Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
TÓM LƯỢC CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
01. GIAI ĐOẠN THỨ NHẤT: CHUẨN BỊ
“Giận Quốc Phó ra lòng bội bạc,
Nên Tây Sơn xướng nghĩa cần vương.
Trước là ngăn cột đá giữa dòng,
Kẻo đảng nghịch đặt mưu ngấp nghé.
Sau là tưới mưa dầm khi hạn,
Kẻo cùng dân sa chốn lầm than”1.
Bước đường sa đọa của tập đoàn thống trị họ Nguyễn
Từ khoảng giữa thế kỷ thứ XVI trở đi, với sự kiện 1558 và sau đó là sự kiện 15702, cơ đồ riêng của họ Nguyễn mới bắt đầu hình thành. Để xây dựng và ra sức củng cố cơ đồ riêng đó, họ Nguyễn đã ban hành nhiều chính sách tương đối tích cực và tiến bộ. Mâu thuẫn xã hội ở khu vực Thuận Hóa3 và Quảng Nam4 không gay gắt như ở những vùng thống trị của tập đoàn họ Trịnh.
Từ năm 1627 đến năm 1672, bảy trận ác chiến lớn giữa họ Trịnh và họ Nguyễn đã bùng nổ. Bởi ảnh hưởng mạnh mẽ của cuộc phân tranh quyết liệt này, xã hội Đàng Trong tuy có bị phân hóa và phân cực ngày một sâu sắc, nhưng nhìn chung, cũng chưa đến nỗi khốc liệt như ở Đàng Ngoài. Sau năm 1672, với những thành công trong việc kết hợp giữa mở đất về phương Nam với tổ chức khẩn hoang họ Nguyễn lại tiếp tục giữ vững và cũng cố tính tương đối ổn định của xã hội Đàng Trong thêm một thời gian nữa.
Từ thế kỷ thứ XVIII trở đi, tập đoàn thống trị họ Nguyễn càng ngày càng lao sâu vào con đường ăn chơi xa xỉ. Nếu các chúa Nguyễn Phúc Chu (1691-1725), Nguyễn Phúc Chú (1725-1738) và Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765) chỉ mới là những người mở đường cho sự sa đọa, thì đến chúa Nguyễn Phúc Thuần (1765-1777), nhân cách và phẩm giá của giai cấp thống trị đã sụp đổ một cách thảm hại.
Năm 1765, Nguyễn Phúc Khoát qua đời, cuộc khủng hoảng trong nội bộ phủ chúa diễn ra ngày một sâu sắc. Nguyễn Phúc Khoát có tất cả 15 người con, con trưởng là Nguyễn Phúc Hiệu, cũng tức là Đức Mụ5 chẳng may qua đời sớm. Theo lẽ, con trưởng của Nguyễn Phúc Hiệu là Nguyễn Phúc Dương, tức Hoàng Tôn Dương6 sẽ được lên nối nghiệp làm chúa, nhưng vì trước đó, do thấy Nguyễn Phúc Dương còn nhỏ tuổi, Nguyễn Phúc Khoát đã có ý cho người con thứ đã hơn hai mươi tuổi là Chưởng Vũ được phép tập điều khiển các việc của Phủ chúa. Chưởng Vũ7 được giao cho quan Nội Hữu, tước Ý Đức Hầu8 kèm cặp. Nhưng, Nguyễn Phúc Khoát vừa qua đời thì quan Thái Giám, tước Chử Đức Hầu9 và quan Ngoại Tả, tước Đạt Quận Công là Trương Phúc Loan đã cùng với bà phi là Nguyễn Thị Ngọc Cầu10 lập mưu hãm hại Ý Đức Hầu, Nguyễn Phúc Dương không được lập làm chúa nữa mà bị quản thúc. Con út của Nguyễn Phúc Khoát (do bà Nguyễn Thị Ngọc Cầu sinh hạ) là Nguyễn Phúc Thuần được đưa lên nối nghiệp chúa. Lúc này, Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi nhưng hoang chơi lại rất quá quắt. Sử cũ viết:
“Nguyễn Phúc Thuần mới 12 tuổi được nối nghiệp làm chúa, lấy hiệu là Khánh Phủ Đạo Nhân. (Nguyễn) Phúc Thuần còn có tên là (Nguyễn) Phúc Hân. Chúa tuổi trẻ, thích chơi bời múa hát, mắc bệnh không gần được đàn bà, bèn sai người con hát dâm loạn với đám cung nữ để mua vui”11.
Từ khi phe cánh của mình tạm thắng thế, Trương Phúc Loan đắc chí, xưng là Quốc Phó. Trương Phúc Loan có hai người con trai là rể của Nguyễn Phúc Khoát12, cả hai đều là võ quan cao cấp, được phong tới Chưởng Doanh Cai Cơ, quyền uy vì thế mà lấn lướt cả nhà chúa. Trương Phúc Loan cũng là kẻ tham lam vô độ:
__________________________________
1. Hịch xuất quân đánh Trịnh của Tây Sơn năm 1786. Quốc Phó ở đây là quyền thần Trương Phúc Loan.
2. Năm 1558, Nguyễn Hoàng đi làm Trấn Thủ xứ Thuận Hóa và năm 1570, Nguyễn Hoàng được kiêm quản cả xứ Quảng Nam.
3. Vùng từ phía nam Hà Tĩnh đến Thừa Thiên-Huế ngày nay.
4. Vùng tương ứng với Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Gia Lai và Kon Tum ngày nay.
5. Từ thời Nguyễn Phúc Khoát, con trai nhà chúa thì gọi là ả hoặc mụ, còn con gái thì gọi là anh.
6. Hoàng Tôn Dương cũng gọi là ả Dương hay chị Dương.
7. Chưởng Vũ không rõ tên thật là gì.
8. Hiện vẫn chưa rõ họ tên của Ý Đức Hầu.
9. Hiện vẫn chưa rõ họ tên của Chử Đức Hầu.
10. Nguyễn Thị Ngọc Cầu là mẹ của Nguyễn Phúc Thuần.
11. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục (quyển 1).
12. Một là con trưởng (Trương Phúc Thăng), lấy con gái thứ hai của Nguyễn Phúc Khoát là Nguyễn Thị Ngọc Nguyện và hai là con thứ (Trương Phúc Đạo) lấy con gái thứ bảy của Nguyễn Phúc Khoát là Nguyền Thị Ngọc Đạo.
“(Trương Phúc) Loan hưởng ngụ lộc riêng, chỉ tính việc thu thuế lâm thổ sản ở các nguồn như Sái Nguyên, Thu Bồn, Trà Sơn, Trà Vân và Đông Hương đã có mỗi năm từ bốn đến năm vạn quan tiền. Hắn còn lãnh trưng các tạp vụ ở Hộ Tào1, thu nhập thêm không dưới ba bốn vạn quan tiền nữa. Đã thế, hắn lại còn bán quan, thu tiền chuộc tội để làm giàu, vàng bạc châu báu và gấm vóc lụa là chất đầy như núi. Hắn có ruộng vườn, nhà cửa và nô bộc, trâu ngựa, nhiều không biết bao nhiêu mà kể. (Trương Phúc) Loan có biệt thự ở xã Phấn Dương, một năm, mùa thu nước lụt hòm rương bị ướt hết, đến khi nước rút, hắn đem vàng ra phơi giữa ban ngày, khiến cả một sân rộng rực sáng”2.
Để có đủ tiền chi phí cho cuộc sống xa hoa, tập đoàn thống trị ở Đàng Trong đã tiến hành hai biện pháp chính yếu. Một là bán chức tước và hai là tăng cường bóc lột nhân dân bằng sưu cao thuế nặng. Về việc bán chức tước, Lê Quý Đôn cho biết:
“Có nơi một xã mà gồm những mười sáu hoặc mười bảy Tướng Thần3 và đến hơn hai mươi viên Xã Trưởng, đều cho được cùng làm việc”4.
Lê Quý Đôn còn cho biết một số trường hợp cụ thể với những chức tước và các khoản tiền phải nạp một cách rất chi tiết. Ví dụ:
- Năm Bính Tuất (1766) ở huyện Phù Ly (nay là đất hai huyện Phù Cát và Phù Mỹ, tỉnh Bình Định - NKT) có viên Tướng Thần là Đoàn Phúc Chiêm đã nạp nhiều khoản tiền khác nhau, tổng cộng là 664 quan, 3 tiền, 6 đồng để được thăng chức làm Kí Phủ5.
- Người ở huyện Duy Xuyên (nay thuộc Quảng Nam - NKT) là Nguyễn Kim Châu và người huyện Đông Xuân (nay thuộc tỉnh Phú Yên - NKT) là Trần Văn Kiến phải nạp mỗi người tổng cộng các khoản là 277 quan, 1 tiền, 45 đồng để được làm Kí Huyện6.
- Người huyện Minh Linh (nay thuộc địa phận Quảng Trị - NKT) là Dương Bá Tích, đang là con quan, đã nạp các khoản tiền tổng cộng là 165 quan, 2 tiền, 15 đồng để được làm Cai Tổng7.
- Người ở Phú Châu (nay chưa rõ thuộc địa phận tỉnh nào - NKT) là Trần Văn Tình đã nạp các khoản tiền tổng cộng là 82 quan, 4 tiền, 30 đồng để được làm Duyên Lại8.
Biện pháp chính yếu thứ hai là tăng thuế. Trên danh nghĩa thuế ở xứ Đàng Trong không cao, nhưng do chỗ giai cấp thống trị Đàng Trong càng ngày càng đặt ra lắm khoản phụ thu, cho nên, mức đóng góp của nhân dân rất nặng nề. Thống kê ghi chép của thư tịch cổ9, chúng ta có thể kể ra đây mấy khoản phụ thu thường thấy như sau:
- Gạo đầu mẫu10.
- Tiền trình diện (khi đến đóng thuế).
- Tiền dầu đèn (dùng cho quan khi đi thu thuế).
- Tiền trầu cau (dùng cho quan khi đi thu thuế).
- Ngụ lộc Cai Trưng11.
- Tiền chuyên chở12.
- Tiền làm nhà kho.
- Tiền làm bao (đựng thóc) và mua mây (xỏ tiền).
- V.v.
Nếu từ khoảng giữa thế kỷ thứ XVIII trở về trước, chế độ bóc lột ở Đàng Trong, nói theo cách nói của Trịnh Hoài Đức là “pháp chế khoan dung giản dị”13 thì từ giữa thế kỷ thứ XVIII trở về sau, đời sống của nhân dân Đàng Trong càng ngày càng bị chèn ép nặng nề. Mâu thuẫn xã hội cũng càng ngày càng trở nên sâu sắc. Đúng lúc đó thì các phe phái trong nội bộ phủ chúa lại hình thành, không ngừng mâu thuẫn, xung đột và xâu xé lẫn nhau. Bấy giờ, phe quyền thần Trương Phúc Loan mạnh hơn cả, do vậy, ra sức khuynh loát mọi hoạt động của phủ chúa, tự cho mình quyền ban phúc hoặc giáng họa cho bất cứ một ai. Sử cũ chép:
“Chú của chúa Nguyễn Phúc Thuần là Thường Quận Công bị (Trương) Phúc Loan ghét, bèn vu cho tội dám tự chế tạo binh khí để rồi đem giết đi”14.
“Trương Phúc Loan đã là một nhà quý hiển, quyền uy lấn át cả trong lẫn ngoài, lại còn đưa tay chân là Thái Sinh nắm giữ Hộ Bộ, đoạt về cho mình mọi chức trọng yếu. Hắn càng ngày càng kiêu căng và tàn nhẫn, làm điều càn quấy không biết sợ ai, người đương thời gọi hắn là Trương Tần Cối”15.
Thực trạng rối ren và bi đát của phủ chúa đều được thầy giáo Hiến cung cấp cho ba anh em Tây Sơn. Từ đất quê hương của mình, ba anh em Tây Sơn đã âm thầm chuẩn bị cho một cuộc nổi dậy, trước là để cứu sinh linh của trăm họ đang bị áp bức đọa đày, sau là “khuấy nước chọc trời”, làm thay đổi cả một trật tự xã hội lỗi thời và xấu xa. Quá trình chuẩn bị công phu, âm thầm và quyết liệt này được tiến hành với nhiều nội dung phong phú khác nhau. Dưới đây là một vài nội dung chủ yếu và nổi bật nhất.
___________________________________
1. Cơ quan làm công việc của Bộ Hộ trong phủ chúa.
2. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 6).
3. Tướng Thần là người lo việc đi thu thuế.
4. Phủ biên tạp lục (quyển 3).
5, 6, 7, 8. Lê Quý Đôn – Phủ biên tạp lục (quyển 3). Kí Phủ là chức việc hành chánh ở phủ, Kí Huyện là chức việc hành chánh ở huyện. Cai Tổng là người đứng đầu một Tổng. Duyên Lại là nhân viên hành chính bậc thấp ở huyện và ở phủ.
9. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục, Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn: Đại Nam thực lục (Tiền biên), Đại Nam liệt truyện (Tiền biên)... v.v..
10. Gạo dân phải nạp cho quan đi thu thuế tính theo diện tích đất đai cụ thể mà họ canh tác.
11. Bổng lộc của Cai Trưng (tức của người làm nhiệm vụ thu thuế).
12. Dân phải tự chuyên chở thóc lúa đóng thuế đến tận kho nhưng vẫn phải đóng khoản tiền này.
13. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí.
14. Lê Quý Đôn: Phủ biên tạp lục (quyển 1).
15. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn: Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 6). Trương Tần Cối nghĩa là người họ Trương (Trương Phúc Loan) ác như Tần Cối. Tần Cối là quan đại thần của nhà Tống (Trung Quốc) nhưng lại âm mưu thông đồng với giặc Kim để bại Tống và nham hiểm vu oan giá họa để giết Nhạc Phi và nhiều trung thần nữa.
Khôn khéo tìm cách tạo ra sự nhất trí hoàn toàn trong đồng bào các dân tộc ở Tây Sơn.
Muốn chuẩn bị khởi nghĩa và khởi nghĩa thành công, vấn đề quan trọng hàng đầu là phải làm sao tạo ra được sự nhất trí cao độ trong nội bộ đồng bào các dân tộc quần cư ở Tây Sơn. Lòng căm phẫn của nhân dân đối với ách cai trị tàn bạo của tập đoàn họ Nguyễn thì có thừa, nhưng, điều ấy không có nghĩa là ai ai cũng đều sẵn lòng tập hợp dưới ngọn cờ của ba anh em Tây Sơn. Xuất phát từ nhận thức như vậy, ba anh em Tây Sơn mà người có công đầu lúc này là Nguyễn Nhạc, đã kiên nhẫn và khôn khéo tìm nhiều biện pháp khác nhau để lôi kéo và tập hợp nhân dân, xây dựng một sự nhất trí cao độ trước hết là trong đồng bào các dân tộc ở Tây Sơn. Hiện tại, nhân dân vùng Tây Sơn nói riêng và nhân dân Bình Định cùng các địa phương lân cận nói chung, còn lưu truyền rất nhiều chuyện kể lí thú về quá trình chuẩn bị này. Dưới đây là tóm lược vài chuyện kể tiêu biểu nhất:
Dùng gùi gánh nước để gây sự chú ý đầu tiên: Chuyện kể rằng, một hôm, Nguyễn Nhạc sai người đan cho mình mấy cái gùi liền. Xong, ông lấy nhựa cây trát kín bên trong và đem hai cái gùi đã trát kín nhựa cây ở bên trong như thế đi gánh nước. Mọi người trông thấy, cho là kì dị, liền hỏi rằng:
- Không ai có thể dùng gùi để đựng nước, tại sao ông lại làm được như vậy?
Nguyễn Nhạc đáp:
- Tôi là người nhà trời. Người nhà trời làm việc tất nhiên là có chỗ không giống với người của hạ giới làm việc rồi.
Từ đó trở đi, khắp cả một vùng rộng lớn, người ta liên tục rỉ tai nhau rằng, Nguyễn Nhạc là người nhà trời, không phải là người thường của hạ giới. Họ nhìn ba anh em Tây Sơn với cái nhìn đầy cảm phục, nhưng cũng phảng phất chút hoài nghi.
Gọi bầy ngụa hoang tới gần, đánh tan sự nghi hoặc: Bấy giờ, trong số những người phảng phất hoài nghi, có người mạnh dạn đề nghị phải thử để xác định rõ hư thực. Nhân vì ở núi Hiển Hách (cách Tây Sơn không xa) có bầy ngựa hoang rất nhát, hễ thấy bóng người từ xa là đã nhanh chân chạy mất, đồng bào các dân tộc đương thời gọi là ngựa trời, họ bèn đến gặp Nguyễn Nhạc và nói:
- Nếu quả thật ông là người nhà trời thì ắt hẳn là ông phải gọi được bầy ngựa trời ấy đến với ông. Liệu ông có làm được không?
Nguyễn Nhạc bình tĩnh trả lời:
- Điều ấy có gì là khó đâu.
Nói vậy nhưng thực ra thì lúc ấy, Nguyễn Nhạc vẫn chưa nghĩ ra được cách gì có thể gọi bầy ngựa hoang đến với mình. Về nhà Nguyễn Nhạc nghĩ mãi, nghĩ mãi, cuối cùng, ông ra chợ mua một con ngựa cái tơ. Ngày ngày, Nguyễn Nhạc cất công tập cho con ngựa cái tơ của mình một thói quen, ấy là hễ ông phát tín hiệu thì dẫu đang ở đâu, con ngựa cái tơ ấy vẫn chạy đến với chủ và sung sướng được chủ thưởng cho một mớ cỏ non. Sau khi đã tập thành thục, Nguyễn Nhạc dắt con ngựa cái tơ của mình vào núi Hiển Hách. Câu “Ngưu tầm ngưu, mã tầm mã” của cổ nhân quả là không sai. Bầy ngựa hoang tỏ ra rất háo hức khi thấy con ngựa cái tơ của Nguyễn Nhạc xuất hiện. Đúng lúc quan hệ giữa bầy ngựa hoang với con ngựa cái tơ của Nguyễn Nhạc đạt tới mức mật thiết nhất thì Nguyễn Nhạc phát tín hiệu. Con ngựa cái tơ vội chạy tới. Bầy ngựa hoang cũng chạy theo. Dần dần thành quen, Nguyễn Nhạc đã có thể gọi bầy ngựa hoang đến với mình một cách rất nhanh chóng và tự nhiên. Bấy giờ, Nguyễn Nhạc mới mời các vị Tù Trưởng tới và nói:
- Tôi là người nhà trời, cho nên, tôi có thể gọi bầy ngựa trời ấy tới với mình. Không tin, các ông hãy đến mà xem, có điều tất cả các ông phải núp thật kín, làm sao để các ông có thể nhìn thấy ngựa mà ngựa thì không thể nào nhìn thấy các ông.
Các vị Tù Trưởng đồng ý và họ đã được chứng kiến cảnh Nguyễn Nhạc gọi bầy ngựa trời tới. Từ đó, ai cũng tin rằng ba anh em Tây Sơn quả đúng là người nhà trời. Nhưng, họ là người được trời sai xuống hay bị trời đày xuống? Một mối nghi hoặc khác lại nổi lên. Nguyễn Nhạc biết và lại khôn khéo nghĩ cách phá tan sự nghi hoặc ấy.
Nhận mệnh trời trên đỉnh Trung Sơn: ở Phú Lạc có khá nhiều núi non, nhưng nổi danh hơn cả vẫn là Trung Sơn. Núi này còn có nhiều tên gọi khác như Hòn Sung1, Hòn Sưng2, Độc Nhũ Sơn3, Độc Xỉ Sơn4. Tuy chỉ cao khoảng hơn 400 mét nhưng Trung Sơn vẫn được coi là một trong những ngọn núi thiêng. Sự tích Chàng Lía5 kể rằng, khi mẹ Chàng Lía qua đời, Chàng Lía đội quan tài trên đầu, một tay thì giữ, một tay cầm cái mâm vụt mạnh. Mâm bay, Chàng Lía nhanh chân nhảy lên và cứ thế bay mãi, bay mãi đến đỉnh Trung Sơn thì dừng lại. Chàng Lía đã mai táng mẹ ở đó. Hiện nay trên đỉnh Trung Sơn còn có một tảng đá bằng phẳng, hình chữ nhật, bên cạnh lại có hai tảng đá vuông vức chồng lên nhau, người địa phương nói đó là mả của mẹ Chàng Lía.
Thời bấy giờ, Trung Sơn có rất nhiều cọp, vì thế, hầu như chẳng mấy ai dám bước chân lên. Một hôm, Nguyễn Nhạc tổ chức một bữa tiệc linh đình trong nhà mình. Trong số khánh mời có khá nhiều vị Tù Trưởng, những người vốn dĩ rất cả tin nhưng cũng rất đa nghi. Đêm khuya, khi tiệc vừa tàn thì bỗng thấy trên đỉnh Trung Sơn lửa sáng rực trời và tiếp đó là tiếng chiêng trống rộn rã nổi lên. Nguyễn Nhạc cùng với nhiều vị Tù Trưởng rủ nhau cầm đuốc đi lên xem chuyện gì đã xảy ra. Khi gần đến nơi, họ bỗng thấy ở chỗ mả của mẹ Chàng Lía, có nhiều người ăn mặc thật dị kì, nắm tay nhau múa hát theo nhịp trống nhịp chiêng chung quanh một đống lửa lớn. Đang lúc kinh ngạc và lo sợ thì bỗng có một người cao lớn nhất, ăn mặc dị kì nhất, bước ra và dõng dạc nói:
- Truyền cho Nguyễn Nhạc tới đây!
Nguyễn Nhạc run lẩy bẩy, ngoan ngoãn bò tới. Người cao lớn liền mở một cái hòm thật đẹp, lấy ra một tờ giấy và trịnh trọng đọc rồi nói rằng:
- Ta vâng mệnh Ngọc Hoàng Thượng Đế, truyền cho ngươi được quyền làm vua để trị vì thiên hạ kể từ đây.
Được chứng kiến cảnh này, các vị Tù Trưởng đều rất tin rằng Nguyễn Nhạc chính là người được trời sai xuống để làm vua thiên hạ chứ không phải là bị trời đày xuống.
Trời đã ban cho ấn kiếm lại còn cho cả bút nghiên để biên chép một sự nghiệp phi thường:
Sau đêm kính nhận mệnh trời trên đỉnh Trung Sơn được một thời gian, thì một hôm, trời bỗng nổi sấm chớp đùng đùng rồi tuôn mưa xối xả. Nguyễn Nhạc đang vui vẻ đàm đạo với khách tại nhà thì thấy một người hớt hải đội mưa chạy đến và thưa:
- Vừa rồi, sét đánh vỡ tung một tảng đá trên Hòn Giải, tôi tình cờ đi qua và thấy trong đám đá vụn, có cái này.
Nguyễn Nhạc chỉ mới liếc qua đã mỉm cười và nói:
- Đó là ấn thiêng trời ban cho ta, ta biết rồi, đưa đây.
Mọi người chưa hết ngạc nhiên thì lại thấy một người khác, cũng hớt hải đội mưa chạy đến nhà Nguyễn Nhạc và thưa rằng:
- Lúc nãy, tôi tình cờ đi qua Gò Sặt, thấy sét đánh vỡ tung một tảng đá và trên đống đá vụn ấy, có thanh kiếm lạ này.
Nguyễn Nhạc cũng chỉ liếc qua một cái đã quả quyết:
- Đó là kiếm báu trời ban cho ta, ta biết rồi, đưa đây.
Từ đây, Nguyễn Nhạc có thêm ấn thiêng và kiếm báu, tin ấy nhanh chóng loan đi khắp nơi, thiên hạ cho rằng chuyện đất bằng nổi sóng chắc chẳng còn bao lâu nữa. Hòn Giải từ đó có tên là Ấn Sơn và Gò Sặt cũng kể từ đó có tên là Kiếm Sơn.
Bấy giờ, lòng người ở Tây Sơn đều hướng về Nguyễn Nhạc, người ta tin là nhất định sẽ có ngày Nguyễn Nhạc chính thức lên ngôi. Có nhân kiệt ấy cũng bởi có địa linh, mỗi ngọn núi của Tây Sơn từ đây lại có thêm những tên gọi mới, hùng tráng và thiêng liêng kì lạ:
- Núi Ngang (tên chữ là Hoành Sơn) vốn dĩ chỉ là một dãy núi bình thường, nhưng từ đây lại được mô tả với dáng vẻ khác thường: xa trông, Hoành Sơn như bức bình phong của trời ban tặng.
- Hai ngọn núi nho nhỏ ở Tây Sơn, một ở bên phải và một ở bên trái Hoành Sơn, từ đây được người đời gọi là Nghiên Sơn và Bút Sơn. Trên đỉnh Nghiên Sơn có vũng nước không bao giờ cạn, đời truyền tụng rằng đó chính là nguồn mực vô tận, đủ để chép tất cả những sự tích phi thường của Tây Sơn. Bút Sơn xa trông như một ngọn bút lớn đang chĩa thẳng lên trời. Chuyện “kinh thiên động địa” của Tây Sơn phải chép giữa trời xanh rộng lớn cho muôn đời thấu tỏ.
- Cũng ở dưới chân Núi Ngang, có hai núi nhỏ nữa. Một có tên là Hòn Giải, tức Ấn Sơn, thi thoảng cũng có người gọi là Cổ Sơn. Sở dĩ gọi là Cổ Sơn vì xa trông, Ấn Sơn hay Hòn Giải rất giống hình cái trống (âm Hán Việt đọc là Cổ). Núi nhỏ thứ hai vốn có tên là Hòn Một, bỗng được mang tên mới là Chung Sơn. Sở dĩ gọi là Chung Sơn vì xa trông, ngọn núi này có hình dáng tựa như cái chuông (âm Hán Việt đọc là Chung). v v
- v.v.
Nhưng, nếu Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế thì liệu ngôi vị Hoàng Đế của Nguyễn Nhạc sẽ tồn tại trong bao lâu? Nếu Nguyễn Nhạc ở ngôi lâu, lại truyền nối được nhiều đời mà không theo Nguyễn Nhạc, tức là trái mệnh trời, thế nào cũng sẽ bị nghiêm trị. Nếu Nguyễn Nhạc chỉ ở ngôi Hoàng Đế trong một thời gian ngắn, thì theo Nguyễn Nhạc, sau thế nào cũng sẽ bị kẻ khác trả thù. Nguyễn Nhạc biết rất rõ điều này, vì thế, ông lại âm thầm tìm cách trấn an. Và, đó chính là cơ sở nảy sinh của một câu chuyện li kì khác.
Táng hài cốt song thân vào long mạch dưới chân Hoành Sơn, Nguyễn Nhạc ngầm tỏ rằng nghiệp Đế Vương của dòng họ mình sẽ vững bền mãi mãi: Chuyện kể rằng, vào một ngày nọ, có một thầy địa lí lừng danh từ Trung Quốc đi sang. Lần theo mạch đất, ông đến Tây Sơn và lặng lẽ dừng lại dưới chân Hoành Sơn. Sau nhiều ngày trầm ngâm suy nghĩ, ông ta liền trồng hai bụi trúc ở hai vị trí khác nhau, ngay trên khu đất đầy sỏi. Nguyễn Nhạc bí mật theo dõi và thấy thầy địa lí đến ngay vuông đất đầy sỏi là sỏi, trồng vào đó hai khóm trúc rồi đi thẳng. Biết chắc đó là phép thử huyệt khí, Nguyễn Nhạc liền canh chừng từng ngày một. Thế rồi một trong hai khóm trúc khô héo dần và chết, còn một khóm nữa thì xanh tươi lạ thường. Nguyễn Nhạc hiểu là long huyệt nằm ở đấy, bèn đào một khóm trúc đã chết khô ở nơi khác đem đến, nhổ khóm trúc tươi tốt đi mà trồng thay vào. Việc vừa xong thì cũng đúng lúc thầy địa lí quay trở lại. Thấy cả hai khóm trúc đều khô héo, ông ta liền bỏ đi luôn, sau, không hề thấy ông ta về Tây Sơn lần nào nữa.
Thầy địa lí đi rồi, Nguyễn Nhạc lập tức đem hài cốt của song thân cải táng vào long huyệt. Việc này khiến cho dân Tây Sơn đương thời rất vui, bởi lẽ họ tin rằng, một người được trời che đất chở như Nguyễn Nhạc, phúc đức sẽ bền lâu vô cùng. Họ tin và đến với Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ, Nguyễn Lữ ngày một đông đảo.
Khu mộ cải táng của song thân Nguyễn Nhạc, về sau bị triều Nguyễn khai quật để trả thù, đó chính là di tích Hai hố Nguyệt đã nói ở mục Quê hương và gia đình.
Cũng chuyện cải táng hài cốt của song thân vào long huyệt do thầy địa lí người Trung Quốc tìm ra, dân Tây Sơn còn có truyền thuyết kể rằng, sau khi biết chắc rằng mình đã tìm được long huyệt dưới chân Hoành Sơn, thầy địa lí người Trung Quốc liền trở về cố hương, lấy hài cốt của tổ tiên mình đựng vào một cái tráp thật đẹp, đem sang để cải táng vào đấy. Nhưng ông ta đi gần đến nơi thì bị một con cọp lao ra. Hốt hoảng quá, thầy địa lí người Trung Quốc bèn quăng cả tráp mà chạy. Khi hoàn hồn quay trở lại, thấy cái tráp hãy còn nguyên, nằm lăn lốc bên đường, ông ta vui mừng đem đến long huyệt mai táng cẩn thận. Xong, ông ta về mà không hề biết rằng, con cọp kia chỉ là cái lốt, Nguyễn Nhạc đội vào để hù, còn cải tráp kia tuy ngỡ như còn y nguyên, nhưng kì thực, hài cốt bên trong đã bị Nguyễn Nhạc đánh tráo. Đó không còn là hài cốt tổ tiên thầy địa lí mà là hài cốt của song thân Nguyễn Nhạc.
____________________________________
1. Hòn Sung được giải thích là vì xa trông chẳng khác gì một con bò đực sung sức
2. Hòn Sưng được giải thích là vì núi có nhiều chỗ nhấp nhô, xa trông giống như bị đánh sưng lên.
3. Độc Nhũ Sơn có khi được giải thích là xa trông tựa như một núm vú riêng lẻ, nhưng, xét mặt chữ Hán trong Đại Nam nhất thống chí (Bình Định tỉnh) thì lại có nghĩa là núi vú nghé.
4. Độc Xỉ Sơn được giải thích là xa trông tựa như một chiếc răng nanh.
5. Chàng Lía tên thật là Võ Văn Đoan, quê ở Bích Khê (huyện Phù Mỹ), thủ lĩnh của mộc cuộc khởi nghĩa lớn trước Tây Sơn
Vài truyền thuyết dân gian kể trên, rõ ràng là mang rất đậm màu sắc mê tín. Đó là hiện tượng tự nhiên của thế kỷ thứ XVIII và của quá khứ dân tộc ta nói chung. Có truyền thuyết nẩy sinh do chính lòng ngưỡng mộ của nhân dân đối với ba anh em Tây Sơn, tuy nhiên, cũng không loại trừ khả năng có những truyền thuyết, hoặc giả là một phần nào đó của truyền thuyết, do chính ba anh em Tây Sơn xây dựng nên. Nhưng, bất kể là ra đời từ nguồn gốc trực tiếp nào, kết quả đáng yêu của những truyền thuyết nói trên cũng đều là một, đó là đã tạo ra được sự nhất trí hành động ngày càng cao độ trong đồng bào các dân tộc anh em ở Tây Sơn, là đã tạo ra được một ngọn cờ chính trị, thể hiện ý chí quật khởi chung của nhân dân bị áp bức đương thời. Về phương diện đó mà xét, những câu chuyện li kì nói trên có ý nghĩa thực tiễn rất lớn lao.
Chuẩn bị về lực lượng và tồ chức
Như trên đã nói, đất Tây Sơn lúc bấy giờ có khá nhiều đồng bào các dân tộc ít người, trong đó, đông đảo hơn cả vẫn là đồng bào người Bana và đồng bào người Xêđăng. Ngoài đồng bào các dân tộc ít người, từ thế kỷ XVII, Tây Sơn còn có thêm một số làng xã của người Việt và cả người Hoa. Để có lực lượng, trước hết, ba anh em Tây Sơn đã tập hợp và huy động các tầng lớp nhân dân ở ngay quê hương mình.
Truyền thuyết dân gian vùng Tây Sơn cũng cho hay rằng Nguyễn Nhạc có một người vợ lẽ là con gái của Tù Trưởng người Bana. Người vợ lẽ này thường được gọi là Cô Hầu. Gia đình Cô Hầu sống ở Cổ Yêm (đất này nay thuộc An Khê, tỉnh Gia Lai). Cổ Yêm vừa là tên một thung lũng rất rộng, đất đai phì nhiêu, lại cũng vừa là tên một ngọn núi. Núi ấy cứ đến chiều tà là có hàng ngàn con chim bay về nghỉ ngơi, cho nên, mới có thêm tên chữ là Mộ Điểu. Tuy kết hôn với Nguyễn Nhạc nhưng người vợ lẽ này vẫn ở lại Cổ Yêm. Tại đây, cô ngày ngày lo tổ chức sản xuất để tích trữ lương thực cho Nguyễn Nhạc, vì thế, thung lũng Cổ Yêm cũng có tên là đồng Cô Hầu, núi Mộ Điểu về sau được coi là một trong những nơi phát tích của Nguyễn Nhạc, cho nên, lại có thêm tên mới là núi Hoàng Đế. Từ mối quan hệ hôn nhân này, Nguyễn Nhạc đã lôi kéo được rất nhiều đồng bào các dân tộc ít người tham gia vào lực lượng nghĩa sĩ của mình.
Tại Tây Sơn có hai ngọn núi mang hai tên gọi khá đặc biệt, một là Hòn Ông Bình và một nữa là Hòn Ông Nhạc. Hòn Ông Bình là nơi Nguyễn Văn Bình (tức Nguyễn Huệ) tập hợp và huấn luyện binh sĩ trước lúc khởi nghĩa. Hòn Ông Nhạc là nơi Nguyễn Nhạc tập hợp và huấn luyện binh sĩ trước khi làm lễ tế cờ xuất quân. Truyền thuyết dân gian nói rằng, trong ba anh em Tây Sơn, Nguyễn Lữ được phân công lo sản xuất và tích trữ lương thực, không trực tiếp tham gia huấn luyện binh sĩ như hai anh của mình. Kho tàng Tây Sơn do Nguyễn Lữ phụ trách để ở Núi Lãnh Lương (tên cũ là núi Đồng Phong).
Trong số rất đông đảo những người ủng hộ và tham gia phong trào Tây Sơn ở giai đoạn chuẩn bị này, có hai nhân vật được nhắc tới nhiều nhất đó là Huyền Khê và Nguyễn Thung. Hai ông đều là những người rất giàu có và đã đem tất cả của cải nhà mình dâng nạp cho nghĩa quân. Về sau, khi Nguyễn Nhạc tự phong làm Đệ Nhất Trại Chủ thì Nguyễn Thung được phong làm Đệ Nhị Trại Chủ, chỉ huy quân dân ở hai huyện Bồng Sơn và Phù Ly, còn Huyền Khê được phong là Đệ Tam Trại Chủ, trông coi về quân lương cho Tây Sơn.
Càng về sau, chủ trương tập hợp và huy động sức mạnh của toàn dân càng được anh em Tây Sơn mở rộng. Ở huyện Tuy Viễn (nay thuộc huyện An Nhơn, tỉnh Bình Định), có ông bầu gánh hát tên là Nhưng Huy và một kép hát tên là Tứ Linh đã đi theo nghĩa quân. Ở Thạch Thành (nay thuộc Phú Yên) có nữ chúa người Chăm là Thị Hỏa cũng đã hăng hái hưởng ứng, lập đồn trại, luyện binh mã, sẵn sàng ứng viện cho nghĩa quân Tây Sơn. Sự có mặt của một bầu hát và một kép hát cùng với sự sẵn lòng ủng hộ của nữ chúa Thị Hỏa tỏ rõ ảnh hưởng rất sâu và rất rộng của Tây Sơn.
Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ là những người có công chuẩn bị một cách công phu và chu tất cho cuộc khởi nghĩa Tây Sơn. Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ cũng là những người đứng đầu của bộ chỉ huy khởi nghĩa.
Chuẩn bị về khẩu hiệu đấu tranh
Như trên đã nói, từ nửa cuối của thế kỷ thứ XVII trở đi, ách thống trị của tập đoàn họ Nguyễn ngày một nặng nề, mâu thuẫn xã hội ở xứ Đàng Trong ngày một trở nên sâu sắc. Cũng từ nửa cuối của thế kỷ thứ XVII trở đi, một số phong trào đấu tranh của nhân dân Đàng Trong đã bùng nổ, trong đó, nổi bật nhất là cuộc khởi nghĩa do Chàng Lía (tức Võ Văn Đoan) phát động1 và cuộc vùng dậy do Lý Văn Quang chỉ huy2. Vấn đề quan trọng hàng đầu của xã hội Đàng Trong lúc ấy là phải cứu dân nghèo. Xuất phát từ nhận thức đó, khẩu hiệu khởi nghĩa đầu tiên mà ba anh em Tây Sơn đề ra là lấy của nhà giàu chia cho người nghèo. Các giáo sĩ phương Tây có mặt ở nước ta lúc bấy giờ đều xác nhận rằng Tây Sơn đã “lấy của cải bọn quan lại và bọn nhà giàu phân phát cho dân nghèo. Những làng mạc bị thuế má hà khắc đè nặng đã nhiệt liệt tuyên thệ hưởng ứng khởi nghĩa”3. Hoặc: “Họ (chỉ Tây Sơn - NKT) lấy những của quý đem chia cho dân nghèo, chỉ giữ gạo và thực phẩm cho họ mà thôi. Người ta gọi họ là bọn giặc nhân đức đối với người nghèo khổ”4. Trong Hịch xuất quân đánh Trịnh, các lãnh tụ Tây Sơn gọi đó là: “Tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng dân sa chốn lầm than”. Đây là khẩu hiệu có ý nghĩa tập hợp lực lượng ngày càng đông đảo cho Tây Sơn.
Có mặt ở Tây Sơn trong thời kì trứng nước của cuộc khởi nghĩa này, thầy giáo Hiến có một ảnh hưởng không nhỏ. Những hiểu biết của thầy giáo Hiến về nội tình rối ren của phủ chúa Nguyễn, trở thành cơ sở quan trọng để Tây Sơn nêu khẩu hiệu hành động thứ hai, đó là ủng hộ Hoàng Tôn Dương, đánh đổ quyền thần Trương Phúc Loan. Đây là khẩu hiệu có ý nghĩa phân hóa kẻ thù. Bởi khẩu hiệu này, cuộc đối đầu giữa Tây Sơn và tập đoàn họ Nguyễn, cũng có lúc được dân gian diễn đạt như là cuộc đối đầu giữa Quốc Phó Trương Phúc Loan với Hoàng Tôn Dương:
Binh triều là binh Quốc Phó,
Binh ó là binh Hoàng Tôn5.
Một khi nội bộ kẻ thù bị phân hóa và chia rẽ sâu sắc, khả năng đề kháng của chúng sẽ yếu đi rất nhanh, và ngược lại, cơ hội thành công của Tây Sơn đến ngày một nhiều.
____________________________________
1. Ở phủ Quy Nhơn cũ, nay thuộc tỉnh Bình Định.
2. Cuộc khởi nghĩa này xảy ra ở Cù Lao Phố, nay thuộc Biên Hòa, Đồng Nai. Lý Văn Quang là một thương nhân người Hoa, tuy nhiên, cuộc khởi nghĩa đã được khá đông các thành phần xã hội khác hưởng ứng.
3. Emmanuel Castuera (giáo sĩ Tây Ban Nha). Dẫn lại của Lorenzo Pérez trong Les Espagnols dans l’Empire d’Annam (Bulletin de la Société des Études Indochinoises, nouvelle série, tome XV, 4-1940).
4. Diégo de Jumilla (giáo sĩ Tây Ban Nha). Dẫn lại của Nguyễn Lương Bích và Phạm Ngọc Phụng trong Tìm hiểu thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ. Nxb. QĐND, Hà Nội, 1971, trang 33.
5. Sở dĩ gọi là binh ó vì quân đội Tây Sơn (quân ủng hộ Hoàng Tôn Dương) mỗi khi ra trận thường la ó để uy hiếp tinh thần đối phương.
Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
TÓM LƯỢC CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
02. GIAI ĐOẠN THỨ HAI: KHỞI NGHĨA VÀ CHIẾN ĐẤU QUYẾT LIỆT Ở XỨ ĐÀNG TRONG(Từ đầu năm 1771 đến giữa năm 1784)
“Quảng Nam đà quét sạch bụi trần,
Thuận Hóa lại đem về bở cõi.
Nam một dải tăm kình phẳng lặng,
Cơ thái bình đứng đợi đã gần,
Bắc mấy thành tin nhạn chưa yên,
Bé cứu viện ngồi trông sao tiện”1
Toàn bộ quá trình chuẩn bị công phu của Tây Sơn có lẽ chỉ diễn ra trong khoảng vài ba năm trước năm 1771. Từ đầu năm 1771, các lãnh tụ Tây Sơn quyết định khởi nghĩa, mở đầu cuộc trường chinh vĩ đại của mình. Từ đầu năm 1771 đến giữa năm 1784 là giai đoạn khá đặc biệt của Tây Sơn. Nhìn về tính chất, có thể nói đây là giai đoạn Tây Sơn gần như chỉ thực hiện một nhiệm vụ duy nhất là đấu tranh chống ách thống trị của tập đoàn họ Nguyễn, tức là mang đầy đủ những đặc trưng cơ bản của một cuộc chiến tranh nông dân. Nhìn về phạm vi hoạt động, đây là giai đoạn Tây Sơn chiến đấu quyết liệt ở khu vực từ Quảng Nam trở vào, tức là hoàn toàn thuộc không gian riêng của Đàng Trong. Giai đoạn thứ nhất này có thể chia làm ba chặng nối tiếp nhau như sau:
Chặng thứ nhất: Khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ và liên tiếp giành được nhiều thắng lợi vang dội, giải phóng một vùng đất rộng lớn, tương ứng với các tỉnh ngày nay như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Gia Lai, Kon Tum và Phú Yên (từ đầu năm 1773 đến cuối năm 1774).
Trong khoảng hai năm đầu, nghĩa quân Tây Sơn hoạt động chủ yếu ở vùng rừng núi Tây Sơn, biến vùng đất rộng lớn, tương ứng với huyện Tây Sơn của Bình Định và An Khê của Gia Lai ngày nay thành căn cứ vững chắc của mình. Chính quyền của chúa Nguyễn biết rất rõ thực tế này nhưng vẫn hoàn toàn bất lực không đề ra được một biện pháp chống trả nào đáng kể.
Năm 1773, khi xét thấy quân số ngày một đông, tiềm lực ngày một mạnh, anh em Tây Sơn đã nhanh chóng mở rộng phạm vi tấn công. Lần lượt các huyện Bồng Sơn2, Phù Ly3, Tuy Viễn4... lọt vào tay Tây Sơn. Cuối năm 1773, thành Quy Nhơn bị Tây Sơn đánh gục.
Sau khi chiếm được thành Quy Nhơn, Tây Sơn cho quân đánh mạnh ra vùng Quảng Ngãi và Quảng Nam ngày nay. Tại đây khá nhiều thương nhân người Hoa đã hăng hái tham gia nghĩa quân. Sử cũ có chép tên hai nhân vật người Hoa đặc biệt, một là Lý Tài (thủ lĩnh của đội quân Hòa Nghĩa) và một nữa là Tập Đình (thủ lĩnh của đội quân Trung Nghĩa). Hai đội quân này đã chiến đấu dưới ngọn cờ Tây Sơn trong khoảng hơn ba năm5.
Tin bại trận liên tiếp đưa về. Chúa Nguyễn hốt hoảng sai tướng đem quân đi chống trả nhưng không sao cản nổi bước tiến của Tây Sơn. Đến cuối năm 1774, Tây Sơn đã chiếm được một vùng đất rộng lớn và liên hoàn, tương ứng với một loạt các tỉnh ngày nay như Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định, Kon Tum Gia Lai và Phú Yên. Thậm chí, một số đạo quân của Tây Sơn còn đánh vào đến tận vùng Nha Trang ngày nay.
___________________________________
1. Hịch xuất quân đánh Trịnh năm 1786 của Tây Sơn.
2. Huyện Bồng Sơn xưa thuộc phủ Hoài Nhơn, nay thuộc Bình Định.
3. Huyện Phù Ly xưa nay tương ứng với đất đai của hai huyện Phù Cát và Phù Mỹ của tỉnh Bình Định.
4. Huyện Tuy Viễn xưa, nay là huyện Hoài Nhơn, tỉnh Bình Định.
5. Cuối năm 1776, cả Lý Tài lẫn Tập Đình đều làm phản, bỏ Tây Sơn theo Nguyễn Ánh, nhưng hai nhân vật này không được Nguyễn Ánh tin dùng.
Chặng thứ hai: tạm hòa hoãn với quân Trịnh, kịp thời phá thế bị tấn công cùng lúc ở hai mặt Nam-Bắc khác nhau (từ cuối năm 1774 đến đầu năm 1776)
Diễn biến của tình hình Đàng Trong được chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Sâm1 rất quan tâm. Đang lúc Trịnh Sâm có ý định can thiệp vào Đàng Trong thì “Trấn Thủ ở Nghệ An là Bùi Thế Đạt2 sai người chạy ngựa trạm về triều đình, đệ trình văn thư nói rằng tình trạng ở Thuận Hóa (chỉ Đàng Trong - NKT) rất rối ren, có thể nhân đó mà đánh lấy được. Bọn Hoàng Ngũ Phúc và Nguyễn Nghiễm cũng tán đồng ý kiến này, do vậy, Trịnh Sâm bèn quyết chí sai quân đi đánh”3. Một bộ chỉ huy hành quân được gấp rút thành lập, cụ thể như sau:
- Hoàng Ngũ Phúc giữ chức Tổng Chỉ Huy.
- Phan Lê Phiên4 và Uông Sĩ Điển5 giữ chức Tùy Quân Tham Biện.
- Đoàn Nguyễn Thục giữ chức Đốc Thị.
- Hoàng Phùng Cơ6, Hoàng Đình Thể7 cùng với hai nhân vật thân tín khác là Nguyễn Lệ8 và Hoàng Đình Bảo9 cũng được chỉ định tham gia bộ chỉ huy.
Lực lượng quân sĩ của chúa Trịnh được huy động vào cuộc Nam chinh này là ba vạn. Tháng 10 năm 1774, đạo quân ba vạn này bất đầu vượt sông Gianh, mở đầu cuộc tấn công ồ ạt và bất ngờ vào Đàng Trong. Phủ chúa Nguyễn bị kẹp chặt bởi hai thế lực đối nghịch, phía Bắc là quân Trịnh và phía Nam là quân Tây Sơn. Bấy giờ, Hoàng Ngũ Phúc tuyên bố rằng: “việc hành quân này bất quá chỉ để trừ khử một Trương Phúc Loan và phe đảng của hắn, sau nữa là diệt bọn giặc kiệt hiệt (ý chỉ Tây Sơn - NKT) chứ thực tình không có ý gì khác”10. Đứng trước tình thế thúc bách như vậy, cách duy nhất là phải thí bỏ Trương Phúc Loan, kẻ mà cả Tây Sơn lẫn quân Trịnh đều lên án, trong phủ chúa cũng lắm người không ưa. Tướng của chúa Nguyễn là Nguyễn Cửu Pháp11 liền lập mưu bắt sống Trương Phúc Loan giao cho Hoàng Ngũ Phúc, nhưng, Hoàng Ngũ Phúc vẫn lấy cớ là chưa diệt được Tây Sơn nên vẫn cho quân tiến vào. Không còn con đường nào khác nữa, chúa Nguyễn cùng với toàn bộ tôn thất và bá quan văn võ phải bỏ Phú Xuân, tìm đường chạy vào Gia Định (tức vùng Nam Bộ ngày nay).
Đến Gia Định, chúa Nguyễn dần dần củng cố lực lượng của mình và điều đó đã khiến cho tình thế xoay chuyển có phần bất lợi cho Tây Sơn. Từ đây, lực lượng bị kẹp chặt ở giữa hai đối phương hùng mạnh không phải là chúa Nguyễn nữa mà là Tây Sơn. Họ Trịnh và họ Nguyễn tuy là hai thế lực không đội trời chung, nhưng trong tình huống đặc biệt này, chúng rất dễ có thể liên minh để chống Tây Sơn. Xuất phát từ nhận định ấy, Tây Sơn đã có một chủ trương rất đúng đắn và cũng rất kịp thời, đó là tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh để chủ động phá thế bị tấn công cùng lúc từ hai mặt Nam-Bắc khác nhau. Bấy giờ, quân sĩ của Hoàng Ngũ Phúc vừa mệt mỏi vì hành quân xa, lại vừa bị bệnh dịch hoành hành, cho nên, vui vẻ nhận lời cầu hòa ngay. Về phần mình, Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn mượn việc hòa hoãn để lợi dụng. Hắn hi vọng rằng cả Tây Sơn và chúa Nguyễn sẽ mệt mỏi và kiệt sức trong cuộc tranh hùng, và đến lúc đó hắn sẽ ra tay cũng không muộn.
Chặng thứ ba: năm lần tấn công vào Gia Định, lật nhào cơ đồ thống trị của họ Nguyễn ở Đàng Trong (từ đầu năm 1776 đến giữa năm 1784)
Sau khi được tạm yên ở mặt Bắc, Tây Sơn quyết tâm dốc sức tiêu diệt quân Nguyễn ở mặt Nam. Năm chiến dịch lớn đã được tổ chức. Đại lược như sau:
- Lần thứ nhất là vào tháng hai năm Bính Thân (1776) do Nguyễn Lữ chỉ huy. Nguyễn Lữ đã đánh bật quân đội chúa Nguyễn ra khỏi thành Gia Định và ráo riết cho quân truy đuổi Nguyễn Phúc Thuần. Chúa Nguyễn Phúc Thuần may được một giáo sĩ phương Tây là Diego de Jumilla giấu ở dưới giường ngủ mới thoát được Tuy nhiên, Nguyễn Lữ cũng chỉ chiếm giữ thành Gia Định trong một thời gian rất ngắn rồi lại rút về Quy Nhơn.
- Lần thứ hai là vào tháng ba năm Đinh Dậu (1777). Lần này, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã tấn công rất dữ dội. Nguyễn Phúc Dương (lúc này là Tân Chính Vương) và sau đó là Nguyễn Phúc Thuần (lúc này là Thái Thượng Vương) đều bị bắt và bị giết. Đến đây, cơ đồ của họ Nguyễn gây dựng trên hai trăm năm kể như đã bị lật đổ hoàn toàn.
Cầm đầu tàn quân của họ Nguyễn lúc này chỉ còn có Nguyễn Ánh nữa mà thôi12.
- Lần thứ ba là vào tháng hai năm Mậu Tuất (1778). Lần này quân Tây Sơn do hai tướng là Tổng Đốc Chu (hiện chưa rõ họ) và Hộ Giá Phạm Ngạn chỉ huy. Tổng Đốc Chu và Hộ Giá Phạm Ngạn đã đánh khá mạnh vào vùng tương ứng với Đồng Nai và thành phố Hồ Chí Minh ngày nay, nhưng rất tiếc là không giành được thắng lợi. Tây Sơn chẳng những mất Gia Định mà còn mất luôn cả vùng Bình Thuận.
- Lần thứ tư là vào tháng ba năm Nhâm Dần (1782). Lần này, quân Tây Sơn do cả Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ chỉ huy. Mục tiêu của lần này là đánh gục tàn binh của Nguyễn Ánh. Và, Tây Sơn đã thành công, Nguyễn Ánh bị đại bại, phải chạy đi phiêu bạt đó đây. Viên sĩ quan phương Tây giúp Nguyễn Ánh là Manuel (sử cũ phiên âm là Mạn Hòe) bị giết chết.
- Lần thứ năm là vào tháng hai năm Quý Mão (1783). Lần này, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ chỉ huy. Mục tiêu của Tây Sơn lần này vẫn là đập tan lực lượng của Nguyễn Ánh vừa mới được hồi phục. Với cuộc tấn công này, Nguyễn Ánh bị đánh cho tơi bời, nhưng rốt cuộc, hắn vẫn trốn thoát được.
__________________________________
1. Con của Trịnh Doanh, làm chúa 15 năm (1767-1782).
2. Bùi Thế Đạt người làng Tiên Lý, huyện Đông Thành (nay thuộc Nghệ An) là võ quan cao cấp.
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 44, tờ 10).
4. Phan Lê Phiên (1735-1809) người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (nay là thôn Đông Ngạc xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1757.
5. Uông Sĩ Điển (1737-?) người làng Vũ Nghị, huyện Thanh Lan (nay là xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình), đỗ Tiến Sĩ năm 1766.
6. Hoàng Phùng Cơ người làng Vân Cốc (nay thuộc Hà Tây), từng theo Nguyễn Tuyển, Nguyễn Cừ, sau phản bội.
7. Hoàng Đình Thể người làng Hà Thượng, huyện Hậu Lộc (nay thuộc Thanh Hóa), đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
8. Nguyễn Lệ tức Nguyễn Khản, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân (Hà Tĩnh), con của Hoàng Giáp Nguyễn Nghiễm và anh của thi hào Nguyễn Du, ông đỗ Tiến Sĩ năm 1760.
9. Hoàng Đình Bảo tức Hoàng Tố Lý, cháu của Hoàng Ngũ Phúc. Ông người làng Phụng Công, huyện Yên Dũng (nay thuộc tỉnh Bắc Giang).
10. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 44, tờ 19).
11. Nguyễn Cửu Pháp là con của Nguyễn Cửu Thế, tổ tiên vốn người huyện Tống Sơn (nay thuộc Thanh Hóa) nhưng sinh trưởng tại Đàng Trong.
12. Nguyễn Ánh tức Nguyễn Phúc Ánh hay Nguyễn Phúc Chủng là con thứ ba của Nguyễn Phúc Luân (cũng tức là Nguyễn Phúc Kỳ), mà Nguyễn Phúc Luân là con thứ ba của chúa Nguyễn Phúc Khoát (1738-1765). Nguyễn Ánh sinh năm Nhâm Ngọ (1762). Về sau, Nguyễn Ánh đánh bại được Tây Sơn và lên ngôi Hoàng Đế, đó là Gia Long (1802-1819).
Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
TÓM LƯỢC CÁC GIAI ĐOẠN PHÁT TRIỂN CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
03. GIAI ĐOẠN THỨ BA: KẾT HỢP ĐÁNH CẢ THÙ TRONG LẪN GIẶC NGOÀI
(Từ cuối năm 1784 đến đầu năm 1789)
Đây là giai đoạn ngắn nhất nhưng lại chính là giai đoạn rực rỡ nhất của phong trào Tây Sơn. Xét về quy mô, đây là giai đoạn Tây Sơn hoạt động trên phạm vi cả nước. Xét về tính chất, đến đây, Tây Sơn đã đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ trọng đại khác nhau. Một là đẩy mạnh và mở rộng cuộc tấn công vào cơ đồ của giai cấp phong kiến thống trị ở cả Đàng Ngoài. Hai là dũng cảm đảm nhận sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc, lập nên những võ công chống xâm lăng vô cùng hiển hách, góp phần làm rạng rỡ thêm truyền thống ngoan cường, bất khuất của cả dân tộc ta. Đại để, tính theo tuần tự thời gian thì giai đoạn này có mấy sự kiện nổi bật sau đây:
- Cuối năm Giáp Thìn (1784), đầu năm 1785, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã quét sạch năm vạn quân Xiêm La do Nguyễn Ánh rước về trong trận quyết chiến chiến lược Rạch Gầm Xoài Mút. Từ đây, nói theo cách nói của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp thì “quân đội nông dân đã chuyển hóa một cách kì diệu và tự nhiên thành quân đội dân tộc”1
- Giữa năm 1786, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã tấn công vào quân Trịnh ở Phú Xuân, toàn bộ xứ Đàng Trong đã hoàn toàn thuộc về Tây Sơn.
- Ngay sau khi đánh bại đạo quân đông đảo của chúa Trịnh ở Phú Xuân, lực lượng Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy đã táo bạo tấn công ra Đàng Ngoài, lật nhào cơ đồ thống trị của họ Trịnh. Đây là cuộc tấn công có hai ý nghĩa hết sức lớn lao. Một là xóa bỏ biên giới sông Gianh chia cắt đất nước từ rất lâu dài trước đó, mở ra một trong những cơ sở quan trọng cho việc thống nhất quốc gia sau này. Hai là chấm dứt ách thống trị thối nát của họ Trịnh, tức là tiêu diệt trở lực lớn nhất của xã hội Đàng Ngoài.
- Cuối năm Mậu Thân (1788), trong bước đường cùng, Lê Chiêu Thống2 đã đi cầu cứu nhà Mãn Thanh và nhân cơ hội đó, hai mươi chín vạn quân xâm lược Mãn Thanh đã tràn sang nước ta. Quân đội Tây Sơn dưới sự chỉ huy thiên tài của Nguyễn Huệ3 đã đánh trận quyết chiến chiến lược tuyệt vời ở Ngọc Hồi-Đống Đa vào đúng Tết Kỷ Dậu (1789). Với võ công oanh liệt này, Tây Sơn đã khiến cho nhà Mãn Thanh phải kinh hồn bạt vía, khiến cho Lê Chiêu Thống và bọn tay chân mù quáng phải bỏ nước sống lưu vong để rồi cuối cùng phải chết một cách bi thảm trên đất Trung Quốc.
Chỉ trong vòng năm năm mà hai lần đại thắng quân xâm lược đến từ hai hướng khác nhau, đó là hiện tượng chưa từng có ở bất cứ một phong trào nông dân nào, cũng là hiện tượng chưa từng có của lịch sử dân tộc. Vinh quang ngàn đời bất diệt của Tây Sơn trước hết và chủ yếu là kết tinh ở đây.
______________________________________
1. Võ Nguyên Giáp: Vũ trang quần chúng cách mạng, xây dựng quân đội nhân dân. Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân. Hà Nội. 1973. Trang 80.
2. Tên thật là Lê Duy Kỳ hay Lê Tư Khiêm, con trưởng của Lê Duy Vĩ, cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông (1740-1786). Lê Chiêu Thống ở ngôi hai năm (1786-1788), sau mất ở Trung Quốc vào năm 1793, hưởng dương 28 tuổi.
3. Lúc này Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung.
04. GIAI ĐOẠN THỨ TƯ: CHÍNH QUYỀN NHÀ NƯỚC TÂY SƠN
(Từ đầu năm 1789 đến cuối năm 1801)
Cùng với quá trình chiến đấu không mệt mỏi là quá trình không ngừng xây dựng và củng cố chính quyền. Tuy nhiên, lịch sử hình thành và phát triển của phong trào Tây Sơn có một giai đoạn rất đặc biệt, đó là giai đoạn Tây Sơn đã quản lãnh được toàn cõi nước ta và tồn tại với tư cách của những hệ thống chính quyền khác nhau, bắt đầu từ đầu năm 1789 và kết thúc vào cuối năm 1801. Các hệ thống chính quyền này, tuy đều là thành quả chung của phong trào Tây Sơn, nhưng, bởi nhiều lí do khác nhau, mỗi hệ thống chính quyền có một xu hướng tồn tại riêng khá rõ rệt. Đại để, Tây Sơn có ba hệ thống chính quyền cụ thể như sau:
- Một là hệ thống chính quyền do Nguyễn Lữ đứng đầu, cai quản miền đất Gia Định (Nam Bộ ngày nay). Nguyễn Lữ mất năm 1787 nhưng chính quyền của ông thì trên danh nghĩa, vẫn tiếp tục tồn tại thêm một thời gian nữa. Đây là chính quyền yếu kém nhất của Tây Sơn.
- Hai là hệ thống chính quyền của Nguyễn Nhạc, quản lí miền đất từ Bình Thuận ra đến Bến Ván1 của Quảng Nam ngày nay. Nguyễn Nhạc mất vào cuối năm 1793 nhưng con ông là Nguyễn Bảo (tức Nguyễn Quang Thiệu) vẫn tiếp tục duy trì chính quyền thêm một thời gian nữa. Trong giai đoạn đầu của phong trào Tây Sơn, Nguyễn Nhạc là người có công lớn nhất, nhưng, cũng trong số các lãnh tụ Tây Sơn, Nguyễn Nhạc là người bị phong kiến hóa sớm nhất.
- Ba là hệ thống chính quyền của Nguyễn Huệ, quản lãnh nền đất từ Bến Ván của Quảng Nam ngày nay trở ra cho đến hết Đàng Ngoài. Đây là hệ thống chính quyền mạnh nhất, có nhiều cải cách táo bạo, tích cực và tiến bộ nhất. Nguyễn Huệ qua đời năm 1792 nhưng con ông là Quang Toản vẫn tiếp tục duy trì chính quyền cho đến cuối năm 1801.
Nhược điểm lớn nhất của các lãnh tụ Tây Sơn khi nắm chính quyền là đã để xảy ra tình trạng mất đoàn kết rất nghiêm trọng. Nguyễn Ánh đã triệt để lợi dụng điều này để tổ chức phản công. Và cuối cùng, Nguyễn Ánh đã giành được thắng lợi. Sau ba mươi năm chiến đấu ngoan cường (1771-1801), đến đây, phong trào Tây Sơn bị Nguyễn Ánh đè bẹp. Từ trong máu lửa của cuộc chiến đấu ngoan cường này, một loạt danh tướng đã xuất hiện, mà trước hết, ba lãnh tụ tối cao của Tây Sơn cũng chính là ba danh tướng xuất sắc nhất.
_________________________________
1. Bến Ván tên chữ là Bản Tân, ở phía nam của tỉnh Quảng Nam, gần với phía bắc của tỉnh Quảng Ngãi.
Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
NGUYỄN NHẠC (? - 1793)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Nhân dĩ sơn phiêu danh nhi thoa kế tăng quang,
Sơn dĩ nhân đắc hiệu nhi thảo hoa sinh sắc.
(Người nhờ núi nêu danh mà trâm tóc thêm sáng,
Núi nhờ người được hiệu mà hoa cỏ tốt tươi) 1
Trong số những non xanh của đất Tây Sơn, có ngọn núi mang tên Hòn Ông Nhạc, lại có ngọn núi nữa mang tên Núi Hoàng Đế2. Đúng là người nhờ núi nêu danh thơm mà tên tuổi sáng mãi với thiên thu, núi nhờ mang tên đấng anh hùng mà như có khí thiêng ngưng tụ. Cùng với sông núi của quê nhà, sự nghiệp của Nguyễn Nhạc còn mãi trong kí ức bất diệt của các thế hệ nhân dân, trong sử sách của nước nhà.
1. Người có công đầu trong quá trình chuẩn bị, lãnh tụ cao nhất, đồng thời cũng là linh hồn của Tây Sơn trong những cuộc chiến đấu đầu tiên.
Như trên đã nói3, hiện tại vẫn chưa rõ Nguyễn Nhạc sinh vào năm nào, các nhà nghiên cứu chỉ đoán định rằng ông sinh vào khoảng năm 1743 mà thôi. Với một khoảng cách tuổi tác khá xa so với Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ4, lại vốn dĩ là người từng trải và nhiều cơ mưu, Nguyễn Nhạc là người rất có uy với các em của mình. Đó chính là điều kiện thuận lợi để ông có thể dễ dàng dẫn dắt hai em và cùng với hai em nhen nhóm lên ngọn lửa quật khởi ở Tây Sơn.
Trong giai đoạn thứ nhất của Tây Sơn - giai đoạn chuẩn bị - Nguyễn Nhạc là người có công đầu tiên, cũng là người có công lớn nhất5. Nguyễn Nhạc đã khôn khéo đi từng bước chắc chắn từ thấp lên cao, từ đơn giản đến nâng cao và hoàn thiện. Kho tàng truyền thuyết dân gian ở Tây Sơn và những ghi chép tản mạn của chính sử cũng như dã sử đã cho thấy rằng, quá trình chuẩn bị của Nguyễn Nhạc ở Tây Sơn vừa rất công phu vừa đạt tới trình độ nghệ thuật rất xuất sắc. Ông là người hiểu dân, một sự hiểu biết không phải chỉ dừng lại ở sự cảm thông sâu sắc về bao nỗi bất công và oan ức bởi ách thống trị hà khắc của giai cấp phong kiến đương thời, mà cao hơn, ông tỏ ra rất nhạy bén với đặc trưng nhận thức của xã hội ở chung quanh mình. Nhờ sự hiểu biết quý báu đó, ông đã nghĩ ra được nhiều biện pháp phong phú khác nhau để tập hợp và huy động sức mạnh cũng như trí tuệ của nhân dân.
Khi quá trình chuẩn bị còn đang dở dang thì kế hoạch của Nguyễn Nhạc bị bại lộ. Bấy giờ có một viên Đốc Trưng tên là Đằng6 mật báo cho chúa Nguyễn, vì thế, một cuộc đàn áp có quy mô khá lớn đã được chúa Nguyễn gấp rút tổ chức. Tây Sơn đứng trước một thử thách rất cam go. Nếu chống cự thì chưa đủ sức, còn nếu tìm cách ẩn náu để chờ thời thì cũng không dễ gì qua mắt kẻ thù. Truyền thuyết dân gian kể rằng, để giải quyết tình huống đặc biệt khó xử này, Nguyễn Nhạc đã quyết định: nhanh chóng tịch thu và cất giấu hết toàn bộ kho tàng của chúa Nguyễn do viên Đốc Trưng tên là Đằng quản lí, sau đó, bắt kẻ phản bội mà giết đi7. Xong xuôi mọi việc, Nguyễn Nhạc liền tạm lánh khỏi Tây Sơn một thời gian ngắn và phao tin rằng: Nguyễn Nhạc đánh bạc, bị thua to, lấy trộm hết cả kho tàng của nhà nước rồi bán hết của cải trong nhà vẫn không đủ trả nợ, bị Viên Đốc Trưng tên là Đằng giận, vu cho là làm phản. Nay, Nguyễn Nhạc vì không kiềm chế được cơn bực tức, đã lỡ tay giết chết kẻ dám cả gan vu oan cho mình, sợ quan trên bắt tội nên đã bỏ trốn. Vụ án đến đó là hoàn toàn bế tắc, bởi nguyên cáo đã bị giết còn bị cáo thì trốn biệt tăm. Chúa Nguyễn đành phải hạ lệnh lui quân!
Các sử gia thời Nguyễn không hiểu được thực chất của câu chuyện li kì này, vì thế đã có những nhận định không đúng về nguyên nhân bùng nổ của phong trào Tây Sơn:
“Vì đánh bạc tiêu phí hết cả kho tàng nhà nước, Nguyễn Nhạc bèn trốn vào Tây Sơn làm giặc cướp, những kẻ vô lại và những người nghèo đói phần nhiều đều đi theo, vì thế, thủ hạ có đến vài ngàn người”8
Một kẻ đam mê cờ bạc, trong chỗ không ngờ, đôi khi cũng có thể cả gan làm nhiều việc khó lường trước được, nhưng, làm gì thì làm, quyết không thể quyết chí liều thân “tưới mưa dầm khi hạn, kẻo cùng dân sa chốn lầm than” như anh em Tây Sơn nói chung và cá nhân Nguyễn Nhạc nói riêng đã làm. Vả chăng, một vài người thì có thể nhầm chứ cả dân tộc thông minh như dân tộc ta quyết không thể nhầm lẫn để rồi dốc cả trí tuệ, tài sản và xương máu cho một kẻ chỉ biết đắm mình trong những cuộc sát phạt đỏ đen.
____________________________________
1. Hiện chưa rõ tác giả, tạm xếp vào dạng khuyết danh.
2. Xin tham khảo thêm mục 1-Giai đoạn thứ nhất: Chuẩn bị ở phần thứ II của Chương thứ hai trong sách này.
3. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 2-Quê hương và gia đình thuộc phần 1 của Chương thứ hai cũng ở trong sách này.
4. Cũng theo nhiều tài liệu dân gian và một số ghi chép của các giáo sĩ phương Tây có mặt ở nước ta lúc bấy giờ thì có lẽ gia đình Nguyễn Nhạc có đến bảy anh em ba trai bốn gái. Tuy nhiên, những người con gái hầu như không được nhắc tới. Người xưa cũng tính con theo hai dòng trai gái khác nhau, cho nên, thứ tự Hai Trầu, Ba thơm, Tư Lữ có lẽ chỉ là thứ tự dòng con trai.
5. Xin vui lòng tham khảo thêm mục I-Giai đoạn thứ nhất: Chuẩn bị thuộc phần I của Chương thứ hai cũng trong sách này.
6. Đốc Trưng là chức chuyên lo việc thu thuế. Viên Đốc Trưng này hiện chưa rõ họ.
7. Tương truyền, Nguyễn Nhạc đã giết kẻ phản bội bằng cách cắt cu. Ở Tây Sơn có đồi Cắt Cu ắt là nơi xử tử Đốc Trưng Đằng.
8. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 44, tờ 22).
Đầu năm Tân Mão (1771), Nguyễn Nhạc chính thức phát động khởi nghĩa. Sử cũ cho biết, những đồn trại đầu tiên của nghĩa quân Tây Sơn được thiết lập ở vùng Thượng Đạo1. Bấy giờ, thầy giáo Hiến cho phổ biến khắp đó đây lời sấm (mà ông cho là của người xưa), nói rằng: “Tây khởi Bắc thu công” (khởi phát ở phía Tây, thu công ở phía Bắc) khiến cho nghĩa binh Tây Sơn rất hồ hởi. Họ liên tiếp tổ chức tấn công và liên tiếp giành thắng lợi.
Một trong những cuộc tấn công táo bạo nhất của Nguyễn Nhạc trong giai đoạn đầu tiên này là trận tấn công vào thành Quy Nhơn. Bấy giờ, thành Quy Nhơn do Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên trấn giữ. Sử cũ cho hay2, một hôm, Nguyễn Nhạc tự ngồi vào cũi sai quân lính khiêng đến cửa thành Quy Nhơn, nói là đã bắt được Nguyễn Nhạc, xin đem đến nạp. Tuần Phủ Nguyễn Khắc Tuyên tưởng thật, đang đêm tối cũng mở cửa thành ra đón. Bởi thấy đúng Nguyễn Nhạc bị nhốt ở trong cũi nên Nguyễn Khắc Tuyên rất chủ quan. Đúng lúc ấy, quân Tây Sơn ập vào, Nguyễn Nhạc cũng phá cũi xông ra, tất cả quan lại quân lính của chúa Nguyễn trong thành Quy Nhơn từ Nguyễn Khắc Tuyên trở xuống, đều bị bắt.
Thành Quy Nhơn là một trong những thành lớn và có vị trí rất quan trọng. Thành này trước đó có tên là thành Đồ Bàn, từng là cố đô của Chiêm Thành, được xây dựng rất vững chắc. Xưa thành Quy Nhơn thuộc huyện Tuy Viễn, phủ An Nhơn, nay thuộc tỉnh Bình Định. Chiếm được thành Quy Nhơn cũng có nghĩa là chiếm được vị trí then chốt, án ngữ trục lộ Bắc Nam của xứ Đàng Trong, khiến cho lực lượng của chúa Nguyễn bị chia cắt làm hai, rất khó liên lạc để phối hợp ứng phó. Thắng lợi này của Tây Sơn đã gây được tiếng vang rất lớn. Hào kiệt và nhân dân các địa phương nô nức tìm đến với Nguyễn Nhạc, trong đó, có hai nhân vật rất đặc biệt là Lý Tài và Tập Đình. Hai nhân vật này đều là người Trung Quốc, sang làm ăn buôn bán ở nước ta. Lý Tài đã lập ra đạo Hòa Nghĩa Quân còn Tập Đình thì lập ra đạo Trung Nghĩa Quân. Những người Việt cao lớn cũng được Nguyễn Nhạc đưa vào hàng ngũ của hai đạo quân này. Sử cũ cho hay, mỗi khi ra trận, họ uống rượu say, cởi trần trùng trục, cổ đeo vàng mã (ý nói liều chết), cho nên, quân chúa Nguyễn không sao chống đỡ nổi3
Sau trận hạ thành Quy Nhơn, do quân số ngày một đông, đất đai chiếm được cũng ngày một rộng, Nguyễn Nhạc đã sắp đặt lại lực lượng của mình. Bấy giờ, Nguyễn Nhạc chia quân Tây Sơn làm năm đồn, gồm Tiền Đốn, Hậu Đồn, Tả Đồn, Hữu Đồn và Trung Đồn. Từ thành Quy Nhơn, Nguyễn Nhạc cho quân tấn công theo ba hướng khác nhau. Một là hướng tây - tây bắc, giải phóng khu vực tương ứng với hai tỉnh Gia Lai và Kon Tum ngày nay. Hai là hướng bắc, giải phóng khu vực tương ứng với tỉnh Quảng Ngãi ngày nay. Ba là hướng nam, giải phóng khu vực tương ứng với tỉnh Phú Yên ngày nay. Hiện vẫn chưa rõ, đồn quân nào đánh ở hướng nào, chỉ biết cả ba hướng tấn công nói trên đều thu được những thắng lợi rất giòn giã. Đặc biệt, lực lượng Tây Sơn tấn công lên hướng bắc đã khiến cho chúa Nguyễn rất lo ngại. Nếu Tây Sơn mà chiếm được Quảng Nam thì cũng có nghĩa là phủ chúa hoàn toàn bị cô lập, đèo Hải Vân dẫu rất hiểm trở vẫn không đủ để che chở cho Phú Xuân. Trước tình thế nguy cấp đó, chúa Duệ Tông Nguyễn Phúc Thuần quyết định đưa gấp quân đến đánh chặn Tây Sơn ở phía nam tỉnh Quảng Nam ngày nay. Các tướng chỉ huy đạo quân đi đánh chặn này gồm có4:
- Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Thống.
- Chưởng Cơ Nguyễn Cửu Sách.
- Tổng Nhung Tống Sùng.
- Tán Lí Đỗ Văn Hoảng.
Quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc chỉ huy và quân của chúa Nguyễn do một loạt các tướng lĩnh cao cấp nói trên cầm đầu đã đụng độ với nhau trận đầu tiên ở Bến Ván5. Thấy thế giặc đang hăng, Nguyễn Nhạc cho quân tạm rút lui về Bến Đá6 và tổ chức một trận đồ mai phục tại khu vực này. Nguyễn Cửu Thống cùng các tướng hung hăng tiến quận, chẳng dè, bị lọt vào ổ mai phục và bị quân Tây Sơn đánh cho tơi bời. Nguyễn Cửu Thống và một tùy tướng là Nguyễn Cửu Pháp may mắn thoát chết nhưng Tổng Nhung Tống Sùng cùng Tán Lí Đỗ Văn Hoảng thì bị giết tại trận.
Tháng 12 năm 1773, chúa Nguyễn lại sai Tôn Thất Hương làm Tiết Chế, đem Nội Quân (lực lượng chủ lực trực tiếp bảo vệ phủ chúa) đi đánh Tây Sơn. Tôn Thất Hương tràn qua đất Quảng Ngãi ngày nay mà vẫn không gặp một trở lực nào đáng kể, vì thế, rất lấy làm chủ quan. Nhưng, cũng đúng lúc chúng đang chủ quan một cách cao độ nhất, Nguyễn Nhạc đã bí mật sai Lý Tài và Tập Đình đem quân đi mai phục tại Bình Khê7.Một trận đánh lớn đã diễn ra tại đây. Tướng Tôn Thất Hương thua trận và bị giết. Toàn bộ đạo quân do Tôn Thất Hương chỉ huy cũng tan rã.
Đầu năm 1774, quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc chỉ huy đã liên tiếp đánh bốn trận lớn với quân đội của chúa Nguyễn. Bốn trận đó cụ thể như sau8:
- Trận thứ nhất: diễn ra tại Quảng Ngãi. Bấy giờ, chúa Nguyễn sai Cai Cơ là Tôn Thất Mân, bất ngờ băng qua đất Quảng Nam, đánh vào tận Quảng Ngãi. Nhưng, trận đánh bất ngờ này bị chặn đứng, Tôn Thất Mân đại bại phải hốt hoảng chạy về vùng phía bắc của Quảng Nam ngày nay. Nhân đà thắng lợi ấy, Nguyễn Nhạc lập tức hạ lệnh cho lực lượng nghĩa sĩ của mình đánh mạnh về phía nam, giải phóng thêm một số vùng thuộc Phú Yên, Đắc Lắc, Khánh Hòa và Ninh Thuận ngày nay.
- Trận thứ hai: là trận chưa đánh đã thắng. Thấy quân Tây Sơn có thanh thế ngày một lớn, chúa Nguyễn sai tướng Tôn Thất Thăng cầm quân đi đánh. Nhưng, Tôn Thất Thăng lo sợ quá chỉ mới nghe đồn là. Nguyễn Nhạc sắp đem đại binh đến; đã hoảng hốt bỏ chạy. Quân sĩ của Tôn Thất Thăng chỉ sau một đêm chạy dài đã tan rã hết.
- Trận thứ ba: diễn ra ở dải đất mà Tây Sơn mới giải phóng trong trận đánh thứ nhất. Khi ấy, Lưu Thủ Long Hồ9 là Tống Phúc Hợp cùng với Cai Bạ là Nguyễn Khoa Tuyền đem quân sĩ năm dinh10 đánh mạnh ra Bắc. Tống Phúc Hợp và Nguyễn Khoa Tuyền đã chiếm lại được các địa phương từ Phú Yên ngày nay trở vào.
- Trận thứ tư: diễn ra tại khu vực Quảng Nam ngày nay. Lần này, chúa Nguyễn sai Tôn Thất Nghiễm và Nguyễn Cửu Dật đem quân vào Quảng Nam, dự kiến sẽ đánh một trận quyết định với Tây Sơn. Nhưng, Tôn Thất Nghiễm chưa đánh được trận nào thì đã nghe tin chúa Trịnh sai Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc đem ba vạn quân vượt sông Gianh đánh ồ ạt vào Đàng Trong. Tôn Thất Nghiễm lập tức nhận được lệnh phải trở về để bảo vệ Phú Xuân. Cuộc giằng co giữa Tây Sơn và chúa Nguyễn chuyển sang một giai đoạn mới.
___________________________________
1. Thượng Đạo tức Tây Sơn Thượng Đạo, nay thuộc địa phận tỉnh Gia Lai.
2. Quốc Sử Quán Triều Nguyễn: Đại Nam chính biên liệt truyện (sơ tập, quyển 30), Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 44, tờ 22).
3. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30) và Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 44).
4. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
5. Bến Ván tức Bản Tân, nay thuộc Quảng Nam.
6. Bến Đá tức Thạch Tân, nay thuộc Quảng Ngãi.
Tác giả chưa có điều kiện để khảo sát ở hai địa điểm Bến Ván và Bến Đá, vì thế, chưa thể giới thiệu một cách chi tiết hơn về hai địa điểm này.
7. Bình Khê nay thuộc Bình Định.
8. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30). Tài liệu giới thiệu ở đây là tài liệu tổng hợp, không phải tài liệu trích dẫn nguyên văn.
9. Long Hồ nguyên xưa là một dinh thuộc châu Định Viễn. Từ năm 1780, Long Hồ thuộc dinh Vĩnh Trấn. Năm 1808, Vĩnh Trấn đổi là Vĩnh Thanh. Nay, Long Hồ thuộc địa phận tỉnh Vĩnh Long.
10. Đất Nam Bộ có một thời khá dài chỉ gồm có 5 dinh, đó là các dinh Biên Trấn, Phiên Trấn, Trấn Định, Vĩnh Trấn và Hà Tiền.
2. Người quyết định chủ trương đúng đắn, đưa Tây Sơn ra khỏi thế “lưỡng đầu thọ địch” đầy nguy nan
Những khó khăn và lúng túng của chúa Nguyễn ở Đàng Trong lúc bấy giờ được chúa Trịnh Sâm theo dõi rất chặt chẽ. Quan giữ chức Trấn Thủ ở Nghệ An là Bùi Thế Đạt luôn luôn tìm cách thu thập và báo cáo đầy đủ mọi tin tức của xứ Đàng Trong về triều đình.
Tháng 5 năm Giáp Ngọ (1774), Trịnh Sâm quyết định đưa ba vạn quân, giao cho Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc cầm đầu, vượt sông Gianh tiến thẳng vào Nam1. Khi vừa vượt qua sông Gianh, đóng ở xã Cao Lao2, Hoàng Ngũ Phúc đã gặp may. Sử cũ chép rằng:
“Quan giữ chức Trấn Thủ dinh Bố Chính (của Đàng Trong) là Tôn Thất Tiệp liền sai viên Cai Đội là Quý Lộc (không rõ họ) và viên Câu Kê là Kiêm Long (không rõ họ), đem sản vật tới khao quân để tìm cách hoãn binh. (Hoàng) Ngũ Phúc bèn bí mật sai người giao thiệp riêng với hai người này. Kiêm Long nói:
- Đường mà không đi thì không đến, chuông mà không đánh thì không kêu.
(Hoàng) Ngũ Phúc hiểu ý, bèn ra lệnh tiến quân. Tướng Hoàng Đình Thể cũng được Hoàng Ngũ Phúc sai đem một đạo quân, bí mật tiến đến lũy Trấn Ninh3.Bọn Cai Đội trông coi kỵ binh (của chúa Nguyễn) là Hoàng Văn Bật và Lê Thập Thí, tình nguyện làm nội ứng, mở cửa đồn ra xin hàng. Quân sĩ của (Hoàng) Ngũ Phúc vừa đánh trống reo hò vừa tiến vào. Tướng giữ đồn là Tống Hữu Trường hoảng sợ mà bỏ chạy. Đồn lũy Trấn Ninh từng có tiếng là kiên cố ở giữa nơi thiên nhiên hiểm trở, nay (Hoàng) Ngũ Phúc kéo vào và san phẳng hết.
Chúa Trịnh Sâm thấy (Hoàng) Ngũ Phúc đem đạo quân cô độc vào sâu trong đất đối phương, sợ xảy ra bất trắc, bèn tự mình đem quân đi tuần hành ở biên giới (phía nam) để gây thanh thế yểm trợ từ xa cho (Hoàng) Ngũ Phúc”4.
Sau khi lấy được Trấn Ninh, Hoàng Ngũ Phúc gấp rút cho quân tiếp tục đánh vào Nam. Ngọn cờ chính trị giả hiệu là tiêu diệt quyền thần Trương Phúc Loan mà Hoàng Ngũ Phúc giương lên đã tạo ra được những ảnh hưởng không nhỏ. Bấy giờ, tướng Đàng Trong là Nguyễn Cửu Pháp đã lập mưu bắt sống được Trương Phúc Loan đem đến nạp cho Hoàng Ngũ Phúc, nhưng, lấy cớ là chưa diệt được Tây Sơn, quân Đàng Ngoài chưa thể rút, Hoàng Ngũ Phúc lại thúc quân ào ạt Nam tiến. Chúa Nguyễn buộc phải điều quân đi đánh chặn. Chỉ huy cuộc đánh chặn này gồm có:
- Tôn Thất Tiệp: Thống Binh.
- Cai Đội người họ Đặng: Quản Lãnh.
Ngoài ra, lực lượng thủy binh của chúa Nguyễn còn được điều động tới khu vực Bái Đáp5, đặt dưới quyền chỉ huy của Chưởng Cơ Nguyễn Văn Chính. Nhưng, quân chúa Nguyễn chưa đánh được trận nào thì đã bị Hoàng Ngũ Phúc cho lính men theo đường tắt, vượt Ghềnh Trầm6 và Ghềnh Ma7, hai mặt trước sau cùng giáp chiến, khiến Nguyễn Văn Chính bị đại bại và bị giết, quân của chúa Nguyễn tan vỡ hoàn toàn. Không còn cách nào khác, chúa Nguyễn đành phải bỏ Phú Xuân, đem toàn bộ tôn thất và bá quan vào Gia Định8 để tránh thế bị tấn công từ hai phía khác nhau. Hoàng Ngũ Phúc cũng lập tức kéo quân vào Phú Xuân, còn Trịnh Sâm thì thấy Hoàng Ngũ Phúc đã nắm được phần chắc thắng, bèn trở về Thăng Long.
Từ tháng hai năm Ất Mùi (1775), Hoàng Ngũ Phúc bắt đầu cho quân vượt đèo Hải Vân để tiếp tục cuộc Nam chinh. Bấy giờ, lực lượng bị lâm vào thế “lưỡng đầu thọ địch”9 là Tây Sơn chứ không phải là chúa Nguyễn nữa. Các tướng của Tây Sơn như Lý Tài và Tập Đình hăng hái đem quân ra đánh và đã giết được Quế Vũ Bá10 trong trận Cẩm Sa11 nhưng vẫn không sao cản được bước tiến của Hoàng Ngũ Phúc.
Mùa hạ năm 1775, từ phía Nam, tướng của chúa Nguyễn là Tống Phúc Hợp12 đem quân đánh mạnh lên vùng phía Bắc của tỉnh Phú Yên ngày nay, trong lúc đó, quân của Hoàng Ngũ Phúc cũng đã tiến đến khu vực Châu Ổ13. Tình hình biến đổi ngày một bất lợi cho Tây Sơn.
Trước tình thế đặc biệt khó khăn ấy, Nguyễn Nhạc đã quyết định: phải nhanh chóng tìm cách tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh đưa Tây Sơn ra khỏi cuộc đối đầu cùng lúc với hai lực lượng hùng mạnh khác nhau. Tướng Phạm Văn Tham được cử thay mặt Nguyễn Nhạc, thay mặt bộ chỉ huy Tây Sơn đến gặp Hoàng Ngũ Phúc. Với lời lẽ rất nhã nhặn và nhún nhường là “xin hàng” và “xin làm tướng đi tiên phong” cho quân Trịnh, với khá nhiều vàng lụa làm lễ vật ra mắt... Phạm Văn Tham đã được Hoàng Ngũ Phúc tiếp đón nồng hậu. Bấy giờ, quân sĩ của Hoàng Ngũ Phúc vừa mệt mỏi vì phải đi xa lâu ngày, lại vừa bị bệnh dịch hoành hành, mặt khác, Hoàng Ngũ Phúc cũng muốn lợi dụng Tây Sơn, cho nên, hắn đồng ý ngay với những đề nghị của Tây Sơn Nguyễn Nhạc do Phạm Văn Tham chuyển đến. Hoàng Ngũ phúc lập tức phong ngay cho Nguyễn Nhạc làm Tây Sơn Hiệu Trưởng, Tiên Phong tướng quân14. Phạm Văn Tham15 về rồi, Hoàng Ngũ Phúc nói với các tướng rằng: “Tây Sơn bây giờ đang như ngọn lửa bốc mạnh. Tôi già mất rồi, còn các tướng, tôi e không phải là tay đối địch với họ được”16. Tuy nói vậy nhưng Hoàng Ngũ Phúc vẫn sai gia khách, giữ công việc thư kí của bắn là Nguyễn Hữu Chỉnh17 đem sắc, ấn, cờ và kiếm đến ban cho Nguyễn Nhạc. Cuộc tấn công của quân Trịnh vào lực lượng của Tây Sơn cũng đình chỉ kể từ đó. Tây Sơn nhờ vậy mà được thảnh thơi ở mặt Bắc để tập trung đối phó ở mặt Nam.
_____________________________________
1. Về bộ chỉ huy cuộc tấn công này, xin tham khảo thêm mực 2-Khởi nghĩa là chiến đấu quyết liệt ở xứ Đàng Trong, thuộc phần II, Chương thứ hai.
2. Thuộc huyện Bố Trạch, tỉnh Quảng Bình.
3. Trấn Ninh tức Trường Thành hay lũy Nhật Lệ, nối từ núi Đâu Mâu đến cửa Nhật Lệ (Quảng Bình).
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 44, tờ 18).
5. Bái Đáp là tên sông. Sông này còn có tên là Phú Lễ.
6. Ghềnh Trầm thuộc địa phận làng Cổ Bi, huyện Quảng Điền (nay thuộc Thừa Thiên-Huế).
7. Ghềnh Ma thuộc địa phận làng Cổ Bi, huyện Quảng Điền (nay thuộc Thừa Thiên-Huế).
8. Vùng tương ứng với Nam Bộ ngày nay.
9. Hai đầu đều gặp giặc.
10. Quế Vũ Bá là tước hiệu, hiện chưa rõ họ tên.
11. Cẩm Sa là tên làng, thuộc huyện Hòa Vang (nay thuộc Quảng Nam).
12. Lúc này, Tống Phúc Hợp giữ chức Lưu Thủ Long Hồ, tước Kính Quận Công.
13. Châu Ổ ở huyện Bình Sơn, tỉnh Quảng Ngãi.
14. Nghĩa là người đứng đầu hiệu quân có tên là Tây Sơn, đồng thời là tướng cầm quân đi đầu (của quân Trịnh).
15. Nhân vật Phạm Văn Tham cũng có người viết là Phạm Văn Tuế, nguyên do có lẽ trong Hán tự, mặt chữ Tuế và chữ Tham gần giống nhau.
16. Hoa Bằng: Quang Trung, anh hùng dân tộc. Dẫn lại của Phan Huy Lê, Chu Thiên, Vương Hoàng Tuyên và Đinh Xuân Lâm trong Lịch sử chế độ phong kiến Việt Nam (tập 3). Nhà Xuất bản Giáo dục, Hà Nội, 1960, trang 285.
17. Nguyễn Hữu Chỉnh người Đông Hải, huyện Chân Lộc (nay thuộc Nghi Lộc, Hà Tĩnh). Sau Nguyễn Hữu Chỉnh bỏ họ Trịnh theo Tây Sơn rồi lại chống Tây Sơn, bị Tây Sơn giết năm 1787.
3. Nhanh chóng giành lại đất Quảng Nam và từng bước tìm cách lợi dụng những xung đột trong nội bộ chính quyền họ Trịnh
Sử cũ viết rằng:
“Bấy giờ, Hoàng Ngũ Phúc đóng quân ở Châu Ổ lâu ngày, bệnh dịch phát sinh, quân sĩ nhiều người bị chết, bèn bí mật tính kế lui quân. Nguyễn Nghiễm và Nguyễn Lệnh Tân1 thì muốn tiếp tục đóng giữ Quảng Nam, cắt đặt quan lại ở các địa phương trong vùng. (Hoàng) Ngũ Phúc không theo cách ấy, liền cho người chạy gấp về triều, đề nghị cho rút quân ra Thuận Hóa, đất Quảng Nam sẽ tính toán sau. Trịnh Sâm y cho”2.
Ngay khi quân Trịnh vừa rời khỏi Quảng Nam, Nguyễn Nhạc liền lập tức cho lực lượng của mình đến tiếp quản ngay. Phương châm chung của Nguyễn Nhạc là lặng lẽ, mềm dẻo nhưng kiên quyết. Hệ thống chính quyền do quân Trịnh mới dựng lên đều được thay thế bởi chính quyền của Tây Sơn. Việc thay thế diễn ra khá êm thấm, tránh được những xung đột không cần thiết với quân đội họ Trịnh ở phía bắc đèo Hải Vân. Sử cũ viết tiếp:
“Sau khi chiếm cứ được Quảng Nam, (Nguyễn) Văn Nhạc bèn sai thuộc hạ là Đỗ Phú Tuấn3 ra xin với Trịnh Sâm để được làm Trấn Thủ ở vùng đất này. Trịnh Sâm ngại việc dùng binh, bên nhân đó, chuẩn y cho. (Nguyễn) Văn Nhạc sắm sửa vũ khí, tích trữ lương thực, đắp lũy nơi hiểm yếu, đóng giữ nơi quan ải, dần dần trở lại thế hùng cường. Phó Đốc Thị là Nguyễn Lệnh Tân xin hãy sớm trừ diệt đi nhưng tướng Phạm Ngô Cầu4 cản lại. (Nguyễn) Lệnh Tân liền làm tờ khải, mật tâu với Trịnh Sâm rằng:
- Phạm Ngô Cầu là người nhút nhát, không có cơ mưu, nếu giao phó việc lớn cho Phạm Ngô Cầu tất nhiên là Thuận Hóa cũng sẽ mất. Vậy, xin bãi chức của Phạm Ngô Cầu đi mà cử viên tướng khác đến, như thế may ra mới giữ được.
Nhưng, Trịnh Sâm lại cho rằng, Phạm Ngô Cầu là người trầm tĩnh và cẩn trọng mà không cho lời của Nguyễn Lệnh Tân là đúng, bèn triệu Nguyễn Lệnh Tân về, bổ đi làm Tham Chính ở Sơn Tây. Từ đấy, (Nguyễn) Nhạc được thể cứ mặc sức vùng vẫy, đánh phá cả các địa phương Phú Yên và Bình Thuận, không ai còn có thể kiềm chế được nữa”5.
Lấy lại được Quảng Nam, đẩy quân Trịnh về phía Bắc đèo Hải Vân là một thắng lợi lớn. Thắng lợi lớn này thu được trước hết và chủ yếu là nhờ vào cơ mưu của Nguyễn Nhạc. Ở đấy không có những trận kịch chiến lớn nhưng tài năng quân sự của Nguyễn Nhạc vẫn thể hiện một cách đầy đủ và sâu sắc. Từ thắng lợi này, một tư thế mới của Tây Sơn được xây dựng và khẳng định ngày càng vững vàng hơn.
Trong khi Tây Sơn ngày một mạnh thì ở Đàng Ngoài, cơ đồ thống trị của họ Trịnh ngày một lung lay. Bấy giờ, kiêu binh thực sự trở thành một tai họa lớn, chúng mặc sức phá phách, hoành hành, không phải chỉ đối với nhân dân, quan lại, đại thần... mà còn cả với cung vua và phủ chúa6. Cả Đàng Ngoài, nhất là các địa phương ở chung quanh kinh đô Thăng Long bị náo loạn. Chúa Trịnh nhiều phen muốn tìm cách ngăn chặn nhưng đều thất bại. Nạn kiêu binh đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến lực lượng của quân đội họ Trịnh tại Thuận Hóa. Nguồn cung cấp của hậu phương bị suy giảm và chính điều đó đã khiến cho các tướng của họ Trịnh ở đây không dám tổ chức những cuộc hành quân nào đáng kể nữa. Thực tế này đã được Nguyễn Nhạc triệt để lợi dựng. Bấy giờ, Tây Sơn chỉ để một bộ phận nhỏ ở phía Bắc, còn thì tập trung về phía nam, chuẩn bị đánh những trận đánh quyết định với tập đoàn họ Nguyễn.
_____________________________________
1. Nguyễn Lệnh Tân người làng Phù Lê huyện Thụy Nguyên nay là xã Thiệu Thịnh, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa), đỗ Tiến Sĩ năm 1763.
2. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 44, tờ 28).
3. Đỗ Phú Tuấn hiện vẫn chưa rõ lai lịch.
4. Phạm Ngô Cầu là Tạo Quận Công, lai lịch chưa rõ. Năm 1786. Phạm Ngô Cầu thua trận, bị Tây Sơn giết.
5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 45, tờ 2).
6. Xin vui lòng tham khảo thêm: Nguyễn Khắc Thuận – Việt sử giai thoại (tập 7). NXB Giáo dục, 1994 hoặc các bản tái bản 1996, 1997
Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
NGUYỄN NHẠC (? - 1793)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
4. Người hoạch định chủ trương và cũng là người từng trực tiếp chỉ huy quân Tây Sơn tấn công vào sào huyệt cuối cùng của họ Nguyễn tại Gia Định
Khi mới khởi nghĩa, Nguyễn Nhạc xưng là Đệ Nhất Trại Chủ. Đó là danh xưng khiêm nhượng, phù hợp với thực lực của Tây Sơn trong giai đoạn chiến đấu đầu tiên. Khi thực hiện chủ trương tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh để cứu Tây Sơn khỏi thế “lưỡng đầu thọ địch”, Nguyễn Nhạc đã vui vẻ nhận danh xưng Tây Sơn Hiệu Trưởng, Tiên Phong Tướng Quân do Hoàng Ngũ Phúc thay mặt chúa Trịnh trao cho. Một lần nữa, đó cũng là sự nhún nhường cần thiết, phù hợp với tương quan thế và lực giữa Tây Sơn với quân đội họ Trịnh và giữa Tây Sơn với quân đội họ Nguyễn lúc bấy giờ.
Sau khi lấy lại được đất Quảng Nam, sự nhún nhường của Tây Sơn là không cần thiết nữa. Vấn đề hàng đầu của Tây Sơn lúc này là phải làm sao nhanh chóng phát triển thực lực, từng bước hạ gục kẻ thù này đến kẻ thù khác. Một danh xưng lớn hơn và phù hợp hơn là hết sức quan trọng đối với Tây Sơn lúc này. Xuất phát từ thực tế đó, năm 1776, anh em Tây Sơn đã quyết định về danh xưng mới như sau:
- Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn Vương.
- Nguyễn Huệ là Phụ Chính Đại Thần.
- Nguyễn Lữ là Thiếu Phó.
Việc thay đổi danh xưng này tuy làm cho nội bộ các tướng lĩnh Tây Sơn có sự mất đoàn kết trong nhất thời1 nhưng, nhân dân khắp nơi lại rất hồ hởi đến với Tây Sơn. Muôn đời vẫn vậy, một danh nghĩa chính thống bao giờ cũng có sức cuốn hút rất mạnh mẽ đối với tất cả những ai giàu thiện chí vì nước, vì dân.
Sau khi lên ngôi vương, Nguyễn Nhạc đóng bản doanh tại thành Đồ Bàn. Đây vốn dĩ là thành cũ của Chiêm Thành, xưa có tên là Vijaya, bị hoang phế đã từ lâu. Năm 1778, Nguyễn Nhạc chính thức lên ngôi Hoàng Đế2, thành Đồ Bàn được sửa sang lại và đổi tên là thành Hoàng Đế3. Từ thành này, Nguyễn Nhạc đã quyết định đánh những trận cuối cùng với tập đoàn họ Nguyễn. Như trên đã nói4, Tây Sơn đã năm lần tấn công vào Gia Định và với năm lần tấn công này, Nguyễn Nhạc không chỉ là người hoạch định chủ trương mà còn từng là người trực tiếp chỉ huy một trận lớn, đó là trận tấn công lần thứ tư, tổ chức vào tháng 3 năm Nhân Dần (1782).
Cùng với em là Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc đã đưa một đạo bộ binh và một đạo thủy binh với khoảng vài trăm chiến thuyền, từ Quy Nhơn, vượt biển đánh thẳng vào cửa biển Cần Giờ (nay thuộc thành Phố Hồ Chí Minh). Lần này, Nguyễn Ánh đã biết trước, cho nên, đã chuẩn bị đối phó rất công phu. Ở khu vực Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang), Nguyễn Ánh đã bố trí sẵn hơn 400 chiến thuyền (nghĩa là nhiều gấp đôi số chiến thuyền của Tây Sơn), đó là chưa kể một số tàu chiến của Pháp và của Bồ Đào Nha cũng có mặt để sẵn sàng trợ chiến5. Cũng do biết trước được cuộc tấn công của Tây Sơn, Nguyễn Ánh đã cấp báo cho cánh quân của họ Nguyễn ở khu vực Bình Thuận ngày nay, do các tướng Tôn Thất Dụ, Trần Xuân Trạch, Trần Văn Tự, Trần Công Chương... cầm đầu để các tướng này mau đem quân vào Nam ứng cứu. Tóm lại, Nguyễn Ánh rất tự tin ở khả năng phòng giữ của mình và niềm tin đó xem ra cũng rất có cơ sở. Tuy nhiên, Nguyễn Ánh hoàn toàn không dự đoán được tài dùng binh của anh em Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ trong trận này biến hóa hiểm hóc đến mức nào.
Trong cuộc giáp chiến đầu tiên ở Ngã Bảy, thủy quân của Nguyễn Ánh đã đại bại, Nguyễn Ánh phải tháo chạy thục mạng, lực lượng chiến thuyền đông đảo, kể cả các tàu chiến của Pháp và của Bồ Đào Nha đều tùy nghi tìm chỗ náu mình. Một tàu chiến của Pháp do viên sĩ quan Manuel6 chỉ huy bị thiêu cháy, Manuel bị giết chết.
Cuộc giáp chiến thứ hai xảy ra tại khu vực Bến Nghé, Thị Nghè và thành Gia Định. Bấy giờ, từ Ngã Bảy, Nguyễn Ánh chạy về khu vực Bến Nghé, Thị Nghè và thành Gia Định, muốn dựa vào thế chân vạc vững chắc của hệ thống thành lũy nơi đây để chống cự. Nhưng, chỉ với một trận tập kích chớp nhoáng, quân Tây Sơn do Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ chỉ huy đã đánh bật Nguyễn Ánh ra khỏi khu vực này. Không còn con đường nào khác Nguyễn Ánh phải chạy về vùng Tiền Giang ngày nay để rồi sau đó lao nhanh vào con đường vừa hại dân vừa phản quốc, cam tâm đi cầu cứu quân Xiêm La.
Trong lúc Nguyễn Ánh đang liên tiếp bị đại bại thì cánh quân của họ Nguyễn từ Bình Thuận cũng vừa tiến vào. Một cuộc đụng độ lớn đã diễn ra tại khu vực cầu Tham Lương (nay thuộc thành phố Hồ Chí Minh). Thấy không thể nào chống đỡ nổi, Tôn Thất Dụ và các tướng chỉ huy đạo quân này của họ Nguyễn buộc phải rút lui.
Như vậy là năm 1782, cùng với em là Nguyễn Huệ và các tướng lĩnh dưới quyền khác, chỉ với một cuộc hành quân, ba lần lâm trận, Nguyễn Nhạc đã đánh gục quyết tâm của Nguyễn Ánh và của những kẻ ủng hộ Nguyễn Ánh. Trong giai đoạn này, đây là lần thể hiện tài năng quân sự của Nguyễn Nhạc rõ nét nhất. Sinh ra và lớn lên ở vùng rừng núi Tây Sơn, nhưng, Nguyễn Nhạc đã tự cho thấy khả năng điều khiển thủy chiến rất sắc sảo của ông. Đó là nét độc đáo trong tài năng quân sự của Nguyễn Nhạc, cũng là nét độc đáo chung trong tài năng quân sự của ba anh em Tây Sơn.
_______________________________________
1. Nếu trước đó một chút, Huyền Khê và Nguyễn Thung bày tỏ sự bất bình quá đáng, bị Nguyễn Nhạc trừng trị, thì đến đây, tới lượt Lý Tài vả Tập Đình ganh tị quyền hành mà phản bội Tây Sơn.
2. Nguyễn Nhạc lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Thái Đức. Bấy giờ, Nguyễn Huệ được phong làm Long Nhương Tướng Quân còn Nguyên Lữ thì được phong làm Tiết Chế.
3. Thành Hoàng Đế về sau bị triều Nguyễn phá hủy để lấy vật liệu xây thành Bình Định. Trên bản đồ hiện đại, thành Hoàng Đế nằm ở phía Bắc huyện An Nhơn của tỉnh Bình Định. Tuy bị tàn phá nhưng dấu tích của thành hiện vẫn còn. Đại để, có thể mô tả như sau:
- Vòng ngoài cùng có chu vi khoảng gần 7500 mét, hình chữ nhật. Thành xây bằng đất, hai mặt trong và ngoài có lát đá ong rất kiên cố. Di tích hiện còn có chỗ cao non 6 mét, chân thành hơn 10 mét và bề mặt phía trên của thành rộng chừng gần 4 mét. Vòng này, dân địa phương gọi là Thành Ngoại.
- Vòng ở giữa cũng có hình chữ nhật, chu vi ước chừng 1600 mét, cách xây đại để cũng như Thành Ngoại. Vòng này nhân dân địa phương gọi là Thành Nội. Nếu như Thành Ngoại có đến năm cửa (Đông, Tây và Bắc ở mỗi hướng có một cửa, riêng hướng Nam hai cửa) thì Thành Nội chỉ có ba cửa nằm ở ba hướng Đông, Tây và Nam.
- Vòng trong cùng cũng có chu vi hình chữ nhật, chừng 600 mét. Dân địa phương gọi đó là Tử Thành hay Tử Cấm Thành.
4. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 2-Giai đoạn thứ hai: Khởi nghĩa và chiến đấu quyết liệt ở xứ Đàng Trong thuộc phần II của Chương thứ hai.
5. De la Bissachère: État actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des royaumes de Cambodge, Laos et Lạc Thổ. Librairie Calgnani, Pari, 1812, tom I, p. 325
6. Viên sĩ quan này được Nguyễn Ánh phong làm Cai Cơ (võ quan thuộc hàng cao cấp) và được sử cũ gọi theo tên Hán Việt là Mạn Hòe
05. Vẫn biết tất nhiên là như thế, nhưng...
Sau trận tấn công vào Gia Định (tháng 3 năm Nhâm Dần, 1782), nếu như vai trò của Nguyễn Nhạc trong quản lí nhà nước có phần nổi bật lên, thì ngược lại, vai trò của ông trong chỉ huy trận mạc dần dần bị mờ nhạt. So với các lãnh tụ khác của phong trào Tây Sơn, Nguyễn Nhạc là người bị phong kiến hóa sớm nhất và cũng sâu sắc nhất.
Tại thành Hoàng Đế ở Quy Nhơn, quyết định đúng đắn và táo bạo cuối cùng của Nguyễn Nhạc có lẽ là cho quân tấn công vào lực lượng quân Trịnh ở Phú Xuân nói riêng và Thuận Hóa nói chung. Nhưng, lần này Nguyễn Nhạc chỉ hoạch định chủ trương chứ không hề trực tiếp cầm quân tham chiến. Người chỉ huy xuất sắc trận đánh quan trọng này là Nguyễn Huệ. Giữa năm Bính Ngọ (1786), Nguyễn Huệ cùng các tướng dưới quyền, chia quân đánh mạnh vào lực lượng quân Trịnh. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, hơn ba vạn quân Trịnh đóng tại đây đã bị quét sạch khỏi lãnh thổ Đàng Trong.
Nhân đà thắng lợi, Nguyễn Huệ cho quân vượt sông Gianh, tiến thẳng ra Bắc, đập tan cơ đồ thống trị của họ Trịnh, dựng lại triều Lê tàn tạ vốn dĩ đã mấy trăm năm. Sự vươn tới mạnh mẽ của Nguyễn Huệ khiến cho Nguyễn Nhạc lấy làm lo sợ. Ông đã làm một việc lẽ ra không nên làm, ấy là đã đuổi theo với mục đích ngăn chặn bước tiến của em mình. Chính điều này đã dẫn tới cuộc xung đột đáng tiếc giữa Nguyễn Nhạc với Nguyễn Huệ. Đành rằng chẳng bao lâu sau đó, cuộc xung đột này chấm dứt, nhưng, di hại của nó thì còn kéo dài rất lâu.
Cuối năm 1786, sau khi ở Thăng Long về và sau khi chấm dứt cuộc xung đột với Nguyễn Huệ, Nguyễn Nhạc xưng là Trung ương Hoàng Đế, đồng thời, phong cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương và Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương. Thực ra, danh xưng Trung ương Hoàng Đế có ý nghĩa xác lập một thế thứ hoàng tộc mới chứ không hề có giá trị khẳng định quyền lực bao trùm của Nguyễn Nhạc. Ông chỉ kiểm soát một vùng đất giới hạn từ Bình Thuận trở ra cho đến phía nam của Bến Ván (tỉnh Quảng Nam ngày nay) mà thôi. Đất Gia Định, và đặc biệt là đất từ Bến Ván trở ra, Nguyễn Nhạc hoàn toàn không hề chi phối và cũng không thể nào chi phối được.
Đến đây, chí lớn của Nguyễn Nhạc đã bị hao mòn, đúng như Nguyễn Huệ nhận xét là: “Đại Huynh có ý mệt mỏi, tình nguyện giữ một phủ Quy Nhơn”1. Cuối cùng, ảnh hưởng của Nguyễn Nhạc gần như chỉ bó hẹp trong thành Hoàng Đế hoặc trong phủ Quy Nhơn mà thôi. Ngay cả khi Nguyễn Ánh đánh đuổi lực lượng của Đông Định Vương Nguyễn Lữ ra khỏi Gia Định, thậm chí là mở những đợt phản công mạnh mẽ vào khu vực do mình quản lý, Nguyễn Nhạc cũng hầu như không nêu ra được một biện pháp nào đáng kể.
Năm 1793, Nguyễn Nhạc qua đời, con ông là Nguyễn Bảo lên nối nghiệp. Nguyễn Bảo là người thiếu tỉnh táo, chẳng những không có khả năng làm cho nội bộ Tây Sơn ngày một xích lại gần nhau mà còn đẩy tướng lĩnh Tây Sơn lún sâu vào hố xung đột. Năm 1797, Nguyễn Bảo sắp đặt kế hoạch đầu hàng Nguyễn Ánh, nhưng cơ mưu bị bại lộ, Nguyễn Bảo bị con của Quang Trung là Quang Toản giết chết.
[CENTER}*
* *[/center]
Nguyễn Nhạc xuất thân là nông dân, tuy là nông dân khá giả nhưng sự khá giả đó cũng không hề làm thay đổi bản chất nông dân của con người Nguyễn Nhạc. Và, con đường tất yếu của nông dân trung đại trong trào lưu chống phong kiến là cuối cùng, chính họ sẽ bị phong kiến hóa. Xét về phương diện đó, Nguyễn Nhạc không phải là một ngoại lệ của lịch sử. Và, cũng xét về phương diện dó, nếu cuối cùng Nguyễn Nhạc có sự biến đổi xa lạ với nguồn gốc ban đầu của ông, thì đó cũng là tất nhiên. Vẫn biết là như vậy, nhưng... dẫu sao thì cũng tiếc thay.
Không thấy nguồn gốc ban đầu để rồi không thấy quá trình phong kiến hóa của Nguyễn Nhạc là một thiếu sót lớn. Nhưng, nếu chỉ thấy quá trình phong kiến hóa mà không thấy những cống hiến xuất sắc của Nguyễn Nhạc đối với nước nhà, là một sai lầm cũng rất lớn. Đó không phải chỉ là sai lầm khi đánh giá về cá nhân Nguyễn Nhạc mà còn là sai lầm với cả lịch sử nữa.
Nguyễn Nhạc, vị anh hùng đời mãi mãi không quên.
6. Chuyện kể về thần Bạch Mã hay là lời thẩm định đáng yêu của nhân dân Tây Sơn về sự nghiệp phi thường của Nguyễn Nhạc
Muôn đời vẫn thế, chuyện kể dân gian bao giờ cũng là chuyện kể dân gian, nó không hoàn toàn là lịch sử nhưng lại luôn luôn phản ánh một cái lõi sự thật nào đó của lịch sử. Chuyện kể dân gian ở vùng Tây Sơn về thần Bạch Mã cũng không ngoài lẽ thường đó.
Chuyện kể rằng: sinh thời, Nguyễn Nhạc có một con tuấn mã lông trắng mượt mà, chân cao bụng thon, dáng vẻ thật dũng mãnh. Con tuấn mã ấy đã gắn bó với Nguyễn Nhạc suốt cả cuộc trường chinh. Nhờ đó mà Nguyễn Nhạc mới có thể chỉ huy trận mạc một cách kịp thời và sắc bén, cũng nhờ nó mà Nguyễn Nhạc đã lập được rất nhiều chiến công. Tóm lại, từ khi là Tây Sơn Đệ Nhất Trại Chủ, là Tây Sơn Hiệu Trưởng Tiên Phong Tướng Quân, là Tây Sơn Vương, là Hoàng Đế hay Trung ương Hoàng Đế, hình ảnh của Nguyễn Nhạc bao giờ cũng gắn liền với hình ảnh con tuấn mã nổi tiếng của ông.
Nhưng rồi năm 1793, khi Nguyễn Nhạc qua đời, con tuấn mã ấy cũng xổng chuồng, chạy thẳng một mạch về Tây Sơn. Một thời gian sau, vào những lúc chiều tà, thi thoảng, nhân dân ở vùng Núi Ngang lại thấy con tuấn mã ấy xuất hiện. Vẫn bộ lông trắng tuyệt vời ấy, vẫn dáng vẻ dũng mãnh rất quen thuộc ấy, chỉ có khác là tiếng hí của nó nghe sao mà não nề đến kì lạ. Tương truyền, mộ Nguyễn Nhạc ở đấy, cho nên, con ngựa nhớ chủ mà về thăm. Chủ được dân yêu quý tôn làm thần và con ngựa của chủ cũng được dân tôn làm thần của xứ sở: thần Bạch Mã.
Bởi thờ thần Bạch Mã nên dân Tây Sơn không ai nuôi ngựa trắng nữa. Tục ấy giữ mãi cho đến sau này. Đầu thế kỷ thứ XIX, khi triều Nguyễn được dựng lên, một cuộc trả thù tàn bạo đối với Tây Sơn đã được tiến hành. Mộ của Nguyễn Nhạc bị đào lên, nắm xương tàn bị hành hạ, thần Bạch Mã đến Núi Ngang, cất tiếng hí bi ai rồi đi thẳng vào rừng xanh.
Năm 1885, đất Tây Sơn lại sôi động bởi một phong trào yêu nước mới: phong trào hưởng ứng chiếu cần vương của Hoàng Đế Hàm Nghi. Lãnh tụ của phong trào này là Mai Xuân Thưởng, quê ở Phú Lạc, huyện Bình Khê (nay là huyện Tây Sơn, tỉnh Bình Định). Ông sinh năm 1860, trong một gia đình Nho học và bản thân ông cũng đỗ Cử Nhân (khoa Ất Dậu, 1885, tại trường thi Hương ở Bình Định). Mai Xuân Thưởng kêu gọi nhân dân vùng dậy chống Pháp dưới ngọn cờ cần vương ngay sau khi ông vừa đỗ đạt. Tương truyền, đúng ngày trọng đại đó, thần Bạch Mã lại xuất hiện ở Tây Sơn, cất tiếng hí vang động cả núi rừng. Chừng như thần có vẻ rất lấy làm mãn nguyện vì lại thấy trên đất Tây Sơn có người nối được chí lớn của Nguyễn Nhạc thuở nào.
Ở một chừng mực nào đó, chuyện kể của dân cũng chính là một cách diễn đạt lòng dân. Với dân Tây Sơn, chuyện kể về thần Bạch Mã còn có giá trị như một nhận định mang tính khái quát về Nguyễn Nhạc. Hồn thiêng con người đó và tất cả những gì gắn bó mật thiết với con người đó lúc sinh thời, đều là bất diệt. Khí thiêng sông núi Tây Sơn đã đúc nên ông và khi về với cõi vĩnh hằng, chính ý chí kiên cường của ông lại trở thành một bộ phận của khí thiêng sông núi quê nhà. Thần Bạch Mã hí vang như là để chào đón cuộc gặp gỡ khí phách của hai thế hệ ngoan cường vậy. Mai Xuân Thưởng anh dũng hi sinh năm 1887 khi vừa mới 27 tuổi (1860-1887) và có để lại bài thơ tuyệt mệnh, rất xứng đáng là một trong những người con ưu tú của Tây Sơn.
Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
NGUYỄN HUỆ (1753 - 1792)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
“Mắt Sáng như chớp, tiếng nói như chuông,
khôn ngoan trí xảo hơn người, giỏi chiến trận,
không ai là không phải khiếp sợ”1
1. Bước khởi đầu của một sự nghiệp lớn
Nguyễn Huệ sinh năm 1753 và điều ấy cũng có nghĩa là khi tham gia chuẩn bị cho cuộc khởi nghĩa Tây Sơn, ông còn ở tuổi vị thành niên2. Năm 1771, khi chính thức trở thành một trong ba lãnh tụ cao nhất của Tây Sơn, Nguyễn Huệ vừa tròn 18 tuổi. Trong hàng các bậc danh tướng kiệt xuất nhất của lịch sử nước ta, rất hiếm thấy những trường hợp bắt đầu sự nghiệp sớm như thế.
Trong quá trình chuẩn bị, nếu như Nguyễn Nhạc là người chịu trách nhiệm bao quát chung, Nguyễn Lữ là người gần như chỉ chủ yếu là chuyên lo sản xuất và tích trữ lương thực, thì Nguyên Huệ, ngay từ đầu đã là người trực tiếp cầm quân. Ở Tây Sơn có Hòn Ông Bình, tương truyền, đó chính là nơi thuở xưa Nguyễn Huệ huấn luyện binh mã trước khi xuất quân khởi nghĩa3.
Tài năng quân sự đầu tiên của Nguyễn Huệ thể hiện rõ nhất là ở việc vạch kế hoạch và trực tiếp chỉ huy xây dựng một chiến lũy rất dài, nối liền Hòn Ông Nhạc, Hòn Ông Bình với Hòn Lãnh Lương. Đó là chiến lũy nằm án ngữ trục đường qua đèo An Khê, đủ để ngăn chặn những cuộc tấn công của quân đội chúa Nguyễn lên vùng Tây Sơn Thượng Đạo. Nay, chiến lũy do Nguyễn Huệ chỉ huy xây đắp chỉ còn dấu tích một số đoạn ngắn nữa mà thôi.
Năm 1771, khởi nghĩa Tây Sơn bùng nổ. Nguyễn Huệ là một trong số những tướng lĩnh cao cấp đầu tiên và ông đã cầm quân xông pha trận mạc như thế cho đến tận phút cuối của cuộc đời mình. Nếu như hình ảnh của Nguyễn Nhạc luôn luôn gắn liền với hình ảnh của con tuấn mã có bộ lông màu trắng tuyệt đẹp, thì hình ảnh của Nguyễn Huệ luôn luôn gắn bó với thanh long đao có cán màu đen. Ở vùng Tây Sơn hiện vẫn còn có di tích một ngôi miếu, gọi là Miếu Xà và nhân dân địa phương hiện vẫn còn lưu truyền một sự tích khá li kì như sau: lần đầu tiên xuất quân, Nguyễn Huệ và các tướng rất náo nức. Nhưng, đoàn quân vừa rời khỏi căn cứ thì bỗng chựng lại, hàng ngũ phía trước tự dưng rối loạn. Nguyễn Huệ tới để kiểm tra nguyên do thì thấy có hai con rắn đen cực lớn nằm chắn ngang đường, cả hai đền vươn cổ lên, há miệng đỏ như đang ngậm máu. Quân sĩ Tây Sơn cho đó là điềm chẳng lành nên ngần ngại, không dám hăng hái đi tiếp. Nguyễn Huệ lập tức xuống ngựa, cung kính thi lễ và khấn rằng:
- Nay, anh em chúng tôi xuất quân là vì đại nghĩa. Nếu biết trước là sự nghiệp của chúng tôi sẽ thành công thì kính xin Xà Thần (Thần rắn) mở lối cho chúng tôi đi, còn như nếu biết trước được rằng chúng tôi chỉ uổng công vô ích thì xin Xà Thần hãy trị tội mình tôi mà tha cho hết thảy nghĩa sĩ đều được trở về với gia đình, vợ con.
Không ngờ, Nguyễn Huệ vừa khấn xong thì cả hai con rắn đen cực lớn kia đều quay đầu lại, thoăn thoắt tiến lên phía trước, mở đường cho cả đạo binh cùng đi. Đi được một quãng đường khá xa thì bỗng một con rắn lao nhanh vào bụi rậm và chốc lát sau thì trở ra, miệng ngậm một thanh long đao có cán màu đen, vươn cổ lên “trao” cho Nguyễn Huệ. Đó là thanh long đao cực bén, thế gian không ai có được. Nguyễn Huệ kính cẩn nhận lấy thanh long đao và thề sẽ vì đại nghĩa cứu dân, vì ân huệ của Xà Thần mà chiến đấu đến cùng. Hai con rắn đen nghe Nguyễn Huệ thề xong thì biến mất. Về sau, để tưởng nhớ ơn đức lớn lao của Xà Thần, Nguyễn Huệ đã cho dựng miếu thờ. Miếu ấy lâu ngày đã bị hoang tàn, di tích còn lại chính là Miếu Xà đã nói ở trên.
2. Tổng chỉ huy xuất sắc trận Phú Yên (năm 1775: năm 22 tuổi), tạo ra bước ngoặt quan trọng cho toàn bộ quá trình phát triển mạnh mẽ sau đó của phong trào Tây Sơn
Năm 1774, lợi dụng lúc chúa Nguyễn đang phải lúng túng đối phó với hàng loạt những cuộc tấn công của Tây Sơn, chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Sâm đã sai Việp Quận Công Hoàng Ngũ Phúc đem ba vạn quân tiến thẳng vào Đàng Trong và chẳng bao lâu sau đó, Hoàng Ngũ Phúc đã chiếm được thủ phủ của chúa Nguyễn. Toàn bộ tập đoàn họ Nguyễn phải tháo chạy vào Gia Định. Tuy nhiên, cũng kể từ đó, Tây Sơn bị đẩy vào thế “lưỡng đầu thọ địch”. Ở mặt Bắc, quân Hoàng Ngũ Phúc bắt đầu vượt đèo Hải Vân. Ở mặt Nam, quân Nguyễn cũng phản công dữ dội. Trước sự xoay chuyển đột ngột và phức tạp của tình hình như vậy,Tây Sơn đã quyết định tạm thời hòa hoãn với quân Trịnh. Mặt Bắc tạm yên nhưng mặt Nam vẫn rất căng thẳng.
Năm 1775, hơn hai vạn quân Nguyễn do Tống Phúc Hiệp chỉ huy đã ồ ạt đánh từ phía Nam đánh ra. Một dải đất rộng lớn và liên hoàn, tương ứng với các tỉnh ngày nay như Khánh Hòa, Ninh Thuận, Đắc Lắc... mới được Tây Sơn giải phóng đã bị Tống Phúc Hiệp chiếm lại. Tống Phúc Hiệp còn đánh ra tận Phú Yên, tình hình trở nên rất nguy cấp. Tây Sơn chỉ còn giữ được một vùng đất tương ứng với các tỉnh ngày nay như Bình Định, Quảng Ngãi, Quảng Nam, Kon Tum và Gia Lai nữa mà thôi.
Tống Phúc Hiệp đặt đại bản doanh ngay tại Phú Yên và lập hai đại đồn, một ở Xuân Đài (cách Phú Yên chừng 4 km) và một nữa ở Vũng Lấm (cách Phú Yên chừng 10 km). Nếu Xuân Đài là đại đồn của lực lượng bộ binh hùng hậu thì Vũng Lấm chính là đại đồn của lực lượng thủy binh cũng rất đáng gờm. Xuân Đài và Vũng Lấm là hai khu vực xuất phát, cũng là hai địa điểm tập kết rất lợi hại của Tống Phúc Hiệp. Thế đứng của Tống Phúc Hiệp được khẳng định khá vững vàng.
Trong khi khí thế quân Nguyễn đang được dần dần phục hồi thì ngược lại, phía Tây Sơn gặp không ít khó khăn. Ngoài việc đất đai bị thu hẹp, bộ chỉ huy Tây Sơn cũng có sự tổn thất và xáo trộn. Bấy giờ, tướng Tập Đình đã bỏ trốn còn tướng Lý Tài thì liên tiếp bị thua đau mấy trận liền, vì thế, hoang mang và uy thế giảm sút rất nhanh. Muốn đánh bại Tống Phúc Hiệp ở Phú Yên, bộ chỉ huy Tây Sơn không thể trao trọng trách chỉ huy chiến dịch cho tướng Lý Tài được nữa. Trong bối cảnh đó, Nguyễn Huệ đã dũng cảm đảm trách sứ mệnh tổng chỉ huy chiến dịch này. Bấy giờ, Nguyễn Huệ vừa tròn 22 tuổi, nhưng, vị tướng rất trẻ này từng là người chỉ huy luyện tập quân sĩ trong thời kì Tây Sơn chuẩn bị khởi nghĩa, và quan trọng hơn, từng là tướng trực tiếp cầm quân xông pha trận mạc bốn năm trời. Tài năng bẩm sinh cộng với những kinh nghiệm thực tiễn quý giá đã tạo cho Nguyễn Huệ một bản lĩnh rất cao cường.
Để tạo yếu tố bất ngờ, trước lúc mở màn trận tấn công, Nguyễn Huệ đã cho người đến gặp Tống Phúc Hiệp để bàn hai việc lớn, một là tôn lập Nguyễn Phúc Dương (tức Hoàng Tôn Dương) lên làm chúa và hai là kế hoạch phối hợp giữa Tây Sơn và Tống Phúc Hiệp trong việc chống lại quân Trịnh! Cuộc thương lượng giữa đại diện của Tây Sơn với Tống Phúc Hiệp đang tiến hành thì quân của Nguyễn Huệ tràn tới. Chỉ trong chớp nhoáng, thành Phú Yên bị hạ. Tống Phúc Hiệp phải bỏ thành Phú Yên chạy thục mạng. Tướng của Tống Phúc Hiệp là Nguyễn Văn Hiển ra sức chống trả đã bị giết ngay tại trận. Một viên tướng nữa của Tống Phúc Hiệp là Nguyễn Khoa Kiên bị Nguyễn Huệ bắt sống. Bộ binh của Tống Phúc Hiệp ở Xuân Đài vội vã tháo chạy khiến cho thủy binh ở Vũng Lấm cũng hốt hoảng rút ngay về phía Nam.
Tin Nguyễn Huệ thắng lớn ở Phú Yên nhanh chóng truyền vào Nam. Tướng của chúa Nguyễn giữ chức Trấn Thủ tại Bình Khang là Bùi Công Kế4 cùng với thuộc tướng là Tống Văn Khôi lập tức đem quân đi cứu, nhưng vừa đến nơi, chưa kịp bày binh bố trận đã bị Nguyễn Huệ đánh cho tan tành. Tống Văn Khôi bị giết tại trận, Bùi Công Kế phải lập tức rút hẳn về Bình Khang5.
Trận Phú Yên là trận có ý nghĩa rất quan trọng. Từ đây, quân đội của chúa Nguyễn liên tiếp bị đại bại để rồi cuối cùng là bị đánh bật khỏi Gia Định. Từ đây, tên tuổi của Nguyễn Huệ nổi bật hẳn lên, tài năng quân sự của Nguyễn Huệ ngày một nở rộ.
Sau trận Phú Yên, theo yêu cầu của Nguyễn Nhạc, Hoàng Ngũ Phúc đã phải xin chúa Trịnh là Trịnh Sâm phong cho Nguyễn Huệ chức Tây Sơn Hiệu, Tiện Phong Tướng Quân. Cũng sau trận Phú Yên, Nguyễn Huệ được lệnh ra ổn định tình hình Quảng Nam. Bấy giờ, Hoàng Ngũ Phúc rút quân khỏi vùng Quảng Nam, ra hẳn phía bắc đèo Hải Vân, tuy nhiên, tay chân của chúa Nguyễn ở vùng này cũng nhân đó mà nổi dậy chống Tây Sơn. Hai nhân vật nổi bật của đám tay chân này là Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân. Chỉ trong một trận đánh chớp nhoáng, Nguyễn Huệ đã quét sạch lực lượng của Tôn Thất Quyền và Tôn Thất Xuân ra khỏi Quảng Nam. Toàn bộ vùng đất từ Quảng Nam vào đến Phú Yên do Tây Sơn quản lí, nhìn chung là ổn định. Ở tuổi 22, Nguyễn Huệ không phải chỉ là một vị tướng có tài mà còn là một người rất giàu năng lực tổ chức quản lí hành chính. Tóm lại, Nguyễn Huệ bắt đầu trở thành linh hồn của Tây Sơn kể từ đây.
____________________________________
1. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
2. Như đã nói trong mục 2-Quê hương và gia đình (thuộc phần I của Chương thứ hai) phần lớn các thư tịch cổ và tài liệu dân gian đều nói rằng Nguyễn Huệ là em Nguyễn Nhạc và là anh Nguyễn Lữ. Một vài giáo sĩ nước ngoài có mặt ở nước ta lúc bấy giờ, như Labartette chẳng hạn, thì nói Nguyễn Huệ là em Nguyễn Lữ. Nhưng, ghi chép của họ cũng có chỗ tỏ rõ chưa ổn, sức thuyết phục chưa cao.
3. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 1-Giai đoạn thứ nhất: Chuẩn bị (thuộc phần thứ II của Chương thứ nhất).
4. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 4).
5. Bình Khang: là một khu vực hành chánh địa phương thời các chúa Nguyễn. Khu vực này trong khoảng những năm từ 1775 đến 1790 có nhiều thay đổi. Khi Bùi Công Kế làm Trấn Thủ, Bình Khang chỉ tương ứng với Khánh Hòa và một phần Đất Lắc ngày nay.
3. Tổng chỉ huy cuộc tấn công của quân Tây Sơn vào Gia Định lần thứ hai (năm 1777: năm 24 tuổi), hai nhân vật cao nhất của tập đoàn họ Nguyễn ở Đàng Trong là Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương đều bị giết
Năm 1776, khi Nguyễn Huệ đang lo trấn áp bọn tay chân của chúa Nguyễn ở Quảng Nam và xây dựng chính quyền Tây Sơn ở vùng này, thì Nguyễn Lữ được lệnh đem quân tấn công vào Gia Định. Với Tây Sơn, đó là lần tấn công vào Gia Định thứ nhất. Nguyễn Lữ đã chiếm được thành Gia Định, thậm chí còn cho quân đánh xuống tận Long Hồ1, đuổi chúa Nguyễn Phúc Thuần phải chạy về trốn ở Trấn Biên2, bắt sống được tướng của chúa Nguyễn là Bùi Hữu Lễ... nhưng, sau đó thì rút về Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Thuần lại mộ quân đánh chiếm Gia Định như cũ.
Bấy giờ, Tây Sơn có thêm một trở ngại mới. Hai tướng gốc thương nhân người Hoa là Tập Đình (chỉ huy đạo Trung Nghĩa Quân) và Lý Tài (chỉ huy đạo Hòa Nghĩa Quân) đều phản bội Tây Sơn. Trước đó, Tập Đình đã bỏ trốn còn Lý Tài thì do nhiều phen bại trận, tinh thần và năng lực sa sút nghiêm trọng, cho nên, trong trận Phú Yên, Lý Tài chỉ được giao làm phó tướng cho Nguyễn Huệ. Thay vì quyết chí lập công để sửa chữa sai lầm, Lý Tài đã tỏ ra bất mãn. Tướng của chúa Nguyễn ở Phú Yên là Tống Phúc Hiệp biết rất rõ điều này nên đã chiêu hàng được Lý Tài3. Trong Bộ chỉ huy Tây Sơn, vị trí của Lý Tài tuy không phải là lớn lao gì, nhưng, Lý Tài là một trong những người nắm được khá rõ sở trường cũng như sở đoản của quân đội Tây Sơn, vì thế, tác hại của sự phản bội này cũng không phải là nhỏ.
Về phía chúa Nguyễn, nội bộ cũng có những xung đột rất phức tạp. Tháng 6 năm 1776, sau khi tháo chạy từ Phú Yên trở về Tống Phúc Hiệp lâm bệnh rồi mất. Cuộc tranh giành địa vị chi phối quân đội chúa Nguyễn, giữa một bên là Lý Tài với một bên là Đỗ Thanh Nhơn bất đầu. Lý Tài tuy chỉ mới về đầu hàng, nhưng, lực lượng quân lính mà Lý Tài nắm được cũng khá lớn. Tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương cũng trốn về4 được ở Gia Định và dùng Lý Tài làm vây cánh cho mình. Cộng thêm số quân lính tùy tùng của Nguyễn Phúc Dương nữa, thanh thế của Lý Tài tăng lên rất nhanh. Đỗ Thanh Nhơn tự nhận là người không chịu đội trời chung với Tây Sơn. Đội quân do Đỗ Thanh Nhơn lập ra mang tên là Đông Sơn, theo cách giải thích của chính Đỗ Thanh Nhơn, cũng chỉ cốt để tỏ cái chí đối nghịch sâu sắc với Tây Sơn mà thôi.
Khi Lý Tài đem quân về Gia Định, Đỗ Thanh Nhơn buộc phải bỏ Gia Định mà chạy về Ba Giồng5. Nguyễn Phúc Thuần bị Lý Tài bắt được và sau đó lại bị Lý Tài ép phải nhường ngôi cho Nguyễn Phúc Dương. Bởi lẽ này, xứ Đàng Trong từ đây có đến hai chúa, một là Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và hai là Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương. Lý Tài được phong làm Bảo Giá Đại Tướng Quân. Cuộc xung đột nội bộ này đã làm cho thế và lực của tập đoàn họ Nguyễn bị suy giảm khá mạnh6.
Lúc này, tình hình Quảng Nam đã tạm ổn, bộ chỉ huy Tây Sơn quyết định cử Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy cuộc tấn công vào Gia Định. Tháng 3 năm Đinh Dậu (1777), đại binh Tây Sơn do Nguyễn Huệ cầm đầu, chia làm hai đạo cùng tiến.
Đạo thủy binh là đạo quân chủ lực, do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy, vượt miền duyên hải khu vực Nam Trung Bộ ngày nay, đánh thẳng vào cửa Cần Giờ, sau đó, tấn công vào các đơn vị quân đội chúa Nguyễn đóng ở chung quanh thành Gia Định.
Đạo bộ binh nhỏ hơn, gồm chủ yếu là các đơn vị Tây Sơn đang đóng tại Phú Yên, có nhiệm vụ đánh mạnh vào khu vực tương ứng với các tỉnh ngày nay như Khánh Hòa, Ninh Thuận và Bình Thuận, rồi tiến thẳng vào Gia Định.
Để đối phó với cuộc tấn công của lực lượng thủy bộ Tây sơn, tập đoàn họ Nguyễn quyết định phải chủ động vạch kế hoạch phòng ngự và khi thời cơ đến thì kiên quyết tổ chức phản công. Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương tự mình làm tướng, đem một đạo quân khá lớn đến Trấn Biên để sẵn sàng chặn đứng lực lượng bộ binh của Tây Sơn. Lý Tài cùng với Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần chỉ huy quân sĩ giữ vững thành Gia Định để khi thủy binh Tây Sơn đã mệt mỏi với trận đánh thành cam go thì sẽ tung quân ra đánh trận quyết định. Các tướng cầm quân đóng giữ ở các địa phương thì phải chuẩn bị trong tư thế có thể đi ứng cứu bất cứ lúc nào. Xét về phương diện lí thuyết, đây là một kế hoạch đối phó rất chắc chắn, khả năng thành công cũng rất cao. Tuy nhiên, điều mà tập đoàn họ Nguyễn không lường trước được là tài chỉ huy vừa táo bạo, thần tốc lại vừa biến hóa lạ lùng của Nguyễn Huệ. Diễn biến của trận đánh vì thế mà rất gọn gàng.
Trước hết, thủy binh do Nguyễn Huệ trực tiếp cầm đầu đã đánh thẳng một mạch từ Cần Giờ lên Gia Định và chẳng mấy chốc thì thành Gia Định thất thủ, Lý Tài phải bỏ cả Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần mà chạy về Hóc Môn.
Đạo quân do Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương chỉ huy, mới giáp chiến với Tây Sơn mấy trận ở Trấn Biên đã tỏ ra khó bề chống đỡ. Nguyễn Phúc Dương rút về Gia Định, tưởng để tăng cường sức mạnh cho Lý Tài, nhưng, đến nơi thì Lý Tài đã bại trận, Nguyễn Phúc Dương phải cùng Nguyễn Phúc Thuần chạy ra Hóc Môn với Lý Tài.
Sau khi chiếm được thành Gia Định, Nguyễn Huệ cho một đạo quân ra Hóc Môn để truy kích Lý Tài đến cùng, Lý Tài đang điên cuồng chống trả và tình thế chiến trận đang ở lúc rất gay go thì một viên tướng của chúa Nguyễn là Trương Phúc Thận đem quân tới cứu: Lý Tài lầm tưởng đó là quân Đông Sơn của Đỗ Thanh Nhơn, cho nên, đã vội vã tháo chạy. Trương Phúc Thận tự thấy không đủ sức để đối địch với Tây Sơn, bèn dẫn Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần và Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương về Tranh Giang7.
Quân tan, lực kiệt... không còn con đường nào khác, Lý Tài phải chạy về Ba Giồng là khu vực đóng quân của Đỗ Thanh Nhơn. Cơ hội trả thù của Đỗ Thanh Nhơn đã đến. Hắn cho quân đánh úp, bắt sống Lý Tài đem về giết đi. Cuộc xung đột giữa Đỗ Thanh Nhơn với Lý Tài đến đó là chấm dứt và mâu thuẫn nội bộ của tập đoàn họ Nguyễn cũng nhờ đó mà giảm dần. Bấy giờ, trong tôn thất họ Nguyễn có một nhân vật rất trẻ nhưng cũng rất đáng gờm là Nguyễn Ánh. Lúc này, Nguyễn Ánh đang dựa vào Đỗ Thanh Nhơn, khiến cho thế lực của Đỗ Thanh Nhơn phát triển rất nhanh. Tại Tranh Giang, tập đoàn họ Nguyễn quyết định một kế hoạch đối phó mới, theo đó thì:
- Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương và tướng Trương Phúc Thận chỉ huy lực lượng đóng tại Tranh Giang.
- Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần chỉ huy lực lượng đóng tại Tài Phụ8.
- Nguyễn Ánh và Đỗ Thanh Nhơn chỉ huy lực lượng đóng tại Giá Khê9.
Ba cánh quân, ba vị trí, thủy bộ cùng phối hợp, sẵn sàng giao tranh với Tây Sơn và ứng cứu cho nhau khi cần... Một lần nữa, xét về mặt lí thuyết, đây quả thật là kế hoạch rất chặt chẽ. Nhưng, cũng một lần nữa, kế hoạch của tập đoàn họ Nguyễn bị Nguyễn Huệ đập tan.
Thủy quân Tây Sơn do đích thân Nguyễn Huệ cầm đầu đã đồng thời tấn công vào cả Tranh Giang và Tài Phụ. Chỉ với một trận, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương và Trương Phúc Thận đã đại bại, phải bỏ Tranh Giang chạy về Ba Việt10. Cũng chỉ với một trận, Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần đã phải bỏ Tài Phụ mà chạy về Long Hưng11 rồi sau đó chạy về Cần Thơ. Thấy tình hình quá nguy cấp, tướng Đỗ Thanh Nhơn được lệnh lên đường quay trở ra vùng Bình Thuận để tìm cánh quân của Châu Văn Tiếp đang ẩn náu tại đây. Gặp Đỗ Thanh Nhơn, Châu Văn Tiếp lập tức cùng thuộc tướng là Trần Văn Thức đem quân đi gấp vào Gia Định để ứng cứu. Nhưng, Châu Văn Tiếp chưa kịp đến Trấn Biên thì đã bị đánh cho tơi bời, tướng Trần Văn Thức bị giết tại trận12 còn Châu Văn Tiếp thì may mắn thoát chết.
Tại Ba Việt, Nguyễn Huệ cho quân kết hợp bao vây với tấn công tiêu diệt. Các tướng thân tín của Tân Chính Vương như Tôn Thất Chí, Nguyễn Mẫn và Tống Phước Hựu đều bị giết. Trong thế quẫn bách, Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương định phá vòng vây chạy trốn. Nhưng, ý định đó đã bị tan thành mây khói. Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương và 18 tướng lĩnh tùy tùng bị bắt sống, sau đó bị đưa về xử tử tại Gia Định vào tháng 8 năm 177713.
Tại Cần Thơ, nghe tin Tân Chính Vương Nguyễn Phúc Dương bị bắt, Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần hoảng sợ, định theo kế của Mạc Thiên Tứ tìm đường chạy sang tạm lánh nạn ở Trung Quốc. Nhưng, khi đang chờ tàu ở Long Xuyên, Thái Thượng Vương Nguyễn Phúc Thuần cùng với toàn bộ tướng lĩnh đi theo hộ giá như Trương Phúc Thận, Nguyễn Danh Khoáng, Nguyễn Phúc Đồng (anh ruột của Nguyễn Ánh)... đều bị bắt sống và đến tháng 9 năm 1777 thì bị xử tử tại Gia Định. Bấy giờ, tôn thất họ Nguyễn chỉ còn có Nguyễn Ánh là trốn thoát được14.
Với cuộc tấn công vào Gia Định lần này, Nguyễn Huệ đã làm sụp đổ hoàn toàn cơ đồ thống trị của họ Nguyễn được tạo lập trước đó hơn hai trăm năm, thực hiện thắng lợi trọn vẹn mục tiêu lớn nhất của Tây Sơn đặt ra trong thời kì chuẩn bị khởi nghĩa. Cũng với cuộc tấn công dũng mãnh này, Nguyễn Huệ đã giải phóng được một vùng đất rộng lớn, nhanh chóng tăng cường sức người và sức của, khiến Tây Sơn có thể vững vàng bước vào những trận chiến đấu mới, lớn hơn và quyết liệt hơn.
Đến đây, thiên tài quân sự của Nguyễn Huệ bước vào thời kì nở rộ, phong phú và xuất sắc lạ thường. Các tướng lĩnh của họ Nguyễn đều xem ra không đáng là đối thủ của Nguyễn Huệ.
Năm 1778 Nguyễn Nhạc xưng là Tây Sơn Vương, Nguyễn Huệ nhờ những công lao xuất sắc trong hơn bảy năm chiến đấu, đặc biệt là ở trận Phú Yên (1775) và trận Gia Định (1777) nên đã được phong làm Long Nhương Tướng Quân.
_________________________________
1. Khu vực tương ứng với vùng Vĩnh Long ngày nay.
2. Trấn Biên là một khu vực hành chính lớn, bấy giờ, khu vực này tương ứng với các tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, Đồng Nai, Bình Dương và Bình Phước ngày nay. Nguyễn Phúc Thuần trốn ở vùng Bà Rịa ngày nay.
3. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 3).
4. Trước tháng 10 năm 1776, Nguyễn Phúc Dương bị Tây Sơn quản thúc tại Quy Nhơn.
5. Ba Giồng tức Tam Phụ, đất này nay thuộc tỉnh Tiền Giang.
6. Tuy trên danh nghĩa. Nguyễn Phúc Thuần là Thái Thượng Vương và Nguyễn Phúc Dương là Tân Chính Vương, nhưng trong thực tế, hai nhân vật này mâu thuẫn rất sâu sắc với nhau.
7. Tranh Giang nay thuộc tỉnh Tiền Giang.
8. Tài Phụ nay thuộc tỉnh Tiền Giang.
9. Giá Khê nay thuộc tỉnh Kiên Giang.
10. Nay thuộc Mỏ Cày. tỉnh Bến Tre.
11. Nay thuộc tỉnh Tiền Giang.
12. Đại Nam liệt truyện (Tiền biên, quyển 5).
13. Đại tam thực lực (Tiền biên, quyển 12).
14. Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 12), Đại Nam liệt truyện (Tiền biên và Chính biên sơ tập).
4. Cùng với anh là Tây Sơn Vương Nguyễn Nhạc, chỉ huy cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ tư (năm 1782: năm 29 tuổi), đánh cho Nguyễn Ánh phải đại bại
Sau khi hoàn thành xuất sắc cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ hai, Nguyễn Huệ trở về Quy Nhơn, giao vùng đất mới được giải phóng cho một số tướng lĩnh quản lí. Nhân cơ hội đó, Nguyễn Ánh và bè lũ lập tức nổi lên. Đất Gia Định chẳng mấy chốc đã bị Nguyễn Ánh chiếm lại. Lực lượng Tây Sơn ở Gia Định không sao chống đỡ nổi, đành phải cấp báo về Quy Nhơn. Do chỗ nhận định rằng Nguyễn Ánh chỉ là một kẻ tuổi đời còn quá trẻ, năng lực chỉ huy và uy tín cũng chưa cao, cho nên, Tây Sơn chỉ cử hai viên tướng là Tổng Đốc Chu (chưa rõ họ là gì) và Hộ Giá Phạm Ngạn, đem hai đạo quân thủy bộ nhỏ đi cứu nguy cho Gia Định. Sau sáu tháng hành quân vất vả, Tổng Đốc Chu và Hộ Giá Phạm Ngạn mới tiến được đến vùng Biên Hòa ngày nay. Các tướng của Tây Sơn chẳng những không cản nổi những cuộc phản công của Nguyễn Ánh mà còn bị đánh bật khỏi Gia Định, sau đó lại còn bị đánh bật khỏi Bình Thuận. Tình hình phía Nam trở nên rất nguy cấp.
Tại Gia Định, lực lượng của Nguyễn Ánh được tăng cường rất nhanh. Đầu năm 1781, Nguyễn Ánh đã có khoảng ba vạn quân thủy bộ1. Bấy giờ, sát cánh bên cạnh Nguyễn Ánh còn có năm tàu chiến với đầy đủ thủy thủ và vũ khí của phương Tây do viên sĩ quan người Pháp là Manuel chỉ huy2. Từ Gia Định, Nguyễn Ánh liên tiếp chủ động tổ chức những cuộc tấn công vào Tây Sơn. Đã có lúc, quân Nguyễn Ánh tiến tới tận khu vực gần thành phố Nha Trang ngày nay.
Tháng ba năm Nhâm Dần (1782), bộ chỉ huy Tây Sơn quyết định đưa đại quân vào Nam, đánh gục toàn bộ lực lượng của quân Nguyễn. Bởi tính chất đặc biệt quan trọng của trận đánh này, đích thân hai lãnh tụ của Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy. Tương tự như ba lần trước, lần này, Tây Sơn cũng huy động cả bộ binh lẫn thủy binh, trong đó, thủy binh là lực lượng nòng cốt3. Về phần mình, Nguyễn Ánh do đã biết được quyết tâm của Tây Sơn nên đã chủ động bố trí trận địa để đón đánh.
Tại Cần Giờ, thủy binh của Nguyễn Ánh do tướng Tống Phước Thiêm chỉ huy, có khoảng 400 chiến thuyền (chưa kể 5 tàu chiến của phương Tây do Manuel cầm đầu), chuẩn bị thế trận sẵn ở khu vực sông Ngã Bảy (Thất Kỳ Giang) với hi vọng chặn đứng thủy quân Tây Sơn để rồi sau đó là tùy cơ mà tổ chức phản công4. Ngoài ra, Nguyễn Ánh còn sắp sẵn một đội chiến thuyền khác do đích thân Nguyễn Ánh chỉ huy, có thể đến ứng cứu cho Tống Phước Thiêm bất cứ lúc nào5. Bộ binh của Nguyễn Ánh thì tập trung chủ yếu ở khu vực thành Gia Định. Nơi đây, hệ thống đồn lũy được tu bổ cẩn thận, khả năng phòng thủ rất cao6.
Về phần Tây Sơn, trận đánh quyết liệt đầu tiên là trận sông Ngã Bảy ở Cần Giờ. Trận này do đích thân Nguyễn Huệ chỉ huy. Nhân lúc thuận chiều gió, Nguyễn Huệ đã cho dùng hỏa công7, khiến cho thủy quân Tống Phước Thiêm hoàn toàn bị bất ngờ về cách đánh, đội ngũ rối loạn, chẳng mấy chốc đã bị đại bại. Nguyễn Ánh tới cứu cũng không sao có thể xoay chuyển được tình thế, đành tháo chạy thục mạng. Tàu chiến của Manuel bị vây chặt và sau đó bị thiêu trụi, Manuel chịu chết cháy.
Tàn binh của Nguyễn Ánh và Tống Phước Thiêm chạy về Gia Định, kết hợp với lực lượng bộ binh đang đóng tại đây để tính kế chống trả. Ở Gia Định, Nguyễn Ánh có ba căn cứ rất vững chắc. Một là thành Gia Định, hai là đồn Bến Nghé và ba là đồn Thị Nghè. Trong thế chân vạc lợi hại này, Bến Nghé và Thị Nghè giữ vai trò yểm trợ rất đắc lực cho thành Gia Định. Cả thành lẫn đồn đều được xây dựng rất kiên cố. Bấy giờ, thân cây dừa được dùng làm kè đỡ, súng lớn cũng không dễ gì phá hủy được. Nhưng, chỉ trong một trận giáp chiến, quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ chỉ huy cũng đã đánh bật được Nguyễn Ánh ra khỏi ba căn cứ kiên cố nói trên. Nguyễn Ánh phải chạy về Ba Giồng. Tại đây, chưa kịp củng cố đội ngũ để đối phó thì tin bại trận cứ liên tiếp chuyển về và quân Tây Sơn cũng đang ồ ạt tiến tới cho nên, Nguyễn Ánh lại phải tháo chạy. Lần này, Nguyễn Ánh chỉ còn lại đúng 150 người8 bỏ Ba Giồng, băng qua Hậu Giang, sang cả Chân Lạp, lòng vòng bôn tẩu khắp nơi.
Trong khi một bộ phận quan trọng của Tây Sơn đang lo truy kích Nguyễn Ánh thì một bộ phận khác của Tây Sơn lo đối phó với những đám tàn quân khác của Nguyễn Ánh. Bấy giờ, các tướng của Nguyễn Ánh như Tôn Thất Dụ, Trần Xuân Trạch, Trần Công Chương... từ Bình Thuận cũng vội đem quân vào Gia Định. Sau các tướng nói trên, đến lượt Châu Văn Tiếp hùng hổ mang quân tới. Một trận ác chiến đã xảy ra tại khu vực cầu Tham Lương9, Hộ Giá Phạm Ngạn của Tây Sơn bị tử trận, nhưng phía đối phương, tướng Hồ Công Siêu cũng bị giết chết. Thấy không thể chống đỡ nổi, lực lượng của Nguyễn Ánh do các tướng nói trên chỉ huy đã buộc phải rút lui, tìm chỗ náu mình ở đất Bình Thuận như trước đó10.
Mùa hè năm 1782, thấy tình hình Gia Định đã tương đối ổn, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn, chỉ để lại tướng Đỗ Nhàn Trập cùng ba ngàn quân ở lại trông coi Gia Định nữa mà thôi.
Trận tấn công vào Gia Định năm 1782 là trận đầu tiên Nguyễn Huệ chỉ huy quân đội đánh vào thế trận đã bày bố sẵn của đối phương, cả ở dưới nước lẫn trên bộ. Xét từ mọi phương diện khác nhau, thế trận của Nguyễn Ánh là thế trận rất vững chắc. Bên cạnh lực lượng khá hùng hậu của mình, Nguyễn Ánh còn được sự hỗ trợ đắc lực của các chiến thuyền phương Tây. Số lượng các chiến thuyền phương Tây tuy không nhiều, nhưng, vị trí và ảnh hưởng đối với chiến trận lại rất lớn. Nếu Tây Sơn phải hành quân xa từ hàng trăm cây số tới, thì ngược lại, Nguyễn Ánh gần như chỉ sắp đặt mọi việc tại chỗ. Tóm lại là về lí thuyết, khả năng giành phần thắng của Nguyễn Ánh cao hơn. Nhưng, thực tiễn sinh động của cuộc tấn công năm 1782 cho thấy Nguyễn Huệ đã làm được những việc ngỡ như không thể làm. Nghệ thuật đánh nhanh, thắng nhanh được Nguyễn Huệ thực hiện với một trình độ rất cao. Các tướng dày dạn kinh nghiệm trận mạc của Nguyễn Ánh rồi cả đến bản thân Nguyễn Ánh phải kinh ngạc và hoảng sợ đã đành, ngay những sĩ quan chỉ huy chiến thuyền người phương Tây như Manuel cũng phải bó tay chịu chết. Chỗ dựa chủ yếu của Nguyễn Huệ không phải là vũ khí hay điều kiện thuận lợi của thời tiết và địa hình, mà trước hết và cao nhất vẫn là con người. Nếu nắm được thế mạnh riêng của từng tướng lĩnh, của từng đạo quân và sử dụng được, phát huy cao độ được những thế mạnh riêng đó, thì nhất định sẽ nắm phần thắng trong tay.
Trong cuộc tấn công vào Gia Định năm 1782 này, bên cạnh Nguyễn Huệ, Bộ chỉ huy quân Tây Sơn còn có một nhân vật rất quan trọng khác, đó là Nguyễn Nhạc. Với cương vị là Hoàng Đế, hẳn nhiên, tiếng nói của Nguyễn Nhạc có ý nghĩa quyết định. Nhưng, xét diễn biến cụ thể của toàn bộ cuộc tấn công, vai trò của Nguyễn Huệ luôn luôn nổi lên hàng đầu. Những trận giáp chiến quan trọng nhất diễn ra tại sông Ngã Bảy, tại thành Gia Định, đồn Bến Nghé, đồn Thị Nghè và tại khu vực Tiền Giang ngày nay đều do Nguyễn Huệ trực tiếp chỉ huy. Sử cũ thực sự có lí khi hầu như chỉ nhắc riêng tên Nguyễn Huệ trong đoạn chép về năm này.
___________________________________
1. Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 12).
2. Lorenzo Pérez: Les Espagnols dans l’Empire d’Annam. Tài liệu đã dẫn. Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 12) cũng chép tương tự.
3. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí (Quyển 3) và Quốc Sử Quán Triều Nguyễn Đại Nam thực lục (Tiền biên, quyển 12).
4. Lorenzo Pérez: Les Espagnols dans l’Empire d’Annam. Paris 1812.T.1, P. 89.
5. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí (Quyển 3), Đại Nam thực lục (Tiền biên) cũng chép tương tự.
6. Trịnh Hoài Đức: Gia Định thành thông chí (Quyển 3).
7. De la Bissachère: État actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des royaumes de Cambodge, Lao et Lạc Thổ. Paris, 1812, T.1, P. 319).
Theo De la Bissachère và theo ghi chép của một số giáo sĩ phương Tây khác, phép hỏa công trong thủy chiến của Tây Sơn khá đặc biệt, đại để thì Tây Sơn dùng ống đựng chất dễ cháy, gặp chiến thuyền của đối phương thì châm lửa phóng vào. Chất này khi rơi xuống nước, nếu đã bén lửa thì vẫn có thể cháy, cho nên, dùng nước để chống là không có hiệu quả.
8. Lorenzo Pérez: Tài liệu đã dẫn.
9, 10. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 3 và quyển 4).
Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
NGUYỄN HUỆ (1753 - 1792)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
5. Tổng chỉ huy lực lượng Tây Sơn tấn công vào Gia Định lần thứ năm (năm 1783: năm 30 tuổi), đuổi tập đoàn Nguyễn Ánh ra khỏi bờ cõi
Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vừa rút về Quy Nhơn thì lập tức, tình hình Gia Định biến đổi nhanh chóng, theo chiều hướng ngày càng bất lợi cho Tây Sơn. Trước hết, tại Long Hồ, một viên tướng của Nguyễn Ánh là Hồ Văn Lân đã tập hợp được một số quân lính, bất ngờ tấn công và chiếm lại được Long Hồ. Ngay sau chiến thắng này của Hồ Văn Lân, các tướng khác của Nguyễn Ánh như Dương Công Trừng và Nguyễn Văn Quý cũng đem quân về Long Hồ để hỗ trợ Hồ Văn Lân, khiến cho thanh thế của lực lượng ủng hộ Nguyễn Ánh ở đây tăng lên rất nhanh. Từ Long Hồ, một loạt những trận phản công lớn nhỏ được tổ chức. Quân Tây Sơn dẫu rất cố gắng vẫn không sao chống đỡ nổi, bỏ thành, bỏ đất mà chạy. Vùng đất đại để tương ứng với Long An ngày nay trở về Nam, dần dần nằm trong tay của nhóm tướng lĩnh Hồ Văn Lân1. Tin này chẳng mấy chốc đã vang đi khắp nơi.
Tại Bình Thuận, Châu Văn Tiếp cũng nhân thấy quân đội Tây Sơn ở Gia Định lúng túng, bèn tới tấp đánh vào Nam. Lần này, Châu Văn Tiếp có vẻ rất tự tin, giương cao ngọn cờ Lương sơn tá quốc2 mà tiến. Bấy giờ, quân Tây Sơn ở Gia Định do Đỗ Nhàn Trập chỉ huy chỉ có ba ngàn người mà phải phân tán đi đóng giữ tại nhiều đồn lũy khác nhau, vì thế, khả năng chống đỡ ở từng đồn lũy rất thấp. Châu Văn Tiếp cùng các tướng dưới quyền như Tôn Thất Mân, Phạm Văn Sĩ, Lê Văn Quân, Nguyễn Văn Thuận, Nguyễn Văn Thảo, Nguyễn Long, Phan Viện... chia quân dồn dập đánh vào Gia Định3. Đỗ Nhàn Trập không sao cầm cự nổi, đành phải tháo chạy về Quy Nhơn.
Cũng có thể nói Đỗ Nhàn Trập đã sai lầm khi dàn mỏng lực lượng vốn dĩ rất khiêm nhường của mình trên nhiều địa bàn khác nhau, tuy nhiên, ở một góc độ khác, chúng ta lại cũng có thể nói rằng Đỗ Nhàn Trập thật khó mà chọn lựa cho mình một phương pháp nào khác. Sai lầm của tướng Đỗ Nhàn Trập chừng như lại bắt đầu từ sai lầm của Bộ chỉ huy Tây Sơn khi đánh giá về vị trí của đất Gia Định. Tây Sơn đã tập trung quân quá đông ở những nơi không phải là có vị trí chiến lược quan trọng. Nguyễn Ánh và tướng lĩnh dưới quyền đã triệt để lợi dụng sơ hở này và do đó đã dễ dàng chiếm lại Gia Định sau những phen đại bại thảm hại đến độ ngỡ như khó mà ngóc đầu lên được nữa.
Tại Gia Định, một lần nữa, Nguyễn Ánh lại gấp rút xây dựng hệ thống đồn lũy trên cả một tuyến dài từ vùng đại để tương ứng với Long An về cho đến thành phố Hồ Chí Minh ngày nay. Đồn lũy cũ được tu bổ và tôn tạo. Thành lũy mới được xây đắp. Bộ binh và thủy binh liên lạc chặt chẽ và sẵn sàng ứng cứu cho nhau. Khí thế của tập đoàn Nguyễn Ánh lại một lần nữa trở nên rất hưng thịnh.
Đứng trước tình hình đó, Bộ chỉ huy Tây Sơn lại quyết định tổ chức cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ năm. Lần này, quân Tây Sơn đặt dưới quyền chỉ huy của Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ. Lực lượng tham chiến của Tây Sơn gồm chủ yếu là thủy binh. Tháng hai năm Quý Mão (1783), Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ bắt đầu cho quân rời Quy Nhơn tiến vào Nam, mở đầu cuộc tấn công lớn vào Nguyễn Ánh.
Cuộc giáp chiến đầu tiên diễn ra tại Cần Giờ. Cũng như tất cả các trận trước, Nguyễn Huệ đã triệt để lợi dụng thủy triều và gió, khiến cho sức mạnh của thủy binh Tây Sơn được nhân lên gấp bội. Chỉ trong một trận chớp nhoáng, phòng tuyến kiên cố của Nguyễn Ánh tại Cần Giờ bị phá toang. Ngay sau đó, Nguyễn Huệ chia quân làm hai đạo, đánh từ hai hướng khác nhau.
Đạo thứ nhất tiến xuống Thảo Câu (Vàm Cỏ), giao cho Đô Đốc Lê Văn Kế chỉ huy. Đạo thứ hai đánh thẳng vào Gia Định, giao cho Tư Khấu Nguyễn Văn Kim chỉ huy. Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ chịu trách nhiệm điều khiển chung.
Tại Thảo Câu, thủy quân Nguyễn Ánh đã chuẩn bị sẵn một trận hỏa công rất lợi hại. Nhưng, theo đúng lời dặn của Nguyễn Huệ, Đô Đốc Lê Văn Kế chờ cho đến lúc thủy triều lên nhanh và gió bắt đầu thuận chiều mới đánh. Lửa hỏa công của quân Nguyễn Ánh, thay vì nhằm thiêu cháy chiến thuyền của Tây Sơn, đã thiêu cháy ngay chính chiến thuyền của mình. Đô Đốc Lê Văn Kế nhân đó đã thúc quân đánh tới tấp. Lực lượng thủy quân của Nguyễn Ánh ở Thảo Câu nhanh chóng bị tan rã. Tướng chỉ huy quân Nguyễn ở Thảo Câu là Dương Công Trừng bị bắt, toàn bộ quân sĩ của Nguyễn Ánh đóng tại đây đều phải xin hàng4.
Tại Gia Định, số phận của lực lượng quân Nguyễn cũng bi đát không kém. Tướng chỉ huy quân Nguyễn ở đây là Tôn Thất Mân cùng hàng loạt thuộc tướng và quân sĩ phải chịu chết.
Sau hai trận đại bại nói trên, Nguyễn Ánh buộc phải bỏ Gia Định, dắt díu thân nhân chạy trốn. Bấy giờ, Nguyễn Ánh chỉ còn độ dăm sáu tướng cùng với khoảng một trăm quân sĩ tùy tùng nữa mà thôi. Nhưng, chỉ mấy ngày sau, đám tàn quân của Nguyễn Ánh đã tập trung ở Ba Giồng và chúng lại tính kế để đánh trả Tây Sơn.
Quyết không cho Nguyễn Ánh kịp ra tay, Nguyễn Huệ đã trực tiếp cầm quân tới đánh. Lần này, Nguyễn Huệ cho cả tượng binh tham chiến. Một lần nữa, Nguyễn Ánh đại bại, các tướng như Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Kim Phẩm đều bị bắt, Nguyễn Đình Thuyên, Nguyễn Văn Quý, Trần Đại Huề... thì bị giết tại trận5...
Từ đây, một cuộc truy đuổi ráo riết của quân Tây Sơn đối với Nguyễn Ánh bắt đầu. Nguyễn Ánh phải bôn tẩu khắp nơi và chịu thêm nhiều thiệt hại nậng nề nữa. Đại lược như sau:
- Sau nhiều ngày chạy lòng vòng trong khu vực thuộc Tiền Giang ngày nay, Nguyễn Ánh thấy không thể bám lại được, bèn chạy ra cửa biển Ba Thắc để tìm gặp Bá Đa Lộc. Nhưng trước đó Bá Đa Lộc đã đến Mạc Bắc6, cùng với giáo sĩ Liot, giáo sĩ Castuera và giáo sĩ Ginestar chạy trốn. Tám ngày sau, Nguyễn Ánh cũng đuổi kịp nhưng các giáo sĩ nói trên không dám ở chung với Nguyễn Ánh vì sợ bị liên lụy nên lại trốn đi nơi khác.
- Nguyễn Ánh hoảng hốt chạy ra Hà Tiên rồi sau đó là nương thân tại đảo Phú Quốc. Tướng Phan Tiến Thận được Nguyễn Huệ sai cầm quân đi truy kích. Trong trận giáp chiến tại Phú Quốc, một loạt các tướng của Nguyễn Ánh như Tôn Thất Cốc, Tôn Thất Điến (cũng tức là Tôn Thất Chương), Chưởng Cơ Hoảng (chưa rõ họ)...7 bị bắt. Nguyễn Ánh may được Lê Phúc Điển đổi áo để đánh lừa quân Tây Sơn mới thoát chết mà chạy trốn được
- Sau khi được Lê Phúc Điển đổi áo, Nguyễn Ánh chạy ra đảo Cổ Long, nhưng chưa hoàn hồn đã bị tướng của Tây Sơn là Trương Văn Đa đem quân tới truy đuổi. Khi ấy, bỗng dưng gió bão nổi lên, Trương Văn Đa không thể tiếp tục cuộc truy quét, còn tàn quân của Nguyễn Ánh thì liều chết vượt cả gió bão, chạy về đảo Cổ Cốt và sau đó lại về đảo Phú Quốc.
- Tại Phú Quốc, do bị tuyệt lương, tàn quân Nguyễn Ánh lại quyết chí đi tìm nơi nương thân khác. Chẳng dè, vừa xuất đầu lộ diện đã bị quân Tây Sơn vây đánh tới tấp. Không còn con đường nào khác, Nguyễn Ánh phải chạy thẳng ra ngoài khơi, lênh đênh trên biển bảy ngày bảy đêm mới lui về được Phú Quốc.
- Thấy Phú Quốc không phải là đất dung thân, Nguyễn Ánh lại bí mật quay về Long Xuyên, nhưng, chưa đến được Long Xuyên đã bị tướng của Nguyễn Huệ là Nguyễn Hóa chặn đánh quyết liệt. Nguyễn Ánh chạy ra Hòn Chông và sau đó lại chạy đến đảo Thổ Châu, cách đất liền những hơn 200 cây số. Cuối cùng, Nguyễn Ánh đã chạy sang cầu cứu Xiêm La.
Đến đây, những nhiệm vụ chính yếu đặt ra cho cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ năm đã hoàn thành. Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ rút quân về Quy Nhơn, việc coi giữ đất Gia Định được giao cho tướng Trương Văn Đa đảm trách. Đánh giá về Nguyễn Huệ trong và sau cuộc tấn công này, một học giả phương Tây là Legrand de la Liraye viết:
“Bằng việc giải phóng đất Gia Định, Long Nhương Tướng Quân (chỉ Nguyễn Huệ - NKT) đã hoàn toàn làm chủ được cả xứ Đàng Trong. Ông không phải chỉ là tướng giỏi cầm quân mà còn là một nhà chính trị xuất sắc, tức là khác hẳn với những vị tướng mà trước đó Nguyễn Nhạc đã cử vào. Ông nắm được cả vùng Gia Định trong tay bằng những đồn lũy nằm án ngữ khắp các nẻo thủy bộ với một kỷ luật nghiêm minh và một lòng nhân từ với nhân dân”8
Thực tiễn sinh động của cuộc tấn công vào Gia Định lần thứ năm đã chứng tỏ rằng, Nguyễn Huệ là người vừa rất có tài quyết đoán lại vừa biết triệt để tận dụng những yếu tố thuận lợi của thời tiết và chế độ thủy văn, khiến cho cả thế và lực của quân đội Tây Sơn trong từng trận đánh cụ thể được tăng lên gấp bội. Do liên tiếp bị đại bại thảm hại, trong bước đường cùng, Nguyễn Ánh đã chạy sang cầu cứu Xiêm La, tức là đã đi từ chỗ hại dân đến chỗ phản quốc.
__________________________________
1. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 13). Hồ Văn Lân người huyện Kiến Đăng, nay thuộc tỉnh Tiền Giang.
2. Quân giỏi ở núi rừng lo giúp nước.
3. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 6).
4. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 13). Bộ sử này cho biết Dương Công Trừng bị bắt trước sau tổng cộng hai lần và đến lần thứ hai thì bị giết.
5. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 7 và quyển 13).
6. Mạc Bắc nay thuộc tỉnh Trà Vinh.
7. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 4). Các bộ sách khác như Gia Định thành thông chí của Trịnh Hoài Đức và Đại Nam thực lục của Quốc Sử Quán Triều Nguyễn cũng chép tương tự.
8. Legrand de la Liraye: Notes historiques sur la nation annamite. Sài Gòn. 1865, P. 95
6. Tổng chỉ huy trận quyết chiến chiến lược ở Rạch Gầm - Xoài Mút (năm 1785: năm 32 tuổi), đập tan 5 vạn quân xâm lược Xiêm La và trừng trị đích đáng hành vi phản dân, hại nước của Nguyễn Ánh
Đôi điều về quân xâm lược Xiêm La
Khi quân Tây Sơn liên tiếp tổ chức những cuộc tấn công vào Gia Định thì ở Xiêm La, tình hình chưng cũng rất bi đát. Bấy giờ, quân Miến Điện liên tiếp tấn công Xiêm La, và giai cấp thống trị của Xiêm La đã tỏ ra rất bạc nhược, không đủ tinh thần và ý chí, càng không đủ uy tín và năng lực để lãnh đạo sự nghiệp chống xâm lăng. Quân Miến Điện đã chiếm được kinh đô của Xiêm La lúc đó là Ayuthaya và tàn phá đất Xiêm La một cách khủng khiếp.
Trước hiểm họa đó, người Xiêm La và những kiều dân làm ăn sinh sống trên đất Xiêm La đã đồng tâm hợp lực để tổ chức cuộc kháng chiến chống Miến Điện. Trong cuộc chiến đấu ngoan cường ấy, một nhân vật đặc biệt đã nổi lên, đó là Tak Sin. Tak Sin cũng tức là Phìa Tak, là Trịnh Tân, Phi Nhã Tân hay Trịnh Quốc Anh, xuất thân là một t nhân gốc Trung Quốc. Ông đã lãnh đạo nhân dân Xiêm La đánh tan quân Miến Điện và nhờ có công lao đặc biệt này, sau chiến thắng, Trịnh Quốc Anh được tôn lên ngôi vua (1767 - 1782) của Xiêm La.
Trong những năm trị vì của Trịnh Quốc Anh, Xiêm La đã phục hưng khá nhanh. Từ vị trí của một nước luôn bị các thế lực cát cứ hoành hành, Xiêm La đã trở thành một vương quốc có chính quyền tập trung chuyên chế vững mạnh. Từ tư thế của một nước bị tấn công xâm lược triền miên, Xiêm La trở thành kẻ đi tấn công xâm lược nước khác. Nhưng, về cuối đời, Trịnh Quốc Anh đã mắc phải hai ác tật. Một là bị bệnh phong (dân gian gọi là bệnh cùi), vì thế, sử vẫn gọi Trịnh Quốc Anh là phong vương (ông vua bị bệnh phong) và hai là bị bệnh điên, cho nên, sử cũng gọi ông là cuồng vương (ông vua bị bệnh điên).
Sau khi đã củng cố được địa vị của mình trên vũ đài chính trị Xiêm La, Trịnh Quốc Anh đã xua quân sang tấn công xâm lược Chân Lạp. Viên tướng được Trịnh Quốc Anh trao phó trọng trách cầm quân sang Chân Lạp là Chakkri (sử ta phiên âm là Chất Tri). Bấy giờ, đất đai của Chân Lạp đã bị thu hẹp, nội bộ của Chân Lạp lại mất đoàn kết nghiêm trọng, vì thế, Chakkri đã thành công khá dễ dàng. Nhưng, khi Chakkri đang lập công ở Chân Lạp thì ở Xiêm La, Trịnh Quốc Anh không còn có thể tiếp tục làm vua như cũ nữa. Chakkri đã đem quân về, lật đổ Trịnh Quốc Anh và làm vua Xiêm La kể từ năm 17822.
Với Chakkri, cuộc khủng hoảng nhất thời của Xiêm La nhanh chóng chấm dứt và Xiêm La phát đạt hơn hẳn thời trị vì của Trịnh Quốc Anh. Chính sách bành trướng của Xiêm La chẳng những được tiếp tục duy trì mà còn được đẩy mạnh. Quân đội của Chakkri đã hoành hành khắp các nước trên bán đảo Đông Dương.
Tập đoàn Nguyễn Ánh chạy sang cầu cứu Xiêm La vào năm 1783, tức là năm trị vì của Chakkri - nhà vua cũng đồng thời là viên tướng khét tiếng nhất của Xiêm La lúc bấy giờ. Nói khác hơn, đối thủ mới của nghĩa quân Tây Sơn là rất đáng gờm.
Ngay sau khi nhận được lời cầu cứu của Nguyễn Ánh, đầu năm Giáp Thìn (1784), Chakkri đã quyết định mượn cớ giúp Nguyễn Ánh đánh Tây Sơn để xua quân sang xâm lược nước ta. Hai người cháu, cũng là hai viên tướng cao cấp của Chakkri là Chiêu Tăng và Chiêu Sương được lệnh làm tổng chỉ huy cuộc xâm lăng này. Lực lượng quân thủy bộ của Xiêm La được huy động đến năm vạn tên3. Đi cùng với quân Xiêm La và sát cánh chiến đấu với quân Xiêm La còn có hàng ngàn quân bản bộ của Nguyễn Ánh. Chiêu Tăng và Chiêu Sương chia quân làm hai đạo cùng tiến sang nước ta.
- Đạo thứ nhất là đạo thủy binh gồm khoảng hai vạn tên4 do chính Chiêu Tăng và Chiêu Sương trực tiếp cầm đầu, vượt vịnh Xiêm La và tràn vào nước ta qua ngả Kiên Giang ngày nay.
- Đạo thứ hai là đạo bộ binh gồm khoảng ba vạn tên5, do các tướng Lục Côn, Sa Uyển và Chiêu Thùy Biện6 chỉ huy, băng qua đất Chân Lạp rồi tràn vào nước ta qua ngả An Giang ngày nay.
Xét về tương quan, năm vạn quân là một lực lượng rất to lớn so với thực lực của Tây Sơn. Sức mạnh của năm vạn quân đó càng đáng sợ hơn, khi chúng nắm được cơ sở xã hội nguy hiểm từ bên trong là tập đoàn Nguyễn Ánh. Nhưng, vượt lên trên tất cả, khó khăn hàng đầu của Tây Sơn lúc này không phải là vũ lực của đối phương mà là ở chỗ, liệu Tây Sơn có đủ sức để tự phá bỏ giới hạn chật hẹp của một phong trào nông dân để đảm đương sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc hay không. Và, vào đúng thời điểm nguy cấp này của đất nước, Tây Sơn đã kịp thời tự chuyển hóa một cách thật tuyệt vời, từ quân đội nông dân trở thành quân đội dân tộc, đúng như nhận xét của Đại Tướng Võ Nguyên Giáp.
_________________________________
1. Đại Nam thực lục (Chính biên, đệ nhất kỷ, quyển 3). Năm Giáp Thìn là năm 1784, nhưng trận Rạch Gầm - Xoài Mút diễn ra vào tháng chạp, nên tính theo dương lịch là năm 1785.
2. Hiện nay, quốc vương của Thái Lan cũng chính là hậu duệ của Chakkri.
3. Chính sử của triều Nguyễn chỉ nói hai vạn, nhưng, biên niên sử của Chân Lạp và đặc biệt là Mạc thị gia phả lại nói là năm vạn.
4. Chính sử triều Nguyễn chỉ nói tới đạo quân này.
5. Mạc thị gia phả.
6. Chiêu Thùy Biện nguyên là đại thần của Chân Lạp đầu hàng Xiêm La. Tên của viên đại thần này cũng có thể phiên âm là Chiêu Thùy Bèn, Chiêu Thùy Bẹn.
Nguyễn Huệ với công cuộc chuẩn bị tiêu diệt quân xâm lược Xiêm La
Như trên đã nói, năm 1783, sau khi đã đập tan những cố gắng cuối cùng của Nguyễn Ánh và ráo riết truy đuổi, buộc Nguyễn Ánh phải chạy sang Xiêm La, Nguyễn Huệ và Nguyễn Lữ trở về Quy Nhơn. Đất Gia Định được giao cho Phò Mã Trương Văn Đa quản lĩnh. Khi Nguyễn Ánh rước quân Xiêm La về giày xéo đất nước, Trương Văn Đa đã có hai quyết định rất đúng đắn. Một là cử người về Quy Nhơn cấp báo cho bộ chỉ huy Tây Sơn và hai là chủ động tổ chức đánh chặn để cản bước tiến của quân Xiêm La.
Trương Văn Đa vừa tổ chức đánh chặn, vừa tỉnh táo bảo toàn lực lượng nhằm chuẩn bị cho trận đánh quyết định với quân Xiêm La. Với thực lực và cũng với tinh thần bao quát đó, quân Tây Sơn do Trương Văn Đa chỉ huy không thể có những trận giáp chiến lớn. Nhưng, hoạt động của Trương Văn Đa đã tạo nên được nhiều ảnh hưởng tốt đẹp rất lớn lao. Trước hết, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của giặc bị sụp đổ. Sau sáu tháng trời, quân Xiêm La và quân bản bộ của Nguyễn Ánh cũng chỉ mới chiếm được một vùng đất đại thể từ sông Tiền trở về Nam mà thôi.
Vào nước ta, quân Xiêm La ngày càng lộ rõ bộ mặt cướp nước của chúng. Điều này đã được chính Nguyễn Ánh thú nhận đầy đủ và rõ ràng trong bức thư viết bằng chữ Nôm gửi giáo sĩ J.Liot:
“Nay thì Xiêm binh đại tứ lỗ lược (tự do cướp giật - NKT), dâm nhân phụ nữ (cưỡng hiếp phụ nữ của người ta - NKT), lược nhân tài vật (cướp bóc tài sản của người ta - NKT), túng sát bất dung lão thiếu (giết bừa không tha già trẻ - NKT), vậy nên, Tây tặc binh thế nhật thịnh (thế của giặc Tây Sơn ngày một mạnh -NKT), Xiêm binh thế nhật suy (thế của quân Xiêm La ngày một suy - NKT)”1 .
Và, một khi bộ mặt cướp nước của quân xâm lăng đã bị phơi bày thì bản chất phản dân hại nước của cả tập đoàn Nguyễn Ánh cũng lộ rõ. Nhận thức chính trị của nhân dân Gia Định ngày càng chuyển hóa theo chiều hướng có lợi cho Tây Sơn. Ngay trong hàng ngũ của tập đoàn Nguyễn Ánh cũng có người quay giáo chống lại Nguyễn Ánh2.
Bấy giờ ở Quy Nhơn, ngay sau khi nhận được tin cấp báo của Phò Mã Trương Văn Đa, Bộ chỉ huy Tây Sơn liền quyết định cử Nguyễn Huệ vào Gia Định, trực tiếp lãnh đạo cuộc chiến đấu chống quân xâm lược Xiêm La và bè lũ tay sai Nguyễn Ánh. Tháng chạp năm Giáp Thìn (1784), Nguyễn Huệ đã có mặt tại Mỹ Tho3 với lực lượng từ Quy Nhơn vào gồm chủ yếu là thủy binh. Ngay lập tức, vùng đất này trở thành nơi đối đầu của hai lực lượng quân sự đối nghịch. Một là quân đội Tây Sơn do Nguyễn Huệ lành tổng chỉ huy đặt đại bản doanh tại Mỹ Tho và hai là quân xâm lược Xiêm La đặt đại bản doanh tại Trà Tân4.
Như trên đã nói, quân Xiêm La gồm tổng cộng khoảng năm vạn tên. Quân bản bộ của Nguyễn Ánh có khoảng từ ba tới bốn ngàn tên nữa. Đó là đội quân vừa đông vừa mạnh, được trang bị vào loại hiện đại nhất vùng Đông Nam Á lúc bấy giờ. Về phần mình, quân Tây Sơn có chừng vài vạn5. Tuy quân số có ít hơn nhưng trang bị thì cũng không phải là quá thua kém6.
Đến Mỹ Tho, nhận thấy Trà Tân là cứ điểm tập trung rất đông quân Xiêm, được canh phòng rất cẩn mật, vì thế, Nguyễn Huệ chủ trương nhử địch ra khỏi Trà Tân để đánh một trận sống còn với chúng. Và, Nguyễn Huệ đã đồng thời kết hợp một cách khôn khéo hai hoạt động hoàn toàn khác nhau.
Một là giả vờ xin giảng hòa với quân Xiêm để phân hóa nội bộ kẻ thù. Một tù binh người Chân Lạp đã được Nguyễn Huệ cử làm sứ giả, đem của cải đến đại bản doanh của quân Xiêm La và nói rằng:
“Tân triều (ý muốn chỉ Tây Sơn - NKT) và cựu triều (ý muốn chỉ tập đoàn Nguyễn Ánh - NKT) của nước chúng tôi giành đất và giành dân với nhau, chẳng thể nào dung tha cho nhau được. Nước chúng tôi cùng với Xiêm La xa xôi và cách trở, trâu ngựa không đánh hơi nhau được, chẳng hay là Vương Tử (chỉ Chiêu Tăng và Chiêu Sương - NKT) đến chốn này làm gì? Chi bằng hai nước chúng ta hãy hòa hiếu với nhau, xong việc, chúng tôi sẽ theo lệ tiến cống, như thế có phải là được lợi lâu dài không? Vậy việc cựu chúa (chỉ Nguyễn Ánh - NKT) của nước chúng tôi xin để mặc chúng tôi tự lo liệu, xin Vương Tử chớ bận tâm lo lắng việc giúp đỡ”7.
Chiêu Tăng và Chiêu Sương cũng là hai viên tướng lòng dạ rất nham hiểm, chúng muốn “tương kế tựu kế”, lợi dụng việc Nguyễn Huệ xin giảng hòa để do thám tình hình bố phòng của Tây Sơn. Về phần mình, Nguyễn Huệ cũng vờ như không hề hay biết, cứ “ngày ngày sai người sang mời quân Xiêm đến xem chiến thuyền và khoe bày mọi chiến cụ của mình. Khi quân Xiêm về thì tặng cho vóc lụa”8.Kết quả là Chiêu Tăng và Chiêu Sương ngày một hí hửng, vì cho là Nguyễn Huệ hao tiền tốn của mà vẫn mắc mưu, còn Nguyễn Ánh thì ngày một nghi kị Chiêu Tăng và Chiêu Sương. Mối bất hòa trong nội bộ kẻ thù bộc lộ cũng ngày một sâu sắc. Để xóa tan sự ngờ vực của Nguyễn Ánh, chính Chiêu Tăng đã có lần thề thốt rằng:
“Tôi phụng mệnh quốc vương mình đem quân vượt biển đến giúp, nay chưa phân thắng bại mà tôi lại tham của cải thì có khác gì thú phản chủ? Nếu vì hám lợi mà để thua trận, làm nhục đến quốc thể, thì làm sao tôi có thể trốn khỏi tội trời tru đất diệt? Xin chớ nghi ngờ”9.
Hai là, tranh thủ thời gian hòa hoãn rất ngắn ngủi nói trên, Nguyễn Huệ nhanh chóng bố trí trận địa để chuẩn bị quyết chiến với quân xâm lược. Đoạn sông Tiền, từ Rạch Gầm về đến cù lao Thới Sơn được chọn làm chiến trường chính. Lực lượng Tây Sơn được huy động đến ở đây gồm đủ cả thủy binh lẫn bộ binh, trong đó, thủy binh giữ vai trò quan trọng nhất. Dự tính của Nguyễn Huệ là sẽ tiêu diệt quân Xiêm La và quân bản bộ của Nguyễn Ánh bằng một trận mai phục: Chiến thuyền Tây Sơn được Nguyễn Huệ mai phục sẵn ở Rạch Gầm và ở rạch Xoài Mút, tức là ở nơi hoàn toàn bất ngờ đối với quân Xiêm La, bởi vì trước đó, chúng từng được phép tới nơi đóng quân của Nguyễn Huệ, từng có dịp qua lại nhiều lần trên chính đoạn sông này.
Điều không ngờ, cũng là rất không may cho quân Xiêm La là khi Nguyễn Huệ bố trí trận địa chắc chắn xong xuôi đâu đó rồi, chúng mới bắt đầu tấn công.
__________________________________
1. Thư của Nguyễn Ánh gửi J.Liot viết bằng chữ Nôm, đề ngày 25-1-1785 (năm ngày sau khi đại bại ở Rạch Gầm - Xoài Mút), do Lê Văn Duyệt sao chép và sau đó được L.Cadière giới thiệu trong Les Français aux services de Gia Long. (Bulletin des amis du vieux Huế, 1926).
2. Ví dụ trường hợp Lê Xuân Giác. Sử nhà Nguyễn đã xuyên tạc khi kết luận rằng, nhờ có tên phản thần Lê Xuân Giác bày mưu, Nguyễn Huệ mới có thể thắng trận.
3. Mỹ Tho nay là thành phố trực thuộc tỉnh Tiền Giang, nằm ở bờ Bắc sông Tiền. Đại Nam thực lục (Chính biên, đệ nhất kỷ, quyển 2) nói Nguyễn Huệ đến Gia Định vào tháng chạp năm Giáp Thìn (1784). Mạc thị gia phả cũng cho biết Nguyễn Huệ đến Gia Định vào khoảng thời gian tương tự như thế.
4. Trà Tân là tên rạch, cũng là tên cù lao. Rạch Trà Tân nằm ở bờ Bắc, chảy qua Hưng Lễ, Hưng Nhân rồi đổ ra sông Tiền. Cù lao Trà Tân nằm đối diện với cửa rạch Trà Tân. Cù lao Trà Tân cũng tức là cù lao Năm Thôn.
5. Đây là con số ước đoán của các nhà sử học hiện đại, chứ không phải là ghi chép của sử cũ.
6. Theo ghi chép của giáo sĩ Diego de Jumilla trong La révolte et la guerre des Tây Sơn (Bulletin de la Société des études Indochinoises.T.15.1940) thì Tây Sơn có khá nhiều đại bác do Hà Lan sản xuất.
7, 8, 9. Vũ Thế Dinh: Mạc thị gia phả.
Trận quyết chiến chiến lược Rạch Gầm - Xoài Mút (đêm ngày 19 rạng ngày 20 tháng 1 năm 1785)
Từ Trà Tân, Chiêu Tăng và Chiêu Sương vẫn thường xuyên nhận được tin báo rằng Nguyễn Huệ đóng quân ở Mỹ Tho, không hề thấy chuẩn bị đối phó gì cả, vì thế, chúng cứ hí hửng cho là kế lớn đã thành, chỉ cần bất ngờ cho quân đến tấn công thì nhất định sẽ giành đại thắng. Chính Chiêu Tăng đã nói với Nguyễn Ánh rằng:
“Giặc (chỉ Tây Sơn - NKT) rất tin tôi, cho nên, tất nhiên là sẽ không phòng bị. Ta nên nhân đó mà đánh ngay. Vậy, xin hẹn đến đêm mồng chín tháng này (tháng chạp năm Giáp Thìn, 1784 NKT), Quốc Vương (chỉ Nguyễn Ánh - NKT) hãy đem ngự binh đi trước xông vào binh thuyền của chúng, tôi và các tướng bản bộ sẽ đem tất cả chiến thuyền lớn nhỏ tiến theo, đánh phá chiến thuyền chắn ngang sông của giặc thì nhất định sẽ toàn thắng”1.
Thực ra, kẻ mắc mưu lại chính là Chiêu Tăng và Chiêu Sương. Nguyễn Huệ đã bí mật bố trí một trận đồ mai phục để chờ đợi chúng. Như trên đã nói, chiến thuyền của Nguyễn Huệ đã được giấu kín ở Rạch Gầm và ở Xoài Mút. Lực lượng khác của Nguyễn Huệ cũng đã được sắp đặt sẵn ở hai bên bờ sông Tiền và ở cù lao Thới Sơn. Những gì mà quân Xiêm La thấy được chỉ là bộ phận làm nhiệm vụ nghi binh mà thôi.
Rạch Gầm tức Sầm Giang, ngày nay tuy chỉ là một con rạch khá lớn, nhưng hơn hai trăm năm trước lại là một con sông, chiến thuyền cỡ lớn có thể dễ dàng qua lại. Rạch gầm bắt nguồn từ Giồng Trôm (Bến Tre) rồi đổ ra sông Tiền.
Xoài Mút tức Xoài Hột, lại còn có tên khác nữa là sông An Đức. Ngày nay, Xoài Mút là một con rạch nhỏ, nhưng cách đây hơn hai trăm năm, Xoài Mút khá lớn, chiến thuyền có thể qua lại dễ dàng. Xoài Mút cũng là một trong những hợp lưu của sông Tiền.
Cù lao Thới Sơn nằm ở giữa sông Tiền, án ngữ cửa rạch Xoài Mút và cách Mỹ Tho không bao xa. Đây là một cù lao thuộc loại lớn, đủ để Nguyễn Huệ có thể bố trí bộ binh và đại bác, chặn đứng cuộc tấn công của Chiêu Tăng và Chiêu Sương lên Mỹ Tho. Như vậy, Rạch Gầm, Xoài Mút và cù lao Thới Sơn được Nguyễn Huệ sử dụng như ba vị trí then chốt, vừa chặn đầu, vừa khóa đuôi, dồn đối phương vào thế bị bao vây và bị tấn công tiêu diệt, không cách gì chống đỡ nổi.
Ngoài ra, ở Rạch Rau Răm (một vị trí nằm giữa Rạch Gầm với cù lao Trà Tân hay cù lao Năm Thôn), Nguyễn Huệ còn bố trí một đơn vị thủy binh nhỏ, đại để cũng như là chốt tiền tiêu của quân đội Tây Sơn. Trước khi đến Mỹ Tho, quân Xiêm La buộc phải đi qua vị trí này.
Đêm ngày 19 rạng ngày 20 tháng 1 năm 17852 Chiêu Tăng và Chiêu Sương hạ lệnh tấn công vào đại bản doanh của Nguyễn Huệ ở Mỹ Tho. Quân bản bộ của Nguyễn Ánh gồm khoảng ba bốn ngàn tên, bị Chiêu Tăng và Chiêu Sương đẩy đi trước. Nhưng, Nguyễn Ánh không tin ở thắng lợi, vì thế, đã cố tìm cách đi sau. Một số bề tôi thân tín như Trần Phúc Giai3, Nguyễn Văn Bình4 và Lê Văn Duyệt5... được bố trí đi cùng để hộ vệ Nguyễn Ánh. Như thế vẩn chưa đủ, Nguyễn Ánh còn sai Mạc Tử Sinh6 bí mật bố trí một lối thoát dành riêng cho Nguyễn Ánh để đề phòng khi có chuyện chẳng lành xảy ra.
Khi xuất quân ở Trà Tân, Chiêu Tăng và Chiêu Sương gặp thuận lợi vì thủy triều đang rút, chiến thuyền của chúng cứ xuôi theo dòng nước mà tiến7. Chúng qua chốt tiền tiêu của Tây Sơn ở Rạch Rau Răm một cách dễ dàng bởi ở đó chỉ còn một bộ phận nhỏ của Tây Sơn làm nhiệm vụ nghi binh mà thôi8. Giặc hùng hổ tiến về Mỹ Tho, nhưng, khi khoảng ba trăm chiến thuyền của chúng lọt vào khoảng giữa Rạch Gầm và Xoài Mút thì thủy triều bắt đầu lên, lợi thế xuôi dòng của chúng không còn nữa9. Và, đúng lúc đó, từ Rạch Gầm, từ Xoài Mút, từ cù lao Thới Sơn và từ hai bên bờ sông Tiền, lực lượng thủy bộ của Tây Sơn đồng loạt tấn công. Ngay từ phút giao tranh đầu tiên, hỏa lực của Tây Sơn đã giành được thế áp đảo. Nguyễn Huệ trực tiếp ra đốc chiến và hạ lệnh đánh đến cùng, “vì thế, tướng sĩ đều liều chết, không nghĩ gì đến tính mệnh, tấn công rất mãnh liệt”10. Mọi cố gắng chống cự của Chiêu Tăng và Chiêu Sương đều bị đập tan. Chiến thuyền của giặc, thứ bị thiêu trụi, thứ bị nhận chìm. Quân giặc số bị trúng tên đạn, số bị chém, số khác lại chết đuối giữa sông... Hàng ngàn tên cố liều chết vượt lên bờ thì bị bắt sống. Chỉ trong vòng chưa đầy một ngày, toàn bộ quân Xiêm La và quân bản bộ của Nguyễn Ánh đã đại bại. Chiêu Tăng phải liều chết mở đường máu, bỏ cả thuyền mà chạy bộ sang Chân Lạp mới may mắn thoát chết.
Mờ sáng hôm sau, khi nghe tiếng đại bác liên tục nổ từ xa, Mạc Tử Sinh đang tràn đầy hi vọng là sẽ có tin chiến thắng, thì bỗng thấy Nguyễn Ánh cùng các tướng thân tín hốt hoảng chạy đến. Mạc Tử Sinh vội vã lấy thuyền chở Nguyễn Ánh trốn đi xa.
Chiêu Tăng và Chiêu Sương cùng đám tàn quân chạy sang đất Chân Lạp, tạm hoàn hồn mới điểm lại thì thấy năm vạn quân thủy bộ chỉ còn lại hơn một vạn tên nữa mà thôi11. Vua Xiêm La là Chakkri tức giận nói rằng: “Hai tên súc sinh là Chiêu Tăng và Chiêu Sương làm việc kiêu căng và hung hãn, vào sâu trong đất giặc (chỉ Tây Sơn - NKT) mà không vâng lệnh quốc vương, tàn hại dân của họ”12. Ngay sau khi nghe tin Chiêu Tăng và Chiêu Sương bại trận Chakkri vội vã sai tướng Phi Nhã Xuân đem thêm 10 chiến thuyền đi cứu nguy. Nhưng, Phi Nhã Xuân vừa xuất quân thì đã thấy tàn quân của Chiêu Tăng và Chiêu Sương đang hốt hoảng chạy về. Chúng nói với Phi Nhã Xuân rằng:
“Chủ tướng Chiêu Tăng và Chiêu Sương đại bại, đã theo đường bộ, băng qua Chân Lạp mà chạy. Chúng tôi bị thua ở sau, chẳng biết họ sống chết thế nào, may cướp được thuyền của dân mà thoát được về đây”13.
Quân bản bộ của Nguyễn Ánh cũng cùng chung số phận. Nguyễn Ánh được Mạc Tử Sinh đón chạy trước, về đến đất Hà Tiên, quân sĩ tùy tùng của Nguyễn Ánh chết còn 200 tên. Và, chưa kịp nghỉ chân đã bị Tây Sơn truy đuổi. Nguyễn Ánh đã phải bỏ Hà Tiên chạy ra đảo Thổ Châu, đảo Cổ Cốt và sau cùng là chạy sang Xiêm La. Đó là một cuộc tháo chạy nhục nhã nhất trong cuộc đời của Nguyễn Ánh. Đã có lúc vì cạn lương ăn, tướng của Nguyễn Ánh là Nguyễn Văn Thành phải đi ăn cướp, chẳng dè, bị đánh trọng thương, xuýt chết.
Rạch Gầm - Xoài Mút là một trong những trận quyết chiến chiến lược tuyệt vời của lịch sử dân tộc. Với Rạch Gầm - Xoài Mút”, Nguyễn Huệ đã có công viết nên khúc tráng ca đầu tiên về sự nghiệp chống xâm lăng của nhân dân Gia Định. Với Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Huệ đã có công làm phong phú thêm kho tàng khoa học quân sự của tổ tiên ta. Cũng với Rạch Gầm - Xoài Mút và từ Rạch Gầm - Xoài Mút, phong trào Tây Sơn chuyển hẳn sang một giai đoạn hoàn toàn mới, giai đoạn đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược khác nhau: vừa không ngừng mở rộng quy mô và phạm vi của cuộc đấu tranh chống giai cấp phong kiến thống trị tàn bạo trong cả nước, vừa dũng cảm vươn lên đảm nhận sứ mệnh bảo vệ độc lập dân tộc. Nói khác hơn, với Rạch Gầm - Xoài Mút và từ Rạch Gầm - Xoài Mút, giai đoạn hào quang rực rỡ nhất của Tây Sơn bắt đầu.
______________________________________
1, 10, 11, 12, 13. Vũ Thế Dinh: Mạc thị gia phả.
2. Mạc thị gia phả chép là đêm canh năm, đêm mồng chín tháng chạp năm Giáp Thìn (đêm 19, rạng 20 tháng 1 năm 1785). Bức thư của Nguyễn Ánh gửi giáo sĩ J.Liot thì nói là đêm mồng tám tháng chạp năm Giáp Thìn (tức là đêm 18 rạng ngày 19 tháng 1 năm 1785). Phần lớn các nhà sử học Việt Nam hiện đại đều lấy theo ngày ghi trong Mạc thị gia phả.
3. Trần Phúc Giai người Vĩnh Bình (nay thuộc Trà Vinh).
4. Nguyễn Văn Bình hiện chưa rõ lai lịch.
5. Lê Văn Duyệt (1763-1832) người gốc Quảng Ngãi, sinh trưởng tại Rạch Gầm (nay thuộc Tiền Giang).
6. Mạc Tử Sinh người Hà Tiên (Kiên Giang), dòng dõi của Mạc Cửu.
7. Nguyễn Ngọc Thụy: Nước triều và dòng triều trong Chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút (Báo cáo khoa học đọc tại Hội nghị khoa học nhân kỷ niệm 200 năm ngày chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút. Tiền Giang xuất bản, 1985.
8. Truyền thuyết dân gian địa phương kể rằng, Nguyễn Huệ đã huy động nhân dân Tiền Giang và Bến Tre đóng góp vỏ trái dừa khô, xong, vẽ thành mặt người và chất đầy thuyền. Giặc bắn vào, vỏ dừa khô nổi bập bềnh trên nước, khiến chúng tưởng là “chém giết không biết bao nhiêu mà kể”.
9. Nguyễn Ngọc Thụy. Tài liệu đã dẫn.
Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
NGUYỄN HUỆ (1753 - 1792)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
07. Tổng chỉ huy trận tấn công tiêu diệt lực lượng quân Trịnh ở Phú Xuân (năm 1786: năm 33 tuổi), giải phóng vùng đất cuối cùng của xứ Đàng Trong
Sau chiến thắng Rạch Gầm - Xoài Mút, Nguyễn Huệ rút quân về Quy Nhơn và tại đây, chính Nguyễn Huệ vừa là người đề xuất ý kiến, lại cũng là người trực tiếp vạch kế hoạch và chỉ huy quân Tây Sơn tấn công vào lực lượng quân Trịnh đang đóng ở vùng đất từ đèo Hải Vân trở ra, trong đó, vị trí quan trọng nhất là Phú Xuân.
Như đã nói ở trên1, năm 1774, lợi dụng lúc chúa Nguyễn lúng túng bởi cuộc tấn công ồ ạt của Tây Sơn, chúa Trịnh đã sai Hoàng Ngũ Phúc đem ba vạn quân, vượt sông Gianh, đánh thẳng vào xứ Đàng Trong. Nhờ chủ trương khôn khéo của Bộ chỉ huy Tây Sơn, quân Hoàng Ngũ Phúc tạm dừng các cuộc tấn công vào Tây Sơn và sau cùng, chỉ chiếm đóng miền đất từ đèo Hải Vân trở ra mà thôi.
Tháng chạp năm Ất Mùi (1775), chúa Trịnh là Trịnh Sâm triệu Hoàng Ngũ Phúc về. Hai viên tướng cao cấp là Bùi Thế Đạt2 và Nguyễn Đình Đống3 được cử tới thay. Các văn thần như Phan Lê Phiên4, Uông Sĩ Điển5 và Nguyễn Lệnh Tân6 cũng được cử tới để giúp sức. Sau, chúa Trịnh là Trịnh Sâm còn phải tiếp hai văn thần nữa là Lê Quý Đôn7 và Nguyễn Mậu Dĩnh8, hi vọng sẽ sớm ổn định được tình hình ở vùng đất mới chiếm.
Tháng 8 năm Bính Thân (1776), tướng Phạm Ngô Cầu được Trịnh Sâm chỉ định làm Trấn Thủ, thay cho Bùi Thế Đạt. Tướng Hoàng Đình Thể9 cũng được lệnh đem quân đến đóng ở châu Bố Chính để sẵn sàng ứng cứu cho Phạm Ngô Cầu. Chỉ trong vòng vài ba năm, tình hình Thuận Hóa đã tạm ổn, các văn thần lần lượt được rút về Thăng Long. Các đồn lũy của quân Trịnh từ đèo Hải Vân trở ra được xây đắp rất chắc chắn. Tóm lại, việc tấn công ra Thuận Hóa không phải là dễ dàng đối với quân đội Tây Sơn.
Tuy nhiên, nếu quân Trịnh có thuận lợi là đồn lũy vững chắc, lại được đèo Hải Vân che chở ở phía Nam, thì quân Trịnh cũng có khó khăn, đó là nội bộ tướng lĩnh mất đoàn kết. Ngoài ra, chủ tướng của quân Trịnh ở Thuận Hóa lúc ấy là Phạm Ngô Cầu còn rất mê tín và tham lam. Chính những chỗ yếu kém này đã gây nên những tác hại không nhỏ.
Là người chịu trách nhiệm cao nhất trong cuộc tấn công vào Thuận Hóa, Nguyễn Huệ đã chuẩn bị một cách rất khẩn trương nhưng cũng rất chu tất. Việc đầu tiên mà Nguyễn Huệ quyết thực hiện bằng được là lập mưu dể chia rẽ kẻ thù. Chừng nào Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể còn chung lưng đấu cật với nhau, thì chừng đó, cuộc tấn công của Tây Sơn còn gặp nhiều khó khăn. Xuất phát từ nhận thức đó, Nguyễn Huệ đã nghĩ kế li gián Phạm Ngô Cầu với Hoàng Đình Thể. Nhân vật được Nguyễn Huệ chọn để thực hiện nhiệm vụ đặc biệt này là Nguyễn Hữu Chỉnh10. Năm 1774, khi Hoàng Ngũ Phúc được Trịnh Sâm sai đem ba vạn quân đánh vào xứ Đàng Trong, Nguyễn Hữu Chỉnh là thư kí riêng của Hoàng Ngũ Phúc. Chính Hoàng Ngũ Phúc đã sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem sắc phong, ấn, kiếm và cờ hiệu Tây Sơn Hiệu Trưởng Tiên Phong Tướng Quân ban cho Nguyễn Nhạc. Tháng 12 năm 1775, khi Hoàng Ngũ Phúc được triệu về Thăng Long, Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đi theo. Đầu năm 1776, Hoàng Ngũ Phúc mất, Nguyễn Hữu Chỉnh theo hầu Hoàng Đình Bảo11. Hoàng Đình Bảo cũng tức là Hoàng Đăng Bảo, Hoàng Tố Lý, được phong tới tước Quận Công, cho nên, sử cũ thường gọi ông là Quận Huy. Quận Huy là con rể của chúa Trịnh Doanh (1740-1767), vì thế, Quận Huy rất được chúa Trịnh Sâm (1767-1782) và đặc biệt là vợ của Trịnh Sâm (bà Đặng Thị Huệ) sủng ái12. Năm 1782, Hoàng Đình Bảo bị kiêu binh nổi loạn giết chết. Nguyễn Hữu Chỉnh bơ vơ vì không còn biết nương tựa vào ai, bèn chạy vào Nghệ An. Cùng chạy loạn một lần với Nguyễn Hữu Chỉnh còn có tướng Hoàng Viết Tuyển13. Đến Nghệ An, Nguyễn Hữu Chỉnh bàn với Võ Tá Dao14 là tướng Trấn Thủ ở đấy một kế hoạch làm phản khá táo bạo, nhưng thấy Võ Tá Dao chần chừ nên Nguyễn Hữu Chỉnh và Hoàng Viết Tuyển vội chạy vào Quy Nhơn, xin đầu hàng Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc rất mừng vì chẳng đánh mà vẫn bắt được tướng của họ Trịnh, chẳng mất công sai người đi do thám mà vẫn nắm được khá tỉ mỉ tình hình của Đàng Ngoài. Nguyễn Nhạc giao Nguyễn Hữu Chỉnh cho Nguyễn Huệ và đến đây thì Nguyễn Hữu Chỉnh được Nguyễn Huệ dùng vào việc li gián Phạm Ngô Cầu với Hoàng Đình Thể. Bấy giờ, Nguyễn Hữu Chỉnh được lệnh viết thư bí mật hẹn với Hoàng Đình Thể về việc Hoàng Đình Thể sẽ xin quy hàng Tây Sơn, nhưng, bức thư ấy lại vờ để cho Phạm Ngô Cầu bắt được. Từ đó, Phạm Ngô Cầu luôn nghi ngờ Hoàng Đình Thể.
________________________________
1. Xin vui lòng tham khảo thêm mục 3-Giai đoạn thứ hai: Khởi nghĩa và chiến đấu quyết liệt ở xứ Đàng Trong (thuộc phần II của Chương thứ hai.)
2. Bùi Thế Đạt người làng Tiên Lý, huyện Đông Thành, nay thuộc Nghệ An.
3. Nguyễn Đình Đống người làng Hương Duệ, huyện Kỳ Anh, nay thuộc Hà Tĩnh.
4. Phan Lê Phiên (1735-1809) người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, nay là thôn Đông Ngạc, xã Đông Ngạc, huyện Từ Liêm (Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1757.
5. Uông Sĩ Điển người làng Vũ Nghị, huyện Thanh Lan, nay là xã Thái Hưng, huyện Thái Thụy, tỉnh Thái Bình, đỗ Tiến Sĩ năm 1766.
6. Nguyễn Lệnh Tân người làng Phù Lê huyện Thụy Nguyên, nay là xã Thiệu Thịnh, huyện Thiệu Yên, tỉnh Thanh Hóa, đỗ Tiến Sĩ năm 1763.
7. Lê Quý Đôn (1726-1784) người làng Diên Hà, huyện Diên Hà, nay là xã Độc Lập, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình, đỗ Bảng Nhãn năm 1752.
8. Nguyễn Mậu Dĩnh hiện chưa rõ lai lịch.
9. Hoàng Đình Thể người làng Hà Thượng, huyện Hậu Lộc, nay thuộc Thanh Hóa, đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
10. Nguyễn Hữu Chỉnh người làng Động Hải, huyện Chân Phúc, nay là huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
11. Hoàng Đình Bảo người làng Phụng Công, huyện Yên Dũng, nay thuộc tỉnh Bắc Giang.
12. Hoàng Đình Bảo về sau có lúc bị Trịnh Sâm ghét bỏ nhưng đó chỉ là nhất thời, còn Đặng Thị Huệ thì đặc biệt sủng ái Hoàng Đình Bảo.
13. Hoàng Viết Tuyển người làng Vạn Phân, huyện Đông Thành, nay thuộc Nghệ An.
14. Võ Tá Dao người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay thuộc xã Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh.
Điều không may cho Phạm Ngô Cầu là cũng vào lúc bấy giờ, Phạm Ngô Cầu có cử Nguyễn Phu Như1 đến Quy Nhơn, mượn tiếng trao đổi về biên giới để dò la tin tức, nhưng, chính Nguyễn Phu Như lại khuyên các lãnh tụ Tây Sơn nên sớm đem quân ra đánh lấy Thuận Hóa. Cũng qua Nguyễn Phu Như, Nguyễn Huệ biết rõ Phạm Ngô Cầu là kẻ rất mê tín, vì thế, một nhân vật khác2 được đóng giả vai thầy coi tướng số từ xa tới để coi tướng số cho Phạm Ngô Cầu. Và, theo lời khuyên của thầy coi tướng số này, Phạm Ngô Cầu đã lập đàn tràng cúng tế rất trọng thể tại chùa Thiên Mụ.
Đúng lúc nội bộ các tướng lĩnh của quân Trịnh đang mâu thuẫn với nhau, và cũng đúng lúc Phạm Ngô Cầu đang lo cúng tế thì quân Tây Sơn chia làm ba đạo, nhất loạt đánh vào Thuận Hóa.
Đạo thứ nhất là đạo thủy binh do Nguyễn Lữ chỉ huy, từ Quy Nhơn, vượt biển tiến thẳng ra cửa sông Gianh3 rồi từ đó đánh vào Phú Xuân4.
Đạo thứ hai cũng là đạo thủy binh do Vũ Văn Nhậm cần đầu từ Quy Nhơn, vượt biển, đánh vào Phú Xuân, cầm chân quân Trịnh ở Phú Xuân để sau đó là phối hợp với đạo quân của Nguyễn Huệ, san bằng căn cứ này.
Đạo thứ ba là đạo bộ binh do đích thân Nguyễn Huệ chỉ huy. Đạo quân này băng qua đèo Hải Vân, đánh vào căn cứ của quân Trịnh ở đèo Hải Vân, ở Phú Xuân và sau đó là ở Dinh Cát5.
Tháng 4 năm Bính Ngọ (1786), ba đạo quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ làm Tổng chỉ huy đồng loạt xuất phát. Diễn biến chung của trận đánh này được sử cũ ghi chép ngắn gọn như sau:
“Tướng giữ đồn (ở Hải Vân) là Hoàng Nghĩa Hồ6 đem quân ra đánh, bị thiệt mạng. Nguyễn Huệ nhân đà thắng lợi cho quân tiến thẳng ra Thuận Hóa. Bấy giờ, (Phạm) Ngô Cầu đương đặt đàn chay lớn, bỗng nhận được tin thì lúng túng, không biết đối phó cách nào cho phải. Trước đây, vì có bức thư li gián của Nguyễn Hữu Chỉnh, cho nên, Phạm Ngô Cầu và Hoàng Đình Thể vẫn ngờ vực lẫn nhau, quân sĩ cũng vì lẽ đó mà thành ra biếng nhác, nghi hoặc nhau và chẳng còn ý chí trận mạc gì nữa. Khi ấy thủy triều lên mạnh, giặc (chỉ quân Tây Sơn - NKT) nhất loạt tiến sát chân thành. Hoàng Đình Thể dốc quân bản bộ ra đánh, đạn dược và thuốc súng đều bị cạn nhưng Phạm Ngô Cầu vẫn đóng kín cửa thành, không chịu ra cứu viện. (Hoàng) Đình Thể cùng hai con, một người tên là Hoàng Đình Vị, một người không rõ tên và một viên tì tướng là Võ Tá Kiên7 bám lấy thành lũy để dàn trận. Họ đã đem hết sức ra đánh trả. Hai người con (của Hoàng Đình Thể) cưỡi ngựa xông ra, nhưng ngựa bị què, phải chạy bộ mà đánh đều bị thương và chết tại trận. Cả Hoàng Đình Thể và Võ Tá Kiên cũng đều tử trận. Nguyễn Huệ lại cho quân ồ ạt tiến lên. Phạm Ngô Cầu mở cửa thành, cho xe chở quan tài ra để xin hàng8. Tướng giữ chức Đốc Thị của quân Trịnh là Nguyễn Trọng Đang9 chết trong đám loạn binh. Giặc (chỉ quân Tây Sơn-NKT) xông vào thành, chém giết không biết bao nhiêu mà kể. Cả thành có những hơn hai vạn tướng sĩ, rốt cuộc chỉ còn độ vài trăm người sống sót chạy về Bắc Hà được mà thôi. Các đồn như Dinh Cát và Động Hải10 nghe tin (Phú Xuân thất thủ) cũng lập tức tháo chạy”11.
Tấn công vào Phú Xuân, giải phóng toàn bộ vùng đất từ đèo Hải Vân ra đến sông Gianh là một trong những trận lớn của nghĩa quân Tây Sơn do Nguyễn Huệ làm tổng chỉ huy. Thắng lợi của cuộc tấn công này đã tạo ra điều kiện hết sức thuận lợi để Tây Sơn tiếp tục mở rộng quy mô của cuộc đấu tranh trên phạm vi cả nước.
____________________________________
1. Nguyễn Phu Như hiện chưa rõ lai lịch.
2. Không thấy sử chép họ tên của nhân vật này.
3. Sông Gianh ở Quảng Bình.
4. Phú Xuân nay là Huế.
5. Dinh Cát ở phía Bắc thị xã Quảng Trị, cách thị xã tỉnh Quảng Trị khoảng hai cây số.
6. Hoàng Nghĩa Hồ người làng Hoàng Nghĩa, huyện Hưng Nguyên (nay thuộc Nghệ An), đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
7. Võ Tá Kiên người làng Hà Hoàng, huyện Thạch Hà, nay là xã Thạch Môn, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh, đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
8. Ý muốn tỏ ra rằng xin nạp mạng chịu chết.
9. Nguyễn Trọng Đang người làng Trung Cần, huyện Thanh Chương, nay là thôn Trung Cần, xã Nam Thanh, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, đỗ Tiến Sĩ năm 1769.
10. Động Hải nay thuộc Lệ Thủy, tỉnh Quảng Bình.
11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 46, tờ 15 và 16).
8. Tổng chỉ huy cuộc tấn công ra Đàng Ngoài (năm 1786: năm 33 tuổi), xóa bỏ biên giới sông Gianh, lật nhào cơ đồ thống trị gây dựng trên 200 năm của chúa Trịnh
Thắng lợi của Nguyễn Huệ trong cuộc tấn công vào đất Thuận Hóa đã gây được tiếng vang rất lớn. Bấy giờ, thấy quân sĩ thất trận hoảng hốt chạy về, tướng chỉ huy quân Trịnh ở vùng bờ Bắc sông Gianh là Ninh Tốn1 cũng vội vã lui quân. Thế của quân Tây Sơn nhanh chóng tăng lên gấp bội. Nhân đó, hàng tướng Nguyễn Hữu Chỉnh liền bàn với Nguyễn Huệ nên đánh thẳng ra Đàng Ngoài. Và, sử cũ đã chép lại cuộc đối thoại khá đặc biệt giữa Nguyễn Hữu Chỉnh với Nguyễn Huệ như sau:
“(Nguyễn) Huệ đánh bại (Phạm) Ngô Cầu, nhân đà thắng lợi, đánh ra cả vùng Đông Hải2. Viên tướng giữ chức Trấn Thủ ở đấy là Ninh Tốn liền bỏ thành mà chạy. (Nguyễn) Huệ liền sửa sang đồn lũy ở sông La3, ý muốn chia ranh giới để chống giữ. Khi ấy, (Nguyễn Hữu) Chỉnh đến nói với (Nguyễn) Huệ rằng:
- Tướng quân chỉ một lần xuất chinh đã bình định được xứ Thuận Hóa, uy danh lừng lẫy vang động đến tận Bắc Hà4. Về phép dụng binh, thì quan trọng nhất là thời, thứ hai là thế và thứ ba là cơ hội. Ba điều ấy mà lợi dụng được thì đến đâu cũng thắng cả. Nay ở Bắc Hà, tướng thì lười, quân thì kiêu, ta nhân thế đang đại thắng mà đánh tới, tức là chiếm lấy nước đã suy, kiêm tinh nước đang loạn, thu về nước sắp mất. Thời ấy, cơ hội ấy, thiết nghĩ là không nên bỏ qua.
Nguyễn Huệ nói:
- Bắc Hà là nơi lắm nhân tài, há đâu dám coi thường? (Nguyễn) Hữu Chỉnh đáp:
- Nhân tài Bắc Hà duy chỉ có một mình Chỉnh này mà thôi. Nay Chỉnh đi rồi, đâu còn ai nữa? Xin tướng công chớ ngờ.
(Nguyễn) Huệ cười, nói rằng:
- Người khác không đáng ngờ, có chăng chỉ là ông thôi.
(Nguyễn Hữu) Chỉnh tái mặt, từ tạ mà nói rằng:
- Chỉnh này cũng tự thấy mình là kẻ ngu hèn, nói quá như thế cũng chỉ cốt tỏ rằng đất Bắc Hà không có người tài đó thôi.
(Nguyễn) Huệ nói sang chuyện khác, cốt để an ủi (Nguyễn Hữu) Chỉnh:
- Nước có cơ nghiệp lâu dài những mấy trăm năm, nay nếu một sớm một chiều mà ta mang quân ra đánh lấy thì thiên hạ sẽ gọi đạo quân của ta là đạo quân gì?
(Nguyễn Hữu) Chỉnh nói:
- Nay ở Bắc Hà đã có Đế lại còn có Vương, đó là tai họa từ lâu để lại. Họ Trịnh tiếng là tôn phò Hoàng Đế họ Lê nhưng thực là hiếp chế quá lắm. Người trong nước không tuân phục đã lâu rồi, nhưng sở dĩ chưa dám hành động là do chưa có thời và thế đó thôi. Tướng quân nên mượn tiếng phù Lê diệt Trịnh để đem quân ra thì khắp thiên hạ không ai là không theo. Đó là cơ hội ngàn năm mới có một thuở.
(Nguyễn) Huệ nói:
- Ngươi nói rất phải. Nhưng còn như việc trái mệnh5 thì ta phải làm sao?
(Nguyễn Hữu) Chỉnh thưa:
- Kinh Xuân Thu dạy rằng, trái mệnh lệnh nhỏ mà lập được công lớn thì đó là công. Thế thì, vì việc lập công mà trái lệnh, phỏng có sợ gì? Vả chăng, tướng cầm quân ra trận thì dẫu có mệnh lệnh của vua cũng có quyền không theo, tướng công còn ngờ gì nữa?”6
Là người quả quyết lại có chí cả, sẵn gặp lời bàn của Nguyễn Hữu Chỉnh, Nguyễn Huệ liền nhân đà thắng lợi, cho quân ồ ạt tiến ra Đàng Ngoài. Trước khi xuất quân, Nguyễn Huệ cử Nguyễn Lữ ở lại trông coi xứ Thuận Hóa, đồng thời, sai người về Quy Nhơn báo cho Nguyễn Nhạc biết. Kế hoạch của Nguyễn Huệ là chia quân làm hai đạo, cùng dùng chiến thuyền để tiến ra Bắc.
- Đạo thứ nhất giao cho Nguyễn Hữu Chỉnh cầm đầu. Sở dĩ được trao trọng trách này vì Nguyễn Hữu Chỉnh vốn là người Đàng Ngoài rất quen thuộc đường đi lối lại cũng như sở trường và sở đoản của quân đội họ Trịnh. Nhiệm vụ của Nguyễn Hữu Chỉnh là tiến nhanh đến chiếm lĩnh vùng cửa sông Vị Hoàng và sau khi chiếm được thì đốt lửa làm hiệu.
- Đạo thứ hai do đích thân Nguyễn Huệ chỉ huy, cũng dùng chiến thuyền làm phương tiện hành quân nhưng đi sau đạo thứ nhất.
Khẩu hiệu hành quân của Nguyễn Huệ là Phù Lê diệt Trịnh. Tháng 6 năm Bính Ngọ (1786), quân Tây Sơn bắt đầu xuất phát. Trước đó, tin bại trận ở Thuận Hóa cứ liên tiếp truyền về, vì thế, tinh thần chung của quân Trịnh đã rất rệu rã. Quân Tây Sơn tiến thẳng một mạch qua các vùng như Nghệ An, Thanh Hóa và Ninh Bình ngày nay mà hầu như không gặp chút kháng cự nào đáng kể. Các tướng của chúa Trịnh như Bùi Thế Toại7, Tạ Danh Thùy8... vừa nghe tin Tây Sơn đến đã vội vàng bỏ chạy.
Đạo quân do Nguyễn Hữu Chỉnh chỉ huy đã nhanh chóng chiếm Vị Hoàng9 đúng như kế hoạch đã định. Theo ghi chép của sử cũ10 thì Tây Sơn đã thu được rất nhiều lương thực và thực phẩm, đủ để ung dung tổ chức cuộc tấn công có thể sẽ phải kéo dài vào khu vực đầu não của tập đoàn họ Trịnh.
____________________________________
1. Ninh Tốn (1744-1790) người làng Côi Trì, huyện Yên Mô, nay thuộc xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, đỗ Tiến Sĩ năm 1778. Sau, ông là người theo Tây Sơn.
2. Đông Hải nay thuộc huyện Nghi Lộc, tỉnh Nghệ An.
3. Sông La ở Hà Tĩnh.
4. Phía Bắc sông Gianh, tức là xứ Đàng Ngoài.
5. Ý nói Nguyễn Huệ chưa có mệnh lệnh của Nguyễn Nhạc.
6. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
7. Bùi Thế Toại là con của Bùi Thế Đạt. Ông người làng Tiên Lý, huyện Đông Thành (nay thuộc Nghệ An), đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
8. Tạ Danh Thùy là hoạn quan, người làng Khương Thượng, huyện Yên Mô (nay thuộc Ninh Bình).
9. Sông Vị Hoàng thuộc Trấn Sơn Nam, nay thuộc Nam Định.
10. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (hồi thứ 4).
Trong lúc đại quân của Nguyễn Huệ đang tiến như bay thì tại Thăng Long, phủ chúa Trịnh vẫn bối rối, không sao tìm ra được cách đối phó. Có người bàn rằng:
“Thuận Hóa vốn chẳng phải là đất đai của triều đình, trước kia phải tốn bao nhiêu công sức và của cải mới lấy được, mà rốt cuộc lại cũng chẳng có ích lợi gì. Bây giờ chỉ nên bàn cách đem quân đóng giữ Nghệ An mà thôi”1
Triều đình cho lời bàn ấy là phải, vì thế, chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Khải2 quyết định cử tướng Trịnh Tự Quyền3 làm Thống Tướng đem quân vào giữ đất Nghệ An và sẵn sàng đối địch với Tây Sơn. Nhưng, Trịnh Tự Quyền là kẻ nhát gan, mới nghe tiếng Tây Sơn đã khiếp vía, vì thế, cứ trù trừ mãi, không chịu tập hợp gấp binh mã để lên đường. Khi Nguyễn Huệ chiếm được Vị Hoàng thì Trịnh Tự Quyền mới ra khỏi kinh thành Thăng Long được ba mươi dặm!
Trước tình thế đó, Trịnh Khải buộc phải thay đổi kế hoạch. Trịnh Tự Quyền được lệnh đem quân đến Kim Động4 để sẵn sàng đón đánh Tây Sơn. Tướng Đỗ Thế Dận5 nguyên là Trấn Thủ trấn Sơn Nam đem tất cả quân bản bộ đến đóng tại bãi Phù Sa6. Tướng Đinh Tích Nhưỡng7 thì chỉ huy thủy quân, đến giữ cửa sông Luộc8. Trịnh Tự Quyền, Đỗ Thế Dận và Đinh Tích Nhưỡng phải sắp đặt đường dây liên lạc và luôn luôn sẵn sàng trong tư thế phối hợp để ứng cứu lẫn nhau. Tóm lại, quyết chí của Trịnh Khải không phải là nhỏ, mưu lược của Trịnh Khải cũng không phải là thấp. Nhưng, quyết chí ấy, mưu lược ấy chưa đủ để đối đầu với một thiên tài quân sự như Nguyễn Huệ. Diễn biến của trận đánh được sử cũ mô tả rất ngắn gọn nhưng cũng khá đầy đủ như sau:
“Đương đêm, chợt thấy chiến thuyền của giặc (chỉ Tây Sơn NKT), từ phía hạ lưu, nhân chiều gió mà tiến thẳng vào. (Đinh) Tích Nhưỡng liền sai quân sĩ bày chiến thuyền theo thế trận chữ nhất (一) để chắn ngang sông. Thế rồi tên nỏ và súng đạn cùng nhất loạt bắn tới tấp. Xa trông thấy có một chiến thuyền của Tây Sơn vỡ tung và đắm xuống, ai cũng lấy làm vui. Nhưng, các chiến thuyền khác của Tây Sơn vẫn bất chấp, nối nhau mà tiến lên, tất cả im lặng, không một tiếng người. Trong lúc (quân của Đinh Tích Nhưỡng) lấy làm lo sợ thì trời sáng rõ dần. Bấy giờ họ mới biết chiến thuyền Tây Sơn chỉ chở toàn bù nhìn, theo chiều gió và thuận dòng nước mà tiến chứ chẳng thấy lính tráng nào cả. Tên nỏ và đạn dược đã cạn, quân Đinh Tích Nhưỡng không sao chống đỡ được nữa. Chiến thuyền thật của giặc khi ấy mới xuất hiện. Giặc reo hò xông lên, thanh thế kinh thiên động địa.
Một đạo quân khác của giặc nhanh chóng đánh mạnh vào thế trận của Đỗ Thế Dận. Ống phun lửa phun loạn xạ. Quân của Đỗ Thế Dận kinh sợ bỏ chạy. Quân của Đinh Tích Nhưỡng la hét om sòm, giành nhau thuyền mà trốn. Quân của Trịnh Tự Quyền chợt nghe tin cũng hoảng hốt mà tan vỡ.
Giặc đánh chiếm được Sơn Nam và gửi hịch đi khắp các địa phương, nói rõ ý định Phò Lê diệt Trịnh”9
Sau khi đè bẹp lực lượng của Trịnh Tự Quyền, Đỗ Thế Dận và Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho quân tiến thẳng ra Thăng Long. Bấy giờ ở Thăng Long, tướng tá cũng như các đại thần phần nhiều chỉ lo việc chạy trốn, ít ai bàn chuyện đánh trả cả. Trịnh Khải bối rối chưa biết toan liệu ra sao thì Nguyễn Lệ10 thua trận từ Nghệ An chạy ra. Nguyễn Lệ bàn rằng:
“Nên sai tướng giữ kinh thành còn Chúa thì rước Vua chạy lên Sơn Tây để lo tính việc về sau. Nếu đánh nhau với giặc thì kiêu binh không thể dùng được, việc nước do vậy sẽ hỏng hết”11.
Trịnh Khải toan nghe theo lời bàn của Nguyễn Lệ thì tin này chẳng hiểu sao đã lan ra với kiêu binh. Kiêu binh bèn họp nhau lại, quát nạt ầm ĩ, cho là Nguyễn Lệ đã rước giặc vào kinh thành rủ nhau tìm giết Nguyễn Lệ. Hoảng quá, Nguyễn Lệ phải bỏ trốn lên Sơn Tây.
________________________________
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 46, tờ 17). Hoàng Lê nhất thống chí (hồi thứ 4) cũng chép tương tự.)
2. Trịnh Khải cũng tức là Trịnh Tông, sinh năm Quý Mùi (1763), nối nghiệp chúa từ năm 1782 và ở ngôi chúa cho đến năm 1786 thì bị giết.
3. Trịnh Tự Quyền người làng Phù Lỗ, huyện Kim Anh, nay thuộc ngoại thành Hà Nội.
4. Kim Động nay thuộc Hưng Yên.
5. Đỗ Thế Dận người làng Đông Ngạc, huyện Từ Liêm, nay thuộc ngoại thành Hà Nội. Ông là võ quan cao cấp của Đàng Ngoài nhưng không thấy sử cũ chép ông có đỗ đạt gì hay không.
6. Bãi Phù Sa ở xã Phù Sa, huyện Đông Yên cũ, nay thuộc tỉnh Hưng Yên.
7. Đinh Tích Nhưỡng người làng Hàm Giang, huyện Cẩm Giàng, nay thuộc Hải Dương, dòng dõi của Đinh Văn Tả.
8. Cửa sông Luộc nằm giáp giới giữa Hưng Yên với Thái Bình.
9. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biến, quyển 46, tờ 18).
10. Nguyễn Lệ tức Nguyễn Khản, người làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, nay là xã Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. đỗ Tiến Sĩ năm 1760. Ông là con của Nguyễn Nghiễm, anh của Nguyễn Du.
11. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 46, tờ 19).
Nguyễn Lệ bỏ trốn rồi, tình hình trong phủ chúa càng thêm rối ren. Trịnh Khải tức giận, đổ lỗi cho quan Tham Tụng Bùi Huy Bích1 và sau đó là vội vã nghe theo lời bàn của Trần Công Xán2. Sử cũ chép như sau:
“(Trịnh) Khải cho là quan Tham Tụng Bùi Huy Bích giữ chức việc trong phủ mà không có công trạng gì, đến đây cũng chẳng có mưu chước gì cứu vãn tình thế, cho nên, lòng đã chán ghét, bèn cho (Bùi) Huy Bích ra làm Đốc Chiến rồi triệu Trần Công Xán (tên cũ là Trần Công Thước) vào phủ chúa để bí mật bàn định mưu kế, hoặc đánh, hoặc lánh. (Trần) Công Xán nói:
- Giặc đem đội quân thế trơ trọi vào sâu trong đất ta, đó là điều binh pháp tối kị. Nay nên nhử chúng đến gần rồi đánh một trận, giết nhẵn nhụi mới thôi. Còn như kinh sư là đất căn bản, không thể lìa bỏ mà đi được. Nếu tình thế quá ngặt nghèo, không sao xoay xở được thì cũng quyết đánh một trận cuối cùng.
(Trịnh) Khải cho lời ấy là phải”3.
Trịnh Khải lập kế hoạch đối phó như sau:
- Triệu tướng Hoàng Phùng Cơ4 từ Sơn Tây về, trao cho chức Tiên Phong Tướng Quán, đem quân đóng giữ tại hồ Vạn Xuân5 và sông Thúy Ái6.
- Đích thân Trịnh Khải đem quân bày sẵn thế trận tại bến Tây Long7, chặn đứng cuộc tấn công của Tây Sơn vào thành Thăng Long.
- Các tướng như Nguyễn Trọng An8, Ngô Cảnh Hoàng9 cũng được lệnh dàn chiến thuyền để đợi quân Tây Sơn đến là đánh theo chỉ huy chung của Trịnh Khải.
Nhưng, quân Tây Sơn vừa xông vào thì trận đồ của Trịnh Khải đã tan vỡ. Hoàng Phùng Cơ cùng tám người con trai, cũng là tám viên tướng, chống đỡ được một lúc thì đại bại. Sáu người con của Hoàng Phùng Cơ bị giết tại trận. Hoàng Phùng Cơ đem hai người con còn lại chạy trốn.
Các tướng chỉ huy thủy quân như Nguyễn Trọng An và Ngô Cảnh Hoàn bị chém tại trận. Một viên tướng khác là Mai Thế Pháp10 cũng bị Tây Sơn giết chết
Tại bến Tây Long, Trịnh Khải mặc nhung phục, ngồi trên bành voi, tự mình làm tướng để chỉ huy quân sĩ. Nhưng, hiệu lệnh của Trịnh Khải chẳng ai nghe, thấy Tây Sơn đến là mạnh ai nấy chạy. Trịnh Khải lo sợ, định quay về phủ, nhưng khi đến cửa Tuyên Võ (tên một cửa dẫn vào phủ chúa xưa) thì đã thấy cờ xin đầu hàng cắm la liệt rồi. Không còn cách nào khác, Trịnh Khải bèn dẫn theo chừng hơn một trăm voi chiến, chạy lên Sơn Tây. Dọc đường, bề tôi của Trịnh Khải đều bỏ trốn, chẳng còn ai nghĩ tới chúa nữa.
Kết cục cuộc đời của Trịnh Khải rất bi đát. Chuyện này “được sử cũ chép lại khá chi tiết như sau:
“Trịnh Khải chạy đến Hạ Lôi, huyện Yên Lãng11 thì quân sĩ tan tác hết. Bấy giờ, có quan Thiêm Sai giữ chức việc ở Lại Phiên là Lý Trần Quán12 cũng tình cờ đi chiêu mộ binh lính và có mặt tại đấy, vì thế, Trịnh Khải và Lý Trần Quán mới gặp nhau. (Lý) Trần Quán liền nói dối với người học trò của mình là Nguyễn Trang13 rằng:
- Đây là quan Tham Tụng họ Bùi, chạy nạn mà lạc đến đây. Anh hãy giúp ta hộ vệ ngài qua khỏi địa giới của huyện này.
Nguyễn Trang đã biết đấy là chúa Trịnh, bèn cùng với đồ đảng là Nguyễn Ba14 bắt Trịnh Khải đem đến nạp cho giặc. (Lý) Trần Quán nghe tin này liền vội vàng chạy đến, vừa khóc vừa nói:
- Làm cho chúa phải lầm lỗi đến thế này là tội ở tôi.
Rồi nhân đó, (Lý Trần Quán) đem đại nghĩa mà dụ bảo bọn Nguyễn Trang. Nguyễn Trang nói:
- Sợ thầy không bằng sợ giặc, quý chúa không bằng quý thân.
Nói xong liền giải Trịnh Khải đi. (Trịnh) Khải lấy dao cắt cổ tự tử. (Nguyễn) Trang đem thi thể của (Trịnh) Khải nạp cho giặc”15.
Chỉ trong vòng mười ngày, toàn bộ lực lượng quân đội của họ Trịnh đã hoàn toàn tan rã. Cơ nghiệp của họ Trịnh được gây dựng trên hai trăm năm đến đó là cáo chung. Bấy giờ, vua Lê là Lê Hiển Tông16 đang lâm bệnh nặng. Sức sống của triều Lê cũng chẳng khác gì sức khỏe của vua Lê. Nguyễn Huệ vào Thăng Long, yết kiến vua Lê và khẳng định lại mục đích phò Lê diệt Trịnh.
Sau lần tiếp kiến nói trên, Lê Hiển Tông đã đem Công Chúa Ngọc Hân gả cho Nguyễn Huệ. Mối lương duyên giữa Nguyễn Huệ với Ngọc Hân Công Chúa bắt đầu kể từ đó.
Trận tấn công năm 1786 của Nguyễn Huệ có ý nghĩa rất to lớn. Từ đây, biên giới sông Gianh bị xóa bỏ, lãnh thổ Đàng Ngoài với Đàng Trong bị chia cách trên hai thế kỷ đã được nối liền, cơ sở quan trọng đầu tiên cho sự thiết lập nền thống nhất quốc gia đã xuất hiện. Từ đây, những tập đoàn phong kiến cát cứ lớn nhất đã hoàn toàn bị tiêu diệt, tức là trở lực lớn nhất của sự nghiệp thống nhất quốc gia không còn nữa. Cũng từ đây, phong trào nông dân Tây Sơn đã gây được ảnh hưởng mạnh mẽ trên khắp cả nước, trở thành trung tâm hội tụ sức mạnh của hàng vạn nông dân bị áp bức trên khắp mọi miền trong cuộc chiến đấu ngoan cường chống cả thù trong lẫn giặc ngoài.
Tháng 8 năm 1786, sau khi dựng lại triều Lê vốn đã rất tàn tạ, Nguyễn Huệ trở về Quy Nhơn. Chuyến này, Nguyễn Huệ trở về cùng với Nguyễn Nhạc17.
___________________________________
1. Bùi Huy Bích (1744-1802) người làng Định Công, huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội, đỗ Hoàng Giáp năm 1769.
2. Trần Công Xán người làng An Vĩ, huyện Đông Yên, nay là xã An Vĩ, huyện Châu Giang, tỉnh Hưng Yên, đỗ Tiến Sĩ năm 1772. Ông còn có tên là Trần Công Thước
3. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 46, tờ 20).
4. Hoàng Phùng Cơ người làng Vân Cốc, huyện Bạch Hạc. Nay thuộc Hà Tây.
5. Hồ Vạn Xuân còn có tên gọi khác là hồ Vạn Phúc, ở xã Vạn Phúc, huyện Thanh Trì (Hà Nội).
6. Sông Thúy Ái ở huyện Thanh Trì (Hà Nội).
7. Bến Tây Long xưa thuộc huyện Thọ Xương, nay thuộc nội thành Hà Nội. Bến cũ không còn nữa.
8. Nguyễn Trọng An cũng tức là Nguyễn Trọng Diệu, người làng Linh Đường, huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội.
9. Ngô Cảnh Hoàn người làng Trảo Nha, huyện Thạch Hà, nay thuộc Hà Tĩnh. Ông còn có tên khác là Nguyễn Phúc Hoàn.
10. Mai Thế Pháp còn có tên khác là Mai Thế Dương, người làng Thạch Giản, huyện Nga Sơn, nay thuộc Thanh Hóa. Trong trận này, hai con trai của Mai Thế Pháp, cũng là hai viên tướng, cùng bị giết.
11. Nay thuộc huyện Sóc Sơn (Hà Nội.)
12. Lý Trần Quán người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm, nay thuộc Hà Nội, đỗ Tiến Sĩ năm 1766.
13. Nguyễn Trang người làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng.
14. Nguyễn Ba cũng tức là Nguyễn Na, bạn của Nguyễn Trang, người làng Vân Điềm, huyện Đông Ngàn, nay thuộc huyện Tiên Sơn tỉnh Bắc Ninh.
15. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 46, tờ 21). Sách này còn cho biết thêm rằng, sau khi Trịnh Khải bị giải đi rồi, Lý Trần Quán sai người đào huyệt, mua quan tài và mặc lễ phục, nằm vào áo quan, nhờ người chôn sống. Khí khái của Lý Trần Quán được Nho gia xưa rất ca ngợi.
16. Lê Hiển Tông tên thật là Lê Duy Diêu, sinh năm 1717, lên ngôi năm 1740, ở ngôi 46 năm (1740-1786). Ông là vua thứ 26 (trong tổng số 27 đời vua) của triều Lê (1428-1788). Vua cuối cùng của triều Lê là Lê Chiêu Thống (1786-1788).
17. Sau khi nhận được tin báo của Nguyễn Huệ là sẽ tiến quân ra Thăng đong, Nguyễn Nhạc rất lo lắng, bèn vội vã đuổi theo. Đến đây, cả hai anh em cùng về Quy Nhơn.
9. Tổng chỉ huy trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa (năm 1789: năm 36 tuổi), quét sạch 29 vạn quân Mãn Thanh và bè lũ tay sai phản quốc Lê Chiêu Thống ra khỏi bờ cõi
“Thành Nam thập nhị kình nghê quán.
Chiếu diệu anh hùng đại võ công”1
Tình hình Đàng Ngoài sau khi Nguyễn Huệ rút quân về Nam
Một trong những viên tướng có công rất nổi bật đối với Tây Sơn năm 1786 là Nguyễn Hữu Chỉnh. Chính Nguyễn Hữu Chỉnh đã bàn mưu đánh vào quân Trịnh ở Thuận Hóa. Sau chiến dịch Thuận Hóa, chính Nguyễn Hữu Chỉnh đã tiếp tục bàn mưu đưa quân đội Tây Sơn đánh ra Đàng Ngoài, đồng thời là tướng tiên phong của Nguyễn Huệ trong cuộc tấn công táo bạo này. Người đầu tiên đánh vào Vị Hoàng là Nguyễn Hữu Chỉnh. Người đầu tiên đánh vào Thăng Long cũng là Nguyễn Hữu Chỉnh. Và, cũng chính Nguyễn Hữu Chỉnh đã bàn với vua Lê Hiển Tông đem Ngọc Hân Công chúa gả cho Nguyễn Huệ. Tóm lại, Nguyễn Hữu Chỉnh đã cố làm tất cả mọi điều, cốt tạo niềm tin đối với Nguyễn Huệ. Nhưng, Nguyễn Huệ lại không tin ở con người này, bởi lẽ, Nguyễn Hữu Chỉnh đến với Tây Sơn, bất quá chỉ do thất thế và cô thân sau những cuộc tranh giành quyền lực giữa các phe phái của Đàng Ngoài mà thôi.
Xuất phát từ nhận định về bản chất con người của Nguyễn Hữu Chỉnh như vậy, canh ba2 đêm ngày 17 tháng 8 năm 1786, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ sai người vào từ biệt vua Lê3 rồi bí mật hạ lệnh cho quân sĩ lặng lẽ trở về Nam, bỏ mặc cho Nguyễn Hữu Chỉnh ở lại. Sáng ngày hôm sau, khi Nguyễn Hữu Chỉnh hay tin thì Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đã đi xa rồi. Sử cũ viết:
“Sáng ra, Nguyễn Hữu Chỉnh biết tin, vội vàng không biết tính sao, bèn cùng vài chục thủ hạ cướp lấy một chiếc thuyền để đuổi theo. Người trong kinh đô tranh nhau lấy gạch ngói để ném. (Nguyễn) Hữu Chỉnh phải tự tay đâm chết vài chục người mới thoát được thân”4
Tới Nghệ An thì Nguyễn Hữu Chỉnh đuổi kịp quân Tây Sơn, nhưng, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ vẫn không cho Nguyễn Hữu Chỉnh theo về Quy Nhơn mà sai ở lại, cùng với Nguyễn Duệ trông coi trấn Nghệ An. Quân Tây Sơn đi rồi, tình hình Thăng Long nói riêng và Đàng Ngoài nói chung trở nên rất bi đát. Đại lược như sau:
- Sau khi Trịnh Khải bỏ chạy, bị bắt rồi tự tử mà chết, hai nhân vật khác của họ Trịnh là Trịnh Bồng và Trịnh Lệ bắt đầu tranh giành quyền được tự lập làm chúa.
+ Phe Trịnh Lệ có Trương Tuân5, Dương Trọng Khiêm6 làm vây cánh, nhưng Dương Trọng Khiêm chỉ theo Trịnh Lệ được một thời gian ngắn, sau thì làm phản, chống lại Trịnh Lệ.
+ Phe Trịnh Bồng có Đinh Tích Nhưỡng làm chỗ dựa.
Trong cuộc tranh giành này, cuối cùng, Trịnh Bồng đã chiếm được phần thắng. Trịnh Bồng tự lập làm Nguyên Soái, tước Yến Đô Vương. Từ đấy, cục diện vua Lê-chúa Trịnh lại tái lập như cũ.
- Tháng 11 năm 1786, Trịnh Bồng đem quân vây chặt cung vua, định phế bỏ Lê Chiêu Thống. Nhờ có Hoàng Phùng Cơ bảo vệ, Lê Chiêu Thống mới chặn đứng được âm mưu của Trịnh Bồng. Nhân đó, Lê Chiêu Thống ra lệnh triệu Nguyễn Hữu Chỉnh từ Nghệ An về Thăng Long.
- Cuối tháng 11 năm 1786, Nguyễn Hữu Chỉnh nhân danh việc phò tá vua Lê, đã đem quân đánh đuổi Trịnh Bồng ra khỏi Thăng Long. Nhờ công lao đó, Nguyễn Hữu Chỉnh được vua Lê Chiêu Thống phong làm Bình Chương Quân Quốc Trọng Sự, Đại Tư Đồ, tước Bằng Trung Công. Từ đô, “quyền của Chỉnh ngang với quyền Nhà vua, thế của Chỉnh có thể lật nghiêng cả nước”7.
- Tháng 2 năm 1787, do thấy Nguyễn Hữu Chỉnh ngày một lộng quyền, Lê Chiêu Thống định ngầm bỏ thuốc độc để giết đi. Việc này vì có Vũ Trinh8 can ngăn nên mới thôi. Tuy vậy, Nguyễn Hữu Chỉnh cũng đoán được sự chẳng lành đang rình rập mình, vì thế, bỏ cả việc chầu hầu, thả cửa cho bọn tay chân đi cướp phá. Kinh thành Thăng Long bất an, nhiều người bắt đầu lên tiếng đòi giết Nguyễn Hữu Chỉnh.
- Tháng 4 năm 1787, sau khi đã nắm khá đầy đủ những tin tức về hành vi sai trái của Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thăng Long, Nguyễn Huệ ra lệnh triệu Nguyễn Hữu Chỉnh về Nam, nhưng, Nguyễn Hữu Chỉnh lấy cớ là Bắc Hà chưa yên, không chịu tuân mệnh. Nguyễn Huệ tức giận, sai Vũ Văn Nhậm9 cầm quân ra Bắc để hỏi tội Nguyễn Hữu Chỉnh.
________________________________
1. Thơ của Ngô Ngọc Du (một trong những cây bút của văn học thời Tây Sơn). Hai câu trên có nghĩa là:
Thành Nam xác giặc mười hai đống,
Rạng rỡ anh hùng đại võ công.
2. Canh ba tương ứng với khoảng từ 23 đến 01 giờ.
3. Vua Lê ở đây là Lê Chiêu Thống(1786-1788), cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 46, tờ 29).
5. Trương Tuân là ngoại thích của họ Trịnh, người xã Như Kinh, huyện Gia Lâm (nay thuộc Hà Nội).
6. Dương Trọng Khiêm cũng tức Dương Trọng Tế, người làng Lạc Đạo, huyện Gia Lâm, nay là xã Lạc Đạo, huyện Mỹ Văn, tỉnh Hưng Yên, đỗ Tiến Sĩ năm 1754.
7. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (hồi thứ 4).
8. Vũ Trinh người làng Xuân Quan, huyện Lang Tài. Nay đất này thuộc tỉnh Bắc Ninh.
9. Vũ Văn Nhậm vốn là tướng của chúa Nguyễn, sau đó đầu hàng Tây Sơn, được Nguyễn Nhạc gả con gái cho, vì thế sử vẫn chép là Phò Mã Vũ Văn Nhậm.
- Trong lúc Vũ Văn Nhậm đang trên đường tiến ra Bắc thì tình hình Bắc Hà ngày một rối ren. Các phe cánh không ngừng tìm cách thanh toán lẫn nhau:
+ Dương Trọng Khiêm chạy đến Lạc Đạo1, phát hịch kêu gọi khôi phục cơ nghiệp của chúa Trịnh. Nhưng, Dương Trọng Khiêm vừa mới khởi sự đã bị Nguyễn Hữu Chỉnh sai tướng là Hoàng Viết Tuyển2 đem quân tới đánh. Dương Trọng Khiêm bại trận, bị bắt và bị giết.
+ Hoàng Phùng Cơ ở Sơn Tây quyết đem quân về Thăng Long để giết Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhưng, quân Hoàng Phùng Cơ mới tiến đến Đại Phùng3 đã bị tướng của Nguyễn Hữu Chỉnh là Nguyễn Duật4 đánh bại. Hoàng Phùng Cơ bị bắt và sau đó là bị bức tử.
+ Trịnh Bồng được sự hỗ trợ của một tướng như Đinh Tích Nhưỡng, Nguyễn Trọng Mại5, Phạm Đình Thiện6 và một số hào mục mà nổi bật nhất là Trần Mạnh Khuông7 đã nổi binh chống lại Nguyễn Hữu Chỉnh. Nhưng, cũng chỉ sau một trận giao tranh, lực lượng của Trịnh Bồng đã hoàn toàn tan rã, Trịnh Bồng chạy trốn, về sau không rõ sống chết ra sao.
+ Tại Cao Bằng, Nguyễn Hàn8 là người của vua Lê Chiêu Thống và Lưu Tiệp9 là người của Trịnh Bồng, đem quân đánh giết lẫn nhau. Kết quả là cả nhà Nguyễn Hàn đều bị Lưu Tiệp giết hại, lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống ở đây hoàn toàn tan rã.
+ … v.v.
- Tháng 11 năm 1787, quân Vũ Văn Nhậm đã tiến khá sâu vào đất Bắt Hà. Trận giao tranh đầu tiên diễn ra tại khu vực sông Thanh Quyết10. Quân của Nguyễn Hữu Chỉnh nhanh chóng bị đẩy lùi. Sau đó, nhờ có thêm sự trợ giúp của Ngô Văn Sở11, Vũ Văn Nhậm liên tiếp đánh bại những cố gắng của Nguyễn Hữu Chỉnh. Cuối cùng, Nguyễn Hữu Chỉnh bị thua và bị bắt giết. Vũ Văn Nhậm vào Thăng Long còn vua Lê Chiêu Thống thì hoảng hốt bỏ đi bôn tẩu khắp nơi.
- Vũ Văn Nhậm vào Thăng Long, tự cho là mình có công to không ai sánh kịp, liền làm nhiều điều sai trái khó có thể dung tha. Vì lẽ đó, tháng 4 năm 1788, đích thân Nguyễn Huệ đã cầm quân ra Bắc bắt giết Vũ Văn Nhậm, sau đó, trao quyền nắm giữ binh quyền ở Bắc Hà cho Ngô Văn Sở. Trước khi rút về Nam, Nguyễn Huệ còn có hai quyết định quan trọng khác. Một là đưa Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận lên làm Giám Quốc. Giám Quốc là chức trông coi việc cúng tế ở nhà Thái Miếu của triều Lê. Lúc này, Lê Chiêu Thống đã rời Thăng Long mà bôn tẩu khắp đó đây cho nên, Sùng Nhượng Công Lê Duy Cận mới được trao chức ấy. Hai là thành lập một guồng máy chính quyền của Tây Sơn đóng tại kinh đô Thăng Long để cai quản đất Đàng Ngoài. Đứng đầu guồng máy chính quyền này là Ngô Văn Sở. Sát cánh với Ngô Văn Sở trong guồng máy chính quyền này, bên cạnh một số tướng lĩnh của Tây Sơn, còn có một số cựu thần của nhà Lê. Họ là những trí thức nhạy bén với thời cuộc, cũng là những người thực sự giàu nhiệt huyết và tài năng. Chính họ đã có đóng góp rất đáng kể vào những thắng lợi của Tây Sơn sau đó. Chúng ta có thể kể tên sáu nhân vật tiêu biểu sau đây:
- Ngô Thì Nhậm (1746-1803) người làng Tả Thanh Oai, huyện Thanh Oai, nay là thôn Tả Thanh Oai, xã Tả Thanh Oai, huyện Thanh Trì, Hà Nội. Ngô Thì Nhậm12 đỗ Tiến Sĩ năm 1775. Ông là con của Hoàng Giáp Ngô Thì Sĩ (1725-1780).
- Phan Huy Ích (1751-1822) người làng Thu Hoạch, huyện Thiên Lộc, nay là xã Thạch Châu, huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Ông là con của Tiến Sĩ Phan Huy Áng (cũng tức là Pan Huy Cận: 1733-1800), anh của Tiến Sĩ Phan Huy Ôn (1755-1786). Phan Huy Ích đỗ Tiến Sĩ năm 1775.
- Nguyễn Thế Lịch (1750-1829) cũng tức là Nguyễn Gia Phan, người làng Yên Lũng, huyện Từ Liêm, nay là thôn Yên Lũng, xã An Khánh, huyện Hoài Đức, tỉnh Hà Tây. Ông đỗ Tiến Sĩ năm 1775.
- Ninh Tốn (1744-1790) người làng Côi Trì, huyện Yên Mô, nay là xã Yên Mỹ, huyện Tam Điệp, tỉnh Ninh Bình, đỗ Tiến Sĩ năm 1778. Ông là dòng dõi của Tiến Sĩ Ninh Đạt, cháu của Hoàng Giáp Ninh Địch.
- Nguyễn Du (1754 -?) người làng Viên Ngoại, huyện Chương Đức, nay là xã Viên Ngoại, huyện trung Hòa, tỉnh Hà Tây, đỗ Tiến Sĩ năm 178513.
- Nguyễn Bá Lan (1757 -?) người làng Cổ Linh, huyện Gia Lâm, nay thuộc Hà Nội, đỗ Tiến Sĩ năm 1785.
Trong sáu nhân vật nói trên, Ngô Thì Nhậm và Phan Huy Ích14 có vị trí và ảnh hưởng to lớn nhất. Chính Ngô Thì Nhậm là người đã có công rất lớn trong việc tham gia vạch kế hoạch đối phó với quân xâm lược Mãn Thanh.
________________________________
1. Lạc Đạo là tên làng, thuộc huyện Gia Lâm (Hà Nội).
2. Hoàng Viết Tuyển người làng Vạn Phân, huyện Đông Thành (nay thuộc Nghệ An).
3. Đại Phùng là tên làng, thuộc huyện Đan Phượng (Hà Tây).
4. Nguyễn Duật người làng Nộn Liễu, huyện Nam Đường (nay thuộc Nghệ An).
5. Nguyễn Trọng Mại người làng Quế Ổ, huyện Quế Dương, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh.
6. Phạm Đình Thiện người làng Bác Trạch, huyện Chân Định, nay thuộc tỉnh Thái Bình.
7. Trần Mạnh Khuông người làng Đông Quan, huyện Đông Quan, nay thuộc tỉnh Thái Bình.
8. Nguyễn Hàn người làng Phú Thị, huyện Gia Lâm (Hà Nội), đỗ Tiến Sĩ năm 1779.
9. Lưu Tiệp người làng Nguyệt Áng, huyện Thanh Trì, nay thuộc Hà Nội, đỗ Tiến Sĩ năm 1772.
10. Sông Thanh Quyết ở huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
11. Xin vui lòng tham khảo phần giới thiệu về Ngô Văn Sở ở Chương thứ ba.
12. Sau, vì vua Tự Đức (1848-1883) tên là Nguyễn Phúc Thì (húy chữ Thì) hiệp là Hồng Nhậm (húy chữ Nhậm) nên tên ông đọc thành Ngô Thời Nhiệm.
13. Nhân vật Nguyễn Du này, thảng hoặc cũng có người nhầm với Nguyễn Du là tác giả của Truyện Kiều. Thực ra, đấy là hai nhân vật có lí lịch hoàn toàn khác nhau.
14. Phan Huy Ích là em rể của Ngô Thì Nhậm. Ngoài mối quan hệ gia đình, họ còn là hai bậc tài hoa có cùng chí hướng. Cả Ngô Thì Nhậm lẫn Phan Huy Ích đều rất được Nguyễn Huệ trọng dụng.
Bước đường cùng của Lê Chiêu Thống
Lê Chiêu Thống tên thật là Lê Duy Kỳ, lại có tên khác là Lê Tư Khiêm, sinh năm 1765. Sử cũ cho biết, Lê Chiêu Thống là con trưởng của Thái Tử Lê Duy Vĩ, cháu đích tôn của vua Lê Hiển Tông. Trước đó, Thái Tử Lê Duy Vĩ bị chúa Trịnh là Trịnh Sâm giết hại vào tháng 12 năm 1771. Năm 1786, vua Lê Hiển Tông mất. Trước đó bốn năm (năm 1782), chúa Trịnh Sâm cũng đã qua đời, triều thần nhân đó đã đưa Lê Duy Kỳ lên nối ngôi. Bấy giờ, Nguyễn Huệ đang có mặt tại kinh thành Thăng Long và thể theo đánh giá của Ngọc Hân về nhân cách của Lê Duy Kỳ, Nguyễn Huệ không thật sự bằng lòng với việc đưa Lê Duy Kỳ lên ngôi. Tuy nhiên, mọi việc sau đó cũng được thu xếp ổn thỏa, chỉ tiếc là quan hệ giữa Nguyễn Huệ với Lê Duy Kỳ vì thế mà gặp nhiều trở ngại. Lê Duy Kỳ vừa rất căm tức lại vừa rất sợ hãi Nguyễn Huệ.
Từ khi được đưa lên ngôi, Lê Duy Kỳ (lấy niên hiệu là Chiêu Thống, và từ đây xin gọi theo cách gọi phổ biến là Lê Chiêu Thống) hầu như không mấy khi được ở yên trong hoàng cung. Nỗi lo lắng về sự trỗi dậy của thế lực ủng hộ họ Trịnh cộng với sự sợ hãi đối với Tây Sơn đã khiến cho Lê Chiêu Thống phải nhiều phen bôn tẩu lao đao.
Đường bôn tẩu cũng là đường đắng cay. Dần dần, văn thần và võ tướng đều từ bỏ Lê Chiêu Thống, thậm chí, còn công khai chống lại Lê Chiêu Thống. Chuyện điển hình đáng cười ra nước mắt hơn cả có lẽ là chuyện Lê Chiêu Thống với Nguyễn Cảnh Thước1. Tháng 12 năm 1787, quân Tây Sơn do Vũ Văn Nhậm chỉ huy đã tiến ra Thăng Long để hỏi tội Nguyễn Hữu Chỉnh. Khi nghe tin Nguyễn Hữu Chỉnh thua trận, Lê Chiêu Thống rất bối rối. Bấy giờ có quan giữ chức Tham Tri Chính Sự là Nguyễn Khuê2 đến bàn với Lê Chiêu Thống rằng:
“Trấn Thủ Kinh Bắc là Nguyễn Cảnh Thước, khí chất hùng mạnh và mưu lược hơn người, rất đáng được tin cậy, vậy, ta hãy giữ lấy Kinh Bắc làm nơi thủ thế. Nơi đó có thành lũy vững chắc, có sông Cái3 ngăn cách. Từ Kinh Bắc, ta phát lời kêu gọi cần vương thì có thể dễ dàng thông tin đi khắp các xứ, trên thì Thái Nguyên và Sơn Tây, dưới thì Hải Dương và Sơn Nam... chẳng mấy chốc mà có thể tập hợp được đại binh. Sau, ta sẽ tùy thời mà hành động, ắt sẽ có ngày phục hưng”4.
Lê Chiêu Thống nghe theo, bèn đi sang Kinh Bắc5. Đến nơi, kẻ theo hầu chỉ còn dăm bảy người nữa mà thôi. Nhưng, Nguyễn Cảnh Thước cáo bệnh, đóng cửa thành lại, không chịu tiếp dón Nhà vua! Vừa buồn vừa tức, Lê Chiêu Thống đành phải tìm chốn dung thân ở nơi khác. Chẳng dè, vừa đi được một quãng thì “Nguyễn Cảnh Thước tung thủ hạ ra cướp hết mọi của cải do bọn hầu ngự giá mang theo. Chúng còn đuổi theo Nhà vua và lột cả tấm hoàng bào của Nhà vua nữa. Nhà vua đau xót đến rơi cả nước mắt nhưng cũng đành phải cởi ra để trao cho chúng”6.
Từ đây, Lê Chiêu Thống hết lên ngược lại về xuôi, hết vào nam lại ra bắc, gian nan trở ngại không thể nào kể hết. Dưới đây xin theo ghi chép của thư tịch cổ, lược ghi mấy sự kiện chính như sau:
- Tháng 12 năm 1787, sau khi bị thủ hạ của Nguyễn Cảnh Thước cướp bóc hết của cải, Lê Chiêu Thống chạy đến vùng Yên Thế7, nương nhờ ở một viên tướng cướp cũ là Dương Đình Tuấn8.
- Tháng 2 năm 1788, sau một thời gian được Dương Đình Tuấn hết lòng phò tá, Lê Chiêu Thống bỗng lo sợ là Dương Đình Tuấn sẽ ăn ở hai lòng, do vậy, bỏ Yên Thế chạy đến Gia Định9. Kẻ theo hầu chỉ còn chừng dăm ba người nữa mà thôi.
- Ở Gia Định chỉ được mấy ngày, Lê Chiêu Thống lại chạy về Chí Linh10. Nhờ sự ủng hộ của một số thổ hào địa phương, Lê Chiêu Thống tạm yên được một thời gian ngắn.
- Tướng cũ của chúa Trịnh là Đinh Tích Nhưỡng lúc bấy giờ đang ở Đông Triều11, nghe tin Lê Chiêu Thống ở Chí Linh, liền đem quân tới đánh. Dân binh Chí Linh đánh giết được hai em của Đinh Tích Nhưỡng là Đinh Vũ Sầm và Đinh Vũ Kính, khiến Đinh Tích Nhưỡng hoảng sợ mà bỏ chạy, Lê Chiêu Thống mới được tai qua nạn khỏi.
- Sau cuộc đụng độ với Đinh Tích Nhưỡng ở Chí Linh, Lê Chiêu Thống chạy ra Thủy Đường12. Ở Thủy Đường chưa ấm chỗ Lê Chiêu Thống lại chạy vào Vị Hoàng. Nói theo cách nói của sử cũ là Lê Chiêu Thống phải “long đong xuôi ngược, hết sang đông lại lên bắc”.
- Mới đến Vị Hoàng, chưa kịp ổn định nơi ăn chốn ở, Lê Chiêu Thống đã bị Ngô Văn Sở đem quân Tây Sơn tới đánh. Lê Chiêu Thống hốt hoảng chạy đến vùng Quần Anh13 và tại đây, một trận bão đã nổi lên, chiến thuyền của Lê Chiêu Thống trôi dạt đến Thiết Giáp14. Từ Thiết Giáp, Lê Chiêu Thống đi bộ đến Kim Bảng15 và sau đổ lại đi ra Kinh Bắc.
- Tháng 7 năm 1788, mẹ của Lê Chiêu Thống từ Cao Bằng được sự giúp đỡ của Hoàng Ích Hiểu16, Lê Quýnh17 và Nguyễn Quốc Đống18, đã đem con trai của Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc.
- Tại Trung Quốc, mẹ của Lê Chiêu Thống và đám tùy tùng nói trên đã gặp Tôn Sĩ Nghị19 và Tôn Vĩnh Thanh20. Sử cữ chép rằng:
“Bọn (Tôn) Sĩ Nghị tâu với vua Thanh là Tự Hoàng nhà Lê21 đang phải bôn ba, xét nghĩa lớn thì ta nên cứu. Vả chăng, An Nam vốn dĩ là đất xưa của Trung Quốc, cho nên, khi giúp khôi phục được nhà Lê rồi, ta cũng có thể nhân đó mà đặt đồn binh canh giữ. Vậy là ta vừa làm cho nhà Lê được tồn tại, vừa chiếm lại được An Nam, thật đúng là làm một việc mà được hai điều lợi”22.
- Nhận được lời tâu trên, vua Thanh lúc này là Càn Long lập tức đồng ý. Một kế hoạch xua quân sang mượn cớ phù Lê diệt Tây Sơn để xâm lược nước ta nhanh chóng được vạch ra. Nhận được tin này, Lê Chiêu Thống thực sự vui mừng, liền sai tay chân sang Trung Quốc để chuẩn bị đón rước quân Mãn Thanh.
Như vậy là đến đây, Lê Chiêu Thống đã đi từ chỗ chống đối Tây Sơn đến chỗ hại dân và phản quốc. Đời thật khó mà dung tha hành vi nhục nhã này.
____________________________________
1. Nguyễn Cảnh Thước là võ quan, người làng Đô Lương, huyện Nam Đàn (Nghệ An).
2. Nguyễn Khuê người làng Đặng Xá, huyện Chân Phúc, nay thuộc Nghi Lộc (Nghệ An), đỗ Tiến Sĩ năm 1787.
3. Sông Cái tức sông Hồng.
4. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 16).
5. Nay đại thể tương ứng với vùng Bắc Ninh và Bắc Giang.
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 17).
7. Yên Thế nay thuộc Bắc Giang.
8. Dương Đình Quán người làng Dương Lâm, huyện Yên Thế, nay thuộc Bắc Giang.
9. Gia Định nay thuộc Bắc Ninh.
10. Chí Linh nay thuộc Hải Dương.
11. Đông Triều nay thuộc Quảng Ninh.
12. Thủy Đường xưa thuộc Hải Dương, nay thuộc Hải Phòng.
13. Quần Anh là tên xã thuộc huyện Nam Chân, nay thuộc huyện Nam Trực, tỉnh Nam Định.
14. Thiết Giáp là tên xã xưa của huyện Nga Sơn, tỉnh Thanh Hóa.
15. Kim Bảng là tên trấn lị của huyện Kim Bảng xưa, nay thuộc tỉnh Hà Nam.
16. Hoàng Ích Hiểu người Cao Bằng, xuất thân là võ quan, lúc này đang là Địch Quận Công.
17. Lê Quýnh người làng Đại Mão, huyện Siêu Loại, nay là thôn Đại Mão, xã Hoài Thượng, huyện Thuận Thành, tỉnh Bắc Ninh. Lê Quýnh là con của Tiến Sĩ Lê Doãn Giản và là cháu gọi Tiến Sĩ Lê Doãn Thân bằng chú ruột. Tuy nhiên, bản thân Lê Quýnh thì không đỗ đạt gì.
18. Nguyễn Quốc Đống người làng Tì Bà, huyện Lang Tài, nay thuộc tỉnh Bắc Ninh. Nguyễn Quốc Đống là anh ruột của Hoàng Phi Nguyễn Thị Kim (vợ Lê Chiêu Thống), mẹ đẻ đứa con trai của Lê Chiêu Thống được đưa sang Trung Quốc nói trên.
19. Tôn Sĩ Nghị là võ quan cao cấp của nhà Mãn Thanh, lúc này đang giữ chức Tổng Đốc Lưỡng Quảng.
20. Tôn Vĩnh Thanh là văn thần cao cấp của nhà Mãn Thanh, lúc này đang giữ chức Tuần Phủ tỉnh Quảng Tây.
21. Chỉ vua Lê Chiêu Thống.
22. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47 tờ 33). Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 12) cũng chép tương tự.
Quyển 03
Chương 02 - NGUYỄN NHẠC, NGUYỄN HUỆ và NGUYỄN LỮ
BA LÃNH TỤ CỦA PHONG TRÀO TÂY SƠN, BA DANH TƯỚNG KIỆT XUẤT NHẤT CỦA THẾ KỶ THỨ XVIII
NGUYỄN HUỆ (1753 - 1792)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Quân Thanh sang xâm lược nước ta
Theo lệnh của Càn Long, Tổng Đốc Lưỡng Quảng của nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị đã nhanh chóng tổ chức cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Công việc chuẩn bị này bao hàm mấy bước với những nội dung cụ thể như sau:
“Trước hết, tung ra chừng vài trăm tờ hịch để tuyên bố cho gần xa đều biết”1 việc nhà Thanh sắp sửa xuất quân sang nước ta. Chính Càn Long trong một chỉ dụ gửi cho Tôn Sĩ Nghị cũng đã nói rõ như thế: “Cứ từ từ mà làm, không việc gì phải vội vã, trước hãy truyền hịch để gây thanh thế...”2.
- Hạ lệnh cho quan Tri Phủ ở Điền Châu giúp đám tay chân của Lê Chiêu Thống chạy sang Trung Quốc, đứng ra tập hợp lực lượng chống Tây Sơn, đồng thời tuyển mộ thêm quân sĩ để sẵn sàng phối hợp với quân của Tôn Sĩ Nghị.
- Nhanh chóng huy động quân lính, sẵn sàng tràn sang nước ta khi có chiếu chỉ của Càn Long. Tôn Sĩ Nghị đã huy động được hai mươi chín vạn quân chiến đấu và hàng chục vạn dân phu.
Cuối năm 1788, khi công cuộc chuẩn bị đã tương đối chu tất, Càn Long hạ chiếu phong cho Tôn Sĩ Nghị làm Chinh Man Đại Tướng Quân, nắm quyền tổng chỉ huy toàn bộ lực lượng quân Thanh sang xâm lược nước ta, Tổng Đốc Vân Quý (tức Vân Nam và Quý Châu) là Phúc Khang An chịu trách nhiệm huy động và vận tải lương thực cho đạo quân xâm lược khổng lồ này. Tôn Sĩ Nghị chia quân làm ba đạo, tiến vào nước ta qua ba ngả khác nhau:
Đạo thứ nhất do tướng Ô Đại Kinh chỉ huy. Ô Đại Kinh nguyên là Đề Đốc ở Vân Nam và Quý Châu. Đạo này từ Vân Nam, qua Mã Bạch Quan3 rồi xuống Hà Giang, Tuyên Quang, băng qua Thái Nguyên, về Hà Bắc và tiến xuống Thăng Long4.
Đạo thứ hai do Sầm Nghi Đống chỉ huy, tiến vào nước ta qua ngả Cao Bằng. Đạo này, ngoài quân Trung Quốc còn có cả lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống đang lưu vong ở Trung Quốc mới được Sầm Nghi Đống tuyển mộ.
Đạo thứ ba là đạo chủ lực, do đích thân Tôn Sĩ Nghị cầm đầu. Dưới trướng của Tôn Sĩ Nghị còn có các tướng khác như:
+ Đề Đốc Hứa Thế Hanh giữ chức Phó Tướng.
+ Tổng Binh Thượng Duy Thăng và Tổng Binh Khánh Thành chỉ huy các đơn vị bộ binh huy động được từ tỉnh Quảng Tây.
+ Tổng binh Trương Triều Long và Tổng Binh Lý Hóa Long chỉ huy các đơn vị bộ binh huy động được từ tỉnh Quảng Đông.
Đạo thứ ba này tiến vào nước ta qua ngả Lạng Sơn. Ngày 28 tháng 10 năm Mậu Thân5, cả ba đạo quân nói trên đều nhất loạt xuất phát. Khẩu hiệu hành quân của Tôn Sĩ Nghị là phò Lê diệt Tây Sơn. Chỉ dụ của Càn Long gởi cho Tôn Sĩ Nghị trước lúc Tôn Sĩ Nghị xuất quân đã nói khá rõ mưu đồ của nhà Thanh đối với nước ta lúc bấy giờ:
“Trước nay truyền hịch để gây thanh thế, sau đó thì để bọn cựu thần nhà Lê về nước tìm Tự Quân của nhà Lê, khiến chúng ra đối địch với Nguyễn Huệ. Giá thử (Nguyễn) Huệ mà bỏ chạy thì cho Tự Quân của nhà Lê đuổi theo, ta chỉ nên đi tiếp ứng mà thôi. Đó là thượng sách vì không khó nhọc mà vẫn thành công.
Người trong nước họ, nếu một nửa theo (Nguyễn) Huệ mà (Nguyễn) Huệ không chịu rút quân, thì phải nhờ thủy binh ở Mân Quảng6 vượt biển đánh vào Thuận Quảng rồi từ đó đánh ra, kế đến bộ binh mới tiến. Hai mặt trước sau đều bị đánh thì tất nhiên (Nguyễn) Huệ phải chịu quy phục. Ta sẽ nhân đó mà ràng buộc cả hai. Từ Thuận Quảng vào Nam thì chia cấp cho Nguyễn Huệ, từ Hoan Ái7 trở ra thì chia cấp cho nhà Lê, còn ta thì đóng đại binh ở giữa để kiềm chế cả hai, sau sẽ có cách xử trí khác”8.
Trước khi lên đường, Tôn Sĩ Nghị ban bố cho toàn quân tám điều quân luật, trong đó có những điều luật nói rất rõ về cách đề phòng voi chiến và hỏa hổ (ống phun lửa) của Tây Sơn. Tóm lại, đội quân xâm lược Mãn Thanh vừa rất đông đảo, vừa được chuẩn bị rất chu tất và có quyết tâm rất cao. Một lần nữa, nền độc lập của nước nhà bị đe dọa nghiêm trọng. Cũng một lần nữa, Tây Sơn đứng trước một thử thách hết sức cam go. Thành bại của Tây Sơn lúc này hoàn toàn phụ thuộc vào thành bại của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mãn Thanh.
___________________________________
1. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 33).
2. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
3. Cửa ải ở biên giới Việt Trung, phía ta thuộc Hà Giang.
4. Chúng tôi kể theo địa danh hiện đại, cốt dễ hình dung.
5. Tức là nhằm ngày 25-11-1788 tính theo dương lịch.
6. Mân Quảng là vùng Phúc Kiến và Quảng Đông của Trung Quốc.
7. Hoan Ái là vùng từ Hà Tĩnh đến Thanh Hóa ngày nay.
8. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
Tình hình Bắc Hà trước Tết Kỷ Dậu (1789)
Khi quân Thanh bắt đầu tràn vào nước ta, lực lượng ủng hộ Lê Chiêu Thống dần dần ngóc đầu dậy, xã hội Bắc Hà bị phân hóa thành nhiều xu hướng khác nhau. Xu hướng thứ nhất là sẵn sàng sát cánh với Tây Sơn để chống quân xâm lược, chống hành vi phản dân hại nước xấu xa của Lê Chiêu Thống. Xu hướng thứ hai, do bị ảnh hưởng mạnh mẽ của quan niệm về giềng mối chính thống, đã tìm mọi cách để giúp đỡ Lê Chiêu Thống. Xu hướng thứ ba là bi quan và chán nản, họ không đứng về Tây Sơn nhưng cũng không chịu hợp tác với Lê Chiêu Thống. Tất nhiên, đó là ba xu hướng lớn chứ không phải là tất cả các xu hướng nhận thức và ứng xử khác nhau của Bắc Hà đương thời. Bối cảnh ấy đã đặt quân Tây Sơn trước những khó khăn rất lớn. Bấy giờ, Ngô Văn Sở đã có bốn quyết định rất quan trọng:
Một là cử người về Phú Xuân cấp báo cho Nguyễn Huệ rõ những diễn biến phức tạp của tình hình ở Bắc Hà, đồng thời, xin mệnh lệnh của Nguyễn Huệ.
Hai là cử một phái đoàn gồm chủ yếu là các cựu thần của nhà Lê như Nguyễn Quý Nha1, Trần Bá Lãm2, Vũ Huy Tấn3 Nguyễn Đình Khoan4, Lê Duy Chử5, Nguyễn Đăng Đàn6… đem bức thư kí tên Giám Quốc Lê Duy Cận, cùng với một tờ bẩm kí tên các hào mục nước ta, lên tận biên giới để trao cho Tôn Sĩ Nghị, xin được “nghị hòa”. Đó thực ra chỉ là một trong những biện pháp cốt góp phần làm trì hoãn bước tiến của quân Thanh mà thôi.
Ba là chấp thuận cho một số võ tướng đem quân lên biên giới sẵn sàng làm nhiệm vụ đánh chặn khi quân Thanh tràn sang nước ta.
Bốn là tổ chức cuộc hội nghị quân sự cao cấp tại kinh thành Thăng Long nhằm thống nhất về phương hướng đối phó với quân xâm lược Mãn Thanh.
Tại cuộc hội nghị quân sự cao cấp tổ chức ở Thăng Long, Bộ chỉ huy Tây Sơn đã nhất trí với chủ trương chung là: tạm thời lui quần về Tam Điệp và Biện Sơn7 để bảo toàn lực lượng, chờ đại quân của Nguyễn Huệ ra rồi mới đánh trận quyết định với quân xâm lược Mãn Thanh. Bởi chủ trương chung này, quân Mãn Thanh đã tràn vào Thăng Long tương đối dễ dàng.
Nghe tin quân chủ lực Tây Sơn đã rút khỏi Thăng Long và đồng bằng Bắc Hà, Tôn Sĩ Nghị rất tức tối. Hắn đổ tội cho Lê Chiêu Thống, cho Lê Chiêu Thống và đám tay chân là hèn nhát và kém cỏi, không làm nên được tích sự gì, và “có Lê Chiêu Thống cũng kể như không”. Lê Chiêu Thống phải cúi đầu năn nỉ mãi, Tôn Sĩ Nghị mới tạm thôi không quở trách nữa8. Vào Thăng Long, Tôn Sĩ Nghị đặt đại bản doanh tại cung Tây Long. Đạo quân do Tôn Sĩ Nghị chỉ huy thì đóng dọc theo bãi cát hai bên bờ sông Nhị, liên hệ với nhau bằng một chiếc cầu phao bắc tạm qua sông. Đạo quân do Sầm Nghi Đống chỉ huy đóng tại Đống Đa9. Đạo quân do Ô Đại Kim cầm đầu đóng tại Sơn Tây. Và, một đạo thủy quân nhỏ của Tôn Sĩ Nghị đóng tại Hải Dương. Các đạo thường xuyên liên lạc để sẵn sàng ứng cứu cho nhau khi có lệnh.
Bấy giờ là những ngày cuối năm, Tôn Sĩ Nghị thả lỏng cho quân sĩ mặc sức đi cướp bóc, “tìm cách vu hãm người lương thiện, áp bức nhà giàu có, thậm chí là giữa đường giữa chợ cũng hãm hiếp đàn bà, cướp bóc của cải, không còn biết kiêng sợ gì cả”10. Người đương thời đã phải đau khổ mà than rằng: “Nước Nam ta từ thuở có Đế Vương đến nay, chưa từng thấy ông vua nào luồn cúi đê hèn như thế cả”11.
Nếu đối với Tôn Sĩ Nghị nói riêng và quân Mãn Thanh nói chung, Lê Chiêu Thống tỏ ra “đê hèn” và “luồn cúi” bao nhiêu, thì ngược lại, đối với người trong nước, Lê Chiêu Thống lại tỏ ra hống hách và tàn ác bấy nhiêu. Mượn thế quân xâm lược, Lê Chiêu Thống tìm đủ mọi cách để tác oai tác quái, oán dẫu chỉ như là tơ tóc cũng quyết trả cho bằng được mới thôi. Hành vi đó đã khiến cho xã hội Bắc Hà vốn dĩ đã bị phân hóa lại càng bị phân hóa sâu sắc hơn.
____________________________________
1. Nguyễn Quý Nha hiện chưa rõ lai lịch.
2. Trần Bá Lãm người làng Vân Canh, huyện Từ Liêm (ngoại thành Hà Nội). Ông đỗ Chế Khoa Xuất Thân (ngang với Tiến Sĩ ) năm 1787.
3. Vũ Huy Tấn người làng Mộ Trạch, huyện Đường An, nay là xã Tân Hồng, huyện Cẩm Bình, tỉnh Hải Dương, đỗ đầu khoa thi Hương năm 1768. Thời Quang Trung, ông làm quan được phong tới chức Thượng Thư.
4. Nguyễn Đình Khoan người huyện Văn Giang (nay thuộc Hưng Yên), đỗ Tạo Sĩ (Tiến Sĩ võ).
5. Lê Duy Chử hiện chưa rõ lai lịch.
6. Nguyễn Đăng Đàn hiện chưa rõ lai lịch, chỉ biết vào tháng 7 năm 1778, ông từng được chúa Trịnh lúc bấy giờ là Trịnh Sâm cử giữ chức Án Sát trấn Yên Quảng (vùng Hải Phòng và Quảng Ninh ngày nay).
7. Tam Điệp và Biện Sơn nằm tiếp giáp giữa hai tỉnh Thanh Hóa và Ninh Bình.
8. Ngô Gia Văn Phái. Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 13).
9. Nay thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.
10, 11. Ngô Gia Văn Phái. Sách đã dẫn. Hồi thứ 13.
Nguyễn Huệ lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung và đích thân cầm quân ra Bắc
Tại Phú Xuân, ngày 24 tháng mười một1, Nguyễn Huệ nhập được tin cấp báo của Ngô Văn Sở do Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết chuyển đạt về. Tình thế mới buộc Nguyễn Huệ cần phải có những quyết định mới, sắc bén, kiên quyết và phù hợp. Tiêu diệt quân Mãn Thanh và trừng trị tập đoàn Lê Chiêu Thống là quyết tâm tự nhiên và tất nhiên, vì đó là cách duy nhất để bảo vệ độc lập và chủ quyền của đất nước, cũng là cách duy nhất để bảo vệ thành tựu của phong trào Tây Sơn. Nhưng, đánh quân Mãn Thanh, đánh một đội quân xâm lăng hùng hậu đang giương ngọn cờ chính trị giả hiệu là phù Lê diệt Tây Sơn, thì trước hết, Nguyễn Huệ phải tạo ra được một ngọn cờ chính trị khác, vừa đủ sức để tập hợp sức mạnh cũng như trí tuệ của nhân dân, lại vừa đủ sức để loại Lê Chiêu Thống ra khỏi vũ đài chính trị. Xuất phát từ sự phân tích rất chính xác đó, ngay ngày hôm sau, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân2, tại Núi Bân (thuộc Phú Xuân), Nguyễn Huệ đã lên ngôi Hoàng Đế, lấy niên hiệu là Quang Trung. Trong tờ chiếu lên ngôi, Nguyễn Huệ nói rất rõ:
“Trẫm đã hai lần gây dựng cho họ Lê, thế mà Tự Quân nhà Lê không biết giữ xã tắc, bỏ nước bôn tẩu ở ngoài, sĩ dân Bắc Hà không hướng về họ Lê mà chỉ trông mong vào Trẫm”3.
Ai lên ngôi để được hưởng cuộc sống nhung lụa của Đế Vương, còn Nguyễn Huệ thì khác hẳn. Với việc lên ngôi này Nguyễn Huệ đã dũng cảm dám nhận trước lịch sử sứ mệnh cực kì cao cả và vinh quang, đồng thời cũng vô cùng nguy hiểm, đó là lãnh đạo nhân dân quét sạch quân xâm lăng ra khỏi bờ cõi. Cũng với việc lên ngôi này, Nguyễn Huệ là người tuyên bố sự cáo chung của triều Lê và khẳng định mình là người chịu trách nhiệm cao nhất trong việc điều khiển vận mệnh của quốc gia và dân tộc.
Ngay sau khi làm lễ đăng quang, Nguyễn Huệ đã chỉ huy đại quân tiến thẳng ra Bắc. Theo ghi chép của các thư tịch cổ, ngày 29 tháng 11 năm Mậu Thân4, nghĩa là đúng bốn ngày kể từ khi rời khỏi Phú Xuân, Nguyễn Huệ đã có mặt tại Nghệ An. Đó thực sự là một cuộc hành quân thần tốc rất hiếm thấy trong lịch sử. Đến Nghệ An, Nguyễn Huệ dừng lại mười ngày để tuyển mộ thêm quân lính. Cũng tại Nghệ An, Nguyễn Huệ đã tổ chức một cuộc duyệt binh lớn, nhằm kiểm tra và biểu dương sức mạnh của quân đội trước khi bước vào cuộc chiến đấu quyết liệt với quân xâm lược Mãn Thanh. Trong cuộc duyệt binh này, Nguyễn Huệ đã dõng dạc tuyên bố:
“Quân Thanh sang xâm lược nước ta, hiện đang ở Thăng Long, các ngươi đã biết chưa? Trong khoảng vũ trụ, đất nào sao nấy, tất cả đều đã được phân biệt rõ ràng, Bắc Nam hai phương chia nhau mà cai trị. Người phương Bắc không phải nòi giống nước ta, bụng dạ ắt khác. Từ đời Hán đến nay, chúng đã bao phen cướp bóc nước ta, giết hại nhân dân ta, vơ vét của cải khắp đất nước ta, cho nên, người mình không ai chịu nổi, đều muốn đánh đuổi chúng đi. Đời Hán có Trưng Nữ Vương, đời Tống có Đinh Tiên Hoàng, Lê Đại Hành, đời Nguyên có Trần Hưng Đạo, đời Minh có Lê Thái Tổ... Các ngài không nỡ ngồi yên nhìn chúng làm điều tàn bạo, cho nên đã thuận theo lòng người mà dấy nghĩa binh, đều chỉ đánh một trận là thắng và đuổi được chúng về hẳn bên phương Bắc”.
… “Lợi hại và được thua đều là chuyện cũ rành rành của các triều đại trước. Nay người Thanh lại sang, mưu đồ lấy nước Nam ta mà đặt thành quận huyện của chúng, không biết trông gương các đời Tống, Nguyên và Minh thuở xưa, vì thế, ta phải kéo quân ra đánh đuổi chúng”5.
Để kích thích thêm tính chủ quan vốn có của Tôn Sĩ Nghị, từ Nghệ An, Nguyễn Huệ “sai người ruổi ngựa chạy gấp ra, đưa thư xin đầu hàng Tôn Sĩ Nghị, lời lẽ trong thư rất nhũn nhặn, khiêm tốn”. 6.
Sau lễ duyệt binh ở Nghệ An, Nguyễn Huệ cho quân tiến gấp ra Thanh Hóa. Đến Thọ Hạc (nay thuộc thị xã Thanh Hóa), Nguyễn Huệ lại long trọng tổ chức lễ thệ sư7. Tại đại lễ thệ sư này Nguyễn Huệ tuyên bố:
“Bớ chư quân! Phàm ai bằng lòng chiến đấu thì hãy vì ta giết sạch quân giặc. Nếu ai không muốn thì hãy xem ta giết vài vạn tên trong một trận, đó không phải là chuyện hiếm lạ đâu”8.
Cũng trong đại lễ thệ sư ở Thọ Hạc, Nguyễn Huệ đã trịnh trọng đọc lời đanh thép của mình trước tướng sĩ và ba quân:
“Đánh cho để dài tóc,
Đánh cho để đen răng.
Đánh cho chúng chích luân bất phản,
Đánh cho chúng phiến giáp bật hoàn,
Đánh cho sử tri Nam quốc anh hùng chi hữu chủ”
Sách xưa mô tả rằng: “(Nguyễn) Huệ vừa dứt lời, chư quân dạ ran như sấm, rung động cả hang núi, trời đất như muốn đổi màu. Thế rồi chiêng trống khua vang, quân sĩ tiến gấp ra Bắc”9.
____________________________________
1. Nhằm ngày 21 tháng 12 năm 1788.
2. Nhằm ngày 22 tháng 12 năm 1788.
3. Quang Trung tức vị chiếu.
4. Nhằm ngày 26-12-1788.
5. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14).
6. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 40).
7. Lễ tế cờ và thề trước lúc xuất quân.
8, 9. Nguyễn Thu: Lê quý kỷ sự.
Ngày 20 tháng chạp năm Mâu Thân1, Nguyễn Huệ đến Tam Điệp và Biện Sơn. Tại Tam Điệp và Biện Sơn, Nguyễn Huệ đã có bốn quyết định rất quan trọng.
Một là tuyên bố với các tướng lĩnh và văn thần rằng chủ trương của Bộ chỉ huy Tây Sơn ở Bắc Hà trước đó về việc tạm lui quân về Tam Điệp và Biện Sơn là hoàn toàn đúng đắn. Lời tuyên bố này có ý nghĩa rất lớn, bởi qua đó, Nguyễn Huệ đã củng cố thêm sự nhất trí ngày càng cao trong nội bộ của mình.
Hai là truyền hịch đi khắp các địa phương, kể tội Tôn Sĩ Nghị, lên án quân xâm lược Mãn Thanh, nhằm kích thích lòng yêu nước và chí căm thù giặc của nhân dân.
Ba là tổ chức khao quân, đồng thời tuyên bố rằng: “Nay hãy làm lễ ăn tết Nguyên Đán trước, đợi đến mồng 7 tháng giêng vào thành Thăng Long sẽ mở tiệc lớn. Các ngươi hãy ghi nhớ lấy lời ta nói xem có đúng như vậy không”2.
Bốn là chia quân làm năm đạo, đồng thời tấn công vào giặc từ năm mũi khác nhau:
+ Đạo thứ nhất là đạo chủ lực, do Nguyễn Huệ trực tiếp cầm đầu, gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh, được trang bị đầy đủ nhất. Cùng tham gia chỉ huy đạo quân này với Nguyễn Huệ còn có Đại Tư Mã Ngô Văn Sở, Nội Hầu Phan Văn Lân, Hám Hổ Hầu (tức Chiêu Viễn Tướng Quân). Đạo quân này đánh thẳng vào phía nam kinh thành Thăng Long, nơi tập trung lực lượng chủ lực của quân Thanh đông đảo nhất.
+ Đạo quân thứ hai cũng gồm đủ cả bộ binh, tượng binh và kỵ binh, do Đô Đốc Đặng Tiến Đông3 chỉ huy. Đạo này có nhiệm vụ đánh vào khu vực đóng quân của Sầm Nghi Đống ở Đống Đa, sau đó thì tràn vào Thăng Long, đánh vào đại bản doanh của Tôn Sĩ Nghị.
+ Đạo quân thứ ba do Đô Đốc Bảo chỉ huy, gồm kỵ binh và tượng binh. Đội tượng binh trong đạo quân này rất mạnh, khả năng cơ động rất cao. Đạo này có nhiệm vụ đánh vào phía tây nam của đồn Ngọc Hồi4. Với nhiệm vụ này, đạo quân thứ ba chính là lực lượng kết hợp quan trọng nhất đối với đạo chủ lực do Nguyễn Huệ cầm đầu trong trận tấn công vào Ngọc Hồi.
+ Đạo quân thứ tư gồm chủ yếu là lực lượng thủy binh do Đô Đốc Nguyễn Văn Tuyết chỉ huy, có nhiệm vụ vượt biển, tiến vào Hải Dương để tiêu diệt thủy binh của giặc tại đây, sau đó, tiến vào Thăng Long, tấn công dinh trại của quân Mãn Thanh dọc hai bên bờ Sông Nhị.
+ Đạo quân thứ năm cũng gồm chủ yếu là lực lượng thủy binh, do Đô Đốc Lộc chỉ huy, vượt biển để tiến ra khu vực sông Lực Đầu. Nếu chiến trận xảy ra ở Thăng Long mà gay go thì đây chính là đạo quân bất ngờ đánh từ phía sau đánh lại. Nếu quân Mãn Thanh ở Thăng Long mà nhanh chóng thất bại thì đây chính là đạo quân có nhiệm vụ đánh chặn đường rút lui của kẻ thù.
Nhìn tổng quát, kế hoạch của Nguyễn Huệ là kế hoạch tấn công vũ bão, dồn đối phương vào thế bị bao vây và bị tiêu diệt không cách gì chống đỡ nổi. Khác với trận quyết chiến chiến lược Rạch Gầm-Xoài Mút diễn ra vào năm 1785, trong trận quyết chiến chiến lược này, lực lượng chủ yếu của Tây Sơn không phải là thủy binh mà là bộ binh và tượng binh.
_____________________________________
1. Nhằm ngày 15-1-1789.
2. Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
3. Tác giả chưa có điều kiện để nghiên cứu riêng về nhân vật Đặng Tiến Đông. Tư liệu về vị tướng này: tác giả tham khảo và sử dụng công trình của Giáo sư Phan Huy Lê (xin xem thêm Chương thứ tư: Phụ lục).
4. Nay thuộc xã Ngọc Hồi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
Trận quyết chiến chiến lược Ngọc Hồi - Đống Đa: Tết Kỷ Dậu (1789)
Đêm ba mươi Tết, đại quân của Nguyễn Huệ bắt đầu vượt Gián Khẩu1 và bất ngờ tấn công vào dinh trại của quân Lê Chiêu Thống ở vòng ngoài. Bấy giờ, quân bản bộ của Lê Chiêu Thống gần như đã bị buộc phải canh giữ từ xa để quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị có thể yên tâm nghỉ ngơi và ăn tết. Vừa giáp chiến, quân của Lê Chiêu Thống đã đại bại và bỏ chạy thục mạng. Nguyễn Huệ ra lệnh cho tướng sĩ của mình truy kích đến cùng, quyết không để một tên nào thoát được.
Từ xa, vừa thoáng thấy quân Tây Sơn, những tên lính do thám của Tôn Sĩ Nghị cũng đã vội vã tháo chạy. Nhưng, tất cả bọn chúng đã không sao thoát khỏi cuộc truy nã thần tốc của quân đội Tây Sơn. Khi Nguyễn Huệ tiến đến tận Phú Xuyên, tức là chỉ còn cách Thăng Long hơn ba chục cây số, Tôn Sĩ Nghị và tướng sĩ dưới quyền vẫn chưa hề hay biết gì. Nguyễn Huệ quyết định phải triệt để lợi dụng yếu tố bất ngờ này để tổ chức những trận đánh đầu tiên vào các đồn lũy quan trọng nhất của quân Mãn Thanh.
Đêm mồng ba Tết Kỷ Dậu2, Nguyễn Huệ cho quân bí mật bao vây đồn Hà Hồi3. Đây là đồn nằm chắn ngang đường thiên lí từ Phía Nam ra Thăng Long. Phá được đồn Hà Hồi cũng có nghĩa là phá được vị trí tiền tiêu quan trọng nhất. Phá được đồn Hà Hồi cũng đồng thời có nghĩa là phá được cánh cửa bảo vệ mặt nam của Thăng Long. Sau khi đã bí mật bao vây xong đồn Hà Hồi, Nguyễn Huệ cho bắc loa gọi hàng. Tiếng loa vừa dứt, quân sĩ của Nguyễn Huệ liền đồng thanh cất tiếng dạ nhiều lần, chợt nghe cứ tưởng là có đến hàng vạn người đã khép kín vòng vây dày đặc ở bốn bên. Quân Thanh trong đồn Hà Hồi rụng rời hồn vía, lập tức kéo nhau ra xin hàng4. Đồn Hà Hồi bị tiêu diệt vừa rất nhanh, vừa rất gọn. Nguyễn Huệ thu được không biết bao nhiêu là lương thực, thực phẩm, vũ khí và các chiến lợi phẩm khác. Sau thắng lợi của trận Hà Hồi, Nguyễn Huệ đóng quân tại cánh đồng Cung5 và tại đây, một kế hoạch tấn công vào Ngọc Hồi đã nhanh chóng được xây dựng.
Tuy cùng án ngữ đường thiên lí dẫn vào Thăng Long, song, Ngọc Hồi có vị trí quan trọng hơn hẳn Hà Hồi. Đồn Ngọc Hồi6 chỉ cách Thăng Long hơn mười cây số. Tại đây, lực lượng quân Mãn Thanh rất đông, vũ khí rất đầy đủ và lương thực cũng rất dồi dào. Chỉ huy quân Thanh ở Ngọc Hồi là Đề Đốc Hứa Thế Hanh - Phó Tướng của một trong ba đạo quân lớn do Tôn Sĩ Nghị trực tiếp cầm đầu. Và, điều quan trọng hơn nữa là quân Thanh trong đồn Ngọc Hồi đã biết đồn Hà Hồi thất thủ, yếu tố bất ngờ tấn công của Tây Sơn đến đây không còn nữa. Cũng khác với Hà Hồi, đồn Ngọc Hồi rất kiên cố. Nhìn tổng thể, đồn Ngọc Hồi gồm có ba lớp khác nhau. Ngoài cùng là bãi chướng ngại vật, gồm cạm bẫy, chông sắt và cả địa lôi7. Đó là chưa kể ao Thọ Am ở phía đông nam cũng có giá trị như một bãi chướng ngại tự nhiên rất lợi hại. Nếu tính từ ngoài vào, sau bãi chướng ngại vật là chiến lũy và trong chiến lũy là dinh trại của quân Thanh. Theo ghi chép của một số thư tịch cổ, chúng ta có thể ước đoán tổng số quân Thanh trong đồn Ngọc Hồi vào khoảng vài ba vạn tên8. Cùng tham gia chỉ huy quân Thanh ở đồn Ngọc Hồi, dưới trướng của Đề Đốc Hứa Thế Hanh còn có một loạt các tướng lĩnh cao cấp khác. Đó là:
- Tổng Binh Thượng Duy Thăng.
- Tổng Binh Khánh Thành.
- Tổng Binh Trương Triều Long.
- Tổng Binh Lý Hóa Long.
Bản thân việc tập trung quan số và tướng lĩnh cao cấp này cũng đã đủ để khẳng định vị trí đặc biệt quan trọng của Ngọc Hồi. Đó là chưa nói rằng, ngay sau khi nhận được tin đồn Hà Hồi thất thủ, Tôn Sĩ Nghị còn điều động thêm một loạt quân sĩ, do Tổng Binh Thang Hùng Nghiệp cầm đầu, đến để tăng cường cho Ngọc Hồi. Tóm lại, Ngọc Hồi có giá trị như một cánh cửa sắt che chở cho Tôn Sĩ Nghị, như một quyết chiến điểm chiến lược của quân Mãn Thanh.
Về phần mình, Nguyễn Huệ đã cho đại binh áp sát đồn Ngọc Hồi nhưng chưa đánh ngay. Nếu Nguyễn Huệ bình tĩnh bao nhiêu thì quân Thanh lại luôn ở trong tình trạng căng thẳng bấy nhiêu. Ngay trong đêm mồng ba Tết Kỷ Dậu, quân Thanh đã liên tục bị báo động. Chúng mệt mỏi chờ đợi suốt một phần của đêm mồng ba, nguyên ngày mồng bốn và cả đêm mồng bốn Tết Kỷ Dậu9. Mãi đến sáng mồng năm Tết Kỷ Dậu, cuộc tấn công của Nguyễn Huệ vào đồn Ngọc Hồi mới bắt đầu. Tham gia trận đánh này lực lượng của Tây Sơn gồm có:
- Toàn bộ đạo quân do Nguyễn Huệ trực tiếp cầm đầu.
- Toàn bộ đạo quân do Đô Đốc Bảo chỉ huy.
Truyền thuyết dân gian vùng Thường Tín (Hà Tây) kể rằng, khuya mồng bốn Tết, Nguyễn Huệ hạ lệnh cho quân sĩ phải ăn thật no, ăn xong thì bỏ hết dụng cụ nấu nướng và lương thực lại, hẹn đến trưa mồng năm Tết Kỷ Dậu10 thì vào ăn trong đồn Ngọc Hồi. Khi xuất trận, toàn quân Tây Sơn giương cờ đỏ, quân sĩ thắt khăn đỏ còn Nguyễn Huệ thì thắt khăn vàng.
______________________________________
1. Nơi hợp lưu của sông Sinh Quyết và Đồng Minh trước khi đổ xuống Ngã Ba Non Nước (Ninh Bình).
2. Nhằm ngày 28-1-1789.
3. Hà Hồi nay thuộc xã Hồng Phong, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
4. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14).
5. Cánh đồng Cung cũng thuộc xã Hồng Phong, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
6. Ngọc Hồi nay thuộc xã Ngọc Hồi, huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây.
7. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 41) và Đại Nam chính biên liệt truyện (Sơ tập, quyển 30).
8. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14). Lê Trọng Hàm: Minh đô sử (quyển 44).
9. Nhằm ngày 29-1-1789.
10. Nhằm ngày 30-1-1789.
Bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị vừa nghe tin Hà Hồi thất thủ, chưa kịp nghĩ cách ứng phó gì đã nghe tin cấp báo của Ngọc Hồi. Sử cũ mô tả rằng, quân sĩ của Tôn Sĩ Nghị thì thán phục mà nói với nhau: “Tướng (Tây Sơn) như trên trời rơi xuống, quân (Tây Sơn) như dưới đất chui lên”, còn bản thân Tôn Sĩ Nghị thì rút kiếm chém xuống đất và nói: “Thần tốc, thật là thần tốc!”1. Ngay sau đó, Tôn Sĩ Nghị điều ngay một đội kỵ binh thân cận của mình đến và giao nhiệm vụ thông tin thường xuyên giữa Ngọc Hồi với đại bản dinh.
Cuộc tấn công vào Ngọc Hồi của quân đội Tây Sơn được mở đầu bằng cuộc xuất trận của hơn một trăm voi chiến. Nguyễn Huệ là người có đầu óc cải tiến rất táo bạo. Lần đầu tiên, đại bác được bố trí trên lưng voi, và do đó, voi chiến của Tây Sơn tung hoành chẳng khác gì xe tăng hiện đại. Ngoài ra, tượng binh của Tây Sơn còn được trang bị thêm cả hỏa hổ, súng tay và giáo mác, cung nỏ... Đề Đốc Hứa Thế Hanh hạ lệnh cho đơn vị kỵ binh mạnh nhất của giặc ở Ngọc Hồi ra nghênh chiến. Nhưng, vừa thoáng thấy voi chiến, ngựa của đối phương đã “hốt hoảng hí lên rồi chạy lồng trở lại, giẫm đạp lên nhau”2. Giặc chui vào đồn, nã đại bác vào quân Tây Sơn rất dữ dội nhưng vẫn không sao lung lay nổi thế trận của Tây Sơn. Đợt tấn công thứ nhất tạm kết thúc với thất bại bước đầu thuộc về quân Thanh.
Cũng ngay trong buổi sáng mồng năm Tết Kỷ Dậu, Nguyễn Huệ tổ chức đợt tấn công thứ hai vào Ngọc Hồi. Đợt này cũng được mở đầu bằng cuộc xông trận của voi chiến, nhưng, khác với đợt thứ nhất, ở đợt thứ hai này voi chiến đóng vai trò mở đường cho quân cảm tử tràn lên. Theo mô tả của sử cũ3 thì cứ mỗi tốp có ba mươi người. Mười người thì giắt đoản đao bên hông, cùng nhau khiêng một tấm bảng lớn, phía ngoài có cuốn rơm tẩm bùn để chặn mũi tên của giặc. Hai mươi người còn lại thì núp phía sau tấm ván che nói trên rồi nhất loạt cùng tiến. Số quân cảm tử của Nguyễn Huệ tham gia tấn công Ngọc Hồi đợt thứ hai này gồm chừng 600 người (hai mươi tốp). Đáp lại, quân Thanh liên tục nã đại bác và phun hỏa mù ra, khiến cho “khói lửa mù trời, gần nhau trong gang tấc mà cũng thẳng thấy gì cả”4. Tiến ngay sau voi chiến và quân cảm tử, đại binh của Tây Sơn cũng rầm rộ tràn vào. Những bó rơm lớn được dùng làm tấm đỡ, kẻ trước người sau đều liều chết mà đánh5. Lũy Ngọc Hồi bị phá và Nguyễn Huệ dẫn đại binh đánh thẳng vào dinh trại giặc. Đồn Ngọc Hồi tan tành. Giặc chết chồng chất lên nhau6. Tổng chỉ huy quân Thanh ở đồn Ngọc Hồi là Hứa Thế Hanh cùng với Tổng Binh Thượng Duy Thăng bị giết tại trận.
Quân sĩ Mãn Thanh sống sót ở đồn Ngọc Hồi chạy thục mạng về Thăng Long. Nhưng, vừa đến Yên Duyên7 thì lập tức bị một đạo quân Tây Sơn đã được Nguyễn Huệ bố trí mai phục sẵn, đánh cho một trận tơi bời, lại bị giết hại không biết bao nhiêu mà kể. Số sống sót lại liều chết tìm đường chạy nhanh về Thăng Long. Nhưng, đến Đầm Mực8 thì gặp quân mai phục do Đô Đốc Bảo bố trí sẵn. Và, một trận đánh đã diễn ra tại đây. Toàn bộ quân giặc chạy đến vùng Đầm Mực đều bị giết hoặc bị bắt sống. Như vậy là chỉ với một buổi sáng, quân Tây Sơn đã đập tan đồn Ngọc Hồi, mở tung cánh cửa sắt che chở mặt nam kinh thành Thăng Long để rồi nhanh chóng tiến thẳng vào sào huyệt của giặc. Đây là trận phối hợp tuyệt vời giữa hai binh chủng chính là bộ binh và tượng binh, đây cũng là trận kết hợp chặt chẽ giữa tấn công trực diện với bí mật bao vây và tiêu diệt. Đè bẹp được lực lượng quân Mãn Thanh ở Ngọc Hồi cũng có nghĩa là Tây Sơn bắt đầu nắm được phần đại thắng ở trong tay.
Đồng thời với cuộc tấn công vào Ngọc Hồi, đạo quân Tây Sơn do Đô Đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy9 cũng đánh mạnh vào Đống Đa. Cầm đầu quân Mãn Thanh ở Đống Đa là Sầm Nghi Đống. So với những tướng lĩnh cao cấp dưới trướng của Tôn Sĩ Nghị thì Sầm Nghi Đống kém cỏi hơn cả. Quân do tướng Sầm Nghi Đống quản lĩnh cũng chủ yếu là quân ô hợp. Nhưng, do đóng giữ ở một vị trí thuận lợi, lại ở ngay cửa dẫn vào Thăng Long10, Sầm Nghi Đống có không ít lợi thế. Tổ chức tấn công vào Đống Đa không đơn giản một chút nào cả. Tương tự như ở Ngọc Hồi, quân Tây Sơn đánh vào Đống Đa do Đô Đốc Đặng Tiến Đông chỉ huy gồm chủ yếu là bộ binh và tượng binh. Quân số Tây Sơn tuy không đông nhưng rất tinh nhuệ và linh hoạt. Vào khoảng cuối canh tư11 của đêm mồng năm Tết Kỷ Dậu12, cuộc tấn công vào Đống Đa bắt đầu. Chỉ trong chốc lát, hàng ngàn quân Thanh đã bị giết, Sầm Nghi Đống hốt hoảng chui vào đồn để cố thủ mà chờ viện binh. Đúng lúc đó, nhân dân các địa phương ở chung quanh đã lấy rơm rạ bện thành con cúi13, châm lửa vào, cầm lên rồi vựa đi vừa múa. Khi ấy, sương mù còn dày đặc, xa trông, những con cúi đã châm lửa ấy chẳng khác gì rồng lửa, vì thế, gọi là hỏa long trận. Tuyệt vọng vì biết không thể nào chống đỡ nổi, Sầm Nghi Đống đã thắt cổ tự tử. Hàng trăm thuộc hạ trung thành cửa Sầm Nghi Đống cũng tự sát theo chủ14. Đống Đa bị hạ, đường Tây Sơn tiến thẳng vào đại bản dinh của Tôn Sĩ Nghị đã thênh thang.
Bấy giờ, Tôn Sĩ Nghị liên tiếp nhận được tin bại trận từ khắp nơi truyền về, chưa kịp nghĩ cách ứng phó thì đã thấy bốn bế lấp loáng hỏa long trận và những đơn vị đầu tiên của quân Tây Sơn dũng mãnh xông vào. “Ngựa không kịp đóng yên, người không kịp mặc giáp, dẫn bọn kỵ binh của mình bỏ trốn trước, qua cầu phao, nhằm thẳng hướng bắc mà chạy thục mạng”15, đó là hình ảnh thảm hại của Tôn Sĩ Nghị sáng mồng năm Tết Kỷ Dậu (1789). Quân Mãn Thanh thấy chủ tướng chạy thì cũng tranh nhau tìm đường chạy theo. “Chúng tranh nhau qua cầu để sang sông, xô đẩy nhau rơi xuống nước chết không biết bao nhiêu mà kể”16. Sợ quân Tây Sơn cũng sẽ dùng cầu phao mà vượt sông truy đuổi, Tôn Sĩ Nghị đã hạ lệnh chặt đứt cầu phao. Hành động tàn ác đó đã khiến cho hàng vạn quân lính của Tôn Sĩ Nghị bị chết đuối, nước sông Nhị vì thế mà tắc nghẽn, không chảy được”17. Số quân Thanh còn kẹt lại ở bờ Nam thì đi cướp giật thuyền của dân mà sang bờ Bắc, nhưng, quân đông mà thuyền ít, chúng tranh giành nhau, chém giết nhau, khiến thuyền chìm, người chết. Và, đúng lúc chúng đang hoảng sợ đến tột độ thì quân Tây Sơn ập tới. Tất cả đều bị giết hoặc bị bắt làm tù binh. Đó thực sự là một ngày thảm hại. Về sau, ngày thảm hại này được Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái khái quát bằng bốn câu thơ Nôm (phiên âm) như sau:
Vua Lê khi ấy vội vàng,
Cùng Tôn Sĩ Nghị sang đàng Bắc Kinh.
Qua sông lại sợ truy binh,
Phù kiều chặt đứt, quân mình thác oan18.
Khi đã qua được sông Hồng, chúng cứ ngỡ là có thể yên tâm chạy một mạch về Trung Quốc, chẳng dè, chưa kịp hoàn hồn thì đã bị quân Tây Sơn do Đô Đốc Lộc chỉ huy, xông tới đánh cho mấy trận kinh hoàng nữa. Rất tiếc cho Tây Sơn và cũng rất may cho tàn quân của Tôn Sĩ Nghị, ấy là do gặp bão, đạo quân do Đô Đốc Lộc chỉ huy đến có phần chậm hơn so với kế hoạch đã định vì thế, không kịp bố trí để có thể bịt kín mọi ngả tháo chạy của quân Thanh. Theo nhận định của một giáo sĩ phương Tây thì số quân Thanh chạy thoát và về được Trung Quốc chỉ độ ba bốn chục tên mà thôi19.
Đạo thủy binh nhỏ của Mãn Thanh đóng ở Hải Dương cũng bị tiêu diệt gọn. Đáng được coi là may mắn hơn cả có lẽ là đạo quân Mãn Thanh do Ô Đại Kinh cầm đầu. Hắn tiến rất chậm, do đó, khi mới đến Sơn Tây, chưa kịp ổn định nơi đóng quân thì đã nghe tin Tôn Sĩ Nghị đại bại. Từ Sơn Tây, Ô Đại Kinh lập tức cho quân chạy về phương Bắc. Nhưng, đạo quân này cũng bị các đội dân binh ở Tuyên Quang đánh cho tơi bời, khiến đội ngũ bị rối loạn, thất lạc và không liên hệ được với nhau.
Ý chí xâm lăng của nhà Mãn Thanh đối với nước ta trao gởi ở hai mươi chín vạn quân do Tôn Sĩ Nghị cầm đầu đã bị đè bẹp hoàn toàn. Ngọc Hồi - Đống Đa đi vào lịch sử dân tộc với ý nghĩa là tên gọi hào hùng của võ công chống xâm lăng oanh liệt vào hàng bậc nhất. Sau Ngọc Hồi - Đống Đa, Lê Chiêu Thống buộc phải sống lưu vong đầy tủi nhục trên đất Trung Quốc để rồi mất ở đó vào tháng 10 năm 1793, khi vừa mới 28 tuổi. Cũng sau Ngọc Hồi - Đống Đa, nhà Thanh buộc phải thừa nhận ngôi vị và chính quyền của Quang Trung Nguyễn Huệ.
____________________________________
1, 3, 4, 6, 15, 16, 17. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14).
2, 5. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 41).
7. Yên Duyên nay thuộc thôn Sở Hạ, xã Ninh Sở, huyện Thưởng Tín, tỉnh Hà Tây.
8. Nay thuộc xã Vĩnh Quỳnh, huyện Thanh Trì, Hà Nội.
9. Về nhân vật Đặng Tiến Đông, xin tham khảo thêm Chương thứ tư: phụ lục.
10. Đó là cửa ô Thịnh Quang (cũng tức là cửa ô Thịnh Hào). Nay là Ô Chợ Dừa thuộc quận Đống Đa, Hà Nội.
11. Khoảng gần ba giờ sáng.
12. Nhằm ngày 30-1-1789.
13. Người xưa thường dùng rơm bện lại thành từng lọn dài ngắn khác nhau để dùng vào việc xin lửa khi nhà chẳng may không còn lửa. Những lọn rơm hoặc rạ như thế, gọi là con cúi.
14. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (Chính biên, quyển 47, tờ 41).
18. Đại Nam quốc sử diễn ca (Phù kiều nghĩa là cầu phao).
19. De la Bissachère: État actuel du Tonkin, de la Cochinchine et des autres royaumes de Cambodge, Lao et Lạc Thổ. Paris. 1812. T. 2 P.170.
10. Quang Trung - vị Hoàng Đế của những cải cách tích cực và táo bạo
Khi quân Mãn Thanh và bè lũ Lê Chiêu Thống đã bị quét sạch khỏi bờ cõi, cơ đồ mà Quang Trung Nguyễn Huệ tiếp nhận được chỉ là sự điêu tàn và đổ nát. Với cương vị là Hoàng Đế, Quang Trung đã ban hành một loạt những biện pháp nhằm nhanh chóng giải quyết những khó khăn chồng chất của đất nước đương thời.
Trước hết, Quang Trung tìm cách thiết lập mối quan hệ bang giao hữu hảo với nhà Thanh, tránh họa binh đao lâu dài cho nhân dân hai nước. Việc này, Quang Trung đã chuẩn bị ngay từ khi mới đến Tam Điệp và Biện Sơn. Sử cũ chép:
“Lần này ta đích thân cầm quân, kế sách tiến đánh đều đã có sẵn, chẳng qua chỉ độ mười ngày là đánh đuổi được quân Thanh. Nhưng chúng là nước lớn gấp mười nước mình, sau khi bại trận thì ắt lấy làm xấu hổ nên lo đánh báo thù, thế thì việc binh đao sẽ chẳng biết bao giờ dứt, ta thật không nỡ vì như thế là không may cho dân. Vậy, khi ấy chỉ có người khéo nói mới mong dập tắt được binh đao. Ta thấy việc này, ngoài Ngô Thì Nhậm ra, chẳng ai làm được1.
Quả y như rằng, sau chiến thắng, Ngô Thì Nhậm và em rể ông là Phan Huy Ích được Quang Trung giao trách nhiệm chỉ huy những hoạt động nhằm thiết lập mối quan hệ bang giao hữu hảo với nhà Mãn Thanh. Chủ trương của Hoàng Đế Quang Trung là phải thật mềm mỏng nhưng cũng phải thật kiên quyết. Mềm mỏng là mềm mỏng trong sách lược, trong từng bước đi cụ thể, còn kiên quyết là kiên quyết trong mục tiêu bảo vệ đến cùng, nền độc lập và chủ quyền mà cả dân tộc ta phải đổi không biết bao nhiêu xương máu mới giành lại được. Và, Quang Trung đã thành công2.
Đối với bọn phản loạn ngoan cố, Quang Trưng thẳng tay trừng trị. Bấy giờ, lực lượng phản loạn đáng kể hơn cả vẫn là lực lượng do Lê Duy Chỉ (em ruột Lê Chiêu Thống) cầm đầu. Năm 1790, Lê Duy Chỉ đã tạo ra được một mối liên minh nguy hiểm, gồm có Lê Duy Chỉ ở Cao Bằng, quân Xiêm và quân Lào ở mặt tây, quân Nguyễn Ánh ở mặt nam. Năm 1791, quân Tây Sơn do Trần Quang Diệu3 chỉ huy đã tràn sang Lào, đánh tan và truy đuổi quân Xiêm đến biên giới Xiêm La.
Khi ấy, vùng đất do Quang Tnmg quản lí gồm từ Bến Ván (Quảng Nam) trở ra cho đến hết miền Bắc. Trên dải đất đó, lúc đầu Quang Trung đóng đô tại Phú Xuân (Huế ngày nay), nhưng về sau, Quang Trung đã chọn đất định đô mới cho triều đại của mình tại Nghệ An. Đó là Phượng Hoàng Trung Đô. Rất tiếc là Phượng Hoàng Trung Đô đang kiến thiết dở dang thì Quang Trung qua đời.
Trong khoảng từ năm 1789 đến năm 1792, Quang Trung đã ban hành nhiều chính sách lớn, tạo ra được những ảnh hưởng rất tốt đẹp. Ngay đầu năm 1789, Quang Trung đã ban hành Chiếu khuyến nông với những nội dung rất cụ thể như: kêu gọi nhân dân tích cực sản xuất, không được bỏ ruộng hoang, người đi phiêu tán phải trở về quê cũ... v.v. Quang Trung trọng nông (coi trọng sản xuất nông nghiệp) nhưng không ức thương (ức chế sự phát triển của thương mại). Đó là điểm độc đáo trong chính sách kinh tế của Quang Trung. Và, cũng dưới thời Quang Trung, các ngành kinh tế thủ công nghiệp đều có cơ hội để phát triển.
Trong văn hóa, Quang Trung đặc biệt coi trọng việc học. Đầu năm 1789, với Chiếu lập học, Quang Trung đã thể hiện khá rõ hoài bão lớn của mình về việc mở mang nền giáo dục. Đặc biệt, Quang Trung rất đề cao chữ Nôm, muốn biến chữ Nôm thành chữ viết chính thức của nước nhà. Chính Quang Trung đã quyết định thành lập viện Sùng Chính (cơ quan chuyên trách về giáo dục của triều đình, đồng thời cũng là cơ quan chuyên lo phiên dịch các sách chữ Hán ra chữ Nôm.)
Tuy bận rộn với ngổn ngang công việc, nhưng Quang Trung vẫn không quên lưu tâm đến hoạt động của các tôn giáo, đến sự có mặt của các giáo sĩ phương Tây ở nước ta. Nhìn chung, thái độ của Quang Trung là rất chân thành.
*
* *
Sau khi tình hình trong vùng đất do Quang Trung quản lí đã tương đối ổn định, Quang Tnmg quyết định dốc lực lượng đánh trận cuối cùng với Nguyễn Ánh. Bấy giờ, Nguyễn Lữ đã mất, Nguyễn Nhạc thì cầu an, tự mãn... chỉ có Quang Trung mới có thể đảm nhận được trọng trách này. Đàng sau Nguyễn Ánh lúc này còn có cả thực dân phương Tây, và quan trọng hơn, Nguyễn Ánh đã chiếm lại được Gia Định, biến Gia Định thành một sào huyệt kiên cố và nguy hiểm. Trước khi xuất quân, ngày 10 tháng 7 năm Nhâm Tuất4, Quang Trung đã truyền hịch đến nhân dân cùng quan lại hai phủ Quy Nhơn và Quảng Ngãi. Nhưng, rất tiếc là khi công việc chuẩn bị đang được tiến hành một cách khẩn trương và thuận lợi thì đêm ngày 29 tháng 7 năm Nhâm Tí5, Quang Trung đột ngột qua đời. Năm đó Quang Trung vừa 39 tuổi.
Một cuộc đời chỉ có 39 tuổi xuân, nhưng Quang Trung đã có hai mươi hai năm tả xung hữu đột, hai mươi hai năm đánh Nam dẹp Bắc, khiến cho thù trong phải bạt vía, giặc ngoài phải kinh hồn; hai mươi hai năm Quang Trung chỉ có tiến chứ chưa hề lùi, dù chỉ là lùi một bước ngắn; hai mươi hai năm Quang Trung chỉ có thắng chứ chưa hề bại, dù chỉ là bại một trận nhỏ. Vị anh hùng kiệt xuất này ra đi, để lại cả một sự nghiệp lớn đang dở dang, để lại niềm kính trọng và thương tiếc khôn nguôi cho lớp lớp những thế hệ nhân dân yêu nước.
Nối ngôi Quang Trung là Quang Toản. Khi lên nối ngôi, Quang Toản mới được tròn mười tuổi. Bấy giờ, đất nước đang chồng chất những khó khăn mà Quang Toản thì quá nhỏ tuổi, không đủ năng lực và uy tín để điều khiển triều chính, đã thế, nội bộ triều đình lại mất đoàn kết ngày càng nặng, và chính điều này đã vô tình tạo cơ hội tốt cho Nguyễn Ánh tổ chức phản công. Tháng 10 năm 1802, Quang Toản bị Nguyễn Ánh giết.
________________________________________
1. Ngô Gia Văn Phái: Hoàng Lê nhất thống chí (Hồi thứ 14).
2. Đã có người nhầm lẫn rằng Quang Trung phải sang chầu vua Càn Long. Thực ra, người sang chầu Càn Long chỉ là giả vương (người đóng giả Quang Trung), tên là Phạm Quang Trị. Điều này, chính Mãn Thanh cũng biết, nhưng rồi cũng phải... “ngậm bồ hòn làm ngọt”.
3. Xin tham khảo phần viết về Trần Quang Diệu ở Chương thứ ba trong sách này.
4. Nhằm ngày 27-8-1792.
5. Nhằm ngày 16 tháng 9 năm 1792.