Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quốc Tử Giám > Ngôn Ngữ Học
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Ngôn Ngữ Học Học hỏi và bàn luận về ngôn ngữ.

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 05-03-2008   #1
Ảnh thế thân của codonlukhach
codonlukhach
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 25-02-2008
Bài viết: 271
Điểm: 13
L$B: 1.732
codonlukhach đang offline
 
Nếu tại hạ nhớ không lầm thì đây là bài thất ngôn bát cú như sau- khuyết danh nên có nhiều dị bản.

Tai nghe gà gáy tẻ tè te
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè
Non một chồng cao von vót vót
Hoa năm sắc nở loẻ loè loe
Chim, tình bầu bạn kia kìa kỉa
Ong, nghĩa vua tôi nhé nhẻ nhè
Danh lợi mặc người ti tí tỉ
Ngủ trưa chưa dậy khỏe khoè khoe.


Chữ ký của codonlukhach
Lại vẽ chuyện !!!!

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 06-03-2008   #2
Ảnh thế thân của HDtournesol
HDtournesol
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 28-01-2008
Bài viết: 8
Điểm: 1
L$B: 2.496
HDtournesol đang offline
 
Thanks các huynh tham khão vui vui hay hay .

"Văng vẳng tai nghe tiếng khóc gì ?
Thương chồng nên khóc tỉ tì ti. "

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 15-04-2008   #3
Ảnh thế thân của TC NGUYỄN
TC NGUYỄN
-=[ Tổng Binh Đầu Lĩnh ]=-
Gia nhập: 13-02-2006
Bài viết: 1.587
Điểm: 1621
L$B: 243.523.393
Tâm trạng:
TC NGUYỄN đang offline
 
Thi sĩ & Ngôn ngữ...

Ngôn ngữ và nhà thơ

A.-Ngôn ngữ & Ngôn từ :
I.- Nhận diện:
1.1- Ngôn ngữ:
Ngôn ngữ(language) theo đinh nghĩa thống nhất của các nhà ngôn ngữ học trên thế giới : “ Ngôn ngữ là một hệ thống tín hiệu, khẩu ngữ , võ đoán dùng trong các hoạt động giao tiếp của con người “, theo định nghĩa này thì ngôn ngữ là lời nói, và cũng vì tính bắt buộc chấp nhận tạo thành thói quen cho nên mỗi dân tộc đều cho tiếng nước mình là hay nhất thế giới…
2.2- Ngôn từ:
Lời nói đi trước chữ viết đi sau, cứ nhìn ở trẻ con bao giờ học nói rồi mới học đọc, học viết, chính là ngôn từ = chữ viết (language verbal).

Trong những bài viết sau đây, xin được phân rõ ngôn ngữ = lời nóingôn từ = chữ viết để khỏi ngộ nhận qua lại…

B.-Thi sĩ/ Ngôn-ngữ-từ:

...Khi là thơ thì khốn nỗi nó không đơn thuần thốt ra như tiếng nói là hiểu được, mà là bằng vào sự cảm nhận của cõi
lòng(hồn )… vì vậy nhiều bài thơ có chữ mà không có thơ hay ngược lại, chữ đó thơ đó và nhiều khi không cần chữ nghĩa gì vẫn có thơ, cho nên thơ phải là sự sáng tạo cộng hưởng vượt trên ngôn-ngữ-từ…

Với tiếng lòng thổn thức, Lưu Trọng Lư viết:
Tiếng Thu

Em không nghe mùa thu
Dưới trăng mờ thổn thức?
Em không nghe rạo rực
Hình ảnh kẻ chinh phu
Trong lòng người cô phụ ?
Em không nghe rừng thu,
Lá thu kêu xào xạc,
Con nai vàng ngơ ngác
Đạp trên lá vàng khô ?

Thì sự cảm nhận của người thưởng ngoạn bị chi ra nhiều hướng… chắc chắn là khác với cảm nhận nguyên ủy của nhà thơ, mỗi người đọc qua đều vẽ cho mình một tâm cảnh khác nhau về sự thổn thức, rạo rực, xào xạc. ngơ ngác… mà đối cảnh là người chinh phu, cô phụ, con nai vàng…, hầu như len lỏi vào hồn người một cách tự nguyện bỏ qua tính võ đoán thời thường của ngôn-ngữ-từ…

Việc vật chấc hoá tiếng lòng phô bày ra trang giấy là một việc làm có sắp xếp được dấu kín trong tiềm thức, nó bật ra trong ngẫu nhiên tạo ra cái thú du dương, vần điệu để được nghe cái thú mình nói cho mình nghe, rồi rung đùi nghêu ngao nốc chén quỳnh say !…

...Đã làm thơ, ai mà chẳng có lúc chập chờn, mộng mị…giữa cái không và có đi về giữa những con chữ nhảy múa với gió trăng một thời đã làm cho Giả Đảo, Lý Bạch…, trong thơ tạo đầy mới lạ cho những ngôn-ngữ-từ không bao giờ sáo rỗng mòn xoi…, mà con người khi đọc đến đều có cảm xúc, bâng khuâng tự nguyện…

Từ những suy nghiệm, ta thấy được tính tự do phóng khoáng của thơ, và tính tự nguyện đầy sáng tạo mà người thơ khi bị bắt buộc thì tự nó hết thơ, mà vũ trụ thì mênh mông mà thơ là Thượng Đế trong cái khôn cùng ấy làm sao ai chắn được nẻo thu sang!


Chữ ký của TC NGUYỄN
TC- N.

Tài sản của TC NGUYỄN
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 15-04-2008   #4
Ảnh thế thân của nhock bom
nhock bom
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 05-03-2008
Bài viết: 36
Điểm: 1
L$B: 3.777
nhock bom đang offline
 
híc sao các hunh đệ am hiểu nhìu điều thế đệ học văn khá mà chẳng biết j

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 16-04-2008   #5
Ảnh thế thân của TC NGUYỄN
TC NGUYỄN
-=[ Tổng Binh Đầu Lĩnh ]=-
Gia nhập: 13-02-2006
Bài viết: 1.587
Điểm: 1621
L$B: 243.523.393
Tâm trạng:
TC NGUYỄN đang offline
 
Thi sĩ & Ngôn ngữ...

.
Ngôn ngữ và nhà thơ
...
C.- Thi sĩ/ Tu từ

Vì thơ là sự mường tượng giống như đứa bé vòi vĩnh đòi mẹ thiên nhiên(Nature Mother) khi lớn lên bị thả lơi trong cuộc đời quá ngỡ ngàng hụt hẫng những gì mình bị mất mà tuổi thơ không đợi chờ thả lỏng vòng tay phụ mẫu, cố đòi lại thì bị đẩy xa hơn…, để bù đắp khoảng trống chơ vơ ấy thi nhân vay mượn cái ngây ngô của trẻ thơ dẫn tìm một sự nhận diện cái tôi thừa mứa hiện hữu bằng vào một thứ ngôn-ngữ-từ lạ lùng vượt lên “ ý tại ngôn ngoại”…

Không dễ dàng gì vì ngôn ngữ thì giới hạn, mà hồn thơ thì lai láng, muốn giữ được một chút hương thừa cũng phải cật lực lắm, nhà thơ phải vận dụng trong cái ngây ngô nhất của chữ nghĩa bấu víu vào đấy để trang trải bằng cách gợi lên những âm thanh tiết điệu mà phần vật chất của ngôn-ngữ-từ chỉ có thể hiện qua sự khéo biện giải bằng cách tu từ làm bộc lộ sự đa dạng của thơ…, tạo riêng một thứ ngôn ngữ bí hiểm nội tại đưa đẩy tha hóa quay về nguồn cội, vô thủy vô chung…

Mây hờ không phủ đồi cao nữa
Vì cả trời xuân tắm nắng tươi...
Hơi nắng dịu dàng đầy nũng nịu
Sau rào khẽ liếm cặp môi tươi...

Môi tươi thiếu nữ vừa trang điểm
Nắng mới âm thầm ước kết hôn
Đưa má hồng đào cho nắng nhuộm
Tình thay! Một vẻ ngọt và ngon...

(Nắng tươi- HMT)


Ta thấy trong tám câu thơ, Hàn Mạc Tử “ đã vẽ ra từ tâm ảnh một " nắng tươi" thật lạ lùng:
Nắng tươi...
---.> tắm trời xuân
---.> nũng nịu
---.> khẽ liếm môi
---.> ước kết hôn
---> nhuộm má/ngọt/ngon…
Tội nghiệp cho nắng- nắng si dại, nắng ngây ngô, nắng con nít…-, rõ bí mật… nếu ta cố tìm cách giải mã thì nó trở thành vô nghĩa, thơ nâng cấp bằng tu từ, nhà thơ không thể chịu im lì mà phải cố bới tìm những ngữ nghĩa áp đặt của người xưa để lại, vốn liếng giới hạn ấy làm nhà thơ lúng túng vây đặc phải bung ra bằng võ đoán của mình tạo một thứ phương ngữ mang dấu ấn di dịch để biểu đạt một vấn đề thuộc thể hồn mà ngôn ngữ thời thường không phơi bày được.

Như vậy khi nhà thơ nhặt tiếng nói thói tục đặt cạnh nhau tạo thành cái nhìn lạ lẫm- như cách nhìn nắng của HMT-, thì đó là ngôn từ thơ hiện ra khi anh ta viết bằng một thứ ngôn ngữ khác đè lên tiếng nói cộng đồng có sẵn, làm cho bản ngữ trở thành cái bóng mờ ở hậu cảnh và chẳng khác nào chính nhà thơ đã phá vỡ tính võ đoán của thứ ngôn ngữ thời thường, trở nên tùy tiện để có được một thứ ngôn từ mới cho thơ trong cách kết hợp đầy siêu hình qua lại giữa các từ với nhau tạo thành tiết điệu, âm hưởng…đó là tiếng thơ- làm cho hạnh phúc, giàu có, phong phù vô giá cho thành tựu của kẻ tu từ(thi sĩ) là đây!


Chữ ký của TC NGUYỄN
TC- N.

Tài sản của TC NGUYỄN
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 22-04-2008   #6
Ảnh thế thân của TC NGUYỄN
TC NGUYỄN
-=[ Tổng Binh Đầu Lĩnh ]=-
Gia nhập: 13-02-2006
Bài viết: 1.587
Điểm: 1621
L$B: 243.523.393
Tâm trạng:
TC NGUYỄN đang offline
 
.
Ngôn ngữ và nhà thơ
...
D-. Thi sĩ/ vàThơ

Như ta đã thấy, thơ là sự cưỡng chế ngôn-ngữ-từ một cách tùy tiện của người tạo thơ- thi sĩ - cho nên không có một định nghĩa chung cho thơ, vì một định nghĩa thuyết phục không thể mang tính áp đặt, nên mỗi bài thơ chính là một định nghĩa cho thơ, cho ta một cái nhìn soi rọi xuyên thấu Thượng-đế khi làm thơ, mà khi viết văn xuôi ta không bắt gặp “Văn xuôi thuộc phía Con người, Thơ ca thuộc phe Thượng đế”(J-P.Sartre)…nói lên việc sáng tạo ngôn-ngữ-từ của nhà thơ được tôn vinh ngang hàng với sự sáng tạo của chúa…

Như vậy ngữ pháp của thơ có một kiểu cách(stype) riêng kinh qua sự trải nghiệm về khía cạnh nhìn phân vân, âm và nghĩa trở nên hỗn mị tạo nên một chức năng thẩm mỹ càng nhìn…càng chiêm nghiệm… càng đẩy xa, “Thơ là ngôn ngữ trong chức năng thẩm mỹ của nó” (Jacobson).

Thi pháp và thẩm mỹ thơ thay đổi theo từng thời đại, nhưng thơ bao giờ cũng là tiếng lòng trân trọng của con người vì khi tạo thơ mục đích chính là tiếng lòng thủ thỉ ve vuốt cho chính “mình nói mình nghe” và khi được dẫn truyền ra bên ngoài người thưởng ngoạn- cũng nòi đồng điệu- thì cái thẩm mỹ đã vuột khỏi tầm tay người tạo thơ…và cứ thế loan truyền tạo nên ngôn-từ thơ…

Đúng như J-P. Sartre nói: “…Thơ ca thuộc phe Thượng đế”, vì trong thơ mang hồn dân tộc bằng vào ngôn từ thơ làm hiện ra trong sự đa diện toàn thể của nhân loại trong cái đại đồng chung cho dù có nhiều ngôn ngữ cách chia( miễn là thông hiểu) khi đọc đến ta đều cảm nhận được “ tiếng lòng” qua cấu trúc ngôn từ đều để lại một ấn dấu triết lý nhân sinh sâu xa đẹp đầy dẫy tu từ ảo diệu mới lạ chảy vào mỗi một dòng thơ đi vào ký ức âm vang trong lòng người ...


Chữ ký của TC NGUYỄN
TC- N.

Tài sản của TC NGUYỄN
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 02-09-2008   #7
Ảnh thế thân của Dương Nghiệp
Dương Nghiệp
-=[ Tổng Binh Đầu Lĩnh ]=-
Tứ vọng vân sơn...
Gia nhập: 23-08-2008
Bài viết: 1.091
Điểm: 651
L$B: 6.340
Tâm trạng:
Dương Nghiệp đang offline
 
Xin góp một bài nào

Khái quát về hệ thống ngữ âm của 3 vùng phương ngữ

Hiện nay, chuẩn ngữ âm chưa được chính thức quy định. Nếu ta lấy hệ thống âm vị tiếng Việt được phản ánh qua chính tả làm chuẩn để khảo sát sự khác nhau của 3 phương ngữ nói trên thì có thể nêu lên những đặc trưng ngữ âm chủ yếu như sau:
1. Những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Bắc
1.1. Hệ thống thanh điệu
- Số lượng: 6 thanh.

- Khu biệt: đối lập từng đôi một về âm vực và âm điệu.

1.2. Hệ thống phụ âm đầu
- Số lượng: 20 âm vị.

- Trong số 20 âm vị trên, không có những phụ âm ghi trong chính tả là s, r, gi, tr. Tức là không phân biệt giữa: s/x, r/d/gi, tr/ch.

1.3. Hệ thống âm cuối
- Số lượng: Có đủ các âm cuối ghi trong chính tả.

- Có 3 cặp âm cuối nằm trong thế phân bố bổ sung là:

+ [-nh, -ch] đứng sau nguyên âm dòng trước: /i, e, ê/;

+ [-ng, -k] đứng sau nguyên âm dòng giữa (hàng sau không tròn môi – theo cách gọi của GS. Đoàn Thiện Thuật): /ư, ơ, â, a/.

+ [-ngm, kp] đứng sau nguyên âm dòng sau tròn môi: /u, ô, o/.

Trong chính tả, đôi phụ âm thứ 3 này không được thể hiện phân biệt với đôi phụ âm thứ 2, mặc dù chúng được phát âm khác nhau (cặp thứ 2 là các âm cuối mở, còn cặp thứ 3 lại là các âm cuối ngậm môi).

1.4. Phương ngữ Bắc lại có thể được chia thành 3 vùng nhỏ hơn:
- Phương ngữ vòng cung biên giới phía Bắc nước ta.

Phần lớn người Việt ở khu vực này đều mới đến từ các tỉnh đồng bằng có mật độ cao như Thái Bình, Hà Nam Ninh (cũ). Do quá trình cộng cư xảy ra gần đây nên phương ngữ này phát triển theo hướng thống nhất với ngôn ngữ văn học, mang những nét khái quá chung của phương ngữ Bắc, và không chia manh mún thành nhiều thổ ngữ làng xã như phương ngữ Bắc ở các vùng đồng bằng – cái nôi của người Việt cổ.

- Phương ngữ vùng Hà Nội và các tỉnh xung quanh (Hà Bắc (Bắc Ninh, Bắc Giang), Vĩnh Phú (Vĩnh Phúc, Phú Thọ), Hà Sơn Bình (Hà Tây, Hoà Bình), Hải Hưng (Hải Dương, Hưng Yên), Hải Phòng)

Đây là vùng mang những đặc trưng tiêu biểu của phương ngữ Bắc.

- Phương ngữ miền hạ lưu sông Hồng và ven biển (Thái Bình, Hà Nam Ninh, Quảng Ninh).

Vùng này còn lưu giữ lại cách phát âm khu biệt d với gi,r ; s với x; tr với ch mà các phương ngữ Bắc khác không phân biệt nữa.

2. Những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Trung
2.1. Hệ thống thanh điệu
Gồm 5 thanh điệu, khác với hệ thống thanh điệu phương ngữ Bắc cả về số lượng lẫn chất lượng.

2.2. Hệ thống phụ âm đầu
- Số lượng: 23 phụ âm.

- Trong số 23 phụ âm trên, hơn phương ngữ Bắc 3 phụ âm uốn lưỡi /ş, z, / (chữ quốc ngữ ghi bằng s, r, tr). Trong nhiều thổ ngữ có 2 phụ âm bật hơi [ph, kh] (giống như chữ viết đã ghi lại) thay cho 2 phụ âm xát /f, χ/ trong phương ngữ Bắc.

2.3. Hệ thống âm cuối
Phụ âm /-ŋ, -k/ có thể kết hợp được với nguyên âm ở cả 3 hàng. Tuy vậy, trong những từ chính trị-xã hội mới xuất hiện gần đây vẫn có các cặp âm cuối [-nh, ch] và [-ngm, kp]

2.4. Phương ngữ Trung cũng có thể chia thành 3 phương ngữ nhỏ hơn
Cơ sở của sự phân chia này là sự khác nhau về thành điệu giữa 3 khu vực.

- Phương ngữ Thanh Hoá

+ Lẫn lộn thanh hỏi với thanh ngã (phát âm không phân biệt).

+ Các thanh còn lại giống với phương ngữ Bắc.

- Phương ngữ vùng Nghệ Tĩnh

+ Không phân biệt thanh ngã với thanh nặng.

+ Cả 5 thanh tạo thành một hệ thống thanh điệu khác với phương ngữ Bắc do có độ trầm lớn hơn.

- Phương ngữ vùng Bình Trị Thiên

+ Không phân biệt thanh hỏi và thanh ngã.

+ Về mặt điệu tính lại giống với thanh điệu Nghệ Tĩnh. Riêng vùng Thừa Thiên-Huế có hệ thống vần và âm cuối giống phương ngữ Nam. Điều này có nguồn gốc lịch sử -xã hội. Vì vậy, do sự pha trộn phương ngữ Trung và phương ngữ Nam trong pưhơng ngữ Thừa Thiên-Huế, nên nó không tiêu biểu cho cả vùng. Tiêu biểu cho phương ngữ Trung là dải phương ngữ từ Nghệ Tĩnh đến sông Bến Hải.

3. Những đặc điểm ngữ âm của phương ngữ Nam
3.1. Hệ thống thanh điệu
- Số lượng: 5 thanh.

- Thanh ngã với thanh hỏi trùng làm một.

- Xét về mặt điệu tính thì đây là một hệ thống khác với phương ngữ Trung và phương ngữ Bắc.

3.2. Hệ thống phụ âm đầu
- Số lượng: 23 phụ âm.

- Có các phụ âm uốn lưỡi /ş, z, / (chữ viết ghi là s, r, tr). Ở Nam Bộ, có thể phát âm rung lưỡi [r]. So với các phương ngữ khác, phương ngữ Nam thiếu phụ âm /v/, nhưng lại có thêm âm [w] bù lại; không có âm /z/ và được thay thế bằng âm [j].

3.3. Âm đệm /-w-/ đang biến mất dần trong phương ngữ Nam.
3.4. Phương ngữ Nam cũng mất đi nhiều vần so với phương ngữ Bắc và phương ngữ Trung. Và nó cũng thiếu cặp âm cuối /-ŋ, k/. Trong khi đó, cặp âm cuối [-ngm, kp] lại trở thành những âm vị độc lập.

3.5. Phương ngữ Nam có thể chia thành 3 vùng nhỏ hơn
- Vùng phương ngữ Quảng Nam-Quảng Ngãi:

Vùng này khác các nơi khác ở sự biến động đa dạng của âm /a/ và /ă/ trong kết hợp với các âm cuối khác nhau.

- Các phương ngữ Quy Nhơn đến Thuận Hải mang đặc trưng chung nhất của phương ngữ Nam.

- Phương ngữ Nam Bộ đồng nhất các vần:

-in, -it với -inh, -ich

-un, -ut với -ung, -uc

Vùng này cũng có khuynh hướng lẫn lộn s/x và tr/ch như phương ngữ Bắc. Nhưng trong ngôn ngữ thông tin đại chúng, trong các hoạt động văn hoá giáo dục, sự phân biệt các phụ âm này lại được duy trì rất có ý thức.


Chữ ký của Dương Nghiệp
Tỉnh Để Chi Oa

Tài sản của Dương Nghiệp

Chỉnh sửa lần cuối bởi TC NGUYỄN: 18-11-2008 lúc 15:53.
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Dương Nghiệp vì bài viết hữu ích này:
Lăng Độ Vũ (14-04-2009)
Cũ 28-12-2008   #8
Ảnh thế thân của TC NGUYỄN
TC NGUYỄN
-=[ Tổng Binh Đầu Lĩnh ]=-
Gia nhập: 13-02-2006
Bài viết: 1.587
Điểm: 1621
L$B: 243.523.393
Tâm trạng:
TC NGUYỄN đang offline
 
Thanh bằng/trắc trong ca dao & câu đối hai vế.

Khảo sát về thanh trắc, thanh bằng trong số lượng từ của những câu ca dao và các câu đối có hai vế có thể nêu trọn được vấn đề theo thế âm/dương(-/+) kết hợp.

Trên bình diện ngôn ngữ văn học, với dạng những câu hai vế, vế trước xem là vế dương, dùng để nêu vấn đề; và vế sau là vế âm bổ túc hay thu nạp vấn đề.

Để có một cái nhìn chung, ta sẽ đánh giá câu hai vế theo lối qui nạp như sau:
-Dương--.> nêu vấn đề, số lượng từ trong câu có nhiều thanh trắc(hay thanh dương+) hơn thanh bằng(hay thanh âm-) --.> biểu hiện tình cảm có nhiều biến động sôi nổi hay chán chường…
-Âm--.> thu nạp hay bổ túc vấn đề, có nhiều thanh bằng hơn thanh trắc --.> tình cảm êm ái dịu dàng
-Thanh âm và thanh dương bằng nhau hay không chênh lệch nhiều --.> thiên về đấu tranh chống đối, phê phán, trách móc hay khuyên răn mạnh mẽ…
Xin nêu mấy ví dụ để minh hoạ cho quy luật tình cảm tự nhiên của số lượng thanh âm, dương như sau:

1/- Ca dao

1.1/- Thí dụ 1-Câu có nhiều thanh âm hơn thanh dương(11-/3+)

Bông chi thơm lạ thơm lùng(5-/1+)
Thơm cây, thơm rễ, người trồng cũng thơm(6-/2+)

Vế trên đưa vấn đề “mùi hoa”; vế dưới thu nạp những liên quan của “mùi”...: vế trước mở rộng có sáu thanh chỉ có một thanh dương ở từ “lạ”, còn vế sau thu nạp, bổ túc có tám thanh có hai thanh dương nằm ở hai từ “rễ, cũng”, cho thấy tới 11 thanh âm, 3 thanh dương trong 14 từ của câu ca dao hai vế trên, thanh âm chiếm gấp bội thanh dương, bao trùm lên một thứ tình ngỏ ý qua “ Bông chi thơm lạ thơm lùng …”, để chuyển dụ “…người trồng cũng thơm”; thật bóng bẩy nhẹ nhàng tỏ tình như thế nghe ra cũng phải xiêu lòng!

1,2/- Thí dụ 2-Câu có thanh âm và thanh dương tương đương(7-/7+)

…Nhớ ai bổi-hổi bồi-hồi(3-/3+)
Như nhớ đống lửa như ngồi đống than…(4-/4+)

Trong câu ca dao này, câu mở dầu nêu vấn đề có nội dung tình cảm nôn nóng, bứt rứt …, nên trong 6 từ chia bằng nhau: 3 thanh âm, 3 thanh dương; ở câu thứ 2-thu nạp- vẫn là khát vọng, ray rứt tình cảm đã chuyển sang độ không chịu nổi …, một hình ảnh lụy tình khơi nguồn chiếm ngự không vơi…, trong 8 từ có 4 thanh dương, 4 thanh âm; cộng lại câu ca dao hai vế trên ta thấy thanh dương có 7 từ, thanh âm có 7 từ, như vậy thanh âm/dương bằng nhau, chứng tỏ là sự gay cấn vướng mắc tình cảm bồn chồn tha thiết không nguôi!…

2/- Câu đối

2.1/- Thí dụ 1:-Câu dương/âm chênh lệch từng vế

Truyền rằng vua Lê Thánh Tông, khi còn là hoàng tử, một lần men theo bờ sông đào, vùng Tống Sơn, Thanh hóa dạo chơi, tình cờ thấy một thiếu nữ quê đẹp đang ngồi vo gạo trắng ngần lẫn lộn…, làm tâm hồn hoàng tử lâng lâng trong phút giây, bằng đọc bỡn một câu:

Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả… (8+/3-)

Cô gái giả như không biết, vẫn tiếp tục vo gạo không ngửng lên, vừa xong, cắp rá ra về, khi ngang qua xa xa chỗ hoàng tử đứng…cô gái mỉm cười trên đôi môi chúm chím thốt lời:

Cát lầm gió bụi, lo đời đâu đấy hãy lo cho... (4+/7-)


Qui luật khi đối ý, đối nghĩa của từ(nghĩa đen nghĩa bóng…), còn phải chú ý đến từng từ đối theo thứ tự âm dương của từng câu đối, và từ đó đưa ta đến việc suy ra một qui luật tình cảm hé lộ trong ý nghĩa âm/dương này.

Hoàng tử(vua Lê Thánh Tôn sau này) khi ra vế đối, có 11 từ cả thảy, 8 thanh dương, 3 thanh âm, tính dương lấn âm rõ rệt, đúng với khẩu khí của một vị vua tương lai, lãng mạn đầy chiếm ngự “Gạo trắng nước trong, mến cảnh lại càng thêm mến cả…”, với hàm ý “ta muốn đấy, muốn tất cả và bỏ lửng câu… để nàng điền vào?”

Người con gái không biết người ra vế đối đó là ai, nhưng đã thấy lòng quan hoài vì cảm nhận được người ấy khác thường, cho nên lời đối lại dùng thanh âm(7-) nhiều hơn thanh dương(4+) --.> dịu dàng đối lại, chẳng những đối rất chỉnh về từ, nghĩa, ý tứ mà còn có ý khuyên chàng trai(hoàng tử) trong thời loạn nên lo cho thân, cho sự nghiệp là quan trọng…còn tình yêu thì “ … đâu đấy hãy lo cho”…

2.2/-Thí dụ 2:Câu dương âm bằng nhau(6-/6+)

Vua Duy Tân ra câu đối:

Đi chi đường đạo sợ cụ(3-/3+)
(chi là đi, đạo là đường, cụ là sợ)

Nguyễn Hữu Bài tài tình đối lại:

Không vô trong nội nhớ hoài(3-/3+)
(vô là không, nội là trong, hoài là nhớ)

Hai câu đối đáp nói lên buồn lo oán hận trong lòng vua tôi trong thời buổi nhiễu nhương lơ láo phận mình…/ chỉ xét trên cách phối trí từ và các thanh bằng trắc(-/+) sắp đặt đối chọi song nhau, làm nổi lên cái buồn xốn xang diễn tiến ngày tàn phai một triều đại!…

Từ phân tích đơn giản các câu hai vế-ca dao và đối- trên, ta có thể cảm nhận được nội dung từng phần hay toàn bài, dẫu ở thề văn chương nào(văn xuôi chẳng hạn)…, cái tình cảm con người tự nhiên nó không thoát ra qui luật của các thanh từ(-/+) mà tác giả đã đặt để vào trong ấy.


Note:
Từ dùng trong bài viết:
Thanh bằng = thanh âm(-)
Thanh trắc = thanh dương (+)
5- = 5 thanh âm
5+ = 5 thanh dương
-/+ = âm/dương


Chữ ký của TC NGUYỄN
TC- N.

Tài sản của TC NGUYỄN

Chỉnh sửa lần cuối bởi TC NGUYỄN: 28-12-2008 lúc 12:58.
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến TC NGUYỄN vì bài viết hữu ích này:
Lăng Độ Vũ (14-04-2009)
Cũ 13-04-2009   #9
Ảnh thế thân của TC NGUYỄN
TC NGUYỄN
-=[ Tổng Binh Đầu Lĩnh ]=-
Gia nhập: 13-02-2006
Bài viết: 1.587
Điểm: 1621
L$B: 243.523.393
Tâm trạng:
TC NGUYỄN đang offline
 
Thanh điệu trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương

Thanh điệu trong ngôn ngữ thơ Hồ Xuân Hương

Tiếng việt thuộc loại đơn âm, các dấu chỉ độ cao thấp( ` / . ? ~ ) nằm trên dưới nguyên âm- thuộc hệ Môn-Kmer - tạo thanh từ, làm cho thơ có nhạc điệu để ám chỉ sự việc rất phức tạp thành ý nghĩa đơn giản đời thường mà nó vẫn giữ được tính thanh cao làm cho ngôn ngữ bình dân có thể quyện song song vào văn chương bác học mà khi xét đến ý nghĩa dẫu có dung tục cũng khó bắt bẻ…

Với sáu thanh cao thấp như âm nhạc, mọi tiết điệu trong ngôn ngữ thơ việt không thoát ra ngoài ý nghĩa của âm tiết đó. Thử xem hình thái từ “ma” sẽ mang ý nghĩa khác nhau theo thanh được gán vào:
-ma: (hồn, con…) ma…--.> thanh bình cao
-mà: dùng làm đại từ, Liên từ, Trợ từ…--.> thanh bình thấp
-má: Mẹ…--.> thanh thượng- cao/lên
-mạ: cây lúa non…--.> thanh hạ- thấp/nghẹt
-mả: mồ…--.> thanh hồi- lên/xuống.
-mã: bề ngoài…--.> thanh khứ- cao/nghẹt/tắc
Trong văn xuôi hay khi nói, thanh từ rơi một cách tự nhiên, nhưng trong thi ca thì khác, thanh được rơi vào chỗ nào đó ở cuối dòng hay ngắt dòng, như ta thấy trong thơ ca, bao giờ cũng rơi vào thanh bằng(ma hay nêu trên) và các thanh trắc cũng có những qui định sẵn…

Toàn bộ trong một bài thơ- lấy thơ Đường làm chuẩn- âm tiết trong thơ cao thấp là một sự kế thừa linh động âm thanh vận hành, mang đến nhiều ý nghĩa đa dạng khác nhau, tùy theo mà ta cảm nhận được, điều này có thể thấy rất rõ trong thơ Hồ Xuân Hương, ta có thể khám phá ra một thứ ngôn ngữ khác thường đầy ẩn ý chỉ có trong tiếng Việt, nếu ta cố dịch ra tiếng ngoại quốc thì âm vần bị rơi và ý bài thơ còn là nghĩa đen, và nghĩa bóng bị đẩy ra khỏi bài thơ không còn ẩn dụ nguyên ủy nữa…

Thử xem bài “Chơi Đài Khán Xuân” của Hồ Xuân Hương :


Chơi Đài Khán Xuân

Êm ái chiều xuân tới khán đài,
Lâng lâng chẳng bợn chút trần ai.
Ba hồi chiêu mộ chuông gầm sóng,
Một vũng tang thương nước lộn trời.
Bể ái nghìn trùng khôn tát cạn,
Nguồn ân muôn trượng dễ khơi vơi.
Nào nào Cực lạc là đâu tá,
Cực lạc là đây chín rõ mười.


Và bài dịch thoát của John Balaban:

Spring-Watching Pavilion

A gentle spring evening arrives
airily, unclouded by worldly dust.

Three times the bell tolls echoes like a wave.
We see heaven upside-down in sad puddles.

Love's vast sea cannot be emptied.
And springs of grace flow easily everywhere.

Where is nirvana ?
Nirvana is here, nine times out of ten.


dịch sát theo từng câu của bài thơ:

peaceful evening spring go pavilion
light light not dirty litle world dust
three times watch bell tolls waves
one puddle mourning water turned over heaven
sea love 1,000 immense cannot splash out challow
source love 10,000 spans easy all over
Where is nirvana ?
Nirvana is here, nine times out of ten
.

Từ bài thơ Hồ Xuân Hương và bài dịch rất hay của John Balaban hay dịch sát nghĩa vẫn thấy không có một chút linh động âm thanh nào trong đó để gợi lên những ý sâu thẳm trong bài thơ chữ Việt, vì chỉ trong tiếng Việt mới có những từ tựa âm thanh, vận vào để mang nhiều ý nghĩa khác nhau, và do đó ta thường thấy một nhóm từ tiếng Việt thường mang một ẩn ý thứ hai bằng cách đảo ngược hay nói lái khi chú ý đến…

Như trong bài “Chùa Quán Sứ” có nhóm từ“đếm lại đeo”và bài “Sư hoang dâm” thì lại “phải lộn lèo.”, Hồ Xuân Hương dụng âm thanh nên toàn bộ thơ mang nghĩa đôi, vì từ “đeo”(CQS) có nghĩa là “mang”, nhưng từ “đếm” đi trước gây âm vang cho từ “đeo” và nó biến thành nghĩa “giao hợp”. Tương tự “lộn lèo”(Shd) có nghĩa là “lộn vòng, lẫn lộn…” nhưng đọc toàn bài và kết nguyên câu”Trái gió cho nên phải lộn lèo” âm điệu câu thơ vọng lại thì nó lại mang ý như từ “đeo”, nhưng thanh khác đi tạo thành một thực tế đầy hình ảnh…

Ngôn ngữ được sử dụng trong thơ Hồ Xuân Hương rất thản nhiên hay tự nhiên che đậy lẩn tránh nằm trong khuôn phép của loại thơ Đường vay muợn từ Trung Quốc, chỉ tám câu bảy chữ(Thất ngôn bát cú), mỗi câu có bẩy âm tiết, vần điệu, niêm luật…sít sao, nhưng với Hồ Xuân Hương đã vượt qua những rào cản này xuất chúng, bằng cách đảo ngữ tài tình, khi đọc bài “Chơi Đài Khán Xuân” trên, ta cảm nhận được lòng thanh thản không vướng bụi trần nhưng sao tình yêu “bể ái, nguồn ân…” lẫn lộn dễ “khơi vơi”, ngẫm ra “cực lạc” sao gần mà tay người với xa muôn trượng và chỉ có chính thơ, cái thanh âm cảm nhận nguyên ủy ấy mới có và không có thứ ngôn ngữ nào khác có thể chuyển được tính “phản diện” của thứ ngôn ngữ ấy!


Chữ ký của TC NGUYỄN
TC- N.

Tài sản của TC NGUYỄN
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến TC NGUYỄN vì bài viết hữu ích này:
Lăng Độ Vũ (14-04-2009)
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 07:39
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,10517 seconds with 15 queries