Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Đã khóa chủ đề
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 12-07-2009   #46
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 33.636.062
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Cầm Bá Thước (1859–1895)

Cầm Bá Thước (1859–1895) là một trong những người lãnh đạo phong trào Cần Vương ở Thanh Hóa. Ông là người dân tộc Thái, sinh tại bản Lùm Nưa, tổng Trình Vạn, huyện Thường Xuân, Thanh Hóa, trong một gia đình lang đạo nhiều đời. Cha là Cầm Bá Tiên - Quân cơ dưới triều nhà Nguyễn.

Năm 24 tuổi (1883), ông giữ chức Bang biện quân vụ hai châu Thường Xuân và Lang Chánh. Năm 1885, hưởng ứng chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi, ông xây dựng lực lượng vũ trang chống Pháp ở quê. Hoạt động của ông không chỉ trong phạm vi Thường Xuân mà còn tỏa ra các vùng Ngọc Lặc, Như Xuân, Quan Hóa và Quỳ Châu (Nghệ An).

Năm 1886 Ông cùng với Hà Văn Mao hoạt động khắp các châu, huyện miền núi, phối hợp với Ba Đình (Nga Sơn), Mã Cao (Yên Định), Hùng Lĩnh (Vĩnh Lộc). Thực dân Pháp dần dần đàn áp được các phong trào khởi nghĩa từ miền xuôi đến trung du miền núi. Hà Văn Mao mất, Tống Duy Tân bị bắt vào năm 1892, Tôn Thất Hàm bị giặc giết, Cầm Bá Thước đành phải tìm cách ẩn náu chờ thời. Ông đã tập hợp lực lượng bí mật xây dựng Trịnh Vạn trở thành căn cứ khởi nghĩa chờ ngày bùng nổ, tiếp sức nóng cho ngọn lửa Cần Vương đang leo lét. Dựa vào địa thế núi rừng hiểm trở, có nhiều núi cao, suối sâu của Trịnh Vạn, Cầm Bá Thước đã cho xây dựng một hệ thống đồn trại, công sự tác chiến lợi hại tại những điểm chốt quan trọng. Đó là những vị trí đánh địch, những chốt phục kích ẩn hiện nơi đồi núi, che khuất trong rừng cây rậm rạp. Đồng bào Thái ở Thường Xuân, Lang Chánh vẫn bí mật chở lương thực, vũ khí đến căn cứ Trịnh Vạn cung cấp cho nghĩa quân.

Tháng 2-1894, giám binh La-mơ-ray kéo quân lên Trịnh Vạn xem xét tình hình và khẳng định rằng Cầm Bá Thước vẫn chưa từ bỏ hoạt động chống Pháp, nên chúng đã đưa quân lính đến Trịnh Vạn hòng đè bẹp nghĩa quân từ khi còn non yếu. Ở phía nam, giặc Pháp đóng ở đồn Lược, đồn Bái Thượng thuộc huyện Thọ Xuân. Ở huyện Thường Xuân, chúng đóng quân rải rác ở nhiều nơi như đồn Cửa Đạt, đồn Thổ Sơn, Nhiên Trạm, vv... Nắm được âm mưu của địch, để giành thế chủ động, nghĩa quân Trịnh Vạn đã tấn công đồn Thổ Sơn vào ngay hôm tên giám binh La-mơ-ray vừa tới Trịnh Vạn (6-2-1894) mở đầu cho đợt chiến đấu mới. Sau đó, nghĩa quân lại tập kích đồn Quang Thôn và chạm súng với tên Lơ-Cát từ đồn Yên Lược (Thọ Xuân) lên ứng chiến. Tháng 3-1894 nghĩa quân đánh thẳng xuống đồn Cửa Đạt. Giặc Pháp hoảng hốt, điều động ba đội quân do Lơ-Cát, Cu-vơ-li-ê và giám binh Mác-li-ê thay nhau chỉ huy đánh vào căn cứ Trịnh Vạn. Tương kế tựu kế, Cầm Bá Thước đã cho người giả vờ trá hàng dẫn địch sa vào trận địa phục kích để tiêu diệt. Những trận đánh của nghĩa quân Cầm Bá Thước đã làm cho quân Pháp bị tổn thất nặng nề về người và vũ khí. Có lần nghĩa quân đã khống chế được đồn giặc lập ở Trịnh Vạn.

Trước tình hình đó, giặc Pháp thấy cứ giằng dai như vậy thì tổn thất quá, nên chúng quyết định tập trung lực lượng, tổ chức một cuộc tấn công lớn vào căn cứ trung tâm của nghĩa quân ở Hón Bòng (Xuân Lẹ – Thường Xuân). Ngày mùng 10 tháng 5 năm 1895, giám binh Mác-li-ê đem 200 quân từ Trịnh Vạn tấn công vào căn cứ trung tâm. Đây là trận đánh lớn cuối cùng của nghĩa quân. Tất cả các phòng tuyến của nghĩa quân từ trạm tiền tiêu đến đồn trung tâm đều sẵn sàng và quyết tâm chiến đấu. Giặc Pháp tuy có hỏa lực mạnh, nhưng phải sau 4 ngày tấn công dồn dập và phải chịu nhiều tổn thất nặng nề về người và vũ khí, mới vượt qua được ba phòng tuyến để đánh vào trung tâm căn cứ của nghĩa quân. Trước đó, Cầm Bá Thước và nghĩa quân đã bí mật rút đi nơi khác.
Đến lúc này, lực lượng nghĩa quân đã bị suy yếu rõ rệt, hầu hết các cứ điểm của nghĩa quân đã bị giặc Pháp chiếm. Chúng săn lùng ráo riết tìm bắt Cầm Bá Thước và các nghĩa binh. Cuối cùng, Cầm Bá Thước cùng vợ con và một số người theo ông sa lưới địch vào ngày 13 tháng 5 năm 1895 tại Bản Cà. Giặc Pháp đưa ông về Trịnh Vạn và tìm mọi cách dụ dỗ, mua chuộc. Thất bại thảm hại trong âm mưu lôi kéo mua chuộc nhà yêu nước kiên cường, chúng đã đưa ông ra xử tử khi ông 36 tuổi.
Tôn Thất Thuyết có bài thơ gửi ông:

Vạn lí cao thu Mục mã binh,
Thuận lưu bất hạ tiểu chu khinh.
Thanh sơn lục thủy tương nghịch xứ,
Đại hải trường giang vọng viễn tình.
Bách tính cần vương nhân tự chấn,
Nhất ngu báo quốc khánh do hành.
Thử du nhược đắc thiên tâm trợ,
Qui khứ Nam xa triệt hảo trình.


Bản dịch:

Mục mã thu cao vạn dặm đường
Thuyền con chở nhà khói xuôi dòng.
non sông nước biếc nơi hò hẹn,
Bể rộng sông dài nỗi ước mong!
Trăm họ vì vua còn cố gắng,
Một mình báo nước vẫn long đong.
Phen này ví được lòng trời giúp,
Trở gót về Nam lối hẳn thông.

Ngày nay tại đền thờ ông ở Cửa Đặt, thị trấn Thường Xuân có đôi câu đối:

"Bất tử đại danh thùy vũ trụ;
Như sinh chính khí tác sơn hà".


Nghĩa:

"Chẳng chết danh to nêu vũ trụ
Như còn khí chính dấy non sông".

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 12-07-2009   #47
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 33.636.062
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Nguyễn Quang Toản (1783 - 1802)

Nguyễn Quang Toản (1783 - 1802) hay Cảnh Thịnh Hoàng Đế, là con trai thứ của vua Quang Trung (Nguyễn Huệ). Ông lên ngôi tháng 8 năm 1792, sau khi Nguyễn Huệ mất, năm sau đổi niên hiệu thành Cảnh Thịnh. Tháng 8 năm 1801 đổi niên hiệu thành Bảo Hưng. Nguyễn Quang Toản là vua thứ hai của nhà Tây Sơn nhánh Nguyễn Huệ và cũng là vị vua cuối cùng của triều đại này.

Cảnh Thịnh sau khi lên ngôi thì bị họ ngoại chuyên quyền, trong đó có cậu họ là Thái sư Bùi Đắc Tuyên. Vua Quang Toản không giữ được việc triều chính, làm cho các đại thần quay sang giết hại lẫn nhau dẫn đến nội bộ lục đục, triều chính suy vi và đây là cơ hội cho Nguyễn Ánh tấn công để giành lại chính quyền chỉ sau một thời gian rất ngắn.

Nội bộ lục đục

Khi vua Quang Toản mới lên ngôi thì cậu họ là Bùi Đắc Tuyên làm thái sư rất chuyên quyền, còn Ngô Văn Sở khi đó trấn giữ thành Thăng Long, coi hết việc quân dân, được thăng chức đại tổng lý, tước quận công.

Năm 1794, Cảnh Thịnh sai Vũ Văn Dũng ra coi binh mã bốn trấn Bắc Hà. Dũng đến trạm Hoàng Giang, gặp trung thư lệnh Trần Văn Kỷ phạm tội bị đày ở đó, Kỷ nói với Dũng rằng:

Quan thái sư chức vị đã cao tột bực, trong tay nắm quyền làm oai làm phúc, lại đẩy ông ra ngoài, nếu có sự chẳng lợi cho nhà nước, các ông phỏng còn giữ được đầu chăng? Bây giờ chẳng sớm liệu đi, sau này ăn năn sao kịp?

Dũng tin và trọng Kỷ, nên cho lời Kỷ là phải. Hôm sau, Dũng đem quân bản bộ quay về, hợp mưu với thái bảo Hóa, bắt phe đảng Đắc Tuyên bỏ ngục; lại sai người vào Quy Nhơn bắt Bùi Đắc Trụ[1] (con Bùi Đắc Tuyên) và sai đô đốc Hài ra thành Thăng Long lập mưu bắt Ngô Văn Sở đưa về, thêu dệt thành tội trạng làm phản để dìm xuống nước cho chết hết[2]. Sau đó, Dũng lại sai Hóa vào giữ thành Quy Nhơn.

Trần Quang Diệu đang ở Nha Trang thì được tin cha con Bùi Đắc Tuyên và Ngô Văn Sở đều đã bị Vũ Văn Dũng giết chết, sợ vạ lây đến mình, bèn kéo quân về, họp bàn cùng bọn tướng tá, định dùng quân lực bắt Vũ Văn Dũng. Ngay lập tức Diệu giải vây cho thành Nha Trang rồi kéo quân về thành Quy Nhơn để sau đó tiếp tục về kinh đô Phú Xuân (Huế). Về tới làng Yên Cựu ở phía nam kinh thành, trên bờ sông Hương, Diệu đóng quân ở bờ nam sông. Dũng cùng bọn nội hầu Tứ đem quân bản bộ đóng ở bờ bắc sông, mượn lệnh vua để chống lại với Diệu.

Vua Quang Toản phải sai các trung sứ qua lại vỗ về hoà giải, Quang Diệu mới chịu đem tả hữu vào yết kiến Cảnh Thịnh và giảng hòa với Vũ Văn Dũng; kế đó Diệu lại xin cho gọi Hóa về và xin cho Lê Trung thay chân Hóa, trấn giữ Quy Nhơn.

Khi ấy, các cận thần ở bên Cảnh Thịnh gièm pha rằng oai quyền của Diệu quá lớn, đang toan có mưu khác. Toản tin là thật, liền rút hết binh quyền của Diệu, chỉ cho giữ một chức quan vào hàng thị thần mà thôi. Quang Diệu vốn tương đắc với Lê Trung, nên gửi mật thư vào Quy Nhơn, hẹn Trung cất quân lập Nguyễn Quang Thiệu (con Nguyễn Huệ, anh Cảnh Thịnh) làm vua. Trung theo lời kéo quân về, Quang Thiệu đem quân tiếp ứng phía sau.

Quân của Trung về đến Quảng Nam, vua Quang Toản sai Diệu đi bảo Trung lui quân. Trung không thông báo cho Quang Thiệu mà một mình một ngựa theo Diệu về yết kiến Cảnh Thịnh. Quang Thiệu sợ hãi phải rút quân về Quy Nhơn, đóng chặt cửa thành để cố thủ.

Nguyễn Quang Toản sai tướng đến đánh liên tiếp mấy tuần không hạ được, tự mình làm tướng đem quân đi. Đến Lê Giang, thái phủ tên là Mân tâu với Toản rằng:

Cuộc biến loạn Quang Thiệu thực do Lê Trung gây nên, tội không thể tha, xin giết ngay để răn kẻ khác.

Cảnh Thịnh nghe theo và cho vời Trung vào dinh, sai võ sĩ trói lại đem chém. Con rể Lê Trung là đại đô đốc Lê Chất hận việc giết cha vợ nên đầu hàng Nguyễn Ánh. Sau đó, Toản tiến đánh Quy Nhơn, mười ngày sau hạ được thành, bắt Quang Thiệu cùm đưa về, dùng thuốc độc giết chết. Toản để Mân ở lại giữ thành Quy Nhơn

Bại trận và sụp đổ

Năm 1793, đại quân của Nguyễn Ánh từ Gia Định kéo ra đánh vua Thái Đức (Nguyễn Nhạc) ở thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc sai người đến chỗ Cảnh Thịnh xin cứu viện. Cảnh Thịnh cho đô đốc Trần Quang Diệu làm đại tổng quản, đem quân cứu Nguyễn Nhạc. Quân của Nguyễn Ánh rút về. Các tướng của vua Quang Toản chiếm luôn thành trì của vua Thái Đức. Tháng 8 năm này, vua Thái Đức uất hận mà qua đời, con cả là Nguyễn Bảo lên nối ngôi bị các tướng của Cảnh Thịnh chia quân giữ thành và an trí ra huyện Phù Ly. Nhà Tây Sơn nhánh Nguyễn Nhạc chấm dứt từ đó.

Năm 1794, Cảnh Thịnh sai Bùi Đắc Trụ làm tán nghị, vào Quy Nhơn cùng với Quang Thiệu trấn giữ thành và lấy Quang Diệu làm thống suất, lĩnh đại quân tiến đánh thành Nha Trang. Bảy tướng từ Lê Văn Trung trở xuống đều được gia phong làm quận công quản binh và nghe theo lệnh chỉ huy của Quang Diệu. Diệu tiến sát thành Nha Trang, mà quân tuần tiễu thì đã đến địa phận Bình Thuận. Quân nhà Nguyễn hết sức chống giữ khiến Diệu không thể thắng nổi. Giai đoạn này, quân Tây Sơn luôn luôn tấn công miền Nam đã thuộc quyền Nguyễn Ánh, quân hai bên chống chọi với nhau đến hàng năm.

Năm 1795, các tướng Tây Sơn lại lục đục. Vũ Văn Dũng giết Bùi Đắc Tuyên và lừa giết Ngô Văn Sở. Trần Quang Diệu cũng bị nghi ngờ nên rút quân về. Hai tướng Quang Diệu và Văn Dũng giảng hoà

Sau đó Lê Chất làm phản theo Nguyễn Ánh, đem quân đánh nhau với tướng Tây Sơn là Mân. Quân của Mân thua trận, Mân phải chạy vào núi rừng mà trốn; quân, voi, khí giới đều bị Chất thu sạch. Vua Quang Toản nghe tin, lại sai đại tư đồ Vũ Tuấn dẫn binh tới trấn, chiêu tập tàn quân để đóng giữ.

Năm 1800, quân Nguyễn Ánh vượt biển ra đánh, Vũ Tuấn không chống nổi, dâng thành xin hàng. Chúa Nguyễn đổi thành Quy Nhơn làm trấn Bình Định, sai Võ Tánh đem quân đóng giữ. Cảnh Thịnh sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem quân thủy, bộ vây đánh thành này. Năm 1801, thủy quân Tây Sơn bị quân Nguyễn Ánh đánh bại, tàu lớn và chiến thuyền đều bị thiêu hủy. Vũ Văn Dũng lên bộ, hợp quân với Trần Quang Diệu tiếp tục vây Quy Nhơn.

Ngày 3 tháng 5 âm lịch năm 1801, nhận thấy quân tinh nhuệ của Tây Sơn đều ở cả Quy Nhơn mà lực lượng ở Phú Xuân (Huế) thì rất yếu ớt, Nguyễn Ánh đốc suất toàn bộ thuỷ quân và trên 1.000 chiến thuyền, thuận theo gió nam vượt biển ra phía bắc, đánh thẳng vào cửa Thuận An. Quân Tây Sơn địch không nổi và tan vỡ. Cảnh Thịnh đốc hết tướng sĩ, tự mình cầm quân tới đánh nhau với quân Nguyễn. Gần trưa, quân Tây Sơn đại bại, vỡ chạy tan tác. Quân chúa Nguyễn chiếm lại đô thành.

Sau khi thua trận, Nguyễn Quang Toản chạy ra Nghệ An ở lại vài ngày, rồi ra Thăng Long hội họp tướng sĩ, lo việc chống giữ. Tháng 8 năm đó, vua Quang Toản ở Thăng Long đổi niên hiệu Cảnh Thịnh làm năm đầu niên hiệu Bảo Hưng. Tháng 11, vua đem quân và voi của 6 trấn Hải Dương, Sơn Tây, Sơn Nam, Kinh Bắc, Thanh Hoa, Nghệ An vào đánh, nhưng bị quân nhà Nguyễn đánh thua, lại phải rút về.

Mùa xuân năm 1802, quân nhà Nguyễn qua sông Gianh tiến đánh, hạ được đồn Tâm Hiệu thuộc châu Bố Chính. Quân Tây Sơn tan vỡ, chạy về doanh Hà Trung trong hạt Kỳ Anh. Tháng 5 năm này, Nguyễn Ánh hạ chiếu đổi niên hiệu làm năm đầu niên hiệu Gia Long.[3]

Cùng thời gian này, Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng mới hạ được thành Quy Nhơn. Sau khi đã hạ thành, Diệu liền đem quân về đánh Phú Xuân. Khi Diệu đem quân ra khỏi địa giới Quy Nhơn thì bị tướng của nhà Nguyễn là Đắc Lộc hầu chặn lại. Quân của Trần Quang Diệu đánh phá nửa ngày nhưng không thể hạ được, với vô số người chết và bị thương. Diệu đành đem quân theo đường núi vào Ai Lao, định ra Nghệ An. Được tin, Nguyễn Ánh lập tức cắt đặt các tướng, thống lĩnh các đạo quân thuỷ bộ, hẹn ngày kéo ra Bắc.

Ngày 28 tháng 5, thuỷ quân của nhà Nguyễn tới cửa biển Đan Nhai thuộc Nghệ An, tiến đánh và phá được đồn Quần Mộc. Quân bộ cũng tiến đến phía nam sông Thanh Long rồi vượt sang bờ phía Bắc. Hai mặt thuỷ bộ đều tiến công, quân Tây Sơn bỏ chạy tán loạn. Quân nhà Nguyễn bèn xông lên cướp kho thóc Kỳ Lân. Trấn thủ của nhà Tây Sơn là Nguyễn Thận cùng với hiệp trấn Nguyễn Triêm, thống lĩnh Đại, thiếu uý Đằng bỏ thành chạy ra miền Bắc. Đến đồn Tiên Lý, Triêm tự thắt cổ; còn Thận chạy ra trấn Thanh Hoa. Quân nhà Nguyễn lấy được thành Nghệ An.

Trần Quang Diệu ở Quỳ Hợp xuống đến địa phận Hương Sơn thì nghe tin Nghệ An đã thất thủ, bèn đến Thanh Chương, qua sông Thanh Long chạy ra trấn Thanh Hoa. Tướng sĩ đi theo Diệu dần dần tản mát mỗi người một nơi. Quân nhà Nguyễn đuổi theo, bắt sống được Diệu.

Tháng 6, quân nhà Nguyễn tiến đánh thành Thanh Hoa. Em vua Quang Toản là đốc trấn Quang Bàn cùng Nguyễn Thận, Đằng đều đầu hàng.

Ngày 18, Nguyễn Ánh tiến ra Thăng Long, quân Tây Sơn hoàn toàn tan vỡ. Nguyễn Quang Toản bỏ thành cùng với em là Nguyễn Quang Thùy và đô đốc Tú qua sông Nhĩ Hà chạy về hướng bắc. Sau đó, Quang Thùy và vợ chồng Tú đều tự thắt cổ. Còn vua cùng các bề tôi đều bị thổ hào Kinh Bắc bắt được đóng cũi giao nộp cho Nguyễn Ánh. Quan lại của nhà Tây Sơn ở các trấn hoặc trốn, hoặc hàng, không ai dám chống lại.

Vài tháng sau, Gia Long về Phú Xuân, sửa lễ cáo miếu dâng tù, đem Nguyễn Quang Toản ra dùng cực hình giết chết, rồi bố cáo cho khắp cả nước đều biết. Quang Toản cùng những người con khác của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ đều bị Gia Long sai dùng cực hình 5 voi xé xác. Còn Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc cũng bị trả thù rất dã man: Mồ mả bị khai quật, hài cốt bị giã nát vứt đi; đầu lâu của Nhạc, Huệ, Toản và mộc chủ của vợ chồng Nguyễn Huệ đều bị giam ở nhà Đồ Ngoại, sau lại đưa vào cấm cố vĩnh viễn trong ngục thất[4].

Triều Tây Sơn từ đây chấm dứt.

Chú thích

1.Có sách chép là Bùi Đắc Thân.
2.Hoàng Lê nhất thống chí
3.Từ năm Cảnh Hưng thứ 49, (1786) trở đi, nhà Nguyễn vẫn dùng niên hiệu của nhà Hậu Lê.
4.Theo Đại Nam thực lục chính biên

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 12-07-2009   #48
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 33.636.062
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Cao Bá Đạt (1809-1854)

Cao Bá Đạt (1809-1854) Danh Thần triều Nguyễn. Anh sinh đôi với Cao Bá Quát, thân phụ Cao Bá Nhạ, quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc, tức tỉnh Bắc Ninh (nay thuộc xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Năm giáp Ngọ 1843, ông đỗ cử nhân, làm tri huyện Nông Cống, tỉnh Thanh Hóa, thanh liêm mẫn cán được dân chúng kính mến.

Sau khi Cao Bá Quát phù Lê Duy Cự khởi nghĩa chống nhà Nguyễn ( giáp dần 1854) ở Mĩ Lương, rồi bị giết, ông đang ngồi chức Tri huyện cũng bị bắt giải về kinh. Dọc đường, ông làm một tờ trần tình rồi dùng dao đâm cổ tự vẫn. Con ông là Cao Bá Nhạ trốn thoát nhưng 8 năm sau bị người ta tố cáo thọ hại luôn.

Nguyễn Văn Siêu có đôi câu đối truy điệu anh em ông rất thâm trầm:

"Ta tai! quán cổ tài danh, nan đệ nan huy, bất thế ngẫu sinh hoàn ngẫu tử;
Dĩ hĩ,! đáo đầu sự thế, khả liên khả ố, hỗn trần lưu xú diệc lưu phương".


Bản dịch:

" Thương thay! tài diệu tót vời, khó anh khó em, một cặp cùng sinh lại cùng thác.
Thôi nhĩ! sự cơ đến vậy, đáng thương đáng ghét, nghìn năm dây xấu cũng dây thơm."

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 12-07-2009   #49
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 33.636.062
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Cao Bá Nhạ(? - 1861)

Cao Bá Nhạ(? - 1861) là nhà thơ thế kỷ 19, con Cao Bá Đạt, cháu Cao Bá Quát, không rõ năm sinh, ông nổi tiếng văn chương không kém gì cha và chú. Ông quê làng Phú Thị, huyện Gia Lâm, xứ Kinh Bắc tức tỉnh Bắc Ninh nay thuộc làng Phú Thị, xã Phú Thị, huyện Gia Lâm, TP Hà Nội.

Sau khi Cao Bá Quát thất bại trong cuộc khởi binh chống lại nhà Nguyễn với danh nghĩa phù Lê, cả nhà họ Cao đều bị hại. Duy ông trốn thoát, cải họ đổi tên, lén về một làng thuộc hạt Mỹ Đức, tỉnh Hà Đông, dạy học kiếm sống.

Trong 6 năm trốn tránh, cuối cùng ông cũng bị người tố cáo. Quan triều kéo đến vây nhà, bắt ông đóng cũi tống giam ở ngục thất Hà Nội rồi chuyển sang Bắc Ninh, vào khoảng năm Tân Dậu 1861.

Tại ngục, ông viết một bài biểu trần tình, bằng chữ Hán, theo lối tứ lục, và một khúc ngâm Tự tình bằng quốc âm theo lối song thất lục bát dài 608 câu, trình nhà đương quyền, văn lâm li, tình bi thảm.

Cuối cùng ông vẫn bị phát vãng lên mạn ngược, ông bỏ mình nơi ma thiêng nước độc. Tác phẩm của ông: Tự tình khúc, Cao Bá Nhạ trần tình trạng

Tự tình khúc gồm 608 câu viết theo thể song thất lục bát, có thể chia làm bốn phần chính, mạch lạc khó phân minh.
Trong tám câu mở đầu, tác giả trải qua tám năm ẩn náu (1854 - 1862), bây giờ bị bắt, ông muốn tỏ bày nỗi oan với trời. Rồi ông viết về dòng họ Cao của ông ở Phú Thị đã mấy đời khoa hoạn, bao giờ cũng giữ hai chữ “trung cần 忠 勤 ”. Thân phụ ông chỉ làm chức “thú lệnh 戍 令 ” (tri huyện) cũng nổi tiếng thanh liêm.

Ông giãi bày tâm sự đau thương của ông khi ẩn náu, chỉ biết một lòng hiếu trung, vui cùng cỏ cây đèn sách, cốt giữ gìn “di thể” cho tròn đạo hiếu, ngày ngày mong bức “xá thư”. Vì có kẻ xấu bụng tố giác, ông bị bắt giải đi nay Hải Dương mai Bắc Ninh. Tuy vậy ông vẫn ẩn nhẫn một lòng trung chính. Ông thương mẹ già, vợ dại, con thơ, cây cảnh ông đã chăm nom với cả tấm lòng nghệ nhân của ông.

Cuối sách (bài tự tình) ông không quên gởi lời thăm tất cả và hẹn ngày đoàn tụ. Ông tự nhủ không nên buồn và hãy tin ở đạo trời chí công.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 12-07-2009   #50
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 33.636.062
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Cao Bá Quát (1809-1855)

Cao Bá Quát (1809-1855) tự là Chu Thần, hiệu là Cúc Đường, biệt hiệu là Mẫn Thiên. Ông sinh năm 1809 tại làng Phú Thị, huyện Gia Lâm tỉnh Bắc Ninh (nay là xã Quyết Chiến, huyện Gia Lâm, ngoại thành Hà Nội). Làng ông cách Hà Nội 17 cây số về phía đông, trước đây vốn là nơi làm ăn buôn bán phát đạt và học hành thi cử dễ dàng. Từ xưa, ở đây đã có nhiều người nổi tiếng về thơ văn và khoa hoạn.

Ông thân sinh ra Cao Bá Quát không đỗ đạt gì, nhưng là một nhà Nho danh tiếng. Ông hướng con cái vào con đường khoa cử và hy vọng rất nhiều ở các con. Ông chọn hai tên trong tám kẻ sĩ đời Chu đặt tên cho hai đứa con sinh đôi của mình là Bá Đạt và Bá Quát là muốn cho hai con sẽ trở thành những bậc hiền thần. Cao Bá Quát đặt tên cho mình là Chu Thần cũng ý nghĩa đó.

Là một cậu bé có tài năng và đức hạnh, Cao Bá Quát đã lớn lên trong mối quan hệ tốt đẹp với gia đình, bạn bè, quê hương, nuôi dưỡng những tình cảm thắm thiết đối với nhân dân và đất nước.

Khác với một số giai thoại coi ông như một đứa trẻ ngỗ ngược. Cao Bá Quát, qua văn thơ, đã tỏ ra một người giữ gìn phẩm hạnh, đối xử đúng mực với cha mẹ, anh em, làng xóm.

Mỗi lần xa nhà, không lúc nào ông không nhớ tới gia đình, bè bạn. Lời thơ thắm thiết viết cho anh, nỗi kinh hoàng khi nghe tin chị chết, lòng thương cha mẹ già không người chăm nom, khiến cho ta khó tin rằng ông là người luôn kèn cựa với anh, coi thường bố mẹ, như nhiều người đã nghĩ về ông.

Qua thơ văn của Cao chúng ta thấy ông có một cuộc sống trong sạch, một thái độ đúng đắn và tình yêu, một tấm lòng đằm thắm với vợ con.

Tài liệu không cho biết vợ ông như thế nào, nhưng mỗi lần nói với vợ, ông đều nói với một giọng rất trìu mến.

Sống xa nhà có lần nhận được tấm áo bông của vợ gửi cho, ông cảm động trước tình yêu thương của vợ, trong từng mũi chỉ đường kim:

Một phong thư đọc dưới ánh đèn, muôn hàng lệ chảy,
Đêm nay mảnh hồn tàn trở về quanh quẩn chốn buồng thuê.


Ông thương vợ, sống trong cảnh nghèo khổ và tưởng tượng lúc trở về bước qua cửa vào nhà, có lẽ chính là lúc vợ đi giã gạo thuê cho hàng xóm.

Cao Bá Quát rất yêu quý bạn bè và "một ngày trăm lần nhớ bạn". Ông nhớ Miên Thẩm, ví mình như Mao Toại đối với Bình Nguyên quân. Ông nhớ Phương Đình, có đêm tưởng bạn đang ngòi một mình ngâm thơ trong một canh gác lạnh lẽo. Ông nhớ Tuấn Phủ, người bạn đã tin ông, hiểu ông nhìn ông bằng một cặp mắt xanh, nên ông cũng đáp lại bằng "tấm lòng son không bao giờ phai lạt".

Cao Bá Quát có một tấm lòng yêu quý đặc biệt đối với quê hương. Cao thường kể lại những sự gặp gỡ thắm thiết đậm đà với bà con trong thôn xóm. Cao quan tâm tới cảnh ngộ của nhân dân, nhất là của những người thiếu thốn, đói rét người đi ở bị đòn, người hàng xóm mất con.

Cao Bá Quát say mê những cảnh đẹp của đất nước, có thể nói hầu hết những danh lam thắng cảnh của miền Bắc và miền Trung ông đã tới thăm và đều có thơ ngâm vịnh. Đối với ông, thiên nhiên là niềm tự hào của đất nước. Qua Ninh Bình ông mải mê nhìn:

Sông tựa giải là cô gái đẹp,
Núi như chén ốc khách làng say...


Thiên nhiên đẹp đã quyến rũ ông, kích thích ông phải làm gì để thiên nhiên đẹp hơn nữa. Ông muốn trồng lên núi một rừng mai, để sau này mỗi người được thưởng thức bức tranh tuyệt đẹp của núi hoa mai. Nói đến động Thái Nguyên, ông muốn đem nó đặt giữa hồ Tây cho thêm rực rỡ. Ông rất yêu quý Hồ Tây và phát hiện ở Hồ Tây nhiều nét đặc sắc. Đối với ông, Hồ Tây không chỉ là phong cảnh. Ông yêu quý nó như yêu quý một con người. Hồ Tây chính là Tây Thi của ông (Tây Hồ chân cá thị Tây Thi).

Càng lớn, càng đi sâu vào cuộc đời thì thiên nhiên càng gắn bó với ông. Thiên nhiên trở thành bạn tâm tình của ông cùng ông suy nghĩ trong hoàn cảnh cô đơn, thất vọng.

Cao Bá Quát đã sớm tỏ ra một thanh niên vừa có đức hạnh, vừa có tài năng. Hai anh em ông nối tiếng là thông minh, văn hay chữ tốt. Thơ văn ông được truyền đi rộng rãi. Ông chơi thân với Nguyễn Văn Siêu và hai người được đương thời đánh giá cao về mặt văn chương. Năm 23 tuổi ông đỗ cử nhân thứ nhì, nhưng bộ Lễ xét lại, xếp ông xuống cuối bảng. Lạc quan và tin tưởng, ông tiếp tục cứ mỗi khoa lại vào Kinh để thi tiến sĩ nhưng không đỗ.

Đã từ lâu ông tưởng rằng có thể thông qua con đưòng khoa cử, giành lấy một địa vị xã hội, rồi từ đó cải thiện đời sống cho nhân dân.

Cuộc đời là bài học hiệu nghiệm nhất để từng bước thức tỉnh chàng thanh niên họ Cao đầy ảo tưởng. Dưới chế độ phong kiến, không phải cứ có tài, có chí là thành công.

Bao nhiêu lần đi thi, đầu đề nào cũng thấy dễ, bài nào làm cũng thấy hay, nhưng hỏng vẫn hoàn hỏng.

Uống rượu ở nhà người bạn thân là Tuần Phủ, ông làm bài thơ thổ lộ tâm tình. Ở đời có người chí lớn như chim hồng hộc bay tít trên mây xanh. Có người thanh cao ở ẩn như chim hạc đen ngủ một mình trên sườn núi. Còn đáng khinh là loại người như những con hoàng điểu chỉ tìm chỗ kiếm ăn. Ta không phải là những con hoàng điểu ấy!

Nguy cơ ngoại xâm đã từ lâu đe dọa đất nước. Tây Ban Nha, Hà Lan trước đây và Anh, Pháp bây giờ, đang liên tiếp cử tầu buôn tới các cửa bể Đà Nẵng, Hà Tiên, Quảng Nam v.v... Chính trong thời kỳ Cao Bá Quát ở bộ Lễ, một tầu Pháp đã đến Trà Sơn, còn tàu Anh thì lăm le ngoài biển. Cao không thể không lo lắng cho Tổ quốc mình. Có đêm gió to, sóng dữ ngoài cửa Thuận An, nằm không ngủ ông tưởng đến hùng khí của Chu Du từ ngàn thu trước như vẫn còn hừng hực bốc lên, muốn đánh tan những chiếc tầu đang lăm le ngoài cửa biển!

Về bộ Lễ ít lâu, ông được cử làm sơ khảo trường Thừa Thiên. Trong khi chấm thi ông thấy có những quyển khá, nhưng lại có những chỗ phạm vào tên húy của nhà vua. Đây chính là cảnh ngộ của những người oan uổng như ông ngày trước. Triều đình này thực ra không quý trọng nhân tài, chỉ chú trọng đến những cái vụn vặt. Ái ngại cho những người có tài mà phạm sơ suất nhỏ, ông đã cùng người bạn là Phan Nhạ dùng muội đèn chữa những quyển ấy cho khỏi bị hỏng. Việc bị lộ, ông bị viên giám sát là Hồ Trọng Tuấn dàn hặc. Khi án đưa lên, thì vua nhà Nguyễn là Thiệu Trị, trước những lời buộc tội vô lý đối với ông, đã phải giảm cho ông từ tội trảm quyết xuống tội giáo giam hậu.

Đây là bước ngoặt lớn nhất trong đời Cao Bá Quát. Cao đã từ ngục thất này đến ngục thất khác bị tra tấn và chịu những nhục hình man rợ nhất, sống những ngày buồn bực đau khổ, uất ức, căm thù. Trong trường hợp đó, có những người mất hết tinh thần, gục đầu đợi tội hoặc chờ chết. Nhưng ở Cao những ngày trong tù là những ngày sống mãnh liệt. Sức mạnh tinh thần đó vẫn tràn ngập trong những bài thơ làm trong lúc đó.

Cao tự nhủ mình:

Phải đem chí bên trong gìn giữ khí bên ngoài.
Không để cho những lo nghĩ nhỏ nhen kích thích.


Trong bài thơ vịnh cái gông, Cao không thừa nhận mình có tội. Đối với ông việc thừa nhận chữa bài thi của thí sinh là việc nên làm. Ông muốn chẻ cái gông làm hai, viết vào đó bài Thiên sự ngâm của Nghiêu Phu, mà đại ý là "Người ta làm việc thiện là vì việc thiện nên làm". Đối với ông, chống lại những luật lệ thi cử khắc nghiệt của triều đình là làm việc thiện. Ông muốn bắt chước Thái Nguyên Định ngày xưa, khi bị tội viết thư dặn rằng: "Ta đi một mình không hổ với bóng, ngủ một mình không thẹn với chăn, đừng thấy ta bị tội mà xao xuyến"!

Bị giam được một năm, gặp đúng ngày 9 tháng 9, ông mời các bạn trong tù dự bữa rượu mừng sinh nhật của ông. Ông là người già nhất trong tiệc nhưng lại xưng mình là người trẻ nhất, người mới có một tuổi mà thôi. Ông coi nhà Nguyễn bắt giam ông chính là ngày chấm dứt cuộc đời cũ. Ông tự bắt đầu một kiếp sống hoàn toàn khác. Đây là một kiếp sống không thừa nhận nhà Nguyễn và chế độ thối nát của nó nữa rồi.

Có lúc Cao tự coi mình như Văn Vương bị giam trong ngục "Dữu Lý" của vua Trụ tàn ác, hoặc như thanh gươm long truyền nọ vùi sâu dưới nhà ngục ở Phong Thành mà đêm đêm vẫn tỏa lên ánh sáng.

Sau khi được định tội, triều đình tạm tha cho Cao Bá Quát và cho đi xuất dương hiệu lực trong phái đoàn do Đào Tri Phú làm trưởng đoàn.

Phái đoàn của ông đi Campuchia và Inđônêxia mục đích chủ yếu là đem đường bán cho nước ngoài để mua sắm những hàng xa xỉ cho triều đình. Ra nước ngoài, ông thấy đời sống của người tây phương, lại thấy cảnh người da đen kéo xe cho người da trắng. Ông cũng phân nào nhận thức được sự phát triển của các nước Tây phương và nguy cơ xâm lược của họ. Lòng yêu nước được kích thích, ông càng nhìn rõ hơn sự nhu nhược và bất lực của triều đình, càng tin tưởng ở sức mạnh phản kháng của nhân dân trước nạn ngoại xâm.

Sau thời gian dương trình hiệu lực, ông về tới Đà Nẵng vào mùa hè 1843 và sau đó được gọi về bộ lễ rồi bị thải về.

Ông về nhà chuyến này ở tại Thăng Long cùng với vợ con. Trước đây ông vốn ở phố Đình Ngang (nay gần phố Nguyễn Thái Học). Năm ông 24 tuổi vào kinh thi hội, thì bà Cao ở nhà đã xin phép bố chồng sửa lại một ngôi nhà gần cửa Bắc về phía đông Hồ Tây và hồ Trúc Bạch. Về đây ở, ông hàng ngày đi dạo ngắm cảnh Hồ Tây và cảnh đẹp của đất nước. Cũng trong dịp này, ông thường xướng hoạ với nhóm Vũ Tông Phan, Nguyễn Văn Siêu, Trần Văn Vi, Diệp Xuân Huyên... Thơ ông toát ra một giọng buồn bực, nhớ bạn, thương thân. "Chợt nghĩ đến mình, ruột đau từng khúc. Nhớ bạn thì mỗi ngày tính đến trăm lần". Thời gian này ông bị đau ốm nhiều, một năm trời bị bệnh đái ra máu. Gia đình túng thiếu, có lúc đói không có gạo thổi cơm chiều.

Trong thời gian nhàn rỗi, ông càng có nhiều dịp tiếp xúc với đời sống nhân dân. Những cảnh dân ta túng thiếu đói rét, phải đi ăn xin, bị bắt phu, bắt lính đã khiến ông rất đau xót, ngày đêm nung nấu trong lòng ông những điều suy nghĩ rất day dứt. Làm thế nào để cứu dân cứu nước? Trong 12 bài vịnh cảnh thôn quê, ông đã nêu lên đời sống nghèo khó vất vả của nhân dân. Ông tả cảnh những người tát nước trên đồng cao buổi sáng. Trời rét, sương mù còn dày đặc mà người tát nước bụng đói, môi run cầm cập, lưng chỉ khoác một mảnh áo tơi ngắn mà cứ phải luôn tay thoăn thoắt kéo dây gầu.

Khi dân đói rét quá thì vua quan thường tổ chức phát chẩn. Cao đã chứng kiến một buổi phát chẩn và ông đã nói lên cái tâm sự vô cùng buồn bực của mình. Đáng thương nhất là có những người ở những nơi xa nghe tin phát chẩn đã bồng bế con cái đến từ hôm trước. Biết có ai "vẽ được cái cảnh này cho vua xem?"

Lắm lúc ông tự hỏi: Không biết bọn vua quan có biết tình cảnh này không?

Trách nhiệm của họ đáng lễ phải thông cảm với nhân dân, phải hiểu được nỗi vui buồn của từng người từ trên một nét mi của họ, mà bây giờ hoàn toàn thờ ơ trước cảnh sống dở chết dở của nhân dân.

Dưới triều Nguyễn, do bị áp bức bóc lột quá đáng, nhân dân ở miền xuôi cũng như miền núi, luôn luôn phải nổi dậy đấu tranh. Các cuộc khởi nghĩa kế tiếp nhau nổ ra không bao giờ tắt. Nhà vua phải tổ chức những cuộc đánh đẹp. Tráng đinh bị bắt vào lính, đẩy vào những nơi lam sơn chướng khí. Nhân dân khởi nghĩa bị chém giết một cách tàn khốc. Trong lúc đó thì bọn con buôn lại nhân dịp đầu cơ phè phỡn.

Có những buổi chiều tối gió lạnh, ông còn xoã tóc đứng mãi trên cầu Trấn Vũ, nghĩ lại thủa còn trẻ, mắt đã thấy bao cảnh thương tâm mà nhìn vào cuộc đời vẫn thấy bế tắc như nhìn vào tấm bia không chữ. Chơi núi Tam Tào, nhìn vào đền thờ của Trần Hưng Đạo và nơi ẩn dật của Chu Văn An, ông tiếc những anh hùng xưa không còn nữa để cứu nước.

Có lúc suốt đêm ông ngồi một mình suy nghĩ về đời sống của nhân dân và trách nhiệm của mình. "Non sông thì thế còn minh thì sao đây".

Không có lấy một sách lược gì làm cho đời được thái bình.
Thẹn mình là một nhà nho mà lại tầm thường đến thế!

Có hôm ngồi đọc Kinh Thi mà suốt đêm trằn trọc. Ở đời những kẻ bất tàithì được sử dụng, còn người giỏi thì bỏ đi, không khác gì những cây bồ kết kia thì tốt um mà cây lan thì đơn độc không ai biết đến. Tấm lòng u uất ấy, vầng sao lấp lánh trên trời kia như muốn thông cảm với ông cũng suốt đêm chẳng ngủ:

Mặt trời lặn, các tiếng động đều im bặt.
Trời cao đêm mờ mờ.
Dưới có người không ngủ.
Trên có vì sao muốn rơi.

Tình cảnh của đất nước, của nhân dân, của bản thân như thế cuối cùng đã dẫn ông đến những ý nghĩ hành động mới. Tư tưởng muốn thay đổi cái triều đại này đã dần rõ nét ở ông.

Sau bốn năm bị thải về, ông lại nhận được chiếu chỉ triệu vào kinh (1847) và làm việc ở Viện Hàn lâm.

Trong cái không khí thi đua nhau làm thơ của triều đình Tự Đức. Cao cũng có thơ chơi, cũng ca vịnh những bài vụn vặt hàng ngày nhưng nội dung tư tưởng thì khác hẳn bọn họ. Ông ca ngợi tính trong sạch của bông hoa sen, tính chung thủy của con chim câu.

Vịnh con sáo, ông mỉa mai:

Chỉ vì muốn nói được tiếng người.
Mà đến nỗi cụt mất cả đầu lưỡi!

Thái độ cương trực không luồn cúi của ông khiến cho vua quan triều Nguyễn không thể nào ưa ông được. Cuối cùng họ đã đày ông đi xa, cho ông làm chức giáo thụ phủ Quốc Oai.

Công việc mới là làm giáo thụ ở phủ Quốc Oai, ông thường tỏ ra mỉa mai và khinh ghét đối với chế độ nhà Nguyễn. Người ta thường nói tới thái độ ấy của ông qua câu đối dán nơi dạy học:

Nhà trống ba gian, một thày, một cô, một chó cái,
Học trò dăm đứa, nửa người, nửa ngợm, nửa đười ươi.

Thời kỳ này, Cao Bá Quát lại một lần nữa, hằng ngày tiếp xúc với đời sống đói khổ của nhân dân, suy nghĩ thêm về những chính sách hà khắc của triều đình, đồng tình với những cuộc khởi nghĩa đã từ lâu không ngớt bùng lên ở các nơi. Quyết tâm đánh đổ triều đình nhà Nguyễn để đem lại một đời sống ấm no cho nhân dân ngày càng trở thành dứt khoát đối với ông.

Giữa năm 1853 (Tự Đức năm thứ 7), ông xin thôi dạy học, lấy cớ về nuôi mẹ già. Năm ấy miền Bắc, vào tháng 6, tháng 7, châu chấu bay mù trời. Lúa má bị chúng cắn sạch. Nạn đói hoành hành, mọi người ca thán.

Cao Bá Quát đứng lên tụ tập nhân dân, bí mật chuẩn bị một cuộc khởi nghĩa tại Hà Nội. Cao đã bị một số phần tử phản bội đi tố giác. Tự Đức sai Nguyễn Quốc Hoan và Lâm Duy Thiết tìm mọi cách bắt cho được Cao.

Cao liên hệ mật thiết với những thổ mục người dân tộc thiểu số ở Tây Bắc là Đinh Công Mỹ và Bạch Công Chấn, mở rộng lực lượng tiến đánh những vùng Hà Nội và Sơn Tây. Dựa vào tinh thần của nhân dân oán ghét triều Nguyễn và còn tưởng nhớ tới nhà Lê, Cao suy tôn một người thuộc dòng dõi nhà Lê là Lê Duy Cự là minh chủ, tự mình lãnh chức quốc sư, dẫn quân đến đánh phủ Ứng Hòa và huyện Thanh Oai. Tháng 12 năm ấy, hai cánh quân của Cao bị thua ở làng Đồng Dương (huyện Thanh Oai, Hà Tây) và ở làng Quyền Sơn (huyện Kim Bảng, Nam Hà). Nhiều tướng của Cao đã bị bắt, như Nguyễn Văn Tuân, Nguyễn Đình Huấn, Hoàng Văn Nho, Lê Văn Tường.

Dù thất bại Cao Bá Quát và nghĩa quân vẫn tiếp tục chiến đấu, lại tiến đánh phủ Quốc Oai, sau rút về vùng Vĩnh Tường, đốt cháy thành Tam Dương. Sau đó, Cao Bá Quát rút lui về Mỹ Lương cùng với Bạch Công Chấn chấn chỉnh đội ngũ, lấy nghĩa binh miền núi bổ sung lực lượng.

Tự Đức phái thêm 500 lính từ Thanh Hóa đến đóng tại Sơn Tây và treo giải thưởng 300 lạng bạc cho người nào giết chết được Cao. Quân nhà Nguyễn do lãnh binh Sơn Tây là Lê Thuận và quân khởi nghĩa do chính Cao Bá Quát chỉ huy đã giao chiến tại vùng Yên Đơn (thuộc phủ Quốc Oai). Trong lúc giao tranh, Cao Bá Quát đã bị tên Đinh Thế Quang bắn chết tại trận. Ông đã hy sinh anh dũng ở tuổi 45 trong niềm tiếc thương vô hạn của nhân dân. Quân của Cao tan vỡ, 100 người bị chết và 80 người bị bắt sống. Tự Đức hạ lệnh mang đầu của Cao Bá Quát bêu khắp các tỉnh ở Bắc Hà rồi bổ ra ném xuống sông.

Thất bại của cuộc khởi nghĩa Mỹ Lương và cái chết của Cao Bá Quát gây một tiếng vang ở khắp nơi và trong nhiều năm người ta còn xúc động khi nhắc tới Cao Bá Quát. Nhân dân thương tiếc và yêu quý ông, một người có tài năng lỗi lạc có phẩm chất cao quý, yêu nước, thương dân, nhưng bị chế độ phong kiến vùi dập và hủy hoại.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 12-07-2009   #51
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 33.636.062
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Cao Lỗ (? - 179 TCN)

Cao Lỗ (? - 179 trước Công nguyên) (còn gọi là Đô Lỗ, Thạch Thần, hay Đại Than Đô Lỗ Thạch Thần) là một tướng tài của Thục Phán An Dương Vương, quê quán tại xã Cao Đức, huyện Gia Bình, tỉnh Bắc Ninh ngày nay.

Tương truyền, ông là người chế ra nỏ liên châu (bắn được nhiều mũi tên một phát) mà còn được gọi là nỏ thần. Ông là người khuyên Thục An Dương Vương dời đô xuống đồng bằng, tìm đất đóng đô và là người được An Dương Vương giao nhiệm vụ thiết kế và chỉ huy công trình xây thành Cổ Loa.

Cao Lỗ là một anh hùng sáng tạo văn hóa, là biểu tượng của trí tuệ, sức mạnh Việt Nam ngay từ buổi đầu dựng nước, dựng đô.

Tại kì họp ngày 5 tháng 8 năm 2005, Hội đồng Nhân dân Thành phố Hà Nội đã quyết định lấy tên ông để đặt tên cho một con đường ở trung tâm huyện Đông Anh.

Cha đẻ nỏ Thần

Cao Lỗ là người sáng chế ra nỏ liên châu (nỏ thần): bắn một lần được nhiều phát mà các mũi tên đều bịt đồng sắc nhọn. Sử sách cũ đã thần thánh hóa gọi là: "Linh Quang Thần Cơ". Sách Lĩnh Nam chích quái chép rằng: Cứ đem nỏ ra chĩa vào quân giặc là chúng không dám đến gần.

Cao Lỗ huấn luyện cho hàng vạn binh sỹ ngày đêm tập bắn nỏ. Vua An Dương Vương thường xem tập bắn trên "Ngự xa đài", dấu vết này nay vẫn còn (góc đông bắc ngoài thành nội).

Là người phát minh ra nỏ thần, lại có tài bắn nỏ nên dân gian thường gọi ông là Ông Nỏ.

Khi Triệu Đà cho quân xâm lược Âu Lạc, chúng đã bị các tay nỏ liên châu bắn tên ra như mưa, thây chết đầy nội và phải lui binh. Đương thời, nỏ liên châu trở thành thứ vũ khí thần dũng vô địch của nước Âu Lạc.


Kết cục bi tráng


Triệu Đà bèn lập xảo kế thông gia cho con trai là Trọng Thủy lấy con gái An Dương Vương là Mỵ Châu. Cao Lỗ phản đối, khuyên vua không nên nhận, nhưng An Dương Vương không nghe còn nghe lời dèm pha của Lạc hầu. Cao Lỗ dần dần bị vua xa lánh, ông bỏ đi nơi ở ẩn.

Khi Trọng Thủy biết được bí mật phòng thủ của An Dương Vương về mách cho vua cha, Triệu Đà mang quân sang đánh Âu Lạc. An Dương Vương thua chạy. Quân Triệu đuổi theo. Cao Lỗ biết tin, ra đón đường chặn đánh quân Triệu cho vua chạy thoát và ông đã tử trận.

Các thuyết liên quan tới nguồn gốc, phả hệ Cao Lỗ

- Có thuyết cho rằng cái tên Cao Lỗ không phải là họ Cao, mà do gắn với đá thạch, núi đá, rằng Cao Lỗ là một vị thần địa phương - thần Đá - đã được thu phục trong quá trình tiến xuống miền đồng bằng của An Dương Vương, và trở thành một vị tướng của nhà vua. Khi chết, ông trở thành thần bảo hộ cho vùng Việt Trì, Bạch Hạc.

Nhà Trần đã sắc phong cho ông là “Quả nghị Cương chính Uy huệ Chính thần Đại vương”.

- Theo GS. Cao Thế Dung,

"họ Cao ở Nghệ An, theo thể phả, thủy tổ là ông Cao Lỗ, gốc Ngòi Sảo, Bắc Ninh, người đã chế tạo ra nỏ liễn mà Triệu Đà gọi là nỏ thần. Họ Cao di ra Thăng Long rồi từ Thăng Long vào Nghệ An, sau một hệ trở ra Sơn Nam (Nam Định) định cư tại đây.
"Thám Hoa Cao Quýnh đậu Tiến sĩ (cập đệ, đệ tam danh) triều Lê Thánh Tông là hậu duệ của Thủy tổ Cao Lỗ"

Đền thờ Cao Lỗ

- Theo dân gian, khi bị thương nặng ở cổ, tướng quân Cao Lỗ đã buộc lại và thúc ngựa chạy tới Ái Mộ (xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm) nghỉ một lát rồi lại chạy tiếp về vùng Bình Than, Lục Dầu được ít lâu sau thì mất.

- Tại Ái Mộ (xã Bồ Đề, huyện Gia Lâm, tại xã Quảng An (huyện Từ Liêm, Hà Nội), Bắc Ninh, Bình Than, Nghệ An và nhiều vùng khác đều có đền thờ tướng quân Cao Lỗ. Tại thành phố Hồ Chí Minh cũng có đền thờ Cao Lỗ ở khu vực Phú Thọ

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 12-07-2009   #52
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 33.636.062
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Cao Thắng (1864-1893)

Cao Thắng (1864-1893), quê ở thôn Yên Đức, xã Tuần Lễ, tổng Yên Ấp, huyện Hương Sơn (nay là xã Sơn Lễ huyện Hương Sơn tỉnh Hà Tĩnh). Năm Giáp Tuất (1874 ) khi mới 10 tuổi Cao Thắng đã đi theo đội Lựu làm liên lạc cho nghĩa quân Cờ Vàng, sau khi đội Lựu chết, Cao Thắng lẩn trốn may được giáo thụ Phan Đình Thuật (anh ruột Phan Đình Phùng) đưa về nuôi. Năm 1881 khi ông Thuật mất Cao Thắng mới trở về Tuần Lễ làm ruộng, năm Giáp Thân (1884) Cao Thắng bị vu cáo là thủ phạm giết vợ Quản Loan nên bị bắt và giam tại thành Hà Tĩnh đến khi Lê Ninh đánh thành năm 1885 mới được giải thoát.

Về nhà ông cùng em ruột là Cao Đạt chiêu tập dân đinh khởi nghĩa rồi gia nhập nghĩa quân Phan Đình Phùng, được cụ Phan hết sức tin cẩn giao cho chức Quản Cơ, mặc dù mới 21 tuổi nhưng Cao Thắng tỏ ra là một tướng tài được quân sĩ tin phục. Năm 1887 Phan Đình Phùng ra Bắc để liên kết các lực lượng chống Pháp, ông được trao quyền chỉ huy nghĩa quân. Ông đã cho xây dựng một hệ thống đồn luỹ hình thành một thế trận liên hoàn dựa lưng vào dãy Thiên Nhẫn và Giăng Màn. Những căn cứ này tạo thành một hình cánh cung vây kín ba mặt Bắc, Tây, Nam sẵn sàng ứng cứu cho nhau một cách mau lẹ nếu một trong các đồn luỹ bị tấn công, vừa có đường rút sang Lào lại có thể tiến thẳng về đồng bằng để khi cần mở rộng địa bàn sang cả Nghệ An vào tận Quảng Bình xuống vùng Đức Thọ, Thạch Hà, Can Lộc về tỉnh thành Hà Tĩnh. Giặc Pháp tiến vào đây chỉ có một con đường độc đạo là quốc lộ 8, cũng chính vì thế những căn cứ này đã có thể giữ vững được cho đến ngày cuối cùng của cuộc khởi nghĩa (1896).

Cao Thắng không những là một nhà chỉ huy quân sự đầy mưu lược, nhà chỉ đạo tổ chức thực tiễn tài giỏi mà còn là một người sáng tạo. Nhận thức được vấn đề vũ khí có tác dụng rất lớn trong chiến tranh, vấn đề đặt ra đối với Cao Thắng là bằng mọi cách phải chế tạo được súng như của Tây. Từ đó ông cho tập trung thợ rèn Trung Lương, Vân Chàng, thợ mộc Xa Lang về Trường Sim mở lò rèn đúc súng theo kiểu 1874 của Pháp, chẳng bao lâu những kho vũ khí lớn như Khe Rèn, đồn Cây Khế ở Đại Hàm đã chứa hàng trăm khẩu súng kiểu 1874 cùng rất nhiều đạn dược, súng bắn rất hiệu nghiệm và chỉ có nhược điểm là bắn không xa bằng súng Pháp do ruột gà ngắn và không có rãnh bên trong. Đại uý Pháp Goselin từng dự vào cuộc chinh phạt ở Nghệ Tĩnh đã viết trong cuốn “Nước Nam”: “ Tôi có đem nhiều khẩu súng đó về Pháp nó giống đủ mọi vẻ như súng của các xưởng binh khí nước ta chế tạo, đến nổi tôi đưa cho các quan pháo thủ xem các ông cũng phải sửng sốt lạ lùng”.
Nhờ tài năng tổ chức chỉ huy biết coi trọng cả hai mặt quân sự và chính trị của Cao Thắng nên vùng căn cứ địa Hương Khê, Hương Sơn được củng cố vững mạnh, từ đó làm bàn đạp để mở rộng địa bàn hoạt động phá thế bao vây của địch. Sau khi ở Bắc về cụ Phan, linh hồn của cuộc khởi nghĩa và Cao Thắng, rường cột của cuộc khởi nghĩa đã mở rộng vùng kháng chiến và phát triển lực lượng với 15 quân thứ và Cao Thắng được phong làm Chưởng vệ tức Tổng chỉ huy nghĩa quân. Dưới quyền chỉ huy của Cao Thắng trong những năm 1889 – 1892 nghĩa quân căn bản giữ vững và phát triển được lực lượng liên tục tấn công địch ở Thanh Chương, Anh Sơn (Nghệ An) khắp nơi ở Hà Tĩnh và các cuộc càn quét của địch đều bị bẻ gãy. Nhưng đến đầu năm 1893 sau khi đánh dẹp xong các cuộc khởi nghĩa ở Bắc Kỳ, quân Pháp tập trung lực lượng khép vòng vây dồn nghĩa quân Hương Khê lên vùng rừng núi. Một mặt chúng cắt đứt các đường tiếp tế lương thực mặt khác dùng kế ly gián dụ hàng, vòng vây của địch ngày càng khép chặt, để phá thế bao vây Cao Thắng đề nghị với Phan Đình Phùng một kế hoạch táo bạo là đánh thẳng vào tỉnh thành Nghệ An đầu não chỉ huy của địch khai thông con đường ra Bắc. Tuy nhiên trong một trận đánh ở Thanh Chương ( Nghệ An) vị tướng tài trẻ tuổi đã hy sinh lúc 29 tuổi giữa lúc tài năng đang chín muồi đó là một tổn thất vô cùng to lớn của nghĩa quân Hương Khê và phong trào chống Pháp ở Trung Kỳ, cụ Phan như mất cánh tay phải đắc lực của mình.

Cao Thắng người con ưu tú của quê hương đã hiến trọn cuộc đời trẻ tuổi vì sự nghiệp của dân tộc, đó là một vị tướng trẻ tuổi, nhà chỉ huy và tổ chức quân sự tài giỏi, một “ kỹ sư quân giới” một nhà sáng chế thông minh sáng tạo. Thân thế và sự nghiệp của Cao Thắng mãi mãi chói ngời trong trang sử anh hùng của dân tộc chống Pháp xâm lược cuối thế kỷ 19.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 12-07-2009   #53
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 33.636.062
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Cao Triều Phát (1889-1956)

Cao Triều Phát (1889-1956) là giáo tông Cao Đài, quê tỉnh Bạc Liêu, thân phụ là Đốc phủ sứ Cao Minh Thạnh và bà Tào Thị Súc. Gia đình có 6 trai và hai gái. Người em gái thứ chín của ông là Cao Thoại Khiết tức Cửu Nương Diêu Trì Cung

Thuở nhỏ ông học Tiểu học tại Bạc Liêu, sau lên Sài Gòn theo học tại trường Chasseloup Laubat. Tốt nghiệp ông làm công chức tại Sài Gòn. Trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914-1918) ông tham gia đánh phát xít Đức ở Châu Âu. Thế chiến kết thúc ông hồi hương, sau đó có sang Pháp một lần nữa.

Khoảng năm 1930, ông nhập môn đạo Cao Đài và hành đạo tại miền Hậu Giang, Cà Mau thuộc phái Minh Chơn Đạo, từng giữ chức Bảo Đạo, Bảo Pháp rồi Bảo Thế (chức sắc của Hiệp Thiên Đài sau chức Hộ Pháp). Ông Phát theo Đạo qua đàn Minh Thiện (Thủ Dầu Một) của bác sĩ Trương Kế An tức Bảo Y quân Toà Thánh Tây Ninh.

Năm 1934 ông cùng đại diện các tông giáo bạn tổ chức “Hội lý đạo công đồng giáo lý” tại Bạc Liêu. Năm 1937 tham gia công cuộc truyền giáo Cao Đài tại tỉnh Quảng Nam, năm 1941 giữ chức chủ tịch “Cao Đài 12 phái thống nhất” ở miền Hậu Giang. Năm 1945, ông được bầu làm chủ tịch Cao Đài Mười Một phái hiệp nhất tại chùa Minh Tân. Trong thời gian truyền đạo ở Hậu Giang từ năm 1941 ông bị Pháp bắt giam tại khám lớn Sài Gòn rồi bị quản thúc tại Bạc Liêu.

Ngày toàn quốc kháng chiến (19-12-1946) ông tham gia kháng chiến trong cương vị một chức sắc đạo Cao Đài. Ông là người thành lập Thanh niên đạo đức đoàn qui tụ các thanh niên theo đạo Cao Đài làm công tác xã hội, văn hóa trong cuộc kháng chiến chống Pháp.

Năm 1947 ông được bầu làm Hội trưởng Cao Đài Cứu quốc mười một phái hiệp nhất, đến Hiệp định Genève (1954) ông tập kết ra Bắc.

Thời gian ở miền Bắc ông giữ chức Chưởng quản Cửu trùng đài (coi như giáo tông) của “Cao Đài cứu quốc mười hai phái hiệp nhất”.

Ông từng là Đại biểu Quốc hội, Cố vấn Ủy ban kháng chiến Nam Bộ, ủy viên thường trực Quốc hội, ủy viên Ủy ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam... Ông được tặng thưởng các huân chương: Độc lập hạng nhì (1949); Kháng chiến hạng nhất (1957), sau khi mất, được truy tặng Huân chương kháng chiến hạng nhất (30-8-1961).

Nhà văn Thiếu Sơn trong báo Đuốc Nhà Nam ở Sài Gòn, khi viết về Bài học Cao Triều Phát cho rằng:

“Cụ đã tham gia kháng chiến ngay từ đầu và đã kháng chiến tới già, tới chết. Phần lớn sự nghiệp của cụ, cụ đã cống hiến cho cách mạng. Hiện tượng Cao Triều Phát là một hiện tượng đặc biệt, nói lên cái nghĩa khí của người dân Nam bộ, hơn nữa lại là một nhà giàu muôn hộ trọng nghĩa và khinh tài”.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 12-07-2009   #54
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 33.636.062
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Cao Văn Lầu(1892 - 1976)

Cao Văn Lầu(1892 - 1976) thường gọi Sáu Lầu, là một nhạc sĩ và là tác giả bài "Dạ cổ hoài lang", một bài ca độc đáo và nổi tiếng nhất trong nghệ thuật cải lương Việt Nam. Ông sinh ngày 22 tháng 12 năm 1892 tại xóm Cái Cui, làng Chí Mỹ, sau sát nhập với làng Thuận Lễ trở thành xã Thuận Mỹ, huyện Vàm Cỏ, tỉnh Long An.

Khi Cao Văn Lầu được bốn tuổi (năm 1896), ông Chín Giỏi (chưa rõ tên thật, cha Cao Văn lầu) vì nghèo, vì bị áp bức nên đã cùng vợ và sáu đứa con nhỏ xuống ghe, tìm đất khác sinh sống.

Buổi đầu, ông Chín Giỏi đến tá túc trên đất của một người bà con ở Gia Hội (Bạc Liêu). Sau chín tháng đi làm mướn cật lực mà không đủ ăn, gia đình ông lại phải dời sang Xà Phiên (nay thuộc Long Mỹ, tỉnh Hậu Giang), khẩn hoang làm ruộng. Khoảng một năm sau, hơn 40 công đất, nhờ khó nhọc mới có được, bị địa chủ chiếm lấy. Nhờ người giới thiệu, gia đình ông Chín Giỏi dọn về Họng Chàng Bè (Giá Rai, Bạc Liêu) để tiếp tục khẩn hoang, nhưng rồi số đất này về sau cũng về tay người khác.

Xót cảnh trắng tay của ông Giỏi, hương sư Chơn ở làng Vĩnh Lợi tổng Thạnh Hòa, cho ông cất một căn chòi lá ở trên đất công điền gần chùa Vĩnh Phước An (nay thuộc phường 2, thị xã Bạc Liêu). Ở đó, vợ chồng ông và các con phải đi làm thuê, đi câu để chạy ăn từng bữa.

Hòa thượng Minh Bảo (? - 1912), trụ trì chùa Vĩnh Phước An, thấy gia đình ông Chín Giỏi vất vả quá mà không đủ ăn, nên đề nghị cho Cao Văn Lầu, lúc đó mới 8 tuổi, vào chùa ở để chia sẻ gánh nặng. Kể từ đó chú bé Lầu, vừa kinh kệ, vừa được nhà sư dạy cho chữ Nho.

Năm 1903, nhờ cha đến xin, Cao Văn Lầu được phép trở về nhà để học chữ Quốc ngữ. Nhưng chỉ học đến "lớp nhì năm thứ hai" (Cours moyen 2e année) tức lớp 4 ngày nay, thì ông Lầu phải thôi học vì nhà gặp thêm cảnh khó: anh đi ở rể, chị lấy chồng, cha già yếu... Vậy là, năm 15 tuổi (1907), Cao Văn Lầu phải thay cha và anh chị đi làm những việc nặng nhọc để nuôi gia đình.

Lúc bấy giờ tại xóm Rạch Ông Bổn có một thầy đàn nổi tiếng tên Lê Tài Khí, tục gọi Hai Khị hay Nhạc Khị. Ông thầy này bị mù cả hai mắt thêm có tật ở chân[1], nhưng ngón đàn của ông thật điêu luyện[2].

Năm 1908, Cao Văn Lầu nhờ cha dẫn đến thầy Hai Khị để xin học đàn mỗi đêm. Nhờ yêu thích và siêng năng, ông mau chóng sử dụng thành thạo các loại nhạc cụ như đàn tranh, cò, kìm, trống lễ; và trở thành một nhạc sĩ nồng cốt trong ban cổ nhạc của thầy.

Năm 1912, ông bắt đầu đi hát với Sáu Thìn và cô Phấn với bài Tứ đại oán Bùi Kiệm thi rớt.

Năm 21 tuổi (1913), Cao Văn Lầu vâng lệnh cha mẹ đi cưới vợ, đó là cô Trần Thị Tấn, một cô gái nết na ở điền Tư Ô (Chung Bá Khánh).

Khoảng thời gian này, ông sáng tác được một bản ngắn mang tên Bá điểu, sau đổi lại Thu phong, gồm tám câu nhịp bốn. Sau nữa, bản nhạc này được soạn giả Trịnh Thiên Tư đặt thêm lời ca và có tên mới là Mừng khi gặp bạn.

Năm 1917, ông sáng tác thêm một khúc gồm 22 câu, theo một chủ đề của thầy Nhạc Khị đề xướng là "Chinh phụ vọng chinh phu" (chủ đề được rút ra từ bản Nam ai "Tô Huệ chức cẩm hồi văn") nhưng chưa kịp sửa chữa và trình thầy thì gặp nghịch cảnh đau lòng. Vợ ông đã ba năm mà vẫn chưa có dấu hiệu thai nghén, theo tục xưa, cha mẹ buộc ông phải trả vợ về nhà cha mẹ ruột.[3]

Khoảng một năm sau, trong tâm trạng nhớ thương vợ, bản nhạc trên được đem ra soạn lại. Nghe bạn đồng môn tên Ba Chột góp ý, ông bỏ bớt 2 câu trùng lắp, bài nhạc còn chẵn 20 câu nhịp đôi.

Tết Trung Thu năm 1918 (15 tháng 8 âm lịch năm Mậu Ngọ, nhằm ngày 19 tháng 9 năm 1918)[4], ông cùng các bạn đến thăm thầy, luôn tiện trình bày bản nhạc chưa có tên trên. Nghe xong, thầy Nhạc Khị hết sức khen ngợi.

Đêm đó có nhà sư Nguyệt Chiếu cùng tham dự, thầy Nhạc Khị liền nhờ nhà sư đặt tên cho bản nhạc. Nhà sư nói:"... tuy nhạc và lời ca còn vài điểm bất nhất, nhưng cái chung vẫn diễn tả được tâm tư của nàng Tô Huệ[5]. Vậy cứ theo tích này mà đặt tên cho bài là "Dạ cổ hoài lang" (Nghe tiếng trống đêm nhớ chồng)." Kể từ đêm đó, bài ca này được loan truyền nhanh chóng.

Năm 1919, ông Lầu làm nhạc công trong gánh hát cải lương của Ba Xú (Bạc Liêu).

Cách mạng tháng Tám thành công, ông tham gia Mặt trận Liên Việt ở ấp Vĩnh Phước, xã Vĩnh Lợi, tỉnh Bạc Liêu.

Năm 1947, ông nhận nhiệm vụ đặc biệt là cứu và đã cứu được một số cán bộ bị thực dân Pháp bắt.

Từ 1918 đến năm 1974, ngoài bản "Dạ cổ hoài lang", mà sau này phát triển thành bản "vọng cổ", làm thay đổi một phần bộ mặt cải lương; ông Cao Văn Lầu còn sáng tác thêm 10 bản nữa, nhưng đa phần chỉ lưu hành ở Bạc Liêu.

Ông mất lúc 13 giờ ngày 13 tháng 8 năm 1976 tại Thành phố Hồ Chí Minh, thọ 84 tuổi.

Chú thích

1.Theo Trần Đức Thuận. Vương Hồng Sển nói ông có tật ở tay (sách ghi ở mục tài liệu).
2.Trong Hồi ký 50 năm mê hát, Ông Vương Hồng Sển cho biết: "Nếu phải kể công đầu, đáng làm hậu tổ cải lương, đó là ông Hai Khị ở Bạc Liêu. Nghe đâu ông sống lối năm 1915…Ông đau cổ xạ, ngón tay co rút và ngo ngoe rất khó. Thế mà ông có tài riêng, không ai bắt chước được. Ai muốn thử tài cứ đến nhà, ban đầu ông giở mùng cho xem, chỉ trống, kèn, chụp chõa trơ trơ ở trong ấy. Thế rồi khách ra ngồi salon, ông Khị chun vô mùng, một “mình ên”, rồi bỗng nghe trọn bộ cổ nhạc khua động có tiết tấu nhịp nhàng y như có cả bốn năm người hòa tấu: trống xổ, kèn thổi, đờn kéo ò e, chụp chõa lùng tùng xòa...Không ai biết ông làm cách nào mà được vậy, quả là diệu thuật."(sách ghi ở mục tài liệu, tr. 46)
3.Do quá nhớ thương, thi thoảng vợ chồng ông vẫn lén lút gặp nhau. Sau, vợ ông thụ thai, hai người lại được xum họp.
4.Ghi theo Bàn về thời điểm ra đời và nguồn gốc của bản Dạ cổ hoài lang của Trần Phước Thuận và Từ điển nhân vật lịch sử. Có nguồn ghi khác, xem thêm Dạ cổ hoài lang)
5.Tô Huệ 蘇惠, tự Nhược Lan, người đất Thần Châu đời nhà Tấn (265-419). Nàng dung nhan kiều mị, tài đức song toàn, văn chương xuất chúng. Khi Tô được 20 tuổi cha mẹ đính gả cho hàn sĩ Đậu Thao, người cùng quê. Sau Đậu Thao đỗ đạt làm quan, may mắn được nhậm chức tại Thần Châu, không phải đi xa. Đang yên ấm, nhưng rồi vì công vụ cần thiết, nhà vua truyền Đậu Thao ra trấn nhậm đất Lưu Sa. Ba năm xa cách với nỗi thương nhớ triền miên, nàng lấy gấm vuông độ chừng một thước, dùng chỉ ngũ sắc thêu 10 bài tứ tuyệt do mình làm. Nàng thêu theo hình trôn ốc, từ ngoài xoáy tròn vào trung tâm bức gấm. Xong nàng tự tay dâng lên nhà vua, nhưng cả triều đình không ai đọc được. Được vua cho phép, nàng Tô Huệ đứng giữa triều cất tiếng ngâm với một giọng bi thiết bài Chức cẩm hồi văn. Nhà vua quá cảm động, vội hạ chiếu cho gọi Đậu Thao về ngay.
Bách khoa

Tài sản của LSB-Sun
Đã khóa chủ đề


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 03:27
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,15654 seconds with 15 queries