Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Nhã Thi Viên > Thi Thơ Đối Đáp
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Thi Thơ Đối Đáp Xin chỉ gửi thơ do chính huynh muội sáng tác vào đây.

Đã khóa chủ đề
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 28-06-2004   #1
Ảnh thế thân của MUCDONG
MUCDONG
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Gia nhập: 21-03-2004
Bài viết: 215
Điểm: 328
L$B: 3.361
MUCDONG đang offline
 
Trước hết, những bạn nào chưa nắm rõ NỘI QUY của ban quản lý, xin mời các bạn đọc lại Nội Quy trước. Xin cảm ơn!
Ban quản lý mục Thi Đài viết bài này nhằm khuyến khích các thành viên yêu thơ có thêm tài liệu tham khảo và tránh bị chuyển bài vào hậu sơn bởi vi phạm không đáng có trong nghệ thuật thơ. Mọi thắc mắc - ý kiến xin vào Góp Ý - Hỏi Đáp - Thi Đài ban quản lý sẽ trả lời cho các bạn.

Khái Niệm Thơ
* Mục đích tối cao của luật thơ là giúp cho ta phương tiện sáng tạo âm điệu một cách dễ dàng. Nhưng tuân theo luật thơ một cách ngoan cố thì sẽ làm cho tác phẩm có lúc bị miễn c­ưỡng, khô cứng mất đi cái hồn của thơ.
Cho nên ngoài luật thơ thì người làm thơ phải có hứng thú có ngoại vật cảm kích và phải có tính tình, có chân tâm như thế khi làm thơ tư tưởng mới không bi lạc đi nơi khác.
Dưới đây là môt số luật thơ cơ bản:

1. ÂM
+. Nguyên âm: gốc của một chữ hay nhiều chữ
- a, ă, â, o, ô, ơ, u, ư, i,……
- oa, ua, ưa, ue, uê, uy, ai, ay, ây, oi, ôi, ơi, …
+. Phụ âm: những chữ khác nguyên âm
- b, c, d, g, h, l, m, n, p, q, r…
- ch, gh, kh, th, nh, ng, ....

2. THANH
+. Thanh Bằng: gồm các chữ không dấu và có dấu huyền
+. Thanh Trắc: gồm các chữ có dấu sắc, hỏi, ngã và nặng

3. VẦN : là hai chữ có cùng âm và cùng thanh

4. VẬN: là cách gieo vần trong câu, có một số cách gieo vần như sau:
+. Cước vận : là cách gieo vần ở cuối câu
+. Yêu vận : là cách gieo vần ở giữa câu
+. Liên vận : là cách gieo vần ở hai câu đi liền nhau
+. Cách vận : là cách gieo vần ở hai câu cách nhau
+. Chính vận : là vần mà hai chữ hoàn toàn giống nhau về âm
+. Cưỡng vận : là vần mà hai chữ có âm tương tự nhau
+. Liên châu vận: là cách gieo vần nối liền nhau như chuỗi hạt châu

5. ĐIỆU
+. Điệu là nhịp, là tiết tấu, là âm tiết.
+. Thi điệu lấy câu làm âm tiết, câu lại có âm tiết của câu, gọi là cú điệu. Mỗi cú điệu gồm nhiều âm tiết, tức nhiều nhịp.

Dưới đây là thí dụ trong một số thể loại thơ thường gặp.

I.Thơ Bốn Chữ
Thơ bốn chữ là loại thơ có thể gọi là đơn giản nhất bởi vì luật bằng trắc chỉ được áp dụng cho chữ thứ hai và chữ thứ tư trong câu mà thôi.
Nếu chữ thứ hai là bằng thì chữ thứ tư là trắc và ngược lại nếu chữ thứ hai là trắc thì chữ thư tư là bằng.
Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm ba loại thường được gọi là cách gieo vần ba tiếng, cách gieo vần tréo và cách gieo vần ôm.
Nhưng nhiều khi câu thơ cũng không tuân theo luật đó.

Cách gieo vần
1.Vần ba tiếng (ít dùng)
Sao biếc đầy trời
Sầu trông viễn khơi
Ðêm mờ im lặng
Nhìn hạt sương rơi

2. Vần tréo
Tôi làm con gái
Buồn như lá cây
Chút hồn thơ dại
Xanh xao tháng ngày

3. Vần ôm
Em tan trường về
Ðường mưa nho nhỏ
Chim non giấu mỏ
Dưới cội hoa vàng

II.Thơ Năm Chữ (Ngũ ngôn cổ thể trường thiên)
Thơ ngũ ngôn có độ dài ngắn khác nhau nhưng được chia thành nhiều khổ nhỏ, mỗi khổ gồm 4 dòng thơ.
Cũng giống như thơ bốn chữ: nếu chữ thứ hai trong cầu là bằng thì chữ thứ tư là trắc và ngược lại. Nhưng cũng có nhiều trường hợp không phải vậy. Cách gieo vần của thể thơ này cũng được chia làm hai loại thường được gọi là cách gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo

Thí dụ: Gieo Vần ôm:
Em có nghe hay chăng
Lá thu đang vẫy gọi
Rừng thu đang đón mời
Em về vơi hoang vắng

Thí dụ: Gieo vần tréo
Trước sân anh thơ thẩn
Đăm đăm ngóng nhạn về
Mây chiều còn phiêu bạt
Lang thang trên đồi quê…

III. Thơ Sáu Chữ
Cách gieo vần của thể thơ này được chia làm hai loại: gieo vần ôm, và cách gieo vần tréo còn luật bằng trắc thì chưa thấy được áp dụng theo bất cứ quy định nào.

Thí dụ: Vần ôm
Nếu ngày mai em có tới
Mang cho anh đám mây xanh
Và một cơn gió trong lành
Làm hành trang anh đi tới

Thí dụ: Vần tréo
Quê Hương là gì hả mẹ ?
Mà Cô Giáo dạy phải yêu
Quê hương là gì hả mẹ ?
Mài ai đi cũng nhớ nhiều

Huyền Kiêu

IV. Thơ Cổ Song Tứ Lục Bát
Hai câu đầu là bốn chữ, câu thứ ba là sáu chữ và câu cuối là tám chữ theo luật như sau:
Đoạn một
x B x T(v)
x T x B(v)
x B x T x B(v)
x B x T x B(v) T B(v*)
đoạn hai:
x B x T(v*)
x T x B(v)
x B x T x B(v)
x B x T x B(v) T B(v)

Nếu như bắt đầu câu thứ nhất là T B T thì câu 4 chữ thứ hai phải là B T B, nhưng câu thu' ba thứ tư đều là B T B như bình thường
Thí dụ:
Lòng như tơ RỐI
Mặn đắng bờ MÔI
Mất nhau ta mất thiệt RỒI
Còn đây nỗi khổ mình TÔI hận LÒNG*

Tâm còn giao ĐỘNG*
Lòng còn Mãi MONG
Bóng hình vẫn giữ trong LÒNG
Người ơi có thấu lệ ĐONG nhạt NHÒA*

V. Song Thất Lục Bát
Thể thơ Song Thất Lục Bát này là của riêng Việt nam ta, cho nên luật thơ không gò bó theo các kiểu thơ khác .
Thơ Song Thất Lục Bát gồm mỗi đoạn có 4 câu, hai câu đầu là Song Thất, có nghĩa là mỗi câu có 7 chữ, hai câu cuối là Lục, Bát, câu thứ ba sáu chữ, câu thứ 4 tám chữ được xắp theo luật bằng trắc như sau:

x x x x B x T(v) x = tự do
x x B x T(v) x B(v) B = thanh bằng
x B x T x B(v) T = thanh trắc
x B x T x B(v) T B(v) v = vần với nhau

Đây là luật thơ trong một đoạn, để có thể nối thêm đoạn nữa thì có thể theo luật sau:
Câu thứ thư của đọan một: x B x T x B(v) T B(v)
Câu thứ nhất đoạn hai: x x x x B(v) x T(v)
Hoặc
Câu thứ thư của đọan một: x B x T x B(v) T B(v)
Câu thứ nhất đoạn hai: x x B(v) x x x T(v)

Thí dụ: (các chữ viế HOA là vần với nhau, các chữ có thêm (*) là nối liền hai đoạn)
Thủa trời đất nổi cơn gió BỤI
Khách má hồng nhiều NỖI truân CHUYÊN
Xanh kia thăm thẳm từng TRÊN
Nào ai gây dựng cho NÊN nỗi NÀY *

Trống Trường Thành lung LAY * bóng NGUYỆT
Khói Cam Tuyền mời MỊT khúc MÂY
Chín tầng gươm báu trao TAY
Nửa đêm truyền Hịch đợi NGÀY xuất CHINH*

VI. Lục Bát Liên Hoàn
Lục Bát là loại thơ một câu sáu chữ rồi đến một câu tám chữ cứ thế nối liền nhau. Bài thơ lục bát thông thường được bắt đầu bằng câu lục và kết thúc bằng câu bát. Đôi khi cũng có trường hợp kết thúc bằng câu lục để đạt tính cách lơ lửng, hiểu ngầm, hay hầu đạt tính cách đột ngột.
Lục Bát là thể thơ thông dụng nhất, vì cách làm và gieo vần tương đối đơn giản.
Lục= sáu chữ --- chữ thứ 2 Bằng, thứ 4 Trắc, thứ 6 Bằng
Bát= tám chữ --- chữ thu 2 Bằng, thứ 4 Trắc, thứ 6 Bằng, thứ 8 Bằng
Trong thơ lục bát, chữ thứ sáu của câu Lục, vần với chữ thứ sáu của câu Bát. Chữ thứ tám của câu Bát vần với chữ thứ sáu của câu Lục kế tiếp và cứ theo quy luật đó cho đến hết bài thơ. (Chữ thứ 6 và thứ 8 của câu bát nên thay đổi, hễ chữ này không dấu thì chữ kia có dấu hyền hay ngược lại ).

Ngồi chờ hết cả đêm nay x B x T x B(v)
Chỉ mong anh được xuân này bình yên x B x T x B(v) x B(v)
Cớ sao anh lại không lên x B x T x B(v)
Vô tình anh lại bỏ quên tim này x B x T x B(v) x B(v)

Tuy nhiên vẫn có những trường hợp ngoại lệ
1.Chữ thứ 2 câu lục có thể là trắc, khi ấy nhịp thơ ngắt ở giữa câu
Người nách (T) thước, kẻ tay đao
Đầu trâu mặt ngựa, ào ào như sôi
(Nguyễn Du)

2.Chữ cuối câu lục có thể vần với tiếng 4 câu bát, khi đó chữ 2 và 6 của câu bát sẽ đổi ra trắc. Câu thơ sẽ ngắt nhịp ở giữa câu bát
Đêm nằm gối gấm không êm
Gối lụa (T) không mềm bằng gối (T) tay em
Hoặc
Con cò mà đi ăn đêm
Đậu phải cành mềm lộn cổ xuống ao

VII. Đường Luật ( Thất ngôn bát cú )
Thơ Đường được bắt đầu từ bên trung hoa, thời Nhà Đường bên Trung Hoa rất xem trọng các văn hào, và cũng vì lẽ đó nên các quan trong chiều bắt buộc phải biết làm thơ, cho nên trong thời nhà Đường có rất nhiều thi sĩ nổi tiếng. Đặc biệt hơn nữa, các thi hào thời nhà Đường đã phát triển một lối làm thơ riêng biệt mà ngày nay chúng ta được biết là Thơ Đường.
Thơ đường có 2 loại : chính cách và thiên cách
*Chính cách : là những bài thơ mà tác giả tuân thủ triệt để thanh Bằng - Trắc quy định của từng câu
Thể thơ đường luât chính cách được chia làm hai loại
- Trắc thể chính cách
Bước tới đèo Ngang bóng xế tà ( T B T )
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa ( B T B )
Lom khom dưới núi, tiều vài chú ( B T B )
Lác đác bên sông, rợ mấy nhà ( T B T )
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc ( T B T )
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia ( B T B )
Dừng chân đứng lại: trời non nước ( B T B )
Một mảnh tình riêng: ta với ta ( T B T )
(Bà Huyện Thanh Quan)

- Bằng thể chính cách
Quanh năm buôn bán ở nom sông ( B T B )
Nuôi đủ năm con với một chồng ( T B T )
Lặn lội thân cò khi quãng vắng ( T B T )
Eo sèo mặt nước buổi đò đông ( B T B )
Một duyên hai nợ âu đành phận ( B T B )
Năm nắng mười mưa dám quản công ( T B T )
Cha mẹ thói đời ăn ở bạc, ( T B T )
Có chồng hờ hững cũng như không ( B T B )
(Tú Xương)
*Thiên cách : là những bài thơ mà tác giả áp dụng luật " Nhất tam ngũ bất luận".
_ Nhưng từ trước đến giờ không mấy ai theo một cách triệt để. Luật " Bất Luận" luôn luôn được áp dụng, không nhiều thì ít.
Giá trị của Luật Bất Luận là làm cho ngòi bút của thi nhân được thêm phần phóng túng.

Bố Cục Của Thơ Đường Luật
Trong thơ Đường Luật, mỗi một câu đều có chức năng của nó:
Câu 1 và 2 là phá đề và thừa đề.
Câu 3 và 4 là Thực hay Trạng, dùng để giải thích hoặc đưa thêm chi tiết bổ nghĩa đề bài cho rõ ràng
Câu 5 và 6 là Luận, dùng để bàn luận cho rộng nghĩa hay cũng có thể dùng như câu 3 và 4
Câu 7 và 8 là Kết, kết luận ý của bài thơ

Những chữ cuối của câu số 1, 2, 4, 6, và 8 là những chữ mang vần trong bài thơ và thuờng thì mang thanh BẰNG và bắt buộc phải vần với nhau theo cùng một âm, những chữ này có thể mang thanh Trắc, nhưng chưa bao giờ thấy cả.
Những chữ cuối của những câu 3, 5,và 7 mang thanh Trắc và không phải vần với nhau (nếu chữ cuối của những câu 1, 2, 4, 6, và 8 là thanh Trắc thì có lẽ chữ cuối của những câu này mang thanh Bằng)
Cũng giống như Thất Ngôn Tứ Tuyệt, luật bằng trắc trong Đường Thi Chính cách cũng chỉ áp dụng cho những chữ 2, 4, và 6 trong mỗi câu mà thôi.
Điểm khó nhất trong Đường Thi là câu số ba và câu số bốn, bởi vì hai câu này được gọi là hai câu Thực và hai câu năm và câu sáu là hai câu Luận, hai cặp câu này luôn luôn đối nhau, Danh Từ đối Danh Từ, Động Từ đối Động Từ, Tính Từ đối Tính Từ, quan trọng hơn cả là hai câu 5,6 phải đối ý với hai câu 3,4 hoặc bổ sung cho ý của câu 3,4 .
Điểm cao nhất của Đường Thi là có thể Hoạ Thơ với người khác, nghĩa là sẽ dùng lại tất cả những chữ mang Vần của bài thơ muốn họa tức là bài thơ của người đầu tiên( thường được gọi là bài Xướng Thi) để diễn tả theo ý thơ của mình.

VIII. Bát Ngôn
Thơ bát ngôn ( tám chữ ) thường làm theo lối liên vận hoặc cách vận.
Liên vận: câu đầu thường không bắt vần, từ câu hai trở đi mới cặp vần. Cứ hai câu bằng rồi đến hai câu trắc hay ngược lại. Cách chia thành từng đoạn 4 câu trong thể liên vận chỉ là hình thức vì câu đầu đoạn sau vẫn cần vần với câu cuối đoạn trước.
Thôi thì gió mang niềm riêng đi cất
Để từng ngày tiếp nối những sầu vương
Cuối cuộc đời chào biệt thú đau thương
Tan muôn ngã theo mây ngàn, gió nhé!

_ Cách vận: câu lẻ vần với câu lẻ và câu chẳn vần với câu chẳn. Như vậy một đoạn 4 câu cần hai vần, nhưng ngược lại các đoạn không cần nối vần với nhaụ.

Em không đến, làm sao ta biết được
Đời sống này, hạnh phúc có hay không?
Mưa đã đến, cọng cỏ xanh mọng nước
Riêng trời ta, mây xám vẫn mênh mông

Một biến dạng của thơ tám chữ cách vận là trong 1 đoạn 4 câu chỉ cần câu 4 vần với câu 2; còn hai câu lẻ mang vần trắc là đủ.

Vì bát ngôn không có quá gò bó, từ ngữ bạn dùng sẽ làm bài thơ trở nên hay hơn. chỉ cần uốn nắn, uyển chuyển dùng từ sẽ tạo ra một bài thơ thật hấp dẫn.
Thí dụ :
Mùa xuân về đang đón những bước em
Chút hờ hững vẫn đong đầy trên lá
Con bướm vàng cánh vờn bay hối hả
Bóng lung linh trong những giọt sương mềm

Trong một câu, nên có sự cân bằng giữa số lượng các vần bằng và vần trắc ví dụ Bằng /Trắc = 3/5 hay ngược lại . Vần bằng trắc cũng nên xen kẽ đều đặn để câu thơ uyển chuyển nhịp nhàng . Gieo vần thì có nhiều cách.
1. Gieo vần ôm :
- Chữ cuối câu 1 vần với chữ cuối câu 4, cuối câu 2 vần với cuối câu 3 .
Thí dụ :
Ngươi ám ảnh hương thơm bằng ánh sáng
Ru màu êm, mà gọi thức lòng ngây
Trăng, nguồn sương làm ướt cả gió hây
Trăng, võng rượu khiến đêm mờ chếnh choáng
2. Gieo vần chéo :
Chữ cuối câu 1 vần với cuối câu 3, và/hoặc chữ cuối câu 2 vần với cuối câu 4.
Thí dụ:
Tạo hóa hỡi ! Hãy trả tôi về Chiêm Quốc !
Hãy đem tôi xa lánh cõi trần gian!
Muôn cảnh đời chỉ làm tôi chướng mắt !
Muôn vui tươi nhắc mãi vẻ điêu tàn

Chú ý : bằng vần với bằng, trắc vần với trắc . Bằng không bao giờ vần với trắc . Ví dụ :lồng không vần với lộng
Nếu làm thơ nhiều đoạn, chữ cuối câu 4 của đoạn trước luôn vần với chữ cuối câu 1 của đoạn sau
Thí dụ :
Làm thi sĩ , nghĩa là ru với gió
Mơ theo trăng, và vơ vẩn cùng mây,
Để linh hồn ràng buộc bởi muôn dây,
Hay chia sẻ bởi trăm tình yêu mến

Đây là quán tha hồ muôn khách đến
Đây là bình thu hợp trí muôn hương;
Đây là vườn chim nhả hạt mười phương,
Hoa mật ngọt chen giao cùng trái độc

IX. HaiKu
Hai-Ku có nguồn gốc từ nhật, qua các thời đại dần dần len lỏi vào nền văn hóa Viêt Nam. Hiện nay loại thơ nay cũng được các nước tây phương như, Anh, Pháp, Mỹ tiếp nhận.
Về hình thức thì Hai-Ku gồm ba câu và 17 âm. Ba câu được chia ra thành 5,7,5 câu năm, câu bảy, và câu năm. Không biết người Nhật viết làm sao ( no speak Japanese ) nhưng khi làm thử trong tiếng việt nguyenvq rút ra rằng có thể để cho chữ cuối của mỗi câu vần với nhau sẽ làm bài Hai-ku của bạn đọc xuôi tai hơn.
Thí dụ:
Sinh ra từ bụi cát
Đến hôm nay ta còn phiêu bạt
Bao giờ hết hoang mang

Trên đây là một bài Hai-Ku hoàn chỉnh, Hai-ku không cần dài vì chỉ là một quan niệm hoặc một ý tưởng nhỏ viết nên mà thôi. Tuy nhiên Hai-Ku được xếp vào thể thơ có ý nghĩa sâu sắc trong nền thơ văn Nhật Bản. Theo người Nhật, Hai-Ku dùng để diễn tả bốn mùa trong năm, không nhất thiết phải dùng từ ngữ về các mùa, nhưng có thể dùng hình ảnh, biểu tượng như: Tuyết cho mùa đông, hoa cho mùa xuân,,, vân vân.
Thí dụ:
Hoa tuyết còn rơi đều
Trắng ngần một cõi hồn rong rêu
Và đêm nay ta nhớ

Một số Ðiều Kỵ Trong Thơ
1-Thất luật
Những từ đáng Bằng mà làm ra Trắc hoặc đáng Trắc mà làm ra Bằng
2-Thất niêm
Câu trên đang theo luật Bằng mà câu dưới sang luật Trắc hoặc câu trên đang theo luật Trắc mà câu dưới làm sang luật Bằng
3-Lạc vận
Ðang theo vần này mà gieo sang vần khác, như vần trên là trời mà vần dưới là mây thì gọi là lạc vận
4-Xuất vận
Người ta đã hạn định cho những cho những vần gì, mà mình dùng vần khác,thì gọi là xuất vận.
5-Trùng vận
Câu trên đã dùng một vần, câu dưới lại dùng như thế nữa thì gọi là trùng vận.
6-Cưỡng áp
Các vần gieo ép uổng, không được hợp lắm
7-Khổ độc
Trong một bài thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn, trong một bài ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu chẵn đáng là từ bằng mà làm ra từ trắc
8-Phong yêu hạc tất
Trong thơ thất ngôn, từ thứ tư và tứ thứ bảy, trong thơ ngũ ngôn, từ thứ hai và từ thứ năm nếu trùng một âm.
9-Ðối không chỉnh
Khi những từ trong bài thơ phải đối nhau mà từ nặng từ nhẹ không được cân.
10-Trùng từ hay trùng ý
Từ hay ý đã dùng rồi mà lại còn dùng nữa.

Một Số Thể Loại Thơ Đặc Biệt

Tài liệu tham khảo
*Luật Thơ Mới, Nguyễn Ðình Tuyến
*Tiếng Việt Tuyệt Vời, Ðỗ Quang Vinh
* Luật Thơ, Phạm Doanh (datviet.com)
* nonsong.org
* Thi Pháp Thơ Đường ( Quách Tấn )
*Việt Nam Văn Học Sử Yếu , Dương Quảng Hàm , nxb Bộ Quốc Gia Giáo Dục, 1962
* Việt Nam Văn Học Sử Giản Ước Tân Biên , Phạm Thế Ngũ ,nxb , Quốc Học Tùng Thư,1965
*Nam Thi Hợp Tuyển, Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, nxb Bốn Phương, 1952
*Tìm Hiểu Các Thể Thơ, Lạc Nam ,nxb Văn Học-Hà NộI , 1996
*Khảo Luận Về Thơ , Lam Giang, nxb Ðồng Nai, 1994
*Thơ Văn Nguyễn Khuyến, Xuân Diệu giới thiệu , nxb Văn Học-Hà Nội ,1971
*Thơ Văn Trào Phúng Việt Nam Từ Thế Kỷ 13 Ðến 1945, Vũ Ngọc Khánh Biên soạn, nxb Văn Học-Hà Nội , 1974
*Thơ Văn Yêu Nước (1858-1900) , Chu Thiên ,nxb Văn Học - Hà Nội , 1970
*Chơi chữ , Lãng Nhân, nxb nam Chi Tùng Thư, 1961
*Việt Nam Gãm Hoa ,Hương-Giang Thái Văn Kiểm, nxb Làng Văn-Canada,1997
*Người Ham Chơi, Hoàng Phủ Ngọc Tường , nxb Thuận Hóa ,1998

HOACOMAY biên soạn


Chữ ký của MUCDONG


Chỉnh sửa lần cuối bởi TC NGUYỄN: 17-11-2009 lúc 03:39.
6 thành viên đã gửi lời cám ơn đến MUCDONG vì bài viết hữu ích này:
Dần Béo (23-09-2008), Giang Tiểu Ngư (24-09-2008), Nắng (15-12-2009), Tiêu Tương (01-11-2010), Truy Vân (28-07-2010), voduonghonglam (11-03-2011)
Cũ 16-12-2009   #2
Ảnh thế thân của TC NGUYỄN
TC NGUYỄN
-=[ Tổng Binh Đầu Lĩnh ]=-
Gia nhập: 13-02-2006
Bài viết: 1.587
Điểm: 1621
L$B: 243.523.348
Tâm trạng:
TC NGUYỄN đang offline
 
::: Dương Quảng Hàm :::
Các Thể Văn Của Tầu Và Của Ta

1 - Thể Văn Mượn Của Tầu Và Thể Văn Riêng Của Ta:

Ta có thể chia các thể văn của ta ra làm hai loại: Một là những thể văn mượn của Tầu; hai là những thể văn riêng của ta.

A) Những thể mượn của Tầu có thể chia làm hai hạng:

1) Vận Văn là văn có vần: thơ, phú, văn tế.
2) Điền Văn là văn không có vần mà có đối: câu đối tứ lục, kinh nghĩa (lối bát cổ).

B) Những thể riêng của ta là: lục bát, song thất, và các biến thể của hai lối ấy (hát nói, sẩm, lý, hề, điên, v.v. ...) nói lối (về tuồng) đều thuộc loại văn vần cả. (Xem Hoa Lư Số 5)

Còn các lối văn xuôi của Tầu (như tự, bạt, truyện, ký, bi, luận) thì các cụ ngày xưa ít viết bằng quốc âm. Còn các lối văn xuôi mới (như tiểu thuyết, luận thuyết, ký sự, diễn thuyết, kịch) thì mãi gần đây ta chịu ảnh hưởng của Tây học mới biết dùng đến.

Lời Chú: Một điều khiến ta phân biệt được thể văn nào là mượn của Tầu và thể văn nào là riêng của ta là cách gieo vần.

- a) Những thể văn vần của Tầu thì bao giờ vần cũng gieo ở cuối câu. Thí dụ: trong thể thơ, các chữ vần gieo ở cuối câu thứ nhất và cuối các câu chẵn.

- b) những thể văn của ta thì vần vừa gieo ở câu cuối gọi là cước vận (cước : chân), vừa gieo ở lưng chững câu gọi là yêu vận (yêu: lưng). Thí dụ: trong lối lục bát thì vần câu lục gieo ở cuối (cước vận lại hiệp với chữ thứ sáu của câu bát (yêu vận). Trong thể song thất thì vần câu thất trên gieo ở cuối (cước vận) lại hiệp với chữ thứ năm câu thất dưới (yêu vận).

Ta sẽ lần lượt xét phép tắc các thể văn mượn của Tầu, rồi đến các thể văn riêng của ta.

2. - Thơ Đường Luật

Thi pháp của Tầu và Âm Luật của ta:

Như trên đã nói, thơ nôm ta làm theo phép tắc thơ Tầu, mà âm thanh tiếng ta cũng tương tự tiếng Tầu (cũng là thứ tiếng đan âm và cùng chia làm tiếng bằng tiếng trắc), nên thi pháp của ta tức là thi pháp của Tầu và các niêm luật của thơ ta cũng phỏng theo thơ Tầu cả.

Thơ ngũ ngôn và thơ thất ngôn: Thơ (chữ nho là thi) là thể văn, có thanh, có vận, có thể ngâm vịnh được.

Theo số chữ trong câu, thơ cổ có hai lối chính:

- 1.) Ngũ ngôn, mỗi câu năm chữ;
- 2.) Thất ngôn, mỗi câu bẩy chữ;

Thơ Cổ Phong và Thơ Đường Luật: Theo cách làm, thơ chia làm hai thể.

*1. Cổ Phong hoặc cổ thể là thơ có trước đời nhà Đường, không theo niêm luật nhất định.
* 2. Đường Luật hoặc cận thể là thể thơ đặt ra tự đời nhà Đường (618-907) phải theo niêm luật nhất định.

Thơ tứ tuyệt và thơ bát cú: Theo số câu, thơ Đường Luật chia làm hai lối.

- 1.) Tứ tuyệt, mỗi bài bốn câu;
- 2.) Bát cú, mỗi bài tám câu;

Lối Đường Luật bát cú là lối chính và thông dụng nhất, vật ta hãy xét phép tắc lối ấy trước.

I. Bát Cú

Trong lối thơ Đường Luật, có năm điều này phải xét:

1.) vần; 2.) đối; 3.) luật; 4.) niêm; 5.) cách bố cục.
Vần thơ:
A) Định nghĩa: Vần (chữ nho là vận) là những tiếng thanh âm hòa hiệp đặt vào hai hoặc nhiều câu văn để hưởng ứng nhau.

B) Cách gieo vần:

1.) Thơ Đường: luật thường dùng vần bằng, gián-hoặc mới dùng vần trắc.

2.) Suốt bài thơ Đường Luật chỉ hiệp theo một vần, tức là theo lối độc vận.

3.) Trong một bài bát cú có năm vần gieo ở cuối câu đầu và cuối các câu chẵn.

C.) Lạc vận và cưỡng áp: Gieo vần sai hẳn, không hiệp nhau gọi là lạc vận (lạc: rụng). Nếu vần gieo gượng không được hiệp lắm gọi là cưỡng áp (đặt gượng), đều không được cả.

Phép đối trong thể thơ:
A.) Định nghĩa: Đối là đặt hai câu đi sóng đôi cho ý và chữ trong hai câu ấy cân xứng với nhau.

1.) Đối ý là tìm hai ý tưởng cân nhau mà đặt thành hai câu sóng nhau.

2.) Đối chữ thì vừa phải đối thanh tức là bằng đối với trắc, trắc đối với bằng; vừa phải đối loại của chữ nghĩa là phải đặt hai chữ cùng một tự loại để đối với nhau (như cùng là hai chữ danh từ, hoặc động từ, v.v.)

3.) Những câu phải đối trong một bài thơ bát cú: Trừ hai câu đầu và hai câu cuối, còn bốn câu giữa thì câu 3 đối với câu 4, câu 5 đối với câu 6.
Luật Thơ:
A) Định nghĩa: Luật thơ là cách sắp đặt tiếng bằng tiếng trắc trong các câu của một bài thơ.

B) Tiếng bằng và tiếng trắc: Muốn hiểu luật thơ, phải biết phân biệt tiếng bằng tiếng trắc. Bằng (chữ nho là bình) là những tiếng lúc phát ra bằng phẳng đều đều. Trắc (nghĩa đen là nghiêng, lệch) là những tiếng khi phát ra hoặc tự thấp lên cao hoặc tự cao xuống thấp.

Trong tiếng ta có 8 thanh thì có hai thanh bằng và 6 thanh trắc như sau:

Bằng: Phù bình thanh = không có dấu

Trầm bình thanh = Huyền (')
Trắc: Phù thượng thanh = Ngã (~)
Trầm thượng thanh = Hỏi (?)
Phù khứ thanh = Sắc (')
Trầm khứ thanh = Nặng (.)
Phù nhập thanh = Sắc (') *
Trầm nhập thanh = Nặng (.)*

* Riêng cho các tiếng đằng sau có phụ âm c, ch, p, t.

C.) Luật bằng và luật trắc: Thơ có thể làm theo hai luật:

1.) Luật bằng là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng bằng;

2.) Luật trắc là luật thơ bắt đầu bằng hai tiếng trắc.

D) Các luật thơ: Ngay liệt kê các luật thơ thông dụng như sau (b = tiếng bằng; t = tiếng trắc; v = tiếng vần; những chữ in lối chữ nghiêng là phải theo đúng luật; những chữ in thường thì theo đúng luật hoặc không theo đúng luật cũng được, theo cái lệ "bất luận" sẽ nói về sau):

I. LUẬT BẰNG II. LUẬT TRẮC

A. Vần bằng A. Vần bằng

1@Ngũ ngôn bát cú 1@Ngũ ngôn bát cú

I : b b t t b (v) t t t b b (v)
II. : t t t b b (v) b b t t b (v)
III : t t b b t b b b t t
IV : b b t t b (v) t t t b b (v)
V : b b b t t t t b b t
VI : t t t b b (v) b b t t b (v)
VII : t t b b t b b b t t
VIII : b b t t b (v) t t t b b (v)

2@ Thất ngôn bát cú 2@ Thất ngôn bát cú

I : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
II : t t b b t t b (v) b b t t t b b (v)
III : t t b b b t t b b t t b b t
IV : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)
V : b b t t b b t t t b b b t t
VI : t t b b t t b (v) b b t t t b b (v)
VII : t t b b b t t (v) b b t t b b t
VIII : b b t t t b b (v) t t b b t t b (v)

B. Vần trắc B. Vần trắc

Ngũ ngôn bát cú Thất ngôn bát cú

I : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
II : t t b b t (v) b b t t b b t (v)
III : t t t b b b b t t t b b
IV : b b b t t (v) t t b b b t t (v)
V : b b t t b t t b b t t b
VI : t t b b t (v) b b t t b b t (v)
VII : t t t b b b b t t t b b
VIII : b b b t t (v) t t b b b t t (v)

E.) Bất luận và khổ độc: Vì sự theo đúng luật bằng trắc như trên đã định là một việc rất khó, nên có lệ bất luận (không kể), nghĩa là trong câu thơ có một vài chữ không cần phải đúng luật.

1.) Trong bài thơ ngũ ngôn thì chữ thứ nhất và thứ ba không cần đúng luật: tức nhất, tam bất luận.

2.) Trong bài thơ thất ngôn thì chữ thứ nhất, thứ ba và thứ năm không cần đúng luật: tức là nhất, tam, ngũ bất luận.

Tuy theo lệ bất luận có thể thay đổi luật mấy chữ trong câu thơ, nhưng đang trắc mà đổi ra bằng bao giờ cũng được, chứ đang bằng mà đổi ra trắc thì trong vài trường hợp sự thay đổi ấy làm cho câu thơ thành ra khổ độc (khó đọc) không được. Những trường hợp ấy là:

1.) Trong bài thơ ngũ ngôn, chữ thứ nhất các câu chẵn và chữ thứ ba của các câu đang bằng mà đổi ra trắc là khổ độc.

2.) Trong bài thơ thất ngôn, chữ thứ ba các câu chẵn và chữ thứ năm các câu lẻ đang bằng mà đổi ra trắc là khổ độc.

F.) Thất luật: Một câu thơ đặt sai luật nghĩa là một chữ đang bằng mà đổi ra trắc hoặc trái lại, thế thì gọi là thất luật (sao mất luật) không được.
Niêm:
A) Định nghĩa: Niêm (nghĩa đen là dính) là sự liên lạc về âm luật của hai câu thơ trong bài thơ Đường Luật. Hai câu thơ niêm với nhau khi nào chữ thứ nhì của hai câu cùng theo một luật, hoặc cùng là bằng, hoặc cùng là trắc, thành ra bằng niêm với bằng trắc niêm với trắc.

B) Những câu niêm với nhau trong một bài thơ bát cú: Trong một bài thơ bát cú (xem lại biểu các luật thơ trên) những câu sau này niêm với nhau: 1 với 8. - 2 với 3. - 4 với 5. - 6 với 7. - 8 với 1.

C) Thất niêm: Khi các câu trong một bài thơ, vì sự đặt sai, không niêm với nhau theo lệ đã định; thì gọi là thất niêm (mất sự dính liền) không được.
Cách bố cục:
Một bài thơ bát cú có bốn phần.

1.) Đề gồm có phá đề (câu 1) là mở bài và thừa đề (câu 2) là nối câu phá mà vào bài.

2.) Thực hoặc trạng (hai câu 3 và 4) là giải thích đầu bài cho rõ ràng.

3.) Luận hai (câu 5 và 6) là bàn bạc cho rộng nghĩa đầu bài.

4.) Kết (hai câu 7 và 8) là tóm ý nghĩa cả bài mà thắt lại.

II. Tứ Tuyệt

Định nghĩa: Tứ là bốn, tuyệt là dứt, ngắt. Lối này gọi thế vì thơ tứ tuyệt là ngắt lấy bốn câu trong bài thơ bát cú mà thành.

Các cách làm thơ tứ tuyệt: Vì một bài thơ bát cú có thể ngắt nhiều cách, nên cũng có nhiều cách làm thơ tứ tuyệt.
1.)Ngắt bốn câu trên,
thành ra bài thơ ba vần, hai câu trên không đối nhau, hai câu dưới đối nhau. Thí dụ:

Con Voi

(So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên.)

Xông pha bốn cõi bể chông gai,
Vùng vẫy mười phương bụi cát bay.
Phép nước gọi là tơ chỉ buộc, *
Sức này nào quản búa rìu lay. *

Lê Thánh Tôn (?)

* = đối nhau.
2.)Ngắt bốn câu giữa,
thành ra bài thơ 2 vần, cả bốn câu đối nhau. Thí dụ:

Khóm Gừng Tỏi

(So sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên)

Lởm chởm vài hàng tỏi *
Lơ thơ mấy khóm gừng *
Vẻ chi là cảnh mọn #
Mà cũng đến tang thương #

Ôn Như hầu

*, # = đối nhau.
3.)Ngắt bốn câu dưới,
thành ra bài thơ 2 vần, hai câu trên đối nhau, hai câu dưới không đối. Thí dụ:

Đề Chùa Vô Vi (So sánh với biểu Ngũ ngôn bát cú, luật bằng vần bằng ở trên)

Vắt vẻo sườn non Trạo, *
Lơ thơ mấy ngọn chùa. *
Hỏi ai là chủ đó?
Có bán tớ xin mua

Vô Danh

* = đối nhau.
4.)Ngắt 2 câu đầu và 2 câu cuối,
thành ra bài thơ 3 vần, cả 4 câu không đối. Thí dụ:

Cái Pháo

(So sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật bằng, vần bằng ở trên)

Xác không, vốn những cậy tay người,
Bao nả công trình, tạch cái thôi!
Kêu lắm, lại càng tan tác lắm,
Thế nào cũng một tiếng mà thôi.

Nguyễn Hữu Chỉnh
5.)Ngắt hai câu 1-2 với hai câu 5-6,
thành ra bài thơ 3 vần hai câu cuối đối nhau. Thí dụ:

Con Cóc

(so sánh với biểu Thất ngôn bát cú, luật trắc, vần bằng ở trên)

Bác mẹ sinh ra bốn áo sồi,
Chốn nghiêm thăm thẳm một mình ngồi.
Tép miệng năm ba con kiến gió, *
Nghiến răng chuyển động bốn phương trời. *

Lê Thánh Tôn

3 - Thơ Cổ Phong

Số Chữ Và Số Câu Trong Lối Thơ Cổ Phong:
Lối này chỉ có số chữ trong câu là nhất định (hoặc ngũ ngôn, hoặc thất ngôn) ngoài ra không phải theo thể lệ chặt chẽ như lối Đường Luật, nghĩa là không có niêm, luật, không phải đối (một đôi khi có đối là tùy nhà làm thơ, chứ không bắt buộc.)
Lối này cũng không hạn số câu: cứ từ 4 câu trở lên, muốn làm dài ngắn bao nhiêu cũng được. Các thi gia thường cũng hay làm mỗi bài 4 câu (tứ tuyệt) hoặc 8 câu (bát cú), nhưng cũng có bài làm 6 câu hoặc 12 câu. Những bài thất ngôn dài quá 8 câu và ngũ ngôn dài quá 16 câu gọi là tràng thiên (thiên dài.)
Cách gieo vần trong lối thơ cổ phong: Lối thơ cổ phong có thể cả bài dùng nguyên một vần (độc vận), hoặc dùng nhiều vần (liên vận). Khi dùng liên vận thì hoặc mỗi hai mỗi đổi vần (lối này phải dùng vần liên châu, mỗi cuối câu mỗi hạ vần), hoặc 4 câu đổi dùng một vần (như lối thơ bát cú.) Mỗi khi đổi vần, câu thứ nhất hoặc có gieo vần, hoặc không gieo vần cũng được. Trong bài thơ liên vận, có thể dùng vừa vần bằng, vừa vần trắc.
Những bài thơ cổ phong làm mẫu:
(Ngũ ngôn bát cú)

Khen Trần Bình Trọng

Giỏi thay Trần Bình Trọng!
Dòng giõi Lê Đại Hành.
Đánh giặc dư tài mạnh,
Thờ vua một tiết trung.
Bắc vương sống mà nhục,
Nam quỷ thác cũng vinh.
Cứng cỏi lòng trung nghĩa.
Ngàn thu tỏ đại danh.
Phan Kế Bính

Thất ngôn bát cú

Dế Đuổi Bên Đèn

Kiến chẳng phải kiến, voi chẳng voi,
Trời sinh dế đuổi cũng choi choi.
Ngắn cánh trên trời bay chẳng thấu,
Co tay vạch đất cũng khoe tài.
Mưa sa nước chảy trên cao ở,
Lửa đỏ dầu sôi nhảy tới chơi.
Quân tử có thương xin chớ phụ,
Lăm băm bay nhảy để mà coi.

Tú Quì

Ngũ ngôn tràng thiên (liên vận)

Bài Ghi Trên Chỗ Ngồi

Người xấu chớ nên nói,
Mình hay chớ nên khen.
Làm ân chớ nên nhớ,
Chịu ân chớ nên quên.
Đời khen không đủ mến,
Duy lấy nhân làm nền.
Chứa bụng rồi mới động,
Gièm pha có ngại gì.
Đừng để danh quá thực,
Thành ở trong ngu si.
Giữ mình cốt trong trẻo,
Ánh sáng lộ tỷ ty.
Mềm mỏng được bền dai,
Lão Đam khoẻ mới kỳ.
Hầm hầm nết kẻ hèn,
Khoan hòa người lượng cả.
Nói cẩn, ăn có chừng,
Biết vừa, không tai vạ.
Cứ thế được mãi mãi,
Thơm tho cũng thỏa dạ.
Thôi Tử Ngọc - Phan Kế Bính dịch nôm
Việt Hán văn khảo

Thất ngôn tràng thiên

Ông Lã Gia

Ngồi buồn xem lại sử Nam nhà,
Quan đời vua Triệu ông Lã Gia.
Ngôi cao quyền trọng đầu râu bạc,
Hai vai gánh vác một sơn hà.
Giặc ngoài ngắm nghe, vua Hưng nhỏ,
Nước đổ, thành nghiêng, một mụ già.
Cù hậu, sứ thần trong nửa tiệc,
Quét sạch hôi tanh, tan nát hoa.
Con trưởng vua Minh dựng nối dòng,
Hai nghìn vào cõi tính đã xong.
Gói cờ tiết Hán để mặt ải,
Bao nơi hiểm yếu dàn canh phòng.
Năm nghìn lại tiếp quân Tàu sang,
Chín chục chết theo cơ nghiệp Triệu.
Chưa chắc loạn thần hay trung trinh,
Văng vẳng nghìn thu không kẻ hiểu.
Nguyễn Khắc Hiếu
Khối Tình Con (Quyển thứ nhất - Đông Kinh Ấn
Quán, Hà Nội)

4. Các Lối Thơ Riêng

Trừ hai lối Đường Luật và cổ phong vừa kể trên là những lối thông dụng nhất, còn có mấy lối thơ riêng một đôi khi thi gia cũng dùng đến.
Trong các lối liệt kê sau đây thì 5 lối trên là bắt trước của Tàu, 3 lối sau riêng của ta có; còn hai thể dưới, hoạc vận và liên ngâm, thực ra không phải là lối riêng, chỉ là một các làm thơ thể vui chơi cho các thi gia Tàu và ta.
Thủ Vĩ Ngâm: Thủ Vĩ ngâm (Thủ: đầu; Vĩ: đuôi; Ngâm: đọc) là lối thơ câu đầu câu cuối giống nhau. Thí dụ:

Tết

Anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo
Tiền bạc trong kho chửa lãnh tiêu.
Rượu cúc nhắm đem, hàng biếu quảy;
Trà sen mượn hỏi, giá còn kiêu.
Bánh đường sắp gói, e mồm chảy;
Gió lụa toan làm, sợ nắng thiu.
Thôi thế thì thôi, đành Tết khác,
anh em đừng nghĩ Tết tôi nghèo.
Trần Tế Xương

Liên Hoàn: Liên Hoàn (Liên: liền; Hoàn: vòng) là lối thơ có nhiều bài mà cứ câu cuối bài trên lấy làm câu đầu bài dưới, hoặc vài bốn chữ bài trên láy lại ở đầu bài dưới. Thí dụ:

Hủ Nho Tự Trào (bốn bài)

I
Ngán nỗi nhà nho bọn hủ ta,
Hủ sao hủ gớm hủ ghê mà!
Thơ suông nước ốc còn ngâm váng;
Rượu bự non chai vẫn chén khà.
Múa mép rõ ra văn chú chiệc;
Dài lưng quen những thói con nhà.
Phen này cái hủ xua đi hết,
Cứ để cười nhau hủ mãi a?

II
Cứ để cười nhau hủ mãi a?
Cười ta, ta cũng biết rằng ta.
Trót quen nho nhã đầu khăn lượt,
Hóa kém văn minh cổ áo là.
Khó vậy làm em, giàu đã chị,
No thì nên bụt, đói ra ma.
Nay đương buổi học ganh đua mới,
Còn giừ lề xưa mãi thế mà!

III
Còn giừ lề xưa mãi thế mà!
Trông gương ta lại tức cho ta.
Ngâm câu dã giả, đùi rung nẩy,
Ngó chữ a b, mắt quáng lòa.
Tai mặt cùng vui đình đám hội,
Mày râu riêng thẹn nước non nhà.
Ai ơi giấc ngủ sao mê quá!
Mưa gió năm châu rộn tiếng gà.

IV
Mưa gió năm châu rộn tiếng gà.
Cái hồn văn tự tỉnh dần ra.
Trống khua giáo dục kêu vang nước;
Đuốc rọi văn minh sáng rực nhà.
Khai hóa đã đành thay lối cũ;
Cải lương còn phải tính đường xa.
Anh em nghĩ lại sao không cố,
Ngán nỗi nhà nho bọn hủ ta.
Tình Si Tử

Thuận Nghịch Độc: Thuận Nghịch Độc (Thuận: xuôi; Nghịch: ngược) là lối thơ đọc xuôi đọc ngược cũng thành câu có nghĩa cả; có khi đọc xuôi thành thơ quốc âm, mà đọc ngược thành thơ chữ Hán.

Đền Ngọc Sơn (Hà Nội)
(Bài đọc xuôi)

Linh uy nổi tiếng thật là đây:
Nước chắn, hoa rào, một khóa mây.
Xanh biếc nước soi, hồ lộn bóng;
Tím bầm rêu mọc, đá tròn xoay.
Canh tàn lúc đánh chuông ầm tiếng;
Khách vắng khi đưa xạ ngát bay.
Thành thị tiếng vang đồn cảnh thắng:
Rành rành nọ bút với nghiêng này.

(Bài đọc ngược)

Này nghiêng với bút nọ rành rành:
Thắng cảnh đồn vang tiếng thị thành,
Bay ngát xạ đưa khi vắng khách;
Tiếng ầm chuông đánh lúc tàn canh.
Xoay tròn đá mọc rêu bầm tím,
Bóng lộn hồ soi nước biếc xanh.
Mây khóa một rào hoa chắn nước,
Đây là thật nổi tiếng uy linh.
Vô Danh

Yết Hậu: Yết Hậu (Yết: nghỉ; hậu: sau) là lối thơ có 4 câu trên đủ chữ, còn bốn câu dưới chỉ có một chữ. Thí dụ:

Lươn

Cứ nghĩ rằng mình ngắn,
Ai ngờ cũng dài đườn.
Thế mà còn chê trạch:
Lươn!
Vô Danh

Lục Ngôn Thể: Lục Ngôn Thể là lối thơ thất ngôn xen vào cái câu chỉ có 6 chữ. Lối thơ này ở nước ta về đời Trần, Lê hay dùng. Thí dụ:

Cảnh Nhàn

Lọ là thành thị, lọ lâm toàn.
Được thứ thì hơn miễn phận nhàn.
Vụng, bất tài nên kém bạn, *
Già, vô sự ấy là tiên. *
Đồ thư một quyển nhà làm của;
Phong nguyệt năm hồ khách nổi thuyền.
Dù nhẫn chê khen, dù miệng thế,
Cơ mầu tạo hóa mặc tự nhiên.
Nguyễn Bỉnh Khiêm
* Lục ngôn thể

Tiệt Hạ: Tiệt Hạ (Tiệt: ngắt; hạ: dưới) là lối thơ câu nào cũng bỏ lửng như bị ngắt, bớt ở cuối, nhưng ý nghĩa rõ rệt, người đọc đoán mà hiểu được. Thí dụ:

Thác bức rèm châu chợt thấy mà ...!
Chẳng hay người ngọc có hay đà ...!
Nét thu dợn sóng hình như thể ...
Cung nguyệt quang mây nhác ngỡ là ...
Khuôn khổ ra chiều người ở chốn ...
Nết na xem phải thôi con nhà ...
Dở dang nhắn gửi xin thời hãy ...
Tình ngắn tình dài chút nữa ta ...
Vô Danh

Vĩ Tam Thanh: Vĩ Tam Thanh (Vĩ : đuôi; Tam: ba; Thanh: tiếng) là lối thơ ba tiếng cuối cùng, câu nào cũng phát âm giống nhau. Thí dụ:

Ta nghe gà gáy tẻ tè te,
Bóng ác vừa lên hé hẻ hè.
Non một chồng cao von vót vót,
Hoa năm sắc nở lỏe lòe loe.
Chim tình bầu bạn kia kìa kỉa,
Ong nghĩa vua tôi nhẹ nhẻ nhè.
Danh lợi mặt người ti tí tỉ,
Ngủ trưa chưa dậy khoẻ khòe khoe.
Vô Danh

Song Điệp: Song Điệp (Song: đôi; Điệp: trùng) là lối thơ mỗi câu hoặc ở đầu hoặc ở cuối có đặt hai cặp điệp tự (chữ lắp lại). Thí dụ:

Vất vất vơ vơ cũng nực cười!
Căm căm cúi cúi có hơn ai?
Nay còn chị chị anh anh đó,
Mai đã ông ông mụ mụ rồi.
Có có không không, lo hết kiếp,
Khôn khôn, dại dại chết xong đời.
Chi bằng láo láo lơ lơ vậy,
Ngủ ngủ, ăn ăn, nói chuyện chơi.
Vô Danh

Họa Vận: Họa Vận (Họa: hòa theo; Vận: vần) là bài thơ gieo đúng các chữ vần của bài trước, hoặc biểu đồng tình hoặc phản đối lại. Thí dụ:

Tôn Phu Nhân Qui Thục

Bài Xướng
Cật ngựa thanh gươm vẹn chữ tòng,
Ngàn thu rạng tiết gái Giang Đông.
Lìa Ngô bịn rịn chòm mây bạc;
Về Hán trau tria mảnh má hồng.
Son phấn thà cam dày gió bụi;
Đá vàng chi để thẹn non sông.
Ai về nhắn với Châu Công Cẩn;
Thà mất lòng anh được bụng chồng.
Tôn Thọ Tường

Bài Họa
Cài trâm xóc áo vẹn câu tòng,
Mặt ngả trời chiều biệt cõi Đông,
Ngút tỏa trời Ngô un sắc trắng;
Duyên về đất Thục đượm màu hồng.
Hai vai tơ tóc bền trời đất;
Một gánh cương thường nặng núi sông.
Anh hỡi! Tôn Quyền! Anh có biết?
Trai ngay thờ chúa gái thờ chồng.
Phan Văn Trị

Liên Ngâm hoặc Liên Cú: Liên Ngâm hoặc Liên Cú (Liên: liền; Ngâm: đọc; Cú: câu) là một bài thơ do nhiều người cùng làm, cứ lần lượt mỗi người đọc một, hai câu cho liên tiếp thành bài. Thí dụ:

Cảnh Hồ Tây
(Bài này do bà Liễu Hạnh cùng với ông Phùng Khắc Khoan, một ông họ Lý, một ông họ Ngô đi chơi thuyền ở Hồ Tây liên ngâm mà thành.)

Liễu: Hồ Tây riêng chiếm một bầu trời,
Lý: Bát ngát tứ mùa rộng mắt coi.
Cỗi ngọc xanh xanh làng phía cạnh,
Phùng: Trâu vàng biên biếc nước vàng khơi,
Che mưa nhà lợp vài gian cỏ.
Ngô: Chèo gió ai bơi một chiếc chài.
Giậu thủng chó đua đàn sủa tiếng,
Lý: Trời hôm bếp thổi khói tuôn hơi.
Mơn mơn tay lái con chèo quế,
Phùng: Xàn xạt mình đeo chiếc áo tơi.
Thuyền Phạm phất phơ chơi bể rộng,
Ngô: Bè Trương thấp thoáng thả sông trời.
Đò đua bãi lác tai dòn dã,
Lý: Giọng hát bờ lau tiếng thảnh thơi.
Cò xuống đua qua vùng cát đậu,
Phùng: Diều bay sẽ liệng đám mây chơi.
Khúc ca trong đục ầm bên nước,
Ngô: Quầng mắt xanh đen sạch bụi đời.
Đầu gối long hà lai láng chuyện.
Lý: Tay soi tiền giáp lả lơi cười,
Chốc sen ngả nón chứa rau búp,
Phùng: Đáy nước dìm phao bắt cá tươi.
Có lúc kề hoa bày tiệc rượu.
Ngô: Họa khi tựa bóng đứng đầu mui.
Say rồi, cởi áo quăng dòng mát,
Lý: Tắm đoạn, xoay quần hóng gió phơi,
Trẻ mục Yên hoa bày tiệc rượu,
Phùng: Lũ tiều Thượng Uyển hẹn lời dai.
Bắt cò cứ vững ngồi rình bụi,
Ngô: Mò ngọc khen ai khéo lặn ngòi.
Tay lưới thế thần khôn mắc vướng,
Lý: Lưỡi câu danh lợi nhẹ tham mồi,
Hạ rồi bến mát còn yêu nắng.
Phùng: Đông hết thành xuân chửa thấy mai.
Thú cảnh yên hà sang dễ đọ,
Ngô; Sóng lòng trần tục dạ đầy vơi.
Xe săn Vị thủy thu hồ hỏi,
Lý: Thuyền tới Đào Nguyên mặc sức bơi.
Chuông sớm giục thanh lòng Phật đó.
Liễu: Trăng tròn soi một bóng tiên thôi.

(Nguyên văn chữ nho Truyện Liễu Chúa
Phan Kế Bính dịch nôm trong Việt Hán văn khảo)


Các Tác Phẩm Để Kê Cứu:

1.Phan Kế Bính, Việt Hán Văn Khảo.
2.Ưu Thiên Bùi Kỷ, Quốc Văn Cụ Thể.
3.Đông Châu, Cổ Xúy Nguyên Âm. Lối văn thơ nôm. Cuốn thứ nhất. Đông Kinh Ấn Quán, Hà Nội.
4.Ôn Như Nguyễn Văn Ngọc, Nam Thi Hợp Tuyển. Quyển Nhất; Vĩnh Hưng Long Thư Quán, Hà Nội.
5.Huyền Mặc Đạo Nhân Dương Mạnh Huy, Đường Thi Hợp Tuyển. Cuốn Thứ Nhất (có dạy luật phép làm thơ). Liễu Viên Thư Xá, Saigon.
6.Chương Dân Thi Thoại. Nhà in Đắc Lập, Huế.
7.Phạm Quỳnh, Văn Học Bình Luận. Bàn về thơ nôm. N.P t. 1, số 5, tr, 293-297.

Nguồn: Snowy
ST: TC Nguyễn


Chữ ký của TC NGUYỄN
TC- N.

Tài sản của TC NGUYỄN
7 thành viên đã gửi lời cám ơn đến TC NGUYỄN vì bài viết hữu ích này:
Cuong Long Chi Ton (03-01-2010), j2hoaivi (01-11-2010), nguyentu (29-12-2009), phieu_dieu_khach (16-12-2009), TìmLạiNơiXưa (27-10-2010), Tiêu Tương (01-11-2010), voduonghonglam (27-12-2010)
Đã khóa chủ đề


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 14:42
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,11874 seconds with 15 queries