Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 17-07-2009   #1
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.123
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
118 Thánh Tử Đạo Việt Nam

.:: Danh Mục ::. .

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
cong danh (17-07-2009), Dương Nghiệp (17-07-2009)
Cũ 17-07-2009   #2
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.123
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Trong lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, ước tính có đến hàng trăm ngàn người đã làm chứng đức tin Kitô Giáo, trong số đó có 118 Thánh Tử đạo, với 117 vị được Giáo hoàng Gioan Phaolô II phong Thánh ngày 19 tháng 6 năm 1988 và Á Thánh An-rê Phú Yên, phong Chân phước ngày 5 tháng 3 năm 2000

1. Anrê Trần An Dũng Lạc (1795 – 1839)

Anrê Trần An Dũng Lạc, Sinh ra trong một gia đình ngoại giáo ở Bắc Ninh năm 1795, Trần An Dũng theo cha mẹ vào Kẻ Chợ, nay là Hà Nội. Sau đó cậu được gán cho một thày giảng nuôi nấng dạy dỗ và rửa tội với tên Thánh là Anrê. Chịu chức Linh mục ngày 15-3-1823, bị xử trảm ngày 21/12/1839 tại Ô Cầu Giấy dưới đời vua Minh Mạng, được phong Chân Phước ngày 27/05/1900 do Ðức Lêô XIII. Lễ kính ngày 21 tháng 12.

Ngài là một nhà truyền giáo kiên trì không biết mệt, bằng lời nói và việc làm, tại nhiều giáo xứ cho đến khi bị bắt năm 1835. Giáo dân của ngài quyên góp đủ tiền để chuộc ngài. Sau đó ngài đổi tên từ Dũng thành Lạc để che dấu căn cước, và rời sang một vùng khác để tiếp tục sứ mạng.

Trước hết Cha Dũng được sai đi giúp Cha Khiết ở Ðồng Chuối rồi giúp Cha Thi ở xứ Ðoài và Cha Duyệt ở Sơn Miêng. Sau đó Ðức Cha cử ngài làm chính xứ Kẻ Ðầm lúc ngài 40 tuổi. Ở đâu Cha Dũng cũng được mọi người quí mến vì ngài đối xử khôn khéo lại giảng đạo sốt sắng. Ngài rất nhiệm nhặt trong việc ăn mặc, Mùa chay, ngài ăn chay mọi ngày, nhiều khi cả những ngày thứ Tư và thứ Sáu trong năm nữa. Trong thời kỳ bị cấm đạo Cha Dũng phải trà trộn ở trong nhà giáo dân, nếu họ dọn cơm thịt hay cá lớn thì ngài trách: “Ðừng làm như vậy, hãy mua tôm tép như thường dân khác mà ăn”.

Cha Dũng còn có lòng thương giúp những người nghèo túng. Khi được mời đi kẻ liệt, ngài đi một mình để tránh cho các thầy khỏi bị bắt. Khi không đi làm phúc được, Cha Dũng thường sai các các thầy đi các nơi để thăm hỏi và khuyên bảo giáo dân tìm đến ngài mà xưng tội. Lúc ngài coi xứ Kẻ Ðầm thì các nhà chung đã phải rỡ hết.

Năm 1835 ông Lý Nhâm vì ghét Tổng Thìn là người có đạo, muốn cho ông phải tội đã đem lính đến bắt Cha Dũng cùng với 30 giáo dân đang xem lễ ở Kẻ Sui. Ông Tổng Thìn phải đưa 6 nén bạc cho quan huyện Hào Khánh ở Ðôn Thư xin liệu việc với quan phủ cho khỏi án. Quan huyện lấy 4 nén còn hai nén cho người nhà quan phủ và trình rằng: “Cậu tôi về xem lễ ở Kẻ Sui mà quan bắt thì xin tha”.

Cha Dũng được tha về còn những người khác bị giam lại 21 ngày. Sau đó Cha Dũng phải đổi tên là Lạc vì quan quân đã biết tên ngài. Cha Lạc thường hay xuống tỉnh Nam Ðịnh thăm viếng an ủi các giáo dân bị bắt. Ngài nói với những người khác rằng: “Những người chết vì đạo thì được lên thiên đàng ngay, còn tôi cứ phải ẩn trốn và mất nhiều tiền bạc mới thoát khỏi tay các quan, thà rằng tôi bị bắt và chết vì đạo thì hơn”.

Sau 7 năm làm cha Sở Kẻ Ðầm, khoảng 4 năm sau lần bị bắt trước, Cha Lạc bị bắt lại ngày 10-11-1839, khi ngài sang thăm và xưng tội với Cha già Thi ở Kẻ Sui. Ông Lý Pháp không biết Cha Lạc nên có nhiều người dục ngài trốn đi, nhưng ngài nói: “Phó mặc cho ý Thiên Chúa, đây sẽ là lần thứ hai tôi bị bắt vì Chúa Giêsu Kitô”.

Vì vậy khi Lý Pháp hỏi ngài có phải là cụ đạo không, ngài nhận ngay nên bị bắt trói lại. Giáo dân muốn có cha giúp đỡ phần thiêng liêng cho họ nên đã phải chạy tiền mới xin cho Cha Lạc được tự do. Cha Lạc dùng thuyền về nhà nhưng trên đường gặp mưa gió lớn phải đến một nhà quen trú ẩn. Cũng lúc đó, vì nghe Lý Pháp bắt được cụ đạo nên quan huyện đang dẫn người đi tới. Người nhà thấy vậy vội hô lên nho nhỏ để người chèo thuyền không ghé lên bờ: “Quan! Quan!”

Nhưng người chèo thuyền lại nghĩ là người ta nói đùa nên cứ ghé lên bờ. Cha Lạc liền bị chận hỏi, ngài nhận mình là cụ đạo nên bị bắt trói còn những người khác chạy trốn được. Ðêm ấy Cha Lạc ngồi nói chuyện vui vẻ với linh canh và người nhà quan. Cha nói: “Vua cấm đạo và Ðức Chúa Trời định cho tôi phải bắt, tôi không sợ gì, trái lại vui nữa là khác”.

Sáng hôm sau quan ngồi ăn một mâm, Cha Lạc cũng ngồi ăn một mâm, quan nói: “Ông ngồi một mình một mâm thì cũng là quan bên đời”.

Trước khi đưa về huyện, quan sai làm gông bằng tre nhẹ đeo vào cổ Cha Lạc.

Về tới huyện Bình Lục, quan nói với Cha Lạc: “Tôi không có ý bắt ông nhưng kẻ tố giác cứ lên cáo mãi nên tôi phải đi”.

Cha Lạc thưa lại: “Ông không có ý bắt tôi thì hãy tha tôi về”.

Quan đáp: “Bây giờ sự việc đã lộ rồi không làm gì được nữa”. Quan nói như vậy là có ý muốn ăn tiền đút lót, nên giáo dân lo gom góp tiền, và ông Cửu Bình cũng muốn cầm cả cơ nghiệp để có đủ tiền chuộc cha về, ông viết thư cho ngài: “Thưa cha, cha chịu chết thì một mình cha lên thiên đàng, mà nếu cha còn ở lại thì bổn đạo chúng con được nhờ, vậy xin cha nghĩ lại”. Nhưng cha Lạc đã cấm họ đem tiền chuộc, cha nói: “Tôi bị bắt lần này là lần thứ ba, thì đó đúng là thánh ý Chúa định cho tôi như vậy, anh chị em đừng mất tiền chuộc tôi làm gì”.

Ðức Cha Retord (Liêu) cũng sai Thầy Sự mang 5 nén bạc đi chuộc Cha Thi và Cha Lạc, đức cha nói: “Hai cụ ấy tốt lắm, có thể chuộc được thì chuộc”.

Cha Lạc nói lại với Thầy Sự: “Thầy nghĩ mà xem, tôi cũng như Thánh Phêrô, khi phải bắt lần trước được giáo dân cầu nguyện cho và được về, lần thứ hai giáo dân cũng lo liệu cho được thoát khỏi, nhưng ý Chúa đã định cho tôi phải chết vì Người như thánh Phêrô, thì nói bổn đạo đừng chuộc tôi nữa”.

Quan huyện lấy lời ngọt ngào dụ dỗ hai cha quá khóa, với Cha Lạc ông nói: “Thầy đạo, thầy biết nhiều chữ nghĩa và còn trẻ nữa thì tại sao lại muốn chết, có phải là uổng không? Hãy tin tôi đi, nhắm mắt lại bước qua ảnh thánh hoặc chỉ đi vòng chung quanh, nếu thầy muốn thì để cho lính của tôi khiêng thầy qua, tôi sẽ làm án tha ngay”.

Cha Lạc dõng dạc thưa lại: “Tôi không bao giờ làm theo ý quan vừa nói đâu. Hãy khép án tôi phải cắt trăm mảnh thì hơn”.

Không lay chuyển được lòng hai cha, quan huyện làm tờ trình là bắt được hai cha ở ngoài ruộng để không ai bị phiền vạ lây, rồi dẫn giải cả hai về Hà Nội giao cho quan án. Về sau Cha Lạc sai người nhà mang rượu và 100 viên thuốc biếu quan huyện để cám ơn ông đã khai như vậy.

Với giáo dân đi theo tiễn đưa khóc lóc, Cha Lạc nói: “Chúng tôi cám ơn anh chị em, anh chị em hãy về nhà và sốt sắng làm tôi thờ phượng Chúa cũng như là chúng tôi còn ở giữa anh chị em. Than khóc như thế này không có ích lợi gì mà còn tăng thêm sự phiền khổ cho chúng tôi”.

Ngay ngày hôm sau khi vào nhà tù ở Hà Nội, ngày 17-11, các quan bắt đầu cuộc thẩm vấn, chính Cha Lạc thuật lại trong thơ gởi cho Ðức Cha Jeantet như sau: “Ngày 17, quan đã giao nộp chúng con cho quan án để truyền lệnh bắt chúng con bước qua ảnh thánh giá. Vì chúng con từ khước nên năm sáu anh linh xấn lại khiêng chúng con qua. Cha Thi đã ôm được thánh giá nhấc lên và hôn kính. Phần con, con cho chân lên rất cao và nói với họ: “Hãy chặt bớt chân ta đi, ta rất bằng lòng chứ đừng hòng trông ta chối đạo”.

Sau đó quan lại hỏi vì sao đạo không cho phép thờ kính tổ tiên. Con đáp lại: “Nếu có ai chào khi cha mẹ đang ngủ thì không có kể là tôn kính bởi vì các ngài không biết gì. Cũng một lẽ ấy còn mạnh hơn đối với người đã chết”.

Ngày 19 các quan lại gọi chúng con ra tòa lần thứ hai để ép buộc chúng con. Lần này họ bắt con đeo gông nặng hơn, và ngày 21 lại thay bằng xiềng. Xiềng của Cha Thi nhẹ hơn. Bốn ngày đầu con cứ chảy nước mắt hoài khi nghĩ đến các cha thừa sai và các anh em con. Nhưng từ ngày 15 tới nay thì con vui vẻ và bằng lòng, coi các khổ cực như không. Con thương Cha Thi vì tuổi cao không kham nổi những khốn khổ. Chúa đã thêm sức cho chúng con để không lo lắng gì nữa”.

Ðức Cha Jeantet viết thư cho hai cha để nâng đỡ các ngài bền gan chịu khổ cho đến cùng và xin Cha Lạc thuật lại các câu đối đáp với các quan. Cha Lạc đã viết thư trả lời: “Thưa Ðức Cha, khi chúng con được thư đức cha an ủi thì cảm động chảy nước mắt ra. Chúng con là gì mà được các cha thương lo lắng. Chúng con không biết nói sao cho hết lòng biết ơn của chúng con. Riêng với đức cha, xin đức cha cầu cùng Chúa cho chúng con được giữ nghĩa cùng Chúa cho đến cùng. Chúng con đã viết tất cả những gì xảy ra cho chúng con trong tù cho đến bây giờ, con vẫn phải đối đáp những lời châm biếm của các người tù khác châm biếm đạo thánh. Con xin đức cha thương nhớ đến chúng con. Trong nhà tù rất khó viết thư cũng như nhận thư. Con không còn gì để viết. Vững mạnh như núi thái. Trần An Dũng”.

Ngày 30-11, các quan cho đòi hai cha lên để ký nhận bản ản. Tuy nhiên các quan còn cố ép các cha quá khóa. Một người nhắc đến việc Thầy Phanxicô đã muốn chết hơn là chối đạo. Cha Lạc nhân cơ hội nói lên sự can đảm của mình: “Người tín hữu mà quan vừa nói chỉ là một đồ đệ của chúng tôi, đã biết chọn nghĩa vụ hơn là sự sống. Còn chúng tôi là các thầy đạo lại kém lòng can đảm hơn không dám đi theo con đường chúng tôi đã vạch ra cho họ sao? Không bao giờ, thưa các quan, các quan đừng chờ đợi việc hèn nhát này”.

Các quan bế mạc phiên tòa nói với nhau: “Bọn chúng bám vào tôn giáo đến nỗi điên khùng”.

Ba lần bị tra khảo nhưng các ngài không bị đánh đập tàn nhẫn, chỉ một vài cái tát mà thôi. Cha Lạc làm một bài thơ gửi cho Cha Thực nói lên chí khí của người Kitô:

Lạc rầy đã rõ chốn quân quan.

Bút chép thơ này gửi thở than.

Lòng nhớ bạn non còn vất vả.

Dạ thương khách chạy chưa yên hàn.

Ðông qua tiết lại thời xuân tới.

Khổ tạm mai sau hưởng phúc an.

Làm kẻ anh hùng chi quản khó.

Nguyện xin cùng gặp chốn thanh nhàn.

Tuy không phải chịu khốn khổ nhiều nhưng lòng các cha hằng muốn cho mình được xứng đáng đổ máu đào vì Chúa. Các ngài xin với những người nhà cầu nguyện để các ngài được bền vững trong khi chờ án tử. Các quan đã làm án xử trảm cho các ngài. Ngày 20 Cha Trân mang Mình Thánh Chúa cho hai cha. Ngày hôm sau bản châu phê án được mang về tới Hà Nội. Cha Dũng cùng với Cha già Thi vui mừng hát thánh ca theo chân lý hình ra khỏi thành. Tới nơi, các ngài quì cầu nguyện, ngước mắt lên trời và nghiêng cổ ra cho lý hình chém. Nhiều người làm chứng là đã nhìn thấy một con chim trắng, to lớn hơn chim bồ cầu, bay lượn trên các ngài lúc hành quyết. Lệnh quan vừa dứt, đầu Cha Dũng cũng rơi xuống đất.

Cha được phong Á Thánh năm 1900. Ngày Lễ: 26 tháng 12.

Trường Thi Tử Đạo

Anrê Trần An Dũng Lạc linh mục
Năm Ất Mão (1795) quê thực Bắc Ninh
Kinh tế yếu kém gia đình
Cho Thầy Kẻ giảng thuận tình chăm lo

Rồi sau đó Thầy cho rửa tội
Chọn quan thầy dẫn lối Anrê
Dũng xin chủng viện cho về
Bố nuôi linh hướng tên đề Cha Lan

Vào chủng viện thuộc làng Vĩnh Trị
Rất siêng năng hoan hỉ tươi vui
Xã giao chia sẻ ngọt bùi
Văn thơ năng khiếu tới lui viết liền

Cậu chỉ đọc khỏi biên, khỏi chép
Khoảng vài lần cậu ghép thành thơ
Mười năm Thầy giảng đón chờ
Ba năm Thần học ngày giờ thụ phong

Lên bàn thánh quan phòng của Chúa
Ðược sai đi đồng lúa chín vàng
Phó xứ Ðồng Chuối, Hà Nam
Cùng Cha Chính Khiết sẻ san giúp người

Rồi sau đó đổi rời nhiệm sở
Giúp Cha Thi về ở Xứ Ðoài
Ðây là Giáo xứ thứ hai
Sau rồi lại đổi cử ngài Sơn Miêng

Giúp Cha Thuyết, ơn trên đã định
Ðưa ngài lên Cha Chính Kẻ Ðầm
Nơi đâu Ngài cũng nhiệt tâm
Ăn chay nhiệm nhặt đạt tầm mức cao

Rất ưu ái người nào nghèo khổ
Cha sẻ chia, ban bố Tin mừng
Vua Minh Mạng đã bỗng dưng
Gắt gao chiếu chỉ đến từng xã thôn

Sai quân lính lập đồn chặn lối
Cha đợi chờ trời tối đi xa
Giáo dân ẩn nấp trong nhà
Kẻ Rọi lập xứ để mà giảng rao

Cha dâng lễ, ập vào quân lính
Cởi áo liền Cha đứng với dân
Ba mươi người bắt toàn phần
Tổng Thìn đem bạc thân nhân chuộc về

Rồi sau đấy đổi xê tên Lạc
Lần thứ hai xứ khác Kẻ Sông
Thói quen hàng tháng băng đồng
Cha Thi, Cha Lạc hai ông giải hòa

Lý trưởng Pháp vô nhà vây bắt
Cả hai Cha chúng đặt giá cao
Hai trăm quan chuộc bỏ vào
Giáo dân cố chạy không sao đủ tiền

Viên Lý trưởng ông liền tuyên bố
Tha Cha Lạc đủ số tha Thi
Ðường về thuyền chở Cha đi
Trời mưa gió lớn phải thì ghé vô

Vào nhà trú chúng hô bắt giải
Huyện Bình Lục gặp lại Cha Thi
Một lần nữa giáo hữu đi
Lo tiền chuộc lại Cha thì khuyên can

Ðây ý Chúa, Ngài ban ơn phúc
Thánh Phêrô tới lúc mất đầu
Cảm tình mọi giới từ lâu
Quan Huyện Bình Lục ngõ hầu ủi an

Truyền dọn cơm trên bàn tử tế
Trả lại ngay áo lễ hai Cha
Thanh minh quan Huyện nói là
Triều đình cấm đạo đâu mà phải ta

Sau ba bữa chuyển ra Hà Nội
Các giáo dân kéo vội đi theo
Quan liền hỏi Ðạo Trưởng nghèo
Sao dân thương tiếc thuyền chèo người đông

Một phụ nữ thưa ông quan Huyện
Cha dạy khuyên thực hiện điều lành
Yêu người mến Chúa vinh danh
Hai Cha dừng lại chân thành ủi an

Tại Hà Nội dã man tra hỏi
Nhưng hai Cha chẳng nói một lời
Lính vua trảm quyết tới nơi
Giáo dân tiếp tế kịp thời mang cơm

Hai Cha sống giản đơn mọi cách
Dặn họ đừng mang xách thịt vô
Ăn chay, tích trữ lương khô
Cha Tân tiếp tế đem vô Máu Mình

Ngày xử án lý hình tới nói
Theo lệnh vua buộc trói thi hành
Hai Cha cầu nguyện vinh danh
Chém ngoài Cầu Giấy ngoại thành Thủ Ðô

Năm Kỷ Hợi (1839) tung hô tử đạo
Biện pháp này chỉ bạo quan quân
Roma phong thánh tới gần
Suy tôn Canh Tý (1900) dành phần Anrê

==================
Bài Họa

Dũng Lạc xưa rầy chốn cửa quan
Cực hình vui nhận chẳng van than
Giáo dân luôn nhớ giờ kinh nguyện
Huynh đệ cầu mong biết gắn hàn

Phú Quý trần gian cơn gió lốc
Hồng ân Thiên Chúa phúc bình an
Chia tay tạm biệt hằng mong đợi
Thiên Quốc gặp nhau Chúa dẫn đàng

Lời bất hủ: Lễ các Thánh 1-11-1839 linh mục Trân đưa Mình Thánh vào ngục, vừa thấy cha Lạc đã ra chào đón: "Xin chào bác, tôi đợi bác đã lâu vì hết lương thực rồi". Sau đó cha cung kính rước lễ, và trao Mình Thánh cho cha già Thi. Cuối năm 1839 quan công bố án tử hình. Trước phút hành quyết người lý hình đến nói với cha: "Chúng tôi không biết các thầy tội gì, chúng tôi chỉ làm theo lệnh trên. Xin các thầy đừng chấp".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
cong danh (17-07-2009)
Cũ 17-07-2009   #3
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.123
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
2. Anrê Nguyễn Kim Thông (1790-1855)

Anrê Nguyễn Kim Thông (Năm Thuông), lý trưởng, thầy giảng; sinh 1790 tại Gò Thị, Bình Ðịnh; chết 15 tháng 7 năm 1855, tại Mỹ Tho. Thánh Thuông, lý trưởng của làng, bị trục xuất vào lúc khởi đầu của cuộc bách hại vì lòng sốt sắng của ngài với đạo Công Giáo. Ngài chết rũ tù vì kiệt sức và đói khát trên đường di tán tại Mỹ Tho. được phong Á Thánh 1909. Ngày Lễ kính 15 tháng 7.

Anrê Nguyễn Kim Thông, còn gọi là Năm Thuông, sinh năm 1790 tại Gò Thị, Xuân Phương, xã Phước Sơn, huyện Tuy Phước, tỉnh Bình Ðịnh, trong một gia đình đạo đức, được giáo dục theo tinh thần đạo đức, được giáo dục theo tình Phúc Âm trong khuôn khổ Nho học. Nguyễn Kim Thông lập gia đình, có chín người con, 6 trai, 3 gái. Người con trai thứ 8 là linh mục Giuse Nguyễn Kim Thủ về sau cũng chịu xử chém vì đạo. Con gái út là Anna Nguyễn Thị Nhường, đi tu Dòng Mến Thánh Giá.

Từ lúc còn trẻ, Nguyễn Kim Thông đã nổi tiếng đạo đức và khôn ngoan, nên sớm được tuyển vào hàng chức việc trong giáo xứ, và sau đó được Ðức Giám Mục Cuénot Thể cử làm trùm họ Huyện. Ông Trùm Thông rất được dân làng trọng vọng, tôn ông là ông Cả trong làng, nên gọi là Trùm Cả, Trùm Cả Năm Thuông.

Về mặt xã hội, Nguyễn Kim Thông có công khai phá rừng hoang, trưng khẩn ruộng đất, nên được triều đình ban thưởng thẻ vàng với tước hiệu “Cần Nông”.

Ðối với Giáo Hội, Anrê Nguyễn Kim Thông tận tâm giúp Ðức Cha Cuénot Thể tạo mãi ruộng đấy, xây dựng Tòa Giám Mục, mở chủng viện, tu viện, nhà dục anh và cơ sở nhà chung, đồng thời đảm nhiệm trọng trách cố vấn quản lý tài sản nhà chung để tạo phương tiện điều hành Giáo phận. Ngoài ra, Trùm Cả Năm Thuông còn lo bảo vệ Ðức Cha, các cha cùng các Thầy trong cơn bách bại đạo Chúa. Ông Trùm khéo léo sắp xếp cho các linh mục đi đây đó mở đạo trong vùng mà không gặp khó khăn. Nhà ông Trùm là chỗ tạm trú tốt cho các Cha mỗi khi các ngài có việc về Tòa Giám Mục Ðàng Trong đóng ở Gò Thị. Mọi chi phí ăn uống cho các Cha trong những ngày tạm trú đều do gia đình ông Trùm Cả đài thọ. Anrê Năm Thuông không bao giờ tiếc công tiếc của trong việc mở mang nước Chúa.

Anrê Nguyễn Kim Thông có một đức tin sắt đá, lúc nào cũng sẵn sàng hy sinh mạng sống mình vì danh Chúa cả sáng và vì phần rỗi đồng loại. Ðặc biệt, ông luôn tỏ ra nhân ái với mọi người, nhất là bênh vực người cô thế, giúp đỡ kẻ cơ hàn. Trong trách nhiệm xét xử việc làng, ông Trùm xét đoán theo lẽ công bình, rồi sau đó lấy của nhà gíup đỡ cho người nghèo thua kiện. Ông năng khuyến khích người xung quanh làm lành lánh dữ và răn bảo kẻ có tội sớm ăn năn cải tà quy chánh. Nhưng Ông cũng tỏ ra không kém thẳng thắn khiển trách người ngoan cố, như đã có lần nhắc nhở đứa cháu hung hăng hoang đàng tên Bảy Út, khiến tên này tự ái sinh lòng hiềm thù đặt điều tố cáo với các quan về Ông Trùm Cả. Thế là Anrê Nguyễn Kim Thông bị bắt giải về tỉnh vào năm 1853, năm Tự Ðức thứ 6.

Bị điệu ra trước tòa quan tỉnh tra vấn về các điều tố cáo. Ông Trùm khiêm tốn, bình tĩnh ung dung trả lời bằng lời lẽ đanh thép: “Trong nhà tôi không có đạo trưởng. Còn việc tậu thuyền, mãi mã, sắm ghe, tích trữ lương thực, tôi chẳng hề có, xin quan cho đi khám xét. Tôi chỉ chuyên cần lo việc nông gia. Tôi không biết Tây Dương, không đem đường chỉ nẻo cho họ. Tôi cũng chẳng hề đi đâu mà mở đường sơn thủy, vận lương, chuyển binh cho giặc”. Không tìm ra chứng cớ về các điều cáo giác trên, bọn quan lại bèn truyền cho Ông Trùm “quá khóa”, tức là bước qua Thánh Giá, thì sẽ đươc tha về. Ông nhất quyết không tuân.

Quan bảo: “Kín đáo đạp lên thập giá đi, rồi về xưng tội”.

Ông Trùm đáp: “Thạch tín là thuốc độc, uống vô là chết, nhưng cũng có thuốc giải. Thế nhưng có ai liều mình uống thạch tín bao giờ? Việc xúc phạm Thánh Giá cũng vậy”.

Thế là sau ba tháng bị giam giữ, Anrê Nguyễn Kim Thông nhận bản án chung thẩm từ triều đình Huế gửi vào: Lưu đày biệt xứ vào Ðịnh Tường (Mỹ tho). Trên đường đi đày, tới Gia Ðịnh Ông Trùm ngã bệnh. Có người muốn ra tay cứu Ông. Ông Trùm ngỏ lời cảm ơn lòng tốt của họ và xin hãy để Ông được vâng theo Thánh Ý Chúa. Tới Ðịnh Tường, bệnh tình của Ông Năm Thuông trở nên trầm trọng. Ngày 15-7-1855, sau khi kêu tên cực thánh ba Ðấng “Giêsu, Maria, Giuse”, Anrê Nguyễn Kim Thông yên giấc nghìn thu trong Chúa, chân vẫn còn mang nặng xiềng xích. Ông thọ 65 tuổi.

Anrê Nguyễn Kim Thông được Ðức Giáo Hoàng Piô X phong Chân Phước năm 1909 và Ðức Thánh Cha Gioan Phaolô II tôn phong lên bậc Hiển

Trường thi tử đạo

Nguyễn Kim Thông là ông trùm họ
Canh Tuất (1790) sinh Gò Thị, Xuân Phương
Ông người trung nghĩa phi thường
Kiêm chức xã trưởng nêu gương cả vùng

Gia đình ông vô cùng hạnh phúc
Tiền tài dư đạo đức càng hay
Vốn lòng mến Chúa xưa nay
Người con trai cụ anh này đi tu

Chúa đã chọn Kim Thư linh mục
Rất khôn ngoan rất mực nết na
Còn cô con gái thứ ba
Ðiều cô mong ước cũng là nữ tu

Ông làm việc xuân thu có lẻ
Giúp giáo dân, giúp kẻ khó nghèo
Dù ai gặp cảnh gieo neo
Ðến ông giúp đỡ càng nghèo càng thương

Là xã trưởng ông thường rộng rãi
Nên cửa quan nho lại đều quen
Việc đời việc đạo đều siêng
Bầu làm trùm cả ơn riêng dẫn đường

Thời cấm đạo ông thường che chở
Các Cha Tây nuôi ở trong nhà
Làm sao che mắt người ta
Ðứa cháu tên Út vào ra xem thường

Một bữa nọ Út ương quá đổi
Ông Năm Thuông bổng nổi nóng lên
La rầy thằng Út một phen
Ai ngờ thằng cháu trở nên báo thù

Út về viết nặc thư tố cáo
Ông Năm Thuông chứa giáo sĩ Tây
Quan tỉnh lúc đó mới hay
Bủa quân vây bắt quả thì bốn Cha

Bắt giam cả thẩm tra nguồn ngọn
Tại sao ông chứa bọn ngoại xâm
Ông Thông tuy bị giam cầm
Song không tra tấn hằng tuần về quê

Lợi dụng lúc đi về thăm hỏi
Ông nhủ khuyên và nói mọi người
Siêng năng giữ đạo Chúa trời
Phận già tôi nguyện suốt đời theo Cha

Khi bị giam được ra quan gặp
Quan khuyên ông xếp đặt trong nhà
Ðặt cây thập tự bước qua
Không ai biết được chỉ là tôi ông

Ðơn sơ vậy nhưng ông không chịu
Ðạo Chúa Trời tự liệu lương tâm
Tôi nay tuy bị giam cầm
Nhưng lòng phơi phới lương tâm vui vầy

Tôi mong ước đến ngày tận số
Chúa đem về hưởng chổ thanh nhàn
Chúc quan ở lại bình an
Lệnh tù biệt xứ càng oan trái nhiều

Ðường vào Nam bao nhiêu cách trở
Mà thân giàtuổi cở sáu lăm
Chân mang xích, cổ đeo gông
Qua đèo vượt suối băng đồng kể chi

Gặp Cha Thư cực kỳ may mắn
Là con ông uốn nắn ngày xưa
Bên nhau chốc lát chỉ vừa
Ban phép hoà giải xong đưa đi liền

Ðến Mỹ Tho thì chiên của Chúa
Ðã không còn sức nữa chao ôi
Ông Thông ngã xuống lìa đời
Cuộc đời theo Chúa tuyệt vời ông Thông

Phúc tử đạo lãnh công Nhâm Tuất (1862)
Một ông trùm bậc nhất của ta
Kỷ Dậu (1909) Toà Thánh Rôma
Suy tôn Chân phước hoan ca Nước Trời

Thật xứng đáng tuyệt vời trùm cả
Sống tuyên xưng hỷ xả tha nhân
Mậu Thìn (1988) Ngài được thêm phần
Suy tôn Hiển thánh ân cần nêu gương

Lời bất hủ: Quan khuyên ông bước qua Thập giá, ông trả lời: "Không được, Thập giá tôi tôn kính mà dẫm lên sao được". Ông khẳng định với quan: "Thà tôi chịu lưu đầy và chết vì Chúa, chứ tôi không chối đạo". Các con ông dự định bỏ tiền xin giảm án, nhưng ông cản: "Các con cứ để Thánh Ý Chúa được thể hiện".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
cong danh (17-07-2009)
Cũ 17-07-2009   #4
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.123
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
3. Anrê Trần Văn Trông (1814-1835)

Anrê Trần Văn Trông, sinh 1814 tại Kim Long, Huế; chết 28 tháng 11, 1835 tại An Hòa, Huế. Anrê Trông là một binh sĩ trẻ tuổi, một thợ dệt tơ của nhà vua, và thuộc Hội Thừa Sai Balê. Khi triều đình khám phá ra sự liên hệ này năm 1834, ngài bị bắt, bị truất hết chức tước, và bị giam vào tù. Mẹ của ngài có mặt khi ngài bị xử tử và đã nhận lãnh thủ cấp của con trong lòng. Phong Á Thánh 1900. Ngày Lễ 28 tháng 11.

Trong vòng tay người mẹ

Trong hành tích thánh Anrê Trần Văn Trông, người quân nhân xứ Huế, ta thấy nổi bật lên chân dung của một bà mẹ. Đức Giáo Hoàng Lêo XIII ca tụng bà đã thể hiện lòng can trường "theo gương Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo". Như Đức Maria dưới chân Thánh Giá dâng hiến Người Con Yêu Dấu, bà mẹ đó cũng có mặt trong cuộc hành quyết để hiến dâng người con trai duy nhất của mình. bà đi bên cạnh con, không than khóc không sầu buồn, trái lại còn bình tĩnh vui vẻ khuyên con hãy bền chí đến cùng.

Khi đầu Anrê Trông rơi xuống, bà mạnh dạn bước vào pháp trường kêu lớn tiếng trước mặt các quan : "Đây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái dầu của con tôi". Nói xong, bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quý, rồi đêm về mai táng trong nhà.

Tuổi xuân ước mơ.

Anrê Trần Văn Trông sinh năm 1814 trong một gia đình Công Giáo ở Kim Long, Phú Xuân (Huế). Cậu là con trai duy nhất trong nhà, thế mà năm 15 tuổi, người cha lại mất sớm, khiến gia đình lâm cảnh mẹ góa con côi. Để giúp mẹ mưu sinh, Anrê Trông đành giã từ sách đèn, theo chân bà con lối xóm về họ Thợ Đúc dệt tơ cho hoàng gia. Là người ngay thật, cậu không ăn bớt của công, luôn chăm chỉ làm việc và ưa những chuyện gây gỗ, bất hòa. Mỗi buổi chiều, sau những giờ lao động mệt mỏi, cậu thường vác cần câu đến ngồi bên bờ sông Hương xanh biếc, để được gần gũi với thiên nhiên.

Sử gia Rodriguez đã diễn tả tâm trạng của cậu qua những vần thơ sau (Martirologie III, pp. 158 – 159):

"Ôi êm đềm cảnh thiên nhiên trầm lặng,
Dưới ngàn cây râm mát thoảng hương hoa,
Nước lung linh nghe thanh thản tâm hồn,
Sông in dáng bóng non xanh xanh biếc…"


Nhưng cuộc đời êm ả đó không kéo dài được lâu mãi. Đồng lương ít ỏi của người thợ dệt tơ không đủ nuôi sống gia đình. Năm 20 tuổi, Anrê Trông đành giã từ mẹ lên đường nhập ngũ.

Xông vào cuộc chiến

Sau tám tháng phục vụ trong quân đội, tháng 11.1834, triều đình ra lệnh những binh sĩ Công Giáo phải ra trình diện. Không chút e dè, Anrê Trông với 12 đồng đội cùng ở khu Thợ Đúc đến "ra mắt" quan. Quan yêu cầu các anh phải tuân lệnh nhà vua bỏ đạo và đạp lên Thánh Giá. Cả 13 chiến sĩ Công Giáo đều cương quyết khước từ. Các quan bèn dùng biện pháp tra tấn dã man… lần lượt 12 người bỏ cuộc, chỉ còn mình Anrê Trông vẫn trung kiên đến cùng. Quân lính trói anh lại khiêng qua Thánh Giá, nhưng anh co chân lên quyết không xúc phạm đến ảnh Chúa. Thế là từ trại lính, anh bị tống qua trại giam. Các quan kết án tử hình, nhưng còn giam hậu, nghĩa là chưa xử ngay.

Suốt một năm bị giam trong ngục, Anrê Trông chịu nhiều điều cơ cực khổ sở, nhưng niềm tin của anh qua những thử thách đó càng ngày càng vững mạnh. Anrê sốt sắng cầu nguyện và đặc biệt phó thác đời mình cho Đức Mẹ, xin Chúa vì lời Mẹ Maria chuyển cầu ban cho ơn trung tín đến cùng. Những món qùa tiếp tế nhận được, anh chia sẻ cho các bạn tù và lính canh ngục, nên được họ quý mến. Cũng chính nhờ đó, anh có cơ hội đặc biệt để đi xưng tội, rước lễ và thăm mẹ.

Khi biết tin có cha Ngôn đang hoạt động ở Phú Xuân, anh Trông liền xin viên cai ngục và được phép về nhà một ngày dưới sự giám sát của một người lính. Nhờ đã dò hỏi rõ nơi ở của vị linh mục, Anrê Trông và người lính chèo thuyền đến bến đò kia vào giữa trưa. Lúc đó, mọi người dân chài đã lên bờ ăn uống nghỉ ngơi. Anh Trông liền bước qua thuyền của cha Ngôn, đẩy thuyền trôi nhẹ ra giữa dòng. Hai người nhỏ to "Tâm sự" và anh quỳ xuống lãnh phép lành tha tội. Xưng tội xong, anh ngỏ ý xin rước lễ, cha Ngôn hẹn anh sáng hôm sau tại Kẻ Văn. Thế rồi anh và người lính tiếp tục chèo thuyền về Kim Long. Hai người lên bờ và ngủ tại nhà mẹ một đêm. Tả sao cho siết niềm vui của hai mẹ con được tái ngộ trong hoàn cảnh bất ngờ này. mẹ anh đã hết lời khích lệ động viên anh kiên tâm vì đức tin.

Tảng sáng hôm sau, anh Trông và người lính gác vội vã chèo thuyền đến điểm hẹn. Gặp lại vị "khách quý", anh liền quỳ xuống lãnh nhận Mình Thánh Chúa. Cha Ngôn chúc lành : "Ước gì Mình Thánh Chúa Giêsu Kitô sẽ gìn giữ con đến cuộc sống muôn đời". Anh thưa: "Amen". Rồi trong niềm hân hoan vì hồng phúc mới lãnh nhận, anh vui vẻ trở về trại giam như lời hứa với viên cai ngục.


Nỗi lòng hai mẹ con


Sau một năm tù, không hy vọng gì Anrê Trông thay đổi ý kiến, các quan quyết định ngày xử là 28.11.1835. Sáng hôm đó, người chiến sĩ đức tin gặp được người anh họ mình. Anh ta hỏi có muốn ăn gì không ? Anrê Trông trả lời: "Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo", rồi nói tiếp: "Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng sẽ yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: Đừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết".

Nhưng thực tế, người anh họ chưa kịp nhắn lại. Bà mẹ Anrê Trông khi hay tin con bị đem đi xử, liền vội vã ra đón con ở đầu chợ, nơi con sắp đi qua, gặp con, bà chỉ hỏi một câu vắn tắt : "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay con". Tấm lòng người mẹ là thế đấy. Bà biết rõ con của mình đủ can đảm chịu mọi đau đớn, giờ đây bà chỉ lo cho con về đức công bình.

Khi được con cho biết không vướng gì với ai, bà tiếp tục đi sát bên con, bình tĩnh thêm lời khích lệ. đến nơi xử, sau khi quân lính tháo gông xiềng, người chiến sĩ đức tin liền đón lấy, trao cho người lính cạnh bên và nói : "Xin nhờ anh đưa dùm cái này cho mẹ tôi, để bà làm kỷ niệm". Mẹ anh đứng gần nên nghe rất rõ, nhưng bà chưa lấy kỷ vật đó làm đủ, bà còn muốn đón nhận chính thủ cấp của con mình nữa.

Chiêng trống nổi lên, lý hình vung gươm, dầu vị tử đạo 21 tuổi rơi xuống. Bà mẹ anrê Trông chứng kiến ngay từ giây phút đầu tại pháp trường, bà thỏa lòng dù rất khổ đau, bước ra đòi viên chỉ huy trao thủ cấp con bà. Bọc trong vạt áo rồi ghì chặt vào lòng, bà vừa hôn vừa lắp lại : "Ôi con yêu quý của mẹ, con nhớ cầu nguyện cho mẹ nhé !".

Ngày 27.5.1900, Đức Lêo XIII suy tôn người chiến sĩ anh hùng Anrê Trông lên hàng Chân Phước. Ngài không ngớt lời ca ngợi mẫu gương của bà mẹ hào hùng, đã họa lại gần trọn vẹn hình ảnh Đức Maria, Nữ Vương Các Thánh Tử Đạo xưa trên đỉnh Can-vê.

Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử đạo

Anrê Trần Văn Trông binh sĩ
Sinh Giáp Tuất (1814) địa chỉ Kim Long
Gia đình nghèo khó trắng trong
Người cha mất sớm phải vòng gian nan

Cậu bỏ học lo toan giúp mẹ
Theo bà con mau lẹ học nghề
Dệt tơ thợ đúc say mê
Gia công cơ sở thuộc về nhà vua

Cậu chăm chỉ chẳng ưa lêu lổng
Chiều đi câu bãi trống Sông Hương
Làm nghề dệt ít đồng lương
Trông từ giã mẹ lên đường tòng quân

Sau tám tháng phong trần quân ngũ
Bị Triều Ðình chụp mũ trái sai
Ai người Công giáo phải khai
Trông không sợ hãi ngày mai nhận liền

Bạn đồng đội trong miền kéo tới
Quan loan truyền lệnh mới vua ban
Quân nhân đều phải sẵn sàng
Bước qua Thánh giá khỏi sang lý hình

Mười ba người chiến binh Công giáo
Ðều tuyên xưng mạnh bạo đức tin
Quan tra tấn cho đứng nhìn
Mười hai bỏ cuộc sợ kìm kẹp gông

Còn trụ lại Trần Trông anh dũng
Qua Thánh giá Trông cũng co chân
Tấn tra anh rất nhiều lần
Nhốt anh vô trại lãnh phần khổ đau

Cho thời hạn năm sau mới xử
Anh cho là Chúa thử lòng mình
Luôn luôn sốt sắng nguyện kinh
Tâm hồn vững mạnh Thánh Linh hộ phù

Anh chia sẻ bạn tù lính gác
Ðược tiếp quà chia chác đệ huynh
Lính canh trong chốn ngục hình
Cũng đều quý mến nghĩa tình giúp anh

Viên cai ngục đã dành ưu đãi
Cho về nhà có phái lính theo
Cha Ngôn ngồi ở thuyền chèo
Anh Trông quỳ xuống ngước theo nhìn trời

Lãnh phép lành nói lời tha tội
Anh xin rước lễ vội về nhà
Niềm vui hội ngộ thiết tha
Mẹ con mừng rỡ như là tái sinh

Một năm nhốt tính tình không đổi
Anh Trần Trông thúc hối lý hình
Tháo gươm đón nhận hy sinh
Anh nhờ đưa hộ mẹ mình chiếc gông

Làm kỷ niệm khi trông thấy nó
Là mẹ hiền sẽ ngó thấy con
Chiêng cồng vang tiếng kêu giòn
Cùng hai trộm cướp đầu con lìa mình

Lòng dũng cảm hy sinh tử đạo
Năm Kỷ Mùi (1835) loan báo hồng ân
Trao thủ cấp con, mẹ cầm
Vừa hôn vừa khóc thì thầm tạ ơn

Bà đã bọc giản đơn vạt áo
Trên đường về mếu máo khóc thương
Chôn con chính giữa từ đường
Trong nhà ngôi mộ xác xương con mình

Ai hiểu thấu được tình mẫu tử
Khi con mình bị xử chém đầu
Hồng ân Thiên Chúa nhiệm mầu
Suy tôn Canh Tý (1900) lên chầu Thiên nhan

Lời bất hủ: 13 quân nhân nhận mình có đạo, nhưng không chịu được cực hình, 12 lính đã đầu hàng, còn lại một mình Anrê Trông vẫn một lòng trung kiên không quá khoá. Khi sắp bị xử án, anh Trông gặp người anh họ, anh nói: "Em muốn ăn chay để dọn mình tử đạo, rồi nói tiếp: Xin anh giúp đỡ mẹ em, chúng ta là anh em, mẹ em cũng yêu thương anh. Xin nhắn lời với mẹ em: đừng lo gì cho em cả, cầu chúc bà mãi mãi thánh thiện, và sẽ hài lòng vì con trai mình luôn trung thành với Chúa cho đến chết".
Bà mẹ chờ đón con trên đường đi xử, gặp con bà chỉ hỏi một câu vắn: "Bấy lâu nay xa nhà, thời gian ở tù con có nợ nần ai chăng, nếu có thì cho mẹ hay, mẹ sẽ trả thay cho". Bà theo con đến pháp trường. Khi lính chém đầu Anrê Trông, bà kêu lớn trước mặt quan: "Ðây là con tôi, đứa con mà tôi đã cưu mang dưỡng dục. Giờ này nó vẫn là con tôi, xin các ông trả lại tôi cái đầu của con tôi". Nói xong bà mở rộng vạt áo, bọc lấy thủ cấp đẫm máu của người con yêu quý, rồi đem về mai táng trong nhà.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
cong danh (17-07-2009)
Cũ 17-07-2009   #5
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.123
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
4. Anrê Tường (1812-1862)

Anrê Tường, thầy giảng; sinh năm 1812 tại Ngọc Cục, Nam Ðịnh; chết 16 tháng 6 năm 1862, tại Làng Cốc. Phong Á Thánh 1951. Trong trường hợp thánh Anrê Tường thì không thấy ghi lại phép lạ nào, tài liệu để lại quá ít, chỉ diễn tả mấy nét sơ sài, làm sao có thể làm rõ nét để mà hình thành một con đường tu đức? Có cảm tưởng Ngài như một vị thánh vô danh vậy! Lễ kính vào ngày 16/06.

Chứng từ cho Tin Vui đạo Chúa ở ngay trong cuộc sống bình lặng thường ngày. Chứng từ của các ngài vượt trên chữ viết hay tài liệu. Đức tin mới là cốt lõi, coi thường mọi sự, kể cả mạng sống mình.

ĐI TÌM ĐƯỜNG TU ĐỨC

Mùa hè năm 1995, tôi xếp đặt để có thể qua Paris vào văn khố của Hội Thừa Sai Paris (MEP) để tìm tòi tài liệu. Nhưng sau một thời gian vật lộn với cái nóng mùa hè để ngồi đọc những lá thư viết tay do các vị giám mục truyền giáo liên hệ gửi về Hội Thừa Sai và Bộ Truyền Giáo, tôi sinh nản lòng. Vì thực ra cũng chẳng thu lượm thêm được bao nhiêu hơn những điều đã đọc và đã biết. Tôi mò mẫm ngó tới nhìn lui trong phòng lưu trữ di tích các Thánh Tử Đạo. Đây là cuốn sách nguyện của thánh Đoàn Công Quí; kia là đôi hài mỗi khi làm lễ của thánh Dũng Lạc; rồi những bộ xương thánh để trong những hộp gắn kỹ.

Nhưng rồi mắt tôi bỗng được khai mở dần, nhận ra một điều thật đơn giản: con mắt niềm tin là tất cả. Có con mắt này thì thấy được phép lạ và làm được phép lạ, chẳng sách vở nào ghi chép hết được. Đây là con đường ngắn nhất. Vì có phải đi đâu mà cần đường. Chỉ cần mở mắt đức tin là thấy ngay được Chúa Toàn Năng vẫn đang có mặt. Mà cũng là con đường dễ nhất, sẵn nhất. Vì chính là con đường đơn sơ của Phúc Âm như Mẹ Maria tại Na-da-rét. Cũng với những kinh đọc ngắn gọn, cũng với những bổn phận của đời thường, trong gia đình, với xóm ngõ, nhưng khác là làm với con mắt niềm tin và lòng yêu mến, biến cuộc sống thành vườn Địa Đàng, vì nơi nào có Chúa thì đó là Thiên Đàng: Nước Chúa ở giữa anh em.

Bỗng một ngày người tin Chúa nhận ra mình đã trúng số, giàu có sang trọng quá. Vì mình là con của Vua Trời Đất cơ mà, còn gì hơn được nữa. Và mình cũng được Chúa ban quyền năng làm phép lạ, có sức biến đổi vượt thắng mọi sự bằng chính thần lực Chúa. Không gì mà không làm được trong Chúa là sức mạnh như cảm nghiệm của Thánh Phaolô.

Những mẩu xương để lại là bằng chứng hùng hồn nói lên niềm tin tuyệt đối: không gì có thể tàch lìa khỏi tình yêu của Chúa.

NÊN THÁNH BẰNG ĐỜI THƯỜNG

Đường tu đức của thánh Anrê Tường đúng là con đường ngắn nhất, dễ nhất và sẵn nhất. Cốt tủy vẫn là con mắt đức tin khám phá ra kho tàng đức tin, mọi nơi mọi lúc.

Thánh Anrê Tường sinh năm 1812. Cha mẹ Ngài là ông bà Đaminh Tiên và Maria Gương. Lớn lên Ngài lập gia đình và được đông con cái, chu toàn bổn phận giáo dục gia đình trong nếp sống bình lặng, sống đời Công giáo đạo đức cũng thật bình lặng tại xứ Lục Thủy, Nam Định.

Ngài bị bắt ngày 14.9.1861, lúc 50 tuổi, cùng với các ông Đaminh Nguyện 60 tuổi, Vinh Sơn Tường 48 tuổi, Đaminh Mạo 44 tuổi và Đaminh Nhi 40 tuổi. Trước hết các Ngài bị tra tấn và giam giữ tại Xuân Trường, rồi bị phát lưu giam tù tại làng Bạch Cốc Vụ Bản là làng ngoại giáo.

Theo lời khai của Đa Minh Mậu, con của Thánh Mạo là con rể của thánh Anrê Tường, thì trong ba bốn lần đến thăm, ông đều thấy các ngài siêng năng đọc kinh sáng tối, nhất là kinh Mân Côi, kinh các thiên thần, ăn chay ba lần một tuần. Suốt trong chín tháng bị giam tù, các ngài bị hành hạ rất nhiều, ban ngày bị đeo gông nặng và đêm phải cùm chân. Trên má phải khắc chữ ”Tả Đạo”, và bị bắt đạp ảnh bỏ đạo. Nhưng các ngài vẫn cương quyết: ”Các quan coi chúng tôi như trẻ con sợ hãi hình khổ hơn là sợ xúc phạm đến Thiên Chúa sao?!”

Quan thấy không thay chuyển được các ngài liền cho thi hành án xử đem các ngài ra pháp trường chém đầu ngày 16.6.1861. Theo nhân chứng thì trước khi bị hành hình, các ngài đã đọc kinh Ăn năn tội, kinh Phó Dâng, và xin lý hình chém ba nhát để kính Chúa Ba Ngôi. Xác các ngài được chôn ngay tại nơi xử, và sau này được cải táng về làng Ngọc Cục.

MỘT VỊ THÁNH HẦU NHƯ VÔ DANH

Ông Anrê Tường sống vào thời kỳ bắt đạo khủng khiếp nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Vì bị người Pháp áp đảo, Vua Tự Đức tức giận, không làm gì được Tây thì đổ hết mọi tội lỗi lên đầu người Công giáo và ra những sắc lệnh tàn ác có ý nhổ sạch rễ đạo Công Giáo trong nước.

Sắc lệnh năm 1851 bắt các quan và lính Công Giáo phải bỏ đạo. Ra hạn cho các quan một tháng, cho lính 6 tháng. Quan và lính Công giáo không được một quyền lợi gì cả, không được thi cử và làm việc nước. Người Công Giáo bị bắt đày lên vùng thượng du nước độc.

Sắc lệnh năm 1859 ban hành để trả thù người Công Giáo, vì nghi người Công giáo thông đồng với người ngoại quốc trong vụ tàu Pháp tấn công vào cửa Đà Nẵng. Vua bắt tất cả trùm trưởng trong nước, nhốt tất cả quan và lính Công giáo, làm sổ người Công giáo từ 15 tuổi trở lên, phân tán Dòng Mến Thánh Giá bắt đi làm đầy tớ trong các nhà quan.

Sắc lệnh năm 1861 độc ác nhất: phân tán mọi gia đình Công giáo, tách rời vợ chồng, cha mẹ con cái, chia vào các làng ngoại giáo. Cứ 5 người ngoại coi giữ một người Công giáo. Phá bình địa các nhà thờ và cơ sở Công giáo. Ruộng đất người Công giáo và nhà xứ thì chia cho người ngoại. Khắc tên vào má bên phải chữ ”Tả Đạo” (nghĩa là đạo tà), và má bên trái tên huyện phủ, để không lẩn trốn được.

Quả tình các sắc lệnh trên đã tàn phá bình địa Giáo Hội Việt Nam. Đức Cha Liêu (Retord) đã khóc lên: ”Ôi buồn thảm thay Giáo Hội Việt Nam. Tôi đang ngồi trên đống gạch nát của những thánh đường như tiên tri Giêrêmia ngồi trên đống gạch vụn đền thờ Giêrusalem.”

Bao nhiêu người chết trên miền rừng sâu nước độc không để lại dấu tích gì. Con số 130 ngàn người tử đạo chỉ là tượng trưng. Nguyên thời kỳ này đã có tới 400 ngàn người bị phân tán lưu đày, 35 ngàn người chết vì đạo, 115 linh mục bị xử tử, 80 tu viện Mến Thánh Giá bị phá, 100 nữ tu Mến Thánh Giá chết vì đạo...

Như vậy, thánh Anrê Tường cũng đúng là một vị thánh tiêu biểu cho cả trên một trăm ngàn người vô danh đã chết vì đạo. Chẳng cần ai biết đến, chẳng cần ai viết sách ca tụng. Ngài vẫn mãi mãi là một người nhỏ bé nhất trong danh sách các thánh được tôn phong, nhưng kẻ nhỏ nhất trong nước Trời cũng còn lớn hơn Gioan Tẩy Giả, như lời Chúa đã nói trước. Cũng như có biết bao cử chỉ, biết bao tâm tình, biết bao hành động trong đời, đâu có phải không được ghi chép ra là không có giá trị lớn lao. Một nụ cười bao dung, một cái nhìn cảm thông, một bàn tay vỗ vễ an ủi... tất cả đều là những tác phẩm tuyệt vời, mắc tiền hơn bất cứ tuyệt tác nào của Michelangelo, Leonardo da Vinci, Vincent van Gogh...

Chứng từ cho Tin Vui đạo Chúa ở ngay trong cuộc sống bình lặng thường ngày. Chứng từ của các ngài vượt trên chữ viết hay tài liệu. Đức tin mới là cốt lõi, coi thường mọi sự, kể cả mạng sống mình.

TIN VUI LỚN: QUÀ TẶNG QUÍ BÁU NHẤT

Vậy thì việc tôn phong các thánh đúng là một quà tặng quí báu nhất trao cho mỗi người. Từ nay mình biết cách khai đào mỏ quí kim đã chôn sẵn trong lòng, chỉ cần con mắt niềm tin là thấy được như vậy. Đây đúng là con đường ngắn nhất, dễ nhất và sẵn nhất, ai cũng có thể bước theo, ai cũng có thể nên thánh được. Và từ nay mình bắt đầu sống giàu có, với tác phong sang trọng được làm con của Chúa Trời Đất.

Tối nay, cầm tràng chuỗi trong tay đọc kinh với những kinh đơn sơ nhất, mình cảm thấy đang cùng với thánh Anrê Tường và biết bao nhiêu bậc tiên tổ đức tin, xướng lên sức mạnh của niềm tin. Dòng kinh đọc như hơi thở qua bao đời, vẫn tiếp tục sinh động chuyển lực cho đến hôm nay. Mình chỉ cần hòa vào dòng hơi thở đó là nhận được tất cả sức sống làm hồi sinh tâm hồn

Trường thi tử đạo

Ngọc Cục họ lẻ xứ Lục Thủy
Ngàn giáo dân hoan hỷ Tin mừng
Lệnh vua cấm đạo bỗng dưng
Cha Quyền chánh sở lẫy lừng tiếng tăm

Cha bị bắt cả năm xử trảm
Ngàn giáo dân phân tản khắp nơi
Coi như biệt xứ suốt đời
Chủ chăn không có dân thời cách ly

Người xưng đạo nghe thì ba bảy (37 người)
Rất hào hùng quan đẩy vào tù
Hai huyện kế cận một khu
Quỳnh Côi, Vụ Bản dọa hù tấn tra

Mỗi người chúng nhốt nhà cách biệt
Gởi nhà lương để triệt đức tin
Gia đình chẳng biết lối tìm
Quan quân đem xử bặt tin xóm làng

Năm thánh (bị) chém dã man Vụ Bản
Nguyên, Mạo, Tường, hai bạn Tương, Nhi
Theo nhân chứng sử sách ghi
Các ngài bị bắt, gởi đi Xuân Tràng

Rồi sau đó chuyển sang Bạch Cốc
Huyện Vụ Bản tức tốc mang gông
Tấn tra bởi lính coi trông
Người nhà thăm viếng tốn công tốn tiền

Nếu hối lộ chúng liền cho gặp
Nhưng giáo dân vẫn đặt niềm tin
Các ngài vẫn thẳng hướng nhìn
Mân côi tràng chuỗi khắc in nguyện cầu

Quan án tỉnh yêu cầu đạp ảnh
Gọi từng người để tránh bảo nhau
Năm người nhất quyết trước sau
Ðều không đạp ảnh mặc dầu lệnh quan

Quan nổi giận liền mang chân xích
Phơi nắng hè muỗi chích đốt chơi
Tối giam ngục thất ngộp hơi
Các quan thử thách cũng thời uổng công

Tôi khẳng định quyết không chối đạo
Dù vua quan tàn bạo tới đâu
Tôn vinh Thiên Chúa nhiệm mầu
Lệnh vua quan xử chém đầu chúng tôi

Tới pháp trường ba hồi chiêng trống
Cả ba người trầm bổng đọc kinh
Phía sau đứng sẵn lý hình
Mỗi người ba nhát thình lình đầu rơi

Lấy xác chôn ngay nơi đâu chỗ chém
Sau lệnh ra, trọn vẹn đem về
Là nơi Ngọc Cục làng quê
Ngàn thu an nghỉ, hồn về Nước Cha

Thánh Phêrô Ða đã bị chôn sống
Ít mấy ai bị giống như ngài
Mười tháng giam giữ khổ sai
Bắt ông quá khóa quan cai đầu hàng

Ông cương quyết sẵn sàng chịu chết
Giữ đạo trời liên kết trung thành
Khiến quan tức giận đổi nhanh
Cho đem thiêu sống trở thành tro than

Chưa ai xử dã man thiêu sống
Ném người vào giữa đống lửa hồng
Tử đạo đặc biệt có ông
Xác thành tro bụi lại không mộ phần

Hai ông nữa bạn thân Trinh, Mọi
Bị bắt vì chống chọi lệnh quan
Giáo dân cuộc sống lầm than
Tôn thờ Thiên Chúa chẳng màng lợi danh

Quan án trên tỉnh thành dụ dỗ
Bắt các ông tuyên bố một câu
Từ bỏ đạo Chúa phép mầu
Gông cùm tháo gỡ ngõ hầu được tha

Hai ông Tịnh, Mọi thà chịu chết
Không khi nào đoan kết trái sai
Tôn vinh danh Chúa thiên đài
Xin quan huyện xử chẳng nài chẳng than

Quan tức giận cho mang xử trảm
Tại pháp trường tuyên án hai ông
Xác chôn ngay giữa cánh đồng
Về sau cải táng hai ông về vườn

Ba ông khác pháp trường trảm quyết
Ninh, Bình, Quy cũng miệt Mỹ Côi
Vùng này xử chém liên hồi
Nam Ðịnh, Vụ Bản quê tôi chiên lành

Một nhóm khác nêu danh sáu vị
Mấy bị chôn sống mấy bị thiêu
Quê hương đau khổ đủ điều
Gương sáng linh địa lãnh nhiều thiên ân

Chuyên, Trương, Uy, Vụ, gần Chiêu, Phụng
Cả sáu ông cũng đã đồng tâm
Vua quan dụ dỗ quá lầm
Ðạo đời rao giảng nhiệt tâm trung thành

Trước giờ chết vinh danh đạo Chúa
Dù bạo quyền đao búa dọa đe
Sáu ông nhất quyết không nghe
Hy sinh tử đạo chở che Mẹ hiền

Tại Nam Ðịnh quan quyền kiêng nể
Khối giáo dân không thể lung lay
Giáo hội ghi nhớ ngày này
Tôn kính chư vị, hồn bay về Trời

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
cong danh (17-07-2009)
Cũ 17-07-2009   #6
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.123
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
5. Antôn Nguyễn Ðích (1769-1838)

Antôn Nguyễn Ðích, sinh năm 1769 tại Chi Long, Nam Ðịnh; chết 12/8/1838, tại Bảy Mẫu. Thánh Antôn Ðích dùng gia sản nông nghiệp của ngài để giúp cho công việc truyền giáo của Hội Thừa Sai Balê. Ngài bị bắt vì che dấu các linh mục, kể cả Giacôbê Năm, là người đang chạy trốn việc lùng bắt của nhà vua. Bị xử trảm (chém đầu). Cùng với linh mục Mai Năm và ông Lý Mỹ, ông trùm Antôn Nguyễn Đích, được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 12/08.

Gia trưởng một gia đình tử đạo.

Thánh Antôn Nguyễn Đích, một mẫu gương sáng ngời cho những người gia trưởng, đặc biệt trong việc giáo dục hướng dẫn đức tin cho con cái. Không kể thánh Lý Mỹ, người con rể chí hiếu, đã cùng tử đạo một ngày, gia đình ông đã cống hiến hai chứng nhân đức tin khác (hai vị này không có trong số 117) : ông Lý Thi, bị xử giảo năm 1858 thời vua Tự Đức (con thứ hai ông Trùm Đích), và ông phó Nhâm, người con thứ tư, cương quyết không bước qua Thập Giá, bị đầy lên Cao Bằng và qua đời tại đó.

Thánh nhân đã giáo dục con cái không chỉ bằng lời nói. Mà bằng chính mẫu gương chứng tá đức tin sống động của mình.

Lý lịch thân phụ tôi

Muốn biết lý lịch của thánh Antôn Nguyễn Đích, không gì bằng nghe chính lời con cái ngài là cô Maria Mến (Miều), góa phụ của thánh Micae Nguyễn Huy Mỹ, cung khai trước tòa điều tra phong Chân Phước : Bố tôi là Nguyễn Đích, quê ở Chi Long, huyện Nam Sang, tỉnh Nam Định. Ong bà nội tôi vốn có lòng đạo đức, thấy xa nhà thờ có linh mục thì lấy làm tiếc, nên dọn đến làng Kẻ Vĩnh (Vĩnh Trị), rồi bố tôi lập gia đình ở đó.

"Hồi đó bố tôi tên là Khiêm, khi sinh con đầu lòng đặt tên là Hiếu, người ta gọi bố tôi là Hiếu, đến khi sinh người con thứ hai đặt tên là Đích, bố tôi lại mang tên là Đích và giữ tên đó mãi... "Gia đình chúng tôi làm nghề nông rất cần cù, nhưng không vì thế mà sao lãng việc đạo đức, trái lại vẫn siêng năng xưng tội, rước lễ. Bố tôi luôn quan tâm đếnm đời sống đạo đức của mười người con và của những gia nhân giúp việc. Mỗi ngày, ông chỉ định một hay hai người coi nhà, còn những người khác đi lễ. Tôi thấy bố tôi làm tròn các nghĩa vụ trong đạo. Ngài rất chăm sóc việc giáo dục con cái, mời thày đồ đến nhà dạy chữ Nho cho con trai, từ chối gả con gái cho những thanh niên gia đình giàu có mà không giữ đạo sốt sắng…".

Bốn vị tử đạo đạo trong một gia đình, thật là kết quả hết sức lớn lao của nền giáo dục đạo đức đó.

Một lòng vì Giáo Hội

Đặc biệt quan tâm đến tương lai của Giáo Hội, ông Trùm Đích rất yêu quý các giáo sĩ và chủng sinh, quảng đại tiếp đón và giúp đỡ về vật chất. Thời gian chủng viện Kẻ Vĩnh bị nạn dịch tả, nhiều chủng sinh ly trần, các bề trên quyết định phân tán các chú. Ông trùm Đích tình nguyện nhận một số, vừa nuôi dưỡng, vừa săn sóc chữa bệnh cho đến khi hoàn toàn bình phục, không xá kể lao nhọc tốn phí.

Đức bác ái của ông còn tỏ ra qua lòng thương người nghèo, và việc thường xuyên thăm viếng an ủi những người mắc bệnh phong cùi. Chính thế giá và nhân đức của ông mà người ta gọi ông là "Trùm", mặc dù ông không giữ nhiệm vụ ấy.

Gặp thời cấm đạo ngặt nghèo, ông cho trú ẩn tại nhà và nuôi dưỡng trong hai năm một lớp chủng viện. Đức cha Havard Du, Giám mục giáo phận, cũng đã trú ẩn tại nhà ông trong thời kỳ cấm đạo triều vua Minh Mạng.

Vị gia trưởng đáng kính

Quan Tổng đốc Trịnh Quang Khanh dùng mọi phương thế, từ thuyết phục đến tra tấn, để bắt ông trùm Đích bỏ đạo : "Ông đã cao niên, các con đã trưởng thành, các cháu chắt đông đảo, có nhà cửa phong lưu, ông hãy quá khóa để vui hưởng tuổi già với đàn con cháu có hơn không?". Ông Đích trả lời với giọng vững vàng : "Thưa quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo liệu cho chúng. Tôi có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, quan tha hoặc kết tội thì tùy, chứ đừng ép tôi bỏ đạo".

Quan truyền khiêng ông qua Thánh Giá nhưng ông co hai chân lên, tức giận quan truyền đánh đòn ông. vì phải mang gông xiềng, bị tra tấn lại thấy mình già nua yếu đuối, có lúc ông tưởng không chịu nổi gian truân thử thách đến cùng, nhưng may mắn ông vẫn kiên trung tới ngày tử đạo, nhờ ơn Chúa giúp, nhờ sự khuyên nhủ của cha Năm, nhờ lời khích lệ của các bạn tù, nhất là nhờ tấm lòng hy sinh cao cả của con rể chí hiếu, Micae Lý Mỹ. Ông Lý mỹ sau khi lãnh phần mình xong, ba lần chịu đòn thay cho nhạc phụ, ông trùm Đích được mang gông nhẹ hơn.

Ít phải chịu cực hình thân thể, ông gia tăng công nghiệp bề trong bằng việc bác ái và đạo đức. Thực phẩm, tiền bạc cho gia đình tiếp tế, ông chia sẻ cho các bạn tù ngoại giáo. Ông chuyên chú đọc kinh cầu nguyện, xưng tội rước lễ sốt sắng ngay trong nhà giam.

Thấy không thể khuyên dụ ông trùm Đích bỏ đạo, quan làm sới tâu về kinh. Đây là nội dung sớ tâu luận tội:

"Tên Đích tin theo và thực hành tà đạo, dù đã bị cấm. Đã không nộp đạo trưởng Mai Năm cho quan, alị còn chứa chấp, không nghe lời khuyên cáo dạy bảo, nhất là không chịu quá khóa, thật là người cố chấp, bất tuân luật nước. Chúng thần đã nhiều lần truyền buộc y quá khóa trước công đường, nhưng y trả lời : ‘Tôi giữ đạo từ nhỏ, tôi sẵn sáng thà chết chẳng thà bỏ đạo’. Vậy xin luận xử trảm quyết làm gương cho kẻ khác".

Bản án được vua Minh Mạng châu phê chấp thuận ngày 12.08.1838, ông trùm Antôn Nguyễn Đích cùng với linh mục Giacôbê Đỗ Mai Năm và người con rể Micae Nguyễn Huy Mỹ bị điệu ra pháp trường Bảy Mẫu, Nam Định. Sau khi hành quyết linh mục Mai Năm, lý hình chém đầu ông trùm Nguyễn Đích, rồi mới xữ tử ông Lý Mỹ.

Thi hài ông Antôn Nguyễn Đích, 69 tuổi thọ, được rước về làng Kẻ Vĩnh ngay trong đêm đó. dân làng tổ chức lễ qui lăng rất trọng thể, rồi an táng trước nhà ông, nơi ông đã để lại bao gương sáng của một chức sắc và một gia trưởng đáng kính.

Cùng với linh mục Mai Năm và ông Lý Mỹ, ông trùm Antôn Nguyễn Đích, được Đức Giáo Hoàng Lêo XIII suy tôn Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên bậc Hiển thánh

Trường thi tử đạo

Ông Trùm Ðích sinh năm Kỷ Sửu (1769)
Tại Chi Lăng thuộc tỉnh Thành Nam (Ðịnh)
Sau về Kẻ Vĩnh đạo ngoan
Nhà thờ gần gũi dễ dàng sinh nhai

Ông Trùm Ðích lâu dài lập nghiệp
Lập gia đình ở miệt này luôn
Canh nông căn bản bán buôn
Trời cho sinh hạ được luôn mười người

Gia đình sống vui tươi hạnh phúc
Chịu khó làm sung túc ấm no
Việc lành đạo đức chăm lo
Ðọc kinh cầu nguyện Chúa cho an bình

Với làng xóm trọng tình huynh đệ
Ông hiền lành tử tế hài hòa
Vợ con chẳng có chửi la
Nhưng luôn khuyên nhủ thực thà tín trung

Người túng thiếu trong vùng đến trọ
Ông sẵn sàng cho họ ở ngay
Phải tuân điều kiện sau này
Kinh chung sớm tối chẳng thay đổi gì

Tôi chấp nhận thực thi lời hứa
Ðây hồng ân do Chúa thương ban
Gương lành ông Ðích đã làm
Dắt dìu huynh đệ cùng tham gia vào

Với con cái đề cao giáo dục
Chẳng nuông chiều, hối thúc hiếu trung
Ông người uy tín trong vùng
Phong là Trùm họ tôn sùng quý ông

Với các Ðấng ông không quản ngại
Cả gia đình con cái đảm lo
Ðón đưa các Ðấng giúp cho
Thừa sai tu sĩ chỉ lo rao truyền

Một năm ấy bỗng thì dịch tả
Trong nhà dòng như đã bị lây
Ông Trùm Ðích đón các Thầy
Về nhà săn sóc lo đầy thuốc thang

Lúc hết dịch dân làng mạnh khỏe
Ðưa các Thầy vui vẻ nhà chung
Ðức Giám mục ở trong vùng
Muốn bù phí tổn góp cùng giáo dân

Ông Trùm Ðích nhận phần đài thọ
Ít lâu sau tình thế đổi thay
Vua ra sắc lệnh ác này
Thừa sai chứa chấp thẳng tay chém đầu

Ông Trùm Ðích từ lâu vẫn đón
Ðức Cha Dụ thường trốn ở nhà
Cha Năm liên tục vào ra
Như tình huynh đệ rất là thân thương

Ông còn giúp lỡ đường sớm tối
Người bệnh cùi tìm lối thuốc thang
Ông đâu có phải trùm làng
Ðược người quý mến phong mang tên Trùm

Ông tìm kẻ làm dùm giúp việc
Tên Tỷ, Xuân quanh miệt tới làm
Ai ngờ đâu kẻ mưu gian
Vào nhà do thám để làm nội công

Chúng về tỉnh lập công tố cáo
Bắt Cha Năm trói ráo cả Trùm
Cha Năm ông Ðích bị cùm
Củi tre chật hẹp cúi khum khổ hình

Chúng dẫn giải lý hình xử trảm
Cả ba người thê thảm pháp trường
Lý Thi lãnh xác đảm đương
Quan tài tẩm liệm trên đường tiễn đưa

Về Kẻ Vĩnh không thua đám rước
Ðông giáo dân đốt đuốc sáng trưng
Thật là náo nhiệt tưng bừng
Ba vị tử đạo đón mừng hồng ân

Mộ Trùm Ðích vua cần khai quật
Tưởng giấu vàng mở lật tấm thiên
Gia đình đau xót buồn phiền
Trở về tro bụi không yên dưới mồ

Phúc tử đạo tung hô Mậu Tuất (1838)
Ðẹp danh Cha chẳng khuất phục vua
Roma lừng lẫy tung hô
Suy tôn Canh Tý (1900) tín đồ trung kiên

Lời bất hủ: Quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh dùng mọi phương thế để bắt ông Trùm Ðích bỏ đạo. Ông Ðích trả lời với giọng vững vàng: "Thưa quan, con cháu chi cũng mặc, tôi đã lo liệu cho chúng. Tôi có bổn phận tôn thờ Thiên Chúa, quan tha hoặc kết tội thì tuỳ, chứ đừng ép tôi bỏ đạo".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
cong danh (17-07-2009)
Cũ 17-07-2009   #7
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.123
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
6. Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh(Năm) (1768-1840)

Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh (Năm) là một y sĩ và là thầy giảng; sinh năm 1768 tại Mỹ Hương, Quảng Bình; chết 10 tháng 7 năm 1840 tại Ðồng Hới. Ngài bị bắt năm 1838 vì thuộc Hội Thừa Sai Balê. Trong hai năm tù ngài chăm lo cho các tù nhân và chịu đựng nhiều cuộc tra tấn. Bị xử giảo (thắt cổ) chết. Đức Lêo XIII suy tôn ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh lên bậc chân phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.Ngày Lễ kính 10 tháng 7.

Vay mượn để giúp người

"Nếu bà và các con không cho tôi lấy của nhà giúp người, tôi sẽ đi vay mượn hoặc làm thuê, kiếm tiền giúp họ". Đó là một câu nói đầy cương quyết nhưng chân thành của quan vệ uý, cũng là ông lang và là ông trùm : Ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh. Câu nói đó cho chúng tôi thấy và hiểu về một cuộc đời 72 năm phục vụ con người để phục vụ Thiên Chúa.

Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh sinh năm 1768 tại làng Mỹ Hương, huyện Lệ Thủy tỉnh Quảng Bình. Cha là Antôn Nguyễn Hữu Hiệp, mẹ là Mađalêna Lộc. Theo gia phả ông Quỳnh là con cháu đời 15 của đệ nhất Công Thần Nguyễn Trãi (1380-1442). Vì là con thứ năm, nên thường được gọi là Năm Quỳnh.

Thời niên thiếu, cậu xin làm đệ tử Đức Cha Labartette Bình có ý học làm linh mục, nhưng vì hai người anh trai cũng xin đi tu nên gia đình gọi cậu về để nối dõi tông đường. Năm 1800, theo việc cắt cử của làng xã, anh gia nhập đội quân của Nguyễn Ánh, góp phần chiến thắng quân Cảnh Thịnh và được thăng chức Vệ Uý. Đến khi đất nước đã thống nhất (1802), Gia Long lên ngôi, ông thấy đời quân ngũ không thích hợp, liền xin giải ngũ. Trở về quê nhà, ông mua một thửa đất canh tác và buôn bán thêm để sinh sống. Đồng thời ông dành nhiều giờ đọc thêm nghề thuốc, và dần dần trở thành một lương y nổi tiếng khắp vùng. Nhờ đó kinh tế gia đình ngày càng khá giả hơn.

Gia đình, xã hội và giáo hội

Thế nhưng đối với ông Quỳnh, tài sản khả năng Chúa ban cho là để phục vụ mọi người, nên thay vì thu tích cho bản thân, ông quan tâm phục vụ dân nghèo một cách tận tình. Đối với họ ông chữa bệnh miễn phí, săn sóc và đôi khi còn tặng họ thêm tiền để làm vốn nữa. Khi vợ con lên tiếng kỳ kèo, ông trả lời rằng : "Tôi chưa thấy những ai hay giúp đỡ người nghèo khó mà túng bấn bao giờ. Kinh thánh chẳng dạy chúng ta phải coi họ như chi thể của Chúa đó sao ? Chúa đã cho chúng ta sống tất sẽ quan phòng cho ta đủ dùng".

Khi các con khôn lớn, ông nói với chúng : "Cha đã nuôi dưỡng các con từ nhỏ, nay đã lớn khôn, các con sẽ lo tất cả cho gia đình. Cha muốn để dành tiền bán thuốc để chia sẻ với bà con nghèo khổ"

Lòng thương người của ông được biểu hiện rõ rệt hơn khi làng ông gặp thời kỳ dịch tả. Ông bỏ ra cả hàng trăm quan tiền để phát thuốc nuôi dưỡng và chăm sóc các bệnh nhân cách tận tuỵ quên mình. Thế nhưng tinh thần bác ái Kitô giáo đòi ông phải đi xa hơn một bước nữa. Ông vâng lời Đức Cha Labartette Bình dạy giáo lý trong hạt. Để phục vụ con người một cách trọn vẹn hơn cả xác lẫn hồn, ông Năm Quỳnh nhận lời làng Mỹ Hương giữ chức trùm trưởng.

Trong thời cấm đạo các linh mục tu sĩ phải rút vào bóng tối, vai trò của những người như ông rất cần thiết. Từ nay nhà ông biến thành lớp giáo lý trong hạt, thành nơi tiếp nhận các thừa sai và giáo sĩ. Từ nay ông đứng ra điều khiển tổ chức mọi sinh hoạt kinh nguyện, tang lễ và bác ái trong vùng. Tuổi càng cao, ông càng sắp xếp công việc một cách trọn vẹn và chín chắn hơn, do đó ông càng được mọi người tin phục. Điều đáng lưu tâm là dầu bận rộn với công việc tông đồ, ông vẫn khéo léo chăm sóc dạy dỗ con cái sống Tin Mừng. Cô gái lớn gia nhập dòng mến Thánh Giá, sau làm bà nhất toàn thể dòng mến Thánh Giá giáo phận. Những người con khác cũng theo gương ông: trung kiên với niềm tin, và cùng với ông quên lợi riêng để lo cho công ích.

Hoa quả của đức tin

Năm 1838, vua Minh Mạng ra lệnh truy nã linh mục thừa sai Candalh Kim. Ông Quỳnh thân hành đưa cha lên Kim Sen, một trang trại cũ của tổ tiên mình, và đem theo một số sách vở cũ, ảng tượng của xứ Mỹ Hương. Thấy ông đi vắng lâu ngày, quan sai lính đến nhà ông khám xét. Họ lôi các đầy tớ ra đánh đập tra khảo, một người sợ quá đã khai ra chỗ ở của chủ. Khi đó quan định bắt luôn bà Quỳnh và hai cô con gái út, một cô 14 tuổi, một cô 10 tuổi đang ở nhà. Quan cưỡng bức ba mẹ con xuất giáo nhưng không ai tuân lệnh. Tức giận quan cho lính đánh vào chân hai đứa bé để ép buộc bước qua Thánh Giá, hai cô vẫn không chịu khuất phục. Đám lính liền xông đến lôi kéo hai chị em bứơc qua. Dĩ nhiên với tuổi nhỏ sức yếu, hai cô bé không thể chống cưỡng lại được, nhưng một mực hai cô bé kêu khóc mình bị ép buộc, chứ lòng luôn luôn tôn kính Thánh Giá. Quan không dấu được sự thán phục tấm lòng son sắt, và đã tha cho cả ba mẹ con.

Tiếp đó quân lính đến vây trại Kim Sen. Sau khi bắt được ông Quỳnh và thâu được một số sách đạo, họ liền áp giải ông về Đồng Hới. Giữa đường ông nhắn tin một người con kín đáo đến gặp và hối lộ cho lính 50 quan tiền để đốt sổ ghi tên những người tín hữu trong xứ.

Tại trại giam Đồng Hới, ông Quỳnh vui mừng vì gặp được linh mục thừa sai Borie Cao, cha Điểm, cha Khoa cùng thày Tự. Nhiều lần ông cũng bị tra tấn chung với các vị ấy. Nhưng bao giờ ông cũng tuyên xưng: "Thà chết không thà chối Chúa, dù chỉ trong giây lát". Có lần quan cho lính lôi ông qua Thánh Giá, ôn liền lớn tiếng phản kháng rằng : "Việc này do quan lớn làm, nếu có tội là quan phạm tội, chứ không phải tôi". Câu nói đó làm quan bực mình truyền đóng gông giải ông về ngục. Mấy bữa sau quan hỏi cha Cao tại sao ông Năm lại cứng cổ đến thế. Vị thừa sai trả lời: "Các giáo hữu bước qua Thánh Giá vì họ không hiểu rõ giáo lý và nhát gan, còn ông Năm đã am tường lẽ đạo, lại mạnh mẽ đức tin, quan lớn cưỡng bách mấy cũng vô ích, chẳng có lợi gì đâu". Thất vọng quan gởi án về kinh đô. Đức Cha Cao bị án trảm quyết (chặt đầu), hai cha Điểm, cha Khoa thì bị kết án xử giảo ngay, còn thày Tự và ông Antôn cũng bị xử giảo nhưng "giam hậu", nghĩa là lệnh xử sẽ ban hành sau.

Thời gian trôi qua quá nhanh thấm thoát ông Quỳnh và Thày Tự đã giam hai năm tròn. Trong thời gian đó quan sốt ruột gởi sớ về kinh ba bốn lần xin xử tử, nhưng vua Minh Mạng cứ trì hoãn, viết thư khuyên quan quân cứ từ từ kiên nhẫn. Trong một lá thư gởi về hội Thừa Sai, cha Miche Mịch giải thích lý do như sau:

"Ông Antôn quen biết nhiều các quan, lại từng chữa bệnh cho nhiều vị quan nữa. Rất nhiều người biết đến nhân đức và kiến thức của ông nên trọng nể. Do đó, thái độ của ông có tầm ảnh hưởng lớn trong dân. Đối với họ, cướp được con mồi lớn như thế từ tay Đức Giêsu là một chiến thắng lớn lao. Thế nên chẳng lạ gì "hỏa ngục" phải tìm trăm nghìn phương kế để dành lại phần thắng sắp mất".

Phần ông Quỳnh dù đã 72 tuổi, vẫn biểu lộ đức can đảm và nhẫn nại đáng khâm phục. Suốt ngày ông lo đọc kinh cầu nguyện, như mọi giáo hữu ở ngoài, ông giữ chay và yêu thương giúp đỡ mọi người. Nghề lang y của ông vẫn có cơ hội dùng đến, có lần ông chữa cho một viên quan ở Đồng Hới, và nhất là chữa bệnh cho các bạn tù đồng số phận.

Lời trăn trối sau cùng

Thấy thời gian cũng không làm nản lòng ông Quỳnh, vua Minh Mạng chấp thuận cho quan tỉnh Quảng Bình xử giảo ông ngày 10-07-1840.

Bản tường trình cuối cùng của vị quan có nhiệm vụ xét xử các ngài: "Hạ thần Nguyễn Xuân Quang, quan án tỉnh Quảng Bình, thừa hành theo lệnh của Hoàng Thượng xin tấu trình rằng: Vào tháng 9 năm Minh Mệnh thứ 19, quan tổng đốc có giao nộp một bản án nói rằng đã bắt được tên Nguyễn Khắc Tự, đồ đệ của Thừa Sai Cao (Cha Borie), và một người nữa tên là Nguyễn Hữu Năm đã thú nhận tội cất giấu sách đạo. Quan án Phan Trư đã báo cáo như sau: Nguyễn Hữu Năm có tội vì cất giấu sách đạo, không chịu đạp ảnh và cũng không chịu bỏ đạo. Không phải là đạo trưởng nhưng hắn cũng cứng đầu và có tội như đạo trưởng Khoa và Ðiểm. Vì thế hắn phải xử án chém đầu. Nhưng án này đã được đổi lại ngày 28-11-1838. Còn về tên Nguyễn Khắc Tự giúp việc cho Thừa Sai Cao, đã không chịu đạp ảnh và thuộc hạng cố chấp và bất trị. Vì vậy thần kết án phải đòn 100 roi và lưu đầy xa ba ngàn dặm, tức là đi Phú Yên, khắc vào má bên trái hai chữ 'Tả Ðạo’ và má bên phải hai chữ 'Phú Yên'. Tờ trình của quan án Phan Trư đã được châu phê như sau: Tên Nguyễn Hữu Năm đã cất giấu sách đạo, còn tên Nguyễn Khắc Tự đã không biết hổ thẹn khi giúp việc cho tên mọi rợ (ám chỉ Cố Cao) và cố chấp không đạp ảnh. Hiển nhiên cả hai tên phải xếp vào hạng cố chấp và bất trị. Mặc dù chúng không phải là đạo trưởng, nhưng chúng cũng không kém mù quáng và cố chấp, và vì vậy phải liệt chúng vào số những người đáng ghét. Vậy cả hai phải bị xử giảo giam hậu. Cứ thế mà thi hành.

Năm sau tức là Minh Mệnh nguyên niên thứ 20, theo lệnh Hoàng Thượng hạ thần lại đòi hai tên Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn Khắc Tự ra trước sảnh đường hai ba lần, khuyên nhủ họ thức tỉnh trở về đường ngay. Nhưng chúng vẫn cố chấp như trước, không chịu đạp ảnh. Thần xin lập tờ bá cáo tâu trình Hoàng Thượng: Quả thật hai tên Kitô này không phải là linh mục nhưng mù quáng và cố chấp thật đáng ghét. Thần nghĩ không còn lý gì mà phải giam giữ họ trong tù nữa. Ðó là tờ trình của thần, nhưng các thượng quan trong tòa Tam Pháp lại xét rằng hai tên này phải xử giảo ngay. Ðến tháng 10 thần lại nhận được thư của tòa Tam Pháp truyền rằng theo lệnh của Hoàng Thượng phải hoãn lại việc hành quyết và triệu tập hội đồng hàng tỉnh, thúc ép họ trong tòa xem có hối cải không, rồi trình lại tất cả sự việc và chờ lệnh. Theo lệnh vừa nói, thần lại gọi hai tên tín đồ Kitô ra trước tòa, khuyên bảo và ra lệnh đạp ảnh, từ bỏ cố chấp. Chúng vẫn cương quyết không tuân lệnh. Chứng tỏ chúng vẫn chìm đắm trong u mê mù quáng. Vì vậy thần lập tờ trình này để trông thánh chỉ của Hoàng Thượng".

Lệnh cuối cùng của Vua Minh Mệnh: "Chúng tôi, Võ Xuân Cẩn, Bùi Ngọc Quí và Ðinh Văn Huy, vâng theo lệnh Hoàng Thượng, đã xét tờ trình của quan vào ngày 21-5. Chúng tôi truyền lệnh như sau: Tên Nguyễn Hữu Năm và Nguyễn Khắc Tự theo tà đạo, tội đáng chết. Nhưng vì chúng thuộc hạng lê dân ngu dốt và vì lòng nhân từ của Hoàng Thượng không muốn đối xử cay nghiệt nên đã không ngừng ra lệnh cho các quan phải khuyên nhủ chúng sửa đổi để được ơn khoan hồng. Thế nhưng hai tên tội phạm vẫn ngụp lặn trong u mê mù quáng và cố chấp không chịu đạp ảnh. Vì vậy chúng đã tự chuốc lấy án chết. Vậy hai tội phạm phải bị xử giảo không trì hoãn nữa để cái chết của chúng răn bảo những kẻ còn cố chấp không biết tự cải hóạ Cứ thế mà thi hành".

Khoảng 100 binh lính dẫn ông ra pháp trường chung với thày Tự. Đến nơi hai vị hỏi chỗ xử Đức Cha Cao và hai linh mục Khoa và Điểm năm trước, rồi dừng lại đúng chỗ đó mà cầu nguyện : "Lạy Chúa xin tạ ơn Chúa cho con được ân phúc như các ngài…" Nguyện cầu xong, ngồi xuống, ông Quỳnh bình tĩnh chậm rãi hút hết điếu thuốc được quan trao cho.

Hai người con đến từ giã, ông nhắc họ qua giã biệt thấy Tự, xin thày về bên Chúa nhớ khẩn cầu cho các con. Thế rồi ông nói những lời sau cùng : "Cha gởi lời chào các chức sắc và anh em giáo hữu Mỹ Hương. Cầu chúc mọi người bình an, trung thành giữ đạo. Hãy yêu thương nhau và sống đạo đức, các con sẽ gặp lại cha trên Thiên Đường"

Nói xong ông nằm xuống trên chiếu trải sẵn, ông quỳnh giang tay ra nói : "Xưa Chúa cũng chịu giang tay như thế này để chịu đóng đinh". Quân lính tròng dây qua cổ và giữa tiếng thanh la vang rền. Họ mạnh tay xiết chặt hai đầu dây, đưa người tôi trung của Đức Kitô về hưởng hạnh phúc trường sinh.

Đức Lêo XIII suy tôn ông Antôn Nguyễn Hữu Quỳnh lên bậc chân phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Ngày nay mọi người vẫn còn cảm kích với hai câu thơ khắc trên bia mộ ông Quỳnh ở xứ Kim Sen, nơi thi hài ông được an táng với tổ tiên dòng họ :

"Nghĩa khí nêu cao trên đất nước,
Oai linh phù hộ khắp non sông"

Trường thi tử đạo

Antôn Quỳnh sinh năm Mậu Tý (1768)
Làng Mỹ Hương tỉnh lỵ Quảng Bình
Hai anh tu học chủng sinh
Mẹ Cha bắt lập gia đình bản thân

Khi tới tuổi vua cần bắt lính
Gia nhập vào có tính hiên ngang
Phú Xuân giặc giã dẹp tan
Anh thật can đảm phong hàm chức cai

Hết loạn lạc anh khai xuất ngũ
Về gia đình bạn rủ học nghề
Bán buôn làm thuốc làm thuê
Mát tay thầy thuốc, hết chê tiếng đồn

Coi người bệnh sớm hôm thăm viếng
Với tình thương thực hiện lòng nhân
Tiền bạc bác ái ân cần
Chỉ lo giúp đỡ xa gần bệnh nhân

Làng Mỹ Hương đang cần trùm trưởng
Ðã chọn ông trọng thưởng công đầu
Ðức cha để ý ông lâu
Muốn phong Thầy giảng, phép mầu cho ông

Vua Minh Mệnh tấn công bắt đạo
Rất gắt gao xục xạo khắp nơi
Thừa sai chạy trốn tơi bời
Việt Nam đạo trưởng, cũng thời trốn chui

Cố Kim sai tới lui làng cũ
Lấy đồ dùng, ông Dụ gia nhân
Lính liền chận lại cầm chân
Trùm Quỳnh dấu Cố, xa gần nơi đâu

Ông Dụ chối, hồi lâu thú nhận
Có đồ đạo ở tận Kim Sen
Quân quan vội vã đuốc đèn
Bao người có mặt, quan bèn bắt ngay

Người con cả đem ngay tiền chuộc
Ðược tha ra chỉ buộc Trùm Năm
Chuyển về Ðồng Hới giam cầm
Giải đi khám lớn, trung tâm nhốt tù

Tại khám lớn là khu đạo trưởng
Cùng Thừa sai được hưởng xiềng gông
Nơi đây nhốt cũng khá đông
Bao người thăm viếng, cộng đồng giáo dân

Quan Lệ Thủy lại gần tra hỏi
Ông Trùm Năm chỉ nói mấy cha
Bắt giam bị nhốt trong nhà
Không khai vị khác, thật là khôn ngoan

Ông bị tra dã man khổ cực
Nhưng vững lòng nhất mực không khai
Quan bộ tức giận tát tai
Ông không quá khóa, quan sai lính liền

Khiêng qua ảnh, buồn phiền ông nói
Ðó quan làm theo lối bạo quyền
Trước mặt Chúa, tôi bình yên
Lòng tôi kiên vững, một niềm đức tin

Con ông Năm đã tìm đến báo
Cho hai vị tử đạo biết ngay
Trối trăn mọi việc trao tay
Nhà tù đóng cửa chẳng tày tiếp ai

Riêng hai vị kêu nài khẩn nguyện
Ra pháp trường trực diện sẵn sàng
Lý hình hống hách gươm mang
Tay vung một nhát nhẹ nhàng đầu rơi

Quan cho phép vào thời lấy xác
Ðem về chôn phó thác nghĩa trang
Mồ êm mả ấm Nghệ An
Hồn về Thiên quốc Chúa ban phúc lành

Phúc tử đạo ghi danh Canh Tý (1840)
Một danh y thiện chí thương người
Sáng danh Chúa cả trên Trời
Suy tôn Canh Tý (1900) tuyệt vời thánh nhân

ời bất hủ: Ông tuyên xưng đức tin trước các quan. "Thà chết không thà chối đạo, dù chỉ là trong giây lát". Quan cho lính lôi ông qua Thập giá, ông lớn tiếng phản kháng: "Việc này do quan lớn làm, nếu có tội là quan phạm tội, chứ không phải tôi". Thánh nhân khuyên các con: "Cha đã nuôi dưỡng các con từ nhỏ, nay đã lớn khôn, các con sẽ lo tất cả cho gia đình. Cha muốn dành tiền bán thuốc để chia sẻ với bà con nghèo khó".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
cong danh (17-07-2009)
Cũ 17-07-2009   #8
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.123
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
7. Anê Lê Thị Thành (1781-1841)

Anê Lê Thị Thành (Bà Ðê) , Phụ nữ có chồng; sinh năm 1781 tại Bái-Ðền, Thanh Hóa; chết rũ tù ngày 12 tháng 7 năm 1841, tại Nam-Ðinh. Ngài sanh trưởng trong một gia đình công giáo và là mẹ của 6 người con. Ngài bị bắt khi đem thư của các vị thừa sai bị nhốt trong tù, và bị bắt. Phong Á Thánh 1909. Ngày Lễ: 12 tháng 7.

Thánh nữ tiên khởi Việt Nam

Nhìn lại lịch sử Giáo hội Công giáo Việt Nam, số chị em phụ nữ góp phần xương máu làm chứng đức tin không phải là ít. Tuy nhiên tinh thần kiên cường bất khuất vì Đức tin kitô giáo của thánh nữ Anê Lê thị Thành là một mẫu gương hiếm có. Chính quan tổng đốc Trịnh Quang Khanh nổi tiếng "hùm xám tỉnh Nam" (Nam Định) cùng đành phải bất lực trong việc thuyết phục bà chối đạo. Quan áp dụng nhiều phương thế, từ khuyên dụ ngon ngọtt đến tra tấn nhục hình, gông xiềng, đòn đánh đến tan nát thân mình, cũng không thể lung lạc đức tin trung kiên của thánh nữ. Những giọt máu tung toé vì đòn vọt đã trở nên những bông hoa hồng kết thành triều thiên tử đạo, phần thưởng tuyệt hảo Thiên Chúa trọng thưởng : Anê Lê thị Thành, thánh nữ tiên khởi của Giáo Hội Công Giáo Việt Nam.

Người mẹ gương mẫu

Anê Lê thị Thành sinh khoảng 1781 tại làng Bái Điền, huyện Yên Định, tỉnh Thanh Hoá. Ngay từ nhỏ, cô Thành đã theo Mẹ về quê ngoại ở Phúc Nhạc, một giáo xứ lớn nay thuộc giáo phận Phát Diệm, tỉnh Ninh Bình. Năm 17 tuổi cô kết hôn cùng anh nguyễn Văn Nhất, người cùng xã, và sống với nhau rất hạnh phúc, thuận hoà sinh hạ được hai con trai tên Đê và trân và bốn gái : Thu, Năm, Nhiên, Nụ. Tục lệ địa phương thường gọi tên cha mẹ bằng tên người con đầu lòng, vì thế mới có tên ông Đê, bà Đê. Hai ông bà sống hiền lành đạo đức, rất quan tâm đến việc giáo dục con cái. Cô Lucia Nụ, con gái út cung khai khi giáo quyền thẩm vấn trong việc điều tra phong thánh như sau :

"Thân mẫu chúng tôi rất chăm lo việc giáo dục chúng tôi. Chính người dạy chúng tôi học chữ và giáo lý, sau dạy cách tham dự thánh lễ và xưng tội rước lễ. Người không để chúng tôi biếng nhác việc xưng tội. Khi chúng tôi lơ là, người thúc dục chúng tôi bằng được mới thôi. Người cho chúng tôi nhập hội con Đức Mẹ, vào ban thiếu nữ thưa kinh ở nhà thờ".

Một người con khác, cô Anna Năm cũng xác minh : "Song thân chúng tôi chỉ gả con gái cho những thanh niên đạo hạnh. Sau khi tôi kết hôn thân mẫu thường đến thăm chúng tôi và khuyên bảo những điều tốt lành. Có lần người dạy tôi : Tuân theo ý Chúa con lập gia đình là gánh rất nặng. Con phải ăn ở khôn ngoan, đừng cãi lời cha mẹ chồng. Hãy vui long đón nhận Thánh Giá chúa gởi cho. Người cũng thong khuyên vợ chồng tôi : "Hai con hãy sống hòa hợp, an vui, đừng để ai nghe chúng con cãi nhau bao giờ".

Bà Anê Đê thật là tấm gương sáng về đạo hạnh cho các bà mẹ công giáo.

Từ bác ái đến tử đạo

Ông bà Đê có long bác ái hay thương giúp đỡ người, nhất là trọng kính và sốt sắng giúp đỡ các linh mục gặp khó khăn trong thời cấm đạo. Ông bà dành một khu nhà đặc biệt để các linh mục thừa sai trú ẩn. Chính đức ái đó đã đưa bà Đê đến phúc Tử Đạo.

Tháng 03.1841 đời vua Thiệu Trị, có bốn linh mục hiện diện tại làng Phúc Nhạc. Cha Berneux Nhân ở nhà ông tổng Phaolô Thức, cha Galy Lý ở nhà ông Trùm Cơ, cha Thành ở nhà bà Đê và cha Ngân ở một nhà khác.

Một người tên Đễ theo giúp cha Thành muốn lập công và tham tiền đã mật báo tin các linh mục trú ẩn cho quan Tổng Đốc Trịnh Quang Khanh. Chính quan Tổng Đốc đích thân chỉ huy 500 lính đột xuất bao vây làng Phúc Nhạc vào đúng sáng ngày lễ phục sinh (14.04.1841). Quan truyền tập trung giáo dân lại để quân lính lục soát từng nhà. Hai cha Thành và Ngân trốn thoát kịp. Cha Nhân vừa dâng lễ xong vội rời khỏi nhà trọ, sang trốn trên gác bếp nhà phước Mến Thánh Giá, nhưng vô tình để gấu áo ra ngoài kẽ ván nên bị bắt trứơc nhất. Cha Lý được ông Trùm Cơ đưa sang vườn nhà bà Đê ở sát bên. Bà Đê chỉ cho cha đường mương khô ở sau vườn cạnh một bụi tre : "Xin cha ẩn dưới rãnh này, Đức Chúa Trời gìn giữ thì cha thoát, bằng không cha và con đều bị bắt".

Nói xong bà cùng con gái Lucia Nụ lấy rơm và cành khô che phủ lên, nhưng quân lính đã trông thấy cha chạy qua vườn nhà bà, nên họ đến bắt cha Lý và Đê, chủ nhà. Ông Trùm Cơ, bốn hương chức trong làng và hai nữ tu Mến Thánh Giá Anna Kiêm và Anê Thanh cũng bị bắt. Tất cả bị trói mang gông điệu ra đình làng. Nhà bà Đê bị lục soát, thóc lúa, đồ dùng, tiền bạc đều bị lính lấy hết. Khi bị bắt, bà Đê rất sợ hãi, nhưng khi điệu bà ra đình làng thì gương mặt bà vui tươi và không có vẻ gì là sợ sệt nữa.

Mặc áo hoa hồng

Quân lính áp giải các nạn nhân về Gia Định. Họ phải đi suốt đêm rất cực nhọc. Bà Đê sức yếu, không chịu nổi gông quá nặng, phải có người nâng đỡ nhiều lần. Tới thành Nam bà bị giam chung với hai nữ tu. Sáu ngày sau ra trước công đường, quan tòa bắt bà chối đạo bà đáp : "Tôi chỉ tôn thờ Thiên Chúa, không bao giờ tôi bỏ đạo Chúa muôn đời…"

Các quan truyền đánh đòn bà. Lúc đầu lính đánh bằng roi, sau dùng củi lớn quật vào chân bà. Bà không nản lòng, khi chồng bà đến thăm, bà giải thích vì sao bà kiên tâm như vậy : "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Đức mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn"

Đến lần thẩm vấn thứ hai, thứ ba thấy bà Đê vẫn một long trung kiên, quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi bà qua Thánh Gia. Nhưng bà sấp mình xuống đất, kêu lớn tiếng rằng : "Lạy Chúa, xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để để cưỡng bách con đạp lên Thập Giá"

Lần tiếp theo ra trước tòa, quan cho túm tay áo lại rồi thả rắn độc vào trong áo, nhưng bà Đê vẫn giữ được bình tĩnh cách lạ lùng. Bà đứng yên không hề nhúc nhích nên rắn không cắn, chỉ lượn vài vòng rồi bò ra. Các quan truyền đánh bà dữ hơn nữa rồi giam trong ngục. Nhưng bà đã kiệt sức, đi không nổi, phải có người dìu. Một nhân chứng tên Đang, về sau cho biết : "Bà Anê Đê đã bị đánh đập tàn bạo đến nỗi thân mình đầy máu mủ. Tuy vậy bà vẫn vui vẻ, và còn muốn chịu khó hơn nữa". Quả thật bà đã thể hiện trọn vẹn mối phúc thứ tám:

"Tin yêu Chúa Tể muôn trùng ,
Tan vàng nát ngọc chữ trung một lòng".
Cô Lucia Nụ, đến thăm Mẹ trong ngục, thấy y phục thân mẫu loang lỗ máu, cô thương mẹ khóc nức nở, bà an ủi con bằng những lời tràn trề lạc quan : "Con đừng khóc nữa, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu, sao con lại khóc?"

Bà còn khuyên : "Con hãy về chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh Giá chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên Đàng"

Ngoài những cực hình tra tấn nặng nề và ăn uống kham khổ, bà còn chịu thêm đau đớn của bệnh kiết lỵ. Hai nữ tu tận tâm săn sóc bà, các linh mục gởi thuốc đến thăm, ban bí tích giải tội, xức dầu và giúp bà. Trong giờ hấp hối người ta thường nghe bà cầu nguyện : "Lạy Chúa, chúa đã chịu chết vì con, con hết long theo thánh ý Chúa. Xin Chúa tha mọi tội lỗi cho con".

Cuối cùng bà dâng lời sau hết : "Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con được tuân theo ý Chúa trong mọi sự".

Bà Anê Đê đã về nhà cha trên trời trong tinh thần thánh thiện ấy. Hôm đó là ngày 12.07.1841, sau ba tháng bị giam cầm hy sinh vì đức tin. Bà hưởng thọ 60 tuổi.

Theo tục lệ, người lính cho đốt ngón chân bà để cho biết nạn nhân không còn sống. Họ tẩm liệm thi hài vào quan tài do nhà chung đem tới, rồi an táng tại pháp trường Năm Mẫu. Sáu tháng sau, giáo hữu cải táng về Phúc Nhạc.

Ngày 02.05.1909, Đức Piô X đã suy tôn chân phước cho bà Anê Lê Thị Thành. Bà thực xứng danh là gương mẫu và là các bổn mạng các bà mẹ Công Giáo Việt Nam. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Lê Thị Thành sinh năm Tân Sửu (1781)
Tại Bái Ðiền tiêu biểu tỉnh Thành
Khi cấm đạo rất nhiệt thành
Giấu nuôi cha Thị nhà mình vào ra

Xứ Phúc Nhạc bốn cha hiện diện
Riêng cha Thành ẩn hiện một nhà
Bà Ðê quý mến mời cha
Về nhà bà ở để mà tránh quan

Nhưng có kẻ tiền ham tên Ðễ
Một thanh niên theo để giúp cha
Tên này phản bội gian tà
Manh tâm xảo quyệt hắn đà tố quan

Làng Phúc Nhạc có hàng đạo trưởng
Hắn ham tiền muốn hưởng lập công
Quang Khanh huy động quân đông
Khoảng năm trăm lính chính ông điều hành

Vào sáng sớm Phục sinh cứu thế
Bắt tập trung toàn thể giáo dân
Lính đi lục soát xa gần
Hai cha may mắn lẹ chân Ngân, Thành

Cha dâng thánh lễ nhanh rời vi
Gác bếp kia máng xối chui lên
Vội vàng cha lỡ để quên
Vô tình gấu áo ló bên xối nhà

Bọn lính thấy hò la tới bắt
Còn cha Lý chạy tắt Trùm Cơ
Vườn bên ẩn nấp nương nhờ
Bà Ðê lấy lá che hờ phủ lên

Nhưng một lính đứng bên nhìn thấy
Có bóng người vườn ấy chạy sang
Bụi cây chúng bắt quả tang
Bắt ngay cha Lý liên can chủ nhà

Bắt bà Ðê rất là sợ hãi
Lính trói ngay chúng giải đình làng
Nơi đây trình diện với quan
Bà Ðê gương mặt vững vàng vui tươi

Nạn nhân điệu về nơi thị xã
Ði suốt đêm mệt lả rã rời
Bà Ðê sức yếu hụt hơi
Mang gông quá nặng phải người tiếp tay

Về Nam Ðịnh đưa ngay vô nhốt
Ðược giam chung dịp tốt nữ tu
Cùng nhau trao đổi trong tù
Thêm lòng can đảm đòn thù tấn tra

Trước quan tòa bắt bà bỏ đạo
Bà đáp lời Chúa tạo muôn loài
Tôn vinh Thiên Chúa quản cai
Tôi luôn kính trọng thờ Ngài Chí Tôn

Quan tức giận lính dồn đòn đánh
Lính dùng roi với thanh củi dài
Vô cùng hung dữ trần ai
Bà luôn khẩn nguyện kêu nài Nữ Trinh

Xin Mẹ hãy thương tình giúp đỡ
Ðược kiên tâm luôn ở trong Cha
Vì con yếu đuối đàn bà
Nhiều lần thẩm vấn trước tòa quan quân

Bà sấp mình nhiều lần kêu tiếng
Xin Chúa thương đến viếng cứu con
Ðể con giữ đạo vuông tròn
Chồng con thăm viếng héo hon u buồn

Nhưng bà vẫn luôn luôn an ủi
Vinh danh Cha chớ tủi nản lòng
Quan quân bạo lực không xong
Chúng dùng mưu độc muốn hòng thắng thua

Quan Tổng Ðốc cho đùa với rắn
Túm áo quần bỏ rắn vào trong
Toàn loài rắn độc lòng vòng
Bà Ðê bình tĩnh rắn không cắn người

Trịnh Quang Khanh ngồi cười khoái chí
Rắn lượn vòng tự ý bò ra
Quan quân tức giận quá mà
Liền cho lính đánh đập bà dữ hơn

Bà kiệt sức cô đơn trong ngục
Nhưng ý bà tiếp tục nguyện cầu
Cho con chịu khó dài lâu
Thân mình đầy máu từ đầu đến chân

Lời khẩn nguyện là lần sau hết
Xin cho con được chết trong Cha
Cuối cùng bà thở hắt ra
Linh hồn siêu thoát Nước Cha vĩnh hằng

Lễ an táng đất bằng Bảy Mẫu
Sáu tháng sau phối ngẫu, giáo dân
Cháu con thân thuộc xa gần
Ðem về Phúc Nhạc mộ phần thánh nhân

Phúc tử đạo lãnh phần Tân Sửu (1841)
Phận nữ nhi nặng trĩu niềm tin
Roma Toà Thánh hướng nhìn
Suy tôn Kỷ Dậu (1909) đức tin vững vàng

Viết đôi nét về đàng gia tộc
Chồng tới thăm phút chốc nhà tù
Bà khuyên hãy sống khiêm nhu
Trông coi con cái hộ phù Chúa ban

Con thương mẹ nhà giam khổ cực
Bà lại khuyên phải thực là ngoan
Chăm lo đạo đức vững vàng
Giúp cha sớm tối xóm làng thân thương

Bà sống đạo tấm gương hậu thế
Nghĩa vợ chồng dâu rể cháu con
Gia đình hạnh phúc sắt son
Thánh Ðê tử đạo mãi còn khắc ghi

Bà thánh Ðê quê nội ở làng Bái Ðiền, huyện Yên Ðịnh, tỉnh Thanh Hóa. Quê Ngoại ở làng Phúc Nhạc, tỉnh Nam Ðịnh. Năm 17 tuổi lập gia đình quê ngoại với anh Nguyễn Văn Nhất, hạ sanh được 2 trai 4 gái bà hưởng thọ 60 tuổi.

Lời bất hủ: Bà thánh Ðê khuyên các con: "Con hãy về (tức chị Lucia Nụ) chuyển lời mẹ bảo với anh chị em con coi sóc việc nhà, giữ đạo sốt sắng, sáng tối đọc kinh xem lễ, cầu nguyện cho mẹ vác Thánh giá Chúa đến cùng. Chẳng bao lâu mẹ con ta sẽ đoàn tụ trên nước Thiên đàng". Khi chị Nụ thăm mẹ trong tù thấy y phục loang lổ máu, khóc thương, mẹ an ủi: "Con đừng khóc, mẹ mặc áo hoa hồng đấy, mẹ vui lòng chịu khổ vì Chúa Giêsu sao con lại khóc?". Khi chồng bà vào thăm, bà giải thích vì sao bà được kiên tâm như vậy: "Họ đánh đập tôi vô cùng hung dữ, đến đàn ông còn không chịu nổi, nhưng tôi đã được Ðức Mẹ giúp sức, nên tôi không cảm thấy đau đớn". Quân lính được lệnh vừa đánh vừa lôi qua Thánh giá. Nhưng bà sấp mình xuống đất kêu lớn tiếng: "Lạy Chúa xin thương giúp con, con không bao giờ muốn chối bỏ lòng tin Chúa, nhưng vì con là đàn bà yếu đuối, nên họ dùng sức mạnh để cưỡng bức con đạp lên Thánh giá". Cuối cùng bà đã dâng lời cầu sau hết: "Giêsu Maria Giuse! Con xin phó linh hồn và thân xác con trong tay Chúa, xin ban ơn cho con được tuân theo ý Chúa trong mọi sự".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
cong danh (17-07-2009)
Cũ 17-07-2009   #9
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.123
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
8. Augustinô SCHOEFFLER Đông(1822-1851)

Augustinô Đông sinh ngày 22 tháng 11 năm 1822 tại Mittelbronn tỉnh Lorraine, nước Pháp. Từ bé, cậu đã tỏ ra là một người đạo đức, chăm học, siêng năng cầu nguyện và có ý hướng đi tu. Cha xứ nhận đỡ đầu và đưa vào chủng viện giáo phận Nancy. Trong chủng viện cậu tuân giữ đúng đắn kỷ luật, vâng lời bề trên, hoà thuận với bạn bè và học hành xuất sắc, nên được mọi người yêu mến. Đức Lêo XIII suy tôn cha Augustinô Đông lên bậc chân phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 1/05.
Đối với thánh Augustinô Đông sứ mệnh loan báo Tin Mừng là một nhiệm vụ cao cả nhất. đặc biệt cho những vùng truyền giáo xa xôi. Sau khi học triết học và năm thứ nhất thần học, thày Augustinô Đông cảm thấy Chúa kêu gọi mình đi truyền giáo nên xin phép ba mẹ chuyển qua hội Thừa Sai Paris. Thời gian đó, những tin tức về công cuộc truyền giáo ở Đông Nam Á gởi về không được sáng sủa. Đi truyền giáo như đi vào cỏi chết. Do đó song thân thày cố sức ngăn cản. Ông bà nói nhiều lời nặng nề khiển trách con không vâng lời. Augustinô Đông đắn đo nhiều nhưng căn cứ vào lời Chúa: “Ai yêu cha mẹ hơn thày thì không đáng làm môn đệ thày.” (Mt.10,37). Augustinô Đông quyết định gia nhập hội Thừa Sai Paris dù cha mẹ không đồng ý. Khi đó thày viết thư cho một người bạn: “Than ôi, để theo chân Chúa Giêsu vất vả quá, vướng đường nọ mắc đường kia”. Người bạn đó nhắn nhủ: “Việc giảng đạo là việc quan trọng, nếu tự ý làm mà không được Chúa gọi thì nguy cơ mất linh hồn đó”. Thày trả lời: “Xin đừng quên lời Kinh Thánh: Phải vâng lời Thiên Chúa hơn vâng lời người ta.”

Gia nhập hội Thừa Sai ngày 09-10-1846 thì ngày 29-05-1847, thày Augustinô Đông được thụ phong linh mục. Sau đó được gởi đến giáo phận Tây Đàng Ngoài. Khi rời đất Pháp ngài đã nói: “Tôi không biết điều gì sẽ xảy đến với tôi, nhưng điều tệ nhất có thể đến, đó là phải chịu một nhát gươm... Nhưng tôi tin rằng người tội lỗi như tôi sẽ chẳng đáng được ơn trọng ấy”.

Đức Cha Retordd Liêu, vui mừng đón tiếp giữ cha lại trụ sở học tiếng và phong tục Việt Nam, rồi cho cha tháp tùng trong các cuộc kinh lý để hiểu rõ tình hình hơn. Sau đó cử cha lên coi xứ Đoài. Trong nhiệm sở mới cha Đông tích cực làm việc mục vụ và truyền giáo, số người trở lại ngày càng nhiều. Khi vua Tự Đức ra chiếu chỉ cấm đạo năm 1848, cha nói: “Kỳ này trong chúng tôi thế nào cũng có kẻ bị chém, chớ gì người đó là tôi.” Thế nhưng cha vẫn an toàn làm việc trong ba năm.

Ðức Cha Retord (Liêu) viết về cha như sau: "Tôi không được biết thuở thiếu thời của Cha Schoffler, nhưng tôi xét cách ngài sống các nhân đức thì quyết đoán rằng ở Pháp, cậu đã có đời sống gương mẫu cũng như bây giờ là một tông đồ nhiệt thành ở Bắc Việt. Ngài đến Bắc Việt năm 1848. Từ khi đó cho đến khi bị bắt, có ba việc ngài chuyên cần thi hành là: học tiếng Việt, làm việc mục vụ và chịu các bệnh tật. Ngài học tiếng Việt siêng năng đến nỗi sau năm sáu tháng đã có thể giải tội và khuyên bảo giáo dân.... Về việc tông đồ, tôi đã mang cha đi theo trong suốt một năm kinh lý và ban bí tích cho các họ đạo. Một linh mục thừa sai mới sang chưa có kinh nghiệm thì việc quan trọng nhất là phải làm quen với lối giao dịch với các linh mục bản xứ và giáo dân, đồng thời thích ứng với phương pháp truyền giáo và hòa hợp với các vị đàn anh đi trước. Sau một năm theo tôi làm phúc tại Kẻ Bàng 1849, khoảng tháng 10 tôi chỉ cho cha Schoeffler coi xứ Ðoài. Xứ này gồm khoảng mười sáu ngàn giáo dân rải rác trong bốn xứ đạo trên miền núi rừng."

Vẫn theo lời tường thuật của Ðức Cha Retord, Cha Schoeffler rất nhiệt thành trong việc rửa tội, trong một năm ngài đã rửa tội được 200 trẻ ngoại đạo, 41 trẻ con nhà có đạo và 23 người lớn, không kể đến giải tội, xức dầu...

Trong năm 1850 cha Schoeffler bị sốt rét rừng. Năm ấy cha đến mở tuần đại phúc cho xứ Bầu Nọ nơi ghi dấu cuộc xưng đạo của Thừa Sai Cần và ba thầy giảng năm 1837. Năm 1851 Ðức Cha Retord công bố năm thánh, Cha Schoeffler muốn sang xứ Yên Tập để mở năm thánh cho giáo dân tại đây. Trong dịp này có một người ngoại đạo tên là Khanh đi tố cáo với quan tổng là có cố đạo ở làng Bầu Nọ. Quan cho quân mai phục các nẻo đường. Hôm ấy ngày 1-3-1851, thay vì đi ban đêm, ngài nói Cha Phượng và hai chú học trò đi trước nếu có chuyện gì thì báo động. Cha Phượng và hai chú đi vào buổi chiều đến giữa rừng thì bị bắt. Cha Schoeffler và một thầy giáo đi sau không thấy tin báo gì thì cứ vui vẻ đi về hướng Yên Tập. Khi được tin có người rình để bắt thì cha và thầy giáo lẻn vào bụi rậm nhưng ngay lúc ấy quan quân đến vây bắt cha và thầy giáo. Quan bảo lính đánh cha song cha thưa lại: "Việc gì mà phải đánh, đừng có lo, tôi không có trốn đâu".

Quan tổng không muốn giải nộp các ngài vội vì có ý đòi tiền giáo dân, nếu có 100 nén bạc sẽ tha. Mặc dù ngài thưa rằng không thể liệu được bằng ấy tiền nhưng vì quan thúc ép nên ngài nghĩ ra được một mưu nói với quan: "Nếu ông nhất định muốn lấy tiền thì hãy tha bấy nhiêu người giúp tôi đây đi vì chỉ có họ biết chỗ để tiền bạc".

Thế là quan tha cho Cha Phượng, thầy giáo và hai chú học trò. Sau đó ngài rất mừng rỡ vì không còn ai phải khốn vì ngài nữa, bèn giục quan tổng hãy giải về tỉnh Sơn Tây cho mau. Cha Phượng thành thật đi về làng kêu gọi giáo dân đóng góp, nhưng lúc ấy có tin nhắn quan tổng muốn bắt cha lại nên cha lại phải trốn đi. Như thế không có ai hay làng nào bị liên lụy.

Ngày hôm sau quan huyện Nho Lâm giải ngài về tỉnh, giam tạm tại nhà cách dinh quan án. Ngày hôm sau ba quan lớn cho đem thừa sai ra trước công đường để tra hỏi về quê quán và những việc đã làm, về các đồ đạo đã bắt được, và có biết luật nước cấm đạo không. Cha Schoeffler lần lượt trả lời các câu hỏi của quan như sau: "Tôi tên là Augutinh, người Pháp, sinh tại tỉnh Nancy, là đạo trưởng Công Giáo, 29 tuổi. Tôi đã đến đây để giảng đạo cứu rỗi và từ khi đến nước này cho đến nay tôi chỉ chuyên tâm có một việc là rao giảng đạo thật mà thôi. Trước kia ở Pháp, tôi đã biết rõ đạo bị cấm tại nước này và các đạo trưởng phải xử tử. Nhưng chính vì vậy mà tôi càng muốn đến nước này hơn là các nước khác. Từ khi tôi tới đây tôi đã rảo đi nhiều tỉnh, đã ở trong nhiều nhà mà bây giờ tôi không còn nhớ tên nữa, và nếu có nhớ tôi cũng không khai ra với các quan".

Ngày hôm sau các quan lại cho điệu ngài ra hỏi han như hôm trước, và cha trả lời cũng y hệt hôm trước. Hôm ấy là ngày 5-3, quan tổng đốc Ngụy Khắc Trần viết bản án trình về triều đình, bản án có phần chi tiết hoang đường.

Nội dung tờ trình như sau: "Sau khi tham khảo ý với hai quan bộ và quan án sát, sau đây là lời xét đoán của chúng tôi: ‘Tên Aodutinh là một người Tây đã cả gan đến trong nước mặc dù đã có lệnh cấm, hắn rảo qua và dừng lại ở nhiều nơi trong nước để rao giảng đạo, dụ dỗ và lừa dối dân chúng. Hắn đã công khai thú nhận các việc làm. Cần phải áp dụng cho hắn các luật trong sắc lệnh của hoàng thượng. Vậy tên Aodutinh phải xử chém và đầu ném xuống biển hay sông để răn dậy dân chúng. Còn về những người đã theo hắn và cho hắn trú ngụ, hắn thương họ đến nỗi nhất định không bao giờ cung khai ra mặc dù chúng tôi đã tìm mọi cách hỏi han nó. Người có công bắt được hắn cũng không cho biết thêm gì được về vấn đề này. Nếu cứ thúc ép để điều tra cho biết thì có vô số người phải khốn khổ. Vì thế chúng tôi xét theo lời chỉ dậy mật không điều tra thêm nữa. Về phần lý trưởng và những người có công bắt đạo trưởng, chúng tôi đã trọng thưởng để khuyến khích là ba trăm lạng bạc theo như sắc lệnh của vua. Quan lãnh binh đã đem quân đi bắt cũng đáng khen thưởng. Chúng tôi chờ mong lệnh của hoàng thượng và hứa sẽ làm theo. Còn về các đồ đạo tịch thu được chúng tôi xin được lệnh đốt đi. Trên đây là cuộc điều tra chúng tôi đã làm về vụ này và bản án chúng tôi xét xử. Với lòng khiêm phục chúng tôi xin tường trình lên hoàng thượng và cúi đầu chờ thánh chỉ. Tự Ðức năm thứ tư, ngày 5 tháng Hai âm lịch’".

Sau khi các quan làm bản án rồi, Cha Schoeffler được giam vào ngục thất với các tù nhân tội phạm khác và không còn bị tra tấn nào khác, chỉ phải mang gông và cùm thôi. Tuy nhiên những lời bẩn thỉu của những tên trộm cướp làm đau lòng vị thừa sai cùng với trăm ngàn cái khổ hành hạ của lính canh. Ðức Cha Retord sai một thầy mang tiền đút lót để lính không làm khổ ngài và kèm một lá thư an ủi. Vì lính canh chừng nghiêm ngặt nên ngài chỉ đọc thư mà không thể trả lời. Vì có lệnh quan lớn cấm không để một thường dân nào được đến gần, nên có một người tân tòng lén nấu cơm cho cha, và một thầy giảng trá hình làm lính đến thăm ngài được hai ba lần, nhưng cũng chỉ có thể nhìn nhau mà thôi. Một linh mục may mắn được đến gần giải tội cho ngài.

Trong tù Cha Schoeffler vẫn tìm cách giảng đạo cho các bạn tù. Cha đã chinh phục được một người lính tên Chi. Cha nói: "Khi nào tôi bị xử rồi, tôi sẽ nhớ đến anh, và nếu anh muốn hạnh phúc thật thì tìm nơi có đạo mà tin theo đạo".

Người lính này còn thuật lại rằng cha có mấy bức ảnh và sách nguyện trong tù và luôn tỏ ra vui vẻ. Người lính này cũng hứa theo ngài dù ngài phải giải về Huế. Sau khi vị thừa sai bị xử người lính lập gia đình và theo đạo Công Giáo.

Ngày 11-4 lời phê án của triều đình về tới tỉnh. Lời phê án viết như sau: "Chúng tôi đọc tờ trình báo về việc bắt được đạo trưởng Tây tại tỉnh Sơn Tây. Chúng tôi, các quan có nhiệm vụ xét lại, gửi bản ý kiến của chúng tôi đến bản quan trên để cùng với sự đồng ý của quan bộ và quan án sát thi hành lệnh của chúng tôi. Luật của nhà nước được công bố để dậy dỗ dân chúng cho biết úy sợ, đã nghiêm cấm đạo Gia Tô rất ngặt, dầu vậy tên Aodutinh, đạo trưởng đạo này đã dám xâm nhập lén lút trong nước của chúng ta để rao giảng đạo và dụ dỗ lường gạt dân chúng. Bị bắt rồi hắn đã thú nhận tất cả. Vậy tên Aodutinh phải chém đầu ngoài bãi và ném đầu xuống dòng sông để tận diệt những kẻ xấụ Những điều khác hãy theo những điều chúng tôi đã định trước".

Lẽ ra khi nhận được lệnh trung ương quan phải thi hành ngay, nhưng quan lớn cho lệnh tháo gông và lấy xích cột vào chân và cho đem ra ở nhà bên phủ đường. Trước đây quan có lấy một lạng bạc của cha bây giờ được dùng để dọn một bữa cỗ cho cha. Quan đội thường nói truyện hỏi han và rất kính trọng vị thừa sai.

Theo chứng từ của người có mặt và phúc trình của Cha Phượng, hôm 1-5, vào khoảng trưa, quan lớn Ngụy Khắc Tuần cho gọi hai đội quân sửa soạn voi, ngựa và súng, các khí giới đủ loại để làm một cuộc tảo thanh. Mọi người nghĩ là quan quân đi tấn công một nơi nào, nhưng sau mới biết là để áp giải vị anh hùng tử đạo đến pháp trường. Quan lớn làm vậy vì sợ giáo dân đông số có thể đánh tháo cho vị linh mục. Khi đem Cha Ðông ra khỏi tù, nhiều người hối tiếc một vị nhân đức dễ thương như vậy phải chết. Ðám lính gồm 100 người chia thành hai hàng, Cha Schoeffler đi ở giữa có 8 tên lính cầm giáo hộ tống, đàng trước có một tên lính cầm thẻ ghi bản án, đi sau là hai quan lớn cỡi voi. Vị anh hùng tử đạo khi biết đã đến giờ ra pháp trường liền vất bỏ đôi dép để đi chân không cho dễ dàng và mau chóng, biểu lộ nét mặt vui mừng hớn hở. Cha ngẩng cao đầu, giơ cao xích và miệng đọc những lời kinh thật sốt sắng. Một đám đông vô số theo sau đi ra pháp trường ngoài thành quen gọi là Năm Mẫu, họ như bị thôi miên trước sự anh hùng của đạo trưởng. Họ nói: "Thật là anh hùng, người đi chịu chết dường như đi dự đại lễ. Can đảm chừng nào, không có dấu sợ hãi. Ồ đẹp làm sao, hiền hậu làm sao! Tại sao hoàng đế lại chém đầu những người như thế?" Trong đám đông cũng có kẻ xấu miệng nói lời xúc phạm đến đạo.

Tới nơi xử, vị anh hùng xin mấy phút cầu nguyện, quì gối trên bờ ruộng, tay cầm thánh giá nhỏ, hôn kính ba lần. Sau đó theo lời lý hình, ngài cởi áo ra, để trần cổ sẵn sàng đón nhát gươm vinh dự. Lý hình trong khi đó trói hai tay ngài ra sau lưng và buộc vào cọc. Vị anh hùng giục lý hình làm phận sự trong khi mắt ngước trông lên trời. Quan ra lệnh sau ba tiếng chiêng mới được chém. Giây phút trở nên trịnh trọng, ba hàng lính đứng chung quanh như triều thiên, hàng thứ nhất tay cầm gươm sáng, hàng hai tay cầm súng trường và hàng thứ ba tay cầm giáo giơ lên cao. Tiếng chiêng thứ ba vừa dứt, tay run rẩy người lý hình chém không đứt được cổ, phải cứa thêm cho đứt hẳn. Những người chứng kiến vụ hành quyết chỉ là những người không Công Giáo ở Sơn Tây, còn giáo dân thì không được tin kịp.

Ðầu vừa rơi đám người lương ùa vào thấm máu, khác với thói quen là chạy trốn khi một tử tù bị chém. Dân chúng tin rằng đây không phải là một tên tội phạm nhưng là một vị anh hùng xuất chúng, một thánh nhân đáng tôn kính, mang lại hạnh phúc cho người khác. Họ chia nhau các di tích, giây xiềng và xích. Một viên sĩ quan mang theo một tấm áo lụa mới để thấm máu vị anh hùng. Viên sĩ quan này bị đánh mấy roi vì làm như thế. Các lý hình cầm đầu ngài mang đi vất xuống sông nơi vừa rộng vừa sâu nhất. Giáo dân nhiều đêm lặn tìm mà không thấy vì lương dân đã lấy trước để chờ món tiền chuộc khổng lồ. Còn thân thể vị anh hùng tử đạo được giáo dân bỏ vào trong quan tài chôn ngay tại chỗ theo như luật đã định dưới sự canh gác của lính. Ðến đêm thứ hai rạng ngày thứ ba, giáo dân đã lấy trộm xác về chôn trong nhà một lý trưởng Công Giáo, tên là Lý Ngọc, tại Bạch Lộc.

Trường thi tử đạo

Cậu Augutinô sống gương mẫu
Là thanh niên nung nấu thừa sai
Việt Nam truyền giáo lâu dài
Trào lưu gia nhập, sánh vai lên đường

Ði đường biển Ðông Dương Bắc Việt
Tới địa phương đặc biệt tên Ðông
Vườn hoa Giáo hội vun trồng
Nhiệt thành phuc vụ, cộng đồng giáo dân

Ngài học rất chuyên cần tiếng Việt
Sáu tháng sau đã biết nói ngay
Làm việc không kể đêm ngày
Còn mang bệnh tật nơi này nhiễm lây

Suốt một năm, đó đây thăm viếng
Ði tới đâu nổi tiếng giảng rao
Ngồi tòa giải tội ban trao
Giáo dân khuyên nhủ ngọt ngào Phúc âm

Ngài đổi trao sưu tầm kinh nghiệm
Cha Việt Nam trực diện giáo dân
Ðàn anh học hỏi việc cần
Xức dầu rửa tội, xa gần khắp nơi

Tại năm ấy Ngài thời sốt rét
Vẫn cố đi ban phép giải hòa
Mở tuần đại phúc hoan ca
Bầu Nọ giáo xứ, thiết tha chúc lành

Ðức Cha Retord, ngài ra công bố
Cha Ðông, ngài được bổ sai đi
Yên Tập giáo xứ thực thi
Mở màn năm thánh, tức thì tại đây

Người ngoại đạo nơi này tố cáo
Với quan tổng Cố Ðạo về đây
Lính vây thôn ấp tràn đầy
Cho hai chú nhỏ, nơi này dẫn đi

Trên rừng vắng lính thì đã bắt
Tưởng là êm Thầy dắt lên đường
Ðược tin mật báo nhiễu nhương
Thầy Cha lẩn trốn, vào mương bụi rừng

Quan chờ sẵn đã lùng vây bắt
Lính trói tay bẻ quặt ra sau
Ðòn roi tra tấn rất đau
Ðòi tiền để chuộc, ngõ hầu được tha

Trăm nén bạc đó là tiền chuộc
Giá định rồi bắt buộc phải đưa
Cha nói quan lớn xin thưa
Giáo dân tha hết, sẽ đưa đủ tiền

Họ biết trước trong miền có bạc
Quan thuận lòng thả các người ra
Sơn Tây dẫn giải mình Cha
Tiền chưa có chuộc, quan đà khả nghi

Cha Phượng sợ lại thì phải trốn
Ai đảm lo bạc tốn cả trăm
Huyện Nho Lâm tức giận căm
Liền giải về tỉnh, cho nằm nhà pha

Dinh quan án tra tấn xét hỏi
Thừa sai hành động nói ta nghe
Cha Ðông chẳng có dấu che
Tôi là đạo trưởng, nói nghe đạo trời
Lên đường đi khắp nơi rao giảng
Những điều lành quan cản cấm tôi
Luật vua nghiêm cấm lâu rồi
Nhưng tôi càng muốn, phục hồi giảng rao

Rời đất Pháp bước vào đất Việt
Ðã được nghe và biết vẫn đi
Cha Ðông gan dạ ngồi lỳ
Các nơi tôi đến, sẽ thì không khai

Một người lính theo Ngài về Huế
Lập gia đình giai tế tân tòng
Giatô đạo Chúa cầu mong
Cha Ðông gương mẫu, sáng trong rạng ngời

Ra pháp trường bỏ đôi dép ấy
Ði chân không cảm thấy nhẹ nhàng
Ngẩng đầu nét mặt hiên ngang
Cầm lòng sốt sắng nhẹ nhàng đọc kinh

Ngài ngước mắt như nhìn vũ trụ
Lý hình theo nhiệm vụ chém đầu
Ba hồi chiêng trống dài lâu
Xác thân ngã gục, còn đầu bay xa

Người chứng kiến gần xa lương giáo
Ðã ùa vào thấm ráo máu người
Ðầu Ngài máu đỏ thắm tươi
Lý hình đem vứt, chìm thời đáy sông

Giáo dân tới mà không tìm thấy
Xác thân Ngài khi ấy đã chôn
Mưu mô kẻ xấu đã đồn
Ðể đòi tiền chuộc, sức dồn ép cao

Giáo dân dù giá nào cũng nhận
Chỉ cần sao tiếp cận thấy đầu
Hồng ân tử đạo nhiệm mầu
Ngài làm phép lạ, ngõ hầu hiển nhiên

Ông Lý Ngọc gặp liền may mắn
Khỏi ốm đau vợ mắn sinh trai
Những người can dự bắt Ngài
Rừng sâu chết thảm không ai đoái nhìn

Người ngoại đạo đã tin trở lại
Xưng đạo trời loan tải Thánh Kinh
Rất nhiều phép lạ điển hình
Sử xanh Giáo hội tường trình Rôma

Augustinô Ðông tải ba linh mục
Sinh Nhâm Ngọ (1822) quê thực Paris
Viễn Ðông truyền giáo xin đi
Nhâm Tý (1852) tử đạo uy nghi danh Ngài

Khắp Giáo hội trần ai ghi nhớ
Các Thừa sai bắt bớ xem thường
Roma Toà Thánh mến thương
Suy tôn Canh Tý (1900) hành hương Nước Trời

Lời bất hủ: Khi bị bắt, dọc đường cha gặp một tín hữu cha nói: "Hãy về nói với anh chị em, đừng lo sợ gì hết, dù thế nào tôi cũng không khai một ai cả".
Quan tra hỏi cha đáp: "Tôi tên là Augustinô, quê ở nước Pháp, tôi năm nay 29 tuổi, tôi đến đây chỉ để giảng đạo Ðức Chúa Trời. Tôi đã biết An Nam cấm đạo ngặt, nhưng tôi không sợ xử tử. Còn việc ở đâu, tôi sẽ không nói, đừng hỏi làm gì".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này:
cong danh (17-07-2009)
Trả lời

Tags
118 thánh tử đạo việt nam


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 17:19
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,25742 seconds with 15 queries