Monica Caison (Sinh năm 1970) NHỮNG CUỘC TÌM KIẾM CỦA MONICA
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
“Sarah và Tariq Elsafi mất tích từ ngày 9 tháng 5 năm 2003, khi mất tích Sarah 9 tuổi, Tariq 12, nơi mất tích là Miami, Florida”, “Leon Green, mất tích từ ngày 15 tháng 12 năm 1985, khi mất tích 1 tuổi, nơi mất tích là Brooklyn, New York”, “Denise Fagot mất tích từ ngày 2 tháng 3 năm 1989, khi mất tích 22 tuổi, nơi mất tích là ở Lancaster, California”. Bạn có thể tìm thấy hơn 6000 cụm thông tin như trên cùng nhiều thông tin liên quan đến mỗi trường hợp mất tích tại trung tâm CUE, một tổ chức tình nguyện tìm kiếm người mất tích do một phụ nữ có tên là Monica Caison sáng lập ra.
Monica Caison sinh ra và lớn lên ở Florida, Hoa Kỳ. Năm cô hai mươi hai tuổi, một người quen nhờ cô chuyển hộ một số tấm séc và cô đã giúp người đó mà không biết đó là những tấm séc bị ăn cắp. Cô bị kết tội đồng loã ăn cắp và nỗi oan này đã làm thay đổi cả cuộc đời cô. Cô quyết định làm người hoạt động vì cộng đồng.
Trước tuổi hai nhăm, Monica đã chứng kiến ba trường hợp mất tích ở nơi cô sống. Cô biết họ chỉ là ba trong số hàng triệu trẻ em và người lớn mất tích ở Mĩ. Đa số họ mất tích vì những nguyên nhân chưa được làm sáng tỏ, nhưng có một điều rõ ràng là sự biến mất của họ gây ra nỗi đau, nỗi lo lắng khôn nguôi cho những người thân. Với mong muốn mang lại hy vọng cho những gia đình có người mất tích, năm 1994 Monica thành lập trung tâm CUE. Trung tâm của cô tập trung vào hai hoạt động: Tìm kiếm người mất tích và giúp đỡ gia đình có người mất tích. Cô tổ chức những đội tìm kiếm người mất tích với mọi phương tiện mà CUE huy động được, thiết lập đường dây nóng tiếp nhận thông tin về người mất tích, giữ liên lạc với các nhân chứng. Cô cũng cung cấp dịch vụ tư vấn và quyên góp tài chính hỗ trợ gia đình của những người mất tích, tổ chức các hoạt động giúp phòng ngừa mất tích. Kể từ khi thành lập, Monica và những người tình nguyện của CUE đã giúp đỡ được 6000 gia đình có người mất tích trong những thời điểm họ bối rối và khó khăn nhất.
Tìm kiếm người mất tích không phải là một công việc đơn giản. Có những trường hợp mất tích cách đây đã 30 năm và cảnh sát đã ngừng các hoạt động tìm kiếm từ lâu, nhưng gia đình của những người mất tích thì không muốn bỏ cuộc. Họ tìm đến CUE và Monica giúp họ khơi dậy mối quan tâm từ cộng đồng với người bị mất tích. Năm nào cô cũng tổ chức những chương trình thu hút sức mạnh của cộng đồng đối với công việc tìm kiếm người mất tích. Năm 1996 cô tổ chức chương trình truyền thông mang tên Bạn có nhìn thấy họ ở đâu không?... Chương trình được triển khai với một chiến dịch phát ảnh và thông tin về người mất tích đến nhiều bang. Chỉ riêng cái tên gây xúc động của chương trình đã thu hút được sự chú ý của đông đảo người dân. Năm 1998, cô vận động hãng truyền thông cáp Times Warner hỗ trợ việc cập nhật thông tin về những trường hợp mất tích. Nỗ lực này đã dẫn đến sự ra đời của chương trình thông tin về người mất tích trên kênh 4 của hãng. Năm 2004 Monica và những người tình nguyện của CUE tổ chức một chuyến đi xuyên Mĩ mang tên Con đường để nhớ. Mục đích của chuyến đi này là khơi dậy trong trí nhớ của người dân về 30 trường hợp mất tích thuộc mười bang của nước Mĩ. Họ hy vọng rằng khi những tấm ảnh của những người mất tích được xem, những câu chuyện về người mất tích được nghe, những tài liệu về những người mất tích được phát tới hàng nghìn người trên đường đi, họ sẽ nhận được những thông tin mới giúp ích cho quá trình tìm kiếm. Khởi hành từ bắc Carolina, đoàn tình nguyện đã đi 10 giờ mỗi ngày theo đúng hành trình mà những người mất tích đã đi, trước khi họ biến mất. Chẳng hạn, để người dân nhớ lại trường hợp một phụ nữ tên là Leagh Roberts mất tích năm 2000, đoàn tình nguyện đã đi từ Raleigh đến Washington dừng lại ở 18 thành phố, nơi có người nói là đã nhìn thấy Leagh. Họ đến cả nơi mà chiếc xe Jeep của Leagh bị bỏ lại. Monica cho biết những nỗ lực của họ không vô ích; họ đã thu thập được những thông tin mới về hành trình của Leagh từ những người dân sống ở Tennesse. Ông Jim Viola chồng của một phụ nữ bị mất tích tại Bogota từ ngày 13 tháng Hai năm 2001 tham gia đoàn lữ hành xúc động nói: “Thay mặt cho cá nhân tôi, các con của tôi, gia đình tôi và gia đình của cô ấy, chúng tôi cảm ơn các bạn rất nhiều đã tạo cơ hội cho câu chuyện về Patrica, vợ tôi, được quan tâm trở lại qua chuyến đi này”.
Monica điều hành trung tâm CUE với vô số những công việc nảy sinh hàng ngày. Cô luôn ở trong tư thế của một người tìm kiếm; tìm kiếm người mất tích, tìm kiếm sự giúp đỡ của cộng đồng, tìm kiếm niềm vui cho những nỗ lực của cô và những người tình nguyện. Trên trang web của CUE, Monica cho đăng một đoạn hỏi đáp giữa cô và những người truy cập Web. Người ta hỏi: “Nếu tôi gửi tiền quyên góp cho CUE thì tiền của tôi sẽ đi đâu?”. Cô trả lời: “Tất cả tiền quyên góp đều được sử dụng để hỗ trợ những gia đình có người mất tích”. Khi được hỏi có phải tiền ủng hộ cũng được dùng để trả lương cho nhân viên của CUE phải không?” Monica trả lời: “Không, chúng tôi, những nhân viên tình nguyện, hiến tặng công sức lao động của mình”.
Monica cho biết cô sẽ dành cả phần đời còn lại của mình cho những cuộc tìm kiếm những người mất tích.
Inge Genefke (Sinh năm 1938) BÁC SĨ KHÔNG BIÊN GIỚI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Xem những bộ phim về thời cổ đại chúng ta không khỏi rùng mình trước đủ các kiểu tra tấn dã man mà những tù trưởng và các vị vua chúa có thể nghĩ ra, nhằm làm suy sụp sức khoẻ và ý chí của những tù nhân của họ. Những người tù bị rút móng tay, bị nhốt chung với những con thú dữ ăn thịt người, bị trói bằng những sợi dây thừng và cho ngựa kéo đi trên những con đường lởm chởm đá. Một số bức tranh còn lưu lại từ thời trung cổ cũng cho thấy những cảnh tra tấn rùng rợn không kém. Trong một bức tranh miêu tả cảnh giáo sĩ chủ trì một cuộc tra tấn một kẻ dị giáo ở Tây Ban Nha vào năm 1700, người ta thấy nạn nhân gần như bị lột truồng, bị trói hai tay lên một thanh xà treo trong khi hai kẻ tra tấn dùng những dụng cụ tra tấn trông giống như những chiếc kìm kẹp những cục than hồng gí vào bụng và bàn chân anh ta. Trong thế giới hiện đại, tra tấn đã bị quy là một việc làm phạm pháp. Theo điều 5 của bộ luật do Liên hợp quốc ban hành thì “Không ai là đối tượng của hành động tra tấn hoặc hình thức trừng phạt tàn bạo phi nhân tính”. Luật quy định như vậy, nhưng ở đâu đó trong làn sương mù u ám của những cuộc xung đột, những cuộc chiến tranh, đằng sau song sắt của không ít nhà tù thì nhiều con người vẫn trở thành nạn nhân của những cuộc tra tấn gây tổn hịa ghê gớm cả về tinh thần lẫn thể xác và để lại những hậu quả vô cùng nghiêm trọng trong suốt cuộc đời của họ.
Vào đầu những năm 70 của thế kỷ XX, Tổ chức Ân xá thế giới phải đối mặt với một sự thật đau lòng: Cho dù được ân xá nhưng nhiều tù nhân từng bị tra tấn không thể nào trở lại được cuộc sống bình thường. Tổ chức này kêu gọi các bác sĩ trên toàn thế giới hãy giúp đỡ những người đã từng bị tra tấn. Inge Genefke, một nữ bác sĩ người Đan Mạch, là người đầu tiên hưởng ứng lời kêu gọi này. Năm 1974 bà đứng lên thành lập một nhóm thầy thuốc chăm sóc các nạn nhân của các vụ tra tấn. Tại thời điểm đó trên thế giới chưa hề có một tổ chức phi chính phủ nào hoạt động trong lĩnh vực này. Nhóm thầy thuốc của Inge đã thu được những kết quả quan trọng, đủ để khích lệ nhiều thầy thuốc ở các nước khác trên thế giới đứng lên thành lập những nhóm hoạt động tương tự. Năm 1982, Inge phát triển tổ chức của bà thành một trung tâm nghiên cứu các hành động tra tấn và phục hồi cho những nạn nhân từng bị tra tấn. Mục tiêu hoạt động của trung tâm là tạo điều kiện phục hồi về thể xác và tinh thần cho những nạn nhân của các vụ tra tấn, thông qua những diễn đàn phổ biến phương pháp khám và điều trị phục hồi cho những nạn nhân từng bị tra tấn, tiến hành nghiên cứu về bản chất, mức độ và hậu quả của việc tra tấn, cung cấp tài liệu và đẩy mạnh hoạt động tuyên truyền nhằm phòng ngừa tra tấn trên toàn thế giới. Năm 1997, tổ chức này trở thành một tổ chức quốc tế mang tên IRCT.
Chỉ trong một năm từ năm 1999 đến năm 2000, Inge đã lãnh đạo IRCT thiết lập được 15 trung tâm phục hồi sức khoẻ cho những nạn nhân từng bị tra tấn ở những nước vừa mới trải qua nội chiến và xung đột quân sự. Sau cuộc khủng khoảng ở Kosovo, bà và các tình nguyện viên đã mở trung tâm chăm sóc các nạn nhân của các vụ tra tấn tại Pristina và sáu trung tâm vệ tinh khác ở khắp Kosovo. IRCT cũng thực hiện chương trình điều trị tâm lý cho 5000 trẻ em bị ảnh hưởng bởi các hành động bạo lực trong cuộc nội chiến ở Đông Timor và huấn luyện 125 giáo viên tại các trường học ở nước này thành những nhà tâm lý trị liệu ngay tại cộng đồng của họ. Hoạt động hỗ trợ nạn nhân của các hành động tra tấn cũng đã được triển khai ở Iraq, trong một chương trình mang tên “Đến với những nạn nhân bị tra tấn sau chiến tranh Iraq”. Chương trình này bắt đầu với một dự án thí điểm triển khai 15 trung tâm phục hồi trên khắp Iraq. Cáctrung tâm này cung cấp các dịch vụ phục hồi thể lực, phục hồi tâm lý, tư vấn luật pháp cho 1500 người đã từng bị tra tấn. Thành công của dự án này là tiền đề cho IRCT thành lập 75 hội chăm sóc sức khoẻ và 15 hội tư vấn pháp luật cho các nạn nhân trên khắp Iraq. Các trung tâm mở rộng sau các dự án tương tự cũng được phát triển ở Ukraine, Uganda, Kenya, Kuwait v.v…
Inge đã từng nói trên các diễn đàn: “Mục đích của hành động tra tấn là huỷ hoại một con người, huỷ hoại thể xác và tâm hồn người đó. Nó còn tệ hại hơn cả hành động giết người. Ngày nay chúng tôi biết rằng, những người sống sót sau những vụ tra tấn có thể được giúp đỡ để lấy lại sức khoẻ, sức mạnh tinh thần và để giúp họ, chúng tôi sẽ tước vũ khí của những kẻ tra tấn. Những kẻ tra tấn tìm cách huỷ hoại người khác nhưng chúng tôi đã chứng minh cho những kẻ đó thấy rằng họ đã không thành công”. Đúng như những gì bà nói, ngay từ những ngày đầu hoạt động, Inge đã hướng IRCT tới chương trình nghiên cứu mang tính cơ bản và toàn diện về vấn đề tra tấn trên thế giới, để tạo ra hệ thống kiến thức đầy đủ giúp ích cho công tác giáo dục và phòng ngừa tra tấn tại các quốc gia. Những hoạt động liên kết giữa IRCT với các tổ chức phi chính phủ khác đã giúp người dân tại các quốc gia ý thức sâu sắc hơn về thực trạng và hậu quả của việc tra tấn. Các tài liệu nghiên cứu mà Inge cho công bố bước đầu đã thúc đẩy một số nước trên thế giới đi đến xem xét, bổ sung các điều khoản luật có tác dụng ngăn ngừa các hành động tra tấn.
Từ việc chăm sóc sức khoẻ cho các bệnh nhân tại một cộng đồng ở Đan Mạch, Inge đã trở thành bác sĩ không biên giới. Hiện nay bà điều hành 180 dự án của 130 trung tâm tại 70 nước trên khắp các châu lục. Số nạn nhân may mắn được tổ chức của bà giúp đỡ lên tới hàng nghìn người. Thành công của IRCT đã khiến Inge trở thành một trong những người phụ nữ đáng khâm phục nhất ở châu Âu trong những năm đầu của thế kỷ XXI.
Sarah Flannery (Sinh năm 1982) CÔ GÁI VỚI NHỮNG THUẬT TOÁN
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Sarah Flannery sống với bố mẹ và bốn người em trong một ngôi nhà nhỏ ở Cork, thuộc Ireland. Cả bố và mẹ của cô đều là những giảng viên của học viện kỹ thuật Cork. Từ khi còn nhỏ, năm chị em cô đã được bố mẹ khuyến khích học toán. Trên chiếc bảng đen để trong phòng bếp nhà họ luôn có những đề toán hóc búa do ông bố viết ra để các con của ông đua nhau giải.
Hàng tuần vào các tối thứ Ba, bố của Sarah lại tham gia một buổi giảng toán tình nguyện tại học viện. Sarah được bố cho đi cùng và ngay từ buổi đầu cô đã trở thành một học viên thực thụ. Qua những buổi học, cô được làm quen với số học mođun, các khoá công khai của thuật toán RSA. Các giảng viên của học viện chú ý đến Sarah bởi khả năng nhận thức nhanh và óc sáng tạo của cô.
Năm Sarah mười lăm tuổi, các giáo viên ở học viện Cork gợi ý cô nên tham gia cuộc triển lãm dành cho các tài năng khoa học trẻ toàn quốc hàng năm sắp được tổ chức tại Dublin. Sarah rất hứng thú với gợi ý này và cô bắt tay ngay vào thực hiện một dự án khoa học để mang đi triển lãm. Với chiếc máy vi tính, và một số thiết bị tự tạo cô mày mò lập ra một thuật toán. Tháng Một năm 1998, Sarah có mặt tại cuộc triển lãm khoa học, tự tin chứng minh quá trình nhập mã và giải mã thuật toán của cô. Công trình của cô vượt qua các công trình nghiên cứu toán học, vật lý và hoá học của các nhà khoa học trẻ khác để giành giải nhất tại triển lãm.
Bốn tháng sau, Sarah có mặt ở Forth Worth tham dự triển lãm khoa học quốc tế do hãng Intel tổ chức. Thuật toán Sarah mang tới triển lãm được trao giải Intel Fellows Achievement Award trị giá 2000 đô la. Ngoài ra nó còn giành được vị trí thứ ba của giải Karl Menger do Hiệp hội toán học Hoa Kỳ và vị trí thứ tư của giải Grand Award dành cho các nhà toán học.
Khả năng sáng tạo thuật toán đã cho Sarah cơ hội cộng tác với phòng nghiên cứu đặt tại Dublin của viện kĩ thuật Baltimore. Trong hai tuần làm việc tại đây cô được chỉ định trình bày một thuật toán mới chưa được công bố của nhà mật mã học Micheal Purser. Thuật toán này là nỗ lực nhằm cải tiến thuật toán RSA, một hệ thống mã hoá dữ liệu trong thông tin điện tử được ba nhà toán học của học viện kĩ thuật Massachusetts phát triển năm 1982. Thuật toán RSA với tính năng bảo mật cao đã trở thành một phần trong những tiêu chuẩn của internet, web, và thông tin quốc tế nói chung. Tuy nhiên tốc độ của RSA còn hạn chế nên các nhà nghiên cứu vẫn không ngừng theo đuổi việc cải tiến nó. bị thuyết phục bởi khả năng của Sarah, các nhà khoa học tại phân viện Dublin đề nghị cô phát triển một thuật toán mới để đẩy nhanh tốc độ nhập và giải mã của thuật toán RSA. Sarah nghiên cứu kĩ công trình của Purser đồng thời tìm hiểu thêm một số tài liệu khác. Cuối cùng cô đã cho ra đời một thuật toán tên CP có tốc độ nhanh hơn tốc độ của thuật toán RSA tới 22 lần.
Thuật toán CP đã mang về cho Sarah giải thưởng cao nhất tại cuộc triển lãm thành tựu khoa học trẻ toàn Ireland năm 1999. Cùng với số tiển thưởng 1000 bảng Anh, Sarah được đại diện cho giới khoa học trẻ Ireland tham dự cuộc thi cho giới khoa học trẻ châu Âu. Tại cuộc thi này thuật toán của cô lại giành giải nhất. Đầy tính sáng tạo, có tốc độ nhanh và có khả năng bảo mật cao là đánh giá chung của các nhà chuyên môn dành cho thuật toán của cô.
Là một nhà khoa học đầy triển vọng của châu Âu và của thế giới, Sarah được chọn là khách mời danh dự của lễ trao giải Nobel năm 1999. Sau khi tốt nghiệp trung học Sarah bắt đầu cuộc đời sinh viên tại trường đại học Cambrigde. Cô vẫn say mê toán học và vẫn nuôi dự định phát triển những thuật toán mới. Cô cho rằng cô là người may mắn đã có cơ hội theo đuổi công việc mà mình vô cùng yêu thích.
Mihiri Tillakaratne (Sinh năm 1987) MỘT NGƯỜI VÌ MỌI NGƯỜI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Trong thảm hoạ sóng thần xảy ra tại các nước ven biển Nam Á vào cuối năm 204, những người dân Sri Lanka là những người chịu thiệt hại nặng nề nhất sau những nạn nhân ở Indonesia. Ngay sau khi xem những hình ảnh đau thương được truyền đi sau trận sóng thần, Mihiri Tillakaratne, một học sinh trung học ở California, lập tức bắt tay vào một chiến dịch quyên góp ủng hộ những nạn nhân đã chịu mất mát trong thảm hoạ khủng khiếp đó. Cô lập một trung tâm ủng hộ nạn nhân sóng thần ở ngay tại nơi cô sống. Tại đây cô cung cấp thông tin về những nạn nhân sóng thần đang cần giúp đỡ, cô vận động các bạn trẻ tham gia chiến dịch bán bánh mì, bán sách, bán đấu giá các tác phẩm mĩ thuật của học sinh để gây quĩ ủng hộ người dân Sri Lanka. Cô đi khắp các trường trung học ở California quyên góp được hàng trăm túi đồ chơi, đồ dùng học tập, và thư động viên an ủi của các bạn học sinh gửi cho các bạn nhỏ ở Sri Lanka. Tổng cộng toàn chiến dịch Mihiri thu được 25000 đô la giúp xây dựng 50 ngôi nhà cho những gia đình bị mất nhà trong trận sóng thần.
Mặc dù sinh ra và lớn lên ở Los Angeles, Mihiri trông không khác những cô gái cùng tuổi ở Ski Lanka. Cô cũng có làn da nâu, đôi mắt to giàu tình cảm và một giọng nói dễ thương được thừa hưởng từ người bố và người mẹ đều là người gốc Sri Lanka. Cô trở về thăm quê hương Sri Lanka từ khi cô chưa biết đi, nhưng chính chuyến thăm khi cô lên tám tuổi tới ngôi làng nơi cha cô sinh ra, và những tấm ảnh cô được xem từ cuốn album ảnh của tổ chức nhân đạo lớn nhất ở Sri Lanka, đã ghi dấu ẫn mãi mãi trong kí ức tuổi thơ của cô để rồi vài năm sau đó cô bắt đầu thực hiện những công việc nhân đạo mà ít thiếu niên có thể thực hiện được.
Hình ảnh về nhưng con đường gập ghềnh, cảnh những người dân làm lụng vất vả, cảnh những trẻ em đứng ngơ ngác bên những căn nhà tạm bợ đã khiến Mihiri ý thức được sự may mắn của mình và sự khác biệt giữa hai đất nước mà cô gắn bó. Cô bắt đầu công việc giúp đỡ những đồng bào bằng cách tham gia một số tổ chức nhân đạo ở Sri Lanka giúp quyên góp kinh phí xây dựng trường mẫu giáo đầu tiên cho một ngôi làng ở Maradankalla và tạo một quĩ tín dụng nhân dân để hỗ trợ những người gặp khó khăn ở đó. Tiếp theo dự án này cô mở một cuộc vận động thu thập, quyên góp được 20 000 cặp kính thuốc trên khắp Los Angeles. Vào những dịp nghỉ lễ, nghỉ hè Mihiri lại bay sang Sri Lanka phối hợp những người làm nhân đạo ở đó tổ chức những đoàn khám mắt, về các vùng nông thôn ở Sri Lanka phát kính miễn phí cho những người dân nghèo gặp trở ngại về thị lực. Sau một số nỗ lực độc lập cô quyết định đứng lên vận động các bạn học sinh Mĩ tham gia chiến dịch tình nguyện vì trẻ em Sri Lanka. Đoàn tình nguyện của cô đã đến những ngôi trường thuộc những vùng nông thôn Sri Lanka dạy tiếng Anh miễn phí cho các học sinh và vừa làm vừa vận động gây quĩ để hoạt động này được triển khai rộng rãi ở Sri Lanka.
Mặc dù đã dành không ít thời gian cho những đợt vận động nhân đạo ở Mĩ và đi về Sri Lanka rất nhiều lần song Mihiri vẫn học giỏi. Năm 2005, cô thi đậu vào trường đại học Harvard đồng thời được nhận giải thưởng Net Aid Global Action Award dành cho những thanh thiếu niên hoạt động nhân đạo xuất sắc. Khi phóng viên Betty Nguyen của hãng tin CNN hỏi Mihiri: “Bạn đã làm được nhiều việc cho những người dân ở nhiều vùng khác nhau. Bạn cho người khác nhiều như thế, vậy điều bạn nhận được là gì?”, Mihiri trả lời: “ Điều mà tôi nhận được là cảm giác tuyệt vời khi tôi vận động được người khác giúp đỡ những người thiếu may mắn hơn và được nhìn thấy mọi người hành động và tương trợ giúp đỡ lẫn nhau vì một tương lai tốt đẹp hơn”.
Nhận số tiền trị giá 5000 đô la của giải thưởng, không một giây đắn đo, Mihiri quyết định dùng nó để tạo 20% vốn ban đầu cho một dự án cung cấp nước sạch và xây dựng nhà cộng đồng tại một ngôi làng ở Sri Lanka.
Ada Aharoni CẦU NỐI HOÀ BÌNH
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Những đứa trẻ sinh ra vào đầu thế kỷ XXI có thể chưa biết rằng sông Nile là dòng sông dài nhất thế giới, Kim Tự Tháp Ai Cập là một trong bảy kì quan thế giới, nhưng rất có thể chúng đã biết dải Gaza, bờ tây sông Jordan là vùng đất đau thương qua những hình ảnh phản ánh xung đột và bạo lực xảy ra giữa người Do Thái và người Ả rập, mà hầu như ngày nào chúng cũng thấy trên truyền hình. Khi nào những đứa trẻ ấy đủ lớn để tiếp nhận những bài học lịch sử thế giới, chúng sẽ biết được rằng xung đột giữa người Do Thái và người Ả rập là xung đột dai dẳng và khó hàn gắn nhất trong lịch sử hiện đại. Nó dai dẳng và khó hàn gắn đến nỗi khiến không ít người trở nên thờ ơ hoặc ngã lòng trước những nỗ lực kiến tạo hoà bình.
Ada Aharoni không nằm trong số những người thờ ơ hoặc ngã lòng ấy. Bà dành cả cuộc đời mình lặng lẽ kiến tạo hoà bình qua những trang viết tài hoa, đầy tính nhân văn. Ada Aharoni tin rằng chúng ta có thể giải quyết xung đột thông qua thơ văn bởi thơ văn là cầu nối văn hoá giúp tăng cường sự tôn trọng và hiểu biết lẫn nhau giữa các quốc gia. Mỗi tác phảm bà viết đều góp phần tạo nên cầu nối đó. Một trong những tác phẩm của Ada được nhiều độc giả trên thế giới tìm đọc là cuốn tiểu thuyết lịch sử From the Nile to the Jordan (Từ sông Nile đến sông Jordan). Cuốn tiểu thuyết này kể về cô gái Do Thái xinh đẹp và thông minh tên là Inbar Etty. Cô đang sống yên lành với gia đình tại Cairo thì sự kiện thành lập nhà nước Do Thái Israel làm bùng lên xung đột giữa người Do Thái và người Ả rập. Vào năm 1948, thời điểm nóng bỏng nhất của cuộc xung đột, đã có tới 800 000 người Do Thái chạy khỏi các vùng đất của người Ả rập và hơn 600 000 người Palestin trốn khỏi Israel. Cuộc sống của người Do Thái ở Cairo trở thành địa ngục và bằng những nỗ lực tuyệt vọng, gia đình của Inbar cố gắng thoát khỏi cái địa ngục đó. Loạn lạc, túng quẫn, sợ hãi, và những điều tồi tệ khác đã không thể đánh gục được Inbar. Cô đã kiên cường vượt lên tất cả để đi tìm cội rễ của mình, tìm tình yêu, niềm vui, sự sáng tạo trong thế giới mà cô tiếp tục sống. Một độc giả Mĩ đã nói về cuốn tiểu thuyết lịch sử này như sau: “Điều tuyệt vời và đáng kinh ngạc nhất trong cuốn tiểu thuyết này là cách lột tả chiều sâu nỗi đau và bi kịch của nhà văn Ada. Bà và nhân vật Inbar của bà tràn đầy hi vọng về một tương lai không có chiến tranh và bạo lực ở Trung Đông. Bà đã cho thấy một nỗ lực lớn nhằm thúc đẩy văn hoá hoà bình phi bạo lực và sự chung sống hoà hợp giữa người Ả rập và người Do Thái.
Những tác phẩm khác của Ada cũng giành được những lời nhận xét tương tự. Trong cuốn The flower of Peace (Đoá hoa hoà bình), Ada đã mang đến cho bạn đọc một giấc mơ hoà bình thông qua câu chuyện hư cấu tuyệt vời kể về chuyến đi vào vũ trụ tìm đoá hoa hoà bình của hai đứa trẻ dũng cảm. Những trở ngại trên đường đi, và người khổng lồ mang vũ khí hạt nhân tìm mọi cách ngăn cản không cho hai đứa trẻ mang đoá hoa hoà bình về trái đất. Nhưng nhờ tình yêu, tình đoàn kết,và sự gan dạ hai đứa trẻ cuối cùng đã chiến thắng tất cả để trở về trái đất với đoá hoa hoà bình trên tay. Cuốn sách này được xuất bản bằng cả tiếng Anh, tiếng Ả rập, tiếng Do Thái và được đưa vào giảng dạy ở nhiều trường học trên thế giới. Cuốn Woman: Creating a world beyond the war and violênc (Phụ nữ tạo ra một thế giới không có chiến tranh và bạo lực) cũng là một cuốn sách được nhắc đến nhiều trong các diễn đàn giao lưu văn hoá. Qua cuốn sách này Ada muốn truyền đi thông điệp rằng khi thế giới vẫn còn những cuộc xung đột, bạo lực và chiến tranh, thì loài người nên lắng nghe phụ nữ để thay đổi, rằng nếu phụ nữ đoàn kết lại thì họ sẽ tạo ra được một sức mạnh đủ để ném chiến tranh và nỗi sợ hãi vào cái thùng rác của lịch sử nơi thích hợp với chúng hơn là với thế giới của chúng ta ngày nay và như thế phụ nữ có thể giành được quyền sống và nuôi con trong hoà bình hạnh phúc.
Những tập thơ nằm trong số 25 cuốn sách đã được xuất bản của Ada cũng được ví như những chất liệu kiến tạo hoà bình. Các tập thơ nổi tiếng của bà như You and I can change the world (Tôi và bạn có thể thay đổi thế giới), Selected poems (Thơ tuyển chọn), Shin Shalom (Thơ mới), A green week (Tuần lễ xanh), Love and women poems (Những bài thơ về tình yêu và phụ nữ) v.v… đã được dịch ra 20 thứ tiếng và được tái bản ở nhiều nước trên thế giới.
Là một người Do Thái sinh ra ở Ai Cập, Ada đã từng được đào tạo tại khoa văn của trường đại học Jerusalem, dành được bằng thạc sĩ ở trường đại học London, và sau đó là học vị tiến sĩ văn học. Bà là giáo sư giảng dạy văn học Anh tại khoa văn và là giảng viên khoa xã hội học tại khoa nhân loại học của đại học Haifa. Bà cũng là tổng biên tập của hai tạp chí văn học là Tạp chí Galim và Tạp chí điện tử IRRA. Ngoài ra Ada còn là lãnh đạo của uỷ ban thúc đẩy hoà bình thông qua văn hoá và giao tiếp thuộc Hiệp hội nghiên cứu hoà bình quốc tế và là chủ tịch của LENA, Hiệp hội đoàn kết phụ nữ Do Thái và phụ nữ Ả rập ở Trung Đông. Một người phụ nữ vừa phải chăm lo gia đình vừa phải đảm đương nhiều trọng trách xã hội nặng nền như vậy mà vẫn đều đặn cho ra đời những tác phẩm đỉnh cao, quả là đáng kinh ngạc.
Olya Melen (Sinh năm 1980) GÌN GIỮ CHO HÔM NAY VÀ MAI SAU
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vùng châu thổ sông Danube là một vùng trũng rộng hơn một triệu hecta, nằm trong lãnh thổ của Rumani và Ukraine. Với hệ thống sông ngòi, kênh rạch và đầm hồ phong phú, châu thổ này là nơi sinh sống của hàng trăm loài thực vật, 45 loài cá nước ngọt và 300 loài chim, trong đó có nhiều loài quý hiếm. Không chỉ các nhà nghiên cứu môi trường mà bất cứ ai đặt chân đến vùng châu thổ này tận mắt thấy đa dạng sinh học ở đây cũng đều ý thức được rằng nó là một trong những khu sinh thái hiếm hoi còn lại trên trái đất. Tổ chức UNESCO cũng đã công nhận vùng châu thổ này là một di sản thiên nhiên, khu bảo tồn sinh quyển của thế giới. Năm 2004 bất chấp luật bảo vệ môi trường quốc tế, chính phủ Ukraine cho triển khai dự án xây dựng một tuyến giao thông thuỷ xuyên qua châu thổ Danube tới biển Đen. Theo dự án này người ta sẽ cho nạo vét gần 200 km kênh rạch và khu ngập nước của châu thổ để xây dựng một kênh đào lớn. Nhiều nhà bảo vệ môi trường lo ngại trước nguy cơ toàn bộ khu sinh thái châu thổ sông Danube sẽ bị đe doạ. Tuy nhiên ai cũng biết đấu tranh ngăn chặn việc làm này có nghĩa là đối đầu với cả một chính phủ.
Ngay khi biết về dự án kênh đào, Olya Melen một cô gái 24 tuổi đã can đảm đứng lên bảo vệ vùng châu thổ sông Danube. Là một cô gái năng động và thông minh, sau khi tốt nghiệp trường đại học Lviv, Olya tham gia tổ chức bảo vệ môi trường EPL ở Ukraine như một người tình nguyện rồi trở thành một luật sư phụ trách ban luật pháp của tổ chức này. Công việc của cô là tư vấn luật pháp cho các công dân và viết bài cho tờ Luật môi trường. Cô chưa từng phụ trách một vụ án nào, chưa bao giờ làm luật sư trước toà.
Olya kể lại rằng, những phút đầu có mặt tại phiên toà nhận ra đối thủ của cô là một đoàn luật sư gồm toàn những luật sư danh tiếng nhất của chính phủ, cô cảm thấy sợ đến nỗi hai tay run, giọng nói lạc đi. Ai cũng cho cô còn quá trẻ, cô không biết gì hết, cô sẽ không thuyết phục được thẩm phán. Nhưng rồi hình ảnh tươi đẹp của châu thổ sông Danube hiện ra trong đầu cô giúp cô lấy lại bình tĩnh và sự can đảm. Trong khi các luật sư của chính phủ lại ra sức hạ thấp tầm quan trọng của vùng châu thổ và biện hộ rằng việc xây dựng kênh đào không gây những tổn hại đáng kể cho môi trường sinh thái ở đó, Olya đã bình tĩnh đưa ra các tài liệu chứng minh rằng, những đáng giá về ảnh hưởng của dự án xây dựng kênh đào đối với môi trường sinh thái ở châu thổ Danube được bộ trưởng môi trường thông qua là chưa đầy đủ. Cô chỉ ra rằng, nếu kênh đào được xây dựng đúng theo kế hoạch thì nó sẽ cắt vùng châu thổ ra làm hai phần và sẽ xuyên qua những điểm nhạy cảm, dễ bị tổn hại nhất của khu bảo tồn sinh quyển. Việc xây dựng kênh đào và các hoạt động giao thông trên kênh đào và các hoạt động giao thông trên kênh đào sẽ đe doạ sự an toàn của các loài động vật sinh sống lâu dài ở châu thổ và các loài chim di cư đến đó trong mùa sinh sản. Các hậu quả do ô nhiễm nước cũng sẽ tác động xấu đến đời sống của động thực vật tại đây. Cùng với những lí lẽ sắc sảo, Olya đưa ra những tài liệu cụ thể về khu châu thổ Danube. Thuyết phục hơn nữa cô nhấn mạnh rằng, bằng việc xây dựng kênh đào, chính phủ Ukraine sẽ vi phaạm10 công ước quốc tế mà họ đã gia nhập và hậu quả của việc vi phạm là điều chính phủ cần cân nhắc.
Phiên toà diễn ra trong suốt một buổi sáng thu hút sự chú ý của đa số người dân Ukraine và những người quan tâm đến môi trường trên thế giới. Khi thẩm phán tuyên bố việc xây dựng kênh đào xuyên qua châu thổ sông Danube là hành động thiếu tôn trọng các luật môi trường và có thể đe doạ đến đa dạng sinh học ở châu thổ này, hàng triệu người đã gọi tên Olya với niềm tự hào và vui sướng. Những nỗ lực của cô đã chứng minh rằng một người cũng có thể tạo ra sự thay đổi, rằng quyền của một nhóm công dân hay một công dân cũng đều phải đuợc tôn trọng và bảo vệ.
Olya công nhận rằng chiến thắng ở toà án của cô là một chiến thắng đáng để ăn mừng, bởi ít nhất nó cũng khiến cho dự án xây dựng kênh đào phải tạm dừng. Chính quyền của tổng thống mới Viktor Yushchenko vẫn theo đuổi việc thực hiện dự án, nhưng Olya tin tưởng rằng, họ sẽ sáng suốt hơn trước khi quyết định bất cứ việc gì liên quan đến khu bảo tồn sinh thái của châu thổ sông Danube. Về phần mình, cô vẫn tiếp tục nỗ lực đấu tranh bảo vệ di sản thiên nhiên này. Cô nói: “Là một luật sư bảo vệ môi trường vì lợi ích chung của người dân, mục đích của tôi là dùng luật pháp để bảo vệ thiên nhiên cho thế hệ hôm nay và cho các thế hệ mai sau.
Hai mươi sáu tuổi, Olya Melen vinh dự được nhận giải thưởng Goldman, một giải thưởng quốc tế dành cho những người có đóng góp nổi bật trong công tác bảo vệ môi trường.
Mory Sanberg (Sinh năm: 1980) THIÊN THẦN TRÊN ĐƯỜNG PHỐ CHICAGO
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Đã mấy năm nay cứ vào các buổi tối, căn bếp nhà cô bé Mory Sanberg lại nhộn nhịp hơn hẳn các thời điểm khác trong ngày. Mory bận không ngơi tay với công việc chuẩn bị những túi đồ ăn. Cô chia những chiếc bánh sandwich, những trái cây, những miếng khoai tây chiên, những chiếc bánh quy thành những khẩu phần ăn đều nhau và bỏ từng suất ăn vào những chiếc túi nhỏ. Nhìn cô làm việc đầy hứng khởi và vui vẻ người lạ có thể sẽ nghĩ rằng cô sắp đem những túi đồ ăn ấy giao cho một căng tin nào đó và có lẽ công việc ấy mang lại cho cô một khoản lợi nhuận như mong muốn.
Sự thực không phải như vậy. Mory chuẩn bị những túi đồ ăn đó cho những người vô gia cư, cho những trẻ em lang thang trên đường phố Chicago và công việc đó thuần tuý là một việc làm từ thiện. Mory bắt đầu làm công việc đó khi cô mười bốn tuổi. Vốn là một cô bé giàu lòng thương người, Mory luôn mong ước giúp đỡ người khác thật nhiều nhưng cô không biết một mình cô có thể làm được những việc gì. Năm mười bốn tuổi được bố mẹ khuyên khích cô liên hệ với những tổ chức từ thiện ở Chicago và cuối cùng cô cũng gặp được người của tổ chức Night Ministry, một tổ chức nhân đạo quan tâm đến ước muốn của cô. Họ gợi ý cô giúp đỡ những người vô gia cư trong thành phố.
Giúp bằng cách nào? Mory suy nghĩ và cô quyết định sẽ thực hiện một dự án cung cấp đồ ăn miễn phí cho những người ban đêm lang thang trên đường phố Chicago. Khi cô đưa ra ý kiến này, bố mẹ, bạn bè và những người của tổ chức Night Ministry đều nhiệt tình ủng hộ. Thế là Mory biến căn bếp và sân sau nhà cô thành một xưởng làm bánh và đóng gói đồ ăn đêm. Ngay trong mùa hè đó với sự giúp đỡ của bố mẹ và những người bạn thân, mỗi tuần cô chuẩn bị được hàng trăm túi đồ ăn. Các túi đồ ăn đó được chuyển tới các đường phố và được phát cho bất cứ ai đang đói, cho dù người đó là người da đen, hay người da trắng, người thất nghiệp hay người đi làm đêm, người trốn nhà đi lang thang hay người bị lạc đường. Số lượng túi đồ ăn mỗi lần Mory phát đi lại tăng hơn những lần trước đó. Trong bốn kì nghỉ hè, Mory đã phát được tổng cộng 4500 túi đồ ăn. Thật khó diễn tả được nỗi xúc động thể hiện qua nét mặt, qua những lời cảm ơn, qua những đôi bàn tay run run của những người thiếu may mắn khi họ nhận được những túi đồ ăn của Mory và các bạn cô. Chúng tôi chia sẻ với các bạn, hãy ăn để sống, để phấn đấu cho ngày mai tốt đẹp hơn hôm nay, đó là thông điệp mà những túi đồ ăn và nụ cười cởi mở của Mory chuyển tới mọi người.
Thấy được ý nghĩa của việc Mory làm, rất nhiều bạn học sinh ở Chicago đã chung tay góp sức với cô. Trong khi vẫn duy trì các buổi phát đồ ăn miễn phí, Mory và các bạn của cô bắt đầu triển khai chương trình phát quà cho những trẻ em thiếu may mắn vào các ngày lễ. Trong năm 1998, năm đầu tiên của dự án cô đặt ra mục tiêu chuẩn bị 150 túi quà Giáng sinh trị giá 1500 đô la. Đến năm 2001 quĩ dành cho dự án này của Mory đã tăng lên gấp mười lần, cho phép cô phát hơn 500 gói quà tới các em nhỏ. Cứ trước mỗi dịp Giáng sinh, cô và các bạn của cô vừa thu thập đồ chơi, sách vở, kẹo bánh, vừa phân loại và gói quà, vừa đi vận động sự giúp đỡ của mọi người, vừa tổ chức đi phát quà. Với Mory, đêm Giáng sinh được đi phát quà khắp Chicago là đêm Giáng sinh tuyệt vời nhất trên đời.
Trong hồi kí của mình một nhà văn đã từng là một trẻ em lang thang viết: “Đêm đã khuya. Đường phố lạnh ngăn ngắt. Tôi nhìn lên những ô cửa sổ nơi phát ra ánh đèn ấm cúng. Sau những ô cửa ấy những người có gia đình đang sống trong niềm hạnh phúc mà họ có thể không ý thức được.. Riêng tôi, tôi chỉ mong có được một mẩu bánh mì để tôi có thể sống đến ngày hôm sau. Một mẩu bánh đối với tôi lúc ấy chính là niềm hạnh phúc. Ai cho tôi mẩu bánh ấy người đó hẳn là một thiên thần”.
Mory Sanberg chính là thiên thần của những người vô gia cư đêm đêm lang thang trên đường phố Chicago.
Annalena Tonelli (1943-2003) “TÔI CHẲNG LÀ AI CẢ”
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Annalena Tonelli là một luật sư người Italia. Bà cũng được cấp bằng y khoa sau các khoá đào tạo chuyên viên y tế cộng đồng. Không ở lại Italia, Annalena tình nguyện đến châu Phi. Đầu tiên bà làm việc tại Kenya sau đó sang Somalia.
Suốt 30 năm bà cùng người dân Somali đấu tranh với các vấn đề của họ. Bà tuyên truyền phòng chống lao, quyên góp tiền mở các phòng khám rồi thành lập một bệnh viện lao với 250 giường bệnh ở Borama, thuộc tây bắc Somalia. Bà tiếp nhận bất cứ bệnh nhân nào, từ những bệnh nhân sơ nhiễm đến những bệnh nhân bị lao đã chuyển sang ung thư. Để có 20000 đô la mỗi tháng trang trải cho các hoạt động khám chữa bệnh và nuôi bệnh nhân, bà phải huy động sự ủng hộ của cả những người thân và bạn bè của bà ở Italia. Bà cũng đứng ra thành lập một trường giáo dục trẻ em khiếm thính ở Borama bù đắp cho các em những thiệt thòi mà nhiều người Somali không quan tâm tới. Bà tổ chức các đoàn bác sĩ nhãn khoa tình nguyện tiến hành các cuộc phẫu thuật miễn phí đem lại ánh sáng cho 3700 người Somalia. Bà nỗ lực ngăn chặn sự lây lan của căn bệnh HIV/AIDS, cung cấp dịch vụ tư vấn và chăm sóc cho những bệnh nhân AIDS. Bà vận động những tộc trưởng, những bà đỡ từ bỏ việc cắt bộ phận sinh dục của phụ nữ, một hủ tục đã tồn tại ở Somalia từ thế hệ này qua thế hệ khác.
Annalena dành tất cả những gì bà có cho người Somalia mà không đòi hỏi ai trả công hay đền đáp lại bà. Bà bỏ lại phía sau nếp sinh hoạt của một người châu Âu để sống như một người dân nghèo Somalia. Bà ăn thức ăn mà các bệnh nhân của bà ăn, bà trò chuyện với họ bằng ngôn ngữ của họ. Bà không sợ lây bệnh, không phân biệt màu da. Bà làm việc nhiều giờ mỗi ngày, làm việc cả trong những ngày lễ. Sau ba mươi năm lăn lộn ở Somalia mái đầu bà đã bạc trắng. Báo chí quốc tế gọi bà là người tiên phong trong các cuộc chiến chống lại căn bệnh lây ở Somalia, tôn vinh bà là người anh hùng, đề cử bà cho những giải thưởng danh giá và bà luôn từ chối những cơ hội đó. Thế nhưng bà đồng ý nhận giải thưởng Nansen Refugee Award của Cao uỷ Liên hợp quốc về người tị nạn. Bà nói: “Tôi nhận giải thưởng này để thế giới quan tâm đến cuộc khủng khoảng đã bị lãng quên ở Somalia”.
Chính phủ Somalia đánh giá cao sự hi sinh của Annalena cho người dân của họ, nhưng không phải người Somalia nào cũng hiểu công việc và tấm lòng của bà. Có những người dân ở Borama muốn bà đóng cửa bệnh viện. Có những người đe doạ bà, đuổi bà về nước. Một lần bà bị ném đá vì tiếp nhận một phụ nữ bị nhiễm HIV từ một quận khác vào bệnh viện của bà. Người ta không ủng hộ bà vì cho rằng bà tiếp nhận đủ loại bệnh nhân mắc bệnh truyền nhiễm vào bệnh viện sẽ khiến địa bàn của họ không được an toàn và họ có thể sẽ bị lây bệnh.
Vào ngày 5 tháng Mười, Annalena đang ở trong sân của bệnh viện thì một người đàn ông đột nhiên chĩa súng vào bà. Bà bị bắn nhiều phát đạn vào đầu và trút hơi thở cuối cùng trên đất Somalia. Cái chết của bà xảy ra chỉ bốn tháng sau ngày bà nhận giải thưởng Nansen.
“Tôi chẳng là ai cả”. Bà để lại câu nói giản dị đó cho mỗi người trong chúng ta suy ngẫm.
Hope Bevilhymer (Sinh năm 1978) CÔ GÁI MANG TÊN HY VỌNG
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Hope Bevilhymer sinh ra ở bang Utah, nước Mỹ. Cô bị dị tật bẩm sinh ở chân phải. Dị tật này đã khiến cô rất đau đớn, khổ sở. Trong 25 năm đầu đời cô đã phải vào viện không biết bao nhiêu lần, phải thường xuyên dùng thuốc giảm đau và đã phải trải qua 29 cuộc phẫu thuật. Điều đáng buồn là không một cuộc phẫu thuật nào thành công. Không muốn phải chịu thêm nhiều phiền phức và đau đớn từ bên chân dị tật, Hope quyết định cho cắt bỏ nó đi. Tháng Sáu năm 2002, cuộc phẫu thuật cắt bỏ chân cho Hope được tiến hành. Từ đó cô sống với một chân lành lặn và một chân bị cụt đến đầu gối. Biết được hoàn cảnh của Hope, rất nhiều bạn bè và cả những người cô không quen đã gửi sự động viên giúp đỡ tới cô. Hope vô cùng cảm động khi có một số người mang đến tặng cô những chiếc chân giả. Nhờ được lắp chân giả mà Hope không những có thể đi lại thuận lợi mà còn có thể chơi thể thao. Cô muốn làm điều gì đó để đáp lại sự quan tâm mà cuộc đời dành cho cô.
Qua truyền hình, Hope nhận thấy trên thế giới có rất nhiều người đồng cảnh với cô. Bệnh tật, chiến tranh, tai nạn giao thông cướp đi của họ một phần chân hoặc tay khiến họ trở thành những người khuyết tật. Thương tâm hơn, nhiều người trong số họ sống trong những trại tị nạn, ở những vùng đất nghèo nàn lạc hậu nên không dám mơ tới một cánh tay giả, một chiếc chân giả để giảm thiểu những khó khăn trong sinh hoạt hàng ngày. Hope quyết định giúp những con người đó. Cô thành lập hội giúp đỡ những người cần chân hoặc tay giả mang tên Limbs of Hope. Cô vận động những người dân ở bang Utah tặng những chân và tay giả mà họ không còn dùng tới. Sự hưởng ứng của mọi người vượt trên cả mong đợi của cô.
Hope chọn Campuchia là điểm đến đầu tiên cho các món quà nhân đạo của cô. Đó không phải là một sự lựa chọn ngẫu nhiên. Campuchia là một đất nước phải chịu hậu quả nặng nề của chiến tranh. Rất nhiều vùng đất ở Campuchia vẫn còn mìn sát thương, thậm chí có những vùng cứ 3 người lại có một người bị mất chân hoặc tay do các vụ nổ mìn. Ngày 26 tháng Chín năm 2004, Hope cùng hai thành viên khác của Limbs of Hope lên máy bay sang Campuchia thực hiện chuyến phát chân tay giả miễn phí cho những nạn nhân của các vụ nổ mìn. Phối hợp với các chuyên gia y tế ở Campuchia, họ đã tiến hành lắp chân tay giả cho nhóm người khuyết tật đầu tiên cũng là nhóm người đang có nhu cầu nhất. Chuyến đi chỉ kéo dài vài tuần nhưng để thực hiện nó Hope đã phải chuẩn bị cả năm trời. Tháng Mười năm 2005, Hope thực hiện chuyến đi thứ hai đến Campuchia. Trong chuyến đi này ngoài chân tay giả cô còn mang theo những chiếc lốp xe đẩy, những chiếc bơm hơi để tặng cho những người phải sử dụng xe đẩy. Sau Campuchia, Hope đến với những người khuyết tật ở Rumani và Mexico. Với ba chuyến đi này cô đã giúp 55 người lắp được chân tay giả hay nói theo cách khác cô đã tạo ra sự thay đổi cho 55 cuộc đời. Sự hiện diện của Hope ở những nơi có những người khuyết tật cũng là một sự động viên quý giá. Với một bên chân giả cô vẫn rất nhanh nhẹn và năng động. Nhìn cô dạy các trẻ em chơi bóng rổ, mọi người có thể thấy dù mất một bên chân, hay một cánh tay, người ta vẫn có thể giúp ích cho đời và tận hưởng cuộc sống như những người bình thường.
Hope không muốn như ông già Noel mỗi năm chỉ mang niềm vui đến một lần duy nhất. Hope muốn quay trở lại Campuchia, Rumani, Mexico nhiều lần. Ngoài việc giúp cho những người khuyết tật được lắp chân hoặc tay giả, Hope còn muốn quyên góp kinh phí để xây dựng những trung tâm chăm sóc sức khoẻ cho người khuyết tật. Đặc biệt, cô đã lập dự án mang tên H.O.P.E, nhằm giúp những người khuyết tật tự tin hơn vào bản thân mình thông qua các hoạt động thể thao. Cô mong muốn được góp phần xây dựng các khu thể thao dành cho người khuyết tật, mong muốn được mang tới cho người khuyết tật những món quà nhỏ bé như những trái bóng, những chiếc yên ngựa, những chiếc áo thi đấu v.v… Hope cũng dự định mở một trại sinh hoạt định kì dành cho những người khuyết tật.
Đánh giá cao nỗ lực và tấm lòng vì người khác của Hope, năm 2005 hãng xe hơi Volvo trao giải thưởng Volvo for life award cho cô. Với giải thưởng này, Hope nhận được khoản tài trợ trị giá 50 nghìn đô la dành cho các hoạt động nhân đạo của cô. Riêng cá nhân Hope, cứ ba năm lại được tặng một chiếc xe hơi mới của hãng. Khi trao giải thưởng này, Anne Belec, đại diện cho hãng Volvo ở khu vực Bắc Mỹ đã nói: “Nỗ lực biến kinh nghiệm của mình thành cơ hội cho người khác của Hope thật phi thường”. Còn Hope thì nói: “Nhờ giải thưởng Volvo, giờ đây Limbs of Hope giảm bớt nỗi lo về kinh phí mua chân, tay giả cũng như kinh phí vận chuyển chân tay, giả đến các nước đang phát triển. Giờ đây chúng tôi có thể giúp nhiều người khuyết tật không có tiền để lắp chân tay giả, góp phần thay đổi cuộc sống của họ”.
HẾT
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến LSB-Sun vì bài viết hữu ích này: