3/ Các họa phẩm lừng danh.
Họa phẩm nổi tiếng đầu tiên của Renoir là bức “Lise “, sau đó là họa phẩm “Alfred Sisley và vợ " nhỏ bằng nửa nhưng qua tác phẩm này, Renoir đã dùng màu sắc và đường nét rất cân đối và họa sĩ đã chú tâm vào các định luật của bố cục do học hỏi được các bậc thầy tại Viện Bảo Tàng Louvre.
Tại Ao Ếch Nhái (La Grenouillère), Monet và Renoir đã cùng vẽ, mỗi người 3 tác phẩm với họa phong rất giống nhau nhưng tác phẩm của Renoir mang tính dịu dàng, buông lỏng hơn. Các họa phẩm này đã mô tả đám đông bên bờ sông và trên cầu tầu, với các con thuyền, các người tắm sông và nhất là các mặt nước lung linh. Aùnh sáng nhiều màu sắc phản chiếu cảnh vật nhưng bố cục không theo quy tắc cổ điển và đây là cách áp dụng câu nói rất phổ thông tại quán cà phê Guerbois, đó là “Aán tượng của thiên nhiên “ (the impression of nature) và cũng do danh từ “Aán Tượng” này mà 5 năm về sau, một trường phái hội họa mới đã ra đời.
Mùa thu năm 1870, chiến tranh giữa nước Pháp và nước Phổ bùng nổ. Vua Napoléon III bị thua trận và nước Pháp trở nên một nước cộng hòa. Mùa xuân năm 1871, các công nhân của thành phố Paris cùng một số nghệ sĩ và trí thức, đã nổi loạn, tuyên bố một loại chính phủ cách mạng gọi là “Công Xã “ (Commune) và kết quả là cuộc nổi dậy đã bị đàn áp. Vào giai đoạn này, các nghệ sĩ nghèo như Renoir đã phải chịu chung sự khước từ nghệ thuật của giai cấp tư sản, nhưng cũng từ nay bắt đầu cuộc tranh đấu về nghệ thuật bởi các họa sĩ thuộc lớp tuổi 40, để tạo nên một trường phái hội họa mới với sự rực rỡ, huyền ảo trong kỹ thuật mô tả.
Theo truyền thống nghệ thuật của nước Pháp, các họa phẩm phải được các vị giám khảo cứu xét, chấp nhận một cách chính thức trước khi được trưng bày tại Phòng Triển Lãm (Salon). Những họa sĩ có tác phẩm được trưng bày như vậy sẽ có danh tiếng, họa phẩm mới có người mua và nhờ vậy, họa sĩ có lợi nhuận. Nhưng do truyền thống cổ xưa, chính quyền Pháp và các vị có thẩm quyền chỉ ưa thích các đề tài hội họa “quý phái”, diễn tả theo lối tu từ trống rỗng (empty rhetoric) khiến cho Phòng Triển Lãm trở nên một loại tiệm tạp hóa, đề cao sở thích của các người cầm quyền, của các vị giám khảo nghệ thuật và đây là những người chống lại nhóm nghệ sĩ đang tìm cách đổi mới trong văn nghệ. Cũng vì thế, ban giám khảo của Phòng Triển Lãm đã bác bỏ họa phẩm “Diana “ (1867) của Renoir, coi đó là bức vẽ “Hottentot Venus”, một thứ nữ thần không chính hiệu, quá “tân thời” đối với ban giám khảo bảo thủ. Họa phẩm Diana của Renoir đã mang ảnh hưởng của Edouard Manet và Gustave Courbet.
Sau khi nước Pháp thua trận và Công Xã bị dẹp tan, nền kinh tế của nước Pháp lại phát triển rất mạnh nhờ đó các họa phẩm đã được bán ra với các giá biểu khá cao. Thành quả này nhờ vào công cuộc tranh đấu của một nhà buôn tranh tên là Paul Durand-Ruel, một thương gia vừa can đảm, vừa khéo léo. Kể từ năm 1862, ông Paul này đã thay cha, quản lý công việc kinh doanh các họa phẩm, bảo vệ các họa sĩ Barbizon. Năm 1870, Paul Durand-Ruel đã gặp Pissaro và Monet tại London khi 2 nhà danh họa này chạy khỏi cuộc chiến tranh Pháp-Phổ rồi vào năm 1873, lại khám phá ra Renoir, khi đó đang có các tác phẩm không bán được, và nhà buôn tranh Durand-Ruel đã trả cho Renoir một số tiền nhỏ dù biết rằng các họa phẩm mua vào còn gặp nhiều khó khăn trên thị trường.
Tới năm 1873, các họa sĩ đã hội họp với nhau, lập nên “Hội Cộng Tác nặc danh” (Societe anonyme cooperative) và vào ngày 15-4-1874, hội này tổ chức triển lãm các họa phẩm tại một cơ sở của nhà nhiếp ảnh Nadar, trên đại lộ Capucines. Renoir trưng bày tại nơi đây 6 tấm sơn dầu và một bức phấn tiên. Ngoài ra còn có các họa phẩm của Monet, Pissarro, Degas, Sisley và Cézanne. Ngày 25 tháng 4 năm đó, một bài phê bình của Louis Leroy, phổ biến trên tạp chí châm biếm Charivari, chỉ trích “cuộc triển lãm của các nhà ấn tượng” vì các tính chất luộn thuộm, không sống động, thiếu chú ý vào các chi tiết. Ngày nay, nhiều người đã không hiểu vì sao những phong cảnh thanh bình như Ao Ếch Nhái, với cách mô tả trực tiếp, dịu dàng, hồn nhiên, mà lại gặp sự chống đối của các người đương thời. Các nhà phê bình thời đó đã chỉ trích cách vẽ thiếu rõ nét, bút pháp lỏng lẻo (loose) của các tác phẩm ấn tượng.
Tới tháng 4 năm 1876, các họa sĩ ấn tượng lại tổ chức cuộc triển lãm thứ hai, tại phòng tranh của Durand-Ruel trên đường Le Peletier. Renoir đã trình bày 15 họa phẩm và nhà phê bình nghệ thuật có ảnh hưởng là Albert Wolff đã viết trên nhật báo Le Figaro rằng “5 hay 6 kẻ điên, bị bịt mắt vì tham vọng, đã họp lại và trình bày các việc làm. Nhiều người chết cười vì các bức hình luộm thuộm này”. Thế nhưng cũng có người ủng hộ các họa sĩ ấn tượng như nhà văn hiện thực Edmond Duranty đã bênh vực cách mô tả đời sống hàng ngày, cách vẽ ngoài trời và đường lối ghi chép tức thời.
Tháng 4 năm 1877, các họa sĩ ấn tượng lại tổ chức kỳ triển lãm thứ ba, có sự giúp đỡ của ông Gustave Caillebotte, một kỹ sư hải quân giàu có và cũng là người yêu thích hội họa. Trong kỳ triển lãm này, Renoir đã đóng góp hơn 20 họa phẩm trong đó có tấm “Chiếc Đu “ (the Swing) và “Sàn Quay Galette” (Le Moulin de la Galette). Hai họa phẩm này đã bao gồm bên trong các thái độ căn bản nhất của họa sĩ đối với nghệ thuật và đời sống. Các tác phẩm này đã mô tả mọi người, nam cũng như nữ, đang vui hưởng cuộc sống xã hội một cách cởi mở, dưới ánh sáng ấm áp, rực rỡ. Hình ảnh của các con người trong tranh lẫn nhẹ vào nhau và vào không gian chung quanh, mang đầy cảm giác của con người, vừa vui tươi, vừa khoái cảm. Từ thời gian này, một người bạn mới của Renoir là ông Georges Rivière đã cho xuất bản một tạp chí nhỏ, có tên là “Aán Tượng, Tạp Chí Nghệ Thuật” (Impressionist, Journal d’Art) qua đó bênh vực đường lối nghệ thuật mới.
Năm 1787, Renoir đã vẽ một họa phẩm có tên là “Ly sô-cô-la nóng” (Cup of Hot Chocolate) có tính dung hòa hơn vì lý do thương mại và đã được Phòng Triển Lãm chấp nhận. Rồi tới năm sau, 1879, Renoir cho trưng bày họa phẩm “Bà Charpentier và các con” (Madame Charpentier and her children) nhờ đó, đã đạt được sự thông cảm của quần chúng. Giống như các ông Victor Choquet và Daidet, ông Charpentier cũng là một nhà sưu tập tranh, đã tìm ra các cơ hội để Renoir triển lãm các bức vẽ bằng phấn tiên (pastels) và giúp Renoir có được những người bảo trợ khác, chẳng hạn như nhà ngoại giao Paul Bérat.
Trong các năm từ 1879 tới 1881, Renoir đã sáng tác tại Wargemont, gần Berneval trong miền Normandy. Nhà danh họa đã không tham gia vào các cuộc triển lãm của phái Aán Tượng và cũng ít liên lạc với các bạn họa sĩ cũ, một phần vì các khác biệt ý kiến chính trị. Renoir không thích chủ thuyết “vô chính phủ” của vài họa sĩ như Francois Raffaelli và Armand Guillaumin, hoặc các tư tưởng xã hội của Pissarro.
Pierre A. Renoir kết hôn với cô Aline Charigot vào năm 1881. Trong kỳ trăng mật, họ đã du lịch qua nước Ý, thăm viếng khu cổ thành Pompeii và các viện bảo tàng nổi danh. Renoir đã say mê trước các phong cảnh tràn đầy ánh sáng và mặt nước lung linh tại thành phố Venice, khâm phục đường lối hội họa của Raphael trong Điện Vatican.
Vào tháng 4 năm 1882, trong kỳ triển lãm thứ 7 của “Nhóm các nghệ sĩ độc lập thuộc phái Hiện Thực và Aán Tượng “ (the Group of Independent Realist and Impressionist Artists), Renoir đã trưng bày 25 tác phẩm, trong đó có bức tranh “Bữa ăn trưa của cuộc du ngoạn trên thuyền” (Luncheon of the Boating Party). Đây là một họa phẩm lớn trên đó các hình thể được vẽ rất dịu trong ánh sáng ấm áp, rực rỡ và chan hòa khắp nơi. Họa phẩm này đã mang đặc tính của Renoir với các nét duyên dáng của phụ nữ và đã diễn tả đầy đủ cảm xúc của con người.
Pierre August Renoir đã vẽ các đề tài thuộc đời sống thực, cuộc sống của những người giàu có mà ông đã lệ thuộc như một họa sĩ và cả cuộc sống của giới Bohemian trung lưu cấp thấp. Các họa phẩm của Renoir không diễn tả những bi thương, không mang tính đấu tranh. Đặc biệt là các chân dung của Renoir đã mô tả sự duyên dáng, hấp dẫn, đáng yêu, tỏa ra từ hình ảnh hồng hào, mờ nét của thiếu nữ trẻ, hay của phụ nữ đẹp, mang đầy đủ nữ tính mộc mạc, dịu dàng, rực rỡ trong màu sắc tươi mới. Renoir cũng giống như các họa sĩ ấn tượng khác, đã từ bỏ truyền thống cổ điển về cân bằng và đối xứng, đã cố gắng ghi lại các thời điểm của cá nhân, dùng tới các yếu tố tức thời và bất đối xứng để nhấn mạnh ấn tượng thoảng qua do đề tài gây nên. Renoir cũng vẽ nhiều chân dung trẻ em, đã làm phát triển thứ diện mạo hồng hào của làn da các em nhỏ, bộc lộ đôi mắt dịu dàng và trong sáng như mơ mộng của trẻ thơ. Các chân dung của Renoir còn gồm một số người tiêu biểu của thời đại, phần lớn là phụ nữ và loại họa phẩm này rất dễ bán. Với loại đề tài “mọi người trong ánh sáng mặt trời”, Renoir đã chọn một số hình khỏa thân nữ, đặc biệt là họa phẩm bán khỏa thân vẽ người mẫu Anna trong khoảng năm 1875 (Nude in the Sunlight) trong vườn của phòng vẽ trên đường Corot. Nhà danh họa đã làm cho chính người mẫu trở nên một thứ hoa, nở trong các bụi cây muôn màu và đề tài đã lẫn vào ánh sáng và thiên nhiên, và họa phẩm đã không thể thực hiện được nếu họa sĩ không cảm xúc mạnh trước đối tượng, đời sống, ánh sáng mặt trời và cảnh trí bên ngoài.
|