Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 17-07-2009   #28
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.757
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
27. Ða-Minh Nguyễn Văn Xuyên (1786 - 1839)

Ða-Minh Nguyễn Văn Xuyên (Ðoàn) , Sinh năm 1786 tại Hưng Lập, Nam Ðịnh, Linh mục dòng Ða Minh. , bị xử trảm ngày 26/11/1839 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII, Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 26/11.

Sau đây là những vần thơ lục bát do thánh Đaminh Xuyên sáng tác trong ngục tù, vừa diễn tả tâm tình của mình vừa khuyên nhủ các tín hữu đến thăm. Những vần thơ ngắn gọn nhưng cô đọng trọn vẹn triết lý sống của các vị tử đạo, lòng tràn đầy niềm tin yêu vượt qua mọi gian khổ để chiếm đoạt vinh quang nước trời.



Ai ơi giữ lấy túi khôn,
Dẫy tràn tin cậy đầy lòng mến yêu.
Gươm đao đe đọa dẫu nhiều,
Quỷ ma cám dỗ sớm chiều đe loi.
Ai mà thắng được trên đời,
Mai sau hưởng phúc cõi trời cao sang.


Tấm lòng người tu sĩ áo trắng

Đaminh Nguyễn Văn Xuyên còn có tên là Doãn, sinh năm 1786 tại làng Hưng Hiệp, tỉnh Thái Bình. Thấy con có trí thông minh, cha mẹ cho cậu đi học chữ Nho, rồi gửi gấm cậu cho Đức cha Delgado Y dạy bảo. Được Đức cha nhắc nhở, cậu Xuyên chăm chỉ học hành, nhất là học giỏi giáo lý. Lớn lên, ngài cho anh vào chủng viện, và trao ban chức linh mục năm 1819. Ngày 20.4 năm sau, cha Xuyên tuyên khấn trong dòng thánh Đaminh. Từ đó, cha rất nhiệt thành phục vụ các giáo hữu, không ngừng đi nhiều nơi giảng tĩnh tâm, dạy giáo lý và sốt sắng cử hành phụng vụ bí tích.

Trước tiên, cha Xuyên coi xứ Phạm Pháo, tỉnh Nam Định, rồi về xứ Kẻ Mèn, Thái Bình trong ba năm. Tại đây, ngài lập họ đạo mới, họ Thanh Minh, chọn thánh Vinh sơn làm bổn mạng. Sau cha phụ trách xứ Đông Xuyên 13 năm. Thời gian này dân chúng bị hạn hán mất mùa nhiều năm, và bị giặc Phan Bá Vành quấy phá nên đói nghèo khổ sở. Có lần cha phải dốc cạn túi để giúp đỡ họ, có lần cha nhường phần cơm của mình… Bao giờ cha cũng để một ngân khoản riêng làm việc bác ái, từ thiện.

Cuối năm 1836, cha được bổ nhiệm làm phụ tá cha Fernandez Hiền tại chủng viện Ninh Cường giữa lúc cuộc bách hại của vua Minh Mạng gay gắt. Năm sau cha về làm quản lý giáo phận Đông Đàng Ngài, giúp Đức cha Delgado Y. khi Đức cha phải lưu lạc về Kiên Lao rồi bị bắt thì cha Xuyên vừa tìm chỗ ẩn trốn, vừa giúp xứ Hạ Linh. Tuy phải lang thang nay nhà này mai nhà khác, cha cũng phục vụ các tín hữu ở đây được khoảng một năm. Ngày 18.8, cha đến cử hành lễ mừng thánh Gioakim, bổn mạng họ Phú Đường (họ lẻ xứ Hạ Linh) thì bị bắt. Một giáo viên trước có dạy ở Bùi Chu biết mặt cha đã đi báo quan kiếm tiền thưởng.

Bền trí trung kiên…

Cha Xuyên dâng lễ gần xong, nghe tiếng loa gọi của quân lính, cha vội rước hết Mình Thánh rồi cởi áo lễ đi trốn. Nhưng không kịp nữa, quân lính đã tóm bắt cha và dẫn đến quan phủ. Quan phủ cười hỏi: "Đưa đây một số bạc, ta tha cho về". Cha trả lời: "Tôi chẳng có đồng nào trong người, nếu quan tha tôi cám ơn, nếu quan bắt tôi xin chịu". Về sau giáo hữu Hạ Linh góp tiền đem đến chuộc, nhưng quan phủ không dám thả nữa vì trên tỉnh đã biệt.

Khi nghe thuật lại chuyện, cha Xuyên an ủi họ : "Anh em hãy để tiền lo cho giáo xứ thì hơn, đừng tốn tiền chuộc tôi làm chi vô ích. Ý Chúa đã muốn, chẳng ai làm khác được. Anh em cứ bình an về nhà, nhớ cầu nguyện cho tôi chịu sự khó cho nên". Thế rồi cha mang gông nặng theo lính về Nam Định.

Biết cha là quản lý tòa Giám mục, Tổng đốc Trịnh Quang Khanh không những bắt cha bỏ đạo mà còn muốn khai thác các tài sản giáo phận. Lần đầu tiên khi ra lệnh đánh đòn, Tổng đốc đứng ngay bên thúc giục: "Đánh nữa, mạnh lên cho đến khi nó chịu khai và xuất giáo". Người chiến sĩ đức tin chỉ biết kêu tên cực trọng "Giêsu, Maria, xin cứu con !", cho đến khi bất tỉnh phải khiêng về ngục.

Những lần sau ngài cố gắng cắn răng chịu đựng không kêu một tiếng, cũng chẳng tiết lộ điều gì về giáo phận. Quan tổng đốc cho dùng những cực hình đã man hơn : lấy sắt nung đỏ dí vào cháy từng miếng thịt, cầm kìm nguội, kẹp hay cắt nhiều chỗ trên thân thể … Nhưng cha can đảm gắng sức nói thẳng với quan: "Dù sống dù chết, tôi cũng không bỏ đạo. Tôi chọn cái chết để sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu mà muôn đời bị tiêu diệt".

Nhiều lần quá đau đớn ngất xỉu giữa cuộc tra tấn. Sợ vị quản lý giáo phận chết sớm, Tổng đốc sai lính đưa cha về ngục, cho mời lang y chữa trị để mong biết được những tài sản mà ông tưởng là vô số. Đến khi cha Xuyên bình phục, quan lại đưa ra khảo nữa, nhưng ông phải thất vọng vì thực sự giáo phận chẳng có gì để khai, mặt khác, chẳng bao giờ cha chịu khuất phục bỏ đạo.

Phần thưởng nước trời

Ngày 25.10, quan Tổng đốc lập bản án trảm quyết gởi về kinh đô. Tháng sau bản án của cha Xuyên và cha Dụ trở lại Nam Định. Những ngày cuối, hai cha được giam chung một phòng, tay bắt mặt mừng, xưng tội với nhau, an ủi khích lệ nhau vững chí đến cùng.

Ngày 26.11.1839, hai cha bị dẫn đi xử. Giữa đám quân lính đông đảo võ trang voi ngựa, hai vị chứng nhân Đức Kitô đi bộ mang gông, nhưng bình tĩnh vui vẻ, vừa đi vừa cầu nguyện cho tới pháp trường Bảy Mẫu. Dân chúng đi xem đều bỡ ngỡ thán phục. Quan hỏi lại lần chót có muốn xuất giáo để được tha không. Hai vị trả lời: "Không", rồi đưa tay cho lính trói vào cọc đã chôn sẵn.

Hai nhát gươm cùng vung lên, hai tôi tớ Chúa được lãnh triều thiên tử đạo tiến thẳng về Trời. Cha Xuyên với 53 tuổi đời, phục vụ Chúa trong chức vụ linh mục được 20 năm. Thi thể ngài được an táng ngay tại đó. Tháng giêng năm 1841, tín hữu cải táng hài cốt ngài về Lục Thủy.

Đức Lêo XIII suy tôn cha Đaminh Nuyễn Văn Xuyên, linh mục dòng Thuyết giáo lên bậc Chân Phước ngày 27.5.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.

Trường Thi Tử Đạo

Ðaminh Nguyễn Văn Xuyên linh mục
Sinh Bính Ngọ (1786) quê thực Thành Nam
Ði tu Xuyên lại rất ham
Xin vào chủng viện việc làm thoát ly

Ðỡ đầu Ðức Cha Y Giáo Phận
Ngài chăm lo hướng dẫn cậu Xuyên
Học hành chăm chỉ gắn liền
Nhất là giáo lý liên miên đứng đầu

Cậu Xuyên lớn được thâu chủng viện
Mười năm sau Trạch tuyển thụ phong
Ðược Cha Chính nhận vô dòng
Ðaminh trọng khấn quan phòng Chúa ban

Rồi từ đó chu toàn phục vụ
Giảng tĩnh tâm khuyên nhủ giáo dân
Hăng say sốt sắng chuyên cần
Ðầu tiên Cha sở lãnh phần quản cai

Xứ tiên khởi châm ngòi Phạm pháo
Tại Hà Nam lương giáo sống chung
Bài sai thay đổi chuyển vùng
Kẻ Mèn xứ mới tôi trung nhiệt thành

Thanh Minh lập nhân danh họ đạo
Thánh Vinh Sơn loan báo Quan Thầy
Ba năm tạm biệt nơi này
Ðông Xuyên phụ trách tràn đầy gian nan

Kiến An bị khô khan hạn hán
Giặc Bá Vành chà cán dân lành
Chia cơm sẻ áo lẹ nhanh
Cha Xuyên bác ái nhiệt thành giản đơn

Một ngân khoản hồng ơn từ thiện
Sau Cha được bổ nhiệm Ninh Cường
Làm Cha phụ tá đảm đương
Cha Hiền Giám đốc nhà trường chủng sinh

Năm sau đó điển hình đề bạt
Ðức Cha Y bàn bạc đổi về
Cha làm quản lý chuẩn phê
Ðức Cha lưu lạc trốn về Kiên Lao

Rồi chẳng biết vì sao bị bắt
Nên Cha Xuyên cũng gặp khó khăn
Hạ Linh lánh nạn cả năm
Nay đây mai đó chẳng nằm đâu yên

Ðến mừng lễ trong miền Bổn mạng
Một giáo viên nhận dạng báo quan
Kiếm tiền tưởng thưởng phẩm hàm
Tiếng loa lính gọi kêu vang xóm làng

Mình Máu Thánh chứa chan Cha rước
Cởi áo lễ Cha bước trốn đi
Quân lính đã tới tức thì
Bắt Cha dẫn giải đưa đi quan liền

Quan cười nói đòi tiền để chuộc
Cha nói tôi có buộc đồng nào
Quan tha quan bắt chẳng sao
Hạ Linh giáo hữu xôn xao góp tiền

Huyện đây lại sợ phiền với tỉnh
Cha ủi an việc chính nguyện cầu
Cho tôi chịu khổ dài lâu
Hồng ân tử đạo phép mầu Chúa ban

Chúng xiềng xích gông mang quá nặng
Giải Cha đi từng chặng đánh đòn
Về Nam Ðịnh ruột héo hon
Bọn chúng tra khảo, hết, còn, phải khai

Tài sản Giáo Phận ngài quản lý
Nhưng người nhân chứng chỉ kêu Trời
Giêsu Maria Mẹ ơi
Xin Chúa thương xót nhận lời tôi trung

Các hình khổ lạnh lùng hành hạ
Cha ngất đi tưởng đã chết rồi
Thấy Cha hơi thở phục hồi
Lính đưa về ngục cho bồi thuốc men

Nhốt trong ngục thân quen lại gặp
Hai Cha luôn xếp đặt với nhau
Vững tâm bền trí trước sau
Hành trang tràng chuỗi khổ đau không sờn

Pháp trường Bảy Mẫu nơi để xử
Cổ mang gông Cha cứ thản nhiên
Nguyện cầu suy gẫm trang nghiêm
Nhát gươm vung chém Triều Thiên rạng ngời

Hai xác thánh chôn nơi Bảy Mẫu
Sau mấy năm dòng máu thấm sâu
Rước về Lục Thủy ngõ hầu
Xây lăng xây mộ mai sau kính thờ

Năm tử đạo bấy giờ Kỷ Hợi (1839)
Xác thánh cha chôn vội pháp trường
Roma Toà Thánh đảm đương
Suy tôn Canh Tý (1900) Thiên đường thẳng lên

Lời bất hủ: Ðây là vần thơ lục bát mà cha sáng tác trong tù:
"Ai ơi, giữ lấy túi khôn
Ðầy tràn tin cậy, đầy lòng mến yêu
Gươm đao đe doạ dẫu nhiều
Quỷ ma cám dỗ sớm chiều đe loi
Ai mà thắng được trên đời
Mai sau hưởng phúc cõi trời cao sang"
Cha bị bắt khi đang dâng lễ ở họ Hạ Linh, quân lính nộp cho quan. Quan cười nói: "Ðưa đây một số bạc, ta tha cho về". Cha trả lời: "Tôi chẳng có đồng nào trong người, nếu quan tha tôi cám ơn, nếu quan bắt tôi xin chịu". Khi nghe thuật lại chuyện dân làng góp tiền chuộc cha về, cha an ủi: "Anh em hãy để tiền lo cho giáo xứ thì hơn, đừng tốn tiền chuộc tôi làm chi vô ích. Ý Chúa đã muốn, chẳng ai làm khác được. Anh em cứ bình an về nhà,nhớ cầu nguyện cho tôi chịu sự khó cho nên". Thế rồi cha mang gông nặng theo lính về Nam Ðịnh. Cha bị tra tấn kìm nung đỏ cặp đứt từng miếng thịt, Ngài can đảm gắng sức nói thẳng với quan: "Dù sống, dù chết, tôi cũng không bỏ đạo. Tôi chọn cái chết để sống đời đời, hơn là nghe quan sống thêm ít lâu mà muôn đời bị tiêu diệt".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #29
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.757
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
28. Ðaminh Henares Minh (1765-1838)

Ðaminh Henares Minh; Giám mục phụ tá Ða Minh; sinh 1765 tại Baena, Cordova, Tây Ban Nha; chết 25 tháng 6, 1838, tại Nam Ðịnh. Ngài được phong làm giám mục phụ tá năm cho Thánh Ignatius Delgado, Giám Mục Ðại Diện Tông Tòa Bắc Hà. Sau khi hoạt động 50 năm tại Việt Nam, Ðức Cha Henares phải trốn tại làng Kiên-lao cùng với Ðức Giám chính tòa trong thời gian bách hại nặng nề.

Lời kinh và ước vọng

Lậy Chúa Giêsu rất dịu hiền là cha của lòng con. Xin Chúa vì cuộc tử nạn thánh, vì công nghiệp và lời Đức Mẹ chuyển cầu, xin đoái thương đến bác của con, Đưc Giám mục Đaminh. Xin gìn giữ bác khỏ mọi sự dữ. Xin cho bác yêu Chúa thiết tha, trung thành phục vụ Chúa suốt cuộc đời. Và nếu cần để tôn vinh và làm hiển danh Chúa hơn, xin cho bac được phúc đổ máu mình và hiến dâng mạng sống cho tình yêu Chúa để làm chứng cho đức tin. Amen”(1).

Đó là lời kinh mà Đức Cha Minh từ miền truyền giáo Việt Nam đã soạn gửi về quê nhà cho cháu mới năm tuổi đọc cầu cho bác. Cô bé đã dâng lời nguyện đó hằng ngày, dù em biết rất ít về người bác mình. Khi bà con lối xóm hởi em về ông bác giám mục, em chỉ biết thưa: “Bác tên Đaminh, tu dòng Đaminh, đang truyền giáo ở xa, thật xa, nơi mà người ta đang tàn sát các Kitô Hữu”. Và chúa đã nhận lời khẩn xin tha thiết của hai bác cháu tại hai phương trời xa xăm đó.

Theo tiếng gọi truyền giáo.

Đaminh Henares sinh ngày 19.12.1765 tại làng Baena, giáo phận Cordoda, nước Tây Ban Nha. Một vài năm sau, gia đình dọn về Granada, nơi cậu đã lớn lên và theo học các lớp phổ thông, các phụ huynh thường nhắc đến cậu như một mẫu gương cho con cái mình. Còn bản thân cậu, càng ngày càng sôi sục trong lòng tiếng Chúa kêu gọi vào đời sống tu trì. Năm 16 tuổi, Henares xin nhập dòng tu Đaminh ở tỉnh Granada. Nhưng mãi đến ngày 30.08.1783, cậu mới được lãnh tu phục dòng tại tu viện Guadix (18 tuổi), năm sau thì tuyên khấn và theo học triết học. Ngay từ niên khóa đầu, thày Henares đã tỏ ra là một sinh viên xuất sắc, nên cuối năm đó, khi thày xin phép chuyển qua tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi để được truyền giáo ở Việt Nam, các bề trên đều tiếc nhớ. Thày Đaminh đã nhận ra tiếng Chúa kêu mời qua lời cổ động khẩn thiết của Đức cha Obelar Khâm, giáo phận Đông đàng Ngoài: Đã 15 năm giáo phận chưa thêm được một thừa sai nào cả.

Thế là thày Henares liền tham gia một nhóm tu sĩ trẻ lên đường đến Phi Luật Tân dưới sự dẫn dắt của tu sĩ Delgado. Kể từ nay cuộc đời hai vị gắn liền với nhau cách khăng khít. Sau hơn một năm lênh đênh trên biển cả, vượt Đại Tây Dương và Thái Bình Dương, phái đoàn đã cập bến Manila ngày 09.07.1786. tại đây thày Henares vừa tiếp tục học thần học, vừa dạy văn chương cho học sinh trường Santo Tomas. Ngày 20.09.1789 thày thụ phong linh mục và được gửi đi truyền giáo tại Bắc Việt. Khi đến Macao, cha Henares gặp lại linh mục Delgado đã khởi hành trước một năm nhưng vẫn chưa tới Việt Nam. Hai cha cùng với hai thừa sai khác là Vidal và Gatillepa, cả bốn vị đã vào lãnh thổ giáo phận Đông Đàng Ngoài ngày 29.10.1790, trong niềm hân hoan của cả giáo phận, vì khi đó chỉ còn ba vị thừa sai, mà tất cả đều đã cao niên.

Riêng cha Henares Minh, với tuổi trẻ 25, cha học tiếng Việt rất nhanh chóng. Sau sáu tháng, cha đã được trao phó việc coi sóc chủng viện Tiên Chu. Trong nhiều năm, cha kiên trì dạy các chủng sinh học tiếng Latinh và giúp họ rèn luyện các nhân đức. Từ năm 1789, giữa cơn bách hại của vua Cảnh Thịnh, cha được tỉnh dòng ủy nhiệm làm bề trên phụ tỉnh (cha chính) các cha dòng Đaminh tại Việt Nam. Năm sau, khi đức cha Alonso Phê qua đời, Đức cha Delgado Y lên kế vị, cha Minh được đặt làm cha chính của giáo phận. Ngày 09.09.1800, Đức cha Piô VII bổ nhiệm cha làm giám mục hiệu tòa Fez và Giám mục Phó có quyền kế vị của Đức cha Delgado Y. Nhưng tình hình Việt Nam căng thẳng, sau hai năm sắc phong mới tới xứ truyền giáo.

Vị mục tử nhân hiền

Ngày 09.01.1803 là ngày hội lớn của toàn giáo phận Đông Đàng Ngoài. Các thừa sai ngoại quốc, hơn 30 linh mục Việt Nam, hàng chục ngàn giáo dân từ các nơi tuốn về Phú Nhai tham dự lễ tấn phong Giám mục phó Henares Minh, khởi đầu một giai đoạn bình an kéo dài hơn 20 năm. Hai vị giám mục Delgado Y và Henares Minh, hai anh em “sinh đôi” như một số người quen gọi, cùng mang những thao thức như nhau, cùng được đào tạo một nơi, cùng đến đất Việt một ngày. từ nay luôn tâm đầu ý hợp, cùng nhau đưa giáo phận đến giai đoạn cực thịnh. Hai vị chia nhau đến thăm từng họ đạo nhỏ nhất. Đức cha Minh với tinh thần phục vụ cao, thường chọn cho mình những họ đạo xa hơn, thuộc trấn Kinh Bắc, nơi rừng sâu nước độc mà trước đó ít năm, Đức cha Phê đã bỏ mạng vì bệnh sốt rét rừng.

Linh mục Hermosilla Vọng đã viết về Đức cha Minh như sau: “Ngài là một thủ lãnh thanh khiết trong đời sống, là vị mục tử nhiệt tâm không hề mỏi mệt vì ơn cứu độ các linh hồn và là đấng khao khát mãnh liệt phúc tử đạo. Ngài sẵn sàng lên đường bất cứ lúc nào trách nhiệm đòi hỏi, dù đang nửa đêm khuya vắng. Ngài có lòng đạo đức trổi vượt, biểu lộ qua việc cầu nguyện không ngừng, đồng thời siêng năng nghiên cứu các giáo phụ. Ngài sống nghèo khó Tin Mừng thực sự, và như một người cha hiền dịu, ngài quảng đại với những người xấu số nhất. Đó là những nhân đức chính mà ngài luôn nêu gương”.

Với lòng khiêm tốn, bác ái, Đức cha Minh nhiệm nhặt với mình, nhưng lại rộng lượng với mọi người. Tuy bận rộn với bao công việc của giáo phận, ngài vẫn tự may vá lấy y phục của mình, và cố gắng sửa lại những quần áo cũ để phân phát cho người nghèo. Nhờ biết chút ít về nghề thuốc, Đức cha là ân nhân của nhiều người bệnh tật. Đi dâu ngài cũng mang theo một hộp nhỏ đựng thuốc phát cho bệnh nhân nan y, mọi người đều cho là họ được khỏi do lời cầu nguyện và chúc lành hơn là nhờ thuốc.

Nếu giờ chưa đến.

Chính tráp đựng thuốc bác ái đó một lần kia đã cứu ngài thoát chết. Khi ngài đang ở họ Thượng Hộ thuộc Sơn Nam Hạ thì bị một nhóm cướp bắt cóc để tống tiền. Giữa đêm chúng lẻn vào nhà, bắt và dẫn Đức cha vào rừng. Bỗng tên cướp ôm chiếc tráp thuốc vấp ngã, những chai lọ đổ lỏng chỏng ra ngoài, một vài dụng cụ kim loại lấp lánh trong đêm, khiến chúng tưởng là vàng bạc xô lại trang giành, Đức cha liền nhanh chân láu mình trong một bụi cây rậm rạp gần đó. Đám cướp sục sạo một lát thì trời tảng sáng và nghe dân làng đánh kẻng báo động đi tìm Đức cha, họ ùa nhau bỏ chạy.

Theo ý Tổng trấn Hà Nội Nguyễn Văn Thành, ông muốn tổ chức một buổi trao đổi công khai về tôn giáo. Đức cha Minh cùng đức cha Longer Gia giáo phận Tây Đàng Ngoài nhận lời và đưa ra đề tài: “Không ai được bắt ép người Công Giáo làm việc dị đoan”. Nhưng vì tổng trấn không chấp nhận đề tài đó, nên cuộc trao đổi phải bãi bỏ. Đức cha Minh thấy vậy đã nhận định rằng: “Bao lâu còn thiếu ánh sáng bởi trời thì lý luận mấy cũng vô ích”.

Khi vua Minh Mạng lên ngôi được vài năm, miền bắc có nhiều cuộc khởi nghĩa: Lê Duy Lương, Nùng Văn Vân. Ở Nam Định và Hải Dương có Phan Bá Vành. Nói chung dân Bắc Hà vẫn còn hoài nhớ triều Lê, chứ không ưa triều Nguyễn. Chính Gia Long phải mượn cớ phò Lê để thống nhất cả nước. Lúc đó, thế lực nhóm Phan Bá Vành ngày càng lớn, năm 1862, vua Minh mạng phải cử Lê Văn Duyệt và Nguyễn Công Trứ ra đánh dẹp. Quân của Vành thua rút vào làng Trà Lũ, cầm cự được ba tháng, mới bị bắt, cuộc chiến thắng này có phần đóng góp của hơn 300 giáo hữu, thế nhưng vì trong số tù nhân cũng có những người Công Giáo, họ khai là có biết Đức cha Minh và 10 cha dòng người Việt, khiến từ đó Đức cha bị ghi vào “sổ đen” của nhà vua.

Ngày 13.05.1827, Tổng đốc Nam Định thừa lệnh nhà vua đem 800 quân và voi trận đến vay Trà Lũ bắt Đức cha, nhưng ngài đã kịp biết tránh đi nơi khác. Dù rất mong mỏi được đổ máu làm chứng cho tình yêu Chúa, Đức cha thường tâm sự rằng tử đạo là ơn phúc trọng đại, không ai được tự tiện liều lĩnh ngoài thánh ý Chúa. Tiếp theo đó là 10 năm phục vụ, tuy có phần khó khăm âm thầm hơn, nhưng nói chung giáo phận Đông Đàng Ngoài vẫn tương đối được bình an. Cho đến tháng 04.1838, vì phát hiện sáu lá thư của cha Viên gởi cho giám mục và bốn linh mục, nhà vua biết có sự hiện diện của các ngài. Vua đã khiển trách Tổng đốc Trịnh Quang Khanh nặng lời, và phái thêm 2000 lính kinh đô ra tăng viện, quyết lùng bắt hết các giáo sĩ. Đức cha Minh và thày Chiểu phải bỏ Tiên Chu đi ẩn tại Kiên Lao, gần chỗ Đức cha Y và hai vị thừa sai khác. Ngày 28.05, khi Đức cha Y bị bắt, Đức cha Minh đang lánh thân trong nhà bà Tư, giả bộ xay lúa, mỗi khi quân lính đi ngang, bà Tư lấy nong che mặt cho ngài.

Bản án phải được sửa lại.

Tối hôm đó, Đức cha Minh bỏ nhà bà Tư đi sang làng Trung Thành, rồi làng Quần Anh và Xương Điền. Khi thấy quân triều đình lảng vảng theo dõi, Đức cha và thày Chiểu xuống thuyền đi ngược ra biển. Một ngư phủ ngoại giáo nói với các tín hữu: “Coi chiếc thuyền ngược gió kia, tôi đóan là một thừa sai chạy trốn cuộc bách hại mà chưa biết về đâu. Các bác tìm cách đưa ngài vào đây, tôi sẽ lo liệu chỗ trọ và che dấu giùm cho”. Quá tin vào ông ta, các tín hữu ra mời ngài trở lại, ai ngờ ông ta đi báo quan quân đến bắt đức cha và thày Chiểu tại nhà mình.

Quan phủ Xuân Trường đối đãi với Đức cha khá tử tế, nhưng vì sợ nhà vua, ông đành phải đóng cũi và ván ép giải lên Nam Định ngày 11.06.1838. tại đinh Tổng đốc, có hai chiếc cũi của ngài và của đức cha Y được đặt gần nhau, hai vị nói truyện với nhau bằng tiếng Tây Ban Nha. Không rõ các vị nói những gì, nhưng chắc chắn quả là niềm an ủi lớn lao, khi được chia sẻ với nhau những tâm sự thầm kín. Gần nửa thế kỷ sát cánh bên nhau trên đường về Thiên Quốc. Mọi người thấy rõ niềm vui lộ trên khuôn mặt của hai vị.

Khi quan tòa đòi Đức cha Minh phải ký vào bản án đã viết sẵn, ngài yêu cầu cho nghe trước rồi mới ký. Vừa nghe đọc hai chữ “Tả Đạo”, Đức cha cắt ngang: “Xin quan sửa lại chữ đó thành đạo Đức Chúa Trời”. Quan đồng ý và sửa lại. Khi đọc đến chữ “.lừa đảo ngu dân”, Đức cha lại lên tiếng: “Không đúng, chúng tôi không lừa đảo ai, chúng tôi chỉ đến đây giảng đạo chân chính”. Đức cha không chịu ký vào cho đến khi quan ông ý sửa bản văn lại. Ngày 12.06, bản án được gửi về kinh đô, nhà vua châu phê và gởi lại Nam Định ngày 25.06, Đức cha còn được một ngày để chuẩn bị tâm hồn lãnh phúc tử đạo.

Chứng tá cuối cùng.

Một số binh sĩ Công Giáo giữ đạo cách bí mật đã bỏ tiền ra xin được vinh dự khiêng cũi Đức cha. Và trước khi khởi hành ra pháp trường, nhiều binh sĩ đã trót nhát sợ đạp lên Thánh Giá, đến quỳ khóc lóc trước cũi, xin Đức cha cầu nguyện và tha thứ. Đức cha đã nhân ái an ủi họ và giúp họ thống hối đền tội. Trên đường đến Bảy Mẫu, Đức cha Minh trong cũi với nét mặt hân hoan, miệng thầm thĩ nguyện kinh và giơ tay ban phép lành cho các tín hữu đang khóc thương hai bên đường. Thày Chiểu mang gông đi phíaa sau. Cuối cùng là năm binh sĩ không chịu bước qua Thánh Giá, trong đó có ba vị tử đạo sau này là Augustinô Huy, Nicolas Thể và Đaminh Đinh Đạt, nhưng hôm ấy đến nửa đường, cả năm binh sĩ đều được đưa trở về ngục.

Tại pháp trường, Đức cha Minh muốn chứng kiến cái chết kiên trung anh dũng của người môn đệ quý yêu: thày Phanxicô Chiểu, Đức cha xin xử trảm thày trước. Viên quan đồng ý. Thế là quân lính xử chém và trao đầu thày cho vị Giám Mục. Ngài trân trọng đón lấy, rồi ngửa mặt lên trời cầu nguyện trang nghiêm như đang dâng lễ vật đẫm máu lên Thiên Chúa. Đến lượt mình, Đức cha nghiêng đầu cho lý hình thi hành quân sự. Hôm đó là ngày 26.06.1838, Thiên Chúa đã gọi Đức cha Henares Minh về trời lãnh ngành thiên tuế tử đạo, chấm dứt 73 năm trên dương thế với 43 năm phục vụ tại Việt Nam, 38 năm giám mục.

Thi hài Đức cha được lý hình an táng ngay tại pháp trường, nửa tháng sau các tín hữu cải về Lục Thủy. Đầu của ngài bị treo ở cổng thành ba ngày, rồi ném xuống sông Vị Hoàng, vài ngày sau một dân chài Công Giáo may mắn vớt được, các tín hữu đưa về táng chung với thi hài. Về sau khi ngưng bách hại, họ long trọng đưa hài cốt Đức cha về tòa Giám mục Bùi Chu.

Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Giám mục Henares Minh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #30
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.757
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
29. Emmanuel Lê Văn Phụng (1796 – 1859)

Emmanuel Lê Văn Phụng, Sinh năm 1796 tại Ðầu Nước, Cù Lao Giêng, Giáo dân, Trùm Họ, bị xử trảm ngày 31/07/1859 tại Châu Ðốc dưới đời vua Tự Ðức, Đức Piô X suy tôn hai vị tử đạo lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Đặc biệt ông câu Emmanuel Phụng được đứng trong số sáu vị đứng đầu danh sách 117 hiển thánh tại Việt Nam.

"Con ơi, hãy tha thứ. Đừng tìm báo thù kẻ tố giác cha nhé". Đó là lời trăn trối cuối cùng của thánh Emmanuel Lê Văn Phụng cho con trai trước khi bị xử chém. Noi gương Đức Kitô trên Thập Giá xin Chúa cha tha những kẻ hành hạ mình, thánh nhân nài nỉ các bạn hữu sống trọn vẹn giới luật bác ái Kitô Giáo : "Hãy tha thứ cho kẻ thù. Đừng báo oán những kẻ tố giác hay kết án tôi, hãy tha thứ, hãy tha thứ vì chính tôi, tôi đã thứ tha…"

Cho đến muôn đời, mẫu gương và lời nói đó sẽ mãi mãi vang vọng trong lòng người tín hữu Việt Nam.

Emmanuel Lê Văn Phụng sinh năm 1796 tại họ Đầu Nước, Cù Lao Giêng, tỉnh An Giang, thuộc trấn Châu Đốc, Nam Hà. Nhìn bề ngoài, ông Phụng không mấy hấp dẫn, vì vóc dáng có vẻ gân guốc, lại hay lớn tiếng với mọi người. Nhưng trái lại, nhờ tính cương trực, sự dứt khoát cũng như lòng nhiệt thành với việc chung, ông được bà con tín nhiệm đề bạt làm "câu" (Trùm) họ Đầu Nước. Đáp ứng lại sự tín nhiệm đó, ông Câu Phụng đã góp sức tổ chức giáo họ thêm lớn mạnh ngay trong thời bách hại đạo dưới thời vua Tự Đức.

Nhờ tài đức của ông, họ đạo đã tái thiết được ngôi thánh đường khang trang, cất nhà cho các nữ tu và trở thành khu trú ngụ khá an toàn cho các giáo sĩ. viên quan huyện địa phương một phần vẫn nhận tài trợ của ông, một phần đã thấy rõ sinh hoạt tôn giáo không có gì nguy hiểm, nên cho người báo tin trước khi phải kiểm tra theo lệnh trên, đủ thời giờ để các tín hữu cất dấu ảnh tượng và các vật dụng tôn giáo.

Tai họa bất ngờ

Thế nhưng có điều ông Câu Phụng không ngờ tới là món tiền thưởng của nhà vua vốn có một hấp lực với một vài lương dân trong vùng. Những ngày này chia nhau theo dõi nhà ông, mỗi đêm họ cử người leo lên cây xoài gần đó để quan sát, và họ đã toại nguyện. Cuối năm 1858, họ đã phát hiện một vị thừa sai ngoại quốc Pernot Định đang tạm trú tại nhà ông Câu.

Đêm hôm đó, khi mọi người đã an giấc, cha Pernot ra sân đi dạo để hít thở không khí trong lành và cầu nguyện giữa khí mát trăng sao. Đêm thanh như có phép màu làm tiêu tan đi những mệt nhọc ban ngày và giúp cha hướng về Đấng Tạo Hóa cao thẳm, thầm ước mong các tín hữu Việt Nam sẽ đông đúc như sao ở trên trời. Trước khi khép cửa để vào nhà nẩ nấp, cha còn nói với lại : "Chào các bạn tinh tú nhé. Thực là tồi tệ cho những ai bắt tôi phải sống thế này".

Thế là hai người rình rập hôm đó mừng rỡ, họ vội vã kéo nhau đi báo cho quan trấn phủ Châu Đốc. Họ tố gíac ông Câu Phụng chứa chấp Tây Dương Đạo Trưởng. Họ cũng không quên xin phái quan lãnh binh đi bắt, chứ đừng báo quan huyện, vì quan này thông đồng với Công Giáo.

Sáng ngày 07.01.1859, ông Câu Phụng chưa hay biết gì cả. Ngoài thừa sai Pernot, còn có cha Phêrô Quý (cha sở mới họ Đầu Nước). Đang trọ tại nhà ông. hai linh mục vẫn dâng lễ như thường. Sau đó, mới có người chạy về báo tin là quan quân Châu Đốc đi thuyền và đi bộ đang tiến đến nhà ông. Ông Phụng liền cử người đưa hai cha đi trước, nhưng cha Quý nhất định ở lại, vì nghĩ mình có thể trà trộn vào dân được, và tìm chỗ ẩn núp ngay trong nhà.

Đến khi quan quân ập vào hạch hỏi và dọa đánh chủ nhà, cha sở Quý tự ra trình diện. Thế là quân lính liền bắt trói ông Câu Phụng, cha Quý và 32 giáo hữu khác áp giải về Châu Đốc. Trước mặt quan, vì có người tố cáo, ông Câu khẳng khái xác nhận mình đã từng tiếp đón và cho thừa sai nước ngoài trọ tại nhà mình. nhưng sau đó, dù tra tấn hay dụ dỗ nhiều lần, ông nhất định không khai thêm chi tiết nào khác về các thừa sai, và cương quyếtk bỏ đạo.

Kỷ vật cuối cùng

Sau sáu tháng giam giữ, không hy vọng gì các tù nhân đổi ý, các quan trấn Châu Đốc làm án gởi về kinh đô xin xử giảo và vua Tự Đức châu phê liền. Ngày 31.07, linh mục Phêrô Đoàn Công Quý và ông Câu Lê Văn Phụng được đưa ra pháp trường Chà Và. Cả hai vị bình tĩnh, cha Quý vừa đi vừa đọc kinh Mân Côi, còn ông Câu thì dặn dò các bạn hữu tha thứ cho những kẻ hại mình.

Tại pháp trường, ông câu gặp các con mình. ông đeo vào cổ con gái – cô Anna Nhiên – ảnh Thánh Giá và nói: "Con ơi, hãy nhận lấy kỷ vật của ba. Đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Anh này quý hơn vàng bạc bội phần. Con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé".

Ông cũng dặn con trai, đừng chôn cất rầm rộ, và nhớ chôn ông bên cạnh cha sở của mình. Tiếp theo, hai chứng nhân của Chúa quỳ xuống cầu nguyện. Cha Quý giải tội cho ông Câu. Sau ba tiếng chiêng vang, vị linh mục bị chém dầu, còn ông Câu Emmanuel bị xiết cổ bằng dây thừng do hai người kéo.

Đức Piô X suy tôn hai vị tử đạo lên bậc Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Đặc biệt ông câu Emmanuel Phụng được đứng trong số sáu vị đứng đầu danh sách 117 hiển thánh tại Việt Nam.

Nghĩa cử quảng đại tha thứ của ông câu Emmanuel Lê Văn Phụng trước giờ tử đạo đã là bài giảng hùng hồn nhất về sự bao dung của đức bác ái Kitô giáo.

Trường thi tử đạo

Lê Văn Phụng là ông trùm họ
Năm Bính Thìn (1796) sinh trọ An Giang
Tính người cương trực đàng hoàng
Ông hay nói thẳng không màng thân quen

Trong họ đạo lo toan kiến thiết
Ngôi thánh đường cho thiệt khang trang
Tiếng thơm trong họ ngoài làng
Ông còn chơi rộng đến hàng huyện quan

Thời cấm đạo lo toan cất giấu
Các Cố Tây nương nấu trong nhà
Ngoài ra còn các cha ta
Khi đi khi ở vào ra bình thường

Ai ngờ bỗng tai ương mang đến
Mấy người lương thân quyến tham tiền
Chia nhau theo dõi liên miên
Có lần bắt gặp chủ chiên nước ngoài

Trong đêm vắng các ngài dâng lễ
Tại nhà ông chúng kể rõ ràng
Báo cáo cặn kẻ đàng hoàng
Xưa nay quan huyện dễ dàng với ông

Muốn ăn chắc báo ông quan trấn
Cho bao vây cẩn thận đêm khuya
Trong ngoài kín mít êm ru
Sáng ra ập đến giấu thu cách nào

Ông trùm Phụng làm sao ngờ được
Ðem cha Ðịnh ngoại quốc trốn ngay
Còn cha Quý trong vòng vây
Tự mình ra nộp Ðức Thầy tuyên xưng

Tôi tên Quý chính danh đạo trưởng
Giảng đạo trời ảnh hưởng đến ai
Lệnh vua sai bắt thưa ngài
Còn ông trùm Phụng chẳng nài tuyên xưng

Người Công giáo tôi tin có Chúa
Sống thương người chan chứa hồng ân
Một đời sống đạo chuyên cần
Ðời này tích đức để dành đời sau

Còn cái lệnh bắt nhau bỏ đạo
Thì tôi đây tuyên cáo rằng không
Cho dù roi sắt vạc đồng
Bảo tôi quá khoá cũng không được nào

Quan thấy rõ không sao thuyết phục
Sáu tháng giam rút cục không thành
Bèn làm bản án về kinh
Ông này xử giảo điển hình biết tay

Ông trùm Phụng khi hay tội ấy
Thật vui mừng như thấy thiên nhan
Có cô con gái tên Nhiên
Trao ảnh chuộc tội như khuyên vài lời

Ảnh thánh giá trên đời quý nhất
Theo ý Cha quý thật hơn vàng
Nói xong bình tĩnh đàng hoàng
Pháp trường xử giảo dễ dàng quy thiên

Kỷ Mùi (1859) tử đạo trên niên giám
Là chứng nhân bảo đảm đức tin
Rôma Toà Thánh hướng nhìn
Kỷ Dậu (1909) phong thánh trăm nghìn hồng ân

Lời bất hủ: Tại pháp trường cha và ông Trùm Phụng gặp các con mình. Ông đeo vào cổ con gái Anna Nhiên ảnh Thánh giá và nói: "Con ơi, hãy nhận lấy kỷ vật của ba, đây là ảnh Chúa Giêsu Kitô, Chúa chúng ta. Ảnh này quý hơn vàng bạc bội phần, con hãy luôn mang nơi cổ và trung thành cầu nguyện sớm chiều con nhé".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #31
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.757
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
30. Emmanuel Nguyễn Văn Triệu (1756 – 1798)

Emmanuel Nguyễn Văn Triệu, Sinh năm 1756 tại Thợ Ðức, Phú Xuân, Huế, Linh mục, bị xử trảm ngày 17/09/1798 tại Bãi Dâu dưới đời vua Cảnh Thịnh, Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. lễ kính vào ngày 17/09.

Là một linh mục giáo phận Đông Đàng Ngoài, vốn biết bao bận rộn vì công tác mục vụ, nhưng cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu vẫn không quên người mẹ già ở quê nhà. Năm 1798 giữa cơn bách hại gay gắt của vua Cảnh Thịnh, nhất là tại kinh đô, cha đã xin phép Bề trên về Phú Xuân thăm mẹ, và ở lại gần ba tháng để gầy dựng cho bà một mái nhà nhỏ xinh. Chính vì muốn trọn đạo hiếu với mẫu thân mà linh mục đã bị bắt.

Emmanuel Nguyễn Văn Triệu sinh năm 1756 tại làng Kim Long, Phú Xuân (nay là Huế). Thân phụ cậu là ông Cai Lương, Nguyễn Văn Lương, một võ quan Công Giáo phò chúa Nguyễn đã bị tử trận trong một cuộc chiến với Tây Sơn. Sớm mồ côi cha, cậu Triệu sống với mẹ ở Thợ Đúc, gia nhập quân đội năm 1771 khi mới 15 tuổi. năm 1774, anh cùng các bạn gia nhập quân đội của vua Lê chúa Trịnh, chiếm được Phú Xuân. Đến khi Tây Sơn từ phía Nam đánh lên, trở thành chủ nhân ông mới của Phú Xuân, vệ binh Nguyễn Văn Triệu đành theo Trịnh Khải rút về Thăng Long (1786).

Tháng 6 năm đó, quân Tây Sơn thừa thắng xông lên, tiến ra Bắc lấy cớ phò Lê diệt trịnh. Trịnh Khải phải mổ bụng tự tử. Rồi vua Lê Cảnh Hưng băng hà, Lê Chiêu Thống lên ngôi, miền Bắc lại xảy ra nội chiến giữa hai phe Trịnh Lệ và Trịnh Bồng. Chính bối cảnh nhiễu nhương thay ngôi đổi chúa đó đã làm cho anh vệ binh Triệu phải suy nghĩ và đi đến quyết định dứt khoát cho cuộc đời mình.

Ba mươi tuổi đời, mười lăm năm binh nghiệp với biết bao thăng trầm, Emmanuel Triệu bước vào một khúc quanh mới, giã từ vũ khí để phụng vụ Vua trên trời và qua đó phục vụ tha nhân cách đích thực hơn. Mới đầu, anh được một linh mục dòng Tên ở Hà Nội hướng dẫn, nhưng sau anh được Đức cha Obêlar Khâm giáo phận Đông đàng Ngoài nhận vào học tại trường thần học Trung Linh. Và năm 1793, Đức cha Anlonsô Phê truyền chức linh mục. Khi đó cha Triệu đã 37 tuổi.

Nhờ nền giáo dục chu đáo từ nhỏ, cùng với những kinh nghiệm lâu năm trong đời sống quân ngũ, và nhất là ơn Chúa giúp, cha Emmanuel Triệu trở thành một mục tử hăng say nhiệt tình và làm việc có phương pháp. Sáu năm phục vụ trong giáo phận Đông, cha đã thu hoạch được nhiều kết quả và được các bề trên quý mến.

Dưới thời vua Cảnh Thịnh (1792–1802) tình hình chính trị trong nước ngày càng phức tạp. Nguyễn Ánh (vua Gia Long sau này) tổ chức quân đội ngày càng mạnh, hùng cứ ở Gia Định, hằng năm cứ đến mùa gió nồm lại đem quân ra đánh Huế. Hỗ trợ cho Nguyễn Anh có một số quân Pháp do Đức cha Bá Đa Lộc chiêu mộ. Do đó, vua Cảnh Thịnh sinh ra ác cảm với đạo, nhất là cuối năm 1797, khi bắt được lá thư của Nguyễn Anh gửi Đức cha Labartatte Bình (Giám mục Đàng Trong) ở Phú Xuân, nhà vua càng nghi ngờ đạo Công Giáo tiếp tay cho giặc.

Một quan văn có đạo, quan Thượng Hồ Cung Điều nhiều lần thanh minh trước mặt nhà vua rằng: "Đạo dạy trung quân vương, hiếu phụ mẫu, chớ có phải đạo dạy làm giặc đâu". Vua nghe nói thì chần chừ. Nhưng viên quan nội hầu tên Lợi, cứ gièm pha mãi, nên cuối cùng, tháng 8.1798, một chiếu chỉ cấm đạo được ban hành.

Trước đó ba tháng, cha Emmanuel Triệu vì thương nhớ mẹ già, nên trở về khu Chợ Đúc, Phú Xuân (Huế). Thật bùi ngùi cảm động sau 12 năm xa cách, hai mẹ con lại gặp nhau. Giờ đây mái tóc của người mẹ đã bạc phơ, còn con nay đã 42 tuổi và là linh mục của Chúa. Cha Triệu thấy xót xa trước cảnh mẫu thân mình phải ăn nhờ ở đậu nhà người khác. Cha quyết định ở lại, cùng với bà con lối xóm, dựng cho mẹ một mái nhà nhỏ để có nơi nương thân. Thời gian này cha Triệu nhân thể cũng đi thăm viếng và dâng lễ tại các họ đạo gần đó. Cha được các tín hữu ở dây thương mến nhiều.

Ngày 07.08.1798, theo chiếu chỉ nhà vua mới ban hành, bốn cơ binh (mỗi cơ 50 quân) bất thần bao vây bốn giáo xứ vùng kinh đô. Tại xứ Thợ Đúc, quan quân có ý tìm cha chính xứ, cha Nhơn, nhưng nhờ quan Thượng Điều đã báo tin, nên ngài đã trốn thoát kịp. Còn cha Triệu thì mới về, nên quan không biết, quan quân bắt một số giáo hữu trong đó có cha Triệu và tra hỏi về các linh mục. Cha Triệu tự nguyện cung khai, nhận mình là người mà họ lùng bắt. Quân lính liền trói tay cha lại dẫn đi. Khi thấy mẹ già khóc lóc thảm thiết, cha Triệu dừng lại nói ít câu từ giã: "Thiên Chúa đã cho con vinh dự làm chứng cho Ngài. Xin mẹ đừng khóc nữa. Mẹ hãy vui lòng vâg theo ý Chúa".

Tiếp theo đó là 40 ngày đêm thử thách trong cảnh ngục tù. Cổ mang gông, tay chân bị xiềng xích, cha còn bị đưa ra tòa nhiều lần, chịu ba trận đòn dữ dội. Khi các quan thẩm tra lý lịch, cha nói rõ mình sinh quán Phú Xuân, vì hoàn cảnh khó khăn mới phải ra Đàng Ngoài để làm ăn, rồi được học giáo lý trong đạo và làm linh mục. Quan hỏi: "Thày có vợ con ở đây hay ở Đàng Ngoài? Cha đáp: "Tôi không lấy vợ, vì là linh mục nên tôi sống độc thân".

Ngày 17-8 các quan định kết án voi giày nhưng một viên quan không đồng ý nên vụ án được trì hoãn.

Thời gian ở trong ngục, cha Triệu vẫn giữ được niềm vui vẻ và tin tưởng vào Chúa. Điều an ủi cha nhất, là được một linh mục cải trang vào thăm và giải tội. Thân mẫu cha nhiều lần cũng đến thăm. Cha an ủi bà, xin bà cầu nguyện nhiều cho mình được trung kiên. Ngoài ra, cha tranh thủ mọi giờ rảnh rỗi để chuẩn bị tâm hồn lãnh phúc tử đạo.

Ngày xử án được ấn định là 17.9.1798. sáng sớm hôm đó, các quan hỏi cha lần cuối: "Thày có muốn bỏ nghề đạo trưởng trở về quê quán sinh sống không? Nếu thày đồng ý, ta sẽ xin vua tha cho". Cha Triệu khẳng khái trả lời : "Thưa không, tôi là đạo trưởng, tôi thà chết chứ không bỏ việc giảng đạo". Thế là đến gần 10 giờ sáng cha Triệu bị điệu ra pháp trường cùng với sáu tên trộm cướp cũng bị tử hình hôm đó. Cha bước đi bình tĩnh, trang nghiêmnhư một chiến sĩ thận trọng trước giờ lâm chiến. Các tín hữu nghe tin lũ lượt đi phía sau. Đàng trước cha, một người lính cầm thẻ bài đọc ghi bản án:

"Tên Triệu, con nhà Nguyễn Văn Lương, chuyên giảng đạo Hoa Lang, quyến rũ dân chúng theo đạo đáng ghê tởm ấy. Vậy y phải trảm quyết".

Tại Bãi Dâu, nơi thi hành án, cha Triệu quỳ xuống cầu nguyện. Theo thói lệ, quan phát cho mỗi tử tội một quan tiền để ăn uống trước khi chết. Cha từ chối, viên quan liền nói : "Của vua ban không được coi thường". Cha trả lời : "Vậy xin ai đó cầm tiền giúp tôi, gởi cho người nghèo". Một người lính thấy thế liền tát vào mặt Ngài một cái. Viên quan nổi giận mắng anh ta: "Chưa đến giờ xử mà mi dám ngạo ngược như thế sao ?" Rồi ông quay qua mời vị chứng nhân đức tin ngồi và nói : "Khi nào đến giờ, tôi sẽ báo cho thày". Cha Triệu liền ngồi và tiếp tục cầu nguyện.

Đúng giờ ngọ (12 giờ trưa), viên quan nói với vị linh mục : "Giờ đã đến rồi". Cha Triệu quỳ lên giơ cổ cho lý hình chém. Thi hài vị tử đạo được các tín hữu an táng tại họ Dương Sơn, sau được cải vào nhà thờ Dương Sơn.

Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Emmanuel Nguyễn Văn Triệu ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.

Trường Thi Tử Đạo

Nguyễn Văn Triệu sinh năm Bính Tý (1756)
Tại Kim Long tỉnh lỵ Thừa Thiên
Gia đình Công giáo tài hiền
Cha làm quan võ quy thiên Nguyễn Triều

Mười lăm tuổi chú Triệu vô lính
Ngự lâm quân triều chính cùng quê
Tây Sơn đánh phá tứ bề
Triều Ðình phải trốn bỏ về miền Nam

Quan miền Bắc đứng làm thủ trưởng
Triệu tháp tùng dưới trướng điều binh
Ði theo như bóng với hình
Quan chuyển về Bắc đem mình đi theo

Cuộc sống mới gieo neo vất vả
Triệu nghĩ suy nên đã đổi thay
Ði tu ý muốn trình bày
Dòng Tên đón nhận đưa ngay đăng trình

Rồi sau đó chuyển Ðaminh Tu Viện
Vị Thừa sai đại diện Rôma
Ðưa thầy Triệu gặp Ðức Cha
Sáu năm thần học sau đà thụ phong

Ơn Thiên Triệu quan phòng Linh mục
Ðược sai đi tiếp tục giảng rao
Giáo lương tình nghĩa dạt dào
Người nghèo giúp đỡ đổi trao nghĩa tình

Cha phục vụ hy sinh năm tháng
Ðược về thăm bóng dáng mẹ hiền
Tuổi già đau ốm triền miên
Nhờ bà đạo đức trong miền giúp cho

Ngài về Huế để lo công việc
Trao lá thư đặc biệt Ðức Cha
Hai ngày trở lại mẹ già
Làm căn nhà nhỏ cho bà an cư

Mấy bà cháu rất ư vui vẻ
Trong căn nhà mát mẻ sống chung
Nhà vua cấm đạo truy lùng
Bắt tìm đạo trưởng khốn cùng khắp nơi

Cha ngoại quốc kịp thời trốn trước
Riêng Cha Triệu phép được thăm quê
Quân quan vây bọc tứ bề
Giáo dân đâu biết để về báo Cha

Ngài bị bắt tại nhà Thợ Ðúc
Ông Trùm Quyên đúng lúc đi xa
Lính bắt ngài chúng hỏi tra
Nhận ngay đạo trưởng chính ta đó mình

Chúng đánh đập thất kinh hai trận
Dòng nữ tu kế cận tiến vào
Tịch thu đồ đạc bỏ bao
Ba mươi chị bắt giải vào kinh đô

Người hiểu biết tiến vô can thiệp
Trả tự do đặc biệt quý Soeurs
Nhà dòng phá hủy chỏng chơ
Cả nhà Cha Triệu nửa giờ phá tan

Bắt Cha Triệu liên can Thầy giảng
Cha với Thầy không nản vẫn vui
Quan Thượng hỏi người trốn chui
Vào Nam giảng đạo ngọt bùi dối đâu

Cha Triệu nói Phú Xuân quê cũ
Bố của tôi Quan Phủ Nguyễn Triều
Hai mươi năm đói tiêu điều
Bỏ nhà ra Bắc từ nhiều năm qua

Tôi may mắn gặp Cha Cố đạo
Ngài giảng rao loan báo niềm tin
Tôi đi theo học sưu tìm
Thấm nhuần đạo Chúa khắc in trong lòng

Rồi sau đó thụ phong Linh mục
Người Tông đồ tiếp tục giảng rao
Lâu năm thăm mẹ trở vào
Tôi là đạo Truởng Chúa trao loan truyền

Quan Thượng hỏi cảm phiền có vợ
Ở đàng ngoài hay ở đàng trong
Cha Triệu nói tôi tu dòng
Ðộc thân phải giữ thật lòng chân tu

Quan ra lệnh nhốt tù nghiêm ngặt
Cổ đeo gông chân chặt xích xiềng
Bốn mươi ngày biệt giam riêng
Ðánh đòn ba trận nát liền trên lưng

Cơm chỉ có muối vừng qua bữa
Ðựng mo cau khe cửa đút vô
Lính canh ăn nói côn đồ
Nản lòng sợ hãi khát khô nước thèm

Quan tra hỏi nhiều phen dọa nạt
Cha trả lời chẳng khác giảng rao
Hùng hồn can đảm tự hào
Thánh Linh phù trợ ban trao cho ngài

Cha Lộc tới bá vai giải tội
Vào thăm tù lính hối đuổi ra
Hôm sau Cha bị hầu toà
Các quan xúi giục hãy đà nghe ta

Bỏ đạo Chúa vua đà trọng thưởng
Về thế gian thụ hưởng thiếu chi
Cha cương quyết chết tức thì
Vẫn theo chân Chúa tử quy Nước Trời

Lính giải ngài đến nơi để chém
Cha quỳ thẳng lính vén tóc lên
Ðầu rơi xuống đất ngay bên
Giáo dân ào đến kêu tên khóc ngài

Chôn cất dấu mấy ai hay biết
Tại một nơi giữa miệt lương dân
Thời gian thuận tiện tới gần
An táng trọng thể mộ phần của Cha

Năm tử đạo chính là Mậu Ngọ (1798)
Thánh năm này tuổi thọ bốn hai
Roma phong thánh cho Ngài
Suy tôn Canh Tý (1900) trần ai mấy người

Lời bất hủ: Trước khi xử tử quan hỏi cha Triệu: "Thầy có muốn bỏ nghề đạo trưởng trở về quê quán sinh sống không? Nếu Thầy đồng ý, ta sẽ xin vua tha cho". Cha Triệu khẳng khái trả lời: "Thưa không, tôi là đạo trưởng tôi thà chết chứ không bỏ việc giảng đạo".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #32
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.757
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
31. Giacôbê Ðỗ Mai Năm(1781-1838)

Giacôbê Ðỗ Mai Năm, Sinh năm 1781 tại Ðông Biên, Thanh Hóa, Linh mục, bị xử trảm ngày 12/08/1838 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng, Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Giacôbê Đỗ Văn Năm ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 12/08.
Nghe tin quan Tuần phủ đến làng, cha Đỗ Mai Năm thắt lưng, xắn quần định trà trộn vào đám dân chúng đi làm cơm cho quan ăn. Nhưng chựa kịp ra khỏi nhà thì quân lính đến. Khi thấy ông cụ trắng trẻo, râu dài, họ chặn lại hỏi : "Ông là ai ?" Cha năm vui vẻ trả lời: "Tôi là người nhà này". Ngay lúc ấy hai người tên Tỷ và Xuân được quan thuê đi dò thám nơi ở của các đạo trưởng, trước đã giả xin làm việc trong nhà ông Lý Mỹ, liền đến chỉ vào cha và kêu lên: "Đúng đạo trưởng ở nhà này đây". Vẫn cũng giọng điềm tĩnh như mọi khi, cha Năm khẳng khái trả lời : "Phải chính tôi đây".

Thế là cha bị bắt. Bị bắt một cách bình thản như cuộc đời cha vốn bình thản. Hay có thể nói, cha bị bắt một cách vui vẻ, tự nhiên như công việc vẫn xảy ra thường ngày trong đời sống của cha vậy.

Giacôbê Đỗ Văn Năm, tên trong sổ là Mai Ngũ, sinh năm 1781, tại làng Đông Biên, Huyện Vĩnh Lộc, tỉnh Thanh Hóa. Cậu Ngũ vào nhà Đức Chúa Trời từ nhỏ, sau đó học tiếng Latinh ở chủng viện Vĩnh trị, khi thành thày giảng thì ở lại giúp chủng viện luôn. Thày Năm hiền hòa, vui vẻ nên trẻ em rất mến và thích thày. Sau đó ít năm, thày được đi học thêm thần học và thụ phong linh mục năm 32 tuổi. Cha Năm đi giúp các xứ đạo đây đó, sau lại về giúp nhà trường Vĩnh Trị khoảng năm 1830.

Từ khi vua Minh Mạng cấm đạo toàn quốc, chủng viện bị giải tán, cha Năm phải đi ẩn trốn ở nhà các tín hữu. Cha ở nhà ông Trùm Tôn ba năm, họ Kẻ Nguồi, lần khác tại nhà ông Trùm Đích làng Vĩnh Trị. Trong thời gian ẩn trú như thế, cha Năm đã sống rất hòa mình vui vẻ với mọi người. Cha hay kể truyện cho trẻ em hoặc cùng với các chủng sinh giúp nhổ cỏ ruộng cho chủ nhà, cha làm các việc nhỏ mọn chẳng phiền hà bao giờ. Đặc biệt, cha yêu thương săn sóc những người nghèo. Tất cả những gì nhận được, cha thường dành dụm cho họ.

Có người báo cáo làng Vĩnh Trị chứa chấp đạo trưởng. Quan cho lính đến vây làng, bắt được cha Năm cùng với ông Trùm Đích, và con rể ông là ông Lý Mỹ. Cha bị tống giam vào ngục Nam Định.

Trước mặt quan, khi được khuyên nhủ bỏ đạo, cha Năm khẳng khái thưa: "Tôi là đạo trưởng làm sao dám bỏ đạo hay đạp ảnh tượng tôi tôn kính được. Tôi vốn khuyên dạy người ta phải giữ đạo vững vàng, thà chết không bỏ đạo thì tôi phải giữ lời tôi đã khuyên dạy kẻ khác chứ. Nếu đạo trưởng mà không dám chịu chết vì đạo thì còn ai chịu chết vì đạo nữa".

Sau nhiều lần khuyên dụ, biết không làm cha đổi ý được, các quan không tra khảo gì thêm nữa, để cho cha được dễ dàng đi lại, gặp gỡ các bạn tù, nhờ đó cha an ủi, khuyến khích được người trong tù, ban phát bí tích cho họ. Nhất là động viên ông Trùm Đích bị bắt cùng với cha, ông đã luống tuổi và rất sợ hãi khổ hình, cha nói : "Nhờ ơn Chúa giúp sức thì các khổ hình đau đớn thế nào, chúng ta cũng chịu được". cha nhắc đến gương thánh Laurensô bị nung trên giường sắt, mà vẫn vững tin đến cùng.

Án xử được châu phê. Ngày 22.08 cha Giacôbê Năm cùng với ông Trùm Antôn Đích, ông Micae Lý Mỹ được phúc tử đạo tại pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Cha Giacôbê Năm khi đó được 77 tuổi, thi hành tác vụ linh mục được 25 năm.

Suốt cuộc đời, cha Năm luôn sống hiền hòa, bình dị, thoải mái như cái tên Năm bình dị. Cuộc đời thày giảng Năm đầy vui vẻ, và cuộc đời linh mục Năm hoàn toàn giản đơn. Sự đơn giản thoải mái đó, không do hoàn cảnh may mắn dễ dàng, không do điều kiện bên ngoài, nhưng do chính tâm hồn tràn đầy tình yêu Thiên Chúa của cha. Cuộc đời xuề xòa vui vẻ của cha đã tỏa trên những người xung quanh cha thứ ánh sáng tuyệt vời của Đức Kitô, Đấng cao cả như thế, mà khi đến trần gian đã luôn sống hiền hòa khiêm tốn, vui với trẻ thơ và vui sống với người cùng khổ.

Trong tình huống "dầu sôi lửa bỏng" lúc đó, chắc chắn lễ mừng ngân khánh linh mục của cha nếu có, cũng chỉ thật âm thầm lặng lẽ. Nhưng diễn phúc cha, vì Thiên Chúa đã đưa người tôi tớ chung tín về nước Trời. Và khỏi phải nói, không một ngân khánh của ai trên trần gian có thể huy hoàng, long trọng để so sánh được với lễ ngân khánh của cha trên Thiên Quốc.

Thi hài ba vị tử đạo được đưa về an táng tại Vĩnh Trị, dân làng kéo chuông, đốt đuốc, đón rước cách long trọng. Sau được đưa về nhà chung ở xứ Kẻ Sở.

Đức Lêo XIII suy tôn Chân Phước cho cha Giacôbê Đỗ Văn Năm ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường Thi Tử Đạo

Giacôbê (Ðỗ) Mai Năm linh mục
Sinh Kỷ Sửu (1781) quê thực Ðông Biên (Thanh Hoá)
Học hành thi đỗ liên miên
Ba năm Thần học linh truyền thụ phong

Cha rao giảng giúp trong nhiều xứ
Lại còn kiêm đệ tử chủng sinh
Hăng say Cha rất nhiệt tình
Hoàn thành sứ mệnh của mình được trao

Cha đi lại ra vào Vĩnh Trị
Giả danh giúp ông Mỹ người nhà
Có người phát hiện tố Cha
Ông này đạo trưởng đúng là Mai Năm

Cha khẳng khái nói năng điềm tĩnh
Giacôbê Ðỗ, chính là ta
Quan khuyên, Cha bỏ đạo tà
Trả lời Cha nói sao mà lộng ngôn

Ông quan tỉnh vô hồn nặng xác
Kẻ u mê phản bác đạo trời
Truy lùng bắt bớ khắp nơi
Tôi là đạo trưởng rao lời giảng khuyên

Tôi khẳng định lời nguyện thà chết
Thân xác này dâng hết trọn tình
Sẵn sàng vì đạo hy sinh
Các quan xử trảm tử hình Cha Năm

Là nhân chứng thưa rằng lãnh nhận
Giữ đạo trời tiếp cận Tin mừng
Hát ca chúc tụng không ngưng
Vinh danh Thiên Chúa cửu trùng suy tôn

Rồi quỳ xuống cúi hôn mặt đất
Cùng nguyện cầu Chúa cất con về
Giã từ trần thế đam mê
Linh hồn Chúa thưởng thỏa thuê Nước Trời

Phúc tử đạo sáng ngời Mậu Tuất (1838)
Bỏ thế gian không mất linh hồn
Roma Toà Thánh suy tôn
Mùa hè Canh Tý (1900) xác hồn thăng thiên

Lời bất hủ: Trước mặt quan, khi được khuyên nhủ bỏ đạo, cha Năm khẳng khái thưa: "Tôi là đạo trưởng làm sao dám bỏ đạo, hay đạp ảnh tượng tôi tôn kính được. Tôi vốn khuyên người ta phải giữ đạo vững vàng, thà chết không bỏ đạo, thì tôi phải giữ lời tôi đã khuyên dạy kẻ khác chứ, nếu đạo trưởng mà không dám chịu chết vì đạo thì còn ai chịu chết vì đạo nữa".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #33
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.757
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
32. Giêrônimô Hermosilla Liêm (1800-1861)

Jêrônimô Hermosilla Liêm, Giám mục Ða Minh; sinh 1800 tại Santo Domingo de la Calzada, Old Castile, Tây Ban Nha; chết 1, 11, 1861, Hải Dương. Sau khi khấn dòng Ða Minh, ngài được gửi đi Manila, nơi đây được thụ phong linh mục. Năm 1828, ngài được bổ nhiệm sang Việt Nam . Tháng Tư 1841, ngài thay thế Thánh Ignatius Delgado làm Ðại Diện Tông Tòa và được tấn phong Giám mục, điều này khiến cho ngài bị bách hại. Lễ kính ngày 01 tháng 11

Cột trụ giáo hội Việt Nam

Thánh Hermosilla Liêm là một trong ba vị thừa sai lỗi lạc và can đảm nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam, sánh bước với Đức cha Cuénot Thể (1835-61 giáo phận Đàng Trong) và đức cha Retord Liêu (1940-58, giáo phận Đàng Ngoài), ba cột trụ chống đỡ giáo hội Việt Nam trong những giai đoạn khó khăn thời bách hại. Riêng Thánh Giám mục Liêm luôn luôn đứng đầu sổ truy nã của ba triều vua và các Tổng đốc Nam Định, đã khéo léo khi ẩn khi hiện, hoàn thành trách nhiệm một cách tuyệt vời.

33 năm thừa sai không một ngày yên ổn. 20 năm Giám mục chứng kiến bao cảnh tang thương, nhưng chính ngài đã chủ phong cho bốn Giám mục (Đức cha Jimenô Lâm, Marti Gia, Alcazar Hy và Sanjurjo An), và truyền chức cho nhiều linh mục bản xứ, đã điều khiển giáo phận Đông Đàng Ngoài phát triển vững chắc, đủ khả năng tách làm hai, và khi gục ngã dưới lưỡi gươm của lý hình thì theo sử gia Rodriguez: Ngón tay phải ngài vẫn chỉ lối cho nhân loại hướng đến một vì sao.

Thỏa niềm ước mong

Thánh Jeronimô Hermosilla sinh ngày 30.9.1800 tại Santo Domingo de la Calzada trong một gia đình tuy nghèo nhưng đạo đức (nước Tây Ban Nha). Từ nhỏ, cậu được theo học với các cha dòng Biển Đức và có ý định xin vào dòng này năm 15 tuổi. thời đó, nước Tây Ban Nha đang chịu sự thống trị của Napoléon I, các dòng tu không được nhận người. Hermosilla được giới thiệu qua học tại chủng viện giáo phận Valencia do các cha dòng Đaminh điều hành. Duyên kỳ ngộ này đã đưa cậu đến dòng Thuyết Giáo và lãnh tu phục năm 19 tuổi.

Năm sau (1820), nước Tây Ban Nha có loạn, một số tu viện phải giải tán, tài sản giáo Hội bị xung công, các giáo sĩ không tuyên thệ trung thành với hiến pháp mới đều bị bắt giam, bị lưu đầy hoặc bị giết. Hermosilla đành phải rời nhà Dòng, đăng ký vào quân đội cho đến năm 1823. Khi vua Fernando khôi phục lại quyền bính, cậu xin vào nhà tập và khấn dòng ngày 29.10.1823. Ba năm quân ngũ đã mãi mãi lưu lại với vị tu sĩ này tính xông pha, lòng gan dạ, và đức kiên nhẫn.

Năm 1824 khi đọc thư kêu mời của tỉnh dòng Rất Thánh Mân Côi Manila, thày Hermosilla và 11 người khác liền tình nguyện đi truyền giáo ở Viễn Đông. Sau sáu tháng lênh đênh trên biển, ngày 02.03 năm sau, 12 tu sĩ này đã đến Manila quỳ phục dưới chân cha Giám Tỉnh và thưa : "Này con đây xin hãy sai con". Quả là niềm vui lớn lao của tỉnh dòng, vì 20 năm qua, tỉnh dòng chỉ nhận được 27 người, bên cạnh con số 86 vị đã qua đời vì tuổi già. Năm 1826, thày Hermosilla lãnh chức linh mục và làm giám đốc Hội Mân Côi

Năm 1828, cha tình nguyện đến Việt Nam cùng với ba thừa sai Pháp, khởi hành từ Macao đến Bắc Việt ngày 02.05.1929, 9 giờ tối, cha tới trụ cha chính Amandi Chiêu và sáng hôm sau cha tới trình diện Đức cha Delgado Y.

Tả sao cho xiết niềm vui của vị Giám mục. Cả giáo phận Đông Đàng Ngoài chỉ có ba vị thừa sai, gồm hai Đức cha Y và Hernares Minh, cha chính hiền, nhưng cả ba vị đều già và bệnh tật. Vừa thấy vị thừa sai mới, Đức cha đã chạy ra và vui sướng : "Vọng! Vọng! Ước Vọng!". Và từ đó, Vọng trở thành tên gọi chính thức của cha Hermosilla.

Sau vài tháng miệt mài họctiếng Việt, cha Vọng đã không phụ lòng mong đợi của các bậc đàn anh. Cha hòa mình rất nhanh với các tín hữu cũng như người ngoại giáo, tất cả là hy sinh và yêu thương. Không hề mệt mỏi, vị thừa sai 30 tuổi không ngừng di chuyển thăm viếng các họ đạo, giảng dạy, rửa tội, và giải tội. Nỗi buồn duy nhất của cha là việc nhiều quá mà làm không xuể. Cha liền viết thư xin bề trên gởi thêm những tu sĩ trẻ, khỏe mạnh và hăng hái khác.

Danh "Trùm Vọng" thời vua Minh Mạng.

11 năm thừa sai đầu tiên, cha Vọng là linh hồn các hoạt động truyền giáo của dòngh Đaminh trong giáo phận : Bốn năm phụ tá cha chính Amandi Chiêu, ba năm bề trên dòng, một năm phụ tá cha chính Hiền, rồi thay thế ngài từ năm 1838. Nhưng thực tế, những khi làm phụ tá, vì cha chính già yếu, mọi công việc đều do cha Vọng điều hành. Cha đã nâng số linh mục bản xứ lên đến 40, đủ sức đương đầu với cơn bách hại sắp tới.

Bão tố đã thực sự bừng lên trên giáo phận Đông đàng Ngoài từ năm 1838, khởi từ sau lá thư gửi cho bốn thừa sai và hai linh mục Việt Nam của cha Viên bị phát hiện. Hai Giám mục và cha Chính chịu tử đạo, nhiều linh mục, tu sĩ, giáo dân đổ máu vì đức tin. Cũng vì một trong sáu lá thư gửi cho cha Vọng, nên"danh trùm Vọng" được ghi vào đầu sổ bộ truy lùng của vua Minh Mạng và quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh. Chiếu chỉ ngày 18.01.1839 dành một đoạn nói về cha : "Hãy còn danh trùm Vọng chưa bắt được, dù quan truyền, dù thứ dân, chẳng kỳ ai, hễ bắt được sẽ lãnh thưởng mười ngàn quan tiền…"

Để giúp dân dễ nhận diện, vô tình vua Minh Mạng lại cho chúng ta biết đôi điều về chân dung vị thừa sai này : "Người cao lớn, mũi dài, râu rậm, cặp mắt tinh anh và hơi xám, nước da trắng trẻo, khuôn mặt phương phi…" Đúng là chân dung của một con người nghị lực không bao giờ chịu lùi bước. Quả thực, trong giai đọan này tuy rất thận trọng, cha Vọng vẫn đi khắp nơi an ủi người này, khích lệ kẻ kia, và trao ban các bí tích như coi thường cơn giận dữ của "Hỏa ngục". Dĩ nhiên là không phải không có những giây phút hồi hộp, khi thì suýt bị bắt với Đức cha Y khi bị cắm đầu cắm cổ vượt vòng vây chạy trốn. Có những lần, một mình đi giữa đêm tối trên những đoạn đường quanh co xa lạ.

Thoát chết trong đường tơ kẽ tóc

Chúa gìn giữ cha Vọng trong nhiều trường hợp kỳ lạ. Lần kia, tại xứ Liễu Dinh, một người lính đã thấy cha trong phòng, liền gọi đồng đội ra tiếp sức. Đến khi họ vào, cha ngồi sau màn cầu nguyện : "Xin cho ý Chúa được thể hiện …" Thế mà lính không thấy gì cả, cho đến khi họ nhìn thấy một cụ già có râu ngoài sân, liền nhào ra bắt nhầm, và cha có thời giờ chạy trốn thoát.

Lần khác, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dẫn 800 lính với hàng chục chiếc thuyền bao vây làng cha đang ẩn trốn, bỗng trời nổi dông bão, thế là quan quân hoàn toàn thất bại : hai thuyền bị đắm và nhiều chiếc bị trôi dạt kéo theo ba sĩ quan và các lính thủy.

Vào cuối thời vua Minh Mạng, giáo phận chịu thiệt hại đáng kể. Trên 1.000 nhà thờ bị rỡ xuống, có nơi phải nộp gỗ ván cho quan tỉnh. Các chủng viện, 40 nhà chung, 60 họ đạo, 22 nhà phước Đaminh, 3 nhà phước Mến Thánh Giá, đều bị triệt hạ và giải tán mỗi người mỗi nơi, giáo dân thì bơ vơ, hai Giám mục và cha chính chịu tử đạo, mọi gánh nặng đổ trên vai cha Vọng. Tuy nhiên, với sự cộng tác của hai thừa sai, 37 cha dòng Việt và một số linh mục triều, năm 1840, giáo phận đã rửa tội thêm 143 người lớn, hơn 1.000 trẻ em, giải tội 118.000 người và chứng hôn 1.630 đôi.

Thời gian này có hai mẩu chuyện về cha Vọng.

Thứ nhất về lá thư cha báo cáo về tình hình Bắc Việt cho Bề trên tỉnh về sự kiên cường của các vị tử đạo và "sức sống ngầm" của Giáo Hội Việt Nam trong những năm giông tố. Lá thư đã làm cho cả tỉnh dòng vui mừng. Tại nhà thờ thánh Đaminh ở Manila, cộng đoàn tu sĩ đã sốt sắng hát kinh "Te Deum" và cử hành một lễ tạ ơn. Lá thư này được phổ biến khắp nơi, làm cả thế giới ngạc nhiên và khâm phục. Đức Grêgoriô XIV viết cho Giáo Hội Việt Nam một lá thư mục vụ khích lệ, ngài họp hội đồng cơ mật trù liệu việc phong thánh cho các vị tử đạo Việt Nam.

Chuyện thứ hai là chuyện thừa sai Marti Gia đã đến Yên Trì được gần một năm mà không có cách nào trình diện để tuyên thệ theo luật bấy giờ (sắc Ex Quo). Lúc ấy, cha Vọng đang làm Bề trên phải bỏ chỗ ẩn an toàn để đến gặp người bề dưới tiến hành việc tuyên thệ này, cũng như đưa ra những lời khuyên thực tiễn.

Dưới thời vua Thiệu Trị, cuộc bách hại tuy lắng dịu, nhưng vẫn còn xảy ra ở một vài nơi. Tòa thánh đặt cha Vọng làm Đại diện Tông tòa thay thế hai Đức cha Y và Minh đã tử đạo. Theo dự định, lễ tấn phong cử hành vào ngày 14.4.1841 tại Vĩnh Trị, Phúc Nhạc, nơi Đức cha Retordd Liêu ẩn trú. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh được mật báo đem quân bao vây bắt lầm được hai vị thừa sai Pháp là Berneux Nhân và Galy Lý. Trên đường áp giải về dinh, dân chúng kháo với nhau: "Kìa ! Đó là danh Trùm vọng !". Tổng đốc Trịnh Quang Khanh cũng không giấu được vui mừng cho đến khi biết mình đã lầm, liền tức giận, cho đóng cũi, tra tấn dã man và lột trần cả hai vị, trói ngoài công đường cho mọi người sỉ nhục. Về sau nhờ áp lực của quân Pháp, nhà vua cho lệnh tha hai vị về (1843) (xem thêm hạnh bà Thánh Annê Đê).

Hai ngày sau, cha Vọng mới khởi hành từ Hải Dương đến Vĩnh Trị. Vì đã biết vụ hai vị thừa sai bị bắt, cha nhờ giáo hữu dẫn đi đường khác. Tất cả chỉ có thể đi vào ban đêm, băng rừng, lội suối, có khi đi thuyền nhưng thường là đi bộ, còn ban ngày thì ẩn nấp trong bụi cây, ngoài đồng lúc hoặc bụi tre. Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đã cho đặt các tram canh khắp nơi. Đặc biệt có một trạm canh rất cẩn mật, cha phải hối lộ cho viên phó tổng, và theo kế hoạch của ông ta để lọt được qua trạm. Đêm ấy, theo lời chỉ dẫn, cha mặc áo cộc, quần nâu xắn lên tới dầu gối, lấy bùn xoa đen hết mặt mũi chân tay, buộc túm râu tóc lại, đầu đội nón lá… rồi nắm đuôi ngựa của viên phó tổng đang cưỡi, chạy lăng xăng theo sau, như tên đầy tớ để qua trạm.

Vị Giám mục khôn ngoan

Đến Vĩnh Trị, cha Vọng tìm đến tòa Giám mục của Đức cha Liêu. Đó là một cái chòi có lối chạy xuống hầm để đề phòng mỗi khi quan quân bất ưng đến thăm. Tại đây, ngày 25.04, cha được tấn phong. Đức tân Giám mục tìm đường trở về giáo phận và đổi tên là Liêm, thay cho danh trùm Vọng vẫn được treo giá cả vạn quan. Ít lâu sau, Tổng đốc cũng ngã bệnh và qua đời.

Lợi dụng tình hình lắng dịu, Đức cha Liêm hoạt động không ngừng. Ngày 26.6, ngài tấn phong Giám mục cho cha Jimenô Lâm làm phụ tá. Sau lễ, ngài tập họp các linh mục để lập chương trình truyền giáo trong hoàn cảnh mới. Từ đó cả giáo phận bừng lên sức sống mới. Các nhà thờ, nhà xứ được tái thiết, các nữ tu viện, nhà Đức Chúa Trời được tu sửa. Giáo hữu góp tiền chuộc các anh em khác còn bị giam giữ. Trường Latinh được xây dựng lại tại Nam An (Hải Dương), sau dời về Lục Thủy. Trường Thần học được thiết lập ở Mỹ Động, Hải Dương. Đức cha khuyên giáo dân đặc biệt tin tưởng, cậy trông vào Đức Mẹ, siêng năng đọc kinh Mân Côi và kêu cầu nữ Thánh Philomêna tử đạo. Sau này, ngài chọn thánh nữ làm bổn mạng giáo phận và xin phép tòa Thánh mừng lễ hàng năm (1).

Nhờ sự cộng tác của nhiều tân linh mục trong giáo phận và nhiều thừa sai mới được gửi tới, tình hình giáo phận Đông phục hồi rất nhanh. Việc trao ban bí tích được gia tăng thêm mỗi năm. Chỉ cần cẩn thận đôi chút, các Giám mục có thể đi ban Bí Tích Thêm sức nhiều nơi.

Năm 1844, ngài mở lễ kính thánh Tổ phụ Đaminh rất trọng thể. Các linh mục tu sĩ, giáo dân thay nhau về thánh đường Nam Am suốt tám ngày liền. Họ gặp nhau chia sẻ tin tức, kinh nghiệm sống đạo của mình. Thánh lễ đại trào duy nhất của Đức cha Liêm, sau này sẽ trở thành tập tục "Lễ Đầu Dòng" trong giáo phận. Số tân tòng ngày càng gia tăng. Ngày 22.08.1844 tại Đông Xuyên, Đức cha rửa tội cho 44 người lớn, trong đó có một Chánh tổng, một Phó tổng, tám lý trưởng, một thày cúng.

Sự phát triển ngày càng phấn khởi hơn. Năm 1848, khi số tín hữu lên tới 184.000, Đức cha xin tòa Thánh chấp thuận chia giáo phận thành hai : Giáo phận Trung (nay là Bùi Chu, Thái Bình) được trao cho Đức cha Marti Gia, còn Đức cha Liêm giữ lại phần đất đông dân cư (trên mười triệu), mà ít tín hữu (chỉ 0,4 phần trăm). Từ đó hai giáo phận ngày càng phát triển vững mạnh hơn, mặc dù vua Tự Đức bắt dầu bách hại đạo. Năm 1852, giáo phận của Đức cha Liêm rửa tội được 388 người lớn, 2.824 trẻ em, trong đó đa số là trẻ em ngoại.

Mười năm cuối đời của Đức cha Liêm là những năm đầy vất vả và gian lao. Vua Tự Đức ra thêm chiếu chỉ cấm đạo. Năm 1855, khi qua giáo phận Trung, hai thày giảng tháp tùng Đức cha Liêm bị cướp bắt, Đức cha phải năn nỉ cả ngày họ mới chịu tha. Năm sau, chính Đức cha bị bắt, khi ngài đi kinh lý xứ Hữu Bàng, phải chuộc mất 300 quan. Năm 1858, trước tình hình bách hại gay gắt, sợ sẽ không còn ai sống sót, Đức cha họp và quyết định chia một nửa số thừa sai về Macao, chờ ngày thuận tiện hơn sẽ trở lại giáo phận hoạt động. Ngài chỉ giữ lại 5 thừa sai Đaminh cho cả giáo phận. Năm 1859, một lần nữa, Đức cha phải đổi tên là Tuấn, để lhỏi bị lộ cho tới ngày chiếu chỉ phân sáp ra đời.

Nỗi đau của vị chủ chăn

Tả sao cho hết nỗi đau của vị chủ chăn dòng Thuyết Giáo. Hai cuộc tử đạo của hai Đức cha An và Xuyên, biết bao hung tin mỗi ngày : các thánh đường bị phá hủy, nhiều linh mục và thày giảng bị ngã gục. Giờ đây chiếu chỉ phân sáp lại nhắm đến giáo dân. Ý thức bổn phận chủ chăn, ngài liền viết thư luân lưu cho khắp giáo phận, kêu gọi mọi người thống hối, để Chúa mở tay ban phát mọi sự lành, kêu gọi tín hữu tin vào Chúa phòng, vì "lá cây nhỏ mọn mặc lòng, nếu Chúa chẳng cho động, nó chẳng động được đâu", khích lệ mọi người can đảm xưng đạo cho vững vàng, năng suy niệm cuộc thương khó mà Chúa đã chịu vì nhân loại hầu được thêm can đảm.

Đêm thu 14.8 năm tân Dậu (18.9.1861), trong khung cảnh tĩnh mịch của đêm trăng rực sáng, Đức cha Liêm ngước mắt nhìn cảnh vật mà lòng xúc động trào dâng. Ngài nghĩ đến số phận đàn chiên đang bơ vơ thiếu chủ chăn, những gia đình tín hữu bị phân tán, vợ một nơi chồng một nẻo, con cái phải xa cha mẹ… Nhưng nỗi khổ tâm nhất của ngài là cũng đêm đó, chủng viện Kẻ Mốt phải giải tán, những mầm non của giáo hội thiếu điều kiện phát triển. Cha Khoa thay mặt ngài, giờ đây đang nói với chủng sinh những lời cuối cùng xiết bao xúc động :

"Từ trước tới nay Đức cha cố giữ anh em ở đây, và lo liệu cho anh em học hành … Bây giờ Đức cha buộc lòng phải giải tán nhà trường. nếu Chúa để chúng ta còn sống thì rồi đây có ngày Đức cha sẽ gọi anh em trở lại. Đức cha nhắn lời chúc lành và dặn dò anh em sống sao cho tốt, trông cậy vào Chúa là cha nhân lành và đừng quên cầu nguyện cho ngài, cho giáo phận và cho cả giáo hội Việt Nam. Anh em hãy thu xếp đi ngay trong đêm nay, khỏi cần bái chào Đức cha, kẻo ngài không cầm được nước mắt…"

Cũng đêm đó, Đức cha Liêm phải rời làng Kẻ Mốt đến trú ẩn ở Thọ Đức. 33 năm hoạt động trên quê hương Việt Nam đã chất chứa những gánh nặng trên vai ngài. Giờ đây sức khỏe ngài đã giảm sút, râu tóc đã bạc phơ chỉ duy đôi mắt vẫn giữ được vẻ tinh anh. Cảm thương thay vị cha già bước từng bước mệt nhọc trên quãng đường trơn trượt như trèo lên đỉnh núi Sọ. Ngày mai sẽ ra sao ? Không địa sở, không nơi ẩn náu, chỉ còn chờ cái ngày cũng chẳng xa, rơi vào tay những kẻ đang truy nã.

Cùng đi với Đức cha có thày giảng Giuse Khang. Hai cha con trọ ở Thọ Đức được ba tuần thì bị lộ. Lại phải xuống thuyền qua thị xã Hải Dương và tá túc trên thuyền của một giáo hữu, gia đình ông Trương Bính. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentino Vinh và cha Almato Bình dọc theo đường thủy từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc hội ngộ đặc biệt, các vị trao đổi, khích lệ nhau thêm can đảm và tạ ơn Chúa vì dịp may hiếm có này. Sau đó, các vị chia tay nhau mỗi người một nẻo.

Dưới sự tận tình che giấu của ông Trương Bính, Đức cha và thày giảng Khang được ít ngày bằng yên cho đến hôm xảy ra cuộc cãi vả giữa cha con ông Trương Bính, người con trai vì tức giận cha mẹ, đã đi tố cáo ông bà về tội chứa chấp Tây Dương đạo trưởng. Đội Bằng lúc đó làm Chánh tổng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha vào ngày 20.10.1861. Khi bị bắt, Đức cha đưa cho đội Bằng một số tiền và nói : "Xin bắt và giam giữ một mình tôi thôi. Hãy để những người đánh cá nghèo nàn này đi". Khi thày Khang nhổ cây sào thuyền định chống cự thì Đức cha cản lại rằng : "Đừng chống trả làm gì, hãy phó mặc cho Thánh ý Chúa". Thế là cả hai bị bắt trói và đưa về Hải Dương.

Đồng hành về trời

Sau khi lấy khẩu cung, Đức cha bị giam trong chiếc cũi chật hẹp, nằm không nổi, ứung cũng chẳng được, cứ phải khom lưng suốt ngày, chân tay rã rời. Dầu vậy, ngài vẫn tìm cách giảng đạo cho các bạn tù, rà rửa tội cho con trai viên đội Bái, cậu cũng bị xử tử với Đức cha.

Chiều ngày 26.10, sau khi bắt được Đức cha Vinh và cha Bình, quân lính hò reo ầm ĩ, Đức cha đang thiếp ngủ bừng tỉnh dậy. Ba chiến sĩ đức tin trong ba chiếc cũi ngậm ngùi nhìn nhau, nhưng lòng đầy hân hoan, vì thấy được đòan tụ bên nhau trong những ngày cuối cùng.

Ngày xử được ấn định là 01.11.1861. Ba chiếc cũi được khiêng đi sau đội quân 500 người. Đức cha Liêm cũi cuối cùng, trang nghiêm như ngày đại lễ, thỉnh thoảng ngài giơ tay ban phép lành cho các giáo hữu đứng hai bên đường.

Tại pháp trường Năm Mẫu, ba vị được đưa ra khỏi cũi, cùng cầu nguyện ít phút, rồi đưa tay cho lý hình trói vào ba cọc. Bản án được đọc lên. ba hồi chiêng trống, ba lưỡi gươm vung lên một lúc, chém rơi đầu ba vị anh hùng. Khi các quan ra về, dân chúng dù lương hay giáo,tranh nhau thấm máu tử đạo. Ba thi hài được bọc trong ba chiếc khăn và chôn tại chỗ. Thủ cấp các ngài được treo ở bến đò Hàn ba ngày (nhưng sau đó giáo dân đánh tráo bỏ vào đó ba củ chuối) rồi đưa về Yên Dật, và sau lại đưa về an táng tại Thọ Ninh một thời gian, cuối cùng, đi dời về đền Các Thánh Tử Đạo Hải Dương.

Đức Piô X suy tôn Đức cha Jeronimô Hermosilla Liêm lên bậc Chân Phước ngày 20.05.1906. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Đức cha đã nằm xuống, nhưng chân lý ngài đã truyền giảng, phong thái và nhiệt tâm của ngài vẫn sống mãi trong các tín hữu và hàng giáo sĩ của giáo phận. Tất cả sẽ nắm tay nhau theo dấu chân vị cha chung để tiếp tục làm chứng cho đức tin.

Trường Thi Tử Đạo

Thánh Giêrônimô Vọng giám mục
Sinh Canh Thân (1800) quốc tịch (Tây) Ban Nha
Tuy không tiền của rườm rà
Gia đình đạo đức một nhà yên vui

Chí cậu quyết trao dồi văn hoá
Ðể sau này vào khoá dòng tu
Mười lăm tuổi được tiếp thu
Vào dòng thuyết giáo trong khu tuyệt vời

Mười chín tuổi thầy thời mặc áo
Cũng tại dòng thuyết giáo trao ban
Năm sau giặc giã lan tràn
Dòng tu giải tán luận bàn trước sau

Lệnh trai tráng đâu đâu nhập ngũ
Cùng bạn bè thầy rũ đi luôn
Ba năm quân ngũ vuông tròn
Xin ra thầy cũng vẫn còn chí tu

Năm Quý Mùi (1823) tiếp thu nhà tập
Thầy cũng đều ít gặp khó khăn
Hy sinh gương mẫu chuyên cần
Thầy đều có sẵn tòng quân thấm vào

Ý thầy muốn may sao lại gặp
Lúc nghỉ ngơi thầy đọc thư mời
Dòng Mến Thánh giá Mân côi
Cần người truyền giáo điểm thời Việt Nam

Thầy rũ bạn về làm đơn gấp
Và đơn thầy được chấp nhận mau
Trong vòng chỉ một tháng sau
Các thầy đã đáp được tàu tới Phi

Tại giám tỉnh trong khi trình diện
Ðã tỏ lòng tự nguyện rất cao
Này con khao khát ước ao
Xin cha hãy đặt con vào ý Cha

Chức linh mục ban cho thầy Vọng
Và trao cha giám đốc Mân côi
Hăng say hoạt động không ngơi
Hội dòng lúc ấy tuyệt vời tiến mau

Cha ở đó năm sau tình nguyện
Sang Việt Nam thực hiện ý Cha
Khởi hành từ Manila (Phi)
Sang Macao đợi người qua dẫn đường

Kỷ Mão (1829) đến quê hương đất Việt
Lại cho mau trình diện Ðức Cha (Y)
Cha con mừng nói chẳng ra
Có người trẻ đến giúp ta tuổi già

Cũng từ đó gọi cha tên Vọng
Tiếng Việt Nam cha học mau thông
Tập quán bản xứ ngoài trong
Cha đều hiểu rõ làm lòng như ai

Cha Vọng vốn có tài thuyết phục
Bổn đạo theo mỗi lúc một đông
Linh hồn truyền giáo của dòng
Phụ tá Cha Chính từ trong đến ngoài

Ðức Cha trao cho ngài lãnh đạo
Làm Bề Trên kiến tạo nhà dòng
Linh mục ngày một thêm đông
Ðược hơn bốn chục nhờ công của ngài

Cơn bão tố trần ai đổ đến
Bị lộ thư gởi bốn thừa sai
Minh Mạng nổi giận công khai
Giết luôn Cha Chính và hai Ðức Thầy (Giám mục)

Cũng từ đó bủa vây trùm Vọng
Ai bắt dâng được trọng thưởng to
Cửa chợ cho chí bến đò
Bủa quân kiểm soát tìm cho ra ngài

Phải nhát sợ như ai không dám
Cha vẫn thường theo bán giáo dân
Rửa tội, hoà giải ân cần
Hằng năm vẫn có những lần đi thăm

Quang Khanh nghe hờn căm lùng bắt
Các vòng vây được thắt chặt thêm
Lính canh ngày cũng như đêm
Xét người qua lại trong miền gắt gao

Cũng có lần vây bao trúng chỗ
Làm cho cha khốn khổ trốn ra
Có lần gặp ở trong nhà
Nhờ Chúa che chở cho qua mới còn

Toà Thánh thấy đàn con không mẹ
Quyết chọn ngài muôn đệ thế vô
Tân Sửu (1841) Giáo hội tung hô
Có Ðức Cha Vọng điểm tô hai Toà

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #34
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.757
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
33. Gioan Baotixita Cỏn (1805 – 1840)

Gioan Baotixita Cỏn, Sinh năm 1805 tại Kẻ Bàng, Nam Ðịnh, Giáo dân, Lý Trưởng, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dướiđời vua Minh Mạng, Đức Lêo XIII suy tôn hai ông Martinô Thọ và Gioan Baotixita Cỏn lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 8/11.

Đối với ông Gioan Cỏn, việc tử đạo là biến cố ông hân hoan hằng mong đợi. Trên đường ra pháp trường, ông vẫn tười cười chào giã biệt mọi người dù quen hay không. Khi thấy một người đang khóc thương mình, ông dừng lại nói : "Sao anh lại khóc, lẽ ra phải mừng cho tôi chứ ?" Có lẽ ông đã thấy cửa Thiên Đàng đang rộng mở đón tiếp mình.

Gioan Cỏn sinh năm 1805 tại làng Kẻ Báng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định và có họ hàng với ông Martinô Thọ. Ông sống bằng nghề nông, cầy sâu cuốc bẫm, chân lấm tay bùn, gia đình tuy nghéo nhưng luôn thuận hòa ấm êm, là một tín hữu sáng suốt và nhiệt thành, ông Cỏn ý thức phải đem Tin Mừng thánh hóa mội trường mình đang sống. Ông đã thành công trong vụ kiện một người Lý trưởng cậy thế chiếm đoạt tiền của dân chúng.

Từ sau vụ kiện đó, uy tín ông càng ngày càng gia tăng cho đến khi ông được dân tín nhiiệm đề cử làm Lý trưởng. trong chức vụ ấy, ông hết lòng tận tụy với việc chung. Tuy nhiên do bạn bè lôi kéo, ông thường bê trễ trong các sinh hoạt tôn giáo. Bù vào đó, ông rất sẵn lòng phục vụ anh em vì đạo. Có lần ngay giữa đêm khuya, ông lặn lội mưa gió mời linh mục đến giúp một bệnh nhân hấp hối.

Khi vua Minh Mạng ra lệnh truy nã các thưà sai và linh mục, ông Cỏn bố trí xếp đặt cho các vị đến ẩn trong làng. Ông bị bắt vì tội chứa chấp các đạo trưởng : Cha già Thịnh ở Kẻ Trình bị bệnh nặng và không có chỗ chữa trị, ông Cỏn đón về để cha ở trong nhà cháu mình, để dễ dàng chăm sóc thuốc thang, và thế là hai cha con bị bắt ở đây.

Thánh Martinô THỌ - Viên thuế - (1787 – 1840)

Tiểu sử thánh Martinô Thọ được ghi nhớ cách đặc biệt qua những lời trăn trối với các con vào thăm trong tù. Di ngôn của ông đáng trở thành bản mẫu cho những người cha Kitô hữu trong giờ phút cuối của cuộc đời : Vừa thực tế, vừa dạt dào tình cảm, mà cũng đầy tin tưởng:

"Các con thân mến, cha không còn làm gì giúp các chúng con ở thế gian này được nữa, cha chỉ còn lo chuẩn bị tâm hồn đón nhận những thử thách cuối cùng. Ý Chúa đã muốn cha xa lìa các con mãi mãi, nhưng các con còn có mẹ, hãy cố vâng lời mẹ. Các con lớn hãy nhớ quan tâm em mình. các con nhỏ phải biết kính trọng và vâng lơi anh chị. Hãy yêu thương nhau, siêng năng làm việc đỡ đần mẹ. Nhớ đọc kinh tối sáng và lần chuỗi Mân Côi hàng ngày. Chúa trao cho mỗi người một Thánh Giá riêng, hãy vui vẻ vác theo chân Chúa và kiên trung giữ đạo".

Martinô Thọ sinh khoảng năm 1787 tại làng Kẻ Báng, huyện Vụ Bản, tỉnh Nam Định. Ông tên thật là Nho, còn Thọ là tên người con thứ chín. Tuy gia đình đông con, nhưng ông đã khéo léo giáo dục chúng bằng đời sống gương mẫu của chính mình.

Dân trong làng biết ông ngay thẳng, nên cử ông phụ trách việc thu thuế đinh. Ông sống rất thanh liêm, không nhận hối lộ, không ăn chận của ai, cũng không qùy lụy cấp trên, cứ theo lẽ công mà làm nên rất có uy tín. Ngoài ra, ông Thọ còn thức khuya dậy sớm lao động như mọi người, vừa làm ruộng, vừa ươm tơ nuôi tăm.

Ông thường khuyên các con: "Sống công bằng thôi chưa đủ, phải có bác ái nữa, mà muốn thực thi bác ái phải có điều kiện". Dành dụm được chút nào, ông giúp đỡ người nghèo, hoặc góp phần vào việc chung, trong làng, trong giáo xứ. Nhà ông luôn mở rộng cửa tiếp đón các linh mục đến giáo xứ làm việc. Ông không sợ chết, lại còn tỏ ra muốn được chết vì đạo nữa.

Năm 1838, khi nghe tin hai ông Trùm Đích và ông Lý Mỹ bị xử trảm tại pháp trường Bẩy Mẫu, ông thu xếp công việc đến viếng xác, và về nhà dặn dó con cái :"Các con yêu dấu, nếu Chúa cho cha theo chân hai đấng ấy, các con hãy vui lòng. Phần các con, nếu bị bắt, hãy can đảm giữ vững đức tin".

Ngày 30.5.1840, nghe báo tin ở làng Kẻ Báng có linh mục, quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh đưa hàng ngàn lính về bao vây làng. Ông chia lính thành những tốp 10 người đi sục sạo hết các xó xỉnh, các bụi rậm. Sau hai ngày lục soát họ bắt được ba linh mục: cha Nghi, cha Ngân và cha Thịnh. Ông Thọ và ông Cỏn cũng bị bắt vì tội chứa chấp đạo trưởng. quan lệnh đóng gông và giải tất cả về tỉnh Nam Định.

Một tháng đầu quan bỏ lơ không nói gì đến. Sau đó, cho gọi ra bắt bước qua Thập Giá, các ông không chịu, quan truyền đánh mỗi người 50 roi, rồi bắt phơi nắng cho đến tối không được ăn uống gì cả. Lần khác, quan lại gọi ra và dụ dỗ : "Cứ đạp đi rồi xưng tội là khỏi tội thôi mà". Hai ông vẫn từ chối. Trịnh Quang Khanh liền cho lính nắm gông khiêng các ngài qua ảnh chuộc tội. Hai ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố : "Đạo tại tâm. Quan lớn cưỡng bách mà lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì".

Thế là quan nổi giận, nảy ra một sáng kiến kinh dị : Khi ba vị linh mục cùng bị bắt vừa chịu tra tấn, máu me loang lổ khắp mình, quan bắt hai ông hoặc liếm máu nơi các vết thương ấy, hoặc bỏ đạo. Hai ông liền quỳ xuống thực hiện điều quan yêu cầu một cách cung kính. Trịnh Quang Khanh vừa rùng mình, vừa kinh ngạc nói với các quan : "Xem kìa ! Bọn chúng kính trọng các đạo trưởng biết bao ! Chẳng lẽ chúng bị bỏ bùa mê sao. Rồi ông truyền đem trói hai ông lại, bắt quỳ trên cát giữa trời nắng gắt suốt ngày.

Một lần quan tra hỏi về các thừa sai, ông Thọ trả lời : "Thưa quan, tôi có biết Đức cha Giacôbê, nhưng ngài đã qua đời, còn các thừa sai khác vua bắt hết rồi, còn đâu ? Hơn nữa chúng tôi ở trong tù làm sao biết các vị ấy ở đâu được ?". Tức giận, quan cho lính hôm đó tự do đánh đập tùy thích. Ông Cỏn chịu được 61 roi thì kiệt sức, máu miệng trào ra, được quân lính khiêng về trại. Còn ông Thọ bị đánh đúng 150 roi. Về sau ông nói với con cái rằng : "50 roi đầu đau đớn khôn tả, còn 100 roi sau, nhờ ơn Chúa, cha thấy nhẹ nhàng như gió thoảng qua vậy".

Quan thấy hình khổ không làm cho các ông xiêu lòng, nên cho lệnh bắt vợ con để áp lực, buộc các ông bỏ đạo. May măn hai ông biết trước, vội nhắn tin cho gia đình lẩn tránh nơi khác. Tuy thế, quan vẫn nói với các ông: "Nếu ta đưa vợ con các ngươi đến đây để giết thì các ngươi có chịu bỏ đạo không?".

Ông Cỏn đáp: "Thưa quan, cửa nhà vợ con đều do Chúa ban, chúng tôi chẳng có gì tiếc xót cả. nếu vợ con tử đạo, chúng tôi càng mong ước về Thiên Đàng". Ông Thọ nói thêm: "Gông cùm và roi vọt của quan là hai cánh đưa chúng tôi bay về Thiên Quốc".

Nghe thế, quan càng giận dữ hành hạ ác liệt hơn nữa : Ban ngày phơi nắng, ban đêm bắt nằm ngoài cống rãnh nước thải của trại tù, và bớt phần ăn suốt tuần lễ. Đến ngày thứ bày, cô Thuyên con gái ông Thọ tìm cách vào thăm cha. Thấy cha nằm dài bất tỉnh, cô lấy nước rót vào miệng, nhưng phải khá lâu ông mới hồi tỉnh nhận ra con mình. Lần khác, khi gặp lại con cái, ông nói với chúng những lời dặn dò sau hết.

Bản án trảm quyết gởi vào kinh đô và được vua Minh Mạng ký duyệt. Ngày 06.11, các ông biết tin, tìm cách gặp các cha cũng bị bắt để xưng tội và chuẩn bị tâm hồn. Ngày 08.11.1840, cùng với ba vị linh mục, hai ông bị điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Dọc đường hai vị vẫn tươi cười chào hỏi mọi người. đến nơi, hai ông quỳ cầu nguyện một lát, rồi đưa tay cho quân lính trói vào cọc.

Theo lệnh quan, lý hình vung gươm, đưa các ngài về Quê Hương mong ước. Một vị 35 tuổi, một vị 53 tuổi, từ nay mãi mãi bên nhau trong vinh quang bất diệt. Thi hài hai đấng tử đạo được đưa về an táng ở xứ Kẻ Báng.

Đức Lêo XIII suy tôn hai ông Martinô Thọ và Gioan Baotixita Cỏn lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường Thi Tử Đạo

Trương Minh Giảng lên đường qua Pháp
Ðể điều đình hợp tác hai bên
Vua Minh Mạng lại giết thêm
Gồm ba Linh mục, dân tên hai người

Là Cỏn, Thọ cũng thời bị bắt
Cha Thịnh, Ngân, Nghi dắt giáo dân
Quang Khanh chuộc tội thấy cần
Truy lùng đạo trưởng xa gần thẳng tay

Cho đập phá tháng ngày cơ sở
Nhiều nhà thờ chỗ ở nhà chung
Tội nhân khét tiếng trong vùng
Ông cho phóng thích để dùng mưu sâu

Với điều kiện khởi đầu chuộc tội
Ði đó đây sớm tối săn tin
Khắp nơi đạo trưởng kiếm tìm
Lên quan báo cáo cho nghìn lính vây

Làng Kẻ Báng quân đầy loa phát
Tới Ðình Làng đề bạt điểm danh
Mười lăm tuổi phải tuân hành
Toàn là nam giới lão thành quý ông

Quang Khanh nói khỏi gông trói lại
Và tập trung ngồi tại sân đình
Xung quang canh gác quân binh
Phơi sương phơi nắng dân tình xót thương

Các phụ nữ lo đường tiếp tế
Nấu nước cơm, tập thể cùng ăn
Quang Khanh cho lính đi săn
Hang cùng ngõ hẻm từng căn từng nhà

Nản lòng kiếm chẳng ra đạo trưởng
Cả quan quân như tưởng rút quân
Nhưng người tố quyết không lầm
Lấy đầu ra để thế cầm cam đoan

Xin lục soát qua sang ngày nữa
Tôi cam đoan xin hứa thành công
Phá nhà phá vách tây đông
Quả nhiên bắt được mấy ông Cha liền

Hai lớp vách Ba Duyên trú ẩn
Quan gọi ra lại lẫn tên Ðoan
Bước qua Thánh Giá lệnh quan
Bà này ngoại giáo dám làm được tha

Bà Duyên thoát rõ là ý Chúa
Ðến gần trưa nơi nữa bắt thêm
Cha Ngân đang ẩn tuổi tên
Ở nhà ông Thọ bắt lên trói liền

Cha Thịnh điếc nằm yên trên võng
Nhà ông Chiến lính bỗng ngang qua
Thấy Cha sức yếu tuổi già
Không nghi chẳng hỏi thế là bỏ đi

Nếu có hỏi ắt thì chẳng lộ
Có nữ tu thuộc họ Kẻ Trình
Ði theo giúp đỡ hy sinh
Nhận ngay là Bố của mình ốm đau

Biết Cha Ngân, Nghi cùng nhau bị bắt
Cha Thịnh không lánh mặt làm ngơ
Một cai đội đã nghi ngờ
Ông này đạo trưởng trước giờ ở đây

Cha Thịnh đáp, ốm gầy đạo trưởng
Chúng bắt ngay một hướng dẫn theo
Hai đồng bạn đã gông đeo
Bọn quan quân lính hò reo vào làng

Có cơ hội sẵn sàng cướp bóc
Lấy bạc tiền lúa thóc trâu bò
Dân Làng Kẻ Báng âu lo
Mất người mất của đầy no ơn lành

Chúng dẫn giải về thành Nam Ðịnh
Ðể Quang Khanh toan tính tấn tra
Lần này đạo trưởng bắt ba
Còn hai người nữa toàn là giáo dân

Tạ Ðức Thịnh chuyên cần Kẻ Sặt
Sanh Canh Thìn (1760) quê thật Hà Ðông
Mẹ cha sắp xếp coi trông
Muốn anh duyên kết vợ chồng tề gia

Anh xin hoãn để mà suy nghĩ
Nhưng cuối cùng quyết chí đi tu
Hồng ân Thiên Chúa hộ phù
Thụ phong Linh mục đời tu nhiệt thành

Bí thư giỏi nổi danh Giáo phận
Cùng Ðức Cha vào tận Bắc Thành
Gặp Gia Long để họp hành
Tự do tôn giáo rõ rành tỏ thông

Ðức Cha bổ nhiệm trông giáo xứ
Là Cửa Bạng coi giữ đầu tiên
Nam Xang, Ðồng Chuối khắp miền
Kẻ Tình Nam Ðịnh sau liền về hưu

Các giáo hữu dắt dìu cảm mến
Cha bị đau cháu đến đón về
Gia đình Kẻ Báng nhà quê
Sau Cha bị bắt giải về Quang Khanh

Nguyễn Ðình Nghi quê anh Hà Nội
Năm Quý Sửu (1793) rửa tội (do) cha Liêm
Học xong Thầy giảng trong miền
Trở về giúp xứ chân chuyên Tông đồ

Rồi sau đó được về thần học
Phong Linh mục coi sóc Sơn Miêng
Cha Nghi phục vụ khắp miền
Tính tình hòa nhã giảng khuyên biệt tài

Cha không muốn để ai liên lụy
Ðem theo tiền chuẩn bị chuộc dân
Cha Nghi Kẻ Báng lãnh phần
Cũng đều bị bắt một lần Cha Ngân

Ðây tiểu sử mấy vần nhỏ bé
Cậu Nguyễn Ngân họ lẻ Cựu Khanh
Canh Tuất (1790) sinh tại tỉnh Thanh
Vào tu chủng viện học hành thông minh

Thầy chịu khó chân tình phục vụ
Sau thụ phong Linh mục Tông đồ
Phụ trách Duyên Mậu tiền hô
Cha Nhân lâm bệnh nhập vô cấp thời

Cha được về nghỉ ngơi chủng viện
Khoảng bảy năm tăng viện nhà tràng
Trình Xuyên phụ trách đảm đang
Thêm ba năm nữa Kẻ Bàng tiến mau

Ông Trùm Cỏn sinh đầu Ất Sửu (1805)
Tại Kẻ Bàng tiêu biểu Thành Nam
Ðinh Mùi (1787) ông Thọ cùng làng
Nhiệt tâm sắp xếp nhẹ nhàng Thừa sai

Luôn bố trí các ngài ẩn trốn
Khi quan quân vây khốn làng này
Hai ông lanh lẹ tiếp tay
Các Cha chạy trốn cả ngày lẫn đêm

Vùng Nam Ðịnh có tên hùm xám
Bủa lưới vây phân tán vào lùng
Cha con bị bắt gom chung
Bắt quỳ phơi nắng lại dùng đòn roi

Ðể Thập Giá chúng đòi quá khóa
Năm chứng nhân đều đã chịu đòn
Một lòng vì Chúa sắt son
Quang Khanh tức giận chỉ còn xử thôi

Năm trăm lính đứng ngồi Bảy Mẫu
Năm chứng nhân làm dấu nguyện cầu
Lý hình được lệnh chém đầu
Anh hùng tử đạo hát câu khải hoàn

Năm Canh Tý (1840) chu toàn ơn phước
Năm chứng nhân đều được tuyên phong
Gian nan cực khổ chịu chung
Suy tôn Canh Tý (1900) họ cùng sáng danh

Lời bất hủ: Tổng đốc Trịnh Quang Khanh truyền cho lính khiêng các ông qua Thánh giá, các ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố: "Ðạo tại tâm, quan lớn cưỡng bách và lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì". Quan tra tấn các cha máu me loang lổ khắp mình, quan truyền hai ông (Thọ và Cỏn) liếm máu nơi các vết thương đó hoặc bỏ đạo, các ông đã quỳ xuống liếm máu như quan đã yêu cầu một cách cung kính,khiến quan rùng mình, khiếp sợ và kinh ngạc.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #35
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.757
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
34. Gioan Baotixita Đinh Văn Thành(1796-1840)

Baotixita Ðinh Văn Thành, Sinh năm 1796 tại Nộn Khê, Ninh Bình, Thầy giảng, bị xử trảm ngày 28/04/1840 tại Ninh Bình dưới đời vua Minh Mạng cùng với Thánh Phêrô Hiếu và Thánh Phaolô Khoan vì trực thuộc Hội Thừa Sai Balê. Đức Lêo thứ XIII suy tôn Gioan Baotixita Đinh Văn Thành lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 28/04.

Lời cảm tạ

Tâu thượng đế,
Này thần dân xin hát mừng trước bệ
Tuyên xưng Ngài là Chúa Tể càn khôn…
Suy tôn Chúa bậc tông đồ hợp xướng,
Tán tụng Ngài bao thế hệ tiên tri.
Đoàn tử đạo quang huy hùng dũng,
Máu đào đổ ra minh chứng về Ngài…


Đó là lời kinh TE DEUM lời kinh tạ ơn mà cha khoan và hai thày Hiếu, Thành đã hát vang lên trong ngục, cũng như trên đường ra pháp trường. Đó là lời kinh đem lại phấn khởi cho những ai nghe được. Đó là tiếng hát của Giáo Hội sơ khai, khi cuộc bách hại 300 năm chấm dứt, nay lại vang lên trên môi miệng các vị tử đạo Việt Nam, vượt thấu chín tầng mây, chấp cánh cho các ngài bay về hợp đoàn với muôn thần thánh trên Thiên Quốc.

Định mệnh nối kết ba con người

Phaolô Phạm Khắc Khoan sinh năm 1771 tại làng Bồng Hải, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo phận Tây Đàng Ngoài. Sau khi thụ phong linh mục, cha phụ trách xứ Kẻ Vịnh, rồi xứ Phúc Nhạc, nơi đông dân cư nhất trong tỉnh. Cha Khoan rất hăng say hoạt động tông đồ, ngoài xứ chính ra cha còn phụ trách thêm hai họ Đông Biên và Tôn Đạo. Mỗi tháng Ngài đều đến các họ lẻ dâng lễ, giải tội và khích lệ giáo hữu sống đạo đức gương mẫu hơn. Mỗi lần đi như vậy cha thường dẫn theo một vài thày giảng để giúp dạy giáo lý và tiếp xúc sâu xát hơn với quần chúng. Năm 1837, có hai thày cùng đi với cha về giúp họ Đông Biên là thày Phêrô Nguyễn Văn Hiếu 60 tuổi, người làng Đồng Chuối,và thày Gioan Baotixita Đinh Văn Thành, 41 tuổi, gốc Luốn khê (Phát Diệm). Trên đường trở về, cả ba cha con bị bắt và bị giải về Ninh Bình. Khi đó cha Khoan đã 66 tuổi.

Trước lời đường mật

Vì kính trọng cha tuổi cao lại có tướng người phúc hậu, một hôm quan Tổng trấn mời ngài đến và nói: "Ta muốn kết thân với ông. Ta chỉ muốn tìm cách cứu mạng ông thôi. Xin ông chịu khó chấp nhận bước qua Thập Giá". Cha trả lời : "Mấy tháng qua ở trong tù, tôi đã suy tính kỹ lắm rồi, nhưng càng nghĩ tôi càng xác tín hơn, càng cương quyết giữ vững đức tin cho đến chết". Rồi cha kể lại chuyện xảy ra năm 1802:

"Khi đó, Thế Tổ Gia Long, phụ thân của Hoàng đế ra Hà Nội, chúng tôi có đến ra mắt. Người hứa cho chúng tôi được tự do giảng đạo, xây nhà thờ và các nhà bác ái. Người yêu cầu chúng tôi cổ động dân chúng sống hòa thuận và chăm chỉ làm ăn. Từ đó đến nay, tôi vẫn lệnh vua, nhắc nhở bà con làm điều tốt, tránh điều xấu. Tôi thờ Vua trên trời và thuần phục vua dưới đất, tôi vẫn xin Vua trên trời ban ơn cho các quan, để thời các ngài được thái bình thịnh trị. Sao hôm nay quan lại bảo tôi bỏ lệnh Tiên Đế mà tôi đã tuân hành biết bao năm nay ?

- Thế ông không muốn sống à ?

- Thưa quan, mọi sinh vật đều muốn sống, huống chi là con người có suy nghĩ. Ai biết giá trị cuộc sống mà chẳng ham sống. Thế nhưng với người Kitô hữu, chết là cách sống đời đời trên Thiên Đàng.

- Ai bảo ông là có Thiên Đàng.

- Đó là chuyện đương nhiên. Như nhà vua vẫn ban thưởng cho những trung thần, thì Chúa trời đất chẳng lẽ không ban thưởng cho những tôi trung phục vụ Người đến chết sao ? Nơi tưởng thưởng đó, chúng tôi gọi là Thiên Đàng.

- Vậy ai dạy cho ông biết là có Chúa trời đất ?

- Thưa Tổng trấn, không cần phải ai dạy cả, chính trời đất vũ trụ là cuốn sách mở ra dạy ta bài học đó. Nhìn ngắm những công trình kỳ diệu của thiên nhiên tức khắc phải nhận ra có Đấng Tạo Hóa đó là Chúa Trời và tôn thờ Người".

Vì hy vọng thời gian sẽ làm các anh hùng đức tin nản chí, quan tìm cách trì hoãn vụ án thật lâu. Thấm thoát ba vị đã ở tù được gần ba năm. Thỉnh thoảng quan lại gọi ra tòa đề nghị bước qua Thập Giá. Mới đầu thì khuyên dụ ngọt ngào, sau dùng cực hình để cưỡng bách, nhưng không cách nào có thể làm các vị thay lòng đổi dạ.

Thái độ hai thày giảng cũng làm cho mọi người bỡ ngỡ thán phục. Dù bị hành hạ dã man đến đâu, hai thày cũng vẫn thản nhiên nhẫn nại, không bao giờ trách mắng chửi rủa, chỉ lập đi lập lại một điều : "Dù sống dù chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin". Niềm an ủi lớn nhất của hai thày là được ở gần cha Khoan, sớm hôm tâm sự và thỉnh thoảng lãnh bí tích giải tội. Các thày coi những ngày ở tù như thời gian thanh luyện để lập công đền bù những lỗi lầm từ thơ ấu. Đôi khi có người khéo léo đưa được Mình Thánh Chúa vào tù, đó là những ngày sung sướng và hạnh phúc nhất của ba vị.

Một lần cha Khoan nói thẳng với quan án rằng: "Quan bảo tôi chà đạp Thập Giá là điều chẳng hợp lý chút nào?". Quan hỏi : "Sao lại không hợp lý, ta chỉ cho ông con đường sống mà không hợp lý à ?". Cha nói : "Thưa quan, nếu nước nhà có biến, mà quan sợ chết đào ngũ thì quan là kẻ hèn nhát. Cũng vậy, tôi nhờ ơn Vua cả trên trời, tôi đâu có quyền sợ chết mà bỏ Người được".

Lời chứng cuối cùng …và bài ca phục sinh

Khi thấy hoàn toàn thất vọng trước sự kiên tâm quyết chí của ba người "lính" Chúa Kitô, quan đành quyết định ký án tử gởi về triều đình xin phép. Trong những ngày chờ đợi cuối cùng đó, trại giam Ninh Bình vang vọng những tiếng hát hân hoan. Đó là tiếng hát cha Khoan và hai thày giảng hát lên lời kinh Tạ Ơn. Cha một câu, hai thày một câu, nhịp nhàng rộn rã. Trên đường ra pháp trường, ba vị vẫn không ngừng cất tiếng ca những lời tri ân đó.

Tại pháp trường ngày 28.4.1840, cha Khoan xin phép nói với dân chúng đôi lời, ngài nói : "Thưa đồng bào và các bạn hữu, chúng tôi không phạm tội ác, không chống lại vua, không lỗi luật nước. Chúng tôi chết chỉ vì là Kitô hữu và vì không chịu bỏ đạo Kitô, là đạo duy nhất chân thật".

Lính đẩy ba vị vào khu vực riêng xa tầm mắt dân chúng. Ba vị giơ tay lên trời, hai thày hiệp ý cầu nguyện với linh mục : "Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa trời đất. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Ngài, xin Chúa chúc phúc cho nhà vua được cai trị lâu dài trong an bình. Xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể đem lại cho con người hạnh phúc đích thực".

Tiếp theo ba vị cầu nguyện bằng thánh ca. như trong đêm Phục Sinh, cha Khoan hát lên ba lần Allêluia, Allêluia, Allêluia mỗi lần nói cung giọng cao hơn. Xen kẽ vào đó hai thày giảng cũng hát thay cho cộng đoàn theo cao độ của vị chủ sự : "Allêluia, Allêluia, Allêluia".

Sau đó lý hình thi hành phận sự. Ba cái đầu cùng rơi xuống đưa ba vị thánh về hợp xướng với ca đoàn thiên thần trên Thiên Quốc với khúc hát Phục Sinh Allêluia bất diệt. Năm đó cha Khoan 69 tuổi, thày Hiếu 63 tuổi, thày Thành 44 tuổi. Thày giảng Huấn chứng kiến từ đầu vụ hành quyết, đã lãnh thi thể ba vị về Phúc Nhạc an táng theo nghi lễ công giáo.

Đức Lêo thứ XIII suy tôn cha Phaolô Phạm Khắc Khoan, hai thày Phêrô Nguyễn Văn Hiếu và Gioan Baotixita Đinh Văn Thành lên bậc chân phước ngày 27-05-1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh.

Tâm tình Đức Cha Retord Liêu trong thơ gởi cha Khoan

"Sách có câu : Chết vinh hơn sống nhục. Hãy coi những kẻ bội giáo, cuộc đời họ đáng tủi hổ biết bao. Ngược lại khắp bốn phương thiên hạ đều vang lời khen ngợi những ai chết cho đức tin. Các vị tử đạo như tiếng kèn Thiên Quốc, với âm điệu vang lừng muôn người lắng nghe. Những kẻ chối đạo, ở lại trần gian chỉ để chờ lưỡi rìu chặt đem về tiếp lửa cho hỏa ngục.

Máu các vị tử đạo như giọt sương đêm tưới mát vườn hoa Giáo Hội làm nó thêm phong nhiêu (phong phú và phù nhiêu)…

Tôi viết cho cha những lời vắn tắt vội vã này. Ước mong nó thành ngọn gió đưa cha lướt êm đến bến bờ quê hương. Ước mong nó thành đóa hoa rực rỡ với làn hương thơm tỏa ngát niềm vui tô thắm tâm hồn cha trong cuộc chiến cuối cùng. Xin kính cẩn tạm biệt cha. Xin kính cẩn hôn lên gông cùm xiềng xích của cha. Trong lúc cầu nguyện xin đừng quên tôi nhé !" (Launay III, tr.37-38).

Trường thi tử Đạo.

Gioan Ðinh Văn Thành thầy giảng
Sinh Bính Thìn (1796) Tiêu Bảng Nôn Khê
Giúp xứ chu đáo khỏi chê
Theo cha ngoại quốc tiện bề đi thi

Rồi sau đó Ngài thì rửa tội
Rất siêng chăm sớm tối đọc kinh
Hăng say chu đáo nhiệt tình
Cha Khoan thay thế, thân tình Việt Nam

Ðược Cha chọn Thầy làm quản lý
Một năm sau được chỉ quản coi
Thầy luôn khiêm tốn học đòi
Nêu cao gương sáng chiếu soi khắp vùng

Mùa gặt lúa thầy cũng ra sân
Tiếp tay giúp việc dân làm mùa
Khéo tay chẳng có chịu thua
Nông dân phấn khởi vụ mùa thu gom

Thầy chịu khó trông nom bổn đạo
Dạy giảng khuyên loan báo đức tin
Thầy luôn theo dõi hướng tìm
Cùng lo bảo vệ giữ gìn của chung

Thầy bị bắt ngay vùng Phúc Nhạc
Nghe hung tin cô bác tiếc thương
Quân lính dẫn giải lên đường
Ninh Bình về tới hội trường cửa quan

Quan án hỏi tràng giang đại hải
Thầy khiêm nhu nhưng lại vững lòng
Quan quân chẳng đạt ước mong
Lại giao cho lính nhốt trong nhà tù

Tôi là người trong khu đạo trưởng
Chúa thương ban được hưởng hồng ân
Không màng danh lợi thế trần
Tùy quan tha xử, đều cần cảm ơn

Quan tức giận nổi cơn thịnh nộ
Bắt đeo gông nặng cổ ngày đêm
Ðòn roi mãi nặng tăng thêm
Thầy Thành chẳng sợ, ơn trên nguyện cầu

Quan cho Cụ Ruyệt câu dụ dỗ
Chối đạo đi có chỗ ăn năn
Phêrô chối Chúa phải chăng
Chúa còn tha thứ, thưa rằng thưởng công

Thầy ôm mặt và không hề nói
Quan lại cho tra hỏi thêm roi
Thầy Thành kiên vững chịu đòn
Phó dâng Thiên Chúa, sắt son không sờn

Xin diễm phúc lãnh ơn tử đạo
Cho trí con tỉnh táo tới cùng
Trong nhà tù Thầy khiêm cung
Khuyên răn nhắc nhở, người cùng bị giam

Bản án lệnh truyền ban Minh Mạng
Ðược châu phê án lệnh đầu năm
Nên lại hoãn mấy tuần trăng
Sau rồi ấn định lại rằm tháng tư

Dẫn pháp trường Thầy ư vui vẻ
Vẫn đọc kinh nhỏ nhẹ cầu xin
Lý hình gươm sẵn đứng nhìn
Tay vung mạnh chém trái tim Thầy ngừng

Ðầu rơi lính nhặt tưng khoái chí
Việc xảy ra theo ý Chúa Cha
Xác thân an táng quê nhà
Hồn về an hưởng nước Cha trên trời

Năm Canh Tý (1840) tuyệt vời tử đạo
Thắng thế gian, thắng cả bạo quyền
Xác chôn hồn thẳng quy thiên
Suy tôn Canh Tý (1900) bình yên Nước Trời

Lời bất hủ: Cứ lặp đi lặp lại câu: "Dù sống, dù chết, chúng tôi không bao giờ bỏ đức tin". Và cùng với hai thánh Khoan và Hiếu đồng ca bài hát trước khi bị trảm quyết như sau: "Vinh danh chúc tụng ngợi khen Thiên Chúa, Chúa đất trời. Chúng con hiến dâng mạng sống cho Người. Xin Chúa chúc phúc lành cho nhà vua được cai trị lâu dài trong an bình, xin biến đổi trái tim vua, để vua tin theo đạo thật, đạo duy nhất có thể đem lại cho con người hạnh phúc đích thực".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #36
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.757
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
35. Gioan Ðạt (1764-1798)

Gioan Ðạt, linh mục; sinh khoảng 1764 tại Ðồng Chuối, Thanh Hóa; chết ngày 28/10/1798. Thánh Ðạt, được mô tả là một người rất bình thản, được thụ phong linh mục năm 1798. Sau khi bị bắt vì tội làm linh mục bất hợp pháp, ngài bị tù 3 tháng, rồi bị xử trảm (chém đầu). Ngài và thánh Emmanuel Triệu là những vị linh mục triều đầu tiên mà cuộc tử đạo đã được ghi chép và lưu trữ. Phong Á Thánh 1900. Lễ kính ngay 28 tháng 10

Thánh Hiến mạng vì đòan chiên.

"Người mục tử nhân lành hiến mạng sống cho đòan chiên" (Ga 10,11b). Đó là lời Đức Giêsu, đã được thánh Gioan Đạt đem ra thực hiện một cách tuyệt hảo. Đang khi quân lính truy bắt, cha có thừa cơ hội trốn thoát, nhưng vì thương các tín hữu đang bị tra khảo, thấy quân lính tàn nhẫn đánh đập họ vì mình, cha đã tình nguyện ra trình diện.

Gioan Đạt mở mắt chào đời năm 1765 tại làng Khê Cầu, huyện Bình Lục, Thanh Hóa, giáo phận Tây Đàng Ngoài. Mồ côi cha từ nhỏ, cậu Đạt xin phép mẹ để hoàn toàn hiến thân cho Chúa dưới sự chăm sóc đầy tình thương của cha Loan xứ Đồng Chuối. Năm 18 tuổi, cậu xin vào chủng viện, sau đó, đi giúp xứ một thời gian. Đến năm 1798, thày mơí thụ phong linh mục.
Cha Gioan Đạt được phái đến xứ Hảo Nho, Thân Phú. Vị tân linh mục hết sức lo lắng cho các tín hữu nên được mọi người yêu quý. Cha chính giáo phận Tây Đàng Ngoài nhận xét : "Cha Đạt có nhiều nhân đức, nhất là đức tuân phục và khó nghèo. Cha luôn chu toàn mọi bổn phận, nên Đức cha và các vị thừa sai đều qúy mến. Lời cha giảng có sức mạnh đặc biệt, có sức thuyết phục lòng người".

Mới thi hành tác vụ linh mục được 6 tháng, vua Cảnh Thịnh ra sắc lệnh bắt đạo gắt gao hơn trước. Quan trấn ra lệnh cho quân lính tầm nã các tín hữu, nhất là các đạo trưởng. cha Đạt phải trốn lên rừng một thời gian. khi thấy tình hình có vẻ lắng dịu, cha thường lén về giáo xứ ban các bí tích.

Một hôm cha vừa hoàn tất thánh lễ an táng tại tư gia thì quân lính ập đến. Giáo hữu đưa cha ra sau nhà, và chỉ lối cho cha thoát thân. Thế nhưng cha không đành lòng bỏ rơi họ ra đi. Vì khi đó, lính đã tìm thấy chén thánh và áo lễ, nên đang tra tấn chủ nhà, ông Trùm Mới và một số tín hữ khác. Như Đức Giêsu xưa yêu cầu quân Do Thái để các tông đồ được an toàn, cha cũng tự nguyện ra trình diện. Ngài nói: "Vẫn biết tôi có thể trốn thoát, nhưng như thế anh chị em sẽ khổ nhiều".

Quân lính trói cha lại, rồi đánh đập tàn nhẫn cùng với thày Tâm và ba vị trong Ban chức giáo xứ. Các giáo hữu ở đó định cậy đông người dùng sức mạnh giải vây cứu cha, nhưng cha biết ý, cản họ lại : "Cứ để tôi vâng theo thánh ý Chúa, anh chị em ở lại bình yên, kiên trung giữ đạo, nhớ cầu nguyện cho tôi được vững vàng đến cùng". Trên đường áp giải cha về Thanh Hóa, khi ngang qua làng Kẻ Dừa, có người cầm nón đưa cha đội, nhưng quân lính không cho.

Chứng tá trong tù

Hai tháng tù tại Đình Đang, cha Đạt làm mọi người bỡ ngỡ, vì thấy cha trong hoàn cảnh đó mà vẫn bình tĩnh vui vẻ. Khi các tín hữu đến thăm và khóc thương, cha nói chuyện vui cho mọi người bớt ưu sầu và an ủi khích lệ họ. Cha nói : "Tử đạo là phúc cao trọng An Nam ta chưa được mấy người. Nếu được tử đạo, tôi mừng lắm".

Lương dân sống gần trại giam cũng cảm mến thương cha. Một thiếu phụ lòng ngay đưa cha một chai độc dược để kết liễu cuộ cđời khổ đau trong tù ngục. Cha từ chối và giải thích cho bà biết: "Người Công Giáo chân chính, dù trong hoàn cảnh nào cũng không chấp nhận việc tự tử". Đặc biệt cha còn cảm hóa được cả đám lính canh ngục. Mới dầu họ hay làm khó dễ, cứ mỗi lần đổi ca gác, họ lại bắt các tín hữu đút lót tiền, nếu không họ sẽ hành hạ tù nhân. Sau thấy được lòng bác ái yêu thương của cha Đạt, đám lính canh đã có thiện cảm và dễ dàng hơn với các tín hữu. Một lần cha bênh vực cho một người lính ăn cắp nải chuối giáo dân gởi vào cho cha. Lần khác, cha nói với họ rằng: "Khi nào tôi được phúc lên trời, tôi sẽ chẳng quên anh em dưới thế".

Ông Thiềng, cai ngục, tỏ lòng quý mến cha cách đặc biệt. Khi gặp riêng, ông nói với cha rằng: "Tôi thấy cụ khôn ngoan, đạo nghĩa thì muốn kết nghĩa huynh đệ lắm, ngặt vì cụ sắp bị kết án tử rồi. Tôi xin hứa biếu cụ cỗ quan tài để biểu lộ lòng tôi quí cụ".

Nhiều lần, cha Đạt và các tín hữu bị lôi ra quỳ trước tòa, tay chân mang xiềng xích, cổ đeo gông. Ông Hoàng Đệ là em vua Cảnh Thịnh, đích thân chủ tọa phiên tòa. Ông bắt các anh hùng đức tin chối đạo hoặc chà Thánh Giá, và dù đã áp dụng nhiều hình thức tra tấn dã man, nhưng ông vẫn hoàn toàn thất bại. Có hôm ông yêu cầu cha Đạt cắt nghĩa tấm ảnh phán xét chung, rồi nói cha đạp lên tấm ảnh đó thì sẽ được tha. Nhưng cha cúi xuống cầm lấy ảnh và hôn kính cách sốt sắng.

Hiến lễ dâng Thiên Chúa

Trung tuần tháng 10, ông Hoàng Đệ gọi cha ra công đường tuyên án xử tử. Ông tưởng nghe bản án, cha sẽ kinh sợ và đổi ý, không ngờ cha lại tỏ ra hân hoan khác thường. Về trại giam cha thuật cho các bạn tù nghe án xử như một tin mừng đến với cha. Cha Huấn xứ Bạch Bát giả làm cụ đồ bạn cũ đến thăm, giải tội và đem cho cha Mình Thánh Chúa.

Đúng ngày hành xử, trời bỗng đổ cơn mưa như trút. Cha Đạt, cổ đeo gông nặng trĩu, phải lẽo đẽo chạy theo lính dưới cơn mưa tầm tã tiến ra pháp trường Tinh hà. Tại đây, giáo dân đã trải chiếu hoa, cha bình tĩnh quỳ xuống cầu nguyện. Khi các quan cho phép, tìn hữu ùa đến bên cha lãnh phép lành cuối cùng. Cha khuyên họ : "Là Kitô hữu, chúng ta phải vâng lệnh vua quan trong những điều hợp lý, nhưng trước hết, phải tôn trọng lề luật Chúa".

Một hồi chiêng nồi lên, mọi người phải lui ra xa. Lý hình vung gươm kết liễu cuộc đời vị linh mục trẻ đầy nhiệt huyết và can đảm. Giáo hữu và lương dân đều xúm lại thấm máu vị chứng nhân đức tin. Đó là ngày 28.10.1798, khi đó cha Đạt mới 33 tuổi, với chưa đầy một năm phục vụ trong chức linh mục.

Đời sống cha Gioan Đạt là mẫu gương sáng ngời về tình yêu. Yêu lý tưởng, cha hiến thân tu hành, yêu anh em, cha tự nguyện nộp mình, và yêu Thiên Chúa, cha hiến tế chính mạng sống vô giá không thương tiếc. Thi hài vị tử đạo được đưa về an táng tại nhà thờ Phúc Nhạc (Phát Diệm).

Đức Lêo XIII suy tôn cha Gioan Đạt lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo

Gioan Ðạt sinh năm Ất Dậu (1765)
Tại Ðồng Chuối Khê Cầu tỉnh Thanh
Cha mất lúc tuổi còn xanh
Mẹ già vất vả độc hành nuôi con

Khi còn nhỏ nỉ non với mẹ
Con muốn tu thỏ thẻ xin đi
Thương con mẹ nói hãy thì
Cha Loan đã nhận gởi đi nhà tràng

Mười tám tuổi lên đàng tu học
Rất thông minh hiểu đọc Latinh
Thầy lên kẻ giảng đăng trình
Thừa sai theo giúp nhiệt tình khắp nơi

Ðược ơn gọi rạng ngời Linh mục
Lễ thụ phong diễm phúc biết bao
Ðược Cha Chính chọn hồi nào
Làm Cha phụ tá giảng rao khắp miền

Cha Ðạt thích có duyên đọc sách
Hay vâng lời đặc trách siêng chăm
Tình thương nhân đức khó khăn
Dù khi đau ốm chẳng nhăn nhó gì

Các Cha Cố rất thì quý mến
Việc lớn lao tìm đến nhờ Cha
Giảng rao sốt sắng nhất mà
Bao người tội lỗi nghe là hồi tâm

Cha dẫn dắt kẻ lầm lạc lối
Lời Thánh Kinh Tám mối nhủ khuyên
Siêng năng đạo đức tài hiền
Giáo dân quý mến khắp miền tin yêu

Vác Thập Gia Thiên Triều trao phó
Chức chủ chăn gặp gió phong ba
Thụ phong bốn tháng bắt cha
Lễ dâng hoàn tất lính đà đến vây

Vào làng truy tìm thầy Ðạo Trưởng
Các giáo dân chỉ hướng trốn đi
Cha Ðạt ngài nói tức thì
Ðể mình tôi chịu chạy đi khổ làng

Ngài nộp mình hiên ngang cho bắt
Lính trói ngay vả mặt đánh đòn
Giáo dân buồn thảm héo hon
Nhưng mà bọn chúng lại còn rủa cha

Lại bắt buộc bước qua Thập Giá
Nhưng ngài ôm Cha Cả kính tôn
Quan Trấn tra hỏi đổ dồn
Tây phương đọc sách sớm hôm thì thầm

Cha hãy đọc nội tâm trong đó
Cả giáo dân nghe có điều gì
Sách này lời Chúa khắc ghi
Nếu ta có đọc quan thì hiểu đâu

Sách tiếng Việt ngõ hầu thấy rõ
Mười điều răn trong đó nhủ khuyên
Cha Ðạt lớn tiếng rao truyền
Quan nghe phật ý nên liền bắt ngưng

Hai tên lính cầm thừng để đánh
Chúng đòi tiền nói mánh dầu đèn
Thầy Tâm xin giúp một phen
Cha Ðạt ngài cởi áo đen thay tiền

Thay gông nặng đeo liền vào cổ
Moi thêm tiền làm khổ cha hơn
Huyền Trang y sĩ van lơn
Chuyển tù nơi khác dễ hơn chốn này

Ðô Uý Thiềng lên thay đảm trách
Dọn riêng phòng đặc trách cho cha
Giáo dân thăm viếng vào ra
Ðược hơn hai tháng tạm là tự do

Ngài đã giúp lo cho bổn đạo
Phần linh hồn loan báo niềm tin
Quan đội chỉ đứng ngó nhìn
Tháo gông cụ hứa, không tìm trốn đi

Ý quan muốn hãy thì thực hiện
Không bao giờ làm chuyện hại ai
Nhưng quan chẳng dám tin ngài
Sau lại thay đổi đeo hoài cổ gông

Ðược tin án xử ông Cha Ðạt
Ngài mừng vui ca hát tạ ơn
Nguyện cầu can đảm thêm hơn
Theo gương Cha Triệu chẳng hờn quan cai

Rồi sau đó là ngài tâm sự
Mồ côi cha từ thuở ấu thơ
Ở với mẹ anh nương nhờ
Một vinh dự lớn tôn thờ Chúa trên

Tin loan báo giờ lên án lệnh
Ngày hai mươi số mệnh chém đầu
Cha Ðạt mong đợi từ lâu
Hân hoan đón nhận phép mầu hồng ân

Khắp lương giáo xa gần kéo đến
Tuổi thanh xuân mộ mến tài danh
Hiền hòa can đảm chân thành
Giáo dân thủ lãnh lừng danh đạo đời

Lính dẫn giải tới nơi xử trảm
Cha đứng yên bình thản nguyện cầu
Giáo dân khóc lóc hồi lâu
Ðộng lòng ngài đã ngẩng đầu xua tay

Lý hình bước tới ngay để chém
Ðầu cha rơi tung ném lên Trời
Hồn về Thiên quốc nghỉ ngơi
Giáo dân đem xác về thời băng ca

Tại Phúc Nhạc nhà cha an táng
Còn hồ nghi ngao ngán kẻ gian
Giáo dân góp ý họp bàn
Nhà tư lãnh nhận khói nhang kính thờ

Năm tử đạo bấy giờ Mậu Ngọ (1798)
Chết hiên ngang tuổi thọ ba ba
Canh Tý(1900) Toà Thánh Roma
Suy tôn Á thánh hồn cha Nước Trời

Lời bất hủ: Cha nói khích lệ mọi người: "Tử đạo là phúc cao trọng, An Nam ta chưa được mấy người. Nếu được Tử Ðạo tôi mừng lắm". Gặp tín hữu cha khuyên: "Là Kitô hữu, chúng ta phải vâng lệnh vua quan trong những điều hợp lý, nhưng trước hết phải tôn trọng lề luật Chúa".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời

Tags
118 thánh tử đạo việt nam


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 21:53
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,27064 seconds with 15 queries