Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Văn Hóa Thế Giới
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Văn Hóa Thế Giới Chia sẻ những nền văn hóa của các nước trên thế giới

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 28-10-2006   #1
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Tết và Phong Tục của ngày Tết

1- Phong tục Tết
Ở miền Nam trước đây thông thường người ta chuẩn bị tết từ rất sớm. Mỗi gia đình nông dân đều có dành một thửa ruộng trên khu đồng của mình cấy một giống nếp ngon thêm để đồ xôi, làm bánh. Khi những dé lúa nếp bắt đầu lấm tấm những hạt đỏ ở đuôi (chưa chín già) nhà nào cũng chọn cắt ít bó về đâm cốm dẹp. Trong những đêm đầu tháng chạp, khắp xóm thôn đâu đâu cũng rộn ràng tiếng chày giã cốm "cúp cum" nghe rất vui tai.

Khi mùa màng thu hoạch xong thì không khí tết ở thôn làng rộn lên trong tiếng chày quết bánh phồng. Loại bánh nay làm bằng gạo nếp nấu chín bỏ vào cối giã như giã giò, quết cho thật nhuyễn, rồi ngắt từng viên cỡ nắm tay dùng ống tre xoa mỡ cán mỏng ra thành hình tròn như chiếc bánh đa nem, dày độ một ly. Gọi là bánh phồng, vì khi để trên lửa nướng nó phồng tướng lên cả chiều dày lẫn vòng tròn. Chiếc bánh mỏng như chiếc đĩa ấy, khi nướng chín nó nở to bằng cái chậu thau rửa mặt và chiều dày phồng lên hơn một phân tây. Người ta còn phơi những nong bột nếp phơi khô để dành gói bánh ếch.
Ở miền Nam, bắt đầu từ hai mươi tháng chạp ta, khắp nơi mở những phiên chợ Tết cho đến giao thừa đêm ba mươi. Quầy hàng hoa tươi, rau quả, bánh mứt, vải vóc, thịt cá... đều trang hoàng hấp dẫn. Nhưng đông vui nhất phải nói là chợ dưa. Tại các chợ, thuyền chở dưa đổ lên chất thành đống như núi. Nỗi tiếng nhất là dưa Trảng Bàng, Trà Vinh... Bỗ quả dưa ra, ruột đỏ như son, hạt đen huyền nhỏ rít, thịt óng ánh như hạt đường kính, ăn ngọt tê cả răng. Người ta mua dưa về trước để cúng tổ tiên ngày tết trên bàn thờ nhà nào cũng thấy hai quả dưa hấu to cỡ quả ấm tích. Người ta dán lên lớp vỏ xanh mượt của mỗi quả một miếng giây hồng điều cắt thành hình bông hoa xinh xắn, và đặt nó ngồi chễm chệ giữa mấy nải chuối chín vàng tươi xếp vây tròn quanh một chiếc đĩa bằng sứ màu trắng. Mỗi quả dưa đội trên đầu một trái hồng khô ép dẹp như trùm lên chiếc mũ nồi màu xám. Người ta còn đặt lên trên cùng, một quả quýt đỏ mọng, giống như cái mào gà ngất ngưởng. Cạnh hai trái dưa, bắt buộc phải có hai bánh đường phỗi. Ðường phỗi không phải là đường mà là một thứ quả ngọt chế tạo bằng đường cát và lòng trắng trứng gà. Hình bánh đường ấy giống hệt một lá phỗi người và bên trong có nhiều lỗ hỗng cũng như phỗi người. Ðường ấy cứng như đá, để cả năm cũng không chảy nước và chỉ đập ra cho trẻ con ăn chơi sau tết, mặc dầu dùng đường này nấu chè thì rất ngon. Có nhà bầy mâm ngũ quả, mà nhiều khi số trái cây lại vượt quá con số năm. Người ta chú ý đến bốn thứ trái cây: mãng cầu, dừa, đu đủ, xoài, mà theo cách phát âm miền Nam hiểu là "cầu vừa đủ xài".

Cũng có nhà đĩa trái cây, dưới hết là năm bảy nải chuối, bắt buộc là chuối sứ, không phải nghi lễ nào cả, mà vì chuối sứ chín rất chậm, sau ba ngày tết chuối vẫn còn chưa rục. Trên chuối phải có hai món bắt buộc nữa, không biết lý do, là cam Tàu, loại cam mà Âu Châu không gọi là Orange mà gọi là Tangerine và hồng phơi khô, cả hai thứ này đều là hàng nhập cảng từ Trung Quốc gởi sang, vào dịp Tết ta, còn ngày thường thì xưa kia không bao giờ có bán như sau này.

Gần đến tết, người ta sắm tranh Tết, hoa Tết, thường có cành mai cắm trên lọ độc bình trên bàn thờ và trang hoàng từ trong nhà đến ngoài ngõ. Trước đây người ta hay cắt giấy vàng bọc thành những ô vuông hay hình quả trám dán trên cỗng, cửa, cột nhà, chuồng trâu, chuồng heo, cối xay, cối giã, lu nước, cây ăn trái trong vườn... Người ta cũng đem lư đồng ô trầu chén dĩa, ly tách chậu hoa, bình rượu ra đánh bóng, lau sạch.

Ngày Tết, ngày xuân là ngày hội đoàn tụ, đoàn viên, nếu không thì là những ngày nhớ thương da diết nhất. Trước tiên là nghĩ đến những người đã chết, họ tổ chức đi chạp mộ để tỏ lòng "uống nước nhớ nguồn". Chiều 23 tháng chạp, "đưa ông Táo về trời". Ngày 30 làm một mâm cơm cúng tổ tiên, gọi là lễ "rước ông bà" và sau đó đến ngày mồng 3 tháng Giêng thì làm lễ "đưa ông bà".

Người ta cũng dựng nêu, đốt pháo, nhưng lại thích gói bánh tét chứ không gói bánh chưng. Bánh tét có nhiều loại: bánh tét chay, bánh tét mặn, bánh tét ngọt. Bánh tét chay không nhân. Người ta chỉ trộn đo đen vào nếp rồi gói lại đem nấu. Có thể cho thêm vào cùi dừa nạo nhuyễn để tăng vị béo. Gói bánh tét mặn, người ta trải gạo nếp trên lá chuối, rải lớp đo xanh lên, rồi đặt một thỏi mỡ gần bằng ngón chân cái dài suốt đòn bánh như một sợi bấc, xong cuộn tròn lại buộc chặt. Bánh tét ngọt nhân làm bằng đo xanh xào đường.

Mâm cơm cúng tất niên chiều 30 tết, thường quy tụ đủ mặt mọi người thân trong gia đình. Tục xưa quan niệm rằng mỗi năm có một ông Hành Khiển coi việc nhân gian, hết năm thì thần nọ bàn giao cho thần kia, nên cúng tế, đốt pháo là để tiễn đưa ông cũ và đón ông mới. Trong số những câu liễn treo ngày Tết có câu: "Bộc trúc nhất thanh trừ cựu tuế, Ðào phù vạn hộ khánh tân xuân" (một tiếng pháo tiễn đưa năm cũ; muôn nhà, bùa đào tức cây nêu đón chào năm mới).

Giao thừa là thời điểm thiêng liêng giữa năm cũ và năm mới, khi đất - trời giao cảm, muôn vật như tạm thời ngưng đọng trong giây phút để rồi bừng ra một sức sống mới, một sự tái sinh kỳ diệu.

Ba ngày tết là ba ngày vui chơi, ăn uống, thăm viếng, chúc mừng nhau những điều mới mẻ, tốt lành. Một tập quán phỗ biến là trong những ngày đầu năm, mọi người đều chỉ nói ra những lời hay, ý đẹp, gặp nhau chào mừng, hy vọng mọi điều như ý. Bao điều không vui, không vừa lòng năm trước đều bỏ đi. Sách Gia định thành thông chí của Trịnh Hoài Ðức, trong mục "Phong tục chí" có đoạn: "Phàm những khoản vay mượn thiếu thốn trong tiết ấy không được đòi hỏi, đợi ngày hạ nêu mới được nhắc đến.

mồng một người ta thường hay đến cúng vái và thăm hỏi những nhà bên họ nội, mồng hai sang lễ tết bên nhà vợ và mồng ba đến thăm thầy, vì thế có câu "mồng một tết cha, mồng hai nhà vợ, mồng ba nhà thầy". Khi đến thăm họ hàng, bạn bè, người ta thường chúc nhau mạnh khỏe, sống lâu, may mắn gọi là "làm tuổi", và "lì xì" tức là cho tiền vào phong bao giấy đỏ "mừng tuổi cho trẻ em".

ở miền Nam, bốn món cúng và là bốn món ăn ngày Tết, món thứ nhất là thịt hầm. Bắt buộc phải là thịt bắp đùi, hầm cho nhừ với vài vị thuốc Bắc. Món này chỉ để ăn chơi chớ không ăn với cơm. Món thứ nhì là thịt kho tàu, bắt buộc phải là thịt ba rọi (ba chỉ) và bắt buộc phải lớn miếng phải to ít lắm cũng bốn phân trên bốn phân và bắt buộc phải đo vào nồi thịt kho ấy ít lắm cũng một trái dừa xiêm, để cho món thịt kho ấy lạt đi, hầu ăn được to miếng. Món thứ ba là khỗ qua nạp ruột dồn thịt heo bầm nát vào đó rồi cũng hầm y như hầm món thịt nói trên. Món thứ tư thật ra là hai món nhưng chỉ để ăn chơi nên xem như một, đó là nem và bì. Rau chỉ có một thứ độc nhất và cũng bắt buộc, ấy là món dưa giá tức là giá sống ngâm trong nước có ít muối. ¡n bất kỳ món nào trong bốn món kể trên cũng bắt buộc ăn với dưa giá.

Những món trên đây chỉ cúng và ăn tới chiều mồng hai thì thôi, sang ngày mồng ba phải cúng và ăn món khác như gà, cá. Muốn cho đỡ ngấy vì thịt mỡ, người ta thường nấu một nồi cháo cá ám, ăn với rau ghém, chuối cây xắt mỏng và các loại rau thơm, rau mùi, một con cá lóc nướng ăn với lá bông súng non hay đọt vừng.

Ngày tết thường có nhiều trò vui đặc biệt như đá gà, đá cá lia thia, thi cây kiểng, đu tiên, đua ghe, đánh bài, đánh me và xóc đĩa...

Sau ngày giải phóng miền Nam thống nhất đất nước, bà con miền Nam được ăn tết trong hòa bình, hạnh phúc. Những lễ tục phiền toái, lãng phí xa hoa, tốn kém thời giờ và tiền của, hoặc mang tính chất mê tín, dị đoan, những trò chơi đỏ đen có tính chất ăn thua, đều được nhân dân tự giác loại bỏ. Quan niệm kéo dài ngày vui chơi để bù lại quanh năm vất vả "tháng giêng ăn Tết ở nhà" cũng được sửa đoi để phù hợp với nhịp điệu khẩn trương của xã hội hiện đại. Nhưng không phải vì thế mà những nét đẹp cổ truyền đậm đà màu sắc dân tộc cũng như không khí vui tươi phấn khởi rộn rịp mang ý nghĩa mới chúc nhau lao động sáng tạo, tăng thêm sức khỏe, niềm vui của ngày Tết lại giảm đi. Minh Vũ (Xuân - Việt Nam Kinh tế - Xã hội - Số 1.1997

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 28-10-2006   #2
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
2- Tết và Hội tết
Tết về có bao lễ tiết, bao phong tục, bao điều vui, cũng có biết bao trò chơi lý thú nhằm nhắc lại lịch sử làng xóm: rèn luyện thân thể, thi thố tài năng, trí thông minh và đức tính nhẫn nại, kiên trì khắc phục khó khăn, vốn là đức tính của người Việt Nam xưa và nay.

Bao hội thi được mở ra trong những ngày đầu, tuần đầu, tháng đầu của mùa xuân đẹp nhất trong một năm.

Từ hội thổi cơm thi...
Thổi cơm thi là một phong tục có từ lâu đời và khá phỗ biến ở làng quê Việt Nam trước đây.

Vào các dịp hội xuân hàng năm, nhân dân thường tổ chức trò vui thỗi cơm thi khác nhau. ở những làng cạnh sông nước thì thổi cơm thi trên thuyền thúng, gió thổi tứ bề ngồi bập bềnh trên nước. Có nơi vừa đi vừa thổi, hoặc vừa dỗ trẻ em đun nòm ướt, được cơm chín, dẻo ngon mới giành được giải thưởng.

Muốn có nồi cơm sôi rồi chín, phải có chất đốt tốt cho đượm ngọn lửa. Do đó cuộc thi còn gây thêm khó khăn về chất đốt. ở huyện Từ Liêm xã Nghĩa Ðô (xưa), bắt dùng mía tươi làm củi, người thi phải ăn mía lấy bã mà nấu cơm.

Tại Tây Mỗ, hàng năm có thi thổi cơm theo kiểu vừa đi, vừa nấu. Bất kể nam, nữ, người dự thi có cành tre dẻo như cần câu, buộc chặt ra đằng sau lưng, vắt đầu mềm ra đằng trước để buộc quanh nồi đã có sẵn gạo, nước, người dự thi mang theo hai thanh giang hoặc nứa khô để kéo lửa và một bùi nhùi rơm nhỏ để tiếp lửa. Cả hội đứng sẵn trước vạch vôi xuất phát, trước ngực lủng lẳng quang nồi. Một hồi trống chuẩn bị. Mọi người tước mía, nhá kỹ cho khô thành củi, đợi dứt hồi trống thứ hai thì nổi lửa nấu cơm và đi tới đích, không được dừng lại. Qua mỗi bước đi, nồi gạo lại rung rinh, ngọn lửa bị gió tạt, phải khôn khéo lựa bề che đậy. Ai vừa đi vừa nấu, tới đích sớm nhất, cơm vừa chín tới ngon dẻo thì được trao giải.

Tương truyền: Lối thổi cơm thi này nảy sinh từ thời An Dương Vương trong hoàn cảnh vừa hành quân cấp tốc, vừa phải nấu cơm ăn.

ở Tây Tựu có năm vừa thi thổi cơm trên thuyền vừa thi thỗi cơm trên cạn, rất sôi nổi nhộn nhịp.

Thổi cơm thi cũng là một hình thức thể thao dân tộc, vui nhộn có ý nghĩa nhiều mặt ở các vùng quanh Thăng Long.

... Và Hội đâm đuống.
Ðâm đuống được tổ chức chủ yếu vào dịp tết Nguyên Ðán.

Ðâm đuống thực chất là hình thức giã gạo, nhưng là giã gạo trong hội lễ, có tính tổ chức và nghệ thuật.

Ðồng bào Mường (Vĩnh Phú) giã gạo bằng cối gỗ hình chiếc thuyền, lườn dài từ hai tới ba sải tay, chiếc chày giã cũng dài như đòn gánh, giữa thân thon để vừa tay cầm. Ðâm đuống hội lễ là giã gạo chày tay vào cối đuống và chỉ do phụ nữ biểu diễn. Cả làng cùng giã, nhưng nhà nào giã ở nhà ấy.

Mở đầu, một bà nhiều tuổi nhất trong nhà đứng đầu cối, giã ba tiếng để mở màn, thành ba tiếng "Kênh, kênh ,kinh". Nghệ thuật ở đây là làm sao giã thành ba âm thanh như trên. Chày người già khai mạc như thế gọi là "Chày cái". Sau đó đến con gái, cháu gái trong nhà giã, gọi là "chày con", "chày cháu".

Trong nhà có bao nhiêu phụ nữ là phải chuẩn bị bấy nhiêu cái chày và đủ số cụm lúa mà vẫn giữ đúng nhịp điệu, hòa âm nhịp nhàng cùng hàng trăm chày khác. Vì âm thanh cối đuống là "kênh, kênh,kinh" nên đồng bào bảo rằng đó là cối đuống hát "vui xuân mới, vui xuân mới", hoặc "cơm cơm trắng, cơm cơm trắng".

Theo nhịp tay đâm đuống mau hay chậm mà tiếng chày chuyển điệu sang những âm thanh khác nhau có nhịp hai xen nhịp ba, nhịp một xen nhịp ba... Khi đôi nhịp, là tất cả từng ấy chày trong thôn đều cùng đổi, chẳng hạn: "kênh, kinh, kênh kinh" hay "kênh kênh kinh, kênh kinh", "kinh kinh, kinh kinh".

Ðâm đuống thật sự là một cuộc hòa nhạc bằng cối giã có động tác múa đơn giản. Vì ở đây động tác giã đã được nghệ thuật hóa nhằm làm đẹp, mua vui chứ không mang ý nghĩa thực dụng như giã gạo ngày thường.

Ðồng bào còn gọi đâm đuống là "chàm đuống". Chàm là đâm từ trên xuống.

3- Hội mùa

Các dân tộc thiểu số ở rừng Việt Bắc hay trên cao nguyên Tây nguyên, hàng năm khi ngô lúa ngoài nương rẫy đã thu hoạch xong, cái ăn đã chắc chắn trong nhà, thế là cả bản, cả buôn ăn tết được mùa.

Cái Tết vui được mùa luân lưu khắp các nhà trong xóm kéo dài suốt tháng, đến khi ngoài trời có mưa mới, lại bắt đầu vào mùa mới.

Ở các vùng đồng bằng sông hồng, sông cửu long, các làng mạc từ miền bắc vào miền nam, tết mừng được mùa gọi là tết cơm mới ngày 10 tháng10 đương giữa mùa gặt.

Vui được mùa, mong được mùa, ý nghĩa to lớn ấy là mừng lo và cầu mong của cả đất nước. Truyền thống phong tục ân nghĩa ấy có từ xa xưa tới nay.

4- Phong tục thờ cúng

Tín ngưỡng phổ biến của người Việt Nam là thờ cúng tổ tiên. Nhà nào, ở đâu cũng đều bày một bàn thờ ông bà ở một chỗ trang trọng. Người dân Việt Nam quan niệm rằng, dù người đã khuất bao đời, nhưng hồn người và tinh thần người vẫn ở với con cháu trên trần gian. Tết đón năm mới thì ngày tất niên, cúng “tiên thừơng” mời các cụ dưới âm về vui tết với cả nhà.

Những ngày cuối năm nhà nhà đi tảo mộ, thăm nôm mồ mả gia tiên, đồng thời đến tháng ba đi thăm mộ tiết thanh minh . Rồi hằng năm đến ngày giỗ, ngày kỵ phải đèn hương khấn vái tưởng nhớ người đã khuất.

Mỗi năm, tết rằm tháng bảy, tết xá tội vong nhân, người ta thà cá, thả chim tượng trưng cho phóng sinh làm điều lành được phúc, cúng cho các cô hồn làng thang không người cúng giỗ.

Ngày năm, tháng năm và rằm tháng tám, tết vui của con trẻ là mầm non của nòi giống. Những ngày nao nức ấy, trẻ con đeo bùa túi màu sặc sỡ, ăn quả mận uống nước dừa, bôi vôi vào rốn cầu tránh ốm đau, mong ước khoẻ mạnh.

Tết rằm tháng Tám, nhà nào cũng làm vui cho trẻ, có khi cả xóm, cả phố cùng bày cổ, bánh trái, hoa quả, đánh trống, rước sư tử, chơi đèn lòng đèn kéo quân đến lúc trăng lên tròn vành vạch lưng trời, trẻ con xúm vào tưng bừng phá cổ chơi trăng.

5- Lễ cưới

Là sự kiện quan trọng trong đời của người vn. Bởi đây là thời điểm trai gái thành vợ chồng.

Trình tự một lễ cưới ngày xưa rất phức tạp: Đầu tiên là lễ dạm hỏi ( nhà trai mang sính lễ đến nhà gái ăn hỏi)

Sau lễ dạm hỏi, đôi trai gái được coi như là đã hứaaa hôn với nhau; sau đó là lễ sếu ( nhà trai mua hoa quả đến biếu nhà gái; lễ thành hôn (cưới) tiến hành theo ngày giờ đã chọn (ngày lành tháng tốt), nhà trai đến nhà gái đón dâu.

Hôm sau là lễ lại mặt, vợ chồng mới cưới đưa nhau về nhà vợ làm lễ gia tiên. Nghi lễ cưới ngày xưa rất tốn kém.

Ngày nay trình tự dẫn đến lễ cưới thường có bốn bước: tìm hiểu, ăn hỏi, đăng ký kết hôn và cưới. Nghi lễ trong việc ăn hỏi và cưới cũng đơn giản hơn.

6- Sinh con

Là một sự kiện trọng đại trong cuộc đời của người Việt Nam. Người mẹ khi mang thai thường được chăm sóc chu đáo, phải ăn kiêng nhiều thứ, tránh những hoạt động nặng nhọc để khi sanh con được "mẹ tròn con vuông".

Sau khi sinh con, người mẹ phải nằm bếp tha, kiêng ra ngoài gió và chỉ ăn uống thanh đạm. Thực phẩm cho người me thường là trứng gà, vịt; chân giò lợn (được coi là thực phẩm mang lại nhiều sữa nuôi con)

Khi đứa trẻ đầy tháng, gia đình làm lễ "cúng mụ" (do quan niệm là có 12 bà mẹ nặn ra đứa trẻ) lễ cúng thường có một số lễ vật, mội thứ phải có 12 phần. Ngày nay các nghi lễ "cúng mụ" đã được thay đổi thường được tổ chức thành buổi liên hoan mừng trẻ con đầy tháng.

7- Mừng thọ

Trong đời thì ở mỗi tuổi lại một sự đáng trân trọng khác nhau, do tự bản thân gìn giữ hoặc làng xóm nhắc nhở và tôn vinh.

Ngày xưa, bốn mươi tuổi đã được trong làng trong họ quí như lão ông, Lịch sử Việt Nam, đời nhà Trần thế kỷ XII và XIII, vua Trần bốn mươi tuổi nhường ngôi cho con lên trông coi việc nước, còn vua thì nghỉ ngơi và đi tu.

Trong làng, năm mươi tuổi làm lễ lên lình, sáu mươi tuổi lên lão. Dẫu không phải các nhà chức viêc trong làng, nhưng những dịp hội hè đình đám, các cụ lình lão ra chốn đình trung ngồi riêng có trải chiếu cạp điều. Phong tục trọng lão ấy đến bây giờ vẫn được giữ gìn và còn sâu xa ý nghĩa hơn.

Trong gia đình, con cháu nhằm dịp sinh nhật để làm lễ mừng thọ bố mẹ, ông bà. Vợ chồng ăn ở với nhau song toàn 40 năm, 50 năm thì ăn mừng "lễ cưới vàng". Mỗi xã, mỗi phường bây giờ đều có hội thọ của các cụ co tuổi. Các lão ông, các lão bà được trọng vọng như nhau, các cụ bảy, tám mươi tuổi được hội thọ biếu áo điều và chụp ảnh, tặng ảnh lưu niệm.

8- Dâng hương-nét văn hóa Việt Nam

Dân tộc ta có tục dâng hương làm lễ tế thần linh, ông bà, tổ tiên, các vị anh hùng dân tộc. Qua mỗi thời đại, tục dâng hương đã có ít nhiều thay đổi và ngày càng thêm những nét mới, phù hợp với sự phát trển của nền kinh tế-xã hội nói chung và đời sống tâm linh nói riêng.

Trong “Việt Nam phong tục”, học giả Phan Kế Bính cho biết: “Trương Tân là Thứ sử Giao Châu, thường đốt hương ở nhà Cát Lập tinh xà để đọc đạo thư. Tục ta có lẽ khởi đầu từ đó”. Tục dâng hương đến nay đã dần như ổn định trong tín ngưỡng của các dân tộc. Người dân dâng hương cúng bái gia tiên, gia thần vào các kỳ giỗ chạp. Tại các đình, miếu hay chùa chiền đều có dâng hương vào các dịp tết Nguyên đán, tiết Khai hạ (mồng bẩy tháng giêng), tiết Thượng nguyên (mười lăm tháng giêng), Phật đản (mùng tám tháng tư), tiết Trung nguyên (mười lăm tháng bảy)... Hàng năm, theo truyền thống, nước ta có những kỳ lễ dâng hương lớn ở một số địa phương: Hà Nội, ngày mồng 7 tháng 3 ở phủ Tây Hồ thờ Bà chúa Liễu Hạnh, ngày 3 đến 6 tháng 2 ở đền Hai Bà Trưng, ngày 9 tháng 4 ở đền Gióng; Hải Dương, ngày 20 tháng 8 hội lễ đền Kiếp Bạc thờ anh hùng dân tộc Trần Hưng Đạo; Nam Định, từ 1 đến 10 tháng 3 hội Phủ Giầy; Phú Thọ ngày 10 tháng 3 lễ hội Đền Hùng...

Cung kính thắp nén hương, lòng người cảm thấy thanh thản, như được giao hòa cùng trời đất. Đằng sau hành động “đốt”, “cắm”, là những điều cao cả hướng vào tâm linh con người. Chính vì vậy mà việc dâng hương mang giá trị văn hóa, đạo lý.

Tục ngữ Việt Nam có câu: “Uống nước nhớ nguồn”. Dâng hương tại gia để thờ cúng tổ tiên và những người đã khuất. Dâng hương ở các đình, chùa, miếu, ngoài việc thỏa mãn nhu cầu tín ngưỡng còn có mục đích thoả mãn nhu cầu văn hoá truyền thống. Như vậy, nét hay của đạo lý trong tục dâng hương là ở lòng thành và nét đẹp thẩm mỹ, đạo đức, văn hóa lại thể hiện ở nghi thức dâng hương. Đó là triết lý dân tộc, là giá trị văn hóa tinh thần mỗi chúng ta phải gìn giữ, bảo tồn và phát huy.

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 28-10-2006   #3
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Hôn Nhân nè

I. Hôn-Nhân của Dân Việt

Theo phong-tục Việt, cái gốc của gia-đình gọi là hôn-nhân. Có hôn-nhân mới có vợ chồng và con cái. Mục-đích của hôn-nhân là để duy-trì gia-thống nên việc lập gia-đình là việc quan trọng của đại gia-đình. Việc lấy vợ lấy chồng gọi là hôn-nhân, cưới xin, hôn-thú, hôn-thư, hay giá-thú. Trên các giấy tờ chứng-nhận, người Việt thường dùng chữ “giá-thú.” “Giá” là lấy chồng, “thú” là lấy vợ. Còn hôn-thú chỉ có nghĩa là lấy vợ thôi. “Hôn” có nghĩa là bố mẹ nàng dâu, “nhân” có nghĩa là bố mẹ chàng rể. Nghĩa tổng-quát của từ “hôn-nhân” là cưới xin (marriage). Theo truyền-thống dân Việt, cha mẹ thường lo cho con đầy-đủ mọi thứ kể cả việc kén vợ kén chồng cho con. Chính vì thế, việc hỏi vợ và gả chồng là bổn-phận của cha mẹ như đã trình-bày trong các câu tục-ngữ sau đây: “Trai lớn dựng vợ, gái lớn gả chồng, cha mẹ đặt đâu ngồi đấy.” Vì muốn gia-đình xứng-hợp, tức là “môn đăng (đang, đương) hộ đối,” nên đã có trường hợp ngay khi những đứa trẻ còn là bào-thai trong bung mẹ, đôi bên cha mẹ đã đính-ước với nhau rằng nếu về sau một bên sinh con trai và một bên sinh con gái thì sẽ gả con cho nhau. Ngoài vấn đề hai gia đình phải có “môn đăng hộ đối”(gia đình hai bên xứng đáng với nhau), trai gái còn phải tốt-nghiệp trường cao-đẳng thì mới thành vợ thành chồng vì “Phi cao-đẳng bất thành phu phụ.”Ở Việt-Nam trước đây, con trai mười sáu tuổi và con gái mười ba tuổi đã bắt đầu có thể lấy vợ lấy chồng vì vào lứa tuổi đó, trai gái đã hiểu sự đời, bắt đầu có tinh- khí, và biết giao-cấu (to have sexual intercourse). Chính vì thế mà người Việt ta có câu tục-ngữ là “nữ thập tam, nam thập lục.” Ở Bắc Mỹ này, trai 21 tuổi và gái 18 thì được quyền tự do lấy nhau. Nếu gái 16 tuổi và trai 18 tuổi mà muốn lấy nhau thì phải được phép của cha mẹ. Từ ngàn xưa, ở Việt-Nam chúng ta, tuy rằng việc dựng vợ gả chồng là quyền của cha mẹ, nhưng cha mẹ vẫn hỏi ý-kiến con cái trước khi quyết-định và việc thuận-tình của con cái ít khi bị cha mẹ cản-trở. Vì cha mẹ hết lòng thương yêu và lo cho con cái nên con cái đã hết sức vâng lời cha mẹ và cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy. Ngày nay, các bậc cha mẹ chỉ đóng vai-trò cố-vấn và thực-hiện cưới-xin khi con cái đã đến tuổi hiểu biết trong việc kén chọn nhau.Theo truyền-thống dân Việt, việc kén vợ kén chồng rất quan-trọng. Sau đây là các phong-tục mà những gia-đình người Việt đã từng áp-dụng để kén vợ kén chồng cho con: lấy vợ xem tông, lấy chồng kén giống, kén con ông cháu cha, và kén gia đình có luân-lý đạo-đức. Kén vợ cho con, các bậc cha mẹ chú-trọng đến đức-hạnh hơn là nhan-sắc vì “cái nết đánh chết cái đẹp.” Thêm vào đó, các bậc cha mẹ còn phải xem trai gái có hợp tuổi với nhau không vì có hợp tuổi nhau thì mới hòa-thuận, làm ăn mới thịnh-vượng, và sinh con mới tốt lành. Trai gái không hợp tuổi nhau thì khi lấy nhau sẽ có rất nhiều điều đáng tiếc như hay gây sự với nhau, làm ăn hay bị thất-bại, con cái bị hư hỏng, và vợ chồng sẽ bị ly-thân rồi ly-dị. Trong sách tử-vi tướng-số có bốn nhóm tuổi mà mỗi nhóm gồm có 3 loại tuổi hợp nhau gọi là tam-hợp và có ba nhóm tuổi mà mỗi nhóm có bốn loại tuổi xung-khắc nhau gọi là tứ-hành-xung. Bốn nhóm tuổi tam-hợp gồm có: “Thân, Tý, Thìn” hợp nhau ; “Tỵ Dậu, Sửu” hợp nhau; “Dần, Ngọ, Tuất” hợp nhau; và “Hợi, Mão Mùi” hợp nhau. Ba nhóm tuổi tứ-hành-xung gốm có: “Tý, Ngọ, Mão, Dậu” xung-khắc nhau; “Thìn, Tuất, Sửu, Mùi” xung-khắc nhau; và “Dần, Thân, Tỵ, Hợi” xung-khắc nhau. Chính vì thế, các bậc cha mẹ của hai gia-đình bao giờ cũng phải so đôi tuổi của cặp trai gái trước khi làm lễ đính-hôn, tức là Lễ Ăn-Hỏi.Khi hai bên gia-đình nhà trai nhà gái ở xa nhau mà muốn hiểu rõ về tình-trạng mỗi gia-đình và tính-nết tài-năng và đức-hạnh của con trai và con gái, họ phải nhờ người làm mai-mối (Ông Mai Bà Mối) để giúp việc cưới-xin. Người làm mai-mối thường là người quen cả đôi bên gia-đình hoặc có liên-hệ gia-đình với một bên. Lời nói của mai-mối rất quan-trọng và có ảnh-hưởng mãnh-liệt để hai bên gia-đình hiểu rõ nhau hầu tiến tới việc quyết-định hôn-nhân cho con cái.

II. Tục-Lệ (Customs) về Hôn-Lễ (Marriage, Wedding Ceremony) của Người Việt
Ở thời xa xưa, tục-lệ về hôn-lễ của nước Việt ta rất phức-tạp, tiền-nhân ta đã có đến sáu (6) tiến-trình về hôn-lễ: Lễ Nạp-Thái (kén chọn), Lễ Vấn-Danh (hỏi tên tuổi và ngày sinh tháng đẻ của cô gái), Lễ Nạp-Cát (so đôi tuổi được tốt), Lễ Nạp-Tệ (ăn-hỏi), Lễ Thỉnh-Kỳ(xin cưới), và Lễ Thân-Nghênh hay Nghênh-Hôn (lễ cưới). Tuy-nhiên, từ đầu thế-kỷ thứ 20 (1901) đến nay (2004), Nước Việt Tự-Do của chúng ta chỉ có ba tiến-trình về hôn-lễ như sau: Lễ Chạm- Ngõ, Lễ An-Hỏi, Lễ Cưới. Khi đã làm Lễ Cưới ở nhà, nếu sau đó không nhờ nhà thờ hay nhà chùa chính-thức làm Lễ Cưới thì phải đến khai tại cơ-quan chính quyền địa-phương để xin tờ giá-thú (hôn-thú hay hôn-thư).

1. Lễ Chạm-Ngõ (The Pre-engagement Ceremony, a Promise to Marry)
Sau khi hai bên gia-đình đã ưng-thuận việc hỏi vợ gả chồng cho con, Lễ Chạm-Ngõ mới được cử-hành. Lễ Chạm-Ngõ còn được gọi là Lễ Xem-Mắt vì đây là dịp để trai gái biết rõ nhau hơn và thân-nhân của gia-đình nhà trai có cơ-hội tìm hiểu tuổi, thai-độ, và tư-cách của cô dâu tương lai lúc còn ở nhà gái ra sao để có quyết-định làm Lễ An-Hỏi và Lễ Cưới.Ở Việt-Nam trước đây, khi tổ-chức Lễ Chạm-Ngõ, nhà trai thường đem trầu cau, rượu, trà, và các loại bánh để nhà gái dâng cúng gia-tiên rồi đem biếu chú bác cô dì cậu mợ. Ở hải-ngoại hiện nay, lễ-vật Chạm-Ngõ của người Việt ta thường gồm có những bó hoa, những tái cây, những chai rượu, và những hộp trà, v.v. Sau khi đến nhà gái, vị đại-diện nhà trai (ông bố của chú rể tương lai) ngỏ lời với nhà gái về Lễ Chạm-Ngõ. Sau đó, vị đại-diện của nhà gái (ông bố của cô dâu tương lai) đáp lời chào mừng và ưng-thuận. Tiếp theo đó, việc cúng gia-tiên của nhà gái được cử-hành, các vị đại-diện gia-đình nhà trai và nhà gái cùng chú rể và cô dâu tương lai đều cùng nhau cúng bái. Sau khi cúng gia-tiên nhà gái, mọi thân-nhân của hai gia-đình hiện-diện trong buổi Lễ Chạm-Ngõ đều được nhà gái mời dự tiệc-trà ăn mừng Lễ Chạm-Ngõ. Sau bữa tiệc-trà, họ nhà trai ra về.Từ Lễ Chạm-Ngõ đến Lễ Ăn-Hỏi không có khoảng thời-hạn nhất-định, tùy theo gia-đình nhà trai và nhà gái định-đoạt có khi trong vòng 3 tháng, nửa năm, hay cả năm trời. Sau ngày Lễ Chạm-Ngõ, nhà trai thường lui tới nhà gái vào những dịp lễ, tết, hoặc các ngày kỵ-nhật (ngày giỗ) của nhà gái và mang các lễ-vật đến để cúng lễ. Nếu sau Lễ Chạm-Ngõ mà mọi việc đều tốt đẹp giữa nhà trai nhà gái, nhất là gia-đình nhà trai hoàn-toàn ưng-thuận nàng dâu tương-lai, thì Lễ Ăn-Hỏi sẽ được tiến-hành.

2. Lễ Ăn-Hỏi (Betrothal, An Engagement to Marry)
Lễ Ăn-Hỏi (Lễ Đính-Hôn) là lễ rất quan-trọng của việc hôn-nhân. Theo phong-tục của Việt-Nam, nhà trai phải đáp-ứng lời đòi-hỏi của nhà gái về việc đưa đầy-đủ những phần lễ-vật vào ngày Lễ Ăn-Hỏi như những quả cau, những lá trầu, những hộp trà, những gói nem, bánh chưng, bánh dày, những hộp bánh quế, bánh bích-quy, bánh ngọt, heo quay, xôi gấc, và rượu, v.v. để nhà gái làm lễ cúng gia-tiên và biếu thân-bằng quyến-thuộc với mục-đích báo tin mừng. Khi đem lễ-vật đến nhà gái trong dịp Lễ Ăn- Hỏi, nhà trai tổ-chức dẫn lễ-vật một cách thật trang-trọng bằng cách để các lễ-vật vào hộp, xếp vào mâm, và bao-phủ bằng giấy bóng (glassine paper, cellophane) màu vàng và màu đỏ rồi cử người ăn mặc chỉnh-tề để đi cùng với gia-đình nhà trai đưa lễ-vật đến nhà gái. Nếu nhà trai ở gần nhà gái thì đi bộ, nếu ở xa thì đi bằng xe hơi. Nếu đi bằng xe hơi thì khi gần đến nhà gái, mọi người phải xuống xe để đi bộ thành đoàn người mang lễ-vật đến nhà gái một cách trang-trọng và chỉnh-tề. Ở Việt-Nam trước đây, trầu cau, trà, và rượu là các lễ-vật chính-yếu của Lễ An-Hỏi. Hiện này ở hải ngoại này, những lễ-vật ăn-hỏi của người Việt ta thường gồm có những bó hoa, những tái cây, những chai rượu, những hộp bánh, và những hộp trà, v.v. Khi các thân-nhân của nhà trai đến nhà gái để làm Lễ Ăn-Hỏi, cả nhà trai và nhà gái phải cử người đứng ra giới-thiệu các thân-nhân của mình trước khi cha mẹ của nhà trai ngỏ lời về Lễ Ăn-Hỏi. Sau đó, cha mẹ nhà gái đáp lời ưng-thuận và chào mừng nhà trai. Tiếp đó, cha mẹ nhà trai và nhà gái cùng chú rể và cô dâu tượng-lai đều cúng gia-tiên của nhà gái. Sau khi cúng gia-tiên tại nhà gái, mọi người hiện-diện sẽ được cha mẹ nhà gái mời ăn tiệc-trà ngay ở đó. Khi nhà gái nhận Lễ An-Hỏi tức là đã chính-thức chấp-nhận việc gả con gái cho nhà trai. Sau ngày Lễ Ăn-Hỏi, khi nhà gái đem các lễ-vật ăn hỏi như quả cau đi biếu thân-bằng quyến-thuộc thì phải biếu mỗi phần 3 quả hay một quả chứ không bao giờ biếu hai quả vì hai quả có ý nghĩa thô-tục. Ngày nay, nhà gái còn kèm theo lễ-vật một tấm thiệp báo-hỷ để tặng thân-bằng quyến-thuộc.Sau Lễ Ăn Hỏi, chàng rể tương-lai còn phải đem lễ-vật đi lễ tết (sêu tết, to present gifts to one’s bride’s family) bố mẹ vợ tương-lai vào những ngày tết và vào 4 mùa bằng cách mùa nào thức ấy. Điều này có nghĩa là vào dịp Tết Nguyên-Đán, Tết Thanh-Minh, Tết Đoan-Ngọ, Tết Trung-Nguyên, Tết Trung-Thu, và những ngày giỗ chính của nhà gái, chàng rể tương-lai phải mang đồ lễ tới gia-đình nhà vợ tương-lai để biếu và lễ bái; vào mỗi mùa có hoa quả bánh trái đặc-biệt, chẳng hạn như vào tháng ba có quả vải vỏ đỏ vị ngon ngọt; vào tháng năm có dưa hấu; vào tháng bảy có quả na và quả nhãn; vào cuối tháng chín sang tháng mười có cốm, hồng, và gạo mới, v.v.; và vào tháng chạp thì có cam có mứt. Sau khi chàng rể tương-lai mang lễ-vật lại, bao giờ nhà gái cũng lấy một nửa số lễ-vật, còn một nửa lễ-vật nhà gái biếu lại nhà trai, gọi là “lại-quả.” Ngày xưa, sau Lễ Ăn-Hỏi, ở một vài nơi tại Việt-Nam còn có tục-lệ “gửi rể” (a future son-in-law living in his future wife’s family). Chú rể tương-lai phải đến ở nhà gái và đi học trong vòng bốn năm năm để thi đỗ rồi mới được cưới vợ. Chính vì thế mà ta mới có câu tục-ngữ: “Phi cao-đẳng bất thành phu phụ.” Sau Lễ Ăn-Hỏi và sêu-tết, nhà trai phải bàn-thảo và đề-nghị với nhà gái đề ấn-định ngày làm Lễ-Cưới.
3. Lễ Cưới (Wedding, The Ceremony of Marriage with its Accompanying Festivities)
a.Thách-Cưới
Hồi trước đây ở Việt-Nam, khi đồng-ý để nhà trai làm Lễ-Cưới, nhà gái có lệ “thách-cưới” nhà trai. “Thách-cưới” có nghĩa là nhà gái đòi các thứ cho cô dâu và gia đình nhà gái gồm các đồ trang sức và quần áo cưới cho cô dâu và các đồ lễ-cưới cho gia đình nhà gái như tiền-bạc, trà rượu, trầu cau, bánh-trái, thịt heo thịt bò, và gạo nếp gạo tẻ, v.v. để làm tiệc thiết-đãi bà con và bạn-hữu. Việc thách-cưới này có khi làm cho nhà trai thật đau buồn; nhiều khi, nhà trai phải yêu-cầu nhà gái để giảm bớt việc thách-cưới đi vì không có đủ tiền bạc để rước dâu. Nếu nhà gái không đồng-ý thì nhà trai phải đi vay mượn tiền-bạc để lo đám cưới. Việc thách-cưới đã làm cho nhiều người dân buồn-phiền nên họ đã làm các câu ca-dao hài-hước như sau: “Em là con gái nhà giầu, / Mẹ cha thách-cưới ra màu xinh sao. Cưới em trăm tấm gấm đào, / Một trăm hòn ngọc hai mươi tám ông sao trên trời.” “ Con gái là con người ta, / Con dâu mới thật mẹ cha mua về.” Ngày nay, việc thách-cưới không là vấn-đề quan-trọng vì nhà trai và nhà gái thường cộng-tác tích-cực với nhau để làm Lễ-Cưới cho cô dâu chú rể thật chu-đáo.

b. Chọn Ngày Làm Đám Cưới
Sau khi nhà trai và nhà gái đã thỏa-thuận mọi việc, hai bên phải ấn-định ngày làm đám cưới bằng cách chọn ngày tốt có ghi rõ trong âm-lịch. Trong các tấm lịch ta (âm- lịch), ở mỗi tờ lịch, các chi-tiết sau đây đều được ghi rõ: ngày này là ngày nào trong năm, các tuổi nào kỵ với ngày này, ngày này nên làm những việc gì và nên kiêng-cữ (không nên làm) những việc gì, giờ tốt là giờ nào, và giờ xấu là giờ nào, v.v. Tuy trong lịch có ngày được ghi là nên làm đám cưới (nên cưới gả) nhưng đồng-thời cũng có ghi về việc kỵ (không hợp) tuổi cho một số tuổi. Nếu cô dâu chú rể có tuổi kỵ trong ngày đó thì không nên cử-hành lễ cưới trong ngày đó dù là ngày đó được ghi là nên “cưới gả.” Tóm- lại là ngày làm Lễ-Cưới phải không xung không kỵ với các tuổi của chú rể và cô dâu. Trước năm 1954, ở Miền Bắc Việt-Nam, mọi người chỉ làm đám cưới vào các tháng mười, tháng một (tháng11), tháng chạp (thàng 12), và tháng giêng (tháng 1) vì các tháng này có thời-tiết rất tốt và thuận-tiện cho đám cưới. Hầu hết các nơi ở Miền Bắc không tổ-chưc đám cưới vào tháng bảy ta (tháng ngâu) vì tháng này có mưa dầm suốt tháng (mưa ngâu) và hay có gió bão. Ngoài ra, mọi người phải kiêng-cữ tổ-chức đám cưới trong tháng bảy ta vì theo sự-tích, vợ chồng Ngưu-Lang Chức-Nữ bị trời phạt không cho sống gần nhau, vợ chồng chỉ được phép gặp nhau mỗi năm một lần vào ngày mưa ngâu mùng 7 tháng 7 ta mà thôi. Mỗi năm tháng bảy trời đổ mưa-ngâu, / Yêu nhau xin hãy nhớ nhau một vài, / Lất-phất mưa-ngâu ướt đẫm bờ vai, / Tơ-duyên chẳng trọn thương hoài nhớ lâu.

c. Thiệp Báo-Hỷ và Thiệp Mời
Hiện nay, sau khi ấn-định ngày làm đám cưới, nhà trai và nhà gái còn cùng nhau làm những tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời để gửi cho thân-nhân, bằng-hữu, và đăng báo. Muốn có tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời đúng cách, chúng ta phải nhờ chuyên-viên làm cho. Thông-thường thì tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời có nội-dụng viết bằng song-ngữ, tiếng Việt và tiếng Anh. Trong phần “Cước-Chú số 1” ở phía dưới bài này là tài-liệu hướng-dẫn về nội-dung và hình-thức của tấm thiệp báo-hỷ và thiệp mời được viết bằng tiếng Việt.

d. Chuẩn-Bị Lễ Rước Dâu và Đưa Dâu
Sau khi đã ấn-định ngày làm đám cưới và đã gửi thiệp báo-hỷ và thiệp mời, nhà trai phải chuẩn-bị Lễ-Cưới, tiệc-cưới, tiệc-trà, máy chụp ảnh, máy quay phim, mua nhẫn cưới cho cả chú rể và cô dâu, và chuẩn-bị lễ rước dâu. Nhà gái cũng phải chuẩn-bị việc đón-tiếp nhà trai đến rước dâu, chuẩn-bị máy chụp ảnh và máy quay phim, chuẩn bị lễ gia-tiên, lễ Tế Tơ-Hồng, tiệc trà, và lễ đưa dâu. Hiện nay, tiệc cưới thường do nhà trai và nhà gái cộng-tác tổ-chức tại nhà hàng sau khi đã làm lễ cưới để thiết-đãi bà con và bằng-hữu. Nếu nhà trai và nhà gái theo Đạo Phật hay Đạo Thiên-Chúa, sau khi rước dâu về nhà chồng, hai gia-đình còn phải làm hẹn với Nhà Thờ (Catholic Church) hay nhà Chùa (Buddhist Temple) để nhờ các cha hay các thầy chùa làm lễ-cưới ngay tại nhà thờ hay tại chùa để chính-thức có giấy giá-thú.

đ. Rước Dâu
Nếu nhà trai ở gần nhà gái trong cùng làng xóm thì khi các thân-nhân của nhà trai đem các lễ-vật đi đón dâu, mọi người đi bộ thành đoàn người tề-chỉnh; nếu ở xa thì dùng xe hơi hay thuyền (ở vùng quê) để chở lễ-vật và thân-nhân đến nhà gái. Nếu dùng xe di đón dâu, xe đón cô dâu phải được kết hoa ở phía ngoài xe cho đẹp vì “xe hoa” tượng-trưng cho xe đám cưới. Người Việt ta thường tin là nếu đi ra ngõ mà gặp đàn bà con gái thì thật là xui-xẻo. Chính vì thế mà khi gia-đình nhà trai bắt đầu mang lễ-cưới đi đón dâu, gia đình nhà trai phải nhờ người đàn ông vui-vẻ và dễ tính ra đón ngõ để khi mọi người vừa đi ra đón dâu thì được gặp đàn ông con trai ngay trước ngõ cho may-mắn. Nếu đi bằng xe hơi để đón dâu thì khi đến gần nhà gái, cách khoảng độ 200 thước Tây, mọi người phải xuống xe để xếp thành đoàn người đi cho chỉnh-tề để dẫn lễ-cưới đến nhà gái. Người đi đầu đám rước dâu phải là một ông già cầm hương hoa. Để có người chính-danh dẫn đầu đám rước dâu này, nhà trai phải nhờ một ông già hiền-lành, phúc-hậu, có địa-vị, có vợ chồng song-toàn, có lắm con nhiều cháu, và không có tang để dẫn đầu đoàn người đến nhà gái rước dâu về nhà trai. Sự lựa chọn này có ý mong cho cô dâu chú rể khi lấy nhau sẽ được bách-niên giai-lão (vợ chồng cùng sống với nhau đến già), có lắm con nhiều cháu, và công-thành danh-toại. Ông già này mặc áo dài khăn đống hay áo thụng xanh, che lọng, và cầm một bó hoa cùng một bó hương thắp cháy hay bưng một lư-hương nhỏ có đốt trầm. Đi liền sau ông già này là ba của chú rễ và những người mang lễ-vật dẫn cưới. Tiếp theo đó là chú rể, hai cậu phù-rể, và chú bác cô dì cậu mợ của chú rể, v.v. Chú rể mặc quần áo và đội khăn hay đội mũ rất lịch-sự. Quần áo cưới của chú rể mặc vào ngày cưới không giống quần áo mặc thường ngày. Ở Việt-Nam chú rể thường mặc quần trắng, mặc áo the hay áo đoạn kép, đội khăn đống, đội khăn lượt, hay nón chóp quai tua; chân đi đôi giày Gia-Định bóng ngời. Hiện nay ở hải ngoại, chú rể thường mặc quần áo theo kiểu Tây-Phương hay mặc áo dài đội khăn đống theo phong-tục Việt. Y-phục của hai cậu phù-rể cũng tương-tự như y-phục của chú rể.Theo phong-tục Việt, người mẹ của chú rể không bao giờ đi đón dâu tại nhà gái, người mẹ chỉ ở nhà chờ khi rước dâu về tới nhà thì bà mẹ chú rể mới ra đón con dâu vào nhà. Hiện này ở hải-ngoại, có một số gia-đình khi đi rước dâu và đưa dâu về nhà chồng thì cả bố mẹ chú rể đều đi cho vui vẻ và trang-trọng.Khi đám rước dâu đến trước cửa nhà gái, có khi cả nhà trai nhà gái đều đốt pháo ăn- mừng và bắt đầu quay phim và chụp hình trong suốt Lễ Vu-Quy. Khi vào trong nhà gái, xướng-ngôn-viên của nhà trai và nhà gái giới-thiệu các thành-viên của mỗi gia-đình kể cả chú rể và cô dâu tương lai. Sau khi trao lễ-vật rước dâu, người chủ-hôn, bố chú rể, đứng ra ngỏ lời là đã chọn được ngày lành tháng tốt để xin đón dâu. Sau đó, gia-trưởng nhà gái, bố cô dâu, đứng lên đáp lời chào mừng, ưng-thuận, và cám-ơn. Tiếp theo đó, gia-trưởng nhà gái làm lễ cáo gia-tiên và mời gia-trưởng nhà trai cùng chú rể tương-lai và con gái ông ta, cô dâu tương-lai, đến lễ gia-tiên nhà gái. Sau khi lễ gia-tiên nhà gái, có đôi-khi nhà gái yêu-cầu chú rể và cô dâu Lễ Tơ-Hồng ngay tai nhà gái. Thường-thường thì việc Lễ Tơ-Hồng chỉ được tổ-chức tại nhà trai mà thôi. Sau khi lễ gia-tiên nhà gái, chú rể và cô dâu lại phải đến chào mừng ông bà và bố mẹ vợ cùng các thân-nhân của nhà gái. Khi chú rể đến chào mừng ông bà, bố mẹ vợ, và chú bác cô dì cậu mợ nhà gái, các vị này thường tặng chú rể một món tiền hoạc vàng bạc hay các món quà. Sau khi chú rể và cô dâu đã lễ gia-tiên và chào mừng mọi thân-nhân của nhà gái, nhà gái mời mọi người của nhà trai và nhà gái đến dự bửa tiệc trà. Sau bữa tiệc-trà này và đến giờ hoàng đạo (giờ tốt), nhà trai xin rước dâu. Lúc này cô dâu đã mặc quần áo và trang-điểm thật chỉnh-tề. Cô dâu thường mặc quần lĩnh hoa tranh, mặc áo dài, và đội khăn vành hay nón thúng quay thao và đi dép nhung cong. Ngày nay ở hải-ngoại, cô dâu có thể mặc quần áo theo lối Tây-phương cũng được. Đồng thời cô dâu cũng đã xếp những đồ của mình trong những cái “va-li”(suitcase) để mang ra xe về nhà chồng. Những đồ của cô dâu gồm có áo quần, chăn gối, nữ-trang, sách-vở, và các dụng cụ cá nhân, v.v. Theo phong tục Việt, ở thôn-quê, họ nhà gái cử một số người đi tiễn cô dâu về nhà chồng trong khi cha mẹ cô dâu không bao giờ đưa con về nhà chồng. Tuy nhiên, ở các tỉnh-thành trong nước trước đây, nhất là ngày nay ở hải-ngoại, cha mẹ cô dâu thường đi theo con gái về nhà chồng để cho vui vẻ và trang-trọng. Trong số những người tiễn cô dâu về nhà chồng có hai cô phù-dâu. Y-phục của các cô phù-dâu cũng na-ná như y-phục của cô dâu. Theo tục-lệ Việt, những cô phù-dâu và những cậu phù-rể phải là những người độc-thân, tức là chưa lập gia-đình. Chính vì lý do này mà sau khi phù-dâu phù-rể, các cậu phù-rể có thể kết-duyên với các cô phù-dâu. Trước khi đi về nhà chồng, cô dâu đến chào và lậy cha mẹ đẻ. Đã có nhiều cô dâu khóc sướt-mướt khi rời cha mẹ để về nhà chồng vì thương nhớ cha mẹ.

e. Lễ Vu-Quy
Lễ đưa dâu cũng được gọi là Lễ Vu-Quy, nghĩa là lễ đưa con gái về nhà chồng. Khi đưa dâu về nhà chồng, nhà gái cũng nhờ một ông già cầm hương hoa đi trước cùng với ông già dẫn cưới của họ nhà trai. Đoàn người đưa dâu về nhà chồng đông đảo gấp đôi vì có thêm nhiều người của họ nhà gái. Trước khi khởi-hành, nhà trai và nhà gái cũng đốt pháo ăn-mừng. Nếu đón dâu bằng xe thì sau khi đi bộ từ nhà gái ra xe, mọi người đều lên xe, xe đi đầu là xe của các cụ già cằm hương hoa, xe kế-tiếp là xe hoa dành cho cô dâu chú rể. Cũng có nơi, xe hoa dành riêng cho cô dâu với các cô phù-dâu, còn chú rể ngồi một xe khác với các cậu phù-rể. Tiếp theo đó là các xe của thân-nhân nhà trai và nhà gái. Ở Việt-Nam trước đây có trường hợp là đôi khi nhà trai ở cùng một đường phố với nhà gái, chỉ cách nhau vài trăm thước, nhà trai vẫn dùng xe hơi để rước dâu để đi vòng-vo qua những đường phố khác trước khi rước dâu về nhà. Đây là cách để phô-trương cho mọi người biết. Trong khi rước dâu ngoài phố và khi làm lễ-cưới ở nhà trai, việc quay phim và chụp hình đều tiến-hành để có hình-ảnh làm kỷ-niệm suốt đời cho cô dâu chú rể.Khi về đến ngõ nhà trai, nhà trai thường đốt pháo để tỏ vẻ vui-mừng đón cô dâu vì tiếng pháo nổ là tượng-trưng cho sự vui-mừng. Tiếp đó là bà mẹ chồng ra đón tiếp con dâu và thân-nhân nhà gái. Có nhiều nơi, khi cô dâu về nhà chồng, bà mẹ chồng không ra đón con dâu mà trước đó đã xách bình vôi đi lánh mặt một lúc rồi mới về để chào mừng và tiếp khách. Vì bình vôi tượng-trưng cho sự coi-sóc gia-đình, nên bà mẹ mang bình vôi về để giao trách-nhiệm cho cô dâu hoàn-thành nhiệm-vụ: “Lấy chồng gánh vác giang-sơn nhà chồng.”

g. Lễ Gia-Tiên tại Nhà Chồng
Sau khi được đón tiếp về tới nhà chồng, cô dâu theo chú rể đến chào ông bà và cha mẹ chồng rồi vào lễ gia-tiên. Sau khi lễ gia-tiên xong, chủ-hôn nhà trai và nhà gái đeo nhẫn cưới cho cô dâu chú rể. Có nhiều nơi, việc đeo nhẫn cưới cho cô dâu chú rể được thực-hiện trong khi Lễ Tơ-Hồng, và còn được đeo nhẫn cưới ở nhà thờ và ở nhà chùa nữa. Sau khi chào ông bà cha me chồng, lễ gia tiên nhà trai, và đeo nhẫn cưới, cô dâu và chú rể lại đến Lễ Tơ Hồng.

h. Lễ Tơ-Hồng
Theo truyền-thống người Việt ta, Nguyệt-Lão là vị thần-chủ của hôn-sự nên các đám cưới đều có tục-lệ lễ Tơ-Hồng để tỏ lòng biết ơn Nguyệt-Lão đã dùng dây tơ-hồng xe cho cô dâu chú rể nên duyên vợ chồng. Bàn thờ Tơ-Hồng có thể lập ở trong nhà hay giữa sân. Trên bàn thờ Tơ-Hồng có lư-hương, đèn, nến, hoa quả, xôi gà, ly rượu, và cơi trầu. Cô dâu chú rể đứng hàng ngang trên chiếu trải trước hương-án để lạy 4 lạy, vái 3 vái, rồi quỳ nghe người đại diện nhà trai đọc văn-tế Tơ-Hồng (xem mục Cước-Chú số 2 ở phía dưới bài này về Văn-Tế Tơ-Hồng). Khi người ta đọc xong văn-tế, chú rể cô dâu lại lễ-tạ Nguyệt-Lão rồi cùng uống chung một ly rượu và ăn một miếng trầu đã có sẵn trên bàn thờ Tơ-Hồng. Uống chung ly rượu này có nghĩa là hai người sẽ là một và sống tới khi đầu bạc răng long. Sau khi Tế Tơ-Hồng, cô dâu chú rể đều đến chào mừng chú bác, cô dì, cậu mợ, thím, và anh chị em của chú rể. Khi đến chào mừng ông bà, cha mẹ, cô dì, bác, cậu mợ, chú thím, và anh chị em nhà trai, cô dâu chú rể đều được quý vị này tặng tiền hay quà và ngỏ lời khuyên mừng như: “ Ăn ở thuận-hòa, trên kính dưới nhường, / Sắt cầm hòa-hợp, bách-niên giai-lão, / Bằng rày sang năm có cháu cho bà bế, / Đầu năm sinh con trai, cuối năm sinh con gái, v.v.”

i. Tiệc Cưới Tại Nhà Trai
Sau khi cô dâu chú rể lễ-bái và chào mừng mọi người, chủ nhà trai mời những người hiện-diện của nhà trai và nhà gái trong đám cưới vào dự tiệc cưới tại nhà trai. Sau buổi tiệc cưới ở nhà trai, các thân-nhân của nhà gái ra về. Sau lễ cưới ở nhà và ở nhà thờ hay nhà chùa, các bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách của hai họ đều được mời đi dự tiệc cưới tại tiệm ăn, cao-lâu, hay quán cơm (restaurant). Thiệp mời tiệc-cưới này đã đã được gửi đến cho mọi người trước khi làm đám cưới.k.

Lễ Động-Phòng hay Giao-Duyên
Ngay buổi tối hôm đám cưới, có lễ động-phòng hay giao-duyên cho cô dâu chú rể. Theo tục-lệ, trước khi động-phòng (phòng cưới tức là phòng của đêm tân-hôn để cô dâu chú rể nằm ngủ với nhau lần đầu tiên sau đám cưới), một bà già vẫn còn có chồng và đông con nhiều cháu đứng ra phụ trách sắp-đặt giường chiếu chăn gối màn, mâm rượu, cơi trầu cho cô dâu chú rể dùng. Sau đó cô dâu chú rể dắt nhau vào trong phòng làm lễ hợp-cẩn, tức là cùng nhau uống chung một chén rượu và cùng ăn một miếng trầu trước khi ngủ với nhau trong đêm cưới. Sau đó uống rượu và ăn trầu, cô dâu lạy chồng hai lạy và chồng đáp lại một vái. Trước khi vợ chồng ngủ với nhau trong đêm tân-hôn, cô dâu thường kiếm cách ngồi trên đầu giường và vắt quần áo của mình lên trên quần áo của chồng. Việc làm này cô dâu có ý là làm cho chồng chiều-chuộng và phục tòng mình trong suốt cuộc đời làm vợ.

l. Lễ-Cưới Tại Nhà Thờ (Catholic Church) hay Nhà Chùa (Buddhist Temple)
Sau khi rước dâu về nhà chồng, ngay ngày hôm sau nhà trai và nhà gái còn có hẹn đến làm lễ-cưới tại chùa hay nhà thờ. Mọi nghi-lễ đều do vị hòa-thượng của chùa hay đức cha của nhà thờ định đoạt. Lễ-cưới ở nhà chùa hay nhà thờ cũng có nghi-lễ đeo nhẫn cưới cho chú rể và cô dâu. Nếu chú rể và cô đâu đã đeo nhẫn cưới ở nhà thì trước khi đến nhà thờ hay nhà chùa, phải tháo nhẫn cưới đó ra trước khi lên gặp các cha hay các thầy để đeo nhẫn cưới cho. Ở hải-ngoại này, nếu lễ-cưới được cử hành ở nhà chùa hay nhà thờ thì nhà chùa hay nhà thờ đã thừa lệnh của chính-phủ địa-phương để làm giấy giá-thú cho chú rể cô dâu ngay tại nhà thờ hay nhà chùa trong khi làm lễ-cưới.

m. Lễ Từ-Đường
Tại làng xóm Việt-Nam trước tháng 4 năm 1975, dân Việt đều có lập đền-thờ cho mỗi họ với cái tên là “từ-đường” (ancestral hall). Như thế, họ nhà trai và họ nhà gái đều có từ-đường riêng của họ. Chính vì thế mà ở làng xóm tại Miến Bắc Việt-Nam trước trước năm 1945, khi nhà trai đến nhà gái rước dâu thì chú rể và cô dâu đều phải đến từ-đường của họ nhà gái để lễ xong rồi mới trở về nhà gái để lễ gia-tiên nhà gái. Khi cô dâu về tới nhà trai thì chú rể và cô dâu cũng lại phải ra từ-đường của nhà trai để lễ trước rồi mới về làm lễ gia-tiên tại nhà chú rể. Ở hải-ngoại này chúng ta không có từ-đường cho mỗi họ nên cô dâu chú rể chỉ cần lễ gia-tiên của nhà gái và nhà trai tại nhà mà thôi.

n. Tiệc-Cưới Tại Nhà Hàng Dành Cho Bằng-Hữu, Thân-Nhân, và Quan-Khách của Nhà Trai Nhà Gái
Khi làm lễ vu-quy ở nhà gái và lễ cưới ở nhà trai, chỉ những thân-nhân và những bằng-hữu của hai họ đã tham-dự lễ vu-quy và lễ-cưới ở nhà gái và nhà trai mới được mời tham-dự tiệc-trà hay tiệc-cưới ngay sau buổi lễ gia-tiên tại mỗi gia-đình nhà trai và nhà gái. Còn đối với bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách không đến tham-dự lễ vu-quy và lễ-cưới thì sau khi làm lễ cưới ở nhà trai và nhà thờ hay nhà chùa, các bằng-hữu, thân-nhân, và quan-khách của nhà trai và nhà gái kể các cha và các thầy đều được mời đến dự tiệc cưới tại nhà hàng, tiệm ăn, quán cơm, hay cao-lâu (restaurant). Trong tiệc-cưới ở nhà hàng, ngoài bằng-hữu và quan-khách, mọi thân-nhân của hai họ cũng được mời tham dự tiệc-cưới tại nhà hàng này. Ngày tháng tổ-chức tiệc-cưới và địa điểm của nhà hàng dùng để tổ chức tiệc-cưới này đã ghi trong thiệp-mời gửi bằng hữu, bà con, và các quan-khách trước khi làm lễ-cưới cả tháng.Về việc tổ-chức tiệc-cưới tại nhà hàng, nhà trai và nhà gái phải nhờ thân-nhân làm ban tổ-chức để tiếp-tân và điều-khiển nghi-lễ. Công-việc của ban tiếp-tân là ghi danh các quan-khách, bằng-hữu, và thân-nhân đến dự, nhận quà do mọi người biếu cô dâu chú rể, và chụp hình cùng quay phim khi gặp mọi người đến tham-dự. Việc chụp hình và quay phim còn thực hiện trong suốt buổi tiệc cưới tại nhà hàng để có tài liệu làm kỷ-niệm cho cô dâu chú rể. Cần phải có ban nhạc để giúp thân-nhân của hai họ cùng bằng-hữu và cô dâu chú rể tình-nguyện trong việc hát giúp vui cho tiệc-cưới. Trước khi bắc-đầu tiệc-cưới, cha mẹ cô dâu và cha mẹ chú rể phải lên sân-khấu chào mừng và giới-thiệu quan-khách, bằng-hữu, cùng thân-hân hai họ nhà trai và nhà gái. Sau đó, ban tổ-chức phải đặc biệt giới thiệu cô dâu và chú rể. Ở hải-ngoại này, nếu các gia-đình người Việt dốc lòng tranh-đấu cho tự-do dân-chủ và nhân-quyền của đồng bào trong nước, họ đều tổ-chức lễ chào cờ bản-xử và cờ Việt Nam Tự Do trong các buổi tiệc-cưới ở nhà hàng vì đây là trường-hợp tập-thể của người Việt sum-họp với nhau đông-đảo tại cộng-đồng thì phải có lễ chào cờ.Trong khi mọi người đang ăn uống tại bữa tiệc-cưới này, bố mẹ chú rể cùng với bố mẹ cô dâu phải dẫn cô dâu chú rể đi đến từng bàn ăn để chào mừng quan-khách, bạn-bè, và thân-nhân. Trong lúc này, người phụ-trách chụp hình và quay phim cần phải thực-hiện cho chu-đáo.Sau khi mọi người ăn-uống xong trong tiệc-cưới tại nhà hàng, có những gia-đình nhà trai và nhà gái tổ-chức khiêu-vũ hay nhảy đầm ngay tại đây để giúp cho kết-quả tiệc-cưới vui-vẻ một cách hoàn-hảo.Khi quan-khách và bằng-hữu cùng thân-nhân ra về, bố mẹ cô dâu cùng với bố mẹ chú rể cần phải ra đứng ở cửa để cám ơn và tiễn quan-khách, bằng-hữu, và thân-nhân.

o. Lễ Lại-Mặt
Theo lệ thường của dân Việt, sau khi cưới được 3 ngày, hai vợ chồng phải đem xôi, chè, rượu, và trầu cau về nhà bố mẹ vợ để cúng gia-tiên. Lễ này được gọi là Lễ Lại-Mặt hay Tứ-Hỷ. Nếu vợ chồng đem lễ về nhà bố mẹ vợ ngay hôm sau ngày cưới thì tên lễ này cũng được gọi là Lễ Lại-Mặt hay Nhị-Hỷ. Sau khi cô dâu chú rể lễ gia-tiên, bố mẹ vợ có lời dặn-dò cô con gái (cô dâu) phải đối-xử trọn-vẹn bổn-phận với chồng và gia-đình nhà chồng vì từ nay cô dâu sẽ là người của nhà chồng. Chính vì thế mà ca-dao Việt có câu: “ Con gái là con người ta, / Con dâu mới thật mẹ cha mua về.”

p. Giấy Giá-Thú (marriage licence)
Giấy giá-thú hay giấy hôn-thú rất quan-trọng để vợ-chồng sống với nhau một cách hợp-pháp hầu hưởng mọi quyền-lợi của gia-đình và trợ-cấp của chính-phủ, nhất là ở nơi hải-ngoại này. Ở hải-ngoại này, khi đã làm lễ-cưới tại chùa hay nhà thờ, giấy giá-thú của cô dâu chú rể đều được nhà thờ hay chùa cấp cho vì nhà thờ hay nhà chùa đều được chính-phủ địa-phương chấp-thuận cho làm việc này. Nếu không làm lễ-cưới tại chùa và nhà thờ thì gia đình nhà trai và nhà gái phải tới văn-phòng “City Clerk’s Office” của “City Hall” (Tòa Đô-Chánh) hay văn-phòng luật-pháp ở địa-phường để làm giấy giá-thú (marriage licence). Còn ở Việt-Nam trước ngày 30 tháng 4 năm 1975, sau khi làm lễ-cưới, chủ nhà trai và nhà gái phải đến văn-phòng hộ-tịch tại địa-phương để làm giấy giá-thú cho con, nếu không thì việc hôn-nhân có thể bị tiêu-hủy.


q.Tuần Trăng-Mật (Honeymoon)
Sau khi cưới, vợ chồng thường nghỉ một tuần hay một tháng để đi chơi chung với nhau. Đi chơi chung với nhau một tuần gọi là hưởng tuần trăng-mật, đi chơi chung một tháng với nhau gọi là hưởng tháng trăng mật. Suốt một tháng trời sau ngày cưới là tháng ngọt-ngào tuyệt-vời (the first month of marriage is the sweetest). Ở Bắc-Mỹ này, trong 30 ngày của tháng đầu-tiên sau ngày cưới, vợ chồng đều uống ly thuốc bổ có mật-ong để hưởng thú-vui hợp-cẩn (a newly married couple drink a potion containing honey on each of the first 30 days of the marriage to enjoy the pleasure of wedding feast). Tuần trăng-mật hay tháng trăng-mật này rất quan-trọng cho hạnh-phúc của cuộc đời đội vợ chồng từ sau ngày cưới cho đến khi đầu bạc răng long.

r. Cưới Chạy Tang
Trước đây, tiền-nhân ta có luật-pháp cấm nhà trai nhà gái không được làm lễ-cưới gả trong khi gia-đình để tang thân-nhân kể từ tiểu-tang cơ-niên (để tang 1 năm) đến đại-tang (để tang 3 năm). Chính vì thế mà sau Lễ Ăn-Hỏi, nếu nhà trai hay nhà gái có ông, bà, cha, me, hoặc chú bác bị bệnh nặng có thể chết thì gia-đình phải lo làm lễ-cưới cho con trước khi nhà có người chết. Khi gặp trường-hợp bất-đắc-dĩ, gia-đình phải làm lễ-cưới ngay sau khi có ông, bà, cha, hay mẹ chết bất thình-lình. Việc làm lễ-cưới vội-vã trước khi làm đám tang có tên là cưới chạy tang. Đám cưới chạy tang rất giản-dị và nhanh chóng đối với cả hai gia-đình nhà trai và nhà gái vì mọi người còn phải dành thì giờ để lo đám tang cho thân-nhân.

London, ngày 21 thang 6 năm 2004

------------------------------------------------------------

Cước-Chú: 1. Thiếp Báo-Hỷ và Thiệp Mời
(Thiệp làm bằng giấy màu vàng thì viết bằng chữ màu đỏ hay xanh; nếu thiệp làm bằng giấy màu trắng thì viết bằng chữ màu vàng, đỏ, hay xanh; )Thiệp Báo-Hỷ Ngày . . . . . . . . .

(Chỗ viết tên và địa chỉ (Chỗ vẽ dấu-hiệu về tên (Chỗ viết tên và địa chỉ của bố mẹ chàng rể) của cô dâu chú rể) của bố mẹ cô dâu)

Kính thưa quý-vị, Chúng tôi trân-trọng báo tin Lễ Thành-Hôn và Vu-Quy của con chúng tôi:. . . . . . . . . . . . . . (viết họ và tên chú rể) . . . . . . . . . . . . . .(viết họ và tên cô dâu)Trưởng-nam (hayThứ-nam) Trưởng-nữ ( hay Thứ-nữ)
Hôn-lễ sẽ được cử-hành vào lúc . . . (giờ sáng/chiều) . . . .(ngày trong tuần-lễ)Ngày . . . tháng. . . . . năm . . . . . . . . (ngày tháng năm tây-lịch)Nhằm ngày. . .tháng. . . năm . . . . . . . . (ngày tháng năm âm-lịch)Tại. . . (địa-chỉ nơi tổ-chức hôn-lễ)
Trân-trọng,( Ký tên và biên tên ba hay má của chú rể / ba hay hay cô dâu đứng ra báo tin) ------------------------------------

Kèm theo tâm thiệp báo-hỷ này, chúng ta còn cần phải có tấm thiệp mời quan-khách đến dự tiệc-cưới. Tấm thiệp mời này cũng phải viết bằng song-ngữ để tiện việc mời cả người Việt lẫn người bản-xứ. Tiếp theo đây là bản thiệp mời bằng tiếng Việt với nội-dung như sau:

Thiệp MờiNgày…. . . . . . . . . . . . . .Kính thưa . . . . . . . . . . . .(biên tên người được mời) Trân trọng kính mời Ông Bà (Ông/ Bà/ hay Anh Chị) đến dự buổi tiệc-cưới chung vui cùng với gia-đình chúng tôi tại: . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . (biên địa-chỉ nơi tổ-chức tiệc-cưới)Vào lúc . . . . . . . . . . . (biên giờ, ngày trong tuần, và ngày tháng năm tây lịch)
Sự hiện-diện của Ông Bà sẽ là niềm vinh-dự cho gia-đình chúng tôi. Kính xin Ông Bà làm ơn thông-báo cho chúng tôi biết (bằng số điện thoại dưới đây) là có đến tham-dự tiệc-cưới được hay không. Xin thông báo cho chúng tôi biết trước ngày . . . . . . . . . . . . . . .(đề ngày trước một tuần của ngày có tiệc cưới). . . . . . . . . . . (tên người của gia đình nhà trai), . . . . . . . . . . . . .(số điện thoại). . . . . . . . . . (tên người của gia đình nhà gái), . . . . . . . . . . . . . .(số điện thoại)
Trân-trọng,(ký tên và biên tên của người đứng mời)
Hồi xưa ở Việt-Nam, các gia-đình đều dùng bài Văn-Tế Tơ-Hồng sau đây của Học-Giả Triêu Dương Nguyễn Các-Phụng:

2. Văn-Tế Tơ-Hồng


Duy Nguyệt-Lão xe duyên ngày... tháng . . . năm . . . thành-phố . . . tỉnh . . . nước. . . Vì việc kết-hôn của . . . . (tên chú rể) cùng . . . (tên cô dâu), nay hôn-sự đã thành, kính dâng lễ bạc lòng thành lên Đức Tơ-Hồng Nguyệt-Lão Thiên-Tiên. Ngài rất công, rất thẳng,/ Không vị, không thiên,/ Đem kính ngọc xét soi thế-sự, / Lấy chỉ hồng xe kết nhân duyên, / Xui nhạn cá mối-manh đưa lại, / Nên uyên-ương sum-họp phỉ-nguyền, / Bởi nợ trước duyên sau cùng sinh một hội, / Vậy người Nam kẻ Bắc kết-duyên bách niên, / Đuốc hoa xán-lạn hai nhà nhờ ơn Nguyệt-Lão,/ Thước ngọc hợp-thành một cặp bởi đức Hoàng-Thiên, / Gối phượng chăn loan tưng-bừng đôi lứa, / Chèo lan lái quế êm-ấm một thuyền, / Mong sớm ứng điềm lành, mộng hổ, mộng hùng, mộng sà, mộng lộc,/ Được sau nên họ lớn, sinh đào, sinh lý, sinh huệ, sinh liên, / Nguyện cùng trăm năm giai-lão, / Ước rằng hai họ mãn-viên, / Trông ơn đại-đức, / Tấc dạ vi kiền. Cẩn cáo

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 28-10-2006   #4
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up Nét đẹp về văn hóa Việt Nam

A. Phần Mở Đầu.

Lịch sử văn hóa của dân tộc Việt Nam đã trải dài suốt mấy nghìn năm, và bàng bạc rộng khắp cả ba miền đất nước. Do đó, nói về Văn Hoá của Dân Tộc Việt chúng ta thật không đơn giản, bởi nó quá phong phú và đa dạng. Hôm nay chúng tôi xin trình bày vài nét đẹp mà người Việt chúng ta đã và đang thể hiện trong các dịp Quan, Hôn, Tang, Tế.

B. Một Vài Nét Đẹp Qua Các Sinh Hoạt Quan Hôn Tang Tế.

I. SỰ LIÊN HỆ CỦA CÁ NHÂN, GIA ÐÌNH VÀ TỘC HỌ QUA LỄ TỤC CƯỚI HỎI :

Văn hóa mỗi miền một khác, mỗi nước một khác. Tây phương khác với Đông phương...Ví dụ trong lễ tục cưới hỏi, ở Tây phương ngày nay, khi người con trai và người con gái đã đến tuổi trưởng thành, họ có thể rời gia đình, đi thuê nhà ở riêng với nhau. Sau một thời gian như thấy thuận thảo hay đã có một vài mặt con mới rủ nhau làm đám cưới. Trái lại, ở Đông phương, nhất là ở Việt nam ta, trước khi người con gái về nhà chồng, việc cưới hỏi phải được tổ chức chu đáo, đầy đủ các lễ nghi như dạm hỏi, lễ đính hôn rồi cuối cùng là lễ cưới. Nét đẹp của Văn Hóa Việt trong lễ tục cưới hỏi là, hạnh phúc hôn nhân của đôi trẻ không thể tách rời hạnh phúc của gia đình và tộc họ. Nếu quan niệm tình yêu và hạnh phúc chỉ giới hạn trong phạm vi hai người phối ngẫu thì không hoàn toàn đúng và có phần ích kỷ, vì cha mẹ nào sinh con mà lại không yêu thương con của mình. Do đó, hạnh phúc của con cũng chính là hạnh phúc của cha mẹ và đồng thời cũng là nguồn vui chung của cả bà con hai họ.

II. GIỌT NƯỚC MẮT CỦA CÔ THIẾU NỮ TRONG NGÀY VU QUY :

Người xưa có nói :


" Khấp như xử nữ vu qui nhựt
Tiếu tợ thư sinh lạc đệ kỳ"
Nếu thư sinh hỏng thi mà cười thì ắt hẳn đó phải là nụ cười héo hắt, không thể vui được; ngược lại giọt nước mắt của cô thiếu nữ khóc trong ngày vu quy phải là những giọt nước mắt của niềm vui.
Cũng chưa hẳn như vậy. Theo quan điểm của chúng tôi, giọt nước mắt trong ngày Vu Quy, hay bữa cơm cuối cùng với gia đình để rồi ngày mai người thiếu nữ về nhà chồng, giọt nước mắt ấy không thể nào gọi là vui được. Giọt nước mắt ấy đã chan chứa biết bao tình cảm yêu thương mặn nồng, gắn bó qua bao năm tháng cùng chung sống dưới mái ấm gia đình. Giọt nước mắt ấy rất đẹp , óng ả như pha lê. Giọt nước mắt ấy đã biểu lộ một nỗi niềm đó là chưa tròn bổn phận của mình đối với tổ tiên, ông bà:


"Miếu thiêng vụng kén người thờ
Nhà hoang khói lạnh chị nhờ cậy em".
(Nguyễn Bính)
Và giọt nước mắt ấy cũng bày tỏ bổn phận chưa tròn của kẻ làm con đối với cha mẹ. Nhà thơ Nguyễn Bính đã nói giùm tâm trạng của các cô gái trước lúc sang ngang:
" Em ơi, em ở lại nhà
Vườn dâu em đốn, mẹ già em thương
Mẹ già một nắng hai sương
Chị đi một bước trăm đường xót xa..."
Nỗi "xót xa" của người thiếu nữ lên xe hoa về nhà chồng không phải vì đò xe cách trở, mà vì một khi từ giã mái ấm để đi làm dâu nhà người, thì kể từ đó mình đã không còn là người của mái ấm gia đình. Ngay cả chiếc gối trong khuê phòng bao năm mình đã nằm, lúc bấy giờ, sau khi ra đi, chiếc gối ấy cũng được mẹ sửa lại; và dĩ nhiên khi trở về thăm lại gia đình cô không được tự tiện nằm, ngồi như trước; cũng như không được tự tiện làm bất cứ điều gì nếu chưa được phép cha mẹ và các thành viên còn lại trong gia đình. Nỗi xót xa vì vừa mất đi cái gì thiêng liêng quý báu, vừa không còn thân thiết như xưa, vừa phải xa cha mẹ, xa gia đình, xa các em thơ cũng như chưa biết được những tháng ngày sắp tới phải sinh hoạt bên nhà chồng như thế nào... đó là nỗi xót xa, nỗi buồn trĩu nặng tâm hồn chứ không thể nào là niềm vui được. Cho nên giọt nước mắt của cô thiếu nữ trong ngày vu qui "khấp như xử nữ vu qui nhật", nó chan chứa biết bao tâm tư, tình cảm của người con gái Việt-nam trong đó.
Như chúng tôi đã ví nó rất đẹp và óng ả như pha lê, nhưng pha lê lại rất dễ vỡ nếu chúng ta không biết cẩn trọng và giữ gìn.
Do vậy, đã có biết bao cô gái Việt-nam vì không muốn mất đi cái tình cảm thiêng liêng quý báu ấy nên đã không muốn đi lấy chồng, muốn ở bên cha mẹ suốt đời. Các cô viện lý do là vì cha mẹ sức yếu tuổi già không ai hầu hạ, đỡ đần hôm sớm... Nhưng đâu có bậc cha mẹ nào mà muốn con mình ở như vậy suốt đời. Bởi cha mẹ đâu có ở đời với con. Rủi mai kia cha mẹ khuất núi, qua đèo thì con biết nương cậy vào ai. Do đó, cha mẹ muốn con gái của mình phải có nơi nương tựa, mà đành chấp nhận gánh vác những việc nặng nhọc hằng ngày để con có thể an lòng mà "xuất giá tòng phu". Nguyễn Bính diễn tả lời âu yếm thương yêu của người mẹ với cô con gái khi nhà trai đến dạm ngỏ (xem mắt) như sau:


"Gái lớn ai không phải lấy chồng
Can gì mà khóc, nín đi không
Nín đi, mặc áo ra chào họ
Rõ quí con tôi, các chị trông...
"Ruộng tôi cày cấy, dâu tôi hái
Nuôi dạy em cô, tôi đảm đương
Nhà cửa tôi trông, nợ tôi trả
Tôi còn khỏe chán, khiến cô thương."
(Nguyễn Bính)


Nhưng trong ngày cưới của con, khi tiễn con ra khỏi cửa buồng, chỉ còn một mình mẹ lủi thủi ở lại, vì theo phong tục Việt, người Mẹ chỉ được phép tiễn con ra khỏi cửa buồng thôi, chứ không được theo con về đến nhà họ trai. Khi trở vào trong căn phòng mà con gái của mẹ đã từng ở, sửa lại chiếc gối, nhìn cái bàn, trông cảnh nhớ người, đâu đâu cũng toàn là kỷ niệm, hình ảnh của con lấp kín căn phòng. Những giọt nước mắt mà mẹ đã khéo kềm chế trong giây phút tiễn đưa, chia tay với con, thì giờ nầy mặc tình tha hồ tuôn chảy.
"Đưa con ra đến cửa buồng thôi
Mẹ phải xa con khổ mấy mươi
Con ạ, đêm nay mình mẹ khóc
Đêm đêm mình mẹ lại đưa thoi"
(Nguyễn Bính)
III. LỄ TỤC ÐỂ TANG :

Tại sao ta phải để tang? Để tang là biểu lộ niềm tôn kính và biết ơn đối với người quá cố.

1. Con cái để tang cho cha mẹ.

Đối với cha mẹ, những người sinh thành và đã phải nhọc nhằn vất vả để nuôi mình khôn lớn, mình đã thọ nhận không biết bao nhiêu là công ơn của cha mẹ, không biết bao nhiêu là chén cơm và manh áo mà cha mẹ đã cho mình. Thì mảnh khăn tang chít trên đầu, chiếc áo tang mặc trên người là để tri ân và báo ân sinh thành dưỡng dục, mà hạn chế những việc làm vì ham vui có thể đi đến trụy lạc của mình, những việc làm đó có thể sẽ làm cho vong linh người quá cố không vui. Thứ đến là có thể để người láng giềng sẽ đánh giá cười chê, cho rằng cha mẹ vừa mới nằm xuống mà con cái không biết kiêng cữ gì hết. Ăn chơi, đàn hát, rượu chè là không biểu lộ sự bi ai, đau buồn trước sự mất mát to lớn đối với cha mẹ. Nói như thế, không có nghĩa là cha mẹ qua đời, người con phải làm ra vẻ buồn rầu áo não mới là đại hiếu.

Chữ "chế" trong danh từ kép tang-chế, có nghĩa là chế chỉ, là ngăn chặn mọi sự vui chơi, hoan lạc trong suốt thời gian để tang. Ngày xưa ở quê nhà, những gốc cau, những giây trầu được các cụ chăm sóc mỗi ngày, khi các cụ qua đời, những gốc cau, những giây trầu ấy cũng được chít khăn tang và dường như chúng cũng biết biểu lộ sự buồn đau mất chủ, nên những giây trầu ấy có khi cũng héo úa vàng vọt.

2. Học trò để tang cho thầy và con nuôi để tang cho nghĩa phụ, nghĩa mẫu.

Vì chữ "tang" liên hệ đến chữ "tình", do vậy có tình tức là có tang. Có những người con nuôi không phải do cha mẹ sinh ra nhưng vì có tình với cha mẹ nuôi nên có thể để tang được; người học trò có ân tình với thầy cũng có thể để tang được. Nếu chít khăn tang trên đầu, mặc áo tang trên người mà không có chút tình thì dù có chít bao nhiêu cái khăn tang trên đầu và có để tang bao lâu cũng không có giá trị.

3. Có nên duy trì lễ tục để tang không?

Trong bối cảnh hiện tại những người Việt ở hải ngoại, xa quê, xa những sinh hoạt văn hóa nghìn đời đó, nếu cha mẹ của chúng ta khuất núi, chúng ta có nên để tang hay không? Nếu không làm thì sợ người đời dị nghị, phê bình nên cũng làm một cách nôm na chiếu lệ, làm cho có, không cần thiết, làm hời hợt không sâu sắc. Bởi không thấy giá trị ý nghĩa của khăn tang, rồi để tang một vài tuần, hoặc 49 ngày thì xả, viện cớ là vì ai cũng bận rộn với cơm áo, với công việc làm ăn buôn bán nên không thể để tang, hoặc không thể để lâu được. Dĩ nhiên người quá cố không trách cứ gì trước việc làm như hờ hững, vô tình của chúng ta. Nhưng theo quan điểm của chúng tôi, chúng ta làm như vậy sẽ cảm thấy như không xứng đáng với công ơn và sự hy sinh cao cả của cha mẹ hoặc những người mà chúng ta từng mang nặng ân tình.

IV. TINH THẦN TƯƠNG TẾ :

1. Tình láng giềng

Ở Tây phương này, tình láng giềng không giống như ở Việt nam. Tình cảm láng giềng của Việt Nam gần gũi, gắn bó chặt chẽ vô cùng. Việc gì cũng có thể nhờ hàng xóm. Thiếu lon gạo, chén muối có thể qua hàng xóm mượn, thiếu bất cứ cái gì cũng nhờ hàng xóm giúp đỡ, thậm chí bệnh tật, gió máy đều có thể gọi nhờ hàng xóm giùp đỡ cho dù là nửa đêm, gà gáy mà không sợ phiền hà gì hết. Láng giềng ở Việt Nam không những chỉ giúp đỡ cho nhau về vật chất mà còn giúp cho ta về cả tinh thần nữa.

Cách đây cũng nhiều năm, có một hôm tôi thấy trên một tờ báo Anh ngữ có đăng một tấm hình thật thương tâm, đó là hình ảnh một chiếc kéo cắt đôi bức hình hai mẹ con, bức tranh tách hai mẹ con thành hai mảnh riêng biệt. Điều xót xa là tuổi của người con chỉ mới lên mười. Nội dung bài báo cho biết là, một luật sư lão thành đã từng thắng những vụ kiện lớn tại Hoa-Kỳ đứng ra biện hộ cho em bé ấy được thoát ra khỏi vòng tay yêu thương và chăm sóc của người mẹ. Và kết quả, tòa phán quyết em là người thắng kiện. Nghĩa là em được (hay bị) thoát ly khỏi gia đình! Và dĩ nhiên người đàn bà kia (người thua kiện) đã mất đi quyền làm mẹ và mất hẳn một đứa con tuổi còn thơ dại. Đọc xong bài báo, tôi bàng hoàng xao xuyến, xót xa cho cả hai mẹ con. Nếu em bé ấy sinh ra trong xã hội Việt Nam và được nuôi dưỡng bằng chất liệu Văn Hoá Việt Nam, thì chúng tôi tin rằng sẽ không có tình trạng đó xảy ra, em sẽ được cứu bằng Văn Hóa Việt Nam. Trường hợp nếu có một em bé Việt Nam bị cha mẹ la rầy, đánh mắng, và cô bác láng giềng thấy được, em bé ấy sẽ được cô bác láng giềng bảo bọc, che chở. Họ sẵn sàng đem em về nhà khuyên nhủ, dỗ dành và chờ cho cha mẹ của em nguôi cơn tức giận sẽ đích thân dẫn em về, hướng dẫn em xin lỗi cha mẹ, và đồng thời khuyên cha mẹ nên đối xử thương yêu con cái, chứ không bao giờ có tình trạng họ giúi vào tay em bé số điện thoại của luật sư và khuyên em hãy nên điện thoại cho luật sư để em được bênh vực.

Ở đây chúng ta không có điều kiện làm người láng giềng như ở bên nhà, nhưng ta có tình đồng hương. Tuy chúng ta không được sống san sát bên nhau, nhưng chúng ta có sự liên hệ qua những sinh hoạt hội đòan. Mặc dù kẻ sống ở phía tây, người sống ở bên đông nhưng ta có thể họp mặt nhau cuối tuần, nhờ có những sinh hoạt hội hè, đình đám, nhà thờ, chùa... Qua những sinh hoạt đó, chúng ta gặp gỡ nhau để trao đổi tâm tình đối với đồng hương, nối nhịp cầu thông cảm giữa người và người; sẵn sàng giúp đỡ và cùng siết chặt tay nhau để san bằng những khó khăn nơi đất khách quê người.

2. Tục phúng điếu trong tang lễ

Phúng điếu cũng là một lễ tục rất đẹp của Dân Tộc chúng ta. Qua lễ tục nầy, chúng ta có thể bày tỏ niềm biết ơn và tôn kính đối với người quá cố dưới mọi hình thức chẳng hạn như: chúng ta đến với một thẻ nhang, một tràng hoa, một bức trướng, một điếu văn... hay là một khoản tiền nhỏ để phụ giúp cho thân nhân người quá cố vượt qua những khó khăn trong việc ma chay, tống táng. Những hình thức phúng điếu như trên của Dân Tộc chúng ta, nó nói lên tinh thần tương tế của chòm xóm, láng giềng. Lễ tục nầy có khả năng giúp cho mọi người yêu thương, gắn bó và đùm bọc lẫn nhau. Ở hải ngoại ngày nay có nhiều người nghĩ không cần thiết phải duy trì lễ tục nầy, vì sống trong xã hội nầy hầu hết mọi người đều có bảo hiểm. Khi nằm xuống đã có bảo hiểm lo, con cháu không cần phải lo lắng gì cả. Cho nên vấn đề nhận phúng điếu bằng tiền sẽ không là vấn đề cần thiết, và tạo cho người quá cố mang nợ. Nhưng theo quan niệm của cá nhân chúng tôi, không nhận tiền phúng điếu cũng chưa hẳn là không mang nợ, và chưa chắc đó là một giải pháp ổn thỏa. Có điều chúng ta biết xử dụng lễ vật phúng điếu một cách khéo léo thì sẽ đem lại ích lợi cho cả người sống lẫn người đã mất.


a. Không nhận phúng điếu
Nếu không nhận phúng điếu, thì bằng hữu, thân nhân sẽ phải tìm một cách nào đó, bằng cách nầy hay cách khác để bày tỏ tấm lòng của họ đối với người quá cố. Cách thông thường là bằng một vòng hoa hay một lẵng hoa, mà hoa đẹp thì thường là đắt tiền. Cuối cùng chúng ta cũng phải nhận một cái gì đó từ nơi họ, không nhận phúng điếu bằng tiền, nhưng lại nhận phúng điếu bằng hoa thì cũng là nợ hoa vậy. Hoa tốn kém, nhưng chỉ có giá trị vài ngày, và sau đó hoa sẽ héo tàn.
b. Nhận phúng điếu
Thử giải pháp nhận phúng điếu bằng tiền. Nếu chúng ta nhận phúng điếu bằng tiền, thì thân nhân hay bằng hữu có thể đến với ta một số tiền ít nhiều theo khả năng của họ. Để thực hiện lễ tục nầy một cách hài hòa và lợi lạc, người thân không mặc cảm và người quá cố cũng không mang nợ. Giải pháp như sau: chúng ta có thể làm một cái thùng nhỏ, vuông vức nhưng kín đáo để thân bằng quyến thuộc bỏ tiền phúng điếu vào. Trên thùng ấy ghi rõ: "tất cả số tiền phúng điếu nầy sẽ được sung vào quỹ từ thiện, cứu trợ xã hội... để hồi hướng công đức cho người quá cố", . Sau đó chuyển tất cả số tiền này tới một cơ quan từ thiện nào, hoặc người thân đích thân mang tất cả số tiền nầy về giúp cho các trẻ em nghèo khổ ở Việt Nam hoặc là những đồng bào bị thiên tai bão lụt ở quê nhà chẳng hạn. Như vậy, Những người kém may mắn cũng thừa hưởng được những ân huệ của người quá cố; người quá cố đã nằm xuống rồi mà vẫn còn làm được một việc cuối cùng có ích lợi cho mọi người; đồng thời, thân nhân và bằng hữu cũng có cơ hội bày tỏ chút ân tình với người quá cố và còn gián tiếp làm được một công việc phúc lợi cho đời.
Cho nên việc phúng điếu ở hải ngoại ngày nay, theo chúng tôi nên chuyển qua hướng như vậy, để chúng ta có tầm nhìn rộng hơn, đẹp hơn và ích lợi hơn. Đây là việc làm thiết thực ích lợi, chúng ta cần nên khuyên hóa cho con cháu biết.

V. LỄ TỤC THỜ CÚNG, GIỖ KỴ VÀ NHỚ ƠN TIỀN NHÂN :

1. Tục giỗ kỵ ông bà.

Hàng năm ở Việt Nam chúng ta đều có những ngày giỗ kỵ, ngày họp mặt trong gia đình tộc họ, một năm một lần. Sở dĩ có ngày nầy, là để tập họp con cháu trong gia đình cùng về đoàn tụ, trước hết là để tưởng nhớ đến cội nguồn tổ tiên theo truyền thống "ẩm thủy tư nguyên" (uống nước nhớ nguồn), và sau là để con cháu các chi, các nhánh, con chú, con bác trong tộc họ có dịp quen biết nhau.

Việc cúng cho ông bà, tổ tiên và những người quá cố, họ có hưởng dụng được hay không đó là một việc (chúng tôi sẽ bàn rõ đề tài nầy vào một dịp khác có nhiều thời giờ hơn), còn về phía chúng ta, cúng cho người quá cố là chúng ta đang làm bổn phận hiếu đạo: tri ân, báo ân đối với người quá cố.

2. Chiếc bàn thiên trong Văn Hóa Việt

Chúng ta thường thấy ở thôn quê Việt Nam trước mỗi nhà có đặt chiếc bàn thiên. Dưới nhãn quang của một số người, họ cho đó là một hình thức mê tín, nhưng với tâm tình của người dân quê chất phác, đó là một hình ảnh hết sức đạo đức. Bởi vì quan niệm về nhân sinh quan của dân tộc Việt, đối với cuộc sống không phải chỉ có quan hệ với những người đang sống không thôi, mà cũng phải tưởng nghĩ đến những người đã nằm xuống, những người đã khuất mặt, những chiến sĩ vô danh, những người đã vì nước, vì dân, những người đã hy sinh để cho mình có một đời sống ấm no hạnh phúc. Theo quan điểm của chúng tôi, chiếc bàn thiên để tưởng niệm đến những người đó, là một việc làm hết sức nhân bản, đạo đức và rất đẹp. Đối với những phong tục ở các quốc gia Tây phương hằng năm họ có những ngày truy điệu, tưởng niệm để nhớ ơn những anh hùng, chiến sĩ, những người có công với đất nước, hoặc treo cờ rũ _ một hình thức quốc tang để tưởng niệm, mỗi khi có một vị trong hàng lãnh đạo quốc gia nằm xuống...Tất cả những hình thức ấy, dù là phong tục ở phương Ðông hay phương Tây, cũng đều bày tỏ niềm tôn kính, tri ân đối với người đã khuất.

3. Lễ chúc thọ

Các cụ của chúng ta thường không quan trọng ngày sinh của mình, mà lại luôn luôn chú trọng những ngày húy nhật của tổ tiên ông bà. Ngày sinh của chính mình thì các cụ có thể không nhớ, nhưng ngày húy kỵ của tổ tiên, ông bà thì các cụ chẳng bao giờ quên. Ðây là điểm nổi bật thường thấy ở xã hội Việt Nam.

Các cụ có thể không nhớ ngày sinh của các cụ thì không sao, nhưng phận làm cháu con, chúng ta không thể lơ là, hờ hững những ngày đó, nhất là lễ mừng thọ các cụ hằng năm. Chúng ta tổ chức những buổi lễ như vậy để các thế hệ con cháu có dịp học hỏi về bài học tri ân và cung kính bậc trưởng thượng, người đã hy sinh cho cha mẹ của mình và bồi đắp cho chính các em đó.

C. Phần Kết

Tóm lại, Văn Hoá Việt có muôn ngàn nét đẹp và phong phú. Ngày hôm nay chúng ta đang mang những nét đẹp văn hóa ngàn đời của cha ông đến tận góc biển chân trời. Hy vọng một ngày nào đó, nền Văn Hóa Việt của chúng ta sẽ được nhiều người chấp nhận và thực hành với ước mong có một cuộc sống hài hoà và hướng thượng. Muốn được như vậy thì tất cả chúng ta, những người Việt Nam phải luôn luôn trau giồi, học hỏi và động viên con cháu phải biết tôn trọng, giữ gìn nền văn hóa cao đẹp nầy, để thừa kế gia tài quý báu đạo đức của cha ông để lại. Nếu chúng ta không khéo giữ gìn lễ tục, không khuyến khích con cháu học hỏi và sống với đạo lý ngàn đời của cha ông, thì chúng ta sẽ đánh mất đi di sản văn hóa của dân tộc.

Nếu những đạo lý đó mất đi, thì làm sao chúng ta có cơ hội vãn hồi lại sự thanh bình cho đất nước, làm sao các thế hệ con cháu của chúng ta sau này có cơ hội nghĩ về việc xây dựng quê hương, vì chúng không hiểu gì về giá trị đạo đức của dân tộc, không có ý niệm gì về cội nguồn, tổ tiên, và dòng tộc. Cho nên còn giữ được truyền thống đạo lý Việt Nam, là còn có thể giữ được giềng mối của quốc gia, dân tộc.

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 29-10-2006   #5
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up Mạc Đĩnh Chi

Mạc Đĩnh Chi (1272-1346), tự là Tiết Phu, người làng Lũng Động, huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương. Khi Mạc Đĩnh Chi sinh ra, tướng mạo vô cùng xấu xí: lùn, đen, mồm rộng, mũi tẹt, trán dô. Người làng thường bảo đó là con khỉ tinh nghiệm vào. Nhưng ông lại rất thông minh, ngay từ nhỏ đã nổi tiếng thần đồng. Đời Trần Anh Tông, niên hiệu Hưng Long thứ 12 (1304), ông đi thi, văn bài làm trội hơn mọi người nhưng vì mặt mũi xấu xí nên nhà vua không muốn cho ông đỗ. Ồng bèn dâng bài “Ngọc Tỉnh Liên Phú” (bài phú: Sen trong giếng ngọc) để nói lên cái phẩm giá thanh cao của mình. Trong bài phú có những câu như:

…Phi đào lý chi thô tục; phi mai trúc chi cô hàn
Phi tăng phòng chi cẩu kỷ; phi Lạc thổ chi mẫu đơn
Phi Đào lệnh đông ly chi cúc; phi linh quân cửu uyển chi lan
Nãi thái hoa phong đầu ngọc tỉnh chi liên….

Nghĩa là:

Chẳng phải như đào trần, lý tục; chẳng phải như trúc cỗi, mai gầy
Cẩu kỷ phòng tăng khó tránh; mẫu đơn đất Lạc nào bì
Giậu Đào lệnh cúc sao ví được; vườn Linh quân lan sá kể gì
Ấy là giống sen giếng ngọc ở đầu núi Thái Hoa vậy!…

Vua xem xong bài phú, tỏ ý rất cảm phục, liền cho Mạc Đĩnh Chi đỗ Trạng nguyên. Về sau ông làm tới chức tả bộc xạ (thượng thư) và là ông quan thanh liêm, được nhân dân rất yêu mến.

Có lần Mạc Đĩnh Chi phụng mệnh vua dẫn đầu đoàn sứ giả nước Đại Việt sang sứ nhà Nguyên bên Tàu. Đã một lần biết tiếng trạng nguyên nước Việt, người xấu xí nhưng ứng đối như thần, bọn quan lại nhà Nguyên vẫn muốn thử tài quan trạng. Tuy đã có hẹn trước với người Tàu ngày mở cửa ải, bất ngờ hôm ấy trời lại mưa, Mạc Ðĩnh Chi sai hẹn, hôm sau tới cửa ải Phong Lũy thì người Tầu đóng kín không cho vào.

Một vế đối được thả theo dây buộc xuống thách đối lại, nếu không đối được sẽ không mở cửa ải. Vế đối như sau:

“Quá quan trì, quan quan bế, nguyện quá khách quá quan”

Nghĩa là: Qua cửa ải trễ, cửa quan đóng, mời khách qua đường qua cửa quan.

Vế đối chỉ có mười một chữ, nhưng hiểm ở chỗ có tới bốn chữ "quan", còn chữ "quá" được nhắc tới ba lần. Đây hẳn là câu đối được chuẩn bị khá kĩ từ trong triều nhà Nguyên, chứ không phải viên quan trấn ải nghĩ ra được. Nếu không đối được thì quá bẽ mặt, chỉ còn cách cả đoàn sứ ra về, nhục quốc thể. Mạc Đĩnh Chi nghĩ một lát rồi ứng khẩu:

“Xuất đối dị, đối đối nan, thỉnh tiên sinh tiên đối”.

Nghĩa là: Ra câu đối dễ, đối câu đối khó, mời tiên sinh đối trước.

Vế đối lại dùng mười một chữ, cũng dùng tới bốn chữ "đối" trong vế, còn chữ "tiên" được nhắc 2 lần. Ý đối chỉnh và người đối lại rất nhanh, lại có thể hiện sự nhún nhường.

Bọn quan coi ải vô cùng kinh ngạc vì tài ứng đối, vội ra lệnh mở cửa và bày nghi lễ đón tiếp trọng thể sứ đoàn Đại Việt.

Tới kinh đô, Mạc Đĩnh Chi được vời vào diện kiến hoàng đế nhà Nguyên. Vua Nguyên vốn kiêu căng, tự cho mình là thống lĩnh trái đất, tự ví mình như mặt trời đỏ. Để trấn áp quan trạng Việt Nam và tỏ ý coi thường nước Đại Việt nhỏ bé, hoàng đế Nguyên đọc một câu đối (do triều thần soạn sẵn), đòi trạng Việt phải đối lại:

“Nhật: hỏa; vân: yên; bạch đàn thiên tàn ngọc thỏ”.

Nghĩa là: Mặt trời (là) lửa, mây (là) khói; ban ngày đốt cháy vầng trăng.

Mạc Đĩnh Chi hiểu rõ dụng ý kẻ cả nước lớn và cả mục đích đe dọa của vua Nguyên. Cần phải khẳng định ý chí của Đại Việt và sức mạnh quật cường của Đại Việt, quan Trạng ứng khẩu đọc vang:

“Nguyệt: cung; tinh: đạn; hoàng hôn xạ lạc kim ô”.

Nghĩa là: Trăng (là) cung, sao (là) đạn; chiều tối bắn rơi mặt trời).

Vế đố lại thật giỏi về nghĩa về chữ. Lại thấy trăng lưỡi kiềm như cánh cung, những vì sao tròn như viên đạn, đây là sự hình dung thật tuyệt. Song, hay hơn cả là vế đối tỏ rõ sức cứng rắn của người nước Việt, không lời đe dọa nào làm cho run sợ, sẵn sàng đối phó với kẻ thù.

Vua tôi nhà Nguyên nhìn nhau, lòng đầy thán phục. Hoàng đế sai mang lụa và vàng bạc tặng thưởng Mạc Đĩnh Chi, rồi nói:

- Có một bài thơ của sứ thần của ta mà vua nước Nam không hiểu nổi, phải nhờ đến ngươi mới xong, chẳng hóa ra vua nhà Trần dốt nát chăng?

Mạc Đĩnh Chi cười ầm lên, rồi chắp tay cung kính đáp:

- Tâu hoàng thượng! Giải nghĩa một bài thơ nhỏ là phận của kẻ bầy tôi, chứ đâu phải là công việc của bậc cao tôn như vua nước tôi.

Vua Nguyên cảm phục tài và đức, bỏ qua những đố kị với nhà Trần. Khi hết nhiệm vụ sắp về nước, Mạc Đĩnh Chi được vua Nguyên đích thân phê bút phong “Lưỡng Quốc Trạng Nguyên”.

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 29-10-2006   #6
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up Vài nét về vấn đề hỏi cưới khi xưa

* Nam nữ thụ thụ bất thân là gì?

Ðây là câu nói cửa miệng, quen dùng chỉ mối quan hệ nam nữ theo quan niệm của nhà nho. Người đàn ông và người đàn bà ngày xưa trao cho nhau cái gì, nhận của nhau cái gì, đều không trực tiếp tận tay, sợ bấm nháy, ra hiệu gì với nhau chăng? Hai người muốn mời nhau ăn trầu, thì người chủ tiêm trầu, đặt giữa bàn, khách tự nhặt lấy mà ăn. Lễ giáo phong kiến thật khắt khe, việc tỏ tình trực tiếp khó mà thực hiện được, họa chăng chỉ có đôi mắt là thầm lén nhìn nhau!
Vì vậy các nhà quyền quý thường "cấm cung" con gái. Ngay từ tuổi thơ đã sớm hình thành sự ngăn cách giới tính.

* Mối lái là gì ?

Trong xã hội phong kiến xưa "Nam nữ thụ thụ bất thân" nên hôn nhân cần phải có môi giới. Nếu yêu nhau, cưới hỏi không cần mối lái sẽ bị chê trách. Trong xã hội cũ, có những người chuyên làm nghề mối lái, nếu đẹp đôi vừa lứa thì trở thành ân NHÂN SUỐT ÐỜI. Ở XÃ HỘI mới, ngày nay vẫn còn có các bà mối, các bà mối thời nay là người cố vấn, người đỡ đầu cho đôi trẻ xây dựng hạnh phúc lâu dài. Các bà mối chính là phương tiện thông tin đại chúng, câu lạc bộ người độc thân, các công ty dịch vụ....

* Lễ vấn danh có ý nghĩa gì ?

Là lễ nhà trai đến nhà gái hỏi tên tuổi cô gái, ngày nay gọi là lễ "Chạm ngõ" hay là lễ "Dạm".
Trong hôn nhân xưa chỉ chú trọng có môn đăng hộ đối hay không, có hợp tuổi không, gia đình nào thận trọng mới tìm hiểu "Công, dung, ngôn, hạnh". Chẳng những các chàng trai, trước khi cưới nhiều chàng chưa biết mặt vợ, mà cả những ông bố chồng là người chủ động đi hỏi dâu cũng không biết mặt con dâu.

* Sự tích tơ hồng

Tơ hồng Nguyệt lão thiên tiên dựa theo tích Vi Cố gặp ông lão trong một đêm trăng, ngồi kiểm soát hướng về phía mặt trăng, sau lưng có túi đựng dây đỏ. Ông lão bảo đó là văn thư đựng hôn ước của thiên hạ, còn những sợi dây đỏ để buộc chân những đôi trai gái sẽ thành vợ thành chồng. Một hôm, Vi Cố vào chợ gặp một bà lão chột mắt bế một đứa bé gái, ông lão hiện ra bảo cho biết đứa bé gái kia sẽ là vợ anh, Vi Cố giận, sai đầy tớ tìm giết đứa bé ấy đi. Người đầy tớ đâm đứa bé giữa đám đông rồi bỏ trốn> Muời bốn năm sau, quan Thứ Sử Trương Châu là Vương Thái gả con gái cho Vi Cố. Người con gái dung sắc tươi đẹp, giữa lông mày có dính trang điểm một bông mai vàng. Vương Cố gạn hỏi, vợ mới thưa: thuở còn bé, bà vú bế vào chợ bị một đứa cuồng tặc đâm. Vi Cố hỏi lại: có phải bà vú bị chột mắt không? Người vợ bảo: đúng thế. Vi Cố kể lại việc trước, hai vợ chồng càng quý trọng nhau cho là duyên trời đã định sẵn.

* Tục thách cưới

Thách cưới là một lệ tục lạc hậu, trói buộc cả nhà trai lẫn nhà gái, có khi làm cho chàng rể phải bỏ cuộc mà nỗi thiệt thòi lại rơi vào thân phận người con gái, dẫu sao cũng mang tiếng một đời chồng, dẫu sao cũng làm cho những chàng trai khác phải ngại, xui nên thân phận hẩm hiu.
Ðáng lẽ nên vợ nên chồng, thành gia thành thất, là mừng cho cả hai gia đình nhưng gặp phải ông bác bà cô bên nhà gái khó tính, thách cưới nào là quần áo, nón dép, nào nhẫn xuyến, hoa tai, tiền mặt, cỗ cưới...nên nhà trai phải bỏ cuộc hoặc phải chạy ngược chạy xuôi, lo xong việc rồi kéo cày trả nợ, song ngay từ buổi thành hôn, nghĩa vợ chồng, tình thông gia đã bị sứt mẻ, đó là mầm mống gây nhiều bất trắc về sau.
Cũng có trường hợp nhà gái túng thiếu không thể tự lực cung cấp cho đủ lệ làng, đòi hỏi nhà trai phải lo chu toàn. Cũng có trường hợp bố mẹ cô dâu còn phải xuất ra gấp năm gấp mười lần, và sau khi thành thân, còn cho con gái, con rể nhiều thứ, nhưng cũng thách cưới cao để tránh tiếng xì xào, đàm tiếu rằng con gái mình dở duyên rồi, nên phải cho không.
Hay các gia đình có học thì lại không thách tiền, thách của mà thách chữ nghĩa văn chương chọn rể con nhà gia thế, với hy vọng tương lai con gái mình còn được "võng anh đi trước, võng nàng theo sau".

* Tiền "Cheo"

Tiền "Cheo" là khoản tiền nhà trai nạp cho làng xã bên nhà gái. Trai gái cùng làng xã lấy nhau cũng phải nộp cheo nhưng có giảm bớt. Xuất xứ của lệ "nạp cheo" là tục "Lan nhai" tức là tục chăng dây ở dọc đường hoặc ở cổng làng. Ðầu tiên thì người ta tổ chức đón mừng hôn lễ, người ta chúc tụng. Ðể đáp lễ, đoàn đưa dâu cũng đưa trầu cau ra mời, đưa quà, đưa tiền biếu tặng. Dần dần có nhiều người lời dụng vòi tiền, sách nhiễu, trở thành lệ tục xấu, triều đình ra lệnh bãi bỏ. Thay thế vào đó, cho phép làng xã ddược thu tiền cheo. Khi đã nộp cheo cho làng, tức là đám cưới được công nhận có giấy biên nhận hẳn hoi. Ngày xưa, chưa có thủ tục đăng ký kết hôn, thì tờ nạp cheo coi như tờ hôn thú. Khoản tiền cheo này nhiều địa phương dùng cho việc công ích như đào giếng, đắp đường, lát gạch, xây cổng làng... Ðã hơn nửa thế ký, lệ làng này bị bãi bỏ rồi.

* Trước khi cô dâu về nhà chồng cần những thủ tục gì?

Khi nhà trai bắt đầu đến đón dâu cùng với chú rể đến trước bàn thờ xin tổ tiên chấp nhận kể từ nay nên vợ nên chồng, phù hộ cho trăm năm duyên ưa phận đẹp, cầm sắt giao hoà. Lễ xong, hai người đi mời chàothân nhân, khách khứa, trước hết là những người bề trên, cao tuổi, khách trước, người nhà sau. Trong khi chào mời, cô dâu phải giới thiệu cho chàng rể biết mối quan hệ để biết cách xưng hô.
Sau cùng, trước khi bước ra cửa để về nhà chồng là lễ tạ cha mẹ. Cha mẹ ngồi sẵn một phía ở cửa chính, nếu ông bà nội ngoại còn thượng tại có đến dự thì ông bà cũng ngồi chung một phía, nhưng ở phía cao hơn. Thời xưa đôi tân hôn phải lạy hai lạy, ngày nay châm chước, cúi đầu cung kính xin phép ông bà, cha mẹ. Lúc đó, cha mẹ ban phát cho con gái, con rể một vật gì đó làm kỷ niệm.

* Ý NGHĨA CỦA LỄ XIN DÂU VÀ THỦ TỤC

Lễ này rất đơn giản, trước giờ đón dâu, nhà trai cử một hai người, thường là bác, bà cô, bà chị của chú rể đưa một cơi trầu, một be rượu đến xin dâu, báo trước giờ đoàn đóndâu sẽ đến, để nhà gái sẵn sàng đón tiếp. Phong tục này có nhiều ý nghĩa hay: mặc dù hai gia đình đã quy ước với nhau từ trước về ngày giờ và thành phần đón dâu, song để đề phòng mọi bất trắc nên mới định ra lễ này để cẩn trọng trong hôn lễ. Thời gian này chú rể và bố mẹ chú rể rất bận rộn nên không thể sang nhà gái, nên uỷ thác cho người đại diện sang báo như bộ phận "tiềm trạm".
Trong trường hợp hai gia đình cách nhau quá xa hoặc quá gần, hai gia đình có thể thoả thuận để miễn lễ nay, hoặc nhập lễ xin dâu và lễ đón dâu vào làm một. Cách nhập lễ xin dâu và đón dâu tiến hành như sau:
Khi đoàn vào đón dâu đến ngõ nhà gái, đoàn chỉnh đốn lại y trang, sắp xếp lại thứ tự đi trước đi sa, trong khi đó một cụ già đi đầu cùng một người đội lễ (mâm quả trong đựng trầu cau, rượu) vào trước, đặt lên bàn thờ, thắp hương vái rồi trở ra dẫn đoàn vào chính thức làm lễ đón dâu. Lễ này phải tiến hành rất nhanh. Thông thường nhà gái vái chào xong, chủ động xin miễn lễ rồi một vị huynh trưởng cũng ra luôn để đón đoàn nhà trai vào.

* Mẹ chồng làm gì khi con dâu bắt đầu về nhà?

Phong tục ở mỗi địa phương một khác, trái ngược nhau nhưng đều có ý nghĩa hay.
Ngày xưa ở nhiều địa phương Nghệ An, Hà Tĩnh có lệ tục mẹ chồng ra cất nón cho con dâu: Nhà trai đặt sẵn trước ngõ một nồi đồng, một cái gáo, trong nồi đặt sẵn một quan tiền đồng và đựng đầy nước trong. Cô dâu vào đến cổng dùng gáo múc nước rửa mặt mũi chân tay, mẹ chồng bước ra cất nón cho con dâu.


Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 29-10-2006   #7
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Lễ Cưới Đã Định Sẵn

Vấp Phải Lễ Tang Tính Như Thế Nào ?
Đó là trường hợp "Ưu hỷ trùng phùng". Vui và buồn dồn vào một lúc. "Sinh hữu hạn, tử vô kỳ", cuộc đời thì có hạn nhưng ai biết trước chết vào lúc nào. Theo lễ nghi thì khi trong nhà còn tang, trên đầu còn có vành khăn trắng, nhất là đại tang thì tránh mọi cuộc vui. Nhưng lễ cưới đã chuẩn bị sẵn, nếu quá câu nệ thì quả gay go cho cả hai gia đình, nhiều trường hợp tình duyên đôi lứa dở dang, nhất là các gia đình cả đôi bên đều ông già bà cả, có khi đợi đến bảy, tám năm sau chưa hết tang. Vì vậy tục lệ xưa cũng có khoản "trừ hao" : "Cưới bôn tang, tức là cưới chạy tang". Khi đó người chết nằm tạm trên giường, đắp chăn chiếu lại, chưa nhập quan, hoặc gia đình có thể tự làm thủ tục khâm liệm, nhập quan nhưng chưa làm lễ thành phục. Theo nghi lễ, nếu chưa thành phục thì trong nhà chưa ai được khóc. Hàng xóm tuy có biết nhưng gia đình chưa phát tang thì chưa đến viếng, trừ thân nhân ruột thịt và những người lân cận tối lửa tắt đèn có nhau, coi như người nhà.

Trong khi đó, cả hai gia đình chuẩn bị gấp đám cưới cũng làm đủ lễ đưa dâu, đón dâu, yết cáo gia tiên, lễ tơ hồng... nhưng lễ vật rất đơn sơ, thành phần giản lược, bó hẹp trong phạm vi gia đình và một vài thân nhân. Khách, bạn đã mời cũng miễn, sẽ thông cảm sau. Công việc cưới, gả xong xuôi mới bắt đầu phát tang. Cô dâu chú rể mới, trở thành thành viên của gia đình, chịu tang chế như mọi con cháu khác. Nếu hai gia đình thông cảm cho nhau, có thể trong một ngày, từ sáng đến trưa cưới dâu, chiều tối phát tang cũng xong.

Trường hợp nhà có đám cưới mà hàng xóm lân cận có đám tang thì sao?

Người biết phép lịch và lòng nhân ái không bao giờ cười đùa vui vẻ trước cảnh buồn thảm của người khác. Gia đình có giáo dục, hiểu biết không bao giờ cho phép con cháu nô đùa ầm ỹ hoặc mở băng nhạc inh ỏi khi hàng xóm có việc buồn. Trong trường hợp trên, vẫn tiến hành lễ cưới bình thường nhưng không nên đốt pháo, mở băng nhạc và ca hát ầm ĩ, tránh tình trạng kẻ khóc người cười. Trường hợp có quốc tang cũng như vậy.


Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 29-10-2006   #8
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up Lễ Hội Dân Gian Việt Nam

THI THẢ ÐÈN TRỜI


Thi Thả Ðèn Trời được ghi chép từ năm 1900 trong "Thái bình phong vật chí", ở xã Trình phố (nay thuộc xã An ninh và Phương công huyện Tiền hải). Lệ đặt ra làm đèn giấy bằng cái sọt to, dán giấy kín xung quanh, chừa hở phía dưới còn trong để bát mỡ có bấc để đốt. Khi thi đốt đèn treo lên cao, đèn nhà nào lên được cao nhất mà không bị cháy thủng là thắng cuộc. Tác giả cho rằng lệ thi đèn này có nguồn gốc ở phép treo đèn của Khổng Minh đời Tam quốc bên Trung hoa.

Ở Thái bình lệ thi đèn còn có ở các xã Đông quang, Đông la, Đông á, Đông dương (huyện Đông hưng); An ấp, An khê, Quỳnh nguyên, Quỳnh hưng ( huyện Quỳnh phụ); Thái giang ( huyện Thái thụy); Quang bình, Quang trung (Kiến xương).. song nhiều nhất vẫn là ở huyện Đông hưng. Đèn trời Đông hưng đã lên tận các tỉnh miền núi Tuyên quang, Yên bái, Lai châu... sang Hải dương, Hưng yên, lên Hà nội vào Thanh hóa, Huế, Đà nẵng.

Gọi là đèn trời bởi khi đốt đèn bay lên trời, đèn có thể bay cao cả ngàn mét và bay xa 5-10 km. Thi đốt đèn trời bắt nguồn từ ước vọng của con người mong cho cuộc sống trường tồn. Thi đốt đèn trời trong ngày tết, ngày lễ còn có hàm ý tâm linh xua đuổi bóng đêm, xua đuổi ma quỷ. Người ta quan niệm răng người thắng trong cuộc thi được may mắn cả năm.
Làm đèn trời và đốt đèn thật dễ. Miệng đèn là một thanh tre được làm như cạp rổ, đường kính dài ngắn, cao hay thấp của đèn tùy người làm, thông thường miệng đèn rộng 0,8m và cao 1m. Miệng đèn làm khuôn để phất giấy. Giấy phất đèn được làm bằng giấy bản hoặc giấy dó, có độ dai bền, chịu được sức đẩy của gió. Bấc đèn bằng sợi vải tẩm với mỡ lợn. Từ miệng đèn có sợi giây để buộc bấc đèn. Khi đốt, người ta giữ cho đèn thăng bằng rồi châm lửa vào bấc, lửa chay làm loãng không khí trong lòng đèn, khí nhẹ làm cho đèn từ từ bay lên, gặp gió nhẹ đèn sẽ bay cao, bay xa. Ngày xưa các cụ đã biết "Hỏa sinh phong" tức lửa cháy sinh ra gió.

Phong trào đốt đèn trời ở Thái bình được khôi phục lại từ năm 1990 nhân kỷ niệm ngày thành lập tỉnh. Những năm 1992-1993 người thả đèn trời cải tiến kiểu dáng (không chỉ có hình nơm), cài thêm pháo hoa, khi bay lên cao pháo cháy rất đẹp. Những năm gần đây, nhiều xã đốt đèn trời trong ngày hội làng, vào lúc giao thừa.

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 29-10-2006   #9
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
HỘI ÐỔ GIÀN


Hằng năm vào ngày rằm tháng 7, nhân dân huyện An Nhơn thường đổ về làng An Thái, huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định để dự lễ Vu Lan - báo hiếu của nhà Phật - xem hát bội và những cuộc thi tài. Cũng như nhiều chùa khác ở Việt Nam, vào dịp này nhà chùa trong lễ cúng cô hồn, xá tội vong nhân, thường dựng rạp làm chay (tức lập đàn cầu nguyện cho mọi oan hồn được siêu thoát), tổ chức hát bội cả ngày và đêm. Ngày rằm tháng 7 cũng là tết Trung nguyên của đạo Lão. Cảnh nhà chùa mở hội đón khách thập phương vào dịp này đã được phản ánh trong câu ca dao xưa:

Đồn rằng An Thái, chùa Bà
Làm chay, hát bội đông đà quá đông
Đàn bà cho chí đàn ông,
Xem xong ba Ngọ, lại trông Đổ giàn.

Như ta biết, hát bội (còn gọi là hát tuồng), vốn là một loại hình nghệ thuật cung đình của nho sĩ, nhưng khi vào đến đất Nam Trung Bộ, đã nhanh chóng trở thành một thứ nghệ thuật bình dân được yêu chuộng từ già đến trẻ, mà đất Bình Định là cái nôi tiêu biểu của nghệ thuật này, từng sản sinh ra nhiều tác giả kịch bản và những "ông bầu" nổi tiếng. Người ta mê hát bội đến mức hễ nghe tiếng trống chầu dóng lên là mọi người rạo rực, náo nức. "Tai nghe trống chiến, trống chầu, xếp ba miếng kẹo lộn đầu, lộn đuôi".

Nhưng sức hấp dẫn của hội chùa Bà không chỉ ở chỗ có "làm chay, hát bội" mà còn vì một lý do khác là hội được tổ chức ngay nơi mảnh đất giàu truyền thống thượng võ: Làng An Thái. An Thái thuộc huyện An Nhơn, là làng võ từng sản sinh ra những võ sư và võ sĩ xuất sắc của đất Bình Định. Dĩ nhiên vào những dịp hội hè, việc tổ chức thi đấu côn, quyền là tiết mục không thể thiếu được. về dự hội, cũng là dịp để các môn đệ thăm viếng, gặp lại bạn bè đồng khoá, đồng môn và cũng là dịp để các võ sĩ thử tài cao thấp trên võ đài...

Đặc biệt ở đây, cùng với hội chùa còn có hội Đổ giàn khá hấp dẫn, từng mang đậm dấu ấn nhiều cuộc tranh tài sôi động của các lò võ trong vùng cũng như sự thích thú đối với người xem. Nếu như đi dự hội chùa Bà mà chỉ xem làm chay, làm hội không thì chưa đủ, chưa thật thoả mãn, mà phải xem cả cuộc tranh tài trong hội Đổ giàn của các võ sĩ.

Người ta thiết lập một sân khấu ngoài trời, diện tích hẹp hơn sân khấu thường, nhưng chiều cao thì gấp nhiều lần, khoảng mười mét, bằng tre, gỗ giống như một chòi phát tin ở nông thôn thường thấy trước đây thời kháng chiến, trên đó người ta đặt đàn cúng thần gồm hương, hoa, trà, quả và một heo quay để nguyên con, khoảng độ mười lăm, vài chục kí-lô. Sau những nghi thức cúng lễ cổ truyền như thường thấy ở các lễ hội làng quê, vị chủ tế trên giàn cao, phát lệnh nổi 3 hồi chiêng trống, báo hiệu cuộc tranh tài sắp sửa diễn ra. Lúc này, ở bên dưới đám đông trở nên xôn xao, rộn rịp. Những người yếu, người già, phụ nữ và trẻ con thì dãn ra vòng ngoài để cho những võ sĩ và những người khoẻ tranh nhau và cũng tiện để xem. Còn những người tham gia tranh tài thì trong tư thế sẵn sàng, mắt hướng về phía giàn cao, chờ đợi....

Bỗng trên đài cao, vị chủ tế - thường trước đây cũng là người giỏi võ - bê con heo quay từ trên đàn cúng quay ra phía đám đông bên dưới, rồi dùng cả sức mạnh, tung con heo ra xa để rơi xuống đất. Đó là giây phút căng thẳng nhất sẽ quyết định quà thưởng đó rơi vào tay ai. Các võ sĩ tài nghệ cao, phi thân lên đón lấy con heo từ trên cao, nhưng rồi phải luồn lách, lao ra khỏi đám đông, mang con heo quay chạy về địa điển an toàn đã định. tất nhiên, mỗi nhóm tranh tài đã có phân công người bảo vệ, cản ngăn những đối thủ lợi hại khác có thể giật lại ngay trên tay. Trong cuộc tranh tài này, các võ sỹ dùng tất cả ngón võ, chiến thuật khôn ngoan để giành chiến thắng về mình.

Theo tục lệ con heo quay chiến lợi phẩm này được đem xẻ ra để khao chung cho tất cả những võ sĩ cùng có mặt trong cuộc tranh tài này. Những võ sĩ, hay làng võ có người giành được phần thắng được mọi người hoan nghênh và nể trọng và họ tin rằng năm ấy họ sẽ gặp hên vì được "lộc của thần". thường thì những lò võ ở An Thái và huyện Bình Khê hay giành được vị trí đó. Vì vậy mới có câu: "Tiếng đồn An Thái, Bình Khê, nhiều tay võ sĩ có nghề tranh heo". Heo đây là heo quay, vật cúng thần trong ngày hội. Ý nghĩa của cuộc thi tài này không nằm trong giá trị vật chất của món quà giành được mà ở giá trị tinh thần, được thể hiện qua tài nghệ của những người dự cuộc với chỗ đứng danh dự trong làng võ.

Hội Đổ giàn là một cuộc tranh tài lý thú và hấp dẫn của một vùng quê giàu tinh thần thượng võ được kết hợp một cách hài hoà với ngày hội chùa theo truyền thống dân gian: rằm tháng bảy.

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 03:04
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,24053 seconds with 15 queries