Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quốc Tử Giám > Luận Văn Đàn
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Luận Văn Đàn Trao đổi & tìm hiểu về văn học.

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 29-08-2006   #1
Ảnh thế thân của tranluan
tranluan
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-07-2006
Bài viết: 2
Điểm: 16
L$B: 6.077
tranluan đang offline
 
Biểu hiện tinh thần khí chất Việt Nam trong sáng tác của Mặc Giang

Trần Luân

Thơ Mặc Giang đề cập nhiều nội dung, trong đó không chỉ là triết lý sắc- không, là hoa lá cỏ cây, nghệ thuật ngôn ngữ, mà chủ yếu còn là một mạch tương thông với mộng cảnh nội tâm thâm sâu của tinh thần, tiết tháo, phẩm chất vốn có của người Việt Nam qua bao thời đại. Tuy nhiên, đôi khi lại trực tiếp viết về tinh thần ấy của của người Việt Nam biểu hiện qua lời nói, hành động; nhưng đôi khi cũng một cách nghệ thuật, biểu hiện chúng bằng cách thông qua miêu tả cái đẹp, cái hồn của vạn vật, thiên nhiên. Thơ Mặc Giang cũng bao gồm những từ ngữ hay đẹp như Trường Sơn, Thái Bình, sông Tiền, sông Hậu, sông Hồng Hà, sông Thu Bồn, sông Gianh, Bến Hải, Bắc Ninh, Thăng Long, Hồ Gươm…. Có thể nói rằng, thơ Mặc Giang là một trong những từ ngữ đẹp của Việt Nam. Nhắc đến thơ Mặc Giang, chúng ta có cảm giác gần gũi, đẹp, thanh thoát và dễ chịu. Chúng ta có thể từ trong nghệ thuật ngôn ngữ, di sản văn hóa và non nước hữu tình để xem thơ ông, thì sẽ thấy thật đặc biệt, cao xa nhưng dung dị; thật bình thường dân dã, nhưng không tầm thường.

Thơ ông mang một tinh thần văn hóa khiêm dung: nông nghiệp lúa nước, lấy đời sống người dân lao khổ làm trung tâm. Ông thường mô tả cái cảnh dân quê lam lũ với ruộng quắn khô cằn, mái tranh nghèo, vườn rau xanh ngát, khói lam chiều phủ kín quê mẹ; xem cả thành thị miền quê đều là trung tâm. Mặc Giang còn đề cập đến những vấn đề như : tôn giáo, sức lực nguyên khí tràn đầy, sắc màu cổ kính, một tinh thần văn hóa vừa kế thừa, vừa sáng tạo. Vậy, thi ca Mặc Giang cuối cùng vẫn liên quan đến những gì thuộc tâm linh, tính chất tâm linh của người Việt Nam, đó chính là văn hóa tinh thần thâm sâu của thơ Mặc Giang.

Vậy, thơ là gì, là sinh mạng của con người. Nó “như mê bỗng giác, như người nô lệ thoát kiếp, như bệnh được lành”. Cho thấy, thơ là tất cả những giá trị băng vượt thời gian. Thơ chính là thức tỉnh lòng người, là cái gì đó rất gần gũi với thế giới tâm linh và bản thân cơ thể vật lý của chúng ta, là từ trong khốn khổ đau thương, phù phiếm hoa lệ, mà thức tỉnh và thấy được chân thân của chính mình.

Có hay không có chân thân, thiết nghĩ, trước nên thêm một bước luận chứng điều này. Như nhân sanh có huyễn thân và hóa thân, cũng vậy, thơ chính là tự ngã của lòng thương có sức mạnh và tự bản thân thơ cũng rất đáng yêu, vì là cái đẹp trực giác. Ngày xưa có hai vị thiền sư, hôm nọ thảo luận một vấn đề, vị thứ nhất nói nhiều đến vấn đề liên quan trời đất vũ trụ. Khi đến lượt vị thứ hai, ông ta bỗng nhiên thấy trong hồ có một đóa hoa sen đã nở, bèn nói : “khi thấy đóa hoa này, rõ biết đời huyễn mộng”. Một ví dụ khác: có một Đại sư đêm nọ ngủ trong một khu rừng. Bấy giờ có một người hái trộm dưa bên rừng, thấy trăng sáng hiện ra, ông ta lập tức ứng khẩu làm bài thơ:“trăng sáng mày chớ ra, đợi ta hái xong dưa, ta đem dưa đi rồi, mạêc tình mày ẩn hiện.”Vị Đại sư nghe rồi nghĩ rằng, ngay đứa trộm cũng biết làm thơ, ta lẽ nào không biết sao? liền ứng khẩu một bài :“ác Ma! mày chớ xuất hiện, đợi ta đoạn phiền não, phiền não đoạn xong rồi, mặc tình mày ẩn hiện.” Sau khi đọc xong bài thơ, Đại sư lặng lẽ đi sâu vào thiền định. Đây cũng là câu chuyện về sự tùy cơ dụng công, là trí huệ, và kết qủa cuối cùng được đánh dấu thông qua trực giác của tâm. Do đây, có thể nói, thơ là biểu hiện của trí tuệ, tầm quan trọng của thơ ca chính là tầm quan trọng của trí tuệ; còn đọc thơ là tiếp xúc với kinh nghiệm cảm tính mới mẻ; đọc nhiều thơ, càng tiếp xúc thư giản với những kinh nghiệm cảm tính càng nhiều hơn, cũng như xem hoa, như nhìn trăng. Do vậy, đọc thơ đọc đến nhập tâm, đột nhiên cảm thấy, dường như người xưa là người trong mộng của chúng ta, chúng ta lại cũng là thân đời trước của người xưa. Đôi lúc thơ là chắt lọc của những hồi tưởng rất ý vị, những nhận thức sâu sắc trong trần thế, những cái nhìn nhạy bén từ góc cạnh thâm sâu trong cuộc sống, nhưng cuối cùng thơ vẫn là những cảm tính luôn mới mẽ, vực dậy từ hố sâu của nhận thức lý tính.

Thơ Mặc Giang là những ý thơ, hồn thơ tiêu biểu đại diện cho sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa hai yếu tố cảm tính và lý tính như vừa nêu trên, nên khi viết về đất nước và con người Việt Nam bằng nhiều hình ảnh và thơ phong khác nhau, thơ ông hoàn toàn đủ tư cách đại diện cho sự tài hoa trong việc lột tả tinh thần, khí chất, cốt cách của người Việt Nam, con người của sự hướng nội với đời sống tâm linh phong phú, của sự kế thừa nền văn hiến mấy ngàn năm, của kiên trung nghĩa khí, cũng là con người của sự hội tụ chọn lọc của những gì thâm sâu, huyền bí, nhưng cũng thực tế nhất, hiện thực nhất.

Vì vậy, nếu khi chúng ta xa quê, mà đọc mấy câu sau trong trong bài Chùa tôi của Mặc Giang, chắc ai cũng ngậm ngùi, như đang đưa hồn mình về với cội nguồn Tiên Tổ :
Chùa tôi nho nhỏ bên làng.
Bên dòng sông quyện, bên hàng thông xanh,
…Chùa tôi cửa lớn cửa sau,
Mỗi lần Hội lớn kéo nhau ra vào,
Lời kinh tiếng mõ thanh tao,
Tiếng chuông ngân vọng rạt rào hồn quê
…Chùa tôi còn có quê tôi,
Quê tôi còn có chùa tôi muôn đời.

Trong quê đã có chùa, và trong chùa cũng vốn có quê. Chùa là là một biểu tượng văn hóa không thể thiếu trong quần thể văn hóa vật chất, tượng trưng văn hóa Việt Nam, là nơi kí thác tâm linh và nỗi niềm thầm kín nhất của đa số người Việt Nam. Hễ nói đến văn hóa Việt Nam, thì hình ảnh ngôi chùa bỗng hiện lên trong tâm hồn sâu lắng của hầu hết người dân quê Việt Nam. Hình ảnh ngôi chùa ăn sâu vào tâm hồn người Việt một cách tự nhiên, không gượng ép, không giáo điều, không quyền thế. Bởi trong dòng máu của mỗi người như đeo mang nó từ lúc cất tiếng chào đời. Do đó, Chùa là một hình ảnh sinh động nhất trong văn hóa tinh thần và văn hóa phi tinh thần của Việt Nam bởi tính thân thiết, hài hòa, thanh đạm, tự nhiên. Chính vì hình ảnh mái Chùa là một giá trị văn hóa quan trọng không thể thiếu trong mạch nguồn văn hóa Việt Nam như thế, nên ngay từ xa xưa, dân tộc ta đã có câu ca dao :
Mai này tôi bỏ quê tôi
Bỏ trăng bỏ gió, chao ôi ! bỏ Chùa

Người ra đi xa xứ xa quê đó đã sớm xác định được rằng, “mái chùa che chở hồn dân tộc”, là “nếp sống muôn đời của Tổ tông”. Nên nếu phải ra đi, bỏ quên tất cả những kỉ niệm đẹp đẽ thanh tao của quê hương, là đã đau lòng lắm rồi, nhưng cũng có thể nguôi dần theo năm tháng. Nhưng Chùa, thì làm sao lại quên, làm sao lại không đau lòng xót ruột, không vấn vương quyến luyến, bịn rịn lúc biệt ly, nên cảm động và than van não nuột: “chao ôi ! bỏ Chùa”. Cho thấy, đời sống tâm linh hay tinh thần của người Việt Nam nói chung ngay từ xa xưa đã gắn liền với “đất vua, Chùa làng, phong cảnh Bụt”, là đời sống tâm linh linh thiêng phong phú nhất, mà hình như hiếm tìm thấy ở một quốc gia nào.

Đời sống tâm linh gắn liền với ngôi Chùa, chính là đời sống đạo đức tinh thần được thiết lập trên những đạo lý căn bản về hoàn thiện nhân cách, trong sạch từ lời nói đến hành động. Vậy, nếp sống tâm linh hay xu hướng hoàn thiện chuẩn mực đạo đức của người Việt Nam xuyên qua hình ảnh hòa vang thân thiện của ngôi Chùa, cho ta thấy thi sĩ Mặc Giang đã xác định và cũng nâng cao tầm mức chiều sâu tâm hồn Việt Nam, tâm hồn biết xúc cảm và rung động sâu xa trước bao nỗi khổ niềm đau của cuộc đời. Đó mới chính là tâm hồn chính thống Việt Nam, là trái tim Việt Nam, là suối nguồn đi về vô biên của tình thương và sự thức tỉnh.

Cũng chính suối nguồn ấy như là“định hướng cho thuyền đời và nảy hoa cho cuộc sống”, để con người Việt Nam mang nó đi khắp trên mọi nẻo quê hương bằng nhiều hình thái không giống nhau. Và đó là mạch nước đầu nguồn để dân tộc Việt Nam cảm thấy mình như đang đi xuôi thuận về miền quê hương tiền bối, nên trong hoàn cảnh chênh vênh nào đó của thời cuộc, khi mà thời gian như vẽ ra vết hằn uất hận nào đó trong chiều dài lịch sử tổ quốc, con người Việt Nam sẽ thốt lên :
Tiếng khóc quê hương tê tỉ ruộng đồng
Tóc mẹ trắng xỏa chiều dài lịch sử
Bàn tay mẹ đưa con về tình tự,
Mái lều tranh ấp ủ những ngọt bùi
( M ặc Giang, cuốn một bờ lau)

Con người Việt Nam là con người của dân tộc thuần hậu, hiểu biết, biết lắng nghe, lắng nghe được những đau thương đã qua hay hiện tại của đất nước, hay những niềm đau thầm lặng tím ruột bầm gan của giang sơn, nghe rõ từng tiếng khóc tê tỉ, nghe tận cùng nỗi niềm của dân tộc. Khi đọc dòng thơ trên, chúng ta sẽ cảm thấy, trong tiếng khóc quê hương, trong nỗi buồn của mẹ, người con được đưa về trong tình cảm ngọt bùi, chính là bối ảnh của mình, lòng bỗng nhiên cảm thấy cảm động và ấm áp khó tả. Cho thấy, vì thơ Mặc Giang đã biểu đạt nhân tính tương thông kim cổ, là dùng kinh nghiệm cảm tính vĩnh viễn mới mẻ để biểu đạt. Vì vậy nên nói rằng, thơ Mặc Giang, một mặt là nhân tính vĩnh hằng, còn mặt kia là sự mới mẻ, là cảm tính vĩnh viễn. Mà nhân tính cổ kim tương thông này chính là niềm mơ ước trong nội tâm thầm kín của văn hóa Việt Nam. Người viết nghĩ, văn hóa Việt Nam của chúng ta, nằm mộng cũng mộng đến chỗ đẹp nhất, sâu sắc nhất, chính là tinh thần nhân tính tương thông cổ kim. Vĩnh viễn của ruộng đồng, của mái nhà tranh, sau lưng nó là thế giới nhân tính vĩnh viễn.

Chính cái nhân tính vĩnh viễn này đã tạo cho con người Việt Nam một hướng đi theo chiều tích cực khác, càng chứng tỏ đất nước Việt Nam là đất nước của những con người làm nên lịch sử. Và làm sao mà con người Việt Nam đã thực hiện được điều đó, chúng ta thử xem Mặc Giang viết : như “Noi chí khí là con đường phía trước. Chớ không trùm mền, nằm đợi phía sau. Băng tang hải đạp biển dâu, Sống hiên ngang, đứng ngẩng đầu”, như “Nhớ Trưng Vương cỡi voi dẹp giặc đất Mê Linh. Nhớ Triệu Trinh ra khơi vỗ sóng cỡi cá kình. Nhớ Đống Đa, tuyệt thế Quang Trung” hay như “tôi mạnh bước ra biên thùy dậy sóng”, rồi “thời tao loạn, nhuộm mình trong khói lửa”. Đất nước Việt nam là đất nước sinh ra những con người bất khuất như thế đó. Con người Việt Nam là anh hùng như thế đó, và sẽ hiên ngang như vậy đó. Đây cũng là khí tiết tự quyết của Trần Quốc Tuấn, dõng dạc dứt khoát của Trần Bình Trọng, quyết đoán của Quang Trung Nguyễn Huệ…. Thời đại nào, Việt Nam cũng sẽ có những con người như thế ấy, sẽ tiếp tục trên con đường đó, nếu cần thì sẵn sàng làm người lính tiên phong, xông pha ngẩng đầu đối diện sống chết như cha ông đã băng mình trên sa trường, mà máu hồng mãi như tắm nhuộm cho non sông thêm gấm lệ kiêu hùng.

Đề cập những tên tuổi vàng son của những anh hùng bất khuất sáng ngời lịch sử, thi nhân Mặc Giang như cảm thấy ấm lòng, ngòi bút như thần tiên chắp cánh, bởi đã thấy trong con người Việt Nam của mấy ngàn năm văn hiến là sức mạnh Phù Đổng vươn mây, là sự tuôn chảy ồ ạt của sông Hồng, là chiều cao của ngọn Ba Vì, và luôn là trong chiều hướng hội tụ đoàn kết nhân tâm của Hội nghị Diên Hồng. Đó cũng là mở đường cho sức mạnh của thời đại Đinh, Lý, Trần, Lê, là thời đại đại diện cho cái nôi tinh thần làm nên chiến thắng vẻ vang sống động sông núi hồn thiêng, biến Việt Nam trở thành tên gọi đất nước của những anh hùng làm nên lịch sử, đất nuớc của sông Hồng xuôi mãi về biển Đông, bồi đắp phù sa cho ruộng đồng cò bay thẳng cánh, là quê hương của muôn đời đi về trong suối mát sực nức hương hoa, để Việt Nam còn mãi là Việt Nam vùng vẫy dọc ngang, đội trời đạp đất vẻ vang giống nòi.

Ngoài ra, đề cập đến tinh anh của tinh thần, mặn mà của nhân cách khí chất con người Việt Nam, Người thơ Mặc Giang còn thường thường nhắc đến biển rộng sông dài, núi cao bình nguyên, cảnh quê nghèo dân dã, đồng ruộng khô cằn. Thơ ông có mấy câu như : “biển dâu xanh ngắt một màu”, như “gom ngàn vạn bóng phù vân, Vén mây trùng điệp tỏa vầng thiều quang”, như “tỏ soi như ánh trăng rằm, ngàn sao lấp lành ngàn năm vẫn còn”, như “đứng trên bèo bọt ba đào. Xô tan dòng nước vẫy chào trùng khơi” và “ Trường Sơn lan tỏa câu thề, Thái Bình loáng bạc, sóng kề nước reo”, đều là những câu thơ nói lên sức mạnh sung mãn ào ạt, sức sống vươn lên cuồn cuộn, hùng hậu, là những đức hạnh, những đức tính thanh cao trong sạch, là tinh thần tiết khí “thà làm cây cỏ xanh ngát bên đường, hơn hoa mỹ thêu thùa bên bờ lau gió bụi”. Sông Thái Bình, núi cao vách lớn, mặt trời, mặt trăng trong thơ Mặc Giang đều chính là cái khí quán thông sanh mạng vũ trụ, là những cái đẹp mạnh mẽ nhưng lại mềm mại dẻo dai bền bĩ kinh trời động đất, hào sảng, tình tiết và hùng tráng. Cũng như câu thơ : “trắng vàng rơi rụng bao màu đã. Vàng bạt Trường Sơn trắng biển Đông”, là sức sống mạnh mẽ, hùng hồn, khí thế. Đây chính là đại biểu thẩm mỹ ý thức của thơ Mặc Giang: cái đẹp của trời đất, hùng vĩ cảnh quan của tự nhiên -----đêm trăng, mây, sóng, ánh thiều quang… một khi cùng xuất hiện trong nhân gian, khiến nhân gian trở thành cái đẹp tồn hằng trong các cái đẹp, chúng là đại tự nhiên của sinh mạng hóa, là khuynh hướng mở ra một chân trời hứa hẹn lên màu.

Tổng quan ý nghĩa của những câu thơ trên, cho thấy thi nhân Mặc Giang đã khẳng định, cốt cách nòi giống Rồng Tiên là cốt cách của những người sống trên thế gian này mà biết thiện đãi chính mình, nếu không thì phụ đời này, luống uổng đời này. Thiện đãi chính mình là thiện đãi quê hương giống nòi, thiện đãi quê hương giống nòi là phụng hiến tâm huyết cho non sông, cho hương hồn liệt vị tiền bối đã không tiếc máu xương của mình, đã nằm xuống cho Việt Nam trời quê thêm xanh ngát ruộng đồng, cho Việt Nam biển Đông thêm ấm gội nắng hồng.

Có một số thơ của Mặc Giang, đọc lên nghe rất bình thường an định, trầm tĩnh, nhưng cũng mang cái đẹp nguyên khí quán thông vũ trụ, có trời có đất, trong cái nhiêu khê chật vật chìm nổi, là cái đẹp thường nhiên. Như “Cây đa còn đứng đầu đình, cành mai trước ngõ nghiêng mình trổ bông”, như “thác róc rách trên đèo heo hốc núi, nước khơi nguồn chìm nổi giữa dòng khe” đều là khí mạch tràn trề không gián đoạn của con người và vũ trụ. Như “đi về thăm hỏi mùa đông, giá băng đâu mất bếp hồng ấm êm. Mùa thu còn ngủ bên thềm, rụng rơi lá úa đâm chồi lá non”, “bếp hồng ấm êm” “đâm chồi lá non”, chẳng phải là cái đẹp trôi chảy tiềm tàng vô biên tế, sinh đôïng không dừng nghỉ của không gian, thời gian, của đất trời, của con người đó sao. Những câu thơ này đều là tiết tấu sinh mạng của thi nhân, tiết tấu sinh mạng cảm thông cả vũ trụ.

Rồi như khi viết về các tỉnh của Việt Nam dấu yêu, Người thơ Mặc Giang có mấy câu như : “đi ra tận cửa Hải Phòng, trùng dương sóng vỗ, Hạ Long tuyệt vời”, “Cam Ranh mây nước xanh lam, Đà lạt mơ mộng suối vàng Cam Ly”, “Sài Gòn nói thiệt nào hơn, viễn Đông hòn ngọc dễ sờn mấy ai”. Mặc Giang cho ta thấy, cái đẹp nổi bật của tỉnh vùng, cũng là cái đẹp tinh khiết, cái đẹp như đã được tôi luyện giồi mài trong truyền thống đậm màu tâm linh của trong tâm hồn con người xứ ấy nói riêng, của người Việt Nam nói chung. Chưa dừng lại ở đây, thi nhân còn đưa chúng ta đi thưởng thức cái đẹp thanh tao như chưa từng vướng lụy của đất trời : “đi vào sợi nắng long lanh, trời xanh loáng bạc rơi nhành thùy dương”. Văn tự ở đây rất dễ hiểu, đơn giản, rất bình thường dung dị, nhưng đọc lên, cho ta có cảm giác thật dễ chịu, thật thông thấu. Mặc Giang còn có một câu thơ nghe rất hay trong hình tượng tư duy, đẹp trong cái đẹp vần vũ hài hòa của đất trời : “suối vắng ven đồi reo róc rách. Đêm thanh gió lộng nhạc thần tiên”, là cái đẹp đặc biệt, mặn mà, đầy nội lực, cái đẹp không biến hoại đổi thay theo ngoại cảnh. Đọc rồi, cho người ta cảm thấy cuộc sống rất đẹp, rất mới mẻ hoạt bát, hoạt lực, có sức mạnh tiềm tàng.

Ngoài ra, còn có một số thơ vừa đọc, ta thấy có chút thương cảm, khiến thương hoa tiếc ngọc, nhưng thực tế nội lực bên trong rất mạnh, rất sung mãn. Như “trăng lặn dòng sông đêm mấy canh”, “tầng không én liệng buồn bay cuối trời”. Vậy thì đó là cái cảnh buồn thâu não ruột, buồn đến ngẩn ngơ đờ đẫn, không thiết gì cảnh sống đang vươn lên đầy sinh lực ? hoàn toàn không phải, mà thực tế sau cảnh này là “lúa đơm bông ngậm sữa ướp tinh anh”, là “như mùi mạ con, mơn mởn xanh non, như bông lúa thơm chờ mùa lúa chín”. Đây đều là những sức sống vươn lên trong sức mạnh của cái đẹp mà sự hoàn thiện tròn đầy đang chờ mong. Ngoài ra, ông cũng có những câu đọc lên nghe một chút âm hưởng giọng điệu u buồn như “tiếng dế kêu nghe ủ dột mùi sương”, “núi vẫn ngủ bên rừng già giá lạnh, rừng vẫn yên bên núi thẳm thâm u”, nhưng thực chất chuyển tải bên trong đó chính là sức mạnh, là cái cảnh huy hoàng ấm áp xán lạn của cảnh vật hòa trong điệu sống tràn đầy sinh khí, hoạt lực vô cùng, mạnh mẽ như vũ bão, mạnh như mạ xanh non chờ lúa mới . Trong tiếng kêu ủ dột của tiếng dế, trong giá lạnh của rừng già và âm u của núi, thì lúa mọc lúa tàn, hoa nở hoa rụng, vốn có bao nhiêu vạn vật mãi mãi sinh trưởng tự nhiên mạnh mẽ như hít thở không khí, không gì có thể ngăn cản nổi. Cũng thế, bao nhiêu âm thanh hình sắc đều sẽ qua đi, nhưng không phải hoại mất, mà là đang chuyển từ dạng thức này sang dạng thức khác mới mẻ hơn, hoàn chỉnh hơn trong quy luật vận động sinh tồn và chuyển hóa. Tâm tính con người Việt Nam, đất nước của những người con máu đỏ da vàng cũng vậy, tuy trong những tiến trình khác nhau trong qúa độ chuyển hướng hoàn thiện hơn trong cuộc sống, đã không ngừng đấu tranh sinh tồn để có một cuộc sống vật chất hoàn thiện và tâm linh trong sáng hơn.

Chỉ có mấy câu thơ, nhưng lại rất thiết thực ích lợi đối với nhân sinh, với đạo lý sinh mạng, có khả năng khai mở một thế giới vô hạn của sự tiến bộ, của tri thức, của tình thương và sự hiểu biết. Thơ Mặc Giang đúng là một tâm linh bất tử. Thơ ông lẽ nào không phải biểu đạt mộng ước của con người trong văn hóa tinh thần Việt Nam đó sao. Thơ Mặc Giang là tinh thần của sáng sớm, là sức mạnh tuổi trẻ, không phải là trà chiều. Trà chiều là hồi vị, phản tỉnh trầm tư nếu không ngừng suy nghĩ vấn đề. Mà sáng sớm là không đề cập vấn đề, không phân tích; sáng sớm leo lên núi cao, là để dành tình cảm cho núi, ngắm biển thời ý tràn ra biển, là trong lành mát mẻ, là tinh thần phấn khích phóng khoáng.

Chính tất cả sức sống dạt dào, hướng sống mạnh mẽ, dứt khoát trên, đã tạo nên cho con người Việt Nam một tâm hồn rộng mở, sẵn sàng chào đón chăm nhận tình đồng loại. Từ sự ít cố chấp, không hẹp hòi ấy, đã hình thành trong lòng sự cởi mở hào phóng, do đó, tâm hồn họ cũng ý vị sâu sắc, rất hay, rất đẹp. Tại ý này, Mặc Giang có mấy câu như : “tay ôm giấc điệp mân mê, vầng trăng nghiêng bóng nằm kê gối đầu”, như “bên hồ bóng nguyệt lung lay, nương làn sóng biếc đưa tay lên ngàn”, “nằm đáy biển gối đầu non, phơi mình dưới nắng tựa hồn đỉnh cao.” Tất cả đều gần như cái khí chất thong dong diễu cợt cùng chiếc bóng thời gian, như là ý thức về giá trị cuối cùng của nhân sinh là gì, đâu là giá trị chân thật giữa dòng đời phù phiếm điên loạn. Đọc mấy câu này, người viết bỗng nhớ đến phong thái của những bậc Hiền Thánh, các vị do sống không kẹt vào ý niệm không gian thời gian, nên thong dong trong giấc ngủ, rồi ngày mai chỉ tựa cửa nhìn trời, và cũng là phong thái :“bẳng quên thân thể chẳng hề vương, lặng lẽ ngồi lâu lạnh cả giường, năm đến trông non không sẵn lịch, nhìn xem cúc nở tiết trùng dương …. Lò hương tàn lụi, mặt trời lên”, là phong cách sống rất Việt Nam, rất thâm thiết với nguồn cội Tiên Rồng. Tuy nhiên, Mặc Giang không phải khẳng định sự thống nhất về phong thái sống giữa hai mẫu người, nhưng ít nhất, thi nhân đã tự khẳng định rằng, trong ngàn vạn người sống trong quay lộn loay hoay như con rối, vẫn luôn xuất hiện những con người siêu thoát ấy, họ tồn tại như một tài liệu sống, và bất kì thời đại nào cũng có. Đó chính là sự hội tụ tinh hoa của tâm hồn con người Việt Nam, đỉnh cao của nội lực tinh thần sung mãn, là phong thái của anh hùng Trần Nhân Tông, một hướng sống đại diện cho tâm hồn trí thức Việt Nam triều Trần: “ở đời vui đạo hãy tùy duyên, đói đến thì ăn, mệt ngủ liền, trong nhà có báu thôi tìm kiếm, thấy cảnh vô tâm hỏi chi thiền.”

Tất cả những tinh thần khí chất trên, đã tạo nên một con người Việt Nam biết vun vén xây đắp tình người như keo sơn, như biển với bờ. Mặc Giang có một số câu : như “Thái Bình ngóng đợi sơn khê, Trường Sơn lan tỏa, vỗ về biển Đông”, như “núi cao gối tựa non sông, sông sâu in bóng, non bồng núi cao” và “ngày mai biển trở về sông, non quay về núi, cội trông về nguồn” nghe như một lời chung thủy sắt son, hay như một sự trở về đoàn viên. Đây phải chăng nói lên tình yêu nước của người lính chiến và mong ngày hoan ca khải hoàn trở về, là tình bạn cảm động thiêng liêng, cùng dìu dắt nhau đi trên cuộc đời, là chung thủy của tình thầy trò, tình Sư đệ, tình quân nhân, tình đồng môn đồng đội, tình chung thủy của vợ chồng, và tình gắn bó với quê hương nòi giống.
Tình chung thủy, tình keo sơn gắn bó trong mọi quan hệ trong cái khí chất trung trinh tiết liệt ấy cố nhiên là niềm tin yêu, hy vọng ở ngày mai, quyết không thể để cho trái sầu chín rụng, cho sự thất vọng lên ngôi. Biểu đạt ý này, người thơ Mặc Giang có mấy câu sau: “ngày tàn gọi bóng chiều rơi, tà dương chưa ngủ trên đồi mênh mông”, hay như “bóng tối thâm u lộ chiếu trăng vàng, màn đêm khép lại cho vầng trăng ló dạng”, hay “đêm về gõ cửa canh thâu, màn đêm e ấp gối đầu bình minh”. Sự đợi chờ hy vọng ở ngày mai, cũng là một trong những cái khí, cái chất quan trọng quý báu của người Việt Nam. Nó là sức mạnh un đúc nên sự chiến thắng, tạo nên cho con người Việt nam cái nhuệ khí mà không gì có thể bào mòn, để cho anh cho em quyết chí hạ thủ công phu đèn sách, chờ ngày gặt hái thành quả, thành bậc anh nhi xây đắp cống hiến cho đời; để cho người lính chiến hùng dũng xông pha ra xa trường; cho người chinh phụ thêm sức sống; cho đất nước bốn mùa mãi xinh tươi trong niềm vui đầy hứa hẹn như màn đêm e ấp gối đầu bình minh, như sự đợi chờ hy vọng của cô Tấm trong chuyện cổ tích.

Sở dĩ tinh thần khí chất của dân tộc Việt Nam được thi nhân Mặc Giang nhận định đánh giá một cách khách quan, thông qua những diễn biến của quá trình lịch sử cũng như phong thái tâm hồn và lối sống, là vì thi nhân đã tiếp thu và xây dựng cho mình sự hiểu biết rằng, do con người Việt Nam trong thầm kín nội tâm, đã xác định sự quan trọng của tổ hợp thân thể tâm lí và vật lí này. Hay nói cụ thể hơn, họ hiểu “con người là cây sậy có tư tưởng”, hay như Đức Lão Tử nói “người là linh hồn của vạn vật”, còn Phật giáo nói “con người là tối thượng” và“hãy tôn trọng tánh linh của mình”. Điều này muốn nói rằng, sinh mạng con người là cái đẹp nhất, quý báu nhất trong khoảng trời đất này mênh mông này. Đây cũng chính là một nhận định quan trọng trong văn hóa Việt Nam thời cổ đại. Do vậy, ông cha ta ngày xưa đã dạy phương cách để hoàn thiện và phát triển nhân tính là: “ngọc nát còn hơn giữ ngói lành”, hay “áo rách có cách người thương”. Và cơ sở để thiết lập sức mạnh xây dựng nhân tính, đó là sự xác định rõ rằng: “dù xây chín đợt phù đồ, không bằng làm phúc cứu cho môït người ”. Nhờ đó, con người mới quý tiếc thân mạng này. Nói tóm gọn, “con người là tối thượng” có mấy nghĩa là: con người là sáng tạo thiện ý của vũ trụ, sanh mạng là cao quý tốt đẹp, không thể hạ thấp và ép chế nó, ý nghĩa con người sống trên đời chính là nét đẹp thiện đãi sinh mạng, nỗ lực phát huy khả năng của mình để không phụ đời này, không luống uổng đời này. Bất luậïn khó khăn đến cỡ nào, cũng không buông lơi. Quan trọng như chiếc bè dùng để sang sông, cũng vậy, duy nhất con người mới là nhịp cầu giữa Thánh hiền và phàm phu trầm luân.

Ít nhiều, con người Việt Nam trong cái nhìn của thi nhân Mặc Giang, là con người của hội tụ đủ ý thức và kiến giải như trên. Do vậy, tinh thần nhân tính của văn hóa Việt Nam được biểu hiện trong thơ Mặc Giang, có thể có kết luận đó là: tinh thần tận khí (mạnh mẽ xốc vác hết mình), tận tài (dốc hết khả năng tài hoa của mình), tận tâm (dốc hết lòng mình để sống phục vụ trọn vẹn cho quốc gia), tận tình (đem chân tâm thiện ý, chính trực mà đãi người ). Nhân sanh cần phải như thế, vĩnh viễn như thế không thôi dứt.

Những câu thơ tứ thơ có liên quan biểu đạt tinh thần, khí chất con người Việt Nam của Mặc Giang, có thể là những sự nhìn nhận, phát biểu ý kiến của cá nhân đối với tiền bối trong nhiều giai đoạn quá khứ; có thể là vừa nhận định và cũng vừa khuyến giải cho thế hệ hiện tại và cho cả mai sau. Thế nhưng, thi nhân cũng như chỉ làm một việc đơn giản, là:
Tôi vẽ một người Việt Nam, máu đỏ da vàng
Tôi vẽ một Nước Việt Nam, gấm vóc ba miền
Tôi vẽ một Nước Việt Nam, sông núi hồn thiêng
Trao từng thế hệ ngàn sau gìn giữ
Lội ngược thời gian theo dòng lịch sử
Của giống Rồng Tiên tình tự xưa nay
Và truyền lưu đến tận ngày mai
Cho rạng rỡ oai linh nước Việt.
(Mặc Giang, ta còn Việt Nam sông núi hồn thiêng)
Đây như là một bài hùng ca cô đọng sau cùng, mà mỗi câu đã bao hàm xác định, phân tích, giải thích, chứng minh và ngợi ca về con người, về đất nước của mấy ngàn năm văn vật.

Tinh thần sinh mạng tích cực, tiến thủ mạnh mẽ, hướng thượng của thơ mặc Giang không phải chỉ là chất liệu khai phóng thời đại, mà còn là tinh thần rất Việt Nam, rất dân tộc, rất tự hào, rất nghĩa khí, nó rất cần thiết để xây dựng sức mạnh cả tâm linh cho một đơn vị, một tập thể, một cộng đồng, và xa hơn nữa là cho đến một quốc gia.
Ngày nay đang sống trong trào lưu vật chất, trong đắm chìm của cám dỗ cảm giác, thì những khủng hoảng đạo đức nhân tính của con người nói chung luôn là niềm đau nhức thấu tâm can của những kẻ sĩ, của đấng quân tử trượng phu nói chung và người thơ Mặc Giang nói riêng. Cho nên việc làm, ngôn từ và tứ thơ của họ không những chỉ là sự xác quyết nhận định đầy tự hào kiêu hảnh, đồng thời cũng chính là những nhiệt huyết với tinh thần dân tộc, tinh thần của tính tự quyết tự thiện với những ý thức cao độ. Do đó có thể nói rằng, giờ là bối cảnh phù hợp nhất, là hoàn cảnh cấp thiết nhất để đọc thơ Mặc Giang, nhằm cải tạo nhân tâm, vun bồi đạo nghĩa, củng cố tình người. Nhờ chúng ta là những người mang trong mình dòng máu tiên tổ cha ông với cốt cách và nghĩa khí kiên trinh, nên cho dù hoàn cảnh hay thời đại nào, các bậc trượng phu quân tử cũng hy vọng rằng, người Việt Nam chúng ta sẽ mãi là con người của tình thương, lý trí, nghị lực, không khuất phục biến thái dưới bất kỳ danh nghĩa nào, để lịch sử Việt Nam mãi chói sáng, để tinh thần khí chất, tiết liệt của người Việt Nam mãi mãi là những giá trị xuyên vượt thời gian.  



   
File gửi kèm
Loại File: doc khi chat 8.29.doc (72,5 KB, Đã tải về 2 lần)

Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 04:21
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,08623 seconds with 16 queries