Đôi Lời Về Soạn Giả Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Tôi đã không hề phân vân bỏ ra hẳn hai buổi liền để đọc một mạch bằng hết năm mươi câu chuyện trong cuốn sách Những người phụ nữ làm thay đổi thế giới của soạn giả Nguyễn Bích Lan. Không phải chỉ vì tôi có may mắn đã ít nhiều quen biết soạn giả, mà những câu chuyện ở đây quả thực có sức hấp dẫn, mỗi câu chuyện đều đem lại cho tôi thêm hiểu biết, thêm niềm tin tưởng vào lòng tốt của con người, cái đẹp của cuộc sống, và niềm tự hào cùng với yêu kính, trân trọng đối với người phụ nữ - người mẹ của nhân loại. Lại nữa mỗi câu chuyện ở đây đều được kể một cách ngắn gọn, hàm súc, không trùng lặp, nhàm tản…
Cho đến nay, hình như nhiều người trong chúng ta mới chỉ ít nhiều biết đến tên tuổi cũng như sự nghiệp sáng tác của nhà thơ lớn thế kỷ XIX trong văn học Anh George Gordon Byron ( Bairơn, 1788- 1824). Có lẽ, cũng như tôi, ít ai lại ngờ rằng con gái nhà thơ, Augusta Ada Byron (1815- 1852), với cống hiến khoa học đáng kể cho tiến bộ của nhân loại, có thể nói, cũng là một nhân vật lớn. Hóa ra con gái của nhà thơ chính là người đã đóng góp khá nhiều để chúng ta ngày nay có được cái máy tính hiện đại- với nó ta “có thể giải phóng những phép tính phức tạp nhất, có thể đánh máy tài liệu, vẽ những bản vẽ thiết kế, lưu hóa đơn, soạn giáo án, nghe nhạc, chơi trò chơi, gửi thư hoặc trò chuyện trực tiếp với bạn bè hoặc người thân của bạn đang ở cách xa hàng nghìn cây số, thậm chí sản xuất một bộ phim v.v…”. Chính câu chuyện mở đầu tập sách này cho ta được biết điều đó.
Lần lượt các câu chuyện khác trong sách kể cho chúng ta biết nhiều điều mới lạ tương tự, hoặc có nhắc lại đôi điều, có thể mọi người từng biết ở dâu đó, nhưng đọc lại trong một tổng thể vẫn làm ta xúc động.
Ngoài Augusta Ada Byron, ta được biết bao nhiêu người phụ nữ khác cũng thật sự là tài giỏi, quả cảm, có một tấm lòng nhân ái bao la: Sofia Kovalevskaia (1850- 1891), nhà toán học người Nga, vượt bao nhiêu khó khăn của lề thói lạc hậu phân biệt đối xử nam nữ của xã hội đương thời, trở thành nhà khoa học- tác giả công trình “Nghiên cứu áp dụng toán học vào giải bài toán chuyển động của khối chất rắn ngay cả khi trọng tâm của nó không nằm ở trục của khối”. Thành tựu nghiên cứu của bà đã giải quyết được bao nhiêu khó khăn trong ứng dụng khoa học vào đời sống. Những năm qua nhiều nhà khoa học nữ của Việt Nam hàng năm được nhận giải thưởng Kovalevskaia chính là một trong những biểu hiện của người đời ghi công và tôn vinh bà. Marie Curie (1867- 1934), một phụ nữ tiêu biểu khác, người Ba Lan, cùng với chồng là Pierre Curie là hai nhà vật lý nguyên tử, xác định được khối lượng nguyên tử của radium, mở ra một triển vọng lớn lao cho loài người sử dụng năng lượng vì mục đích cuộc sống con người. Baulah Louise Henry (1887- 1973), người phụ nữ Mỹ có tới 110 phát minh và 49 bằng sáng chế. Lise Meitner (1878- 1968), nhà khoa học nữ người Đức, đóng góp lớn vào phát minh lý thuyết về quá trình phân giải hạt nhân,v..v…
Hai câu chuyện về hai em gái nhỏ tuổi có lẽ sẽ để lại ấn tượng đặc biệt cho người đọc: Anne Frank, cô bé con một gia đình Do Thái phải trốn tránh cuộc vây giáp, đàn áp của chế độ phát xít, đã qua đời vi bệnh tật và đói khát, không đợi được đến ngày giải phóng, nhưng đã để lại cho loài người những trang nhật ký đầy lạc quan tin tưởng ở ngày mai. Và Sadako Sasaki, cô bé người Nhật đã bị nhiễm phóng xạ do quả bom nguyên tử ném xuống Hiroshima vào những ngày cuối cùng của cuộc thế chiến thứ hai. Nằm trên giường bệnh, tin vào truyền thuyết, cô bé đã kiên nhẫn ngày ngày gập những con nhạn giấy. Bé gập được hơn một nghìn con nhạn giấy mà vẫn qua đời ở độ tuổi mười hai. Cô bé đã không cưỡng nổi số mệnh của mình, nhưng để lại cho thế giới này ước nguyện lớn lao lao về hòa bình.
Nhưng làm người đọc xúc động và ghi nhớ hơn cả có lẽ là những câu chuyện trong sách kể về những tấm gương cao cả vốn có của những người phụ nữ - những người mẹ của nhân loại. Mẹ Teresa (1910- 1997) người gốc Anbani, từ năm mười tám tuổi đã gia nhập nhóm nữ tu ở Ireland và bắt đầu các hoạt động nhân đạo, đi suốt cuộc đời cứu vớt những người nghèo đói, bệnh tật. Công nương Diana Frances Spencer (1961- 1997) tình nguyện nhân đạo giúp đỡ các bệnh nhân AIDS…
Tất cả những người phụ nữ tuyệt vời được nói trong các câu chuyện ở tập sách, trước hết đều là những người có một nghị lực phi thường cùng với một trái tim bao dung, đầy ắp tình yêu, tình yêu đối với đồng loại, tình yêu với cuộc sống, tình yêu với trái đất tươi đẹp này…
Gấp tập sách này lại tôi nghĩ đến người soạn ra nó. Tôi được biết đến nữ soạn giả trẻ tuổi này từ một bài báo đăng từ năm 2001. Dưới tiêu đề Những mảnh đời khuất lấp bài báo hé mở cho người đọc biết về cuộc đời của một cô bé tật nguyền: Cô bé Nguyễn Bích Lan. Đang học dở lớp 8 ở trường phổ thông Minh Tân ( Hưng Hà, Thái Bình), Lan phải bỏ dở học vì một căn bệnh hiểm nghèo. Buộc phải quanh quẩn, xê dịch rất khó khăn trong căn phòng có 10 m2, cô bé Lan ở tuổi mười bốn không chịu an phận: với một nghị lực, một quyết tâm lớn đã tìm ra lẽ sống “có ích cho đời”. Không còn đến được trường cùng chúng bạn, một mình Lan xoay xở tìm mọi cách tự học. Cô tự học tiếng Anh. Có được vốn tiếng Anh cô mở lớp dạy học, lúc đầu cho khuây khỏa, dần dà cô thực sự trở thành cô giáo với 3,4 lớp, hàng trăm học trò. Học trò của cô giáo Lan đều trưởng thành, thi đỗ vào đại học, vào cao đẳng, trong số đó có tám em giờ đây cũng đã thành cô giáo dạy Anh ngữ ở các trường phổ thông. Đến một lúc bệnh tật nặng thêm, không còn đủ sức dạy học, Nguyễn Bích Lan lại tìm được một công việc thích hợp với năng khiếu văn từ nhỏ, cộng với vốn tiếng Anh rèn rũa được trong những năm qua- Bích Lan chuyển sang dịch sách.
Chỉ trong vòng ba, bốn năm, từ cuốn sách dịch đầu tiên, được Nhà xuất bản Phụ nữ ấn hành năm 2001- Đừng bao giờ nghi ngờ tình yêu của em (tác phẩm của nhà văn nữ người Scotland Daisy Thompson), tính đến nay Nguyễn Bích Lan đã có tới mười đầu sách. Hầu như sách của Bích Lan đều được Nhà xuất bản Phụ nữ tín nhiệm xuất bản và được đông đảo bạn đọc hoan nghênh.
Việc dịch sách của Nguyễn Bích Lan mỗi ngày một thêm thuần thục, bài bản. Với công cụ là chiếc máy tính, dịch giả không chỉ dùng thay cây bút, mà tìm tòi học hỏi thêm, tra cứu và giao lưu với cả thế giới bên ngoài rộng lớn. Nhờ nó chất lượng bản dịch dần được nâng cao. Dịch văn học thực ra cũng là một thể loại sáng tạo ngôn từ. Người dịch văn học cũng là cây bút sáng tạo văn chương. Giờ đây điều này tốt đối với Nguyễn Bích Lan đã gần như trở thành sự thật. Cuốn sách biên soạn Những người phụ nữ làm thay đổi thế giới của Nguyễn Bích Lan có thể coi là một minh chứng bổ sung thêm.
Xin vui mừng giới thiệu với bạn đọc một thành công mới của dịch giả Nguyễn Bích Lan, một con người vượt khó đầy nghị lực, đầy tài năng triển vọng, từ một người tưởng như tàn phế đã trở thành cô giáo, rồi thành một dịch giả được bạn đọc yêu mến.
Augusta Ada Byron (1815- 1852) CON GÁI CỦA THI SĨ BYRON
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Bạn đã bao giờ ngắm một chiếc máy vi tính, một vật đã trở nên rất đỗi quen thuộc trong cuộc sống của chúng ta ngày nay, và tự hỏi chiếc máy vi tính đầu tiên ra đời từ khi nào chưa? Bạn có tin rằng lịch sử của chiếc máy vi tính bắt đầu từ cách đây gần 200 năm không? Và liệu bạn có băn khoăn nhờ đâu mà con người thời bấy giờ có thể hiểu được nguyên lý vận hành của một thiết bị có bộ nhớ, hoạt động nhờ những chương trình được lập sẵn và có thể thực hiện nhiều công việc khác nhau, từ giải quyết các phép tính đến thiết kế đồ họa? Nếu tìm đến với các câu trả lời bạn sẽ được biết về một người phụ nữ đã góp công sức không nhỏ trong việc thúc đẩy kỹ thuật lập trình. Người phụ nữ đó là Augusta Ada Byron.
Augusta Ada Byron sin hănm 1815 tại London. Bà là con gái của thi sĩ nổi tiếng thế giới George Gordon Noel Byron. Với thiên tài thơ ca, cha bà được nhiều phụ nữ mến mộ và cuộc sống của cha mẹ bà vì thế không hạnh phúc. Sau khi bà chào đời được vài tháng, cha bà đi khỏi nhà và không bao giờ quay lại. Không muốn con gái mình theo truyền thống nhà Byron, mẹ của Ada đã chủ động hướng bà tới toán học và các môn khoa học tự nhiên. Ada tỏ ra rất thông minh và đặc biệt giỏi toán. Năm Ada mười tám tuổi, như một sự sắp đặt của số mệnh bà gặp nhà phát minh Charles Babbage tại nhà của Somerville, giáo viên dạy toán của bà. Babbage kể với Ada về chiếc máy tính tự động có khả năng điều khiển được bằng các chỉ lệnh mà ông đang phát triển khiến Ada lập tức bị cuốn hút và bà đã tìm đến tận phòng nghiên cứu của Babbage để tìm hiểu về phát minh của ông.
Mùa thu năm 1841 Babbage trình bày kế hoạch phát triển chiếc máy của mình tại một cuộc hội thảo ở Turin, Italia. Theo Babbage, chiếc máy của ông sử dụng các bảng mạch điện tử, thực hiện các lệnh trên các bảng mạch đó và nó cần được con người lập cho các công thức cũng như nhập dữ liệu khởi đầu. Rất ít người hiểu được những gì ông mô tả.
Năm 1842 một người Italia tên là Luigi Federico Menabrea giới thiệu những phát minh này của Babbage trong một bài báo in bằng tiếng Pháp. Ada đã dịch bài báo này sang tiếng Anh và được sự khuyến khích của Babbage bã đã bổ sung những chú thích của mình vào bản dịch. Bà chú thích nhiều đến nỗi khiến cho bản dịch có độ dài gấp ba lần bài báo gốc. Các chú thích của Ada nhấn mạnh đến sự khác nhau giữa chiếc máy làm tính đơn thuần của Pascal và chiếc máy biên dịch của Babbage, một chiếc máy thực hiện lệnh cũng như xử lý dữ liệu một cách tuần tự. Từ điểm này bà công nhận tầm quan trọng của người sử dụng máy (Ada muốn nói về công việc mà ngày nay chúng ta gọi là phát triển phần mềm) và chỉ rõ rằng chương trình lưu sẵn trong máy cần đảm bảo vừa chính xác vừa phù hợp với mong muốn của người sử dụng.
Những chú thích của bài báo của Menabrea cho thấy rằng Ada không những hiểu được nguyên lý hoạt động của chiếc máy mà còn đi xa hơn người phát minh ra nó trong việc đánh giá những khả năng cũng như đóng góp của nó đối với nhân loại. Trong khi Babbage chỉ giới hạn khả năng của chiếc máy trong lĩnh vực toán học thì Ada lại tin rằng một chiếc máy có bộ nhớ như thế không chỉ giải quyết được các phép tính mà còn có thể thực hiện các cấu trúc lựa chọn; làm được rất nhiều việc thậm chí cả việc soạn nhạc và thiết kế đồ họa. Babbage vô cùng ngạc nhiên trước ý kiến của Ada. Trong một bức thư gửi Ada ông đã viết: “Càng đọc những chú thích của cô tôi càng ngạc nhiên và tôi tiếc rằng trước đây tôi đã không khám phá ra tiềm năng to lớn đến thế của chiếc máy”.
Qua thư và qua những cuộc thăm viếng Babbage, Ada đã thực sự thiết lập một mối quan hệ cộng tác gần gũi. Với khả năng toán học của mình, Ada đã đóng góp nhiều ý kiến giúp ích cho Babbage trong việc phát triển chiếc máy của ông. Chính bà là người đã gợi ý Babbage lập chương trình tính các số Bernoulli, và chương trình này ngày nay được coi là chương trình máy tính đầu tiên trên thế giới. Cũng có những ý kiến tranh cãi xung quanh điều này song từ những bức thư trao đổi giữa Ada và Babbage đã được công bố, không ai có thể phủ nhận những ảnh hưởng to lớn của Ada trong việc thúc đẩy sự phát triển kỹ thuật lập trình. Người Mỹ đặt tên cho một ngôn ngữ lập trình của họ là Ada chính là để khẳng định điều đó.
Qua một quá trình phát triển không ngừng, chiếc máy tính tự động được phát triển không ngừng, chiếc máy tính tự động được điều khiển bằng các chỉ lệnh của Babbage đã được cải tiến thành chiếc máy vi tính hiện đại với vô số những tính năng hữu ích cho cuộc sống của con người. Ngày nay với một chiếc máy vi tính bạn có thể giải những phép tính phức tạp nhất, có thể đánh máy tài liệu, vẽ những bản thiết kế, lưu hóa đơn, lập giáo án, nghe nhạc, chơi trò chơi, gửi thư hoặc trò chuyện trực tiếp với bạn bè hoặc người thân của bạn đang ở cách xa hàng nghìn cây số, thậm chí sản xuất một bộ phim, v.v… Và phần lớn những khả năng đó đã được Augusta Ada Byron tiên liệu từ gần hai thế kỷ trước.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 28-12-2009 lúc 10:29.
Sofia Kovalevskaya (1850- 1891) TOÁN HỌC – NIỀM KHÁT KHAO BẤT DIỆT
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Không phải ngẫu nhiên người Việt Nam chúng ta đặt tên giải thưởng dành tôn vinh những nhà khoa học nữ có đóng góp nổi bật cho đất nước là giải Kovalevskaia. Đó là tên của một trong những nhà toán học nữ xuất sắc nhất thế giới.
Sofia Kovalevskaia sinh ngày 15 tháng 1 năm 1850 tại Matxcova nước Nga trong một gia đình thuộc dòng dõi quý tộc. Hồi nhỏ bà thường ngồi hàng giờ nghe người chú của mình nói về toán học. Một hôm bà nhận ra rằng các tờ giấy dán tường trong phòng của mình hóa ra là những trang giấy in các bài giảng về tích phân của Ostrogradski mà bà đã từng nghe người chú nói đến. Bà bắt đầu tìm hiểu các phép toán từ các từ giấy dán tường đó.
Sofia tiếp thu bài giảng toán đầu tiên từ một gia sư tên là Y.I. Malevich. Bà cảm thấy môn toán cuốn hút bà đến nỗi bà bắt đầu lơ là những môn học khác. Nhận thấy điều đó bố của bà cấm không cho con gái tiếp tục học toán nhưng càng bị cấm Sofia càng mê toán hơn. Bà mượn sách toán và lén đọc vào đêm khuya khi cả nhà đã ngủ. Năm mười bốn tuổi người hàng xóm của bà, giáo sư Tyrtov, tặng gia đình bà một cuốn sách vật lý do ông viết. Vì muốn hiểu được nội dung của cuốn sách Sofia đã tự học lượng giác và nhận thức của bà khiến giáo sư Tyrtov rất ngạc nhiên. Giáo sư ra sức thuyết phục cha của Sofia cho bà tiếp tục học toán. Cuối cùng Sofia cũng được cha cho phép đi Saint Petersburg học những gì bà yêu thích.
Sau khi kết thúc bậc trung học, Sofia khát khao được học lên đại học. Vào thời điểm đó ở Nga không một phụ nữ nào có thể thỏa mãn khát khao ấy ở trong nước. Gần nước Nga nhất chỉ có Thụy Sĩ là có các trường đại học tiếp nhận sinh viên nữ mà một thiếu nữ chưa chồng như Sofia lại không được phép ra nước ngoài một mình. Khát khao học đại học lớn đến nỗi nó thúc đẩy Sofia đi đến quyết định kết hôn trên danh nghĩa với một nhà cổ sinh học tên là Vladimir Kovalevski để có cơ hội sang châu Âu. Năm 1868, bà đến Heldelberg đăng ký học toán và khoa học tự nhiên tại trường đại học của thành phố nhưng trường không tiếp nhận sinh viên nữ. Vì thế, Sofia phải xin từng giáo viên cho bà được nghe họ giảng bài và phải thuyết phục lãnh đạo nhà trường cho phép bà có mặt tại các lớp học với tư cách là sinh viên không chính thức. Qua tất cả các học kỳ Sofia luôn khiến các bạn học của bà ngạc nhiên bởi năng khiếu nổi bật về toán học. Đối với các giáo sư khoa toán, Sofia là một hiện tượng hiếm thấy.
Năm 1871 Sofia đến đại học Berlin với mục đích tìm kiếm cơ hội nghiên cứu toán học dưới sự hướng dẫn của Karl Weierstrass, người được coi là nhà toán học nổi tiếng nhất của thời bấy giờ. Trường đại học Berlin từ chối nhận Sofia nhưng may mắn thay sau khi thử khả năng của Sofia thầy Weierstrass đã hiểu ra rằng mình đang có trong tay một tài năng đầy triển vọng. Chính vì thế ông nhận hướng dẫn riêng cho Sofia. Không phụ công người thầy ưu tú của mình, trong suốt bốn năm Sofia hoạt động miệt mài và cho ra đời ba công trình nghiên cứu. Đó đều là những công trình có giá trị to lớn. Nếu như kết quả nghiên cứu về số nguyên của Sofia giúp rút gọn các số nguyên Abel thành các số nguyên elip thì thuyết phương trình vi phân của bà lại được ứng dụng vào việc nghiên cứu các tiểu hành tinh quay quanh quỹ đạo sao Thổ.
Với các nghiên cứu đáng chú ý của mình, năm 1887 Sofia giành được học vị tiến sĩ tại đại học Goettingen. Rời đại học Goettingen bà trở về nước Nga và tại quê hương mình bà lại phải chịu những thiệt thòi về giới: Bà bị trường đại học Saint Petersburg từ chối nhận làm giảng viên và không được trường đại học Matxcova cho phép tham gia thi lấy bằng thạc sĩ của trường đại học này. Một lần nữa Sofia lại quay sang châu Âu. Bà đến Đức, Pháp, Thụy Điển làm giảng viên một số trường đại học và tiếp tục công việc nghiên cứu khoa học.
Một trong những đóng góp quan trọng cho khoa học trong thời gian này của Sofia là nghiên cứu áp dụng toán học vào giải bài toán chuyển động của vật rắn. Năm 1888 bà cho công bố kết quả nghiên cứu trong một tài liệu mang tên “Xoay một vật rắn quanh một điểm cố định”. Trước thời điểm đó các nhà khoa học mới chỉ đưa ra được lời giải cho bài toán chuyển động của khối vật rắn tại một điểm cố định trong trường hợp đối xứng. Nghiên cứu của Sofia cho phép giải bài toán chuyển động khối chất rắn ngay cả khi trọng tâm của nó không nằm ở trục của khối. Đánh giá cao công trình nghiên cứu này của bà, năm 1888 Viện Hàn lâm khoa học Paris không những đã quyết định trao giải thưởng khoa học cho bà mà còn nâng mức tiền thưởng của giải từ 3000 lên 5000 franc. Công trình nghiên cứu về chuyển động của khối chất rắn cũng đã mang lại cho bà giải thưởng của Viện Hàn lâm khoa học Thụy Điển.
Đang ở đỉnh cao của sự nghiệp thì Sofia mắc bệnh viêm phổi. Bà qua đời tại Stockholm, Thụy Điển vào ngày 10 tháng một năm 1891 trong niềm tiếc thương của giới khoa học trên khắp hành tinh. Với tổng cộng mười công trình nghiên cứu về toán học và vật lý toán học, trong đó phần lớn là những công trình tạo đà cho những khám phá quan trọng của tuơng lai, Sofia được mệnh danh là một trong những nhà toán học nữ xuất sắc nhất thế giới.
Aletta Jacobs (1854 – 1929) NỮ BÁC SĨ ĐẦU TIÊN Ở HÀ LAN
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Là con thứ tám trong một gia đình gồm mười hai người con của một cặp vợ chồng người Hà Lan thuộc tầng lớp trung lưu, từ nhỏ Aletta Jacobs đã mơ ước được đi theo con đường của cha mình, trở thành một nhà vật lý. Khác với nhiều bậc phụ huynh ở nửa cuối thể kỷ XIX cha mẹ của Aletta không những không ngăn cản con gái họ theo đuổi ước mơ mà còn cậy cục xin cho Aletta học dự thính ở các lớp học dành cho con trai để bà có thể học các môn tự nhiên thay vì chỉ học các môn xã hội và nữ công gia chánh.
Sau khi tốt nghiệp trung học và vượt qua kỳ thi tuyển phụ tá dược sĩ, Aletta viết thư cho thủ tướng Thorbecka xin ông ta can thiệp để bà được vào học đại học Groningen. Thủ tướng hẹn cho bà một năm thử thách. Đầu năm 1872 nghe tin thủ tướng ốm nặng Aletta sợ người kế nhiệm sẽ không chấp nhận lời thỉnh cầu của bà nên bà quyết định tham gia thi đại học ngay và gửi kết quả tới Thorbecka. Hai ngày sau khi Thorbecka qua đời, bà nhận được giấy cho phép nhập trường Groningen.
Tại trường Groningen, Aletta luôn nỗ lực hết mình trong học tập. Trong suốt bốn năm bà luôn là sinh viên xuất sắc của khoa toán và vật lý. Năm 1878 bà chuyển đến Amsterdam để theo học trường y và kết thúc chương trình học trong hai năm. Một số giáo viên của trường không chấp nhận việc một người phụ nữ trở thành bác sĩ đã tìm cách cản trở bà. Hai vị giám khảo đã xử thiếu công bằng với bà trong khi bà thi tốt nghiệp. Bà đã công khai lên tiếng đấu tranh phản đối hai vị giám khảo này và suýt nữa thì không nhận được bằng tốt nghiệp.
Khi còn là sinh viên, và đặc biệt là trong thời gian làm việc tại bệnh viện Amsterdam, Aletta đã chững kiến quá nhiều cảnh những người phụ nữ khổ sở vì đẻ dày đẻ nhiều. Họ nghèo túng và gầy mòn vì sinh đẻ. Cuộc sống của họ là một gánh nặng với những kì thai nghén đầy vất vả. Trò chuyện với những người phụ nữ ấy ở phòng hộ sinh, Aletta nhận thấy rằng đa số họ không muốn sinh nhiều con như vậy, không muốn sinh ra những đứa con ốm yếu và chết yểu, nhưng họ không biết làm thế nào để tránh thai. Họ luôn sống trong nỗi lo sợ sẽ mang thai và hoang mang không biết tương lai của những đứa con được sinh ra ngoài ý muốn sẽ ra sao. Aletta suy nghĩ rất nhiều về vấn đề này nhưng chưa tìm ra cách gì để giúp những người phụ nữ ấy. Nhiều lần bà đem băn khoăn của mình ra tâm sự với đồng nghiệp và chỉ nhận được những lời nói buông xuông đại loại như: “Cái số đàn bà nó thế” hay “Chẳng có cách tránh thai nào đâu, nếu có thì thế giới sụp đổ vì thiếu người rồi”.
Aletta nghĩ rằng chỉ có phương pháp chống thụ thai mới có thể giúp giải phóng người phụ nữ khỏi sự chịu đựng này. Bà tìm hiểu ý tưởng về biện pháp tránh thai của Malthus vốn đã được chú ý từ đầu thế kỷ XIX và liên lạc với những người đã vận dụng ý tưởng này theo cách riêng của họ. Năm 1882 bà đọc được một bài báo giới thiệu phương pháp đặt vòng tránh thai của bác sĩ Mensinga ở Flensburg. Bà lập tức viết thư cho bác sĩ Mensinga. Bà không những được bác sĩ Mensinga giải đáp mọi thắc mắc, mà còn nhận được nhiều mẫu vòng tránh thai. Tuy nhiên bà không vội vàng phổ biến phương pháp này mà thận trọng thử nghiệm trong một thời gian. Bà viết thư cho những người phụ nữ có nhu cầu bức thiết đề nghị họ tham gia thử nghiệm phương pháp đặt vòng, với điều kiện họ phải thường xuyên đi kiểm tra sức khỏe trong những tháng đầu. Rất nhiều người phụ nữ sẵn sàng đi đặt vòng, nhờ thế mà chỉ sau một thời gian ngắn Aletta đã có thể khẳng định sự thành công của phương pháp đó.
Ý thức được những rào cản về tôn giáo và hạn chế về dân trí, Aletta không dám mong việc làm của bà sẽ nhận được nhiều sự ủng hộ song bà không ngờ mình lại tạo ra một sự phản đối kịch liệt đến như vậy. Những người phản đối buộc tội bà tiếp tay cho lối sống vô đạo đức. Số ít những người đồng tình thì không dám tỏ thái độ vì sợ phải gánh chịu chung số phận với bà. Bạn bè của bà khuyên bà nên công khai thừa nhận việc làm của mình làm một sai lầm và tuyên bố sẽ không tiếp tục phổ biến phương pháp tránh thai nữa. Aletta không tiếp thu những ý kiến bàn lùi đó. Bà muốn cảm hóa những người phản đối bà, muốn tranh luận công bằng với những đồng nghiệp phủ nhận tính nhân đạo của việc bà làm. Tuy nhiên cũng có lúc Aletta cảm thấy dường như bà đơn độc đứng ở một phía, phía kia là cả hệ thống y tế và dư luận xã hội. Nhưng rồi bà nhận ra sự phản đối công khai kia chỉ là hành động đạo đức giả. Các mục sư trong các buổi giảng kinh thao thao bất tuyệt phản đối việc tránh thai nhưng chính họ lại đưa vợ mình tới phòng khám của Aletta để đặt vòng. Những bác sĩ miệng thì tìm đủ lời để chỉ trích Aletta, nhưng trong bụng chỉ muốn bà truyền lại cho mình những kỹ thuật đặt vòng tránh thai.
Aletta tiếp tục việc làm nhân đạo của mình và nhờ có sự kiên quyết của bà mà cuối cùng, việc sử dụng phương pháp tránh thai đã trở thành phổ biến ở khắp đất nước Hà Lan. Hơn ba mươi năm sau kể từ khi thực hiện ca đặt vòng tránh thai đầu tiên, bà thành lập một bệnh viện cung cấp dịch vụ tránh thai. Chính Margaret Sanger, người đi đầu trong phong trào đấu tranh đòi quyền kiểm soát việc sinh đẻ ở Mỹ, đã sang Hà Lan để tìm hiểu các phương pháp tránh thai mà Aletta đã áp dụng thành công.
Cuộc đời của Aletta Jacobs là cuộc đời dành cho những cuộc đấu tranh giải phóng phụ nữ. Đấu tranh cho nhân công nữ trong các cửa hàng được ngồi ghế thay vì đứng tám đến mười tiếng một ngày, đấu tranh đòi quyền bầu cử cho phụ nữ, đấu tranh bảo vệ sức khỏe cho những phụ nữ làm nghề mại dâm, đấu tranh đòi quyền kiểm soát sinh đẻ cho những người phải mang nặng đẻ đau. Không có sự đóng góp của những người giàu cả về trí tuệ lẫn tâm huyết như Aletta Jacobs, quá trình giải phóng phụ nữ ở Hà Lan nói riêng và trên toàn thế giới nói chung, chắc chắn sẽ diễn ra khó khăn và chậm chạp hơn rất nhiều, nếu không muốn nói là khó đạt được những thành quả mà những người phụ nữ thời nay đang được hưởng.
Edith Cavell (1865 – 1915) CHUYỆN KỂ Ở QUẢNG TRƯỜNGTRAFALGAR
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vào một ngày đẹp trời, một bé gái mười một tuổi đứng trước bức tượng Edith Cavell tại quảng trường Trafalgar ở London nhẩm đọc dòng chữ: “Tôi hiểu rằng chỉ có lòng yêu nước chưa đủ, tôi phải không thù hận hay oán hờn bất cứ ai”. Đọc xong bé gái đó đứng yên nhìn mãi lên bức tượng và khi mẹ của bé dắt tay bé đi, bé cứ ngoái đầu lại phía bức tượng. Thay vì đi khỏi quảng trường, người mẹ đã dắt con trở lại chỗ bức tượng và ngay tại đó bà bắt đầu kể cho con gái nghe câu chuyện về Edith Cavell.
Chuyện kể rằng Edith Cavell là một nữ y tá người Norfolk, thuộc nước Anh. Năm 1907 khi bà mười tám tuổi bà được cử làm y tá của bệnh viện Berkendael ở Brussels, thủ đô nước Bỉ. Chiến tranh thế giới thứ nhất nổ ra và ngày 4 tháng Tám năm 1914 quân Đức tràn vào nước Bỉ. Trong tình hình chiến sự diễn ra ác liệt, bệnh viện Berkendael được Hội chữ thập đỏ quốc tế sử dụng làm nơi cứu chữa cho thương binh. Những người bị thương được đưa đến bệnh viện dù là người Anh, người Pháp, người Bỉ hay người Đức đều được các bác sĩ và y tá cứu chữa với tinh thần nhân đạo cao cả. Những người thuộc quân đồng minh sau khi được chữa trị vết thương, thường được người của bệnh viện giúp trốn ra ngoài để khỏi rơi vào tay của lính Đức. Edith là người tích cực nhất trong hoạt động đầy nguy hiểm đó. Không những giúp những người bị thương trốn thoát bà còn giúp cả những người lính đang bị truy lùng trốn trong bệnh viện, để rồi sau đó tổ chức đưa những người đó tới vùng an toàn.
Lúc bấy giờ, ở đâu trên đường phố Brussels người ta cũng thấy những tấm biển đề: “Bất kể đàn ông hay đàn bà, ai che giấu một lính Pháp hay lính Anh đều phải chịu hình phạt nặng”. Có người đã cảnh báo Edith rằng lính Đức đã nghi ngờ bà và bố trí theo dõi những người ra vào bệnh viện. Tuy nhiên Edith vẫn không vì thề mà khoanh tay ngồi nhìn những người lính đồng minh rơi vào tay quân phát xít Đức. Bà tiếp tục che giấu, giúp đỡ lương thực, tiền bạc và tổ chức cho họ trốn sang nước trung lập Hà Lan.
Ngày 15 tháng Tám năm 1915 Edith Cavell bị quân Đức bắt vì tội “che giấu kẻ thù”. Edith bị biệt giam trong mười tuần. Bạn bè và cả luật sư của bà đều không được phép gặp bà. Ngày 7 tháng Mười tòa án Đức mở phiên tòa xét xử bà cùng ba mươi tư người khác có cùng tội danh.
Nếu bị kết tội Edith sẽ bị xử tử. Luật sư của bà biện hộ rằng bà làm như vậy chỉ vì sự cảm thông giữa người và người mà thôi. Nhưng Edith Cavell với bản lĩnh phi thường đã đứng trước tòa không hề run sợ, thừa nhận rằng chính bà đã giúp đỡ 200 người lính đồng minh trốn thoát khỏi Bỉ và bà biết rõ rằng người người đó có thể sẽ quay lại chiến hào chống lại quân Đức. Bà còn nói rằng những người lính trốn thoát đã gửi thư cảm ơn sự giúp đỡ của bà. Khi được hỏi tại sao bà lại giúp những người lính ấy, Edith Cavell đã đáp rằng nếu bà không giúp họ trốn thoát thì quân Đức sẽ giết chết họ và vì lẽ đó bà phải hành động để thực hiện nghĩa vụ của bà đối với tổ quốc. Những gì Edith Cavell thừa nhận đủ để tòa án binh của Đức tuyên bố mức án nặng nhất đối với bà.
Các nỗ lực ngoại giao đã được thúc đẩy nhằm cứu mạng sống của Edith Cavell. Đại diện cho nước Mĩ, nước mà vào thời điểm ấy chưa tham chiến, ông Hugh Gibson quan chức ngoại giao số một của Mỹ ở Brussels, đã tuyên bố thẳng với chính phủ Đức rằng, việc xử tù Edith Cavell sẽ làm tổn hại nghiêm trọng mối quan hệ ngoại giao vốn đã chẳng êm đềm giữa Đức và Mỹ. Viên chức ngoại giao này đã cảnh báo người Đức rằng nếu họ xử tử Edith Cavell họ sẽ phải đối mặt với sự bất bình trong dân chúng. Hugh Gibson cùng ông Marquys de Villalobar đại diện chính phủ Tây Ban Nha ở Brussels, và ông M. de Leval, quan chức ngoại giao người Bỉ đã trực tiếp đến gặp Baron von der Lancken, đại diện chính trị của nước Đức ở Brussels và nói chuyện điện thoại với tướng Von Sauberzweig phụ trách quân sự, nhưng mọi nỗ lực của họ đều không mang lại kết quả. Những viên chỉ huy người Đức nói, dù thế nào bản án cũng nhất định phải được thi hành.
Edith Cavell không kháng án. Bà bình tĩnh đợi cái chết. Ngày 11 tháng Mười khi linh mục của nhà tù Gahan đến thăm, bà đã nói: “Tôi muốn những người bạn của tôi biết rằng tôi sẵn sàng chết cho tổ quốc mình. Tôi không có gì phải sợ hay phải né tránh. Tôi đã chứng kiến cái chết quá nhiều rồi, nhiều đến nỗi nó chẳng còn lạ lẫm hay đáng sợ đối với tôi nữa”.
Hai giờ sáng ngày 12 tháng Mười, chỉ chưa đầy mười tiếng, sau khi bản án tử hình được tuyên bố, tại một địa điểm quân sự mang tên Tir National, Edith Cavell đã bị xử bắn.
Khi còn sống, Edith Cavell đã cứu sống được nhiều mạng người và cái chết của bà lại cứu thêm được những mạng sống khác. Sau khi Edith Cavell bị xử bắn, toàn thế giới dồn lên sự căm giận quân phát xít Đức. Trước sự phản đối gay gắt cả dư luận, quân đội Đức buộc phải hủy bỏ án xử tử đối với không ít tù nhân đã bị kết án. Học tập lòng dũng cảm của Edith Cavell, hàng nghìn người ở Anh, Úc, Canada đã tình nguyện đăng lính tham gia cuộc chiến chống lại phát xít Đức. Cái chết của Edith Cavell cũng đã góp phần thúc đẩy nước Mỹ đi đến tuyên chiến với phát xít Đức.
Không biết cô bé mười một tuổi ở quảng trường Trafalgar có hiểu hết được những gì mẹ cô muốn cô hiểu qua câu chuyện về Edith Cavell hay không? Có lẽ cô bé chỉ hiểu phần nào song rất có thể những gì nghe được, sẽ thôi thúc cô bé tìm hiểu về người phụ nữ anh hùng này và những người phụ nữ phi thường khác đã hi sinh cuộc sống của mình, để thế giới lật sang những trang sử mới tươi đẹp hơn.
Emmeline Pankhurst (1858- 1926) CON ĐƯỜNG TỚI HÒM PHIẾU
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Emmeline Pankhurst không phải là người phụ nữ đầu tiên đấu tranh đòi quyền bầu cử cho giới mình, càng không phải là người một tay tạo lập sự công bằng trong chính sách bầu cử của một quốc gia, song có lẽ dành gần như trọn đời cho quyền bầu cử của phụ nữ thì chỉ có bà là duy nhất.
Emmeline Pankhurst tức Emily Dufton sinh ngày 14 tháng bảy năm 1858 tại Manchester. Mặc dầu tuổi thơ của bà được bao bọc trong một gia đình khá yên ấm và bà không phải chịu những áp bức, cay đắng và khổ đau khiến nhiều người của thời bấy giờ nhận thức được sâu sắc về sự bất công trong xã hội, song từ khi còn rất bé bà đã cảm thấy thiếu một cái gì đó ngay trong chính gia đình mình. Emily xác định được sự thiếu vắng đó vào một đêm khi cha bà đi kiểm tra phòng ngủ của các con mình theo thói quen, tưởng Emily đã ngủ ông buột miệng nói: “Giá náo là con trai thì tốt”. Emily muốn bật dậy ngay tức khắc và hét lên: “Con không muốn làm con trai, con muốn làm con gái”. Sự thiếu vắng đó càng trở nên rõ ràng hơn khi bà và các anh trai của bà được gửi đến trường. Bà nhận thấy việc học hành của con trai được xem trọng hơn việc học của con gái nhiều. Cha của Emily chỉ thường bàn về việc học của các anh trai bà còn việc học của bà và chị gái thì hiếm khi được đả động tới. Bà học ở trường dành cho nữ sinh nới tất cả mọi người từ hiệu trưởng, giáo viên cho tới học sinh đều thuộc một giới và chẳng ai quan tâm tới điều đó. Ở các trường dành cho con trai nhiều môn học được giảng dậy, nhưng ở trường dành cho con gái người ta chủ yếu chỉ dạy nghệ thuật làm cho gia đình trở thành một tổ ấm hấp dẫn. Emily không hiểu tại sao chỉ con gái mới có nghĩa vụ làm điều đó.
Năm 1866 quốc hội nước Anh thông qua một dự luật được gọi là dự luật Household Franchise. Dự luật này quy định những chủ hộ mỗi năm phải nộp tô từ 10 bảng trở lên mới được quyền bầu cử quốc hội. Trong khi dự luật được đem ra thảo luận tại Hạ viện, nghị sĩ John Stuart Mill đề nghị sửa đổi nó thành một dự luật cho phép bao gồm cả những chủ hộ là phụ nữ vào diện được bầu cử, nhưng đề nghị sửa đổi này bị bác bỏ. Tuy nhiên trong dự luật được thông qua từ “male person” (người đàn ông) đã được thay thế bằng từ “man” (người), vì thế phụ nữ tin rằng luật pháp trao quyền bầu cử cho họ. Trong tổng số 8924 phụ nữ trưởng thành ở Manchester có 4215 phụ nữ cho rằng mình nằm trong diện được đi bầu cử và thông qua những luật sư danh tiếng họ đã đưa ra yêu sách của mình lên các tòa án. Yêu sách của họ bị bác bỏ nhưng phong trào đòi quyền bầu cử cho phụ nữ đã dấy lên trên khắp nước Anh.
Năm lần bẩy lượt dự luật sửa đổi bổ sung công nhận quyền bầu cử của phụ nữ được đưa ra thảo luận nhưng lần nào cũng vấp phải những trở ngại. Năm 1908 và 1910 dự luật này được đa số đại biểu quốc hội ủng hộ nhưng thủ tướng lại cản đường nó bằng cách hứa rằng, nếu năm 1911 nó lại được trình dưới hình thức là một dự luật sửa đổi bổ sung và vẫn nhận được sự ủng hộ của đa số thì sẽ được tạo mọi điều kiện để trở thành luật. Năm 1911 dự luật thỏa mãn điều kiện đó nhưng chính phủ lại giới thiệu một dự luật bầu cử chung và tuyên bố rằng quyền bầu cử của phụ nữ sẽ có thể được bổ sung vào khung của luật này. Dư luận cho rằng chính phủ cố tình trì hoãn việc thông qua dự luật thừa nhận quyền bầu cử của phụ nữ nên không cho nó cơ hội được đem ra xem xét ở Thượng Viện trong khi muốn trở thành luật mà không qua Thượng viện thì dự luật này phải trải qua ba lần thông qua ở Hạ Viện. Và như vậy tình hình cho thấy phụ nữ còn phải vượt qua những chặng đường đầy khó khăn để tới hòm phiếu.
Mười bốn tuổi Emily đã theo mẹ mình đến một cuộc họp của những phụ nữ đấu tranh đòi quyền bầu cử. Dù còn quá nhỏ để hiểu rõ bản chất của vấn đề, Emily vẫn cảm thấy bị cuốn hút bởi những bài diễn thuyết của Lydia Becker, thư ký của ủy ban Manchester và là chủ tờ báo Quyền bầu cử của phụ nữ. Emily cho rằng ngay từ ngày đó bà đã là người phụ nữ đấu tranh đòi quyền bầu cử một cách vô thức.
Năm 1889 Emily thành lập một hội liên hiệp phụ nữ đấu tranh vì quyền bầu cử mang tên Women’s Franchise League. Năm 1903 bà thành lập tổ chức đoàn kết phụ nữ mang tên Women’s Social and Political Union, một tổ chức được biết đến rộng rãi vì các hoạt động có tính chất quân sự của nó. Hiểu rằng không thể dành quyền bầu cử bằng cách kêu suông, Emily và những phụ nữ có cùng chí hướng đã nghĩ ra những hình thức đấu tranh mới. Bà vận động phụ nữ trên khắp nước Anh tham gia chiến dịch đốt thư nhằm gây sự chú ý của chính phủ. Chỉ trong vài ngày đã có 5000 bức thư trong các hòm thư bị đốt và hàng nghìn bức thư bị làm mờ địa chỉ người nhận. Các tờ báo ở các thành phố như London, Liverpool, Bristol liên tục đưa tin về hiện tượng này. Một số phụ nữ bị bắt giam vì hành động đốt thư nhưng nhà tù chỉ là nơi họ thực hiện một hình thức đấu tranh mới: Tuyệt thực. Họ tuyệt thực cho tới khi nhà chức trách buộc phải thả họ ra. Năm 1913 cuộc đấu tranh du kích của những người phụ nữ đòi quyền bầu cử trở nên mạnh mẽ và kiên quyết hơn bao giờ hết. Kinh nghiệm đấu tranh dạy họ rằng chính phủ sẽ không chịu khuất phục trước lẽ phải và sự công bằng nhưng sẽ chịu nhân nhượng vì lợi ích sát sườn. Những người phụ nữ trong tổ chức của Emily đã thực hiện đốt cỏ các sân gôn, cắt dây điện thoại khiến liên lạc giữa các thành phố bị gián đoạn nhiều giờ… nhằm chỉ cho chính phủ thấy lợi ích thực tế giờ đây chính là đáp ứng những yêu sách của phụ nữ.
Cuộc đấu tranh của những người phụ nữ đòi quyền bầu cử đang lên đến cao trào thì cuộc chiến tranh thế giới lần nhất nổ ra. Emily tạm gác chương trình đấu tranh vì quyền bầu cử để dành tâm sức cho những hoạt động ái quốc. Bà vận động chi em trong tổ chức đảm nhận công việc của đàn ông tại các xí nghiệp. Bà tổ chức một cuộc tuần hành với sự tham gia của 30 nghìn phụ nữ nhằm khuyến khích các nhà công nghiệp cho phép phụ nữ thay thế công việc của đàn ông trong các công xưởng. Chính vì hoạt động này mà nước Anh đã huy động được tối đa lực lượng nam giới lên đường chiến đấu.
Năm 1918 đánh dấu sự thay đổi lớn trong luật bầu cử nước Anh. Vào ngày 24 tháng Một các dự luật sửa đổi bổ sung về bầu cử bắt đầu được đưa ra tranh luận tại quốc hội. Các phiên tranh luận diễn ra vô cùng căng thẳng và quyết liệt. Trong khi các đại biểu tranh luận trong hội trường thì hàng nghìn phụ nữ đứng ngoài đường phố căng thẳng chờ đợi kết quả. Cuối cùng với nỗ lực của những đại biểu bênh vực công bằng và lẽ phải, vào tháng Ba luật pháp nước Anh đã chính thức thừa nhận quyền bầu cử của phụ nữ. Dù luật ban hành quy định chỉ phụ nữ trên 30 tuổi mới có quyền tham gia bầu cử thì phụ nữ Anh vẫn coi đó là một thắng lợi lớn. Bảy tháng sau nước Anh ban hành điều luật cho phép phụ nữ trên 21 tuổi được quyền ứng cử đại biểu quốc hội, nghĩa là phụ nữ chưa đủ tuổi bầu cử vẫn có thể ứng cử vào quốc hội.
Vào thời kỳ đó đối với mỗi phụ nữ Anh việc cần lá phiếu trong tay đi bầu cử là một điều hết sức thiêng liêng. Có nhiều phụ nữ đã khóc khi lần đầu tiên được bước gần tới hòm phiếu. Và có lẽ Emily là người vui sướng nhất trong số những phụ nữ ấy. Cùng với biết bao người phụ nữ trên khắp đất nước, bà đã đấu tranh quên mình để đòi quyền bầu cử cho phụ nữ. Chắc hẳn bà không có gì phải hối tiếc khi nghĩ lại những lần bà bị bắt giam, những lần bà tuyệt thực trong tù được thả ra chỉ để hồi phục sức khỏe rồi lại vào tù, tiếp tục đấu tranh. Chắc hẳn bà cũng không có gì phải hối tiếc về cuộc đời bởi bà đã sống đủ lâu để được thấy cuộc đấu tranh của phụ nữ Anh đi đến kết quả trọn vẹn. Vào năm 1926, vài tuần trước khi Emily qua đời ở tuổi 69, nước Anh thông qua một đạo luật mới quy định nam giới và phụ nữ đều được hưởng những quyền lợi như nhau trong bầu cử.
Marie Curie (1867- 1934) VĨ NHÂN TỪ PHÒNG THÍ NGHIỆM
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vào những đêm đông giá lạnh của những năm giữa thập kỷ 90 đến thế kỷ XIX trên căn phòng áp mái tại khu Quatier Latin ở thủ đô Paris V, có một người con gái miệt mài bên những trang sách đến quên cả rét buốt. Những người ở cùng khu trọ chỉ biết rằng đó là một cô sinh viên đến từ Ba Lan chứ không ai dám đoán trước được rằng người con gái ấy về sau lại trở thành một con người vĩ đại. Đó chính là Marie Curie.
Tên thời con gái của Marie Curie là Marie Sklodowska. Bà sinh ngày 7 tháng Mười năm 1867 tại Warsaw, Ba Lan, trong một gia đình nhà giáo nghèo. Trong kí ức tuổi thơ của bà có những hình ảnh đau buồn về cái chết của người em gái và người mẹ trẻ. Với trí thông minh và tính siêng năng, Marie quyết tâm học tập để thực hiện ước mơ trở thành nhà khoa học mặc dù theo quan niệm thời bấy giờ một phụ nữ theo đuổi khoa học là điều không thể chấp nhận được.
Cả Marie và chị gái Bryon của bà đều mơ ước được tới Paris học trường Sorbonne. Trong khi hoàn cảnh gia đình không cho phép họ thực hiện ước mơ đó, hai chị em họ đã thỏa thuận với nhau rằng Marie sẽ đi dạy kèm để kiếm tiến cho Bryon đi Paris trước. Sau khi Bryon tốt nghiệp, có việc làm, sẽ chu cấp lại cho Marie ăn học. Chính vì thế mà tới tận năm hai tư tuổi Marie mới có cơ hội bước chân vào cổng trường Sorbonne.
Được học tập tại một trường đại học danh tiếng của một đất nước sản sinh ra những nhà khoa học hàng đầu thế giới là một niềm vui lớn giúp Marie vượt qua mọi khó khăn. Mặc dù khi mới vào trường, tiếng Pháp của Marie chưa được tốt, sau ba năm bà vẫn vượt qua tất cả các kì thi của sinh viên khoa vật lý và khoa toán với kết quả xuất sắc. Sau khi tốt nghiệp, bà dự định học lấy bằng sư phạm rồi trở về Ba Lan làm việc. Nhưng duyên phận giữa bà và Pierre Curie, nhà khoa học chuyên nghiên cứu về tinh thể, đã giữ bà ở lại Paris mãi mãi.
Marie và Pierre tổ chức đám cưới vào tháng Bảy năm 1895. Sau khi kết hôn, Marie tiếp tục hoàn thành chương trình đào tạo sư phạm, và với sự khuyến khích của chồng, bà quyết định theo đuổi học vị tiến sĩ vật lý.
Trong lúc Marie đang tìm đề tài nghiên cứu thì một sự kiện xảy ra đã có ảnh hưởng quyết định đến sự nghiệp của bà. Lúc bấy giơ Henri Becquerel, nhà khoa học đang miệt mài với những thí nghiệm về tia X- quang, quan sát thấy một hiện tượng đáng chú ý liên quan đến phóng xạ. Trong khi đem chất hỗn hợp urani ra phơi để xem chất phóng xạ này có liên quan gì đến hiện tượng phát quang hay không, Becquerel đã tình cờ phát hiện ra một loại phóng xạ mới có thể xuyên qua lá kim loại và làm đen tấm kẽm chụp ảnh. Ngay hôm sau ông trình bày về phát hiện này tại một cuộc họp của các nhà khoa học. Nhưng, người ta chỉ im lặng nghe theo phép lịch sự chứ không thực sự chú ý đến thông tin ông đưa ra.
Marie thì khác. Phát hiện tình cờ của Becquerel đã lập tức thu hút sự quan tâm của bà.
Bà bắt tay ngay vào nghiên cứu. Chỉ sau một thời gian ngắn bà đã chứng minh được rằng hiện tượng phóng xạ không phải là kết quả của phản ứng hóa học mà là thuộc tính của nguyên tử. Đi sâu nghiên cứu quặng uranit, gốc chính của urani, bà đo được tính phóng xạ mạnh hơn nhiều so với tính phóng xạ của riêng urani. Marie suy ra rằng, ngoài urani còn có những nguyên tố khác có tính phóng xạ cao.
Đánh giá được triển vọng to lớn trong nghiên cứu của Marie, Pierre đã gác lại công việc nghiên cứu tinh thể của mình để giúp Marie thực hiện các thí nghiệm. Họ tiến hành các thí nghiệm trong điều kiện cực kỳ khó khăn và thiếu thốn. Phòng thí nghiệm của họ là một nhà kho tồi tàn, chật hẹp. Vào mùa đông nhiệt độ trong phòng thí nghiệm thường xuống tới sáu độ. Một nhà hóa học đã tả lại phòng thí nghiệm ấy như sau: “Trông nó giống như một cái chuồng ngựa hay một cái hầm chứa khoai tây hơn là một phòng thí nghiệm”. Khó khăn hơn, hai vợ chồng Curie thường phải thực hiện các thí nghiệm vào ban đêm bởi ban ngày họ phải đi dạy để kiếm sống.
Cuối cùng những nỗ lực của họ đã được đền đáp xứng đáng. Cuối tháng Sáu năm 1898 họ đã tìm ra một chất có tính phóng xạ cao gấp 300 lần tính phóng xạ của urani. Họ đặt tên cho nguyên tố này là radium. Năm 1903, cùng với Becquerel, Marie và Pierre Curie được trao giải Nobel vật lý cho công lao phát hiện ra phóng xạ tự nhiên. Năm 1911, bà vinh dự được nhận giải Nobel lần thứ hai. Lần này giải Nobel được trao cho những đóng góp của bà trong việc xác định khối lượng nguyên tử của Radium.
Marie Curie không dừng lại ở việc phát hiện ra chất phóng xạ, bà còn đi tiên phong trong việc sử dụng chất phóng xạ để điều trị bệnh ung thư. Cùng với Pierre bà đã tiến hành thí nghiệm phóng xạ trên chính cơ thể mình. Nhiều lần họ đắp chất phóng xạ lên cánh tay, chấp nhận những vết bỏng để đi đến kết luận rằng chất phóng xạ có thể tiêu diệt các tế bào trong các khối u ác tính. Phương pháp này đã được áp dụng trên khắp thế giới từ hơn một trăm năm nay. Dù không phải trong trường hợp nào nó cũng có thể giúp bệnh nhân thoát khỏi căn bệnh nan y và có những trường hợp người bệnh thậm chí phải gánh chịu những tác dụng phụ ngoài mong muốn, song không thể phủ nhận một điều rằng: Cho tới nay nó vẫn là một số ít sự lựa chọn thuộc tầm tay của y học. Và vì vậy, nó làm niềm hy vọng lớn của cả bệnh nhân và bác sĩ trong cuộc chiến đầy cam go với tử thần.
Marie Curi không chỉ đóng góp cho nền khoa học thế giới những phát hiện quan trọng, mà còn là người thầy đào tạo nên nhiều nhà khoa học nổi tiếng trong đó có con gái Irène của bà, người đã được trao giải Nobel vì phát hiện ra phóng xạ nhân tạo. Marie Curie từng là viện trưởng của Học viện phóng xạ mang tên bà ở Paris. Với hơn năm trăm nhà nghiên cứu và gần một nghìn bác sĩ, học viện này là cái nôi đào tạo những chuyên gia điều trị ung thư có uy tín và là trung tâm phát triển và ứng dụng phương pháp xạ trị hàng đầu thế giới.
Marie Curie đã cống hiến cho khoa học đến hơi thở cuối cùng. Những người gần gũi bà kể rằng trong những ngày tháng cuối đời, bà hầu như kiệt sức, gần như bị mù, và bị chất phóng xạ làm cháy xém các ngón tay. Hai mươi ba năm sau ngày Marie Curie nhận giải thưởng nobel lần thứ hai, bà từ giã cõi đời. Ghi nhận và tôn vĩnh những cống hiến to lớn của bà, người ta đã đặt di hài của bà trong tòa lăng mái vòm nổi tiếng ở thủ đô Paris bên cạnh di hài của chồng bà và di hài của các bậc vĩ nhân của thời đại như nhà văn Victor Hugo, nhà hoạt động chính trị lỗi lạc Jean Jaurès, v.v…
Julia Morgan (1872-1957) NGƯỜI PHỤ NỮ VỚI NHỮNG CÔNG TRÌNH KIẾN TRÚC ĐỂ ĐỜI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Năm 1896, Julia Morgan, cô gái hai sáu tuổi người San Francisco, nữ kĩ sư duy nhất vừa tốt nghiệp đại học California, nghe tin đồn trường mĩ thuật danh tiếng Ecole des Beaux ở Paris có thể tiếp nhận sinh viên nữ. Thế là cô háo hức lên đường tới nước Pháp.
Trường Ecole des Beaux chưa từng có tiền lệ nhận các sinh viên nữ vì vậy Julia Morgan bị từ chối. May mắn thay nhờ có sự giới thiệu của một nhân vật có tên tuổi trong ngành mĩ thuật, đặc biệt là Jean Louis Pascal, người giành giải Grand Prix năm 1866 và là người phụ trách một xưởng điêu khắc nổi tiếng, lãnh đạo trường Ecole des Beaux mới lưu ý tới cô. Họ nói rằng sẽ nhận cô vào học với điều kiện cô phải vượt qua kì thi tuyển sinh.
Cô gái đến từ nước Mĩ Julia Morgan đã xuất sắc vượt qua kì thi. Một thành tích đầy thuyết phục, đưa cô vào giảng đường của trường Ecole des Beaux. Tuy nhiên, cô chỉ được nhận vào lớp Nhị.
Trong hai năm học Julia được tuyên dương 17 lần, được nhận hai huy chương vàng cho thành tích về toán học, kiến trúc và thiết kế. Tháng Tám năm 1900 cô được chuyển lên lớp Nhất. Mặc dù đạt được những kết quả nổi bật ở lớp Nhất, Julia chỉ có thể theo học thêm hai năm bởi lúc đó, cô đã quá tuổi được chấp nhận tại trường Ecole des Beaux. Julia Morgan ra trường và bắt đầu làm việc như một kiến trúc sư thực thụ.
Năm 1903 Julia trở về Mĩ và cộng tác với kiến trúc sư nổi tiếng John Galen Howard trong một loạt các dự án lớn như dự án thiết kế nhà hát Hearst Greek, tòa nhà Hearst Mining. Một năm sau bà mở văn phòng riêng ở San Francisco và mau chóng được giới mĩ thuật chú ý với dự án thiết kế tháp chuông Mills College ở Oakland. Bà cũng nhận thiết kế các công trình xây dựng cho nhiều khách hàng ở khu Piedmont, Claremont and Berkeley. Trận động đất lớn xảy ra ở San Francisco vào năm 1906 đã san phẳng văn phòng của bà, nhưng lại mang lại cho bà vô số công việc trong thời gian sau đó.
Năm 1919, Julia Morgan được trùm tư bản William Randolph Hearst chọn làm kiến trúc sư thiết kế lâu đài Hearst. Nhà tư bản này muốn xây dựng tòa lâu đài trên một đỉnh đồi hướng ra cảng San Simeon để tưởng nhớ người mẹ của mình và ông muốn tòa lâu đài phải là một công trình kiến trúc kết hợp tất cả tinh hoa kiến trúc mà ông ưa thích trong cả cuộc đời. Julia Morgan đã phải làm việc miệt mài trong suốt hai mươi năm với dự án này và mặc dù vào cuối những năm 30 tình hình tài chính của William Randolph Hearst xấu đi khiến cho việc xây dựng không đáp ứng được 100% thiết kế, tòa lâu đài Hearst vẫn là một công trình kiến trúc nổi tiếng. Cùng với việc thiết kế lâu đài Hearst, Julia đã thiết kế hơn mười công trình kiến trúc khác cho Hearst như quần thể kiến trúc Wyntoon, một ngôi làng được xây dựng trên một khu vực rộng 50.000 ha bên bờ sông McCloud, hay khu nhà nghỉ dành cho người đi săn mang tên Jolon nằm cách lâu đài Hearst ba mươi dặm.
Ngoài các công trình kiến trúc liên quan đến William Randolph Hearst, Julia Morgan cũng nổi tiếng với những công trình kiến trúc tôn giáo. Tiêu biểu cho những công trình đó phải kể đến nhà thờ thánh John ở Berkeley, nhà thờ mang tên Chapel of Chimes ở Oakland, nhà thờ Lakeside Baptist.
Đa số các thiết kế của Julia Morgan mang đậm phong cách kiến trúc Địa Trung Hải phóng khoáng. Bà ưa sử dụng ngói màu để trang trí mái cho các công trình và thường chọn màu trắng cho các bức tường khiến cho các công trình bà thiết kế luôn mang vẻ trang nhã, duyên dáng và dễ hòa hợp với cảnh quan.
Morgan đã sống 85 năm của đời mình với phần lớn thời gian dành cho những bản thiết kế các công trình kiến trúc. Không biết trong lúc thực hiện các thiết kế ấy bà có tham vọng đại diện phái yếu của thời mình lập nên một tượng đài trong lĩnh vực kiến trúc hay không, song thực tế đã chứng minh những công trình do bà thiết kế là những công trình để đời. Các công trình ấy tồn tại vượt thời gian để người ta mãi nhắc đến người đã sáng tạo ra chúng.
Amelia Mary Earhart (1897-?) MỘT MÌNH VƯỢT ĐẠI TÂY DƯƠNG
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Trong lịch sử chinh phục bầu trời cái tên Amelia Mary Earhart không chỉ khiến người ta thán phục mà còn gợi bao sự tò mò. Người phụ nữ ấy đã dũng cảm mở đường cho phái yếu chinh phục những đường bay quốc tế để rồi biến mất không một dấu vết để lại biết bao những phỏng đoán và cả những huyền thoại cho những thế hệ sau.
Amelia Mary Earhart sinh ngày 24 tháng Bảy năm 1897 tại Atchison, Kansas, trong một gia đình có truyền thống làm nghề luật sư. Khi còn nhỏ Amelia là một cô bé tinh nghịch, thường thích những trò như trèo cây, săn chuột v.v…
Sau khi tốt nghiệp trường trung học Hype Park, Amelia đến Canada. Bà tham dự một lớp đào tạo hộ lí rồi ra làm việc tại viện quân y ở Toronto. Năm 1919 bà bắt đầu theo học tại đại học Colombia nhưng chỉ học được một năm bà quyết định bỏ học.
Trong một chuyến thăm triển lãm hàng không ở Long Beach với cha mình, Amelia lần đầu tiền nếm trải cảm giác được ngồi trên máy bay và trải nghiệm đó khiến bà vô cùng thích thú. Bà quyết định theo học lớp huấn luyện phi công tại phi trường của Kinner. Sáu tháng sau bà mua một chiếc máy bay của nhà sản xuất Kinner và đặt tên cho nó là Canary. Bà mau chóng trở thành người phụ nữ thứ 22 trên thế giới được cấp bằng lái máy bay.
Ngày 22 tháng Mười năm 1922, Amelia đã lập kỉ lục bay của nữ phi công với thành tích bay ở độ cao 140.000 fit (4267m). Không lâu sau Amelia bán chiếc Canary và chuyển tới Boston. Ở đó bà đầu tư tiền vào hãng sản xuất máy bay Kinner đồng thời tham gia viết báo để quảng bá máy bay cho Kinner và khuyến khích phụ nữ tham gia chinh phục các đường bay.
Năm 1928 Amelia nhận lời thực hiện chuyến bay đầu tiên do phụ nữ lái vượt Đại Tây dương. Cùng thực hiện chuyến bay với bà có phi công Wilmer Stultz và thợ máy Louis Gordon. Trong chuyến bay này chiếc Fokker F7 cất cánh từ Trepassey Harbor, ở Newfoundland và ngày 17 tháng Sáu năm 1928, và sau 21 giờ bay đã hạ cánh xuống cảng Burry ở xứ Wales. Amelia đã viết trong nhật ký chuyến bay: “Nếu ai nhìn thấy chiếc máy bay này rơi thì hãy hiểu rằng thất bại này là do tôi đã bị lạc trong cơn giông mất một giờ”. Tuy nhiên chiếc Fokker F7 đã trở về an toàn trong sự đón chào hân hoan của cả nước Mĩ.
Sau khi kết hôn với nhà báo George Putnam, người phụ nữ đầu tiên lái máy bay vượt Đại Tây Dương đã lập kỉ lục bay mới ở độ cao 5613m.
Năm 34 tuổi, Amelia với chiếc máy bay một động cơ mang tên Lockheed Vega quyết định thực hiện một chuyến bay duy nhất một người lái tới Paris, nhưng vì tuyết rơi nên máy bay của bà buộc phải dừng ở Bắc Ireland. Với thành tích một mình lái máy bay qua Đại Tây Dương, Amelia được tổng thống Mĩ Herbert Hoover trao tặng huy chương vàng của Hội địa lý quốc gia.
Năm 1935 sau các chuyến bay một mình từ Honolulu, Hawaii đến Oakland, California, từ Los Angeles đến Mexico City, Amelia được mời vào làm việc ở đại học Purdue với tư cách là chuyên gia cố vấn cho các nữ sinh viên khám phá những lĩnh vực mới. Năm 1936 đại học Purdue cung cấp tài chính cho Amelia chuẩn bị chuyến bay vòng quanh thế giới với chiếc máy bay mang tên Lockheed L-10E Electra. Đó không phải là chuyến bay vòng quanh thế giới đầu tiên nhưng nó được dự định là chuyến bay dài nhất với tổng đường bay gần 47.000km. Fred Noonan, một chuyên gia dày dạn kinh nghiệm cả về đường biển và đường không được chọn làm hoa tiêu cho Amelia Earhart.
Ngày 17 tháng Ba năm 1937, Amelia và Fred Noonan bắt đầu hành trình vòng quanh thế giới. Chặng bay đầu tiên của họ bắt đầu từ Oakland, California đến Honolulu, Hawaii. Họ nghỉ ba ngày rồi bắt đầu chặng hai. Bắt ngờ trong khi cất cánh, máy bay đã bị nổ lốp khiến họ phải quay về California để sửa chữa. Vào ngày mùng 1 tháng Sáu năm 1937 họ bay từ Miami đến Nam Mĩ, rồi đến Châu Phi, Ấn Độ, Đông Nam Á, và Lae ở New Guinea, đảo lớn thứ hai của Australia. Đến được Lae, Amelia và người hoa tiêu của bà đã bay được tổng số 35.000 km và còn phải hoàn thành nốt 11.000 km đường bay nữa.
Này mùng 2 tháng Bảy năm 1937 máy bay của họ cất cánh từ Lae. Họ dự định bay tới đảo Howland ở phía tây nam Honolulu, Hawaii cách Lae 4113 km. Nhận được thông báo của họ, tàu tuần tra của Mĩ ở Howland đã chuẩn bị sẵn sàng để hướng dẫn chiếc Lockheed L-10E Electra hạ cánh.
Nhưng người ta đã không bao giờ được thấy chiếc máy bay của Amelia hạ cánh xuống Howland và cũng không bao giờ biết chắc nó đã hạ cánh xuống bất cứ đâu khác. Lần liên lạc thành công cuối cùng với chiếc Electra cho thấy nó đang bay phía trên đảo Nukumanu. Chính phủ Mĩ đã bỏ ra 4 triệu đô la để tìm kiếm Amelia nhưng do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, cuộc tìm kiếm tốn kém và căng thẳng vào bậc nhất trong lịch sử ấy đã không đem lại kết quả.
Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng máy bay của Amelia đã đâm xuống biển do hết nhiên liệu. Có giả thuyết cho rằng Amelia đã cho máy bay hạ cánh xuống đảo Gardner và bỏ mạng ở đó. Một giả thuyết khác cho rằng chiếc Electra đã rơi vào tay phát xít Nhật. Lại có người cho rằng Amelia và Noonan đã bay trở về Mĩ và sống cuộc đời bình lặng dưới những cái tên mới. Cho đến nay sự biến mất của Amelia Earhart và người hoa tiêu của bà vẫn còn là một bí ẩn.
Cho dù biến mất vì nguyên nhân gì thì người phụ nữ độc lập, quả cảm trong lựa chọn sự nghiệp, khát khao khẳng định sức mạnh, và quyết tâm ấy vẫn được cả nước Mĩ và thế giới ngưỡng mộ. Để tưởng nhớ Amelia Earhart người ta đã dựng một ngọn hải đăng mang tên bà ở đảo Howland. Từ ngoài khơi cách đảo gần chục dặm, những người đi biển có thể nhìn thấy ngọn hải đăng này dẫn đường cho họ tới bến đỗ của những con tàu.