông thưa với quan rằng: "Lạy quan lớn, xin quan lớn tha cho, quan lớn dậy thế nào con xin vâng."

Quan bảo ông quá khóa, ông đành vâng theo. Lúc đó các quan thấy một tên lính đã thua trận thì vỗ tay reo mừng, liền tháo gông bẻ xiềng cho ông Thể. Sau đó mọi người lại xúi giục ông Huy và ông Ðạt bắt chước ông Thể mà chịu quá khóa. Một quan nói với ông Ðạt: "Mày cứ bắt chước tên Thể mà bước qua thập tự, khi trước cả ba tên đều hợp lực bất kháng, bây giờ tên Thể đã vâng lời vua, sao mày còn cứng cổ."

Bấy giờ ông Ðạt cũng chiều lòng các quan mà bước qua thập tự.

Phần ông Huy, dù hai bạn đã quá khóa, ông vẫn không sờn lòng. Các quan vẫn không thất vọng cố tìm cách dụ dỗ ông Huy bỏ đạo. Ðêm đó, quan cho người vào phòng ông Huy dụ dỗ ông rằng: "Chú phải vâng lời vua như hai ông kia, thì chẳng ai cười chê chú được. Vì chú đã chịu khó vững vàng hết sức rồi. Vua chẳng muốn giết chú, mà cũng chẳng muốn tha chú nếu chú không quá khóa, nếu chú bước qua một lần mà thôi thì khỏi mọi sự rầy rà này."

Sau cùng, ông Huy cũng chối đạo như hai ông bạn kia. Sau đó, quan phát cho mỗi ông 10 quan tiền rồi thả các ông về nhà.

Dòng dã tám tháng trời các ông chịu cực hình và khuyên dụ bỏ đạo mà các ông vẫn trung kiên, nên ai cũng cảm phục. Bây giờ nghe tin các ông chối đạo, rất nhiều người không tin. Có người cho rằng các ông bị bùa ngải làm mê loạn nên các ông mới chối đạo. Câu chuyện này vẫn còn trong vòng nghi ngờ, nhiều người vẫn không tin các ông đã chối đạo, nhất là sau này các ông lại xưng đạo và chịu chết vì đạo. Có những người biết chuyện thì cố tình tạo nhiều ý khác nhau để che đậy sự nhút nhát của ba ông hồi ấy. Trong các thư báo cáo về Manila, và Âu Châu thì quả quyết các ông tự ý chối đạo chứ không có ai ép uổng các ông. Chính ba ông binh cũng tự thú chuyện các ông chối đạo là sự thật. Ðức Cha Marti, đã điều tra rất nhiều người và kết luận chuyện các ông bị bùa ngải là vô căn cớ.

Từ khi ba ông bỏ đạo, thì lương tâm các ông cắn rứt vì đã chối đạo và gương xấu mình đã làm. Ba ông đã bàn bạc với nhau cũng như hỏi người khác xem phải làm thế nào để trở lại cùng Chúa. Mấy ngày sau, ông Huy cũng như hai ông binh kia đi xưng tội. Bởi ơn Chúa thúc đẩy, cả ba ông đều muốn lên tỉnh để xưng đạo. Lên tỉnh Nam Ðịnh, cả ba ông vào dinh quan thượng. Ba ông lạy quan thượng, rồi ông Huy đại diện anh em để thưa với quan: "Bẩm quan lớn, đạo Thiên Chúa là đạo thật, Chúa chúng con thờ là đấng cao cả phép tắc vô cùng, bởi chúng con đã quá dại mà chịu quá khóa, mất nghĩa cùng Chúa chúng con, nay chúng con xin giả tiền lại cho vua và quan lớn, cùng xin giữ đạo Thiên Chúa cho thật lòng."

Trịnh Quang Khanh nghe những lời ấy thì tức giận chửi rủa các ông thậm tệ, sau đó truyền giam các ông trong ngục rồi truyền cho lính hàng đội phải dụ dỗ ba ông như trước, tuy nhiên ba ông vẫn một lòng trung kiên. Quan Trịnh Quang Khanh không biết phải làm thế nào, vì trước đây ông đã tâu về triều đình rằng ba ông đã quá khóa, bây giờ nếu xử án ba ông thì không biết ăn nói sao với triều đình. Quan liền truyền cho lý dịch ba xã đến để nhận tiền thay vì các ông, rồi đuổi ba ông về làng không cho đến làm phiền các quan nữa. Các ông buồn rầu ra về, tuy nhiên lòng các ông vẫn không yên trí. Các ông chẳng ao ước sự gì thế gian mà chỉ ao ước được chết vì đạo Chúa. Các ông càng gia tăng việc cầu nguyện, ăn chay hãm mình và làm việc phúc đức để mong được chết vì đạo.

Quyết định của quan tổng trấn không làm cho các ông hài lòng, các ông lại bàn với nhau: "Nếu quan thượng không cho chúng ta chết vì đạo, thì chúng ta sẽ vào kinh tâu xin nhà vua cho chúng ta chết vì đạo, để sửa lại gương mù gương xấu chúng ta đã làm."

Ông Huy lại bảo các bạn: "Nếu các ông không đi thì tôi đi một mình."

Lúc đó ông Thể cũng nói thêm vào: "Nếu ông đi, tôi cũng đi với ông."

Ðể đi tới quyết định trên các ông đã bàn hỏi với Cha Tuyên. Cha Tuyên hỏi cặn kẽ lý do các ông bỏ đạo, các ông đáp: "Quả thực trong lòng chúng con bỏ đạo chỉ vì thương cha mẹ, anh em, và huynh thứ trong làng. Chúng con tin rằng nếu chúng con không bước qua thập giá, thì quan thượng cũng bắt tất cả phải bước qua thập giá. Nếu họ vì sợ mà ưng thuận, chúng con lại không phải chịu trách nhiệm về tội của họ sao? Chúng con đã sai lầm, và chúng con đã bước qua thập giá. Sau khi quá khóa, chúng con cảm thấy hối hận nên đã xưng đạo lại trước mặt quan tổng trấn. Nhưng chỉ có quan tỉnh biết, còn triều đình và nhà vua thì không hay biết gì cả. Chính vì thế chúng con muốn đến gặp nhà vua, và xưng đạo công khai trước mặt người. Như thế mọi người sẽ biết chúng con bước qua thập giá vì sự yếu đuối của chúng con, chứ không phải vì chúng con muốn nghe lời nhà vua mà chối bỏ đạo."

Sau đó Cha Tuyên viết thư hỏi ý kiến Ðức Cha Marti nói rõ lý do các ông đã bỏ đạo và ý các ông muốn xưng đạo lại tại kinh đô. Trong thư, Cha Tuyên cũng kể cho Ðức Cha Marti biết trong thời gian các ông đang cư ngụ tại nhà người, người cũng được thư của Cha Jimeno (sau này làm giám mục), trong đó có đoạn nói: "Thày vui mừng lắm vì ba ông binh lính đã xưng đạo tại tỉnh, lại nghe cả ba ông toan vào đền vua để xưng đạo cách rõ rệt hơn nữa. Ðược như vậy, thày rất vui mừng, và tin rằng Ðức Chúa Trời sẽ giúp cùng ban sức cho họ được thắng trận, xứng đáng lãnh phần thưởng vô cùng mà Ðức Chúa Trời đã dành cho những kẻ chịu khổ vì đạo."

Cha Tuyên đọc thư này cho cả ba ông nghe và họ nhất định vào đền vua. Ông Huy còn xin sao bản thư đức cha để sau này xem lại. Sau đó ba ông bàn với nhau phải vào kinh như thế nào.

Vấn đề vào kinh cùng một lúc thật là khó, vì chẳng có bao giờ cả ba ông được nghỉ phép. Lúc đó ông Ðạt nói: "Tháng sau, hai ông được nghỉ ở nhà, mà tôi phải ứng vụ tại tỉnh, hai ông cứ đi, tôi ở lại, nhưng anh em thế nào thì tôi thế ấy. Xin anh em cho tên tôi vào đơn, nếu anh em chịu sự khổ nào trong kinh thì tôi cũng mong được chịu khổ như vậy ngoài này."

Cha Tuyên thấy ba ông nhất định đi chịu chết vì đạo thì người khuyên bảo các ông đủ điều và dậy các ông cậy trông ơn Chúa, ăn ở khiêm nhường. Sau khi nghe cha già Tuyên khuyên bảo, ông Huy và ông Thể về nhà từ giã vợ con anh em thân thuộc lần cuối cùng và xin mọi người cầu nguyện cho mình. Hai ông cũng đi xưng tội chịu lễ để dọn mình còn ông Ðạt lên tỉnh thi hành công vụ.

Ðầu tháng 3 năm 1839, tức năm Minh Mệnh thứ 20, hai ông vào kinh. Con cả ông Huy cũng theo cha vào kinh để xem công việc thế nào. Hết 20 ngày mới vào tới kinh đô Huế. Các ông trọ tại nhà một người bổn đạo tên là bà Tam. Ở đây hơn một tháng, hai ông ăn chay cầu nguyện, dọn mình để vào kinh xin chịu tử vì đạo. Các ông đệ đơn và kêu tòa tam pháp. Quan tòa nhận đơn rồi chẳng tra hỏi gì hết. Chờ đợi ít lâu, mà chẳng ai hỏi gì tới việc xưng đạo của hai ông, hai ông lại viết đơn khác gửi tới quan tòa: "Chúng tôi quá khóa tại tỉnh Nam Ðịnh, vì quan Trịnh Quang Khanh ép chúng tôi quá, chẳng phải vì lòng thật muốn bỏ đạo."

Lần đó các quan tòa cũng chẳng xét xử đơn xin của các ông. Ðợi đến một ngày kia, khi vua Minh Mệnh ra ngoài chơi, hai ông sấp mình xuống bên lề đường, mà đệ đơn trên đầu. Một quan lớn cầm đơn đó xem, rồi trình vua. Khi vua Minh Mệnh biết việc liền truyền giam các ông vào ngục, rồi truyền các quan thuộc hình bộ, lễ bộ, và binh bộ hợp lực tra xét và làm mọi cách cho hai ông bỏ đạo. Tuy nhiên dù làm thế nào hai ông vẫn trung kiên. Lúc đó quan Lê Văn Ðức, trước kia là tổng đốc Nam Ðịnh, đã biết các ông gan dạ thế nào nên nói với các ông rằng: "Ðánh đòn chúng bay chỉ mỏi tay mà thôi."

Các quan tòa thấy hai ông can đảm như vậy thì hỏi về ông Ðạt, vì trong đơn có nói tới ông ấy. Hai ông liền thưa với quan: "Anh Ðạt cũng chẳng chịu quá khóa, mà vì mắc trở việc tại tỉnh Nam Ðịnh, nên chẳng đi với chúng tôi được, song anh ấy cũng hợp một ý với chúng tôi. Anh ấy còn dặn rằng, anh em thế nào thì tôi thế ấy."

Các quan trình tâu nhà vua mọi việc, nhà vua lấy làm ngạc nhiên lắm, tuy nhiên vua vẫn hy vọng có thể thay lòng đổi dạ các ông, nên vua lại truyền ba quan lớn hợp lực làm thế nào cho hai ông quá khóa. Nhưng cũng vô ích.

Nhà vua còn truyền các quan đem ra 10 nén vàng, một tượng thánh giá, và một thanh gươm rồi nói: "Mặc ý các ngươi chọn. Nếu bước qua thập giá thì sẽ được thưởng 10 nén vàng, còn nếu không sẽ bị thanh gươm chặt ngang lưng làm hai rồi bỏ xác xuống biển."

Tức thì hai ông xin chịu chết.

Các quan lại trình tâu vua tất cả sự kiện, vua Minh Mệnh rất tức giận, truyền đem hai tờ giấy cho các ông ký tên vào. Một tờ thì chứa đầy những lời xỉ vả mạ báng Chúa và đạo Gia Tô, còn tờ kia là án các ông phải chết như thế nào. Hai ông không chịu ký vào bản thứ nhất, trái lại chấp nhận bị trảm quyết. Lúc đó quan đọc án của nhà vua như sau: "Minh Mệnh nhị thập niên, tháng 5 ngày mồng một, nội các thần Lê Khanh Trình, thần Lâm Ruy Nghĩa vâng lời vua truyền từ tờ các quan tòa tam pháp, thì hai tên lính tỉnh Nam Ðịnh, tên là Phạm Viết Huy và Bùi Ðức Thể cùng khai rằng chúng vốn theo đạo Gia Tô chẳng bỏ, mà năm ngoái có bước qua thập tự tại bản tỉnh, bởi quan tổng đốc tỉnh ấy bức hiếp chứ trong lòng chẳng bao giờ có ý bỏ đạo, nên bây giờ xin cứ giữ đạo như khi trước. Quan tòa tam pháp đã khuyên bảo hai ba lần, song hai tên phạm này cứ một mực chỉ xin chịu chết, cùng quyết chẳng chừa cải, thật là hai tên dại dột mê hoặc. Khi trước ta đã làm án chết cho chúng nó, song ta còn thương hại chẳng muốn giết, chẳng ngờ là lũ phạm ấy đã ra mê cuồng chẳng còn biết lẽ phải, ta đã mở lối cho chúng nó ăn năn, nếu còn có trí khôn thì phải biết mình đã sai lầm mà cải ác hoàn lương, song hai tên phạm này cố chấp theo Gia Tô tà đạo, dám bỏ việc lính mà vào kinh khống đơn, chúng nó thật kiêu ngạo, đáng khinh dể, đáng ghét, không thể để cho sống được nữa. Nên hai tên phạm là Phạm Viết Huy và Bùi Ðức Thể, phải kết án tử, giao cho lính đem ra cửa biển, lấy rìu lớn chặt ngang lưng, rồi bỏ xác xuống biển để cho ai nấy biết rõ điều răn cấm. Còn một tên phạm nữa là Ðịnh Ðạt cũng can án này. Nó có bỏ đạo thật hay không thì phải tra xét kỹ càng và tâu cho minh bạch."

Ngày 2 tháng 5 năm 1839 ta, cũng là 12 tháng 6 năm 1839 dương lịch, ông Huy và ông Thể bị điệu ra cửa bể là cửa Thuận để chịu chết. Trên đường đi đến pháp trường hai ông vui vẻ chào hỏi mọi người khiến dân chúng rất ngạc nhiên. Ðến cửa biển, quan bắt hai ông xuống thuyền rồi chèo ra khỏi đất liền. Lúc này quan còn khuyên hai ông quá khóa vì vẫn còn kịp, nhưng hai ông nhất định không bỏ đạo.Quan tryền tháo gông, rồi trói hai ông vào cột chèo.Hai ông đọc kinh phó linh hồn. Lý hình giơ gươm lên, chặt ngang lưng hai ông như đã ghi trong án. Sau đó chúng chặt đầu rồi bổ làm tư và liệng xác hai ông xuống biển.

Ðược tin hai ông Thể và Huy bị xử tử, ông Ðạt ở nhà thu xếp công việc của nhà. Ông đọc kinh nguyện ngắm để dọn mình chết. Mấy ngày sau, lính hàng đội từ tỉnh xuống báo với ông Ðạt rằng: "Quan lãnh binh và tỉnh sai tôi xuống báo cho anh biết đã có chỉ bộ ra truyền bắt và xử tử anh."

Khi ông Ðạt nghe tin ấy thì vui mừng lắm. Lúc đó vào quãng cuối tháng 6 năm 1839. Ông Ðạt liền đi báo cho anh em và từ giã mọi người. Ông cũng xin mọi người cầu nguyện cho ông. Lúc đó, vợ ông muốn khuyên chồng bỏ ý định chết vì đạo. Bà khóc lóc than vãn, rồi dẫn con gái đến xin ông: "Ông bỏ tôi cùng con bé này sao?"

Ông Ðạt rất cảm động, nhưng ông nói với bà nếu ông quý bà và con gái hơn Chúa thì chẳng xứng đáng với Chúa Giêsu Kitô. Thiên Chúa sẽ lo liệu cho bà và con gái. Sau cùng ông bảo vợ: "Một chốc nữa bà đem con bé sang nhà Nhiêu Quang cho tôi gặp nó một chút nữa."

Rồi ông đi chịu lễ lần sau hết. Khi chịu lễ cùng cám ơn, ông yên ủi vợ con, cùng giã từ anh em, rồi theo lính ra đình làng. Tại đình làng, quan viên làng và nhiều người dân đã tụ họp đông đủ sẵn sàng để từ giã ông. Ông lạy quan viên, xin các ông ấy cầu nguyện cho mình. Lúc bấy giờ cũng có người nói rằng: "Anh Ðạt bỏ vợ con, bỏ quê quán."

Ông thưa lại rằng: "Vợ con và quê nhà tôi để mặc thánh ý Ðức Chúa Trời, tôi xin làng thương tôi cùng vợ con tôi."

Trên đường đi về tỉnh, ông Ðạt chỉ đọc kinh lần hạt chuẩn bị chịu chết. Phần bà vợ ông, vẫn theo ông tới Nam Ðịnh, vừa đi vừa khóc. Ông đuổi bà về và nói với bà: "Nếu bà đến đây mà cứ khóc thì đừng đến thăm tôi nữa."

Tại tỉnh, quan lớn bảo ông Ðạt rằng: "Thằng Huy, thằng Thể đã phải bổ làm tư, rồi bỏ xuống bể cho tôm cá ăn, mày có quá khóa không?"

Ông Ðạt đáp lại: "Hai anh con đã được phúc trọng, xin quan lớn bổ con làm tám. Còn sự quá khóa thì con không chịu."

Quan thượng nghe xong liền truyền đóng gông, rồi giam ông trong ngục. Ðến ngày 18 tháng 7 năm 1839, có lệnh vua truyền xử giảo ông Ðạt. Quan lại khuyên nhủ lần nữa nhưng ông không chịu. Thế là quan truyền viết thẻ: "Tên Ðinh Ðạt thuộc Xuân Tràng phủ, Giao Thủy huyện, Phú Nhai xã, là tên phạm, cố chấp theo Gia Tô tả đạo, nay cũng chẳng chịu bỏ đạo ấy, bất tuân quốc pháp, lập tức đem đi xử giảo."

Viết thẻ xong quan truyền giao ông Ðạt cho quan giám sát đem đi xử giảo. Trên đường đi ông chỉ đọc kinh cầu nguyện. Khi đến nơi xử, đã sẵn có cái chiếu cạp ở đấy, ông Ðạt quỳ trên chiếu vẫn cứ tiếp tục đọc kinh mãi. Một lúc, quan truyền tháo gông, bắt ông nằm xuống chiếu, rồi quân lính buộc dây vào cổ ông. Khi đã sẵn sàng, quan giám sát ra hiệu lệnh. Lý hình kéo dây cho đến khi ông tắt thở.

Làng Phú Nhai lấy xác ông và táng trọng thể tại nhà anh cả ông Ðạt. Sau hài cốt của ngài được táng tại nhà thờ Phú Nhai.

Augustinô Phan Viết Huy cùng Nicôla Bùi Ðức Thể và Ðaminh Ðinh Ðạt được Ðức Giáo Hoàng Lêô XIII phong Chân Phước ngày 27-5-1900. Ðến ngày 19-6-1988 các Ngài được Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn vinh lên bậc Hiển Thánh.

Trường thi tử đạo

Ðaminh Ðạt sinh năm Quý Hợi (1803)
Năm Ất Mão (1795) rửa tội Viết Huy
Còn Bùi Ðức Thể ấy thì
Sinh năm Nhâm Tý (1792) khoái đi lính mà

Từ Lạc Thuỷ trẩy ra Nam Ðịnh
Ba trai làng nhất định tòng quân
Cũng người Công giáo chuyên cần
Khi vào quân ngũ ở gần bên nhau

Ông Tổng Ðốc nghe đâu bị triệu
Về kinh đô báo hiệu Quang Khanh
Tội ông tiêu cực thi hành
Lệnh Vua khiển trách đích danh hạ thần

Ðể chuộc tội ông cần thanh lọc
Trước hàng quân, ông đọc lệnh Vua
Mở ngay chiến dịch quét lùa
Lùng bắt đạo trưởng cho Vua vừa lòng

Tính kế hoạch ngoài trong chuẩn bị
Mời quân nhân tu sĩ tiệc tùng
Binh sĩ Công giáo tập trung
Hoàn thành thanh lọc truy lùng vào dinh

Trong bữa tiệc điều binh ông hứa
Ban thưởng khen những đứa trung thành
Với Hoàng Thượng được nêu danh
Buông lời dọa nạt chấp hành phải tuân

Ngày hôm ấy trọn phần Công giáo
Khoảng năm trăm theo đạo Kitô
Mời vào dinh xét ý đồ
Cho xem hình phạt bước vô thấy liền

Ðầy dụng cụ xích xiềng kìm kẹp
Ðây kỷ cương sắt thép nhà vua
Quyết ra tay chẳng chịu thua
Ai không quá khoá là mua nhục hình

Quá buồn tủi thực tình đau khổ
Gần năm trăm xấu hổ bước qua
Số còn lại thật ít mà
Chỉ năm người dám đứng ra chối từ

Là trụ cột bây giờ cương quyết
Là tôi trung tâm huyết tới cùng
Nhà Vua tăng viện trong vùng
Sai thêm Tướng Ðức binh hùng Thành Nam

Quang Khanh bị cách làm không đạt
Lê Văn Ðức đề bạt lên thay
Ðức Cha Minh xử tử ngay
Và luôn Thầy Chiểu một ngày đầu rơi

Năm chứng nhân đến nơi cho khiếp
Nhưng cả năm đặc biệt hân hoan
Quan tức giận tống nhà giam
Tuần sau tướng Ðức lệnh ban giải tòa

Ông ngon ngọt nói ra dụ dỗ
Không thành công thịnh nộ kéo khiêng
Lê lên tượng Chúa linh thiêng
Roi đòn túi bụi liên miên từng người

Gần tới đích hai người bỏ cuộc
Còn lại ba gân guốc gan lỳ
Một lòng một dạ khắc ghi
Ông Huy, Thể, Ðạt quyết đi tới cùng

Ông Huy trước ung dung vợ nhỏ
Nay trốn về quyết bỏ trình Cha
Xin ngài ban phép giải hoà
Làm xong ông lại xin ra ngồi tù

Ông tướng Ðức doạ hù quỷ kế
Cứ mỗi ngày thân thể trăm roi
Tướng khuyên bỏ đạo đi coi
Ông Huy đạo Chúa sáng soi trần đời

Quan thét lớn Vua người nghiêm cấm
Không đổi thay thưa bẩm lôi thôi
Ông Huy chủng viện học rồi
Chứng minh mạch lạc liên hồi tỏ thông

Quan nhận thấy là ông đuối lý
Cho đóng gông phơi kỹ nắng mưa
Ðông, Nam hai cửa cho đưa
Ba tuần ở đó xin thưa nhục hình

Dọa nạt vợ, gia đình con cái
Cùng thân nhân trai gái bạn bè
Ba ông nhất mực chẳng nghe
Tập trung kỳ mục răn đe đánh đòn

Ngay trước mặt người con trung tín
Bô lão làng thâm tím vì mình
Ðã ngã lòng phạm Thánh Linh
Cả ba bỏ cuộc triều đình mừng reo

Rồi sau đó lòng đau áy náy
Cả ba ông hết thảy hồi tâm
Tìm Cha xưng tội lỗi lầm
Tới dinh Thống Ðốc quyết tâm trình bày

Bẩm quan lớn nơi đây nguyện vọng
Ðạo Chúa Trời tôn trọng trên đời
Chúng tôi quá khóa nghe lời
Mang tiền trả lại đạo Trời tuyên xưng

Quan nổi nóng bừng bừng mắng chửi
Ðuổi khỏi dinh cho gửi trận đòn
Về nhà sống với vợ con
Số tiền hương chức trao tròn thưởng công

Trở về nhà, ba ông cầu nguyện
Vào kinh đô thực hiện đức tin
Hai Cha hội ý kiếm tìm
Lãnh xin hướng dẫn Trái Tim nhân lành

Cha Chính Lân nổi danh đồng ý
Ba anh em quyết chí tâu Vua
Hai anh Huy, Thể đơn đưa
Anh Ðạt công tác nên chưa lên đàng

Cha Tuyên nhắc bảo ban trông cậy
Xin Chúa ban, chớ cậy sức mình
Hai mươi ngày mới tới kinh
Tới Tòa Tam Pháp Triều Ðình sớ tâu

Quan gìm lại có đâu dâng sớ
Tòa Tam Pháp vô cớ làm ngơ
Hai ông dài cổ đợi chờ
Thấy Vua ngự giá tay giơ tấu trình

Thật táo bạo thân mình đồ lính
Chặn kiệu rồng cung kính dâng Vua
Ngài đọc xong truyền bắt lùa
Nhốt ngay vô ngục chẳng thưa bẩm gì

Tâu Ðức Vua quan thì ép buộc (Nội dung của Sớ )
Các chúng thần đạo thuộc Giatô
Tôn thờ Thiên Chúa tung hô
Tấn tra miễn cưỡng, buộc vô tuân hành

Ông tướng Ðức Nam Thành về Huế
Phan Viết Huy, Bùi Thể gan lỳ
Tại sao Ðinh Ðạt chẳng đi
Vì anh bận việc cũng thì đồng tâm

Vua truyền lệnh hai mâm lựa chọn
Nếu bỏ Chúa, lấy trọn mười vàng
Bên kia cây kiếm sáng choang
Hai ông bình tĩnh bước sang khổ hình

Rồi sau đó quân binh án lệnh
Ðưa hai anh ra tận Thuận An
Phanh thây xẻ xác dã man
Ném luôn xuống biển cho đàn cá ăn

Còn anh Ðạt khó khăn Bảy Mẫu
Ông quỳ trên chiếu khấn nguyện cầu
Nằm gục thầm thĩ hồi lâu
Lý hình tròng cổ hai đầu xiết giây

Phúc tử đạo nơi đây phần thưởng
Cả ba ông được hưởng phúc vinh
Thi hài an táng quê mình
Về sau cải táng linh đình Phú Nhai

Năm tử đạo ba ngài Kỷ Hợi (1839)
Bỏ thế gian hưởng lợi Nước Trời
Lệnh phong thánh được ban ra
Mùa thu Canh Tý (1900) quả là xứng danh

Lời bất hủ: Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh Nam Ðịnh nói với ông Ðạt: "Hai bạn của ngươi (tức thánh Thể và Huy) vì cuồng dại không chịu bỏ đạo tà, nên đã bị chém làm tư quăng xuống biển. Còn ngươi, nếu khôn thì chối bỏ thứ đạo đó đi để về với vợ con". Ông Ðạt thẳng thắn đáp: "Tôi đã chịu nhiều cực hình vì đức tin, nay tôi sẵn sàng chịu thêm nhiều hình khổ khác nữa. Hai bạn tôi đã được phúc trọng, quan cứ chém tôi làm tám cũng được".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #70
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.413
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
69. Phanxicô Ðỗ Văn Chiểu (1797-1838)

Phanxicô Ðỗ Văn Chiểu, Sinh năm 1797 tại Trung Lễ, Liên Thủy, Nam Ðịnh, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 25/06/1838 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước thày Phanxicô Đỗ Văn Chiểu ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 26/06.

Lễ vật đẫm máu.

Hình ảnh đáng ghi nhớ nhất trong cuộc tử đạo của thày giảng Phanxicô Chiểu là chiếc thủ cấp đẫm máu của thày, sau khi rời khỏi cổ, đã được Đức cha Minh nhận lấy, kính cẩn dâng lên cao như lễ vật tinh tuyền hiến dâng lên Thiên Chúa. Cả pháp trường đều thinh lặng ngây ngất trong giây phút linh thiêng có một không hai đó, giây phút kết tinh trọn cuộc đời của một người con cái Chúa. Thày Chiểu đã hòa lẫn máu mình với hy tế Đức Giêsu trên đồi Canvê, và giờ đậy hân hoan trở về trong vòng tay ấm êm của Chúa Cha từ ái.

Một tông đồ tràn đầy tâm huyết

Phanxicô Đỗ Văn Chiểu sinh năm 1797 tại làng Trung Lễ, giáo xứ Liên Thủy, Tỉnh Nam Định, thuộc giáo phận Đông Đàng Ngoài. Cậu Chiểu đi tu từ hồi niên thiếu, và được đào tạo thành thày giảng của giáo phận. Trong thời gian bốn năm học thần học, thày Chiểu luôn sống đạo hạnh và có tinh thần kỷ luật cao, nên được các vị hữu trách tín cẩn. Sau đó thày gia nhập dòng ba Đaminh, và trở thành cộng sự viên thân tín của Đức cha Minh.

Bận tâm lớn nhất của thày Chiểu là phần rỗi của mọi người. Lần kia, tại làng Kiên Lao, một người lính đến gặp thày ngỏ ý muốn được giúp xưng tội và rước lễ để thêm can đảm trong cơn bách hại. Thày đã tiếp truyện với anh khá lâu, khuyến khích anh trung thành với đức tin Kitô giáo cho đến chết. Hai người cùng nhau cầu nguyện sốt sắng trước khi chia tay. Lần khác khi nghe tin người em bị bắt vì đạo, thày xin cha Hiển dâng hai thánh lễ cầu cho người em được cam đảm chấp nhận mọi gian khổ để tuyên xưng đức tin.

Cùng chung số phận

Từ năm, 1838 Tổng đốc Nam Định Trịnh Quang Khanh quyết tâm lùng bắt các vị thừa sai để lập công với vua Minh Mạng. Ông đã đem đến cho người Công Giáo Đàng Ngoài muôn điều khổ cực. Thày Chiểu theo Đức cha Henares Minh đến ẩn trốn tại làng Kiên Lao, một giáo xứ lớn tương đối an toàn.

Nhưng ngày 27.05.1838, do sự tố cáo của thày đồ Hy, quan Tổng đốc đã cho lính bao vây làng Kiên Lao. Quân lính bắt được Đức cha Delgado Y, còn Đức cha Henares Minh và thày Chiểu may mắn thoát nạn trong gang tấc, liền trốn ra bờ sông đi thuyền về Hải Dương. Dọc đường đi hai cha con vào trốn tạm tại nhà ông Nghiêm gần họ Hà Quang, xứ Trung Thành, sau qua làng Quần Anh và Xương Điền. Một ngư phủ ngoại giáo nhận cho hai vị trú ngụ và hứa che dấu cẩn thận. Ai ngờ, ngày 09.06.1838, chính người đó đi tố giác với quan, nên hai vị đã bị bắt. Đức cha Henares Minh thì bị lính nhốt trong cũi, còn thày Chiểu, quan bắt mang gông nặng và tống giam vào ngục. Trong ngục, thày tuyên bố : "Tôi sẵn sàng theo Đức cha Minh cho đến chết, sẵn sàng chịu mọi cực khổ như ngài, kể cả cái chết dữ tợn nhất". Hai ngày sau, lính phủ Xuân Trường áp giải cả hai về tỉnh Nam Định.

Khi tới cổng thành Nam Định, mặc dù cổ mang gông nặng, dù bị những ngọn roi tàn bạo, thày Chiểu cố cúi xuống cầm lấy Thánh Giá dưới đất lên hôn kính, rồi chờ cho cũi của Đức cha Minh đi qua, thày mới để Thánh Giá lại như cũ và tiến vào thành.

Cực hình gian nan…

Tại dinh Tổng đốc, các quan tra hỏi thày nhiều lần, lần nào thày cũng tuyên xưng đức tim một cách can đảm, không sợ sệt. Khi các quan bảo thày bước qua Thánh Giá thì sẽ được tha về, còn bất tuân thì sẽ bị xử tử, thày Chiểu trả lời : "Đức Chúa Trời là Chúa thật, là căn nguyên của mọi sự, người ta phải thờ lạy kính mến ngài. Vì thế tôi không giám bước qua Thánh Giá, chắc chắn tôi không làm được điều đó".

Dùng lới khuyên dụ không được, quan sai lính trói tay chân thày vào cọc rồi đánh 30 roi, nhưng thày vẫn không nao núng. Quan truyền cho xích thày và tống giam vào ngục. Sau đó các quan kết án như sau: "Tên Đỗ Văn Chiểu đã đi theo và học với tên Trùm Hai (tức Đức cha Henares Minh). Nó học những điều giả dối. Nó ngoan cố và bất tuân lệnh vua cải tà qui chánh. Mặc dù bị bắt giam, bị tra tấn, nó vẫn nhất mực ngoan cố theo tả đạo Gia Tô. Vậy nay nó đáng phải chịu chảm quyết".

Các quan đệ trình bản án này về kinh đô xin vua phê chuẩn. Trong 15 ngày bị giam, thày Chiểu đã trải qua nhiều thử thách, chịu đòn vọt, chịu đói khát… như thày viết gửi thày Quỳnh ngày 21.06: "Ở trong này tôi phải chịu nhiều cực hính đau đớn, chịu đói khát, không có tiền mua cơm ăn. Tôi nhờ thày gặp các cha xin các ngài giúp đỡ tôi. Thày xin lỗi mọi người giúp tôi nhé. Chắc chắn tôi sẽ được tử đạo, vì nhờ ơn chúa, tôi vẫn trung thành và bề đỗ với người".

Trong khi đó, vua Minh Mạng phê bản án và gửi bản án về tới Nam Định ngày 25.06.1838. ngay trong ngày cuối đời, thày Chiểu còn phải đương đầu với những dụ dỗ của các quan. Quân lính dẫn thày ra công đường, quan đọc bản án và hứa nếu đạp lên Thánh Giá, quan sẽ tha ngay. Thày Chiểu bình tĩnh và mạnh dạn trả lời : "Khi quan lớn nằm nghỉ, quan có bằng lòng để cho người con của quan đạp lên không ? Phương chi Đức Chúa Trời là Chúa trời đất, mọi người phải kính thờ thì làm sao tôi giám bước qua ảnh của người".

Trước lời khẳng khái của thày, quan nổi giận và cho thày là xấc láo. Có ông đòi xử tử ngay, ông khác nói để đến ngày mai vì đã quá muộn, chỉ nên cho lính đánh đòn rồi tống ngục. Thế là quân lính ra tay đánh đập cho đến khi thày ngất lịm với biết bao vết bầm tím trên da thịt, mới khiêng thày ném vào ngục thất.

Giờ phút vinh quang.

Sáng hôm sau 26.06.1838, quân lính dẫn Đức cha Henares Minh tới pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Tuy mang gông ở cổ, kèm thêm hai sợi xích nối từ gông xuống đến chân, thày Chiểu bình tĩnh lê từng bước như xưa Chúa Giêsu vác thập giá lên Núi Sọ. Thấy nhiều tín hữu khóc lóc, thày nói với họ : "Anh chị em về nhà đi, đừng khóc nữa thày trò chúng tôi hôm nay về Quê thật mà".

Tới nơi, lính mở cũi đưa Đức cha ra, và tháo gông cho thày Chiểu. Đức cha Minh xin chém thày Chiểu trước để được thấy tận mắt người con thiêng liêng của mình đã trung thành với Chúa đến giây phút cuối cùng. Viên quan chỉ huy chấp thuận. Thế là thày Chiểu quỳ xuống trước mặt Đức cha và lãnh bí tích giải tội. Xưng tội xong, thày quỳ gối cầu nguyện và kêu tên Chúa Giêsu ba lần. Cũng như thánh Stêphanô xưa, thày Chiểu thưa với Chúa : "Lạy Chúa, con phó linh hồn con trong tay Ngài".

Ngay sau đó, lý hình chém một nhát trúng vào xích nơi cổ thày, họ phải chém thêm ba nhát nữa thì đầu mới lìa khỏi cổ, và linh hồn thày về hưởng phúc Thiên Đàng, thọ 41 tuổi. Lý hình tung thủ cấp thày lên ba lần cho các quan và mọi người thấy rõ. Thế rồi một khung cảnh trào dâng xúc động : Đức cha Minh đã cầm thủ cấp thày Chiểu và kính dâng lên Thiên Chúa như lễ vật hy hiến trước khi Đức cha được phúc tử đạo.

Giáo dân an táng thi thể thày tại nơi pháp trường, về sau di hài cốt về quê Trung Lễ.

Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước thày Phanxicô Đỗ Văn Chiểu ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo

Ðỗ Văn Chiểu sinh năm Ðinh Tỵ(1797)
Tại Trung Lễ Liên Thuỷ Thành Nam
Ði tu thầy vốn thích ham
Ðược phong Thầy giảng việc làm Chúa ban

Ði phụ tá theo đàng Giám mục
Ðức cha Minh tiếp tục giảng rao
Hai Cha con rất tự hào
Chẳng may lính bắt, hồi nào không hay

Phủ Xuân Trường nơi này bị nhốt
Mấy ngày sau giải nốt Thành Nam
Cổ gông mang nặng cũng cam
Roi đòn tàn nhẫn, quất ngang lưng người

Thầy cúi xuống tươi cười hôn ảnh
Chúa Giêsu trên Thánh Giá này
Yêu thương Ngài đã chết thay
Loài người cứu độ, khỏi ngày tối tăm

Quan án bảo bước nhằm Thánh giá
Thầy trả lời ta chả bước qua
Ðây giường Cha Cả Thiên Tòa
Tôi luôn tôn kính, Chúa Cha trên trời

Sai lính trói tơi bời roi đánh
Thầy thản nhiên phản ảnh coi thường
Quan truyền xiềng xích khám đường
Cha con đói khổ, vẫn thường nguyện xin

Bản án đã nghe tin phê chuẩn
Hai Cha con lính dẫn pháp trường
Ðột nhiên hoãn lại dở giương
Thời gian chờ đợi, là đường thêm roi

Thật tàn nhẫn lại còn đói khát
Thêm nhiều lần phản bác với quan
Lời thầy đanh thép vững vàng
Làm quan nổi giận, dã man đòn thù

Thầy bị xỉu ngay khu tòa án
Cho lính khiêng nó đáng tống tù
Mấy hôm lại gọi ra khu
Quan tòa ngồi xử, lại hù dọa khuyên

Thầy nhất định nói liền cương quyết
Tôi sẵn sàng chịu chết đạo trời
Quan giận cho đánh một hơi
Vô cùng man rợ, tơi bời nát thây

Rồi dẫn giải đưa thầy trảm quyết
Cổ mang gông chúng xiết hai xiềng
Kéo lê từng bước triền miên
Quân nhân có đạo, đi bên năm người

Các anh tưởng tới nơi sẽ xử
Ðâu có ngờ quan thử bắt về
Một mình thầy Chiểu kéo lê
Pháp trường đã tới, bốn bề đông tây

Thầy Ðỗ Chiểu tới đây xử trước
Rất hiên ngang mạnh bước dâng mình
Và quỳ xuống trước lý hình
Vung gươm bốn nhát, đầu mình mới rơi

Phúc tử đạo sáng ngời Mậu Tuất (1838)
Một chứng nhân chí rất oai hùng
Kiên gan bền đổ đến cùng
Suy tôn Canh Tý (1900) cả vùng hoan ca

Lời bất hủ: Các quan bảo thầy bước qua Thánh giá, thầy Chiêu trả lời: "Ðức Chúa Trời là Chúa thật, là căn nguyên của mọi sự, người ta phải thờ lạy, kính mến Ngài, vì thế tôi không dám bước qua Thánh Giá, chắc chắn tôi không làm điều đó".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #71
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.413
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
70. Phanxicô Kính (1799-1833)

Phanxicô Kính (Francois Isidore Gagelin), Sinh năm 1799 tại Montperreux, Besancon, Pháp, Linh mục Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Trong, bị xử giảo ngày 17/10/1833 tại Bãi Dâu dưới đời vua Minh Mạng. Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII đã suy tôn ngài lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 17/10.

Mục tử nhân lành.

"Chúng tôi đã từ bỏ gia đình, quê hương và tất cả lợi lộc trần thế, để chỉ truyền giảng Tin Mừng".

Từ chối chức quan do chính vua Minh Mạng trao ban, cha Gagelin Kính chứng tỏ mình chỉ mong thi hành xứ mệnh linh mục cao quý "Loan báo tin mừng cho muôn dân" (Mc 13,10). Lòng nhiệt thành mục tử thúc bách ngài không ngừng đi khắp nơi để ban phát các bí tích. Chính vì yêu thương giáo hữu, ước mong họ được bình an, cha đã tự nguyện hiến mình vì đoàn chiên (Ga. 15,13). Ngài thực là gương mẫu sáng ngời cho các thế hệ.

Túp lều Việt Nam hơn hoàng cung nước Pháp.

Isidôrô Gagelin sinh ngày 10.5.1799, tại Montperreux, giáo phận Besancon, nước Pháp. Cậu Gagelin có ý tưởng theo ơn thiên triệu ngay từ nhỏ, và từng tâm nguyện "Tôi muốn làm linh mục". Lớn lên, sau bốn năm học đại chủng viện giáo phận, năm 1819, thày gia nhập Hội Thừa Sai Paris. Tháng 9.1821, Đức cha Labartette Bình, Giám mục giáo phận Đàng Trong, truyền chức linh mục cho thày Gagelin Kính, khi mới 22 tuổi.

Thời ấy, vua Minh Mạng mới lên ngôi, bầu khí tự do tín ngưỡng do vua cha (Gia Long) để lại chưa phai nhạt. Linh mục Gagelin Kính vừa nhận chức giáo sư chủng viện An Ninh, Quảng Trị, vừa thi hành công tác mục vụ tại vùng lân cận. Cha gửi tâm sự về quê nhà năm 1823: "Những thiếu thốn, những cực nhọc đủ thứ đến với chúng tôi, nhưng tôi dám khẳng định rằng: tôi được hạnh phúc trong túp lều tranh của tôi hơn vua nước Pháp ở trong hoàng cung của ngài".

Dần dần vua Minh Mạng áp dụng chính sách bách hại đạo ngày càng mãnh liệt hơn. Bề trên Thomassin đã phải di tản chủng viện An Ninh và cử cha Kính vào Sài Gòn, là khu vực Tả quân Lê văn Duyệt không áp dụng đường lối bài Công Giáo. Cha thường thực hiện sứ vụ tông đồ nơi các họ đạo vùng Sài Gòn, Bà Rịa, và đào tạo chủng sinh tại Lái Thiêu.

Ngôn sứ Tin Mừng

Năm 1827 cha Kính được vua Minh Mạng triệu về kinh cùng với các giáo sĩ Tây phương khác. Vua lấy cớ cần người dịch sách và làm thông ngôn cho triều đình, nhưng với hậu ý cản ngăn việc truyền giáo.

Nhận được lệnh triệu tập thứ ba, cha Kính mới lên đường về kinh đô. Tại đây, cha gặp hai thừa sai khác là cha Tabert Từ, cũng thuộc Hội Thừa Sai Paris và cha Odôricô Phương, dòng Phanxicô, đã trình diện nhà vua trước ngài.

Để trấn án hoặc để có thể che giấu ác ý, nhà vua đề nghị ban chức quan cho các cha, nhưng các cha từ chối. Cha Kính bày tỏ lập trường trong thư gửi về Pháp :

"Tôi nói dứt khoát với ông quan do vua sai đến ban ân huệ cho chúng tôi. Tôi cho ông biết rõ mục đích chúng tôi sang đây làm gì, và chức linh mục cao trọng hơn chức quan dường nào. tôi cũng nói rõ chúng tôi đã từ bỏ gia đình, quê hương và tất cả những lợi lộc trần gian để chỉ truyền giảng Tin Mừng thì không dễ gì chúng tôi từ bỏ nhiệm vụ này. Tuy nhiên, những công việc nào có thể dung hòa với nhiệm vụ của chúng tôi thì chúng tôi sẵn sàng giúp đỡ nhà vua".

Tả quân Lê Văn Duyệt, người đã tống đạt lệnh vua và khuyên ba giáo sĩ Tây Phương về kinh đô, khi nhận thấy các ngài bị giam lỏng, chính ông đã về triều đình vào tháng 8 năm 1827 để thuyết phục vua Minh Mạng giữ lời hứa. Tuy không muốn, nhà vua buộc lòng phải trả tự do cho ba linh mục.

Ngày 01.6.1828, cha Kính lên đường trở về Đồng Nai, rồi đi thăm viếng các họ đạo tại miền Nam, từ Đồng Nai, Vũng Tàu đến miền Lục Tỉnh, Hà Tiên. Ngài vừa lo hướng dẫn chăm sóc dân Chúa, vừa truyền giảng tin Mừng cho dân tộc Chàm ở Bình Thuận và Campuchia ở Bắc Hà Tiên. Nhưng các sắc dân này tin theo đạo rất ít. Năm 1829, ngài trở về chủng viện Lái Thiêu, được Đức cha Talbert Từ bổ nhiệm làm Bề trên giáo phận và cử ra hoạt động ở miền Trung.

Hiến mình vì đoàn chiên

Cha Bề trên Kính bắt dầu hoạt động mục vụ tại tỉnh Phú Yên, rồi tới Bình Định, Quảng Ngãi (1830). Cha đi bộ từ họ này sang họ khác, dầu xa hay gần, lớn hay nhỏ để giảng dạy, dâng lễ, giải tội và ban phép thêm sức cho các giáo hữu. Tất cả những ai quen biết cha, và làm chứng trong cuộc điều tra phong thánh, đều đồng thanh khen ngợi đức hiền từ, lòng đạo đức, tinh thần khó nghèo khổ hạnh và chính trực trong đời sống của ngài.

Ngày 06.01.1833, vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo gắt gao. Nhiều thân hữu khuyên cha nên tạm hồi hương một thời gian, cha thẳng thắn trả lời : "Một công dân có nhiệm vụ thi hành nghĩa vụ quân sự, huống chi tôi được trao chức vụ lãnh đạo, sao có thể thoái thác trách nhiệm của mình được". Thế là dù thời buổi khó khăn, cha vẫn tiếp tục hăng say trong sứ mệnh, thăm hỏi an ủi giáo dân, giảng đạo và rửa tội nhiều người Thượng ở Bình Định. Được một vị quan thân hữu mật báo sẽ có cuộc truy bắt các linh mục Tây Phương, cha lẩn tránh ít lâu. Nhưng khi thấy nhiều giáo hữu bị bắt bớ, đau lòng trước cảnh đàn chiên tan tác, cha liền viết thư xin phép đức Giám mục cho ngài ra nộp mình, hy vọng nhờ đó giáo hữu khỏi bị bách hại. Đức cha Từ chấp thuận. Thế là ngài đến trình diện với quan tri huyện Bồng Sơn (Bình Định) vào tháng 5.1833, sau đó cha bị giải về kinh đô.

"Tôi muốn thành tro bụi để kết hiệp với Đức Kitô".

Đến Huế ngày 23.8.1833, cha bị giam ở trấn phủ với cha Jaccard Phan, cũng thuộc Hội Thừa Sai Paris và cha Odôricô Phương, dòng Phanxicô, bị bắt ở Cái Nhum. Cha Phương qua đời năm 1834 sau sáu tháng lưu đày ở khu đèo Lao Bảo, ranh giới Ai Lao.

Suốt bẩy tuần lễ bị giam cầm, cha Bề trên Kính không bị thẩm vấn lần nào. vua Minh Mạng đã quá rõ, không thể lay chuyển đức tin can trường của cha.

Kể từ ngày 12.10, quân lính xiềng xích chân tay cha, canh gác nghiêm ngặt hơn và cấm không cho giao tiếp với người khác. Linh mục Jaccard Phan, nhờ có liên hệ với triều đình, báo tin cho cha biết ngày hành quyết sắp đến. Cha Kính liền gửi thư phúc đáp, bày tỏ niềm hân hoan vô tả khi được đổ máu làm chứng cho Chúa. ngài cũng nhờ cha Phan thông báo cho Đức Giám mục, cho các Bề trên Hội Thừa Sai Paris và gia đình. Cha viết tiếp : "Tôi từ giã cõi đời không hề thương tiếc sự gì, chỉ nhìn lên Chúa Giêsu chịu đóng đinh, đủ an ủi tôi về mọi điều đau khổ và cả cái chết nữa. Tất cả ước vọng của tôi là sớm thoát khỏi thân xác tội lỗi này, để kết hợp cùng Chúa Giêsu trong nơi vĩnh phúc. Tôi muốn thành tro bụi để kết hiệp với Chua Giêsu".

Vua Minh Mạng giữ bí mật bản án đến phút chót. Sáng sớm ngày 17.10.1833, một đội lính đến ngục thất, áp giải cha Kính, họ còn nói rằng cha được mời sang ngục khác. Cha hiểu ngay giờ sau hết đã điểm, cha hỏi: "Có phải các ông đưa tôi đi xử tử không ?" Họ đáp: "Thưa phải". Thế là ngài vui vẻ mau mắn cùng đòan hành quyết lên đường. Đến đầu cầu ngăn cách kinh thành với khu ngoại ô Bãi Dâu, bốn người lính đỡ bốn góc chiếc gông nặng nề đè lên cổ vị tử đạo. Các lính khác võ trang gươm giáo đi hai bên, hai quan lớn cưỡi ngựa đi sau, dân chúng đi xem rất đông. Một người lính giơ cao tấm thẻ ghi bản án. Cứ đi khoảng một trăm bước, người lính đó dừng lại, đánh mấy tiếng cồng, rồi đọc bản án như sau:

"Dương nhân Hoài Hóa mang tội truyền giảng đạo Gia Tô tại nhiều tỉnh nước ta, nên phải xử giảo" (Hoài Hóa là chữ Hán do các quan dịch tên cha Gagelin).

Đến pháp trường, vị linh mục bình tĩnh quỳ xuống cầu nguyện, mặc cho quân lính thi hành nhiệm vụ. Họ trói ngài vào chiếc cọc giữa, lấy giây vòng quanh cổ, rồi cuốn hai đầu dây vào hai cọc hai bên. Hiệu lệnh thứ nhất ban ra, tiểu đội quân lính cầm lấy hai dầu dây. Đến hiệu lệnh thứ hai, họ kéo thật mạnh, trong khoảnh khắc, vị chứng nhân Chúa Kitô chút hơi thở cuối cùng.

Một học trò cũ của cha Odôricô và một thày giảng của cha Phan xin phép nhận thi hài thánh tử đạo đem về an táng tại một tư gia ở phủ Cam. Vì nghi ngờ môn đệ Chúa Kitô sống lại sau ba ngày, vua Minh Mạng truyền khai quật mồ vị tử đạo, khám nghiệm kỹ lưỡng, rồi mới yên lòng cho chôn lại. Thế mà vẫn phân vân, vua truyền cho dân làng Phủ Cam trông canh giữ mồ, nếu vị tử đạo sống lại, hay người ta lấy mất thi hài, họ sẽ phải đền mạng. Trong các thư của cha Phan và Đức cha De la Motte Hậu có ghi chép sự việc hy hữu trên.

Năm 1946, thi hài thánh tử đạo Gagelin Kính được đưa về chủng viện Hội Thừa Sai Paris.

Ngày 27.05.1900, Đức Lêo XIII đã suy tôn ngài lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Gagelin Kính thừa sai linh mục
Sinh Kỷ Dậu (1799) quê thực Paris
Từ nhỏ bày tỏ hướng đi
Tu làm linh mục quản gì khó khăn

Mười hai năm phổ thông trung học
Và bốn năm đại học chủng sinh
Thầy về xin phép cha mình
Cho thầy gia nhập gia đình thừa sai

Thầy vốn có cái tài thuyết nói
Năm Kỷ Mão (1819) hội gọi thầy ngay
Việt Nam truyền đạo xứ này
Ðặt tên là Kính từ ngày mới sang

Giúp các cha mở mang xứ đạo
Cùng hội dòng kiến tạo tân trang
Giáo dân trong họ ngoài làng
Mỗi khi cần đến thầy càng chăm lo

Ðức Cha Bình ban cho thầy Kính
Trong dịp này con lãnh chức cao
Linh mục con được ban trao
Từ xưa thầy vẫn ước ao có rày

Vừa nhận chức trao ngay mấy xứ
Cũng xung quanh Thị tứ Ðông Hà
Bên ngoài công việc của cha
Giáo sư Chủng viện thật là giỏi giang

Cuộc bách đạo ngày càng mãnh liệt
Tình thế này Chủng viện bất an
Ðức Cha linh mục họp bàn
Di dời Chủng viện bình an Sài Gòn

Ðến đặc khu cha con tướng Duyệt
Là tả quân ông thiệt từ tâm
Không bắt bớ chẳng giam cầm
Ðể người Công giáo tuỳ tâm kính thờ

Ở Quảng Trị bầy giờ cha Kính
Phải theo vào cha Chính khuyên ngài
Giáo sư vào hạng thiên tài
Lo cho Chủng viện trong ngoài cũng cha

Năm Ðinh Hợi (1827) vua ra lệnh triệu
Cha về kinh danh hiệu chức quan
Công việc dịch sách thông ngôn
Ðây là một cách giam luôn nhân tài

Cha Kính quyết một hai không chịu
Rằng tôi đây chính hiệu thầy tu
Giảng đạo Chúa rỗi thiên thu
Tôi đâu có phải người ngu ham tiền

Sau về được nhờ hiền quân Duyệt
Ông về triều can thiệp cho ra
Sài Gòn hoạt động bao la
Hà Tiên, Lục Tĩnh vào ra Vũng Tàu

Ðức Cha Từ về sau bổ nhiệm
Ðiều cha ra thực hiện miền Trung
Phú Yên, Bình Ðịnh hai vùng
Sau ra Quảng Ngãi cha cùng giảng rao

Ðường xa mấy không sao đi bộ
Cha hết lòng dạy dỗ giáo dân
Rửa tội, thêm sức chuyên cần
Thường cha đi bộ đôi chân không giày

Lệnh cấm đạo mỗi ngày một gắt
Suốt đêm ngày lùng bắt các cha
Ban ngày chẳng dám đi ra
Ðọc kinh, dâng lễ chỉ là ban đêm

Nhiều giáo hữu có tên lùng bắt
Về tội danh dẫn dắt các cha
Ngài viết thư về Tổng Toà
Xin cho được phép ngài ra nộp mình

Ðức Cha Từ thuận tình chấp nhận
Ðến nộp mình địa phận Bồng Sơn
Cha Kính khai rõ họ tên
Quan huyện mừng quá giải liền về kinh

Cha đến Huế vô tình mà gặp
Bốn bạn xưa thân mật đổi trao
Năm vị ai cũng ước ao
Ðến ngày tử đạo trời cao rước về

Ngày xử án cận kề di chuyển
Ðến Bãi Dâu thực hiện lệnh vua
Mấy câu khẩu hiệu tung hô
Dương quân hoài hoáGia-tô tử hình

Năm Quý Tỵ (1833) chứng mình của Chúa
Chịu tử hình tuyên hứa Nước Cha
Canh Tý (1900) Toà Thánh Rôma
Suy tôn Chân phước danh Cha lưu truyền

Lời bất hu: Những người thân khuyên cha hồi hương tạm lánh một thời gian cha thẳng thắn trả lời: "Một công dân có nhiệm vụ thi hành nghĩa vụ quân dịch, huống chi tôi được trao trách nhiệm lãnh đạo, sao có thể thoái thác trách nhiệm của mình được. Chỗ khác Ngài khẳng định: "Tất cả ước vọng của tôi là sớm thoát khỏi thân xác tội lỗi này, để kết hiệp cùng Chúa Giêsu trong nơi vĩnh phúc

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #72
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.413
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
71. Phanxicô Phan(1799-1838)

Phanxicô Phan (Francois Jaccard) , Sinh năm 1799 tại Onnion, Annecy, Pháp, Linh mục Hội Thừa sai Paris, địa phận Ðàng Trong, bị xử giảo ngày 21/09/1838 tại Nhan Biều dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn linh mục Phanxicô Jaccard Phan lên hàng Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 21/09.

Một cuộc sống bi hùng.

Nếu so sánh những cuộc tử đạo như những vở bi hùng kịch thì cuộc tử đạo của thánh Phanxucô Jaccard Phan là một trong những bi hùng kịch hùng tráng nhất : Mười năm tù khi rộng khi ngặt, với hai mươi tháng tù đày gian khổ và ba án tử hình. Giữa những khổ ải đó, nổi bật lên chân dung một người hùng quả cảm. Ngài đã chiến thắng được đói khát và sốt rét, đã trung thành tuyệt đối với chân lý của Tin Mừng là tha thứ và phục vụ kẻ làm hại mình. Gan lì trước nghịch cảnh, từ chối mọi tiện nghi, như nhân xét của Đức cha Cuénot Thể : "con người không còn gì để mất đó, đã luôn tiến về phía trước để chinh phục tha nhân".

Chí khí chàng nông dân

Chào đời ngày 06.09.1799 tại Onion thuộc miền Savoie nước Pháp, trong một gia đình nông dân nghèo, nhưng đạo đức, cậu Phanxicô Jaccard thủơ nhỏ ham chơi hơn là học. Còn gì lý thú bằng chạy nhảy giữa cánh đồng xanh tươi bát ngát. Khi được cha mẹ gởi vào chủng viện Mélan, cậu Jaccard luôn là học sinh "đội sổ" nên đâm ra chán nản và trốn về gia đình. Nhưng sau, nhờ bạn bè và thân nhân khích lệ, đàng khác vì ước muốn làm linh mục, cậu xin trở lại chủng viện, cậu hứa với mọi người sẽ cố gắng tới cùng.

Quả thực Jaccard đã giữ lời hứa. Với sự chuyên cần và nỗ lực, anh hoàn thành chương trình chủng viện Mélan, rồi được lên đại chủng viện giáo phận Chambery năm 1819. Hai năm sau, thày Jaccard xin gia nhập hội Thừa Sai Paris, và thụ phong linh mục ngày 15.03.1823. Liền đó, cha Jaccard được đề cử vào chức vụ giám đốc đại chủng viện. Nhưng cha thẳng thắn trình bày với các Bề Trên : "Con tình nguyện vào đây để truyền giáo phương xa, chớ không phải ở thành phố Paris này".

Thế là ngày 10.07.1823, cha xuống tàu tại cảng Bordeaux giã từ quê hương yêu dấu. Ngày 25.11.1824, tàu của cha cập bến Macao, nhưng mãi tháng 2.1826, vị thừa sai mới đến được giáo phận Đàng Trong. Sau một thời gian học tiếng Việt ở chủng viện An Ninh, cha lấy tên là Phan, hoạt động tại Nhu Lý, Phủ Cam, rồi làm giám đốc chủng viện An Ninh (Quảng Trị).

Tinh thần phục vụ hết mình

Tháng 6.1827, vua Minh Mạng tập trung về Huế ba vị thừa sai : Tabert Từ, Gagelin Kính và Odorico Phương, viện cớ cần người thông ngôn và dịch sách. Ba tháng đầu, cha được đối xử tử tế, có thể làm việc mục vụ cho giáo hữu Huế, nhưng các ngài như bị giam lỏng tãi Cung Quán, lúc nào cũng có lính gác, đi dâu thì có ba lính đi kèm. Đến cuối năm nhờ có Tả quân Lê Văn Duyệt can thiệp với vua, ba vị thừa sai được thả về. Còn riêng cha Phan, tháng 7.1828, quân lính mang trát son, cáng điều đến triệu cha về kinh đô. Ngài ở Cung Quán dịch các tài liệu tiếng Pháp ra tiếng Việt. thấy ở Cung Quán như bị "bó tay buộc chân" không làm việc tông đồ được, cha Phan liền xin vua đến ở họ Dương Sơn cách kinh thành 15 cây số, để vừa giúp các tín hữu vừa dịch sách cho hoàng cung. Giai đọan này cha đã dịch các sách về Napoléon, về việc chinh phục của Anh ở Ấn Độ, về lịch sử Âu, Mỹ, và dạy tiếng Pháp cho nhiều người vua gởi tới. Vua muốn ban chức lộc triều đình, nhưng cha từ chối không nhận.

Được tin vua Minh Mạng sắp mừng lễ Tứ tuần, cha xin phép đứng ra tổ chức tám ngày liên tiếp, cầu nguyện cho Hoàng Đế bằng những nghi thức long trọng. Ngoài các tín hữu, số lương dân đến tham dự đông đảo như ngày hội. Nhiều người nhờ dịp này thêm quý mến đạo, trong đó có một số quan đại thần và bà chị các Đức Vua.

Người "lính" của vua Minh Mạng

Tháng 9.1831, làng Dương Sơn do cha Phan phụ trách bị dân làng Cổ Lão gây chuyện và tố cáo về tội chiếm đất. Đến sau vì không có bằng cớ, họ đổi qua tố cáo về tội theo đạo. Lập tức 73 người bị giam tù, mỗi người lãnh 100 roi đòn, viên phó lý bị lưu đầy, Lý trưởng và cha Phan bị án tử hình. Riêng với cha Phan, vua Minh Mạng tỏ vẻ nhân đạo hơn, đổi từ án xung quân, bắt nhập ngũ trong quân đội hoàng gia, và được điệu về giam lỏng ở Cung Quán để tiếp tục dịch sách vở, thơ từ …

Giai đoạn này cha Phan nhiều lần tiếp xúc với vua Minh Mạng. Chính Vua nhờ cắt nghĩa các tranh ảnh Cựu ước và Tân ước… Vị tông đồ của Chúa liền tranh thủ giải thích cho vua hiểu về giáo lý trong đạo, về Thiên Chúa sáng tạo, linh hồn bất tử và thưởng phạt đời sau. Một lần cha Phan đánh bạo gởi cho vua cuốn giáo lý dành cho người xin học đạo. Đối lại nhà vua sai quan Thượng thư bộ lễ đến bắt cha phải đốt hết các sách tôn giáo đó, nhưng cha cương quyết từ chối. Quan nói: "Tôi tha cho ông, nhưng khi ra trước hội đồng các quan, ông phải nói đã gởi sách và đồ lễ về Tây rồi, và hứa không giảng đạo nữa". Cha đáp: "Thưa quan, quan biết là đạo cấm nói dối, còn việc ngừng giảng đạo, tôi không thể vâng được". Viên quan tiếp: "Vậy ông sẽ bị án xử tử". Cha trả lời: "Tôi đã bị lên án một lần, có lên án lần nữa cũng chẳng sao". Vua Minh Mạng biết chuyện nhưng lờ đi vì thấy chưa đến lúc, chỉ ra lệnh cho người canh gác cha nghiêm ngặt hơn trước.

Người tù lưu đày bất khuất

Tháng giêng năm 1833, sau sắc lệnh cấm đạo toàn quốc, cha Phan có thêm người bạn đồng hàng, cha Odorico Phương dòng Phanxicô mới bị bắt ở Cái Nhum. Mỗi đêm, hai cha âm thầm dâng lễ với nhau ở Cung Quán, đồ lễ giấu ở sàn nhà. Từ đây hai vị sống bên nhau trong một năm rưỡi, cùng chia sẻ ngọt bùi đắng cay, cùng đón nhận người bạn tù đặc biệt, cha Gagelin Kính và hiệp thông với hy lễ tử đạo của ngài. Nhiều tuần lễ liền, mỗi buổi sáng khi thức dậy, hai vị lại giúp nhau chuẩn bị dọn mình lãnh phúc tử đạo, nhưng giờ Chúa chưa đến.

Thời gian này miền Nam có cuộc nổi loạn của Lê Văn Khôi. Vua Minh Mạng nghe đồn các tín hữu tham gia rất đông, nên lo sợ và thảo một lá thư dụ hàng, đưa cho thừa sai ký. Hai cha thức suốt một đêm để viết một lá thư khác kêu gọi các anh em tín hữu. Theo lá thư, việc chống lại triều đình có hại cho đạo, và Tin Mừng không bao giờ chấp nhận việc huynh đệ tương tàn. Thế nhưng số tín hữu theo Lê Văn Khôi thực tế không đông, nên lá thư này không mang lại hiệu quả bao nhiêu.

"Giận cá chém thớt", vua Ming Mạng nổi cơn thịnh nộ, truyền xử tử hai vị giáo sĩ. May có sự can thiệp của Hoàng Thái Hậu Thuận Thiên. Bà không muốc con làm điều thất nhân ác đức, và nhắc con coi chừng nước Pháp trả thù. Thế là bản án được đổi thành lưu đày chung thân tại Lao Bảo (ở biên giới Lào), nơi rừng sâu nước độc. Sau mười ngày trèo non lội suối, ngày 12.12.1833, hai cha đến đất lưu đầy, phải sống trong trại tù có rào chắn và chông nhọn xung quanh. Niềm an ủi lớn lao của hai cha là vẫn được nhiều tín hữu viếng thăm tiếp tế lương thực.

Nhưng chưa được một tháng, Vua thay viên cai ngục khó tính hơn, và nhắn lời dụ dỗ hai vị xuất giáo. Việc dụ dỗ thất bại, viên cai ngục liền chuyển hai cha sang trại cấm cố, cho giam riêng trong một túp lều trật hẹp, bớt phần cơm và cấm tiếp tế. Thêm vào đó, ông còn cho tịch thu toàn bộ sách kinh, giấy viết. Cha Odorico Phương hay nói đùa : "Chúa thấy tôi làm thừa sai vụng về nên cho đổi qua nghề làm bếp. Tôi là đầu bếp, cha Jaccard rửa chén. Nhưng vấn đề là không có gì bỏ vào nồi để nấu thôi".

Ngoài nắm cơm mỗi ngày mỗi nhỏ bớt, hai cha phải đi hái hoa cỏ dại, chuối xanh về luộc với một ít muối để đủ sống qua ngày. Đời sống kham khổ, đói khát và cơn bệnh sốt rét ác tính đã cướp đi sinh mạng của người bạn của cha Phan. Cha Odorico Phương đã từ trần ngày 25.5.1834 sau một tuần liệt giường. Còn lại một mình cha Phan đã sống sót cách tài tình cho tròn hai mươi tháng lưu đầy. Cũng sốt rét, cũng kiết lỵ, nhưng ngài đã khuất phục được chúng. Không những thế, cha tiếp tục làm việc tông đồ trong trại, học tiếng lào để nếu có cơ hội sẽ qua đó truyền giáo. Cha cũng soạn được một cuốn ngữ vựng tiếng Chàm, nhờ sự hỗ trợ của các bạn tù người Chàm.

Vắt chanh bỏ vỏ


Đến tháng 9 năm 1835, vì cần người, vua Minh Mạng đưa cha về giam ở Cam Lộ (Quảng trị) để làm giáo sư. Vua gửi đến sáu thanh niên học tiếng Pháp nhưng cấm không được nói chuyện về đạo. Vua nhờ cha hướng dẫn về địa lý và lịch sử Au Mỹ, giải thích các phong tục, tập quán và luật lệ của họ. Đặc biệt cha giúp Vua tìm hiểu về Châu Au, nhất là luật pháp nước Nhật. Dầu bận rộn vất vả, nhưng cha rất tận tụy với Vua, vì như cha nói: "Tôi muốn chứng tỏ phải dùng điều thiện để thắng điều ác".

Ba năm trời ở Cam Lộ, niềm vui lớn nhất của cha Phan là được dâng lễ trong ngục. Một tấm ván bắc qua hai chiếc ghế làm bàn thờ, cha dâng lễ vào giữa đêm khuya, rồi thu xếp dọn dẹp ngay sau đó. Vì được quan quân kính nể, cha có thể chốn thoát dễ dàng. Chính Đức cha Thể cũng gợi ý điều đó, nhưng cha không thực hiện, vì cha biết quan quân sẽ truy lùng gắt gao. Việc truy lùng đó sẽ làm hại các tín hữu và lỡ ra nhiều người sẽ bị bắt vì mình.

Đầu năm 1838, một biến cố lớn làm thay đổi hoàn cảnh cha Phan. Số là khi triệt hạ chủng viện An Ninh gần Di Loan, cha gíam đốc Candalk Kim chạy thoát nên vùng núi, vua liền trút cơn thịnh nộ lên cha Phan "Kẻ thông đồng với tội nhân qua thư từ". Ngày 07.3 cha bị bắt trói, hỏi cung rồi bị mang gông xiềng áp giải về Quảng Trị.

Đường lên núi sọ

Tại Quảng Trị, quan cho căng nọc vị thừa sai và cho đánh từ 9 giờ đến trưa, nát nhiều chiếc roi, để bắt cha phải bỏ đạo. Cha trả lời : "Đạo của tôi không do Đức Vua, nên tôi không buộc phải bỏ đạo theo ý Vua được". Lần khác, cha bị tra tấn bằng kìm nung đỏ kẹp vào đùi, thịt cháy khét, đau đớn vô cùng, nhưng cha vẫn cương quyết không chối đạo.

Từ 18.7.1838, cha được giam chung với chủng sinh Tôma Thiện. Hai cha con tạ ơn Chúa, và cùng nhau nguyện cầu xin Ngài trợ giúp. Bản án từ Quảng Trị gởi vào kinh đô xin xử trảm, nhưng vua Minh Mạng đổi thành xử giảo và ký ngày 17.9. Sáng ngày 21.9.1838, quan quân dẫn hai cha con ra khỏi trại giam, đến một ngọn đồi ở làng Nhan Biều (Quảng Trị). Tới nơi xử, hai cha con từ chối bữa ăn ân huệ, và quỳ đối diện quay vào nhau cùng cầu nguyện.

Theo ý cha Phan, muốn thấy tận mắt sự trung thành của người môn sinh trẻ tuổi, nên quân lính hành xử chủng sinh Tôma Thiện trước. Sau đó, vòng dây qua cổ vị giáo sĩ rồi kéo mạnh hai đầu, đưa linh hồn ngài về Thiên Quốc.

Bà mẹ của cha Phan khi hay biết, đã reo lên "Thật là tin vui, gia đình ta có một vị tử đạo". Bà nói : "Xin chúc tụng Chúa. tôi vẫn sợ sẽ buồn khổ biết bao, nếu con tôi bị khuất phục trước gian khổ, trước cực hình’.

Thi hài vị tử đạo được chôn cất ngay tại pháp trường, đến năm 1847 được cải táng về chủng viện Thừa Sai Paris. Đức Lêo XIII suy tôn linh mục Phanxicô Jaccard Phan lên hàng Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Phanxicô Jaccard linh mục
Năm Kỷ Mùi (1799) quê thực Paris
Quen nơi đồng cỏ xanh rì
Khi vào trường học ấy thì ham chơi

Ðược cha mẹ gởi nơi chủng viện
Cậu Phan luôn vào diện bét tràng
Ðâm ra chán nản bỏ ngang
Liều mình bỏ trốn, thở than gia đình

Nhờ bạn tốt nhiệt tình khích lệ
Tự riêng muốn để làm Cha
Chức Linh mục mãi thiết tha
Nhập vô chủng viện, hứa là siêng chăm

Cậu nỗ lực một năm thấy rõ
Một thời gian sau đó được thăng
Ðại chủng viện học rất hăng
Thụ phong Linh mục, tiếng tăm lẫy lừng

Hội Thừa sai đón mừng gia nhập
Ði rao truyền thành lập khắp nơi
Tông đồ phục vụ tuyệt vời
Ðược bầu Giám đốc, coi thời chủng sinh

Cha Phan muốn hy sinh truyền giáo
Sang phương Ðông giảng đạo Thừa sai
Xuống tàu vượt biển đường dài
Lâu ngày cập bến, phía ngoài miền Trung

An Ninh chủng viện dùng tiếng Việt
Cha mãi mê học miết hiểu thông
Nha Cam, Nhu Lý hợp đồng
Ngài lên Giám đốc, coi trông điều hành

Nhận trách nhiệm trở thành thông dịch
Tại Triều Ðình rất thích đón Cha
Mười năm thành đạt tài ba
Sau ngài đào tạo, công Cha khá nhiều

Cuộc bách hại sớm chiều ác liệt
Ở Quảng Trị và miệt Quảng Bình
Lệnh tra tấn thật thất kinh
Các khanh phải biết, điều binh truy lùng

Trẫm cho phép được dùng vũ lực
Miễn làm sao truy bứt Giatô
Roi đòn lính đánh tha hồ
Xích xiềng gông cổ, tống vô nhà tù

Vua Minh Mạng dẹp khu thông dịch
Ðã trở nên kình địch Cha Phan
Mời lên tòa trấn hỏi han
Giáo dân trong tỉnh, rõ ràng bao nhiêu

Các đạo trưởng còn nhiều hay hết
Cha trả lời, sống chết mình tôi
Tới đây Cha mệt sức rồi
Các quan xấu hổ, khi ngồi hỏi han

Càng tra tấn, ngài càng can đảm
Dám chắp tay xin cảm ơn Trời
Giúp con chiến thắng tới nơi
Quan quân tức giận, chỉ thời đòn roi

Vẫn thản nhiên, cha coi ơn phúc
Tại pháp trường thủ tục xử cha
Ngài quỳ cầu nguyện thiết tha
Lý hình gươm chém, mạnh đà đầu rơi

Thi hài ngài chôn nơi bãi xử
Sau đưa về bên xứ Paris
Hồng ân tử đạo vinh quy
Nước trời vinh hiển, Chúa thì thưởng công

Phúc tử đạo mùa đông Mậu Tuất (1838)
Vững đức tin chẳng khuất phục vua
Vinh thăng Toà Thánh đúng mùa
Suy tôn Canh Tý (1900) đón đưa Nước Trời

Một lòng son sắt không nao núng
Giữ vững niềm tin trước cực hình
Mạng sống an toàn đâu xá kể
Tiền tài danh vọng dám hy sinh

Ðoạn thơ tứ tuyệt này có sẵn trong tài liệu (21/09/1838 )

Lời bất hủ:Quan dụ dỗ nói dối đã chối đạo, cha trả lời: "Thưa quan, quan biết là đạo cấm nói dối, còn việc ngừng giảng đạo, tôi không thể vâng được". Quan tiếp: "Vậy thì ông sẽ bị án xử tử". Cha trả lời: "Tôi đã bị lên án một lần, có lên án lần nữa cũng chẳng sao". Cha đã giúp vua tìm hiểu Âu châu và nước Nhật.. Cha nói: "Tôi muốn chứng tỏ phải dùng điều thiện để thắng điều dữ".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời

Tags
118 thánh tử đạo việt nam


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 23:15
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,36003 seconds with 15 queries