Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Văn Hóa Thế Giới
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Văn Hóa Thế Giới Chia sẻ những nền văn hóa của các nước trên thế giới

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 28-03-2009   #1
Ảnh thế thân của __Phi*Tuyết__
__Phi*Tuyết__
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Ảo Mộng Vô Cực
Gia nhập: 07-04-2006
Bài viết: 4.249
Điểm: 656
L$B: 2.050.443
Tâm trạng:
__Phi*Tuyết__ đang offline
 
Cộng Đồng Các Dân Tộc Việt Nam

CỘNG ĐỒNG CÁC DÂN TỘC VIỆT NAM



Việt Nam ta là 1 đất nước gồm 54 dân tộc anh em, cùng chung sống. Các dân tộc đoàn kết với nhau tạo. Nhưng mỗi dân tộc có lối sống và phong tục riêng tạo nên những nét văn hóa rất đặc sắc. Trong loạt bài viết này PT xin giới thiệu với các bạn các dân tộc đó. Mỗi một bài viết PT sẽ giới thiệu về 1 Dân tộc, bạn nào có đóng góp thi PT rất cảm ơn. Nhưng để tránh trùng lặp ( 1 dân tộc đã giới thiệu rồi lại giới thiệu lại ) các bạn nhớ đọc kĩ trước khi đăng bài

*Lưu ý: Tất cả tư liệu được sử dụng trong loạt bài viết này được sưu tầm từ nhiều nguồn khác nhau


DÂN TỘC THÁI




Dân tộc Thái hiện nay có hơn 1 triệu người, sinh sống tập trung tại các tỉnh Sơn La, Lai Châu, Hoà Bình, Nghệ An. Dân tộc Thái có tên gọi là Táy và các nhóm Táy Đăm, Táy Khao, Táy Mười, Tày Thanh, Hàng Tổng, Pu Thay, Thổ Đà Bắc. Tiếng Thái thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái.

Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, đào mương, dựng cọn, bắc máng lấy nước làm ruộng. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt là lúa nếp. Người Thái cũng làm mương để trồng lúa, hoa mầu và nhiều thứ cây khác. Từng gia đình chăn nuôi gia súc, gia cầm, đan lát, dệt vải, một số nơi làm đồ gốm... Sản phẩm nổi tiếng của người Thái là vải thổ cẩm, với những văn hoa độc đáo, màu sắc tươi hài hoà, bền đẹp.

Mấy chục năm gần đây, nam giới người Thái mặc Âu phục khá phổ biến, nhưng phụ nữ vẫn gắn bó với bộ áo, váy, khăn cùng lối trang sức theo truyền thống văn hoá dân tộc. Người Thái thường ở nhà sàn, mỗi bản thường có khoảng 40-50 nóc nhà kề bên nhau. Người Thái Đen thường tạo dáng mái nhà hình mai rùa, trang trí hai bên đầu đốc nhà bằng những khau cút được làm theo phong tục từ xưa truyền lại. Người Thái có tục ở rể, vài năm sau khi vợ chồng có con với về ở bên nhà chồng.


Nhà mồ của người thái

Đồng bào quan niệm "chết" là tiếp tục sống ở thế giới bên kia. Vì vậy đám ma là lễ tiễn người chết về "mường trời".

Người Thái có nhiều họ, mỗi họ thường có những quy định kiêng kỵ khác nhau. Họ Lò không ăn thịt chim Táng Lò. Họ Quàng kiêng con hổ... Đồng bào Thái thờ cúng tổ tiên, cúng trời đất, cúng bản mường. Gắn liền với sản xuất là những lễ nghi cầu mùa. Mở đầu hàng năm bằng lễ đón tiếng sấm năm mới.


Một góc nhà của người thái

Thần thoại, truyền thuyết, cổ tích, truyện thơ, ca dao... là những vốn quý báu của văn học cổ truyền người Thái. Những tác phẩm thơ ca nổi tiếng của người Thái là: "Xống trụ xon xao", "Khun Lú, Nàng ửa" . Người Thái sớm có chữ viết nên nhiều vốn cổ (văn học, luật lệ, dân ca) được ghi chép lại trên giấy bản và lá cây. Đồng bào rất thích ca hát, đặc biệt là khắp - lối ngâm thơ hoặc hát theo lời thơ, có thể đệm đàn và múa. Nhiều điệu múa như múa xoè, múa sạp đã được trình diễn trên sân khấu trong và ngoài nước, hấp dẫn đông đảo khán giả. Hạn khuống, ném còn là hai đặc trưng văn hoá của người Thái.


chiếc khăn piêu của người thái

Đồng bào Thái làm Piêu từ loại vải bông tự dệt. Trước khi thêu, miếng vải được chọn làm khăn đội đều phải nhuộm chàm. Chàm là màu nền để trên đó người phụ nữ Thái thêu lên các họa tiết, hoa văn bằng các loại chỉ màu (xanh, đỏ, tím, vàng, da cam....) ở hai đầu khăn. Để có một chiếc Piêu hoàn chỉnh, người phụ nữ Thái phải mất thời gian từ hai đến bốn tuần.


vòng xòe của người thái

Theo truyền thống của dân tộc Thái vào những ngày lễ, tết, ngày vui của dòng họ, gia đình, nhất là nhà đón khách quý… vòng xòe thường được tổ chức như một nghi lễ dân gian để đón mừng và bên ánh lửa bập bùng tay trong tay tình cảm con người gần gũi, xiết chặt thể hiện nét đẹp truyền thống


Chữ ký của __Phi*Tuyết__
Gió bay nỗi nhớ qua cầu
Cho lòng sông rối đục ngầu nước trôi
Tình yêu chỉ mỗi mình thôi
Tương tư gãy ánh trăng côi cút sầu


Chỉnh sửa lần cuối bởi __Phi*Tuyết__: 27-04-2009 lúc 07:38.
Trả lời kèm theo trích dẫn
5 thành viên đã gửi lời cám ơn đến __Phi*Tuyết__ vì bài viết hữu ích này:
( Lion ) (23-05-2009), dohieutq (17-09-2011), Lăng Độ Vũ (28-03-2009), Tú_Yên (29-03-2009), Trùm Cuối (30-03-2009)
Cũ 28-03-2009   #2
Ảnh thế thân của __Phi*Tuyết__
__Phi*Tuyết__
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Ảo Mộng Vô Cực
Gia nhập: 07-04-2006
Bài viết: 4.249
Điểm: 656
L$B: 2.050.443
Tâm trạng:
__Phi*Tuyết__ đang offline
 
2.Dân tộc Mông (H'Mông)


Tên dân tộc: Mông (Mông Trắng, Mông Hoa, Mông Ðỏ, Mông Ðen, Mông Mán)
Dân số: 787.604 người (năm 1999).
Ðịa bàn cư trú: Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên Bái, Lai Châu, Sơn La, Cao Bằng, Nghệ An.



Phong tục tập quán:
Mỗi dòng họ sống thành cụm do trưởng họ đảm nhiệm. Tự do hôn nhân, nhưng không lấy người cùng dòng họ. Vợ chồng rất ít bỏ nhau.

Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc nhóm Mông - Dao.

Văn hoá: Người Mông ở nhà trệt, cấu trúc theo lối xứ lạnh, có lò sưởi, có thịt sấy ăn quanh năm, có món "mèn mén", món "thắng cố" độc đáo. Nhạc cụ là nhiều loại khèn và đàn môi. Tết tổ chức vào tháng 12 dương lịch. Trong 3 ngày Tết không ăn rau xanh. Nam nữ thanh niên vui xuân, thổi khèn gọi bạn.


Con trai người Mông thổi Kèn

Trang phục: Quần áo may bằng vải lanh tự dệt. Nữ mặc váy xoè rộng, áo xẻ ngực, tạp dề trước và sau, xà cạp quấn chân.


Trò chơi đánh én của dt Mông

Kinh tế: Làm nương rẫy du canh và trồng lúa nước ở ruộng bậc thang. Trồng lanh để lấy sợi dệt vải và cây dược liệu.


Chữ ký của __Phi*Tuyết__
Gió bay nỗi nhớ qua cầu
Cho lòng sông rối đục ngầu nước trôi
Tình yêu chỉ mỗi mình thôi
Tương tư gãy ánh trăng côi cút sầu

Trả lời kèm theo trích dẫn
4 thành viên đã gửi lời cám ơn đến __Phi*Tuyết__ vì bài viết hữu ích này:
dohieutq (17-09-2011), Lăng Độ Vũ (28-03-2009), Tú_Yên (29-03-2009), Trùm Cuối (30-03-2009)
Cũ 29-03-2009   #3
Ảnh thế thân của __Phi*Tuyết__
__Phi*Tuyết__
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Ảo Mộng Vô Cực
Gia nhập: 07-04-2006
Bài viết: 4.249
Điểm: 656
L$B: 2.050.443
Tâm trạng:
__Phi*Tuyết__ đang offline
 
3.DÂN TỘC DAO



Tên dân tộc: Dao
Địa bàn cư trú: Dân tộc Dao là một trong 54 dân tộc anh em đang sống trên dải đất Việt Nam. Hiện nay, dân tộc Dao có khoảng gần 500.000 người, phân bố chủ yếu ở các tỉnh vùng cao biên giới phía bắc Việt Nam như Tuyên Quang, Hà Giang, Cao Bằng, Lạng Sơn. Hầu hết các nhóm người Dao đều thờ tổ tiên là Bàn Hồ. Một số ngành nghề thủ công của người Dao rất phát triển như dệt vải, rèn, mộc, làm giấy, ép dầu...



Phong tục tập quán: Cư trú thành thôn bản thưa thớt, ven các sườn núi cao nơi có nhiều rừng cây. Nhà ở có hai loại: Nhà đất và nhà nửa sàn nửa đất. Người Dao thì tin rằng vạn vật đều có linh hồn gọi là “Hon” hoặc “Vần”. Khi một thực thể bị chết thì hồn lìa khỏi xác và biến thành ma. Theo quan niệm này bất kỳ ở đâu trên trái đất này đều có hồn và ma. Người Dao cũng thờ cúng tổ tiên như nhiều dân tộc khác. Bàn thờ dòng họ được đặt ở nhà tộc trưởng. Nhưng nói đến phong tục người Dao phải nói tới lễ cấp sắc. Đây là một nghi lễ, một sinh hoạt mà không một người đàn ông dân tộc Dao nào không trải qua. Hiện nay ở tất cả các làng của người Dao các em trai ở lứa tuổi từ 13 - 14 tuổi được làm lễ cấp sắc. Lễ được diễn ra rất thiêng liêng có thầy cúng và bà con trong bản chứng kiến. Những chàng trai người Dao sau khi được cấp sắc coi như có quyền làm người lớn và chịu trách nhiệm trước cộng đồng dân tộc của mình.


Màn múa chuông của dân tộc Dao

Ngôn ngữ: Thuộc nhóm Mông - Dao.
Văn hóa: Họ có kho tàng truyện cổ tích, thơ ca, hò vè được phổ biến rộng rãi, kể về các đề tài: đấu tranh với thiên nhiên, lao động sản xuất, quan hệ xã hội và gia đình,... thể hiện ước vọng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc v.v... như những truyện “Hai chị em”, “Bắt yêu tinh”; như: “múa chuông”, “múa trống”. Các nhạc cụ truyền thống được sử dụng như: trống, chiêng, chuông.


Lễ hội đón xuân của dân tộc Dao

Trang phục: Trang phục của hai nhóm Dao ở Quảng Ninh về cơ bản giống nhau: áo dài, quần, yếm, dây lưng, mũ khăn, xà cạp v.v... Chỉ khác nhau ở cách tạo hình trang trí hoa văn. áo, quần đều màu đen hoặc màu chàm.
Kinh tế: Nghề sống chủ yếu là nông nghiệp nương rẫy, ngày nay một số nơi đã chuyển sang trồng rừng, trồng lúa nước và chăn nuôi.
Kiến trúc nhà ở của người Dao cũng rất phong phú tuỳ nhóm mà ở nhà sẽ nhà trệt hay nửa sàn, nửa đất. Hiện nay tại Bảo tàng dân tộc học Việt Nam ngôi nhà nửa sàn nửa đất được chọn để trưng bày và giới thiệu. Loại nhà nửa sàn nửa đất, là loại kiến trúc nhà cửa của riêng người Dao, gắn liền với cuộc sống du canh du cư trước đây. Điều đặc biệt là toàn bộ ngôi nhà của người Dao đều được làm bằng tranh tre nứa lá, không có một chút gạch ngói. 8 cột cái trong nhà được làm bằng những cây gỗ quí, có tuổi rất già 80-90 năm. Mỗi lần chuyển nhà, họ có thể bỏ phên, tranh tre nứa lá còn những cột cái bằng gỗ quí có sức bền với thời gian thì họ chuyên chở đi để làm ngôi nhà nơi ở mới.


Một kiểu kiến trúc nhà ở của người Dao


Chữ ký của __Phi*Tuyết__
Gió bay nỗi nhớ qua cầu
Cho lòng sông rối đục ngầu nước trôi
Tình yêu chỉ mỗi mình thôi
Tương tư gãy ánh trăng côi cút sầu

Trả lời kèm theo trích dẫn
3 thành viên đã gửi lời cám ơn đến __Phi*Tuyết__ vì bài viết hữu ích này:
Lăng Độ Vũ (29-03-2009), Tú_Yên (29-03-2009), Trùm Cuối (30-03-2009)
Cũ 29-03-2009   #4
Ảnh thế thân của __Phi*Tuyết__
__Phi*Tuyết__
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Ảo Mộng Vô Cực
Gia nhập: 07-04-2006
Bài viết: 4.249
Điểm: 656
L$B: 2.050.443
Tâm trạng:
__Phi*Tuyết__ đang offline
 
4.DÂN TỘC MƯỜNG





Tên dân tộc: Mường (Mol, Mual, Moi, Moi Bi, Au Tá, Ao Tá)
Dân số: 1.137.515 người (năm 1999).

Thiếu nữ Mường

Ðịa bàn cư trú: Cư trú ở nhiều tỉnh phía bắc, tập trung đông ở Hoà Bình và miền núi Thanh Hoá. Sống định canh định cư nơi có nhiều đất sản xuất, gần đường giao thông, thuận tiện cho việc làm ăn.


Nhà ở của người Mường

Phong tục tập quán:
Thờ cúng tổ tiên và tin vào đa thần giáo. Xưa tổ chức xã hội của người Mường là chế độ lang đạo chia nhau cai quản các vùng. Ðứng đầu mỗi mường có các Lang Cun, dưới Lang Cun có các Lang Xóm hoặc Đạo Xóm.


Một cảnh lễ hội

Hôn lễ của người Mường gần giống người Kinh. Khi trong nhà có người sinh nở thì rào cầu thang chính bằng phên nứa. Khi trẻ lớn khoảng một tuổi mới đặt tên. Khi có người chết, tang lễ được tổ chức theo nghi thức nghiêm ngặt.

Ngôn ngữ: Ngôn ngữ thuộc nhóm Việt - Mường.

Văn hoá: Kho tàng văn nghệ dân gian khá phong phú: thơ, bài mo, truyện cổ, dân ca, ví đúm, tục ngữ. Có nhiều bài hát: ru em, đồng giao, hát đập hoa, hát đố, hát trẻ con chơi... Nhạc cụ có cồng, nhị, sáo trống, khèn lù. Có nhiều ngày hội trong năm: hội xuống đồng (khuông mùa), hội cầu mưa, lễ rửa lá lúa, lễ cơm mới...


Nhạc cụ của người Mường

Trang phục: Nam mặc quần áo màu chàm. Nữ mặc áo, váy, áo ngắn thân xẻ ngực (có nơi xẻ vai), ít cài cúc và mặc yếm. Váy khá dài, cao đến nách, cạp váy dệt bằng tơ nhuộm màu, có hoa văn trang trí rất đẹp. Ðầu đội khăn màu trắng hình chữ nhật.

Kinh tế: Làm ruộng từ lâu đời. Lúa nước là cây lương thực chủ yếu. Kinh tế phụ là khai thác lâm thổ sản. Nghề thủ công có dệt vải, đan lát, ươm tơ. Nhiều phụ nữ Mường dệt thủ công với kỹ nghệ khá tinh xảo.

Con gái Mường dệt vải


Chữ ký của __Phi*Tuyết__
Gió bay nỗi nhớ qua cầu
Cho lòng sông rối đục ngầu nước trôi
Tình yêu chỉ mỗi mình thôi
Tương tư gãy ánh trăng côi cút sầu

Trả lời kèm theo trích dẫn
2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến __Phi*Tuyết__ vì bài viết hữu ích này:
Tú_Yên (31-03-2009), Trùm Cuối (30-03-2009)
Cũ 30-03-2009   #5
Ảnh thế thân của __Phi*Tuyết__
__Phi*Tuyết__
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Ảo Mộng Vô Cực
Gia nhập: 07-04-2006
Bài viết: 4.249
Điểm: 656
L$B: 2.050.443
Tâm trạng:
__Phi*Tuyết__ đang offline
 
5.DÂN TỘC TÀY



Dân tộc Tày là một cộng đồng thuộc nhóm ngôn ngữ Tày-Thái, có số dân khoảng 1,2 triệu người, đông nhất trong các dân tộc thiểu số ở nước ta.


Thiếu nữ Tày

Dân tộc Tày còn có tên gọi khác là Thổ và bao gồm cả các nhóm: Ngạn, Phén, Thu Lao, Pa Dí. Người Tày cư trú ven các thung lũng, triền núi thấp ở các tỉnh Cao Bằng, Lạng Sơn, Bắc Cạn, Thái Nguyên, Quảng Ninh và một số vùng thuộc Bắc Giang.


Nhà Dài của người Tày

Phong tục tập quán: Cư trú theo đơn vị làng, bản, tập trung ở ven suối hoặc những thung lũng bằng và rộng. Nhà ở trước đây là nhà sàn, ngày nay đã có sự thay đổi ở nhiều địa phương, như vùng giáp biên giới là nhà phòng thủ được xây dựng theo kiểu pháo đài đề phòng hoả hoạn. Thờ cúng tổ tiên, không kể các dịp lễ tết, người ta phải dâng hương, hoa, lễ vật mỗi tháng hai lần vào ngày mùng một và rằm. Đây là nhiệm vụ của gia trưởng, bắt nguồn từ thờ cúng gia tộc, thờ các vị thánh.


Màn Múa kiếm đón năm mới của người Tày

Văn hoá: Họ có kho tàng truyện cổ tích, thơ ca, hò vè về các đề tài đấu tranh với thiên nhiên; về lao động sản xuất, về quan hệ xã hội và gia đình, thể hiện ước vọng có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, tiêu biểu là truyện “Nùng Trí Cao”, “Nàng Khuấy”, “Pú Luông - Già Cải”; nhạc cụ có “Đàn tính”.



Ngôn ngữ: Thuộc nhóm ngôn ngữ Tày- Nùng.
Trang phục: Gồm có áo cánh ngắn, áo dài, váy, quần, thắt lưng, khăn đội đầu, giầy vải và các đồ trang sức khác. Quần áo, váy đều mầu chàm hoặc mầu đen.
Kinh tế: Nguồn sống chính là trồng mầu trên đất bãi, trồng lúa nước và chăn nuôi.



Người Tày có một nền nông nghiệp cổ truyền khá phát triển với đủ loại cây trồng như lúa, ngô, khoai... và rau quả mùa nào thức đó.

Bản của người Tày thường ở chân núi hay ven suối. Tên bản thường gọi theo tên đồi núi, đồng ruộng, khúc sông. Mỗi bản có từ 15-20 nóc nhà. Bản lớn chia ra nhiều xóm nhỏ. Nhà ở có nhà sàn, nhà đất và một số vùng giáp biên giới có loại nhà phòng thủ. Trong nhà phân biệt phòng nam ở ngoài, nữ ở trong buồng. Người Tày thường mặc quần áo vải bông nhuộm chàm, áo phụ nữ dài đến bắp chân, ống tay hẹp, xẻ nách ở bên phải, cài 5 khuy.


Chữ ký của __Phi*Tuyết__
Gió bay nỗi nhớ qua cầu
Cho lòng sông rối đục ngầu nước trôi
Tình yêu chỉ mỗi mình thôi
Tương tư gãy ánh trăng côi cút sầu

Trả lời kèm theo trích dẫn
3 thành viên đã gửi lời cám ơn đến __Phi*Tuyết__ vì bài viết hữu ích này:
Lăng Độ Vũ (01-04-2009), Tú_Yên (31-03-2009), Trùm Cuối (30-03-2009)
Cũ 30-03-2009   #6
Ảnh thế thân của __Phi*Tuyết__
__Phi*Tuyết__
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Ảo Mộng Vô Cực
Gia nhập: 07-04-2006
Bài viết: 4.249
Điểm: 656
L$B: 2.050.443
Tâm trạng:
__Phi*Tuyết__ đang offline
 
6.DÂN TỘC NÙNG



Dân tộc Nùng có gần khoảng 706.000 người, họ sống tập trung ở các tỉnh Lạng Sơn, Cao Bằng, Bắc Thái, Hà Bắc, Tuyên Quang. Người Nùng gồm có các nhóm: Xuồng, Giang, Nùng An, Nùng Lòi, Phàn Sinh, Nùng Cháo, Nùng Inh, Quý Rịn, Nùng Dín, Khen Lài.


Thanh niên Nùng

Tiếng nói của người Nùng rất gần với tiếng Tày và thuộc hệ ngôn ngữ Tày-Thái. Tiếng Nùng có văn tự là nôm Nùng xuất hiện từ thế kỷ XVII.

Đồng bào Nùng thờ tổ tiên là chính. Bàn thờ để một buồng trong nhà, trên bàn thờ tổ tiên là bàn thờ các vị tiên, thánh, thần, Khổng Tử, và Quan âm Bồ tát.


1 góc thờ cúng của người nùng


Trang phục người Nùng Inh

Nguồn sống chính của người Nùng là cây lúa và cây ngô. Họ kết hợp làm ruộng nước ở các khe dọc với trồng lúa cạn trên sườn đồi. Đồng bào Nùng có trồng nhiều cây công nghiệp, cây ăn quả lâu năm như quýt, hồng... Hồi là cây quý nhất của đồng bào, hàng năm mang lại nguồn lợi đáng kể. Các ngành nghề thủ công đã phát triển, phổ biến nhất là nghề dệt, tiếp đến là nghề mộc, đan lát và nghề rèn, nghề gốm.



Đồng bào Nùng sồng thành từng bản trên các sườn đồi. Thông thường trước bản là ruộng nước, sau bản là nương và vườn cây ăn quả. Đồng bào ở nhà sàn làm bằng gỗ tốt, lợp ngói máng hoặc lợp tranh. Đồng bào Nùng mặc áo chàm. Tấm áo chàm của người Nùng đã từng che cho Bác Hồ khi Bác từ nước ngoài về sống và hoạt động cách mạng ở Pắc Bó (1941).

Một số vùng đồng bào còn lưu truyền câu truyện cổ với sự tích màu chàm là màu chung thuỷ của người vợ trẻ chờ chồng đi đánh giặc giữ nước. Người Nùng thích ăn các món xào mỡ lợn. Món ăn độc đáo và được coi là món ăn sang trọng của đồng bào là "khau nhục". Hình thức mời nhau uống rượi chéo chén có lịch sử từ lâu đời, nay đã thành tập quán của đồng bào.

Đồng bào Nùng có một kho tàng văn hoá dân gian phong phú và có nhiều làn điệu dân ca đậm đà màu sắc dân tộc. Tiếng Sli giao duyên của thanh niên Nùng Lạng Sơn hoà quyện vào âm thanh tự nhiên của núi rừng gây nhiều ấn tượng sâu sắc cho những ai đã một lần đến xứ Lạng. Then là điệu dân ca tổng hợp có lời, có nhạc, có kiểu trang trí, có hình thức biểu diễn đã làm rạo rực tâm hồn bao chàng trai Nùng khi ở xa quê hương.

Lễ hội nổi tiếng thu hút được nhiều người, nhiều lứa tuổi khác nhau là hội "lùng tùng" (còn có nghĩa là hội xuống đồng) được tổ chức vào tháng giêng hàng năm.


Chữ ký của __Phi*Tuyết__
Gió bay nỗi nhớ qua cầu
Cho lòng sông rối đục ngầu nước trôi
Tình yêu chỉ mỗi mình thôi
Tương tư gãy ánh trăng côi cút sầu

Trả lời kèm theo trích dẫn
3 thành viên đã gửi lời cám ơn đến __Phi*Tuyết__ vì bài viết hữu ích này:
Lăng Độ Vũ (01-04-2009), Tú_Yên (31-03-2009), Trùm Cuối (31-03-2009)
Cũ 31-03-2009   #7
Ảnh thế thân của __Phi*Tuyết__
__Phi*Tuyết__
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Ảo Mộng Vô Cực
Gia nhập: 07-04-2006
Bài viết: 4.249
Điểm: 656
L$B: 2.050.443
Tâm trạng:
__Phi*Tuyết__ đang offline
 
7.DÂN TỘC HÀ NHÌ


Tên gọi khác : U Ní, Xá U Ní
Nhóm ngôn ngữ : Tạng - Miến
Dân số : 12.500 người.

Cư trú : ở các tỉnh Lai Châu và Lào Cai



Đặc điểm kinh tế
Nguồn gốc chính của đồng bào là trồng lúa, có nơi làm ruộng, có nơi làm nương rẫy. Hà Nhì là một trong những dân tộc có truyền thống khai khẩn ruộng bậc thang và đào mương đắp đập lấy nước, dùng trâu bò cày kéo và làm vườn cạnh nhà...
Chăn nuôi là một nghề phát triển. Các nghề thủ công như đan lát, dệt vải cũng rất phổ biến. Phần đông người Hà Nhì tự túc được vải mặc.

Tổ chức cộng đồng
Người Hà Nhì hiện nay đã định cư, mỗi bản có khi đông tới 60 hộ. Người Hà Nhì có nhiều họ, mỗi họ gồm nhiều chi. Dịp tết hàng năm có tục cả dòng họ tụ tập lại nghe người già kể tộc phả của mình, có dòng họ nhớ được về xưa tới 40 đời.
Tên của người Hà Nhì thường đặt theo tập tục là lấy tên người cha, hoặc tên con vật ứng với ngày sinh của người ấy làm tên đệm.

Hôn nhân gia đình


Thiếu nữ Hà Nhì ở Mường Tè- Lai Châu


Trai gái Hà Nhì được tìm hiểu nhau trước khi kết hôn. Mỗi cặp vợ chồng, phải trải qua hai lần cưới. Ngay sau lần cưới trước, họ đã thành vợ chồng, cô dâu về nhà chồng và theo phong tục ở Lai Châu cô dâu phải đổi họ theo chồng. Cũng ở Lai Châu, có nơi lại ở rể. Lần cưới thứ hai được tổ chức khi họ làm ăn khấm khá và thường là khi đã có con.


Người Hà Nhì hát dân ca mừng tết

Tục lệ ma chay
Phong tục ma chay của các vùng không hoàn toàn giống nhau, nhưng có một số điểm chung: khi trong nhà có người chết, phải dỡ bỏ tấm liếp (hay rút một vài nan) của buồng người đó, phá bàn thờ tổ tiên, làm giường đặt tử thi ở bếp, chọn ngày giờ tốt mới chôn. Người Hà Nhì không có nghĩa địa chung của bản, kiêng lấp đất lẫn cỏ tươi xuống huyệt, không rào dậu hay dựng nhà mồ, chỉ xếp đá quanh chân mộ...

Văn hóa
Người Hà Nhì có nhiều truyện cổ, có cả truyện thơ dài. Nam nữ thanh niên có điệu múa riêng, đều theo nhịp tấu, nhạc cụ gõ. Trai gái Hà Nhì tỏ tình thường dùng các loại khèn lá, đàn môi, sáo dọc. Các thiếu nữ thích thổi am-ba, mét-du, tuy-húy hay nát-xi vào ban đêm. Con trai gảy đàn La Khư. Ngày lễ hội còn có trống, thanh la, chập cheng góp vui. Người Hà Nhì có nhiều loại bài hát: các bà mẹ hát ru, thanh niên nam nữ hát đối... Có hát đám cưới, hát đám ma, hát mừng nhà mới, hát tiếp khách quí, hát trong ngày tết... Bài hát đám cưới của người Hà Nhì ở Mường Tè (Lai Châu) dài tới 400 câu.


Trong ngày lễ Tết, người dân Hà Nhì chơi trò nhảy gậy.


Nhà cửa
Qua việc so sánh đối chiếu những tài liệu về nhà cửa của cá dân tộc này thì thấy rằng chỉ có nhà của người Hà Nhì là có những đặc trưng rõ rệt hơn. Tính thống nhất của các đặc trưng này còn được thể hiện trên những địa bàn khác nhau.
Nhà ở cổ truyền của người Hà Nhì là nhà đất. Bộ khung nhà khá đơn giản. Vì kèo cơ bản là kiểu vì kèo ba cột. Nhà có hiên rộng, người ta còn làm thêm một cột hiên nên trở thành vì bốn cột. Tường trình rất dày. Nhà không có cửa sổ, của ra vào cũng ít, phổ biến là chỉ có một cửa ra vào mở ở mặt trước nhà và lệch về một bên.
Mặt bằng sinh hoạt: nhà thường ba gian, ít nhà bốn gian. Có hiên rộng ở mặt trước nhà. Trong nhà chia theo chiều dọc: nữa nhà phía sau là các phòng nhỏ. Nửa nhà phía trước để trồng, một góc nhà có giường dành cho khách, ở đây còn có bếp phụ. Cũng có trường hợp hiên được che kín như là một hành lang hẹp thì cửa mở ở chính giữa. Những trường hợp như thế này thuộc về gian chính giữa hoặc thêm một gian bên cạnh có sàn cao khoảng 40cm để dành cho khách, ở đây cũng có bếp phụ.

Trang phục
Phong cách trang phục giống các dân tộc trong cùng nhóm ngôn ngữ, và có phần không điển hình ở phong cách trang trí. Váy đen, chỉ có mũ, khăn hai ống tay và nẹp áo phụ nữ có trang trí. Trang trí ở ống tay giống phong cách Lô lô và Hmông.


Chữ ký của __Phi*Tuyết__
Gió bay nỗi nhớ qua cầu
Cho lòng sông rối đục ngầu nước trôi
Tình yêu chỉ mỗi mình thôi
Tương tư gãy ánh trăng côi cút sầu

Trả lời kèm theo trích dẫn
3 thành viên đã gửi lời cám ơn đến __Phi*Tuyết__ vì bài viết hữu ích này:
Lăng Độ Vũ (01-04-2009), Tú_Yên (01-04-2009), Trùm Cuối (31-03-2009)
Cũ 01-04-2009   #8
Ảnh thế thân của __Phi*Tuyết__
__Phi*Tuyết__
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Ảo Mộng Vô Cực
Gia nhập: 07-04-2006
Bài viết: 4.249
Điểm: 656
L$B: 2.050.443
Tâm trạng:
__Phi*Tuyết__ đang offline
 
8.DÂN TỘC KHƠ MÚ



Dân tộc Khơ-mú có khoảng 43.000 người. Đồng bào sinh sống tập trung ở các tỉnh Nghệ An, Lai Châu, Sơn La, Thanh Hoá, Yên Bái. Dân tộc Khơ-mú còn có các tên gọi khác như Xá cẩu, Mứn Xen, Pu Thênh, Tềnh, Tày Hạy. Tiếng Khơ-mú thuộc nhóm ngôn ngữ Môn-Khmer.

Người Khơ-mú sống chủ yếu bằng kinh tế nương rẫy. Cây trồng chính là lúa, ngô, khoai, sắn. Trong canh tác, đồng bào dùng dao, rìu, gậy chọc hốc là chính. Hái lượm săn bắn giữ vị trí quan trọng, nhất là lúc giáp hạt. Đồng bào nuôi gia súc, gia cầm chỉ để phục vụ dịp lễ lạt, tiếp khách. Nghề đan lát phát triển. Đồng bào đan các đồ dùng để vận chuyển, chứa lương thực... Người Khơ-mú không phát triển nghề dệt vải, nên thường mua quần áo, váy của người Thái để mặc.



Trang phục của người Khơ-mú


Đến nay ở nhiều vùng người Khơ-mú vẫn còn du canh du cư. Làng bản của họ thường cách xa nhau, nhỏ bé, ít dân. Nhà cửa phần lớn làm sơ sài, đồ dùng trong nhà cũng ít ỏi. Sắc thái Khơ-mú thể hiện ở trang phục hầu như đã bị phai mờ tuy trang phục của phụ nữ còn có đôi điểm riêng biệt.

Các họ của người Khơ-mú thường mang tên một loài thú, một loại chim hay một thứ cây nào đó. Mỗi dòng họ coi thú, chim, cây ấy là tổ tiên ban đầu của mình và họ kiêng giết thịt và ăn thịt các loại động vật, thực vật này. Mỗi dòng họ có huyền thoại kể về lai lịch của tổ tiên chung, người cùng dòng họ coi nhau là anh em ruột thịt.



Người Khơ-mú cũng ở nhà sàn

Ở gia đình Khơ-mú, vợ chồng bình đẳng, chung thuỷ. Người Khơ-mú có tục cưới ở rể một năm, sau đó mới đưa vợ về nhà mình. Khi ở nhà vợ, người chồng đổi họ theo vợ, còn nếu có con thì con theo họ mẹ, trái lại khi về nhà chồng thì vợ phải đổi họ theo chồng và các con lại mang họ bố. Người cùng dòng họ không được lấy nhau, nhưng con trai cô được lấy con gái cậu. Trong việc dựng vợ gả chồng và trong cuộc sống gia đình, vai trò của người cậu đối với các cháu rất quan trọng.



Nhị là nhạc cụ người Khơ-mú ưa thích


Người Khơ-mú tin vào các loại "ma" đặc biệt là ma trời, ông sét, ma đất, ma rừng, ma nương, ma bản, ma nhà, ma tổ tiên... Trong một năm đồng bào có những nghi lễ tôn giáo chính như: cúng ma mường, ma bản, thờ cúng tổ tiên và các nghi lễ liên quan đến lao động sản xuất.


Hội mừng lúa mới

Dân tộc Khơ-mú vốn có truyền thống văn hoá lâu đời, tuy cuộc sống vật chất còn nghèo, nhưng cuộc sống tinh thần khá dồi dào.

Mưa rơi cho chim ướt lông, nó sập bẫy trong rừng. Đầu nguồn đàn chim cu đang đua gáy, với đàn bướm cùng nô đùa (Mưa rơi- dân ca Khơ Mú).


Chữ ký của __Phi*Tuyết__
Gió bay nỗi nhớ qua cầu
Cho lòng sông rối đục ngầu nước trôi
Tình yêu chỉ mỗi mình thôi
Tương tư gãy ánh trăng côi cút sầu

Trả lời kèm theo trích dẫn
2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến __Phi*Tuyết__ vì bài viết hữu ích này:
Lăng Độ Vũ (01-04-2009), Tú_Yên (01-04-2009)
Cũ 03-04-2009   #9
Ảnh thế thân của __Phi*Tuyết__
__Phi*Tuyết__
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Ảo Mộng Vô Cực
Gia nhập: 07-04-2006
Bài viết: 4.249
Điểm: 656
L$B: 2.050.443
Tâm trạng:
__Phi*Tuyết__ đang offline
 
9.DÂN TỘC CHĂM


Tên gọi khác:
Chàm, Chiêm thành, Hroi



Nhóm ngôn ngữ
Malayô - Pôlinêxia

Dân số
99.000 người.

Cư­ trú
Sống tập trung ở hai tỉnh Ninh Thuận và Bình Thuận. Một số nơi khác như­ An Giang, Tây Ninh, Đồng Nai, thành phố Hồ Chí Minh cũng có một phần dân c­ư là người Chăm; tây nam Bình Thuận và tây bắc Phú Yên có người Chăm thuộc nhóm Hroi.

Đặc điểm kinh tế
Đồng bào Chăm sống ở đồng bằng, có truyền thống sản xuất lúa nước là chính. Kỹ thuật thâm canh lúa nước bằng các biện pháp giống, phân bón, thủy lợi khá thành thạo. Đồng bào Chăm biết buôn bán. Hai nghề thủ công nổi tiếng là đồ gốm và dệt vải sợi bông. Tr­ước kia, người Chăm không trồng cây trong làng.


sản phẩm mỹ nghệ dân tộc Chăm

Tổ chức cộng đồng
Đồng bào có tập quán bố trí cư­ trú dân cư­ theo bàn cờ. Mỗi dòng họ, mỗi nhóm gia đình thân thuộc hay có khi chỉ một đại gia đình ở quây quần thành một khoảnh hình vuông hoặc hình chữ nhật. Trong làng các khoảnh như­ thế ngăn cách với nhau bởi những con đư­ờng nhỏ. Phần lớn làng Chăm có dân số khoảng từ 1.000 người đến 2.000 người.


Lễ hội katê

Hôn nhân gia đình
Chế độ mẫu hệ vẫn tồn tại ở người Chăm miền Trung. Tuy đàn ông thực tế đóng vai trò to lớn trong cuộc sống nh­ưng chủ gia đình luôn là người đàn bà cao tuổi. Phong tục Chăm qui định con gái theo họ mẹ. Nhà gái c­ưới chồng cho con. Con trai ở rể nhà vợ. Chỉ con gái được thừa kế tài sản, đặc biệt người con gái út phải nuôi dưỡng cha mẹ già nên được phần chia tài sản lớn hơn các chị.

Nhà cửa
Nhà cửa của đồng bào hầu như­ có rất ít đặc điểm giống nhà của các cư­ dân Malayô - Pôlinêxia nào khác. Nói đến nhà ở của người Chăm ở Bình Thuận thì cái nhà chư­a phải là cái đáng quan tâm nhất, mà là một quần thể nhà trong một khuôn viên. Mối quan hệ của các nhà trong quần thể này đã thể hiện quá trình rạn vỡ của hình thái gia đình lớn mẫu hệ để trở thành các gia đình nhỏ với các ngôi nhà ngắn. Bộ khung của người Chăm ở Bình Thuận khá đơn giản. Vì cột cơ bản là vì ba cột (không có kèo). Nếu là vì năm cột thì có thêm xà ngang đầu gác lên cây đòn tay cái nơi hai đầu cột con. Từ các kiểu vì này dần xuất hiện cây kèo và trở thành vì kèo.
Về mặt sinh hoạt, mỗi nhà trong khuôn viên có tổ chức mặt bằng khác nhau. Song, đồng bào cho rằng nhà thang yơ là kiểu nhà cổ nhất. Đó là nhà sàn, nh­ưng nay sàn rất thấp gần sát mặt đất. Đầu hồi bên trái và một phần của mặt nhỏ dành cho khách, chủ nhà, kho... Với các nhà khách hình thức bố cục này hầu như­ vẫn được giữ lại. Khác chăng chỉ là hiên của nhà thang yơ được giữ lại. Khác chăng chỉ là cái hiên của nhà thang yơ được bư­ng kín để kê phản, bàn ghế...Đó là nói về nhà người Chăm ở Bình Thuận, còn nhà người Chăm ở miền Nam lại rất khác.
- Nhà người Chăm ở An Giang: cách tổ chức mặt bằng sinh hoạt còn phảng phất cái hình đồ sộ của nhà thang yơ ở Bình Thuận.
- Nhà người Chăm ở Châu Đốc: Khuôn viên của nhà Chăm Châu Đốc không còn nhiều nhà mà chỉ có nhà chính và nhà phụ kết hợp thành hình th­ước thợ. Chuồng trâu bò và lợn được làm xa nhà ở. Nhà ở là nhà sàn, chân rất cao để phòng ngập lụt. Cách bố trí trên mặt bằng sinh hoạt hoàn toàn khác với nhà ở Bình Thuận cũng như­ ở An Giang

Trang phục
Có những nhóm địa ph­ương khác nhau với lối tạo dáng và trang trí riêng khó lẫn lộn với các tộc người trong nhóm ngôn ngữ hoặc khu vực.
+ Trang phục nam



Vùng Thuận Hải, đàn ông lớn tuổi ­thường để tóc dài, quấn khăn. Đó là loại khăn màu trắng có dệt thêu hoa văn ở các mép và hai đầu khăn cũng nh­ư các tua vải. Khăn đội theo lối chữ nhân, hai đầu thả ra hai mang tai. Nhóm Chăm Hroi đội khăn trắng quấn gọn trên đầu. Nam mặc áo cánh xẻ ngực màu sáng hoặc tối. Đó là loại áo cổ tròn cài cúc. Có người mặc áo ngắn, xẻ ngực, cộc tay. Các đ­ường viền ở cổ s­ườn, hai thân tr­ước và gấu được trang trí và đính các miếng kim loại hình tròn, có nhóm mặc lễ phục là loại áo dài xẻ nách trắng hoặc đỏ. Trang phục cổ truyền là chiếc váy và quần.
+ Trang phục nữ



Về cơ bản, phụ nữ các nhóm Chăm ­thường đội khăn. Cách hoặc là phủ trên mái tóc hoặc quấn gọn trên đầu, hoặc quấn theo lối chữ nhân, hoặc với loại khăn to quàng từ đầu rồi phủ kín vai. Khăn đội đầu chủ yếu là màu trắng, có loại được trang trí hoa văn theo lối viền các mép khăn (khăn to), nhóm Chăm Hroi thì đội khăn màu chàm. Lễ phục ­thường có chiếc khăn vắt vai ngoài chiếc áo dài màu trắng. Đó là chiếc khăn dài tới 23m vắt qua vai chéo xuống hông, được dệt thêu hoa văn cẩn thận với các màu đỏ, trắng, vàng của các mô tip trong bố cục của dải băng.
Nhóm Khánh Hòa và một số nơi, chị em mặc quần bên trong áo dài. Nhóm Chăm Hroi mặc váy quấn (hở) có miếng đáp sau váy. Nhóm Quảng Ngãi mặc áo cánh xẻ ngực, cổ đeo vòng và các chuỗi hạt cườm.
Trang phục Chăm, vì có nhóm cơ bản là theo đạo Hồi nên cả nam và nữ lễ phục thiên về màu trắng. Có thể thấy đặc điểm trang phục là lối tạo hình áo (khá điển hình) là lối khoét cổ và can thân và nách từ một miếng vải khổ hẹp (hoặc can với áo dài) thẳng ở giữa làm trung tâm áo cho cả áo ngắn và áo dài. Mặt khác có thể thấy ở đây duy nhất là tộc còn thấy nam giới mặc váy ở nước ta với lối mang trang phục và phong cách thẩm mỹ riêng.

Một bài thơ Chăm:

Jalau Anưk


Nhắn em

Mùa đã thức
Xaranai đã véo von từ cõi xa xăm gọi bừng mặt trời ngái ngủ
Gọi lùi bước Yang toan đi
Gọi giật hồn tha ma lảng vảng
Gọi ầm ầm tapuk bhaw
Gọi phụt mạch nước ngầm trên mảnh vườn bén liếc gót chân thô

Mùa đã thức
Gọi về vạn bước tha hương
Dội vào nghìn trùng xó xỉnh:
âm u
bẩn thỉu
nhọc nhằn
ti tiện

Về đi em!
wơn Katê
Tamia tadik
Làm duyên con gái
Đội chiếc buk xưa
Đong đưa hanrak cũ

Về đi em!
Khét hanh mùi nắng
Khát gầy mùi mưa
Mặn nồng mùi biển

Thôi miên anh về lại … đợi mùa


Chữ ký của __Phi*Tuyết__
Gió bay nỗi nhớ qua cầu
Cho lòng sông rối đục ngầu nước trôi
Tình yêu chỉ mỗi mình thôi
Tương tư gãy ánh trăng côi cút sầu

Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến __Phi*Tuyết__ vì bài viết hữu ích này:
Tú_Yên (05-04-2009)
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 07:27
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,11373 seconds with 15 queries