Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 17-07-2009   #46
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.834
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
45. Giuse Melchior Garcia-Sampedro Xuyên

Giuse Melchior Garcia-Sampedro Xuyên, Ða Minh, Ðại Diện Tông Tòa; sinh năm 1821 tại Cortes, Asturias, Tây Ban Nha; chết 28 tháng 7 năm 1858, tại Nam Ðịnh. Cha Garcia bị bắt, và bị nhốt trong cũi với hai người anh em đồng hương của ngài. Ngài bị lăng trì (phân thây), các bạn ngài bị xử trảm (chém đầu), và xác họ bị thẩy xuống hố. Được phong Chân Phước ngày 29/04/1951, do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 28/07.

Ðức Cha Berrio-Ochoa kết thúc bài tường thuật về cuộc tử đạo hết sức anh hùng của Ðức Cha Sampedro như sau: "Cuộc tử đạo và xưng đức tin của ngài đã làm cho nhiều người trở lại đạo hơn nhiều năm làm việc giảng đạo". Thật vậy, đức cha chịu một hình khổ ghê gớm và lâu dài không những đã làm cho người Công Giáo thêm kiên cường xưng đạo mà còn làm cho người bên lương nhận ra đạo thật.

Sáng sớm ngày 28-7-1858, hai quan lớn cỡi voi, bốn người cỡi ngựa, bốn người khiêng chiêng trống cùng với 500 lính, 20 đao phủ áp giải Ðức Cha Sampedro, 37 tuổi, sau 20 ngày tù tội, và hai chú giúp việc ra pháp trường. Ðức cha mặc áo dòng, một tay cầm sách nguyện, một tay ban phép lành cho dân chúng hai bên đường, trên cổ đeo gông thật nặng và chân mang xích sắt kêu leng keng, nét mặt hân hoan như đi lãnh triều thiên chiến thắng. Ðoàn người đi qua nửa thành phố đến cửa đông ra ngoài thành.

Tới pháp trường quan ra lệnh cột hai chú vào hai cọc. Ðức cha khuyên bảo hai chú vững lòng chắc chắn về trời. Theo lệnh, lý hình chém đầu người thứ nhất tên Tiệp, tung đầu lên cao cho mọi người xem thấy rồi đến chú Hiền. Tới phiên hành quyết đức cha, quan ra lệnh trước hết chặt chân rồi đến tay, đầu và mổ bụng đốt ruột gan. Ðức cha bị trói chân tay vào các cọc và một tấm gỗ đè trên ngực. Năm tên đao phủ cầm búa bổ xuống dưới chân 12 nhát như bổ củi, trong khi miệng đức cha vẫn kêu to Thánh Danh Giêsu, máu chảy lai láng. Sau đó lý hình bổ bẩy tám nhát chặt tay. Sau khi chặt chân tay, lý hình bổ thêm 15 nhát chặt đứt đầu và lấy dao mổ bụng. Sau đó các phần thân thể được vất xuống hố, lấp đất và cho voi đạp lên. Còn đầu bêu ở trên cửa phía Nam của thành Nam Ðịnh hai ngày, rồi bị đập nát thành mảnh vụn và quẳng xuống sông ban đêm.

Vị mục tử can đảm Melchior Garcia Sampedro sinh ngày 26-4-1821 tại San Pedro de Arrojo, Tây Ban Nha. Sau khi đậu tú tài thần học, cậu xin vào tu trong dòng Ða Minh tại Ocana năm 1845 và ngày 16-8-1846 được khấn dòng. Ngày 29-5-1847 Thầy Sampedro được thụ phong linh mục và tình nguyện đi truyền giáo. Sau khi tới Manila dạy học một thời gian vắn, Cha Sampedro được như ước nguyện là đi truyền giáo ở Bắc Việt. Ngày 28-2-1849 cha tới Ðông Xuyên, nơi ở thường xuyên của Ðức Cha Hermosilla. Cha được Ðức Cha đặt tên cho là Xuyên, tên của con sông và dân làng. Sau khi họp công hội và phân chia địa phận, Cha Xuyên theo giúp cha bề trên giám tỉnh tại Nam Am cho tới tháng 3-1850 được Ðức Cha Sanjurjo, địa phận Bùi Chu, đặt làm bề trên chủng viện ở Cao xá.

Cha Sampedro hết lòng chu toàn bổn phận và đặc biệt có tinh thần khắc khổ, ham thích cầu nguyện và hãm mình ăn chay và đánh tội tùy theo mức độ cha linh hướng cho phép. Ðời sống thánh thiện của cha đã khiến bề trên cất nhắc lên làm tổng đại diện năm 1852. Cha Sampedro còn dành nhiều thời giờ để dịch các sách và dậy giáo lý cho 54 gia đình gần 500 người tại một làng gần Cao Xá. Ðức Cha Sanjurjo đã viết về công việc tông đồ của cha như sau: "Họ đạo mới lập này ngoài ơn Chúa phải kể công đầu cho Cha Sampedro, cha chính địa phận và bề trên nhà dòng, đã mở đường cho cuộc trở lại tập thể. Ngoài ra cha cũng giảng dậy cho ba bốn làng kế cận. Các dân làng thích nghe ngài giảng và mong muốn nhận lãnh phép rửa tội".

Trong hoàn cảnh cấm đạo, Ðức Cha Sanjurjo đã được phép tòa thánh chọn đức cha phụ tá và ngài chọn cha chính Sampedro. Lễ phong chức đã diễn ra tại Bùi Chu ngày 1-9-1855 khá long trọng. Chẳng bao lâu Ðức Cha Sanjurjo bị bắt ngày 21-5-1857. Ðức Cha Sampedro làm mọi cách để chuộc tự do cho đức cha kể cả việc vận động với sứ quán Tây Ban Nha và Pháp, nhưng tầu đến vịnh Bắc Việt thì Ðức Cha Sanjurjo đã bị chém đầu. Tình thế mỗi ngày một thêm trầm trọng, quan tổng đốc ra thêm nhiều lệnh truy lùng đạo trưởng và bắt mọi người phải đạp ảnh. Các xã trưởng phải làm tờ trình đã bỏ đạo và mỗi làng phải dựng chùa. Ðức Cha Sampedro vội phong chức giám mục phó cho Cha Valentino Berrio-Ochoa mới sang Việt Nam vào đêm ngày 13-6-1858 trong một nhà giáo dân.

Dù làm đầu địa phận, Ðức Cha Sampedro thường xin các cha khác chỉ vẽ các sai lỗi của mình và năng nhận mình là một tội nhân trước mặt mọi người. Ngoài việc mặc áo nhặm thường xuyên, đức cha còn có lòng kính mến Ðức Mẹ, đầu các thư viết bao giờ cũng có ghi tên Maria. Ðức cha thường khuyên nhủ người khác đừng bao giờ bỏ lòng tôn kính Ðức Mẹ là Mẹ Thiên Chúa, chính ngài mỗi ngày lần hạt kính những sự thương khó của Ðức Mẹ.

Trước những cuộc lùng bắt thường xuyên của các quan, đức cha phải đổi chỗ trú ẩn luôn. Thế nhưng đêm ngày 7-7-1858, đức cha bị bắt với hai chú Ðominicô Tiệp và Ðominicô Hiên tại Kiên Lao. Khi làng Kiên Lao bị quân lính bao vây, đức cha đang trốn ở một nhà bên ngoài vòng vây. Ðức cha trốn trong hầm ở ngoài đồng và ban đêm dân chúng bị các quan hành hung chạy trốn ra ruộng lúa, đức cha cũng theo họ chạy ra ruộng lúa nhưng bị rượt theo, qua khỏi ba cánh đồng thì bị bắt. Hôm sau, 8-7, ngài bị áp giải về Nam Ðịnh. Ðức cha luôn luôn tỏ ra vui vẻ trong tù, chịu đựng mọi hành hạ.

Các quan tra hỏi nhiều điều song đức cha chỉ một mực xưng đức tin và chối mọi điều các quan buộc tội cho. Các quan buộc cho ngài ba thứ tội: lén lút giảng đạo đã bị cấm, bí mật kêu tầu ngoại quốc đến và là thủ lãnh của một đảng phản loạn. Ðức Cha Sampedro hiên ngang nhận điều thứ nhất, còn điều thứ hai, đức cha nói rằng tầu ngoại quốc tới chỉ có mục đích duy nhất là xin tự do tôn giáo, điều buộc tội thứ ba hoàn toàn ngược lại với thư chung gửi giáo dân trong đó cấm người Công Giáo không được theo người làm loạn, nếu không tuân theo lệnh sẽ không được nhận các bí tích.

Dù biện hộ thế nào các quan cũng khép án như sau: "Luật pháp trong nước nghiêm cấm đạo Giatô, nhưng đạo trưởng Xuyên đã cả gan xâm nhập để lừa dối dân chúng từ chín năm nay. Theo như lời khai của chính tội nhân, hắn là thủ lãnh tín đồ Giatô ở các huyện Giao Thủy, Kiên Xương và Thái Bình cũng như các tín đồ ở tỉnh Hưng Yên, Hải Dương. Vì thế đạo trưởng tên Xuyên tội đáng phải chết. Tội của hắn còn nặng thêm vì đã bí mật sai người đi đem tầu Âu Châu tới để xúi dục dân chúng làm loạn như nhiều người phản nghịch đã khai". Bản án của các quan tỉnh Nam Ðịnh được vua Tự Ðức phê: "Như đã bắt được đạo trưởng Âu Châu thì phải chém đầu và bêu đầu ba ngày rồi ném xuống sông. Thế nhưng vì tên nghịch này đã lập đảng và đứng đầu nên tội ra nặng thêm. Trong khi tra khảo, nó chối tội ác này nhưng những người khác đã xưng ra. Phải coi hắn là đầu đảng nghịch và chiếu theo luật pháp thì phải xử phân thây. Ðầu phải bêu ba ngày rồi bỏ xuống sông để mọi người biết rõ lề luật".

Hài cốt của vị chủ chăn anh dũng sau khi bị chôn ở hố được giáo dân đem về chôn ở Bùi Chu. Năm 1888, Ðức Cha Venceslao Onhate cho phép mang di hài về quê quán ở Oviedo chỉ giữ lại cánh tay mặt ở Bùi Chu và cánh tay trái ở nhà dòng Ða Minh tại Manila.

Trường Thi Tử Đạo

Giuse Xuyên dòng Ðaminh Giám mục
Sinh Tân Tỵ (1821) quê thực (Tây) Ban Nha
Thủa nhỏ cậu đã tỏ ra
Sống đời đạo đức như là nguyện kinh

Mười hai tuổi thuận tình cha mẹ
Cầu vào dòng mau lẹ triển khai
Nhà nghèo làm ruộng sinh nhai
Dành dụm nuôi cậu tương lai giúp đời

Vào đại học tuyệt vời xuất sắc
Khi rảnh còn dẫn dắt đàn em
Vài giờ âm nhạc dạy thêm
Triết thần thầy cũng được khen học tài

Mỗi niên học có vài lần nghỉ
Thầy trở về hủ hỷ gia đình
Giúp cha làm ruộng thực tình
Học trò nhìn thấy làm thinh thầy cười

Giúp xứ đạo thầy thời dạy trẻ
Từ thiếu nhi đến kẻ trung niên
Cầu nguyện thầy quỳ liên miên
Cái ông cầu nguyện là tên chỉ thầy

Ðiều mong ước xưa rày xin Chúa
Ban cho thầy chan chứa tình thương
Giúp cho những kẻ đi lương
Mau mau trở lại con đường giáo dân

Thầy tình nguyện dấn thân truyền giáo
Tại Viễn Ðông giảng đạo Kitô
Danh tánh thầy được tung hô
Chịu chức linh mục điểm tô Ðinh Mùi (1847)

Tân linh mục cuộc đời truyền giáo
Dọn hành trang chu đáo tới Phi
Macao trên bước đường đi
Kỷ Dậu (1849) cha đến Bắc Kỳ Việt Nam

Cha được gọi bằng tên tiếng Việt
Mang tên Xuyên đặc biệt từ đây
Tiếng Việt cha học rất hay
Giám đốc chủng viện từ rày quản cai

Cha Xuyên vốn có tài thuyết giáo
Ngài giỏi giang việc đạo việc đời
Bề Trên phụ tỉnh cử người
Là tấm gương sáng tuyệt vời chủng sinh

Cha Xuyên vốn hãm mình mẫu mực
Ăn chay trường theo luật nhà dòng
Thấy dân còn kém chưa thông
Xuất bản nhiều sách cho không tín đồ

Ngài nổi tiếng tung hô danh Chúa
Cả một làng vùng đó đi lương
Nhờ cha hướng dẫn con đường
Trở về với Chúa tình thương đặm đà

Tính gia đình kể là hăm bốn (24)
Số giáo dân tính gọn năm trăm (500)
Ðức Cha An ghé lại thăm
Khen cha tài giỏi tiếng tăm loan truyền

Ðức Cha An mất liền Nhâm Tý (1852)
Cha Xuyên được đề nghị thế vô
Ất Mão (1855) đại phận tung hô
Ngài lên Giám mục Bùi Chu lẫy lừng

Lễ tấn phong vô cùng trọng thể
Tại Bùi Chu môn đệ thật đông
Ðức Cha Xuyên rất có công
Ban phép rửa tội số đông tân tòng

Lệnh cấm đạo trong vùng nghiêm ngặt
Ðặt chương trình sắp đặt đi thăm
Mặc dầu đêm vắng tối tăm
Với bao lệnh bắt chỉ nhằm vào (Ðức) Cha

Nguyễn Ðình Tân đang là Tổng đốc
Rất hăng say ác độc bấy giờ
San bằng cô nhi (viện), nhà thờ
Bùi Chu, Lục Thuỷ bất ngờ Phú Nhai

Ðức Cha Xuyên đầu ngài giá đắt
Cho những ai rình bắt Ðức Cha
Ðịa phận rộng, chiên bao la
Nếu không có chủ ắt là nát tan

Ngài cầu nguyện kêu van cùng Chúa
Con giờ đây đứng giữa phong ba
Cho con tìm một Ðức Cha
Ðể ngài thế vị khi qua thế trần

Cha chính Vinh lãnh phần tuyển chọn
Lễ tấn phong gỏn gọn quá chừng
Cha Vinh vui vẻ đón mừng
Gậy tre, mũ giấy chưa từng xưa nay

Lễ tấn phong vài ngày sau đó
Công việc ngài Ðức Phó trông coi
Ði thăm giáo họ vài nơi
Kiên Lao, Quần Cống nghỉ ngơi ông trùm

Nào ai ngờ miệng hùm chực sẵn
Bọn quan quân vây bắt được ngài
Chú bé giúp lễ cả hai
Giải về Nam Ðịnh cổ ngài mang gông

Ba tuần lễ giam không tra hỏi
Bản án phê tử tội lăng trì
Pháp trường trên bước đường đi
Miệng ngài cầu nguyện tay thì giơ cao

Bọn lý hình gươm đạo tuốt sẵn
Sau hồi chiêng chặt hẳn tứ chi
Cổ ngài sửa soạn tức thì
Chặt luôn theo án lăng trì xưa nay

Phúc tử đạo đẹp thay Mậu Ngọ (1858)
Ngài chầu trời tuổi thọ chưa cao (37)
Rôma Toà Thánh ban trao
Suy tôn Tân Mão (1951) trời cao hộ phù

Lời bất hủ: Ðức cha Xuyên thường tự xưng là: "Kẻ tội lỗi khốn khổ". Ngài thường xuyên khuyên người khác: "Hãy nhìn khuyết điểm của tha nhân để sửa mình và sẵn sàng lắng nghe ý kiến của mọi người".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #47
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.834
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
46. Giuse Nguyễn Duy Khang (1832-1861)

Giuse Nguyễn Duy Khang, thầy giảng, Dòng Ba Ða Minh; sanh 1832 tại Trà Vinh, Nam-Ðịnh; chết 6, tháng 12 1861, tại Hải Dương. Thánh Khang là người giúp việc cho Ðức Cha Hermosilla. Trong khi cố gắng cứu chủ thoát ngục, ngài bị bắt, bị trừng phạt 120 roi. Sau nhiều lần bị tra tấn, ngài bị xử trảm (chém đầu). Phong Á Thánh 1906

Một môn sinh trung thành.

Thánh Giuse Nguyễn Duy Khang được các tín hữu Việt Nam tôn kính trong số bốn thánh tử đạo Hải Dương. Tuy thánh nhân tử đạo sau hơn một tháng, nhưng vẫn được chung vinh dự với linh mục Almate Bình, hai Giám mục Valentinô Vinh và Hemosilla Liêm, vì đã cùng đồng lao khổ với ba vị huynh trưởng đó trong dòng Đaminh.

Là người trợ tá của Giám mục Hemosilla Liêm, thày Giuse Khang đã theo sát gương cha chung của giáo phận Đông Đàng Ngoài trong những ngày lưu lạc. Rồi khi quân lính vây bắt Đức cha thì với nhiệt tâm của thánh Phêrô tông đồ xưa trong vườn cây dầu, thày định dùng võ lực để chống cự. Nhưng sau cùng, thày đã nghe lời của vị mà mình muốn bảo vệ. Thày chấp nhận bị bắt để làm chứng cho điều cao thượng hơn : Làm chứng cho tình thương, cho lòng nhân ái và thứ tha của Tin Mừng.


Một tu sĩ đạo đức


Giuse Nguyễn Duy Khang chào đời năm 1832, tại Cao mại, xã Trà Vi, huyện Vũ Tiên, phủ Kiến Xương, tỉnh Thái Bình. Cha mẹ cậu là những giáo hữu đạo đức, hướng dẫn các con vào đời sống đạo ngày tư nhỏ. Nhưng cha cậu đã sớm qua đời, cậu được mẹ săm sóc tận tình. Bà lo niệu cho cậu được học hành, gợi cho cậu ý muốn hiến dâng đời mình cho Thiên Chúa và gởi cậu vào nhà Đức Chúa Trời giúp việc cho cha Matthêu Năng dòng Đaminh.

Sau mười năm sống với vị linh mục lão thành thánh thiện này, cậu Giuse Khang được cha gửi vào chủng viện Kẻ Mốt để học tiếng Latinh, chuẩn bị cho sứ vụ linh mục tương lai. Giai đoạn này thày Giuse Khang xin gia nhập dòng ba Đaminh, và được anh em tín nhiệm bầu làm trưởng tràng điều hành mọi ông việc trong nhà như lao động, nấu ăn, liên lạc cới các bề trên. Mặc dù bận rộn, thay Khang vẫn nêu gương sáng cho anh em trong việc học hành và kỷ luật. Những ai đã tiếp xúc với thày đều nói thày đạo đức, có tính cương trực, nhưng lại luôn luôn hòa nhã với hết thảy mọi người.

Khi đó, Đức cha Hemosilla Liêm cũng ở Kẻ Mốt đã tín nhiệm thày cách đặc biệt và chọn thày làm người phụ tá riêng. Thày Khang vui vẻ phục vụ Đức cha cách tận tình : từ việc dọn bàn thờ, sắp xếp các hồ sơ, sao chép các hồ sơ luân lưu, cho đến công tác cơm nước, liên lạc. Có lần thày còn đào hang trú ẩn cho hai cha nữa.

Mẫu gương can đảm.

Giáo Hội Việt Nam lúc ấy đang trong tình trạng bị bách hại khốc liệt, dưới thời vua Tự Đức. Để tiêu diệt hết đạo Gia Tô trong cả nước, nhà vua ban hành chiếu chỉ phân sáp ngày 05.8.1861. theo chiếu chỉ đó, mọi tín hữu Gia Tô già trẻ lớn nhỏ, nam nữ đều bị phân tán vào các làng ngoại giáo. các tín hữu bị khắc chữ trên má, gia đình bị phân chia, vợ một nơi, chồng một nẻo, con cái mỗi đưa một miền. Các thánh đường, nhà chung, tài sản của giáo hữu bị tịch thu, bị chia chác hay phá hủy.

Trong bối cảnh đó, ngày 18.9, Đức cha Hemosilla Liêm vô cùng đau đớn khi phải quyết định giải tán chủng viện Kẻ Mốt. linh mục Khoa, đại diện ngài nói với các chủng sinh: "Anh em khỏi chào Đức cha, kẻo ngài không cầm nổi nước mắt". Riêng thày Khang nhất quyết xin và được chọn để đi theo Đức cha cho tới cùng. Khi giã từ các bạn, thày nói nửa đùa nửa thật: "Tôi nhất định theo Đức cha, các quan có bắt ngài, ắt sẽ chẳng tha tôi. Đức cha chết vì đạo, tôi cũng chết theo, mất đầu còn chân sợ gì". Từ đêm đó, hai cha con bắt đầu sống lưu lạc. Tương lai tuy mờ mịt, nhưng thày Khang vẫn vui tươi nhờ lòng tin tưởng phó thác và tâm tình hiến dâng mạng sống nếu Chúa muốn.

Ba tuần lễ đầu, thày Khang cùng với Đức cha sống trong hang trú ẩn ở Thọ Ninh. Nhưng quan quân đã phát hiện nơi ẩn đó, nên hai cha con phải bỏ đất liền, xuống một thuyền đánh cá. Thày Khang chèo thuyền qua thị xã Hải Dương đến tá túc trên thuyền của một giáo hữu tên Bính. Chính nơi đây đã thành "Tòa Giám mục lưu động" của vị chủ chăn. Được vài ngày, hai vị tình cờ gặp Đức cha Valentinô Vinh và linh mục Almatô Bình đi thuyền từ Kẻ Nê xuống. Thật là cuộc gặp gỡ vô cùng cảm động và vui mừng của bốn thánh tử đạo Hải Dương. Các vị tạ ơn Chúa vì cơ may đặc biệt này, trao đổi tin tức và cùng nhau cầu nguyện cho Giáo Hội. Đến sáng, các vị chia tay mỗi thuyền đi một ngả.

Một hôm gia đình Trương Bính xảy ra cuộc cãi lộn. Người con trai tức giận với cha mẹ nên tố cáo ông bà chứa chấp đạo trưởng. Thế là đội Bảng liền đem gia nhân đến bắt Đức cha. Thấy họ tới nơi, thày Khang liền nhổ cây sào chống thuyền và chạy đến đứng chắn trước mặt họ như muốn ngầm bảo : phải bước qua xác tôi, rồi muốn bắt ai thì bắt.

Nhưng vị Giám mục khả kính và nhân ái đã đến nắm lấy vai thày, ngài nói: "Đừng làm gì hại họ, hãy phó mặc cho ý Chúa". Thày Khang ngỡ ngàng quay lại nhìn người cha già và chợt hiểu ra ý ngài, thày chỉ nói được một lời : "Thưa vâng", rồi bỏ sào tre xuống đưa tay cho lính trói. Lính giải hai vị vào thành Hải Dương và giam mỗi vị một nơi.

Vị tử đạo Hải Dương

Một tháng rưỡi trong tù, thày Khang được sống chung với một số giáo hữu. Thày liền tổ chức cho cả phòng giam đọc kinh chung mỗi ngày ba lần, và mỗi tối làm việc thống hối đền tội để chuẩn bị đón nhận phúc tử đạo. Trong thời gian này, thày bị đưa ra tòa tra tấn ba lần, bị đánh đòn khắp hai bên mông. Lần nào thày cũng can đảm chịu đựng, không hề tiết lộ bất cứ chi tiết nào về hàng giáo sĩ, không chịu bỏ đạo như các quan yêu cầu. Sau mỗi trận đòn, các giáo hữu trong ngục đều nấu nước rửa và xoa bóp cho thày dịu bớt cơn đau.

Đặc biệt ở trong tù, thày Khang vẫn tiếp tục viết thư cho các bạn học đang lưu lạc ở làng Hảo Hội. một lá thư thày viết : "Các quan mới tra tấn tôi một kỳ để hỏi Đức cha đã ở những đâu, song tôi chẳng trả lời, trái lại vui lòng chịu đòn. Xin anh em cầu nguyện cho tôi".

Trong lá thư khác thày viết : "Anh em cho tôi một cái quần, vì quần tôi cũ, phải đòn nhiều đã rách nát. Cũng xin gửi cho tôi một cái khăn để khi tôi chết, có cái mà liệm xác đem chôn".

Ngày 06.12.1861, thày Giuse Khang được nghe bản án trảm quyết ở kinh đô gửi ra, thày vui vẻ theo lịnh ra pháp trường Năm mẫu, nơi đã thấm máu người cha kính yêu của thày ngày 01.11 trước đó. sau khi bị chém đầu, dân chúng địa phương an táng thi thể ngay ở ngoài ruộng.

Năm 1867, theo lệnh của Đức cha Hy, thày cai Hinh, anh ruột của vị tử đạo đã dời hài cốt em của mình về nhà nguyện Kẻ Mốt.

Ngày 20.5.1906, Đức Thánh Cha Piô X suy tôn thày Giuse Nguyễn Duy Khang lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo

Nguyễn Duy Khang quê hương Cao Mại
Năm Nhâm Thìn (1832) sinh tại Thái Bình
Mẹ cha đạo đức nhiệt tình
Người cha mất sớm, một mình mẹ lo

Bà hướng dẫn gởi cho nhà Chúa
Cha Dòng Năng, nhận đứa trẻ ngoan
Mười năm dạy dỗ bảo ban
Gởi đi chủng viện nhà tràng Latinh

Nơi Kẻ Mốt chủng sinh đông đúc
Hết học kỳ kết thúc khấn dòng
Trưởng tràng tín nhiệm bầu xong
Thầy Khang kỷ luật hết lòng nêu gương

Mọi công việc đảm đương chu đáo
Việc học hành hoàn hảo đáng khen
Thầy đạo đức chẳng bon chen
Và luôn hòa nhã anh em đồng hành

Ðức Cha Liêm ghi danh chọn tuyển
Ðã nhận thầy, đại diện tháp tùng (Phòng bộ)
Thầy Khang vui vẻ hiếu trung
Theo ngài đi khắp các vùng quản cai

Lo sắp xếp cho ngài mọi việc
Từ văn phòng tới tiệc liên hoan
Ðào hầm trú ẩn vững vàng
Nói chung mọi việc sẵn sàng hy sinh

Sau chiếu chỉ Triều Ðình phân sáp
Ðóng cửa trường tản mác chia ly
Bốn phương mạnh ai cứ đi
Thầy Khang nhất quyết phù trì Ðức Cha

Bạn từ giã nói là đùa thật
Bắt Ðức Cha sẽ tất có thầy
Như lời tiên đoán sao đây
Cha con lưu lạc đó đây đêm ngày

Rồi bữa đó chẳng may bị bắt
Hai Cha con quan cắt chia ra
Ðức Cha án xử ngay mà
Thầy Khang tống ngục bị tra tấn nhiều

Thật khủng khiếp sớm chiều mông nát
Chí kiêu hùng sống thác không khai
Các nơi trú ẩn Ðức Ngài (Ðức Cha Hermosilla Liêm )
Giuse nghe án quan cai tử hình

Lệnh y án triều đình trảm quyết
Tại pháp trường thắm thiết Ðức Cha
Cách đây hơn tháng đó mà
Lý hình đã chém thế là đầu rơi

Quan chỉ chỗ đến nơi chôn cất
Ngoài pháp trường khoảng đất cánh đồng
Nơi đây rộng rãi mênh mông
Kêu là Năm Mẫu, máu hồng tuôn rơi

Mộ bia thầy ghi thời không rõ
Cai Hinh anh ruột cố tìm ra
Cải lên an táng quê nhà
Nguyện đường Kẻ Mốt để mà kính tôn

Phúc tử đạo tiếng đồn Tân Dậu (1861)
Mất thế gian trọng hậu Nước Cha
Bính Ngọ (1906) Toà Thánh Roma
Suy tôn Á thánh hoan ca thế trần

Lời bất hủ: Thầy Khang nói với bạn bè: "Tôi nhất định theo Ðức cha (Liêm), các quan có bắt ngài , ắt sẽ chẳng tha tôi, Ðức cha chết vì đạo, tôi cũng chết theo, mất đầu còn chân sợ gì". Khi lính đến bắt Ðức cha, thầy Khang toan dùng sào tre để chống cự cứu Ðức cha, ngài bảo: "Ðừng làm gì hại họ, hãy phó mặc cho ý Chúa". Thầy Khang chỉ nói được một lời "Thưa vâng".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #48
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.834
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
47. Giuse Nguyễn Văn Lựu (1790 -1854)

Giuse Nguyễn Văn Lựu, Sinh năm 1790 tại Cái Nhum, Vĩnh Long,Trùm họ, chết rũ tù ngày 2/05/1854 tại Vĩnh Long dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X đã suy tôn ông Trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu lên bậc chân phước Ngày 02-05-1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 2/05.

Một cuộc đời tốt đẹp

Sáu mươi tư tuổi đời, bao nhiêu là kỷ niệm, bao nhiêu là niềm vui, bai nhiêu là tình thương. 64 tuổi đời với những trách vụ và công việc xen lẫn với những khó khăn gian khổ, đói khát và bệnh tật của một người dân bình thường. Ông trùm Giuse Lựu tạ ơn Chúa vì 64 năm đó, và rồi ông chỉ còn chờ giây phút sau cùng để "Trả lại những quãng đời trần gian Chúa đã ban cho mình". Giây phút đó đã đến sớm hơn lòng ông mong chờ. Sau cuộc tra tấn trong ngục tối im lặng âm thầm ông cảm thấy rõ giây phút đó từ từ đến. 64 tuổi đời sống làm con Chúa, còn lại chút hơi thở cuối cùng, ông cũng muốn thành kính dâng lên trọn vẹn chi Ngài. Ông bám vào bờ tường, cố gắng đứng dậy ngước mắt lên trời kêu tên cực trọng Chúa Giêsu và Đức Maria ba lần, và từ từ ngã xuống nền nhà ngục, hoàn tất 64 năm dương thế một cách tốt đẹp.

Sống để phục vụ

Chào đời năm 1790 tại họ Cái Nhum, tỉnh Vĩnh Long. Ngay từ thời niên thiếu, cậu Giuse Nguyễn Văn Lựu đã được hấp thụ một nền giáo dục gia đình Công Giáo đạo đức. Nhờ vậy sau này khi kết hôn, Giuse Lựu đã đem lại cho gia đình một nề nếp cao quý, môt bầu khí đầm ấm, yêu thương thấm nhuần tinh thần đạo hạnh Kitô giáo.

Được đề cử làm trùm họ, ông tỏ ra xứng đáng với lòng tín nhiệm. Quý mến của mọi người. Đặc biệt ông có tài hòa giải những cuộc xích mích. Nhờ uy tín cá nhân, ông phân tích rõ ràng ai phải, ai trái, rồi dẫn lời Chúa dạy trong Phúc Âm, ông mời gọi mọi người hãy tha thứ và làm hoà với nhau. Thế là mọi người nghe theo các lời chí tình, chí thiết của ông. Hơn nữa trong trách vụ này, ông còn thể hiện một tâm hồn nhiệt thành với việc tông đồ, một Kitô hữu đầy lòng bác ái. Cộng tác với các linh mục trong việc điều hành họ đạo, coi sóc các em thiếu nhi, giúp đỡ người nghèo. Ông đã hiến tất cả vườn ruộng để xây dựng một nữ tu viện. Hằng ngày ông vẫn rộng tay làm phúc cho những người nghèo khó. Cuộc đời của ông thật giống những người tôi tớ trung tín luôn luôn làm sinh lời những nén bạc Chúa ban.

Những nguy hiểm gây ra do sắc chỉ cấm đạo không làm cho ông Trùm họ Mặc Bắc sợ hãi. Trước biết bao hiểm nguy khó khăn, ông vẫn lo liệu để các linh mục có nơi ẩn náu, hầu có thể cử hành và trao ban các bí tích cho giáo hữu.

Ý chí sắt đá

Ngày 26-03-1853, quan quân vây làng Mặc Bắc để tìm bắt cha Lựu (thực ra bấy giờ cha Minh đã thay thế cha Lựu mà quan quân không biết), nhưng ngay lúc đó ông trùm Lựu can đảm trả lời : "Thưa các quan không có đạo trưởng Lựu ở đây. Lựu chính là tên tôi làm trùm họ này". Quan quân nhìn ông chỉ thấy dáng dấp một nông dân nhà quê không có vẻ gì là đạo trưởng. Họ bèn lục soát kỷ hơn. Biết không thể trốn được cha Minh liền ra trình diện, mà họ nghĩ là cha Lựu và 6 giáo hữu bị giải về tỉnh Vĩnh Long.

Những hình khổ trong tù đã làm bốn người thối chí, họ muốn sống dễ dãi hơn. Những người yếu lòng ấy không chỉ phản bội Thiên Chúa họ còn đổ tội cho ông trùm Mặc Bắc là người tiếp đón và cho đạo trưởng chú ẩn. Họ nguyền rủa ông như là người gây ra mọi tang tóc, mọi khổ cực của họ. Riêng ông trùm Lựu, trước sau vẫn một mực trung kiên với Thiên Chúa, ông đón nhận những lời sĩ nhục và mọi đau khổ một cách khiêm tốn để đền bù những tội lỗi mình. Ông sẵn sàng đón nhận tất cả vì ông tin tưởng vào Thiên Chúa. Tín thác hoàn toàn nơi Ngài, lời tâm sự cùng linh mục cùng bị giam cho thấy ông có một niềm tin vững mạnh và tấm lòng hy sinh cao cả : "Thưa cha, xin cha cầu nguyện cùng Chúa để Chúa ban cho con sức mạnh và can đảm cần thiết. Con sắp phải đi đày, con xin trao cho Chúa tất cả mọi sự thuộc về con, con bằng lòng dâng cho Ngài hy sinh lớn lao hơn hết là gia đình vợ con, chính Chúa sẽ săn sóc vợ con của con."

Còn gì cao quý và giá trị cho bằng một tình yêu trong Thiên Chúa. Đấng chính là Tình Yêu…

An nghỉ trong Chúa

Những hình khổ lao tù cuối cùng chỉ thắng được thân xác. Vì tuổi già sức yếu phải mang gông mang xiềng, nên đêm mùng một rạng mùng 02-05-1854. ông Trùm Giuse Lựu đã trút hơi thở cuối cùng. Vị chứng nhân trung thành đã xứng đánh lãnh nhận cành lá vạn tuế tử đạo, dù không bị trảm quyết.

Đám tang ông trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu là trường hợp họa hiếm trong thời cấm đạo. Bất chấp mọi nguy hiểm có thể xảy đến, bốn linh mục và gần 2000 tín hữu đã tiễn đưa linh cửu đến an táng trong khu thánh đường họ Mặc Bắc.

Đức Piô X đã suy tôn ông Trùm Giuse Nguyễn Văn Lựu lên bậc chân phước Ngày 02-05-1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên bậc Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo

Nguyễn Văn Lựu quê hương Gia Ðịnh
Sinh Tân Mùi (1790) thanh lịch mẹ cha
Một nền giáo dục Nho gia
Gia đình Công giáo thật là mẫu gương

Ơn Chúa gọi theo đường gia thất
Hai vợ chồng rất thật yêu thương
Tinh thần đạo đức đồng hương
Ðược bầu Trùm họ thánh đường trông coi

Ông đặc biệt sáng soi hòa giải
Thật công minh trái phải rõ ràng
Phúc âm lời Chúa trao ban
Làm hòa tha thứ, sẵn sàng dấn thân

Ông làm phúc người dân nghèo khổ
Ðến viếng thăm những chỗ lâm nguy
Tông đồ can đảm ông đi
Nơi đâu cần đến ông thì tới ngay

Các Tu Sĩ đêm ngày lẩn trốn
Ông sẵn sàng, từ tốn nhiệt tình
Mời Cha, ở lại nhà mình
Hay đi nơi khác tình hình khẩn trương

Một lần nọ, đảm đương lãnh nhận
Quân vây làng tên Nhẫn tay sai
Truy lùng đạo trưởng các Ngài
Chúng không bắt được, Cha khai trong làng

Ông Trùm Lựu cả gan đại diện
Việc nhà thờ thực hiện mình tôi
Phút sau lính đã trói rồi
Giải về tống ngục trước tôi bốn người

Chúng tra tấn tơi bời khổ cực
Bốn người kia quả thực khiếp kinh
Bước qua Thánh Giá khổ hình
Còn ông Trùm Lựu một mình kiên trung

Ông sẵn đón tột cùng xỉ vả
Một niềm tin Cha Cả trên Trời
Phát lưu bản án khơi khơi
Cha đến giải tội ban lời nhủ khuyên

Rồi Ngài chúc bình yên phó thác
Thánh Giá mình hãy vác cho nên
Vợ con chăm sóc ơn trên
Vui lòng dâng Chúa vững bền niềm tin

Ngày ra đi hướng nhìn vô tận
Roi đòn thù tra tấn nặng nề
Tuổi già sức yếu thảm thê
Lại thêm bệnh hoạn gông kề xiềng đeo

Ông Trùm Lựu ngặt nghèo hơi thở
Chốn ngục tù ai đỡ giúp cho
Bám tường ông cố lò dò
Kêu tên Cực Trọng xin cho chết lành

Rồi ngã xuống thật nhanh nhà ngục
Xin quân cai thủ tục lãnh ra
Thi hài đón nhận người nhà
Vẫn luôn mềm mại, người ta lạ lùng

Lễ án táng vô cùng trọng thể
Có bốn Cha đồng tế trang nghiêm
Quan tài gỗ quý đắt tiền
Ðô tùy năm chục người khiêng trai làng

Các di vật phải mang xiềng xích
Cũng được chôn di tích nhà thờ
Tuy rằng cục mịch thô sơ
Thánh nhân tử đạo đón chờ ơn thiêng

Năm Giáp Dần (1854) ơn riêng tử đạo
Chết rũ tù diện mạo trung kiên
Xác chôn hồn thánh quy thiên
Suy tôn Kỷ Dậu (1909) bình yên Nước Trời

Lời bất hủ: Ông trùm Lựu can đảm trả lời: "Thưa các quan, không có đạo trưởng Lựu nào ở đây. Lựu chính là tên tôi làm trùm họ này".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #49
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.834
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
48. Giuse Nguyễn Ðình Nghi (1771-1840)

Giuse Nguyễn Ðình Nghi, Sinh năm 1771 tại Kẻ Với, Hà Nội, Linh mục, bị xử trảm ngày 8/11/1840 tại Bẩy Mẫu dưới đời vua Minh Mạng. Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 8/11.

Thánh Phaolô NGUYỄN NGÂN - Linh mục - (1790 – 1840)

Điều bận tâm nhất trong đời linh mục của thánh Phaolô Ngân là theo gương Đức Giêsu, vị mục tử nhân hiền. Trong thời bách hại, cha thường than với mọi người rằng: "chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tin từng con một quá…". Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từngn tín hữu của mình được. Phaolô Nguyễn Ngân sinh năm 1790 tại họ Cự Khanh, tỉnh Thanh Hóa. Cậu đi tu từ nhỏ, đến khi vào chủng viện thì học cùng lớp với cha Nghi. Sau khi thụ phong linh mục, cha về giúp xứ Phúc Nhạc, phu6 trách luôn họ Duyên Mậu và các họ lẻ chung quanh. Được ít lâu cha bị sốt rét nên phải nghỉ và dạy học ở chủng viện Vĩnh Trị được bẩy năm. Khi khỏi bệnh, cha phụ trách xứ Trình Xuyên ba năm nữa. Cuối cùng về làm phó xứ Kẻ Báng giúp cha Nghi mới được khoảng một năm thì bị bắt.

Thánh Giuse NGUYỄN ĐÌNH NGHI - Linh mục - (1793 – 1840)

Đọc lại cuộc tử nạn của Chúa Giêsu theo thánh Gioan, ta thấy : khi thuộc hạ các thượng tế đến bắt Đức chúa Giêsu trong vườn Cây Dầu, ngài nói với họ : "Tôi đã bảo với các anh là chính tôi đây. Vậy nếu các anh tìm bắt tôi thì hãy để cho những người này đi".

Thế là ứng nghiệm lời Ngài đã nói : "Những người cha đã trao phó cho con, con không để thất lạc một ai"(Ga. 18, 8-9). Đó là điều cha Giuse Nguyễn Đình Nghi hằng suy niệm trong thời bách hại. Lúc nào trong người cha cũng mang sẵn một vài nén bạc, để nếu bị bắt ở nhà người khác thì có tiền chuộc chủ nhà. Cha sẵn sàng hy sinh tử đạo nhưng không muốn liên lụy đến ai.

Giuse Nguyễn Đình Nghi sinh năm 1793 tại xứ Kẻ Vồi, huyện Thượng Phúc, nay thuộc Hà Nội, trong một gia đình trung lưu. Ngay từ nhỏ, cậu Nghi đã dâng mình cho Chúa, sống với cha Liêm ở xứ Kẻ Vồi. Học xong trường thày giảng, thày lại trở về giúp xứ nhà. Các cha thấy thày thông minh hiền hậu, nên cho theo thần học, và năm 30 tuổi, thày Nghi thụ phong linh mục. Đức cha Havard Du bổ nhiệm cha làm phó xứ Sơn Miêng một năm, phó xứ Kẻ Vạc bốn năm, rồi phụ giúp cha Khoan ở xứ Phúc Nhạc. Do khả năng quản trị, ngài được về làm cha sở xứ Đa Phạn khoảng mười năm. Cuối cùng đang làm cha xứ Kẻ Báng thì bị bắt.

Cha Nghi có nếp sống rất đạo hạnh, chuyên chăm việc giảng dạy và siêng năng ngồi tòa giải tội. Cha có biệt tài giúp tội nhân thống hối, hoán cải. Cha ăn chay nhiều ngày cách nghiêm ngặt, cha thày giảng lo cho sức khỏe, phải can gián cha nhiều lần. Tính tình cha hòa nhã vui vẻ, nhanh nhẹn hoạt bát, nhất là thông thạo luật đạo đời, nên trong giao tế, cha được mọi người kính trọng mến yêu. Lương dân chung quanh thường đồn đãi với nhau là: Nếu ông này không đi tu chắc làm quan lớn lắm…

Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm mong ước tử đạo, nhưng ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ, cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt.

Thánh Martinô TẠ ĐỨC THỊNH - Linh mục - (1760 – 1840)

Sau 80 năm phụng sự Chúa, tóc đã bạc, chân mỏi, sức hầu cạn, cộng với cơn bệnh đang dằn vặt trong mình, cha Martinô Thịnh vẫn cảm thấy phải dâng hiến cho Chúa phần còn lại là chính mạng sống để làm chứng cho Người. tuy có thể thoát thân trong cuộc truy lùng, cha đã trả lời cho người lính hỏi: "Ông có phải là đạo trưởng không", bằng lời xác nhận "Phải tôi đây". Lời xác nhận đó đưa cha đến chỗ chết, nhưng cũng đưa cha lên đài vinh quang cho muôn đời noi gương.

Martinô Tạ Đức Thịnh sinh năm 1760 tại làng Kẻ Sét, huyện Thanh Trì, nay thuộc khu vực Hà Nội, trong một gia đình nề nếp. Năm 18 tuổi, gia đình định cho anh kết duyên với một thiếu nữ thùy mỵ, duyên dáng và đạo hạnh, nhưng anh xin hãn lại để suy nghĩ, và cuối cùng quyết định xin đi tu dâng mình cho Chúa.

Thày Thịnh thụ phong linh mục trong thời Cảnh Thịnh cấm đạo. Cha làm bí thư cho Đức cha Giacôbê Longer Gia một thời gian, đã tháp tùng Đức cha đến yết kiến vua Gia Long về đăng quang tại Thăng Long năm 1803.

Theo sự bổ nhiệm của Đức Giám mục, cha phục vụ tại nhiều giáo xứ: trước tiên là Cửa Bạng rồi Đồng Chuối, sau về xứ Nam Sang phục vụ hai mươi năm liền. cuối cùng, làm cha sở xứ Kẻ Trình khi đó cha đã 80 tuổi. ngài là một người cha già, đạo đức, hiền lành, được tất cả các tín hữu kính nể và yêu mến.

Một hôm cha bị nhọt ở má, rồi lở miệng, nửa hàm răng bị mưng mủ và đau nhức khôn tả. Ông Cỏn lên thăm, thấy tình cảnh cha như vậy liền rước cha về nhà cháu ở xứ Kẻ Báng để chăm sóc chữa trị. Được độ tám tháng, cha bị bắt cùng hai cha Nghi và Ngân.

Tai họa cho làng Kẻ Báng

Tổng đốc Trịnh Quang Khanh là một công tác viên đắc lực nhất của vua Minh Mạng trong việc bách hại đạo Công Giáo. Trong vòng ba năm, ông phá hủy hơn 400 nhà thờ, tu viện và chủng viện. Ông cho phóng thích một tội nhân phạm tội hình sự đang bị giam ở Nam Định, để anh ta đến làng Kẻ Báng do thám, lập công chuộc tội. Anh này tuy không trong đạo, nhưng quen biết nhiều, nên ra vào và gặp gỡ các giáo hữu dễ dàng. Khi biết chắc trong làng có ba linh mục, anh liền đi tố giác với quan.

Ngày 30.5.1840, theo tin mật báo, quan Tổng đốc liền đem 1000 quân đến vây làng Kẻ Báng. Rồi ông cho phát loa kêu gọi dân ra đình điển danh. Tất cả đàn ông, thanh niên trên 15 tuổi đều bị trói lại và tập trung ở một chỗ, quân lính canh gác cẩn thận. Họ bắt cứ phải ngồi vậy phơi nắng, phơi sương suốt hai ngày. Anh chị em phụ nữ lo cơm nước tiếp tế cho lính và thân nhân. đồng thời quan sai lính đi lục soát tất cải "hang cùng ngõ hẻm". Ngày đầu tiên không tìm thấy linh mục nào, ông nản lòng định rút quân, nhưng người tố giác cứ nhất quyết, lấy đầu ra mà thề, nên ông lại cho lục soát tiếp.

Ngày thứ ba, quan ra lệnh phá các vách dầy trong làng thì quả thật bắt được cha Nghi đang ẩn giữa hai lớp vách nhà bà Duyên. Quan cho gọi bà ra bước qua Thánh Giá, nhưng may mắn quân lính nghe lộn ra bà Doãn, bà này ngoại giáo nên sẵn sàng bớc qua, nhờ đó bà Duyên thoát mạng. Khoảng giữa trưa thì quân lính bắt được cha Ngân đang ẩn ở nhà ông Thọ và cha bị bắt trói, điệu ra chỗ cha Nghi ngoài đình.

Về cha Thịnh thì giả điếc nằm ngay võng nhà ông Chiền là cháu ông Cỏn, quân lính đi ngang thấy cụ già nhà quê bệnh tật, nên chẳng nghi ngờ gì. Nếu có hỏi thì co Thanh, một nữ tu họ Kẻ Trình đi theo phục vụ cha khai là : "Bố tôi đấy, ông bị bệnh nặng nên không ra điểm danh được". Đến khi nghe tin cha Nghi và Ngân bị bắt, cha Thịnh khôngh muốn im lặng nữa. Nhân một cai đội họi cụ : "Ông có phải là đạo trưởng không ?" Cha liền đáp: "Phải tôi đây". Thế là cha Thịnh đồng số phận bị bắt với hai cha bạn cùng chí hướng. Lợi dụng cơ hội này, quân lính ùa vào làng cướp tiền của, thóc lúa, trâu bò… Họ vừa đập phá, vừa reo hò chiến thắng vang dậy cả làng. Sau đó quan cho đóng gông và áp giải ba linh mục, ông Thọ, ông Cỏn và 20 tín hữu Kẻ Báng về nhà lao Nam Định.

Vững vàng tuyên tín…

Suốt một tháng đầu, ba cha, ngày mang gông xiềng, tối bị cùm chân, nhưng chưa phải ra tòa. Đến đầu thàng bẩy, quan gọi ra công đường, bắt bước qua Thập Giá, các cha đều can đảm từ chối. Cha Thịnh lên tiếng: "Tôi đã bằng này tuổi đầu mà còn sợ chết nữa sao ? Tôi không thể làm theo lời quan được". Quan lại hỏi về tên và chỗ ở của các thừa sai, nhưng các cha đều chối không biết. Quan liền truyền trói ba vị bắt quỳ giang nắng suốt ngày không cho ăn uống nước.

Ba ngày sau (06.7), Tổng đốc Trịnh Quang Khanh lại cho gọi ba cha và nói : "Nếu các ông không đạp lên Thập Tự, các ông sẽ phải chết". Cha Nghi trả lời: "Thưa quan, nếu quan thương chúng tôi nhờ; nếu không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mộ, còn bước qua Thập Giá, chúng tôi không dám". Quan liền cho đánh mỗi người 50 roi. Thấy không hiệu quả, ông cho đánh cha già Thịnh thêm 10 roi nữa, vì nghĩ tuổi già sức yếu, cha sẽ chịu khuất phục. Nhưng ông không ngờ cha Thịnh mạnh mẽ can đảm chịu đòn cách vui vẻ. Tức giận, quan lại bắt ba vị ra phơi nắng một ngày nữa.

Hạnh phúc thiên thu.

Thấm thoát ba cha ở trong ngục được năm tháng. Với nhiều trận đòn chí tử, nhiều ngày giang nắng ngoài trời…, các vị vẫn không nản lòng, cứ một mực tuyên xưng niềm tin vào Đấng chịu khổ nạn. Các quan thấy các ngài cương quyết giữ vững lập trường, liền làm án gửi về kinh đô. Vua Minh Mạng phê chuẩn và ra lệnh thi hành. Được tin ấy, ba cha hớn hở vui mừng, giải tội cho nhau và chuẩn bị tâm hồn sốt sắng lãnh nhận triều thiên tử đạo.

Ngày 08.11.1840, cha Thịnh, cha Ngân, cha Nghi, ông Thọ, ông Cỏn bị đoàn lính 500 người điệu ra pháp trường Bẩy Mẫu. Đến nơi, tất cả các ngài quỳ xuống cầu nguyện một lát, rồi ra hiệu đã sẵn sàng. Theo lệnh quan, lý hình chém rơi đầu năm chiến sĩ đức tin, kết thức cuộc đời dương thế và khai mở cuộc sống vĩnh hằng trên Thiên Quốc.

Thi thể hai cha Nghi và Ngân được đưa về Kẻ Báng. Còn cha Thịnh được mai táng ở xứ Vũ Điện, sau đưa về quê hương ngài là Kẻ Sét, Hà Nội.

Đức Lêo XIII suy tôn ba linh mục Giuse Nguyễn Đình Nghi, Phaolô Nguyễn Ngân và Martinô Tạ Đức Thịnh lên bậc Chân Phước ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các ngài lên hàng Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Trương Minh Giảng lên đường qua Pháp
Ðể điều đình hợp tác hai bên
Vua Minh Mạng lại giết thêm
Gồm ba Linh mục, dân tên hai người

Là Cỏn, Thọ cũng thời bị bắt
Cha Thịnh, Ngân, Nghi dắt giáo dân
Quang Khanh chuộc tội thấy cần
Truy lùng đạo trưởng xa gần thẳng tay

Cho đập phá tháng ngày cơ sở
Nhiều nhà thờ chỗ ở nhà chung
Tội nhân khét tiếng trong vùng
Ông cho phóng thích để dùng mưu sâu

Với điều kiện khởi đầu chuộc tội
Ði đó đây sớm tối săn tin
Khắp nơi đạo trưởng kiếm tìm
Lên quan báo cáo cho nghìn lính vây

Làng Kẻ Báng quân đầy loa phát
Tới Ðình Làng đề bạt điểm danh
Mười lăm tuổi phải tuân hành
Toàn là nam giới lão thành quý ông

Quang Khanh nói khỏi gông trói lại
Và tập trung ngồi tại sân đình
Xung quang canh gác quân binh
Phơi sương phơi nắng dân tình xót thương

Các phụ nữ lo đường tiếp tế
Nấu nước cơm, tập thể cùng ăn
Quang Khanh cho lính đi săn
Hang cùng ngõ hẻm từng căn từng nhà

Nản lòng kiếm chẳng ra đạo trưởng
Cả quan quân như tưởng rút quân
Nhưng người tố quyết không lầm
Lấy đầu ra để thế cầm cam đoan

Xin lục soát qua sang ngày nữa
Tôi cam đoan xin hứa thành công
Phá nhà phá vách tây đông
Quả nhiên bắt được mấy ông Cha liền

Hai lớp vách Ba Duyên trú ẩn
Quan gọi ra lại lẫn tên Ðoan
Bước qua Thánh Giá lệnh quan
Bà này ngoại giáo dám làm được tha

Bà Duyên thoát rõ là ý Chúa
Ðến gần trưa nơi nữa bắt thêm
Cha Ngân đang ẩn tuổi tên
Ở nhà ông Thọ bắt lên trói liền

Cha Thịnh điếc nằm yên trên võng
Nhà ông Chiến lính bỗng ngang qua
Thấy Cha sức yếu tuổi già
Không nghi chẳng hỏi thế là bỏ đi

Nếu có hỏi ắt thì chẳng lộ
Có nữ tu thuộc họ Kẻ Trình
Ði theo giúp đỡ hy sinh
Nhận ngay là Bố của mình ốm đau

Biết Cha Ngân, Nghi cùng nhau bị bắt
Cha Thịnh không lánh mặt làm ngơ
Một cai đội đã nghi ngờ
Ông này đạo trưởng trước giờ ở đây

Cha Thịnh đáp, ốm gầy đạo trưởng
Chúng bắt ngay một hướng dẫn theo
Hai đồng bạn đã gông đeo
Bọn quan quân lính hò reo vào làng

Có cơ hội sẵn sàng cướp bóc
Lấy bạc tiền lúa thóc trâu bò
Dân Làng Kẻ Báng âu lo
Mất người mất của đầy no ơn lành

Chúng dẫn giải về thành Nam Ðịnh
Ðể Quang Khanh toan tính tấn tra
Lần này đạo trưởng bắt ba
Còn hai người nữa toàn là giáo dân

Tạ Ðức Thịnh chuyên cần Kẻ Sặt
Sanh Canh Thìn (1760) quê thật Hà Ðông
Mẹ cha sắp xếp coi trông
Muốn anh duyên kết vợ chồng tề gia

Anh xin hoãn để mà suy nghĩ
Nhưng cuối cùng quyết chí đi tu
Hồng ân Thiên Chúa hộ phù
Thụ phong Linh mục đời tu nhiệt thành

Bí thư giỏi nổi danh Giáo phận
Cùng Ðức Cha vào tận Bắc Thành
Gặp Gia Long để họp hành
Tự do tôn giáo rõ rành tỏ thông

Ðức Cha bổ nhiệm trông giáo xứ
Là Cửa Bạng coi giữ đầu tiên
Nam Xang, Ðồng Chuối khắp miền
Kẻ Tình Nam Ðịnh sau liền về hưu

Các giáo hữu dắt dìu cảm mến
Cha bị đau cháu đến đón về
Gia đình Kẻ Báng nhà quê
Sau Cha bị bắt giải về Quang Khanh

Nguyễn Ðình Nghi quê anh Hà Nội
Năm Quý Sửu (1793) rửa tội (do) cha Liêm
Học xong Thầy giảng trong miền
Trở về giúp xứ chân chuyên Tông đồ

Rồi sau đó được về thần học
Phong Linh mục coi sóc Sơn Miêng
Cha Nghi phục vụ khắp miền
Tính tình hòa nhã giảng khuyên biệt tài

Cha không muốn để ai liên lụy
Ðem theo tiền chuẩn bị chuộc dân
Cha Nghi Kẻ Báng lãnh phần
Cũng đều bị bắt một lần Cha Ngân

Ðây tiểu sử mấy vần nhỏ bé
Cậu Nguyễn Ngân họ lẻ Cựu Khanh
Canh Tuất (1790) sinh tại tỉnh Thanh
Vào tu chủng viện học hành thông minh

Thầy chịu khó chân tình phục vụ
Sau thụ phong Linh mục Tông đồ
Phụ trách Duyên Mậu tiền hô
Cha Nhân lâm bệnh nhập vô cấp thời

Cha được về nghỉ ngơi chủng viện
Khoảng bảy năm tăng viện nhà tràng
Trình Xuyên phụ trách đảm đang
Thêm ba năm nữa Kẻ Bàng tiến mau

Ông Trùm Cỏn sinh đầu Ất Sửu (1805)
Tại Kẻ Bàng tiêu biểu Thành Nam
Ðinh Mùi (1787) ông Thọ cùng làng
Nhiệt tâm sắp xếp nhẹ nhàng Thừa sai

Luôn bố trí các ngài ẩn trốn
Khi quan quân vây khốn làng này
Hai ông lanh lẹ tiếp tay
Các Cha chạy trốn cả ngày lẫn đêm

Vùng Nam Ðịnh có tên hùm xám
Bủa lưới vây phân tán vào lùng
Cha con bị bắt gom chung
Bắt quỳ phơi nắng lại dùng đòn roi

Ðể Thập Giá chúng đòi quá khóa
Năm chứng nhân đều đã chịu đòn
Một lòng vì Chúa sắt son
Quang Khanh tức giận chỉ còn xử thôi

Năm trăm lính đứng ngồi Bảy Mẫu
Năm chứng nhân làm dấu nguyện cầu
Lý hình được lệnh chém đầu
Anh hùng tử đạo hát câu khải hoàn

Năm Canh Tý (1840) chu toàn ơn phước
Năm chứng nhân đều được tuyên phong
Gian nan cực khổ chịu chung
Suy tôn Canh Tý (1900) họ cùng sáng danh

Lời bất hủ:

-Trong thời bách hại, cha thường than thở với mọi người rằng: "Chủ chăn khó đi tìm chiên lạc, khó biết tên từng con một quá.". Cha thường tỏ ra tiếc vì hoàn cảnh không săn sóc kỹ lưỡng từng tín hữu của mình được.
-Quan gọi cha ra công đường bắt bước qua Thập giá, cha đều can đảm từ chối, cha nói: "Tôi đã bằng này tuổi đầu, mà còn sợ chết nữa sao! Tôi không thể làm theo lời quan được".
-Trong những năm vua Minh Mạng cấm đạo, cha biểu lộ niềm ước mong tử đạo, nhưng ngài nói: "Tôi mong sẽ bị bắt ở đồng vắng, để không hại đến anh chị em tín hữu". Khi đi làm mục vụ cha cẩn thận mang theo ít tiền để chuộc chủ nhà, nếu không may bị bắt. Lần bị quan tra hỏi, cha Nghi trả lời: "Thưa quan thương, chúng tôi nhờ, nếu không thương chúng tôi cũng xanh rì nấm mồ, còn bước qua Thập giá chúng tôi không dám".
-Tổng đốc Trịnh Quang Khanh truyền cho lính khiêng các ông qua Thánh giá, các ông co chân lên và khẳng khái tuyên bố: "Ðạo tại tâm, quan lớn cưỡng bách và lòng chúng tôi không thuận thì chẳng mắc tội gì". Quan tra tấn các cha máu me loang lổ khắp mình, quan truyền hai ông (Thọ và Cỏn) liếm máu nơi các vết thương đó hoặc bỏ đạo, các ông đã quỳ xuống liếm máu như quan đã yêu cầu một cách cung kính,khiến quan rùng mình, khiếp sợ và kinh ngạc.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #50
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.834
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
49. Giuse Phạm Trọng Tả (1792-1859)

Giuse Phạm Trọng Tả (Cai), Sinh năm 1796 tại Quần Cống, Nam Ðịnh, Giáo dân, Cai Tổng, bị xử giảo ngày 13/01/1859 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, Đức Piô XII đã suy tôn ba anh hùng tử đạo : Đaminh Phạm Trọng Khảm, Giuse Phạm Trọng Tả, Luca Phạm Trọng Thìn lên bậc chân phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-2002, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các Ngài lên hàng hiển thánh., lễ kính vào ngày 13/01.

Giuse PHẠM TRỌNG TẢ (1800-1859) - Luca PHẠM TRỌNG THÌN (1820-1859) - Chánh Tổng

Cuộc đời của hai ông Cai Tả, Cai Thìn tuy cách biệt nhau 20 tuổi đời, nhưng đã hòa lẫn với nhau trong cùng bối cảnh lịch sử thời tử đạo, một vị là cựu, một vị là Chánh Tổng làng Quần Cống. Phải làm gì bây giờ chắc chắn hai ông đã phải bàn luận với nhau rất nhiều, để cùng với sự ủy thác của đức Cha Sampecro Xuyên, giám mục giáo phận Trung khi đó, hai ông chọn giải pháp hòa bình bằng phương thế đối thoại. Một mặt với uy tín riêng, các ông trấn an các tín hữu. Mặc khác quan hệ với quan tổng đốc để gợi lên quan tấm lòng nhân ái và quãng đại. Rất tiếc, đường lối đó không đạt như sở nguyện, nên hai ông đã trả giá cho sứ mạng hòa giải bằng chính mạng sống của mình.

Giuse Phạm Trọng Tả sinh khoảng năm 1800 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân trường tỉnh Nam Định. Cai Tả là anh em thúc bá với thánh Án Khảm, là con Đaminh Phạm Thăng. Khi bị bắt ông đã 60 tuổi, là một kitô hữu đạo đức, một hội viên dòng ba Đaminh và là cựu chánh tổng đã chu toàn chức vụ của mình. Phụ lực với cháu Cai Thìn, ông tìm cách giúp mọi người sống đạo trong hoàn cảnh khó khăn. Gia phả con cháu ghi rằng : "Đầy tớ ông rất đông, chưa tết ông đã đi thăm viếng từng nhà và cho tiền mừng rất hậu. Số tiền ấy thường gấp đôi số quà cáp họ biếu xén ông trong năm. Tiền thóc gia nhân vay mượn ông thường cho một nửa, nếu túng quá thì cho luôn. Công nợ của dân trong làng cũng châm chước như thế. Khi bà cai lên tiếng cằn nhằn, ông thản nhiên trả lời 'mình quên nợ người chúa quên tội mình'".

Luca Phạm Trọng Thìn là con trai cụ An Khảm, sinh khoảng năm 1820 tại làng Quần Cống, xã Trà Lũ, phủ Xuân Trường tỉnh Nam Định. Như ta đã biết về cụ An Khảm, dưới mái nhà gia giáo và khá giả này, cậu Thìn đã lớn lên trong bầu khí đạo đức, được ăn học thành người. Nhờ trí khôn thông minh nhanh nhậu và chăm chỉ chuyên cần chẳng bao lâu anh đã "công thành danh toại". Khi bị bắt ông Cai Thìn khoảng 40 tuổi và đang là Chánh Tổng, vừa quyền thế vừa uy tín. Thực ra khi mới lên chức vụ này, vì giao tiếp với quan lại nhiều, có thời kỳ ông có vợ nhỏ là cô Trung người Trà Lũ, nên thờ ơ việc đạo nghĩa (vợ chính ông Cai Thìn là bà Maria Tâm). Nhưng sau nhờ lời khuyên của thân phụ, nhất là của cha giải tội, ông đã thành tâm sám hối. Từ đó ông trở thành một mẫu gương thánh thiện, một gia trưởng và một hội viên dòng ba Đaminh đạo đức, một thủ lảnh đáng tin cậy.

Năm 1858, tình hình bắt đạo đang gia tăng, và liên quân Pháp-Tây Ban Nha đang đe dọa dân Việt ở Đà Nẵng, vua Tự Đức thêm phẫn nộ ra lệnh cho quan quân triệt để thi hành các sắc chỉ nhắm vào đạo gia tô. Nhưng thực tế việc việc thi hành này lệ thuộc nhiều vào các quan địa phương có sốt sắng hay không. Lợi dụng điều đó, Đức Cha Sampedro Xuyên đã ủy thác cho Cai Tả và Cai Thìn trọng trách sứ giả hòa bình, vì cũng thuộc thành phần lãnh đạo, dễ dàng tiếp xúc với cấp trên.

Hiểu ý Đức Cha và nắm tình hình các tín hữu Quần Cống, hai ông đã đến gặp trực tiếp Tổng Đốc Nam Định, xin ông nương tay cho các tín hữu được bình an, và hứa kêu gọi dân chúng trung thành với đức vua. Cuộc thương thuyết sắp thành công, nhưng không ngờ lúc ấy tại Cao Xá, một người vì bất mãn chính sách của nhà vua, đã xúi dục một nhóm người nổi loạn chống lại các quan địa phương. Thế là vị Tổng Đốc liền đổi ý, ra lệnh tiếp tục truy lùng các thừa sai, các đạo trưởng và các giáo hữu có uy tín trong dân. Quan kết án Cai Tả, cai Thìn là lừa dối và tìm dịp để bắt hai ông. Chúng ta sẽ biết cơ hội để quan thực hiện ý đồ đó trong phần sau.

Ba lần ra trước tòa, cả ba lần hai ông đều cương quyết không bước qua Thập Giá, dù bị dọa nạt đánh đập. Khi quan yêu cầu hai ông viết những suy nghĩ của mình lên giấy, Cai Thìn đã viết bảng tuyên xưng Đức Tin rõ rệt và can đảm như : "Tôi là một Kitô hữu, tôi sẳn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ. Chính tay tôi viết điều này Luca Thìn".

Ông Cai Tả không cương quyết không xúc phạm Thánh Giá, ông còn khuyên bảo mọi người đừng phạm thứ tội mà ông gọi là "ghê tởm" đó .

Nếu Đức Giêsu Hoàng Tử Bình An đã dùng Thánh Giá khổ nhục để hòa giải nhân loại bạc bẻo với Chúa Cha thì cuối cùng, hai ông Cai Tả và Cai Thìn sẽ mãi mãi là sứ giả Hòa Bình bằng cái chết để chứng tỏ lòng mình luôn trung tín với Thiên Chúa và trung thành với Giáo Hội.

* *
*

Năm 1858 khởi đầu cho giai đoạn 5 cuộc bách hại đạo gay gắt nhất trong lịch sử Giáo Hội Việt Nam. Nhà vua treo giải thưởng xứng đáng cho những ai tố cáo nơi trú ẩn của các vị thừa sai Âu Châu và ngược lại sẽ trừng trị đích đáng những kẻ chứa chấp họ. Thế là các Ngài phải nay đây mai đó, trốn từ làng này qua làng khác. Quần Cống là một nơi ẩn náu khá an toàn, vì các chức sắc trong làng là ngừơi Công Giáo, và chính họ sẵn sàng đón tiếp các Ngài. Đức cha Sampedro xuyên, đại diện tổng tòa giáo phận Trung dự đoán có thể bị bắt bất ngờ, đã thủ phong giám mục phó cho Đức cha Valentino Vinh ngày 14-06 tại ninh Cường, hai cha Riano Hòa và Carrerras Hiển là phụ phong. Sau đó cả bốn vị đều ẩn tại làng Quần Cống, trọ tại nhà cụ An Khảm, Cai Tả và Nhiêu Côn.

Quan An sát Nam Định được mật báo làng Quần Cống chứa chấp Tây dương đạo trưởng, liền huy động quân lính đến vây bắt. Nhưng cụ An Khảm kịp biết tin, vội vàng tìm cách đưa các vị thừa sai trốn khỏi làng. Đức cha Vinh và hai Linh mục qua làng Trà Lũ. Đức cha Xuyên đi qua Kiên Lao (ngày 08-07 mới bị bắt). Sau khi các thừa sai đã đi xa, cụ cho mỏ làng đi trước, đích thân cầm roi đi sau, bắt mõ làng rao lớn tiếng : "Trình quan viên làng nước, có lệnh cụ Án truyền rằng : người nào quá khóa phải phạt ba roi và bị đuổi ra khỏi làng." Rồi cụ tụ tập dân lại khích lệ họ.

Sau đó, quan quân ùa vào làng, họ bắt toàn thể dân làng tập trung lại, và rồi gọi cụ An Khảm ra trình diện và nói : "Mau nộp ngay lập tức các đạo trưởng Tây dương và bản quốc, cũng như bọn thầy giảng lẩn trốn trong làng. Nếu bất tuân lão sẻ bị bắt, bị tịch thu tài sản, nhà cửa sẽ bị thiêu hủy, còn chíng lão sẽ bị kết tội chống cưỡng nhà vua." Cụ An Khảm hết sức bình tĩnh vì biết chắc các thừa sai đã trốn xa rồi, cụ mạnh bạo trả lời : "Đúng, đạo chúng tôi có các đạo trưởng nhưng các ngài ở đâu làm sao chúng tôi biết được. Xin quan cứ tự do lục soát nếu tìm thấy vị nào trong làng thì quan muốn làm gì cũng được."

Thế là quân lính chia nhau lục soát khắp ncả nhà, dĩ nhiên là không tìm thấy một linh mục. Nhưng lính lại phát hiện được một số tượng ảnh, áo lễ nên chủ nhà bị kết tội là chứa chấp đạo trưởng. Cụ An đã đứng ra nhận là mình đã mua những thứ đó. Tuy vậy quan vẫn ra lệnh bắt trói cả nhà.

Trở lại nơi tập trung dân làng, quan An sát cho đặt một Thánh Giá ngay giữa sân, rồi bắt mọi ngừơi lần lượt bước qua. Nhưng quan đã thất bại dù lính có đi tới đi lui đe dọa, toàn thể dân làng không một ai bước qua Thánh Giá. Một bô lão có lẽ vì quá sợ, run rẩy tiến lên vài bước, định thi hành lệnh quan, nhưng cụ An nhanh chân hơn cản lại và khiển trách. Viên quan tức giận quát lên rằng : "Ta sẽ mất chức nếu không kết tội đươc An Khảm và bọn người vô phúc này." Thế rồi quan lại bắt trói An Khảm, Cai Tả và Cai Thìn và một số người khác, rồi giải về Nam Định, riêng cụ An được chở đi trong thuyền của quan.

Chúng tôi được nước Thiên Đàng

Về tới Nam Định, hai cha con cụ An Khảm được gặp nhau trong những lần ra tòa, và sau này được giam chung. Hai cha con vui mừng và xúc động khuyến khích nhau chịu khổ vì lòng kính mến chúa Kitô.

Tất cả những tù nhân Quần Cống hẹn với nhau quyết tâm trung thành với đức tin, dù phải hy sinh mạng sống. Riêng cụ An Khảm đã nhiều lần đại diện cả nhóm trả lời với quan, đã tìm cách giáo lý trong đạo.

Một hôm sau khi bắt được Đức Cha Xuyên, quan cho dẫn ba ông đến trước mặt Đức Cha. Các ông kính cẩn chào hỏi và không dấu được niềm vui gặp lại vị chủ chăn của mình. Thấy thế quan phỏng đoán và kết tội các ông chứa chấp vị thừa sai này. Tuy thực sự Đức Cha đã ở nhà mình, cụ An Khảm tìm cách trả lời chung chung : "Là ngừơi tín hữu, chúng tôi tôn kính và yêu mến bất cứ một linh mục nào, dù chưa hề quen biết."

Sau bốn tháng rưỡi bị giam, một hôm quan báo cho biết là cả ba vị đều bị kết án xử giảo. Ông Cai Thìn hỏi lại án đã kết tội gì, quan cho hay là tội chống lại nhà vua. Ong Thìn cực lực phản đối. Cuối cùng theo đề nghị của ông, bản án được viết thêm bốn chữ "bất khẳng quá khóa"; nghĩa là tội không chịu bước qua Thập Giá. Các ông vui mừng hân hoan vì được chết cho Đức Kitô. Và trong những ngày còn lại, các ông chuẩn bị sốt sắng đón chờ ngày lãnh nhận hồng phúc tử đạo.

Ba vị chứng nhân đức tin đã cảm nghiệm sâu xa lời Đức Kitô chúc phúc cho những người bách hại vì danh Ngài. Đối với ba vị, bị bắt chịu khổ nhục, bị giết vì danh Đức Kitô là niềm vinh phúc lớn lao. Các vị đã hân hoan đón chờ nó, đồng thời khích lệ an ủi các tín hữu khác. Và khi nghe báo giờ xử tử đã tới, cụ An Khảm vui vẻ nói với mọi người : "Cha con chúng tôi hôm nay được nước Thiên Đàng". Cả ba vị đã sẵn sàng giả từ trần gian để về hợp đoàn với hàng ngũ các thánh Tử Đạo, và mở rộng đôi tay đón nhận phần thưởng vinh phúc Chúa đã hứa ban cho những tôi trung của Ngài.

Ngày 13-01-1859, ngoài ba vị An Khảm, Cai Tả và Cai Thìn còn có bảy giáo hữu làng Quần Cống khác được đưa ra pháp trườngBảy Mẫu, Nam Định. Trên đường đi các vị lớn tiếng đọc kinh. Đến nơi xử các vị tiếp tục đọc kinh Tin, Cậy, Mến và nhiều lần kinh Ăn Năn Tội chung với nhau, rồi lớn tiếng kêu Chúa Giêsu.

Quân lính mạnh tay xô các vị té ngửa trên đất, rồi trói chân tay từng người vào cọc đã chôn sẵn. Mỗi người bị hai người lính cầm hai đầu dây thừng tròng qua cổ và kéo thật mạnh cho đến khi tắt thở. Các tín hữu làng Quần Cống rước các vị đưa về quê mình, và tổ chức an táng trọng thể.

Đức Piô XII đã suy tôn ba anh hùng tử đạo : Đaminh Phạm Trọng Khảm, Giuse Phạm Trọng Tả, Luca Phạm Trọng Thìn lên bậc chân phước ngày 29-04-1951. Ngày 19-06-2002, Đức Gioan Phaolô II suy tôn các Ngài lên hàng hiển thánh.

Trường Thi Tử Đạo

Cựu Chánh Tổng ông Phạm Trọng Tả
Chọn quan thầy Thánh cả Giuse
Gia đình sung túc đề huề
Canh Thân (1800) năm đẻ thuộc về Phú Nhai (Nam Ðịnh)

Làm Chánh Tổng công khai sống đạo
Việc ngoài đời thông thạo an dân
Tiếng thơm nổi khắp xa gần
Hể ông mà nói là dân nghe liền

Trong công việc bạc tiền không tưởng
Bởi thế nên ảnh hưởng càng cao
Từ ngày cấm đạo phong trào
Trăm nghìn việc khó đổ vào cho ông

Làm thế nào để không bắt bớ
Làm thế nào để đỡ giáo dân
Cha con bàn bạc xa gần(1)
Dĩ hoà vi quý phải cần làm ngay

Phạm Trọng Tả mấy ngày tiếp xúc
Tình hình ta mỗi lúc một êm
Ai ngờ cháy đổ dầu thêm
Công xá một nhóm nửa đêm công đồn(2)

Gặp Trọng Tả quan dồn tra hỏi
Việc xảy ra đây hỏi tại ai
Mưu sâu ông sắp sẵn gài
Bắt luôn tra tấn một hai chạy trời

Ông bị bắt dân thời thương tiếc
Rất hoan nghênh những việc ông làm
Thế trần của cải chẳng ham
Xoá nợ, giảm lãi việc làm của ông

Bà thấy thế như không đồng ý
Ông nói làm theo chỉ đạo Cha
Hôm qua mình tội Cha tha
Hôm nay người nợ bỏ qua được rồi

Còn những việc tày trời hơn nữa
Quan tập trung dân giữa sân trường
Trưa hè trời nắng thảm thương
Ðặt cây Thập giá giữa đường bước qua

Trong lúc đó trẻ già trai gái
Còn phân vân ngần ngại biết sao?
Ngoài xa ông nhảybổ vào
Ai mà quá khoá thì tao đánh đòn

Quan thấy thế chẳng còn ngần ngại
Bắt trói ông giam tại huyện đường
Ðánh đập tra tấn thảm thương
Làm đơn đề nghị tỉnh đường xử ngay

Kỷ Mùi (1859) tháng một Mùa chay
Phúc tử vì đạo đúng ngày mười ba
Tân Mão (1951) Toà Thánh ban ra
Tấn phong Chân phước hoan ca Nước Trời


1/ Cha con bàn việc với Ðức Cha Xuyên.
2/ Ở Công Xá có một nhóm quá khích nổi dậy.

Lời bất hủ: Vị thánh đã tuyên xưng đức tin của mình trước quan, qua bản viết như sau: "Tôi là một Kitô hữu, tôi sẵn sàng chấp nhận mọi cực hình, thậm chí cả cái chết đau đớn nhất, hơn là vi phạm một lỗi dù rất nhỏ trong đạo tôi thờ".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #51
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.834
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
50. Giuse Lê Ðăng Thị (1925-1860)

Giuse Lê Ðăng Thị, Sinh năm 1825 tại Kẻ Văn, Quảng Trị, Giáo dân, Cai Ðội, bị xử giảo ngày 24/10/1860 tại An Hòa dưới đời vua Tự Ðức. Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê Đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 24/10.

Cùng bạn về trời

Đúng ngày bị hành quyết, cai đội Giuse Lê Đăng Thị thức dậy rất sớm. Ông đánh thức một tù nhân bị xử tử cùng ngày, rồi đưa anh vào một gócnhà giam. Sau nhiều ngày tận tâm hướng dẫn người bạn dự tòng này, hôm nay (24.10) ông nghiêm trang đổ nước rửa tội cho anh "Nhân Danh Cha và Con và Thánh Thần". Thế là ông có một người bạn đồng hành với mình vào quê hương vĩnh phúc trên Trời.

Giuse Lê Đăng Thị sinh năm 1825 tại xứ Kẻ Văn, làng Văn Quy, tỉnh Quảng Trị, trong một gia đình binh nghiệp. Thân phụ anh giữ chức Cai đội. Lớn lên anh cũng theo nghề của cha, xin nhập ngũ và phục vụ trong quân đội nhà vua. Một thời gian sau, anh được thăng Chưởng vệ trông coi lính ở Hà Tĩnh, rồi được dời vào Nghệ An. Tại đây, anh lập gia đình và sống hạnh phúc với vợ con.

Bão tố và niềm tin.

Vua Tự Đức sau một thời gian bách hại đạo gắt gao, đã phát hiện ra lệnh của mình chưa được thi hành đồng loạt, vì ngay trong hàng ngũ lãnh đạo, cũng có người theo đạo Công Giáo. Ngày 15.12.1859, nhà vua ra thêm một chiếu chỉ bắt tất cả các quan có đạo đó. "những quan nào có đạo (theo tà đạo), dù thành thực bỏ đạo cũng phải truất chức. Cần phải điều tra cẩn thận để tìm thêm những viên chức triều đình theo tà đạo. Những ai không tố giác, hoặc chứa chấp trong nhà mình, cũng bị trừng phạt như chúng…". Nhà vua còn bắt tất cả các quan quân phải bước qua Thánh Giá trước khi ra trận đánh giặc Tây. "Ai không bỏ đạo sẽ bị giải ngũ, bị khắc chữ tả đạo vào má và phát lưu".

Theo lời khuyên của quan trấn thủ, ông cai đội Lê Đăng Thị làm đơn xin xuất ngũ lấy cớ bệnh tật. Đơn xin được chấp thuận, ông trở về quê cũ để vợ con ở lại Nghệ An. Tháng giêng năm 1860, chiếu chỉ vua Tự Đức trên đây được áp dụng triệt để trên toàn quốc, ông cai Thị vì có kẻ tố giác, nên bị bắt ngày 29.1, cùng với một số bạn đồng ngũ khác và bị giải về Quảng Trị. Ông vui vẻ nhận mình là cai đội và là Kitô hữu.

Cuối tháng hai, ông phải ra tòa cùng với 31 quân nhân khác. Trong số đó có ba người bỏ đạo. Tất cả đều bị cách chức, một được tha về vị gìa yếu, còn lại 10 người bị thích tự, lưu đày chung thân, 17 người bị án tử hình giam hậu.

Riêng ông cai Lê Đăng Thị nhận án xử giảo, nhưng hẹn đến cuối tháng mười mới thi hành. Từ đó ông được đưa về giam ở khám đường Huế. Trong một lá thư gửi về cho vợ, ông viết: "Anh nghĩ rằng chúng ta không còn gặp nhau nữa, dầu chuyện gì xảy ra, chúng ta vẫn đang và sẽ yêu thương nhau. Anh luôn nhớ đến em và các con mỗi ngày".

Xứng danh huynh trưởng

Suốt thời gian trong tù, vì là người có cấp bậc cao nhất, ông cai Thị khích lệ các anh hùng đức tin cùng bị giam bằng lời nói và nhất là bằng mẫu gương trung thành, cam đảm. Cũng do chức vụ ấy, ông bị mang một gông rất nặng và bị đánh đập tra tấn nhiều hơn mọi người. Dù còn trẻ trung sung sức, nhưng trước những cực hình dã man, ông đã ngã bệnh. Khi đó, ông chia sẻ với các bạn tù lo lắng lớn nhất của mình. ông nói : "Tôi không rõ Chúa có cho tôi sống đến ngày tử đạo không. Tôi sợ bệnh tật làm tôi chết sớm hơn. Than ôi ! Chắc vì tội tôi, nên Chúa từ chối cho tôi ơn trọng ấy".

Một linh mục đã đến thăm và giải tội cho ông. Hôm sau một thày giảng cũng lén vào trao Mình Thánh Chúa cho ông. Ngày 24.10.1860, ông Cai bị dẫn đi hành hình. Viên quan đề nghị ông lần cuối cùng xuất giáo, và hứa xin vua ân xá, nhưng ông cai Thị quyết liệt từ chối. Bản án của ông được ghi như sau : "Lê Đăng Thị, Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể tha thứ được. Y bị kết án xử giảo cuối mùa thu".

Vạn phúc

Tại pháp trường An Hòa (Huế), ông Cai kính cần qùy trên chiếc chiếu cầu nguyện. Một linh mục đứng lẫn trong đám dân chúng ra dấu và giải tội lần cuối cho ông. Sau đó, ông kêu lớn tiếng: "Vạn phúc! Vạn phúc! Tôi sắp được tử đạo". Lý hình quấn một sợi dây vào cổ ông cai đội, rồi chia ra hai bên kéo thật mạnh cho tới khi chứng nhân Chúa Kitô tắt thở. Các tín hữu Phủ Cam tổ chức lễ an táng đông đảo tại xứ mình. Hiện nay hài cốt vị tử đạo còn được lưu giữ tại nhà thờ dòng Chúa Cứu Thế - Huế.

Đức Piô X suy tôn ông Giuse Lê Đăng Thị lên hàng Chân Phước ngày 02.05.1909. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh

Trường thi tử Đạo.

Lê Ðăng Thị sinh năm Ất Dậu (1825)
Tại Kẻ Văn Phú Hậu miền Trung
Gia đình binh nghiệp ung dung
Võ quan tài giỏi tin cùng giáo dân

Khi chiếu chỉ có phần gay gắt
Lê Ðăng Thị sắp đặt phục viên
Ðơn xin bệnh hoạn đưa lên
Cấp trên chấp nhận về liền Nghệ An

Thêm chiếu chỉ liên can toàn quốc
Ai trốn chui bắt được tố ra
Ðăng Thị có kẻ ghét mà
Lên quan tố giác trước tòa quân nhân

Thị bị bắt về phần lẩn trốn
Trong số này có bốn bạn thân
Giải về Quảng Trị Trung Phần
Ðể quan xét xử tội nhân ra tòa

Ông Ðăng Thị nhận là Chưởng vệ
Rõ đầu đuôi sự thể xin ra
Kitô hữu đúng thật mà
Giải ông về Huế rồi là tống giam

Cùng đồng bạn lệnh ban xử giảo
Ngồi trong tù anh thảo bức thư
Nghĩ rằng còn gặp nữa ư
Thương em anh nhớ giã từ các con

Ở trong ngục cấp còn cao nhất
Ông Ðăng Thị, chân thật sẻ chia
Trung thành can đảm nọ kia
Cấp cao gông nặng, mũ hia dữ đòn

Tuy tuổi trẻ không còn sung sức
Lắm cực hình đau tức lâm nguy
Tâm tình với bạn thầm thì
Chúa cho tôi sống để đi pháp trường

Sợ bệnh hoạn dở dương chết sớm
Chắc vì tôi mắc vướng tội nhiều
Nguyện cầu xin Chúa thương yêu
Cho con ơn trọng là điều ước mong

Một Linh mục vào trong giải tội
Sau có thầy tìm lối đến trao
Máu Mình Thánh đã đem vào
Ngày mai Chưởng vệ giải giao pháp trường

Giờ phút cuối quan thường khuyên giải
Xuất giáo đi án cải xin vua
Ông Thị quan chớ giỡn đùa
Tôi trung của Chúa là Vua Nước Trời

Lính dẫn giải ra nơi để xử
Giuse Thị vẫn cứ nguyện cầu
Một Linh mục đến từ lâu
Giải tội lần chót phép mầu trao ban

Ông hô lớn Thiên Ðàng vạn phúc
Bọn lý hình tới lúc xiết dây
Chứng nhân tắt thở rồi đây
Phú Cam tổ chức tràn đầy giáo dân

Phúc tử đạo Canh Thân (1860) sử sách

Một võ quan tư cách tuyên xưng
Pháp trường cầu nguyện không ngừng
Suy tôn Kỷ Dậu (1909) vui mừng Nước Cha

Ngay giáo xứ mở ra an táng
Là chứng nhân xứng đáng Giuse
Hồng ân Thiên Chúa lắng nghe
Về sau hài cốt chở che nhà dòng

(Hài cốt Giuse Lê Ðăng Thị Chưởng vệ được đặt trong nhà thờ Dòng Chúa Cứu Thế Huế)

Lời bất hủ: Bản án của ông Cai đội như sau: "Lê Ðăng Thị, Chưởng vệ, theo tà đạo, không chịu bỏ đạo thì y không thể tha thứ được". Y bị kết an xử giảo cuối mùa thu. Khi nghe bản án xong ông kêu lớn tiếng: "Vạn phúc, vạn phúc! Tôi sắp được Tử đạo".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #52
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.834
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
51. Giuse Tuân (1821-1861)

Giuse Tuân, Sinh năm 1821 tại Trần Xá, Hưng Yên, Linh mục dòng Ða Minh, bị xử trảm ngày 30/04/1861 tại Hưng Yên dưới đời vua Tự Ðức. Đức Lêo XIII suy tôn chân phước linh mục Phêrô Nguyễn Bá Tuần ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 30/04.

Nụ hôn của Giuda

Được cha xứ Kim Sơn tin cậy gửi gấm hai linh mục, Bát Biên kín đáo giấu hia vị trong nhà. một tuần sau, ông nói với hai cha : "Con nghe tin quan biết hai cha ẩn ở đây và quan quân sắp đến vây làng. con phải đem hai cha đi nơi khác an toàn hơn". Rồi Bát Biên mời linh mục thừa sai Fernandez Hiền xuống một chiếc thuyền nhỏ chở đi. Lát sau lại trở về đón cha Phêrô Tuần.
Xuống thuyền đi trốn, hai cha hoàn toàn tin lời Bát Biên, chẳng ngờ chút nào sự săn sóc ân cần đó lại chính là "cái hôn của Giuđa".

Âm mưu bắt hai cha của Bát Biên thành công thật êm thắm. Những nụ hôn bao giờ mà chẳng nhẹ nhàng êm ái ! Và đàng sau nụ hôn đó, tù ngục, tra tấn, cái chết đang chờ đợi hai cha.

Phêrô Nguyễn Bá Tuần chào đời năm 1766 tại làng Ngọc Đồng, tỉnh Hưng Yên. Tử thuở bé, cậu tuần đã có tiếng là hiền lành, đạo đức, chăm chỉ học hành. Lớn lên, cậu vào sống trong nhà Chúa, tại đây cậu siêng năn học giáo lý, đồng thời học thêm chữ Hán. Thấy dấu chỉ có ơn kêu gọi, các linh mục giới thiệu cậu vào chủng viện. Nhưng mới theo học tại trường Latin ít lâu, Vua Cảnh Thịnh ra chiếu chỉ cấm đạo, thầy Phêrô phải nghỉ học và ẩn trốn nơi này nơi khác cùng với cha chính Hoan (Gatillepa). Thầy tỏ ra là một đệ tử đắc lực của ngài. May mắn thay, một thời gian sau, trường được mở lại, thầy Tuần trở về tiếp tục học hành và được lãnh chức linh mục năm 1807. Cha Tuần đã thi hành tác vụ thánh tại nhiều nơi, thu hái nhiều kết quả, được các bề trên hài lòng suốt 30 năm.

Giá trả về niềm tin

Năm 1838, khi vua Minh Mạng ra chiếu chỉ cấm đạo gắt gao hơn thì cha Tuần đang làm chánh xứ Lác Môn, tỉnh Nam Định. Cha không chỉ lo chu toàn trách vụ giáo xứ của mình, nhưng cha còn lưu tâm đến tình hình Giáo hội Việt Nam, lo đến các anh em linh mục. Nghe tin làng quần Liêu sợ vạ lây, không muốn chấp nhận cha chính Fernandez Hiền bị bệnh kiết lỵ trầm trọng đang chữa tại đây nữa, cha Tuần phải vội vàng đến can thiệp và ở lại để dân chúng yên tâm giúp đỡ cha chính. Không ngờ nghĩa cử yêu thương này đã nối kết số phận đời cha với vị thừa sai Âu Châu.

Sau vài ngày, hai cha bỏ Quần Liêu trấn lên Kim Sơn, tỉnh Ninh Bình, thuộc giáo phận Tây Đang Ngoài. Nhưng tại đây quan quân cũng đang tầm nã gắt gao, các tín hữu bắt buộc phải giấu hai cha ngoài bãi sình lầy, suốt hai ngày nắng sương gió rét. Khi đó, cha xứ Kim Sơn cho tìm một người ngoại đạo tên là Bát Biên, người thọ ân ngài nhiều lần và gởi gấm tạm hai vị mục tử. Ở đây, trước khi được làm chứng cho niềm tin vào Thiên Chúa, hai cha đã phải trả giá cho niềm tin vào con người. Bát Biên trở mặt nộp hai linh mục cho quan Tổng Đốc Nam Định Trịnh Quang Khanh. Thế là hai cha bị đóng gông giam vào ngục.

Trong tù, vị linh mục già 72 tuổi, luôn can đảm trung thành với đức tin của mình, dù thân thể già nua ốm yếu phải chịu gông cùm xiềng xích với biết bao đòn vọt. Khi viên quan nói với cha : "Lão già quá rồi, không chịu nỗi các hình khổ đâu". Cha Tuần trả lời : "Quả thực tôi ốm yếu già nua, nhưng Thiên Chúa sẽ cho tôi sức mạnh để đón nhận mọi cực hình và cả cái chết vì Ngài". Lần khác, quan cho một tín hữu đã bỏ đạo ra đạp lên thánh giá và bảo cha làm theo như vậy, cha liền nói: "Sao tôi lại phải bắt chước kẻ bội giáo? Mẫu gương tôi soi là hai Đức cha của tôi, tôi muốn noi gương các đấng ấy". (Cha Tuần muốn nói đến Đức cha Henares Minh và Delgado Y, tử đạo ngày 26.06 và 12.07).

Rũ tù trong vinh phúc.

Pháp luật thời đó không cho phép xử chém người già trên 60 tuổi. Thế nhưng ngày 18.07.1838, vua Minh Mạng vẫn phê án xử trảm cha Tuần. Bản án "vi hiến" đó đã không bao giờ thi hành được. Các hình khổ trong tù : tra tấn, đánh đập, đói khát, nóng nực và muỗi rệp, cuối cùng đã làm thay công việc của lý hình. Trước đó ba ngày cha Tuần đã hoàn tất cuộc đời làm chứng cho tình yêu Thiên Chúa ngay trong nhà tù, tức ngày 15.07.1838.

Con đường tử đạo của cha không kết thúc đẫm máu, không có những bi kịch thảm thương. Một con đường khá bình thường, được dệt nên bằng những việc quen thuộc mà nhiều người khác có thể từng gặp trong đời: một người anh em mắc bệnh, một người phản bội vô tâm, đòn vọt, rệp muỗi... Nhưng "trên từng cây số" con đường đó, cha đã đi thật đúng đắn, thật trung thành, thật trọn vẹn. Cha đã tận tình lo cho người anh em gặp hoạn nạn. Cha đã hết sức tin vào con người, dù có thể gặp phải kẻ phản bội. Cha đã sống trọn vẹn niềm tin của mình trong những hoàn cảnh khó khăn, mới thoạt nhìn qua như có vẻ bình thường, nhưng vì dai dẳng nên cái bình thường đó không kém phần gay go.

Lòng trung thành trong những "việc nhỏ" như thế, đáng được coi là trung thành trong những "việc lớn". Lòng trung thành đó đã đưa cha đến phúc tử đạo dù không đổ máu. Cha được về quê trời ngày 15.07.1838 trong khi đã sẵn sàng bước ra pháp trường lấy máu mình minh chứng niềm tin. Giáo hữu rước thi hài cha về an táng tại nhà thờ xứ Ngọc Đồng, sau đem vào Nam đặt tôn kính tại xứ Lạc An, Biên Hòa.

Đức Lêo XIII suy tôn chân phước linh mục Phêrô Nguyễn Bá Tuần ngày 27.05.1900. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Linh mục Tuân quê hương Trần Xá
Sinh Tân Mùi (1811) ba má nhà nông
Cảnh nhà nghèo lại con đông
Gia đình đạo đức cộng đồng Thánh gia

Giuse Tuân mẹ cha giáo dục
Cả gia đình ơn phúc Kitô
Ðức tin vững mạnh tung hô
Phượng thờ Thiên Chúa điểm tô rạng ngời

Tuân được chọn từ thời niên thiếu
Vào chủng viện năng khiếu triển khai
Thông minh đạo đức hiền tài
Sau về thần học, Ðức Ngài tấn phong

Chức Linh Mục quan phòng ơn Chúa
Ít lâu sau tuyên hứa nhập dòng
Ðaminh lễ khấn đã xong
Lên đường rao giảng cầu mong ơn lành

Thời bách hại Cha đành lẩn trốn
Thăm đoàn chiên khắp chốn bơ vơ
Âm thầm phục vụ đón chờ
Biết bao nguy hiểm bất ngờ xảy ra

Xứ Ngọc Ðồng bà già bệnh nặng
Sai con đi để đặng đón Cha
Xức dầu giải tội cho bà
Người con bất hiếu nó đà tố quan

Ham tiền thưởng sẵn sàng phản bội
Quan cho vây để về bắt Cha
Ngài đang xức dầu bà già
Lính liền trói bắt giải tòa Hưng Yên

Chúng nộp Ngài quan trên tuần phủ
Tại nơi đây lãnh đủ khổ hình
Hù Cha nhìn thấy thất kinh
Sau quan dụ dỗ chưa trình Vua phê

Hãy quá khóa ra về thoải mái
Còn quyền ta trở ngại gì đâu
Cha Tuân cương quyết khởi đầu
Tôi đây Linh Mục cho dầu khó nguy

Ðường lối Chúa sẵn đi tới đích
Về nước Trời giải thích quan hay
Giàu sang phú quý đời này
Như cơn gió thoảng cuốn bay còn gì

Tình yêu Chúa mới thì bền vững
Trước giáo gươm ta đứng hiên ngang
Ðầu rơi tử đạo sẵn sàng
Nhờ quan chuyển án lên đàng cho Vua

Người chiến sĩ chạy đua tới đích
Ra pháp trường mục kích Sông Hồng
Nhiều người trong đám dân đông
Nhìn Cha thọ án mà lòng thương riêng

Ngài bước chậm bị xiềng quá nặng
Cha kêu tên nghe đặng Giêsu
Hồng ân tử đạo hộ phù
Linh hồn Chúa thưởng thiên thu Nước Trời

Thi hài được về nơi an táng
Chết oai hùng xứng đáng con Cha
Máu đào tử đạo chan hòa
Nảy sinh hạt giống quê ta rạng ngời

Phúc tử đạo đẹp ơi Tân Dậu (1861)
Bỏ thế gian để tậu Nước Trời
Gan vàng, dạ sắt tên người
Suy tôn Tân Mão (1951) tuyệt vời thánh nhân

Lời bất hủ: Dù cha bị hành hạ tra tấn gông cùm vẫn hiên ngang trung thành với Thầy Chí Thánh Giêsu, bất chấp những đau đớn và khổ hình trong tù, cha vẫn tiếp tục rao giảng tình thương vô biên của Thiên Chúa, cha khích lệ, nâng đỡ tinh thần những anh em giáo hữu đang bị giam cầm, an ủi những anh em giáo hữu âm thầm đến thăm cha và ban Bí tích cho họ.

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #53
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.834
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
52. Giuse Trần Văn Tuấn (1824-1862)

Giuse Trần Văn Tuấn, Sinh năm 1824 tại Nam Ðiền, Nam Ðịnh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 7/01/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, được phong Chân Phước ngày 29/04/1951 do Ðức Piô XII, lễ kính vào ngày 7/06.

Dấu hiệu Đức Cậy

Sự lạc quan trước những thử thách, đó là điều Thiên Chúa hằng mong đợi nơi mỗi người tín hữu. Chúng ta có thể gọi sự lạc quan ấy là Đức Cậy, vì dựa vào sức mạnh của Chúa và vững tin vào ngày mai tươi sáng. Nếu đã tin vào Đức Kitô, đấng đã chiến thắng các quyền lực sự ác, chúng ta thấy rằng không có gì có thể làm lay chuyển công trình Người thực hiện trên thế giới này. Đối với những thử thách lớn lao hơn như cuộc tử đạo, như những hình khổ, mà chỉ cần một hành vi chối đạo cũng đủ để thoát khỏ thì thái độ lạc quan kiên quyết của người tín hữu quả là một cuộc hiển dương Đức Cậy, như trường hợp Thánh Giuse Tuấn.

Sau một năm rưỡi đày cực khổ, các quan chỉ yêu cầu vị chứng nhân bước qua Thánh Giá để được tha về. Nhưng chẳng những người tôi tớ Chúa không tuân lệnh quan, lại còn quì gối trước Ảnh Chuộc Tội mắt hướng về trời cao mà cầu nguyện lớn tiếng rằng : "Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ trước tình yêu bao la và lòng thương xót hải hà của Chúa. Chúa là sức mạnh đỡ nâng con".

Người nông dân hiền lành.

Giuse Trần Văn Tuấn chào đời năm 1824 tại làng Nam Điền, một họ đạo xứ Phú Nhai, trong mái gia đình sinh sống nghề ruộng nhiều đời trên vùng đồng bằng sông Hồng thuộc tỉnh Nam Định (nay là Hà Nam Ninh). Cũng như hàng ngàn người nông dân Việt Nam, niềm vui của anh là con trâu, luống cày, để thu hoạch những bông lúa nặng trĩu do những giọt mồ hôi và công sức của mình.

Cùng với những giáo hữu đồng cảnh ngộ, cuộc đời anh Giuse Tuấn bỗng nổi cơn sóng gió vì những chiếu chỉ cấm đạo của nhà vua. Cuộc bách hại vào giai đoạn cao điểm này đã ảnh hưởng đến các phần tử nhỏ bé tầm thường nhất trong Giáo Hội Việt Nam. Năm 1860, anh tuấn bị bắt vào năm 36 tuổi, và bị giải tới phủ Xuân Trường cùng với một số giáo hữu khác. Về sau, anh lại bị phân sáp vào làng An Bái, Thuộc huyện Thụy Anh.

Máu đào minh chứng

Từ khi về làng An Bái, anh Giuse Tuấn bị giam trong ngục chật hẹp, cổ mang gông, chân mang cùm xiềng xích. Nhưng người chiến sĩ đức tin vẫn kiên trì chịu đựng trong nhẫn nại và vui vẻ. Theo chiếu chỉ phân sáp tháng 08-1861, quân lính nung đỏ thanh sắt, và khắc vào má của anh một bên chữ "Tả Đạo", một bên là nguyên quán làng xã. Sau những ngày tháng tù tội cơ cực, sức khỏe anh Tuấn suy giảm rất nhiều, các quan tưởng anh sẽ nản chí bỏ cuộc, nên điều tra và yêu cầu anh bước qua Thánh Giá. Quan còn hứa ban tặng tiền bạc sau khi trả tự do cho anh.

Nhưng các quan đã thất bại chua cay, người nông dân tầm thường đó không dễ bị lung lạc thối chí. Ngược lại, anh còn thừa trung tín và can đảm biểu lộ niềm tin của mình. Vì tin vào Đấng Sáng Tạo yêu thương vô biên, và tin vào đấng cứu thế, nguồn trợ lực tâm hồn, anh Giuse Tuấn Thành kính trước ảnh Chuộc tội nói lên lời cảm tạ Thiên Chúa, Đấng mà chính anh đang cảm nghiệm được sự nâng đỡ của Ngài. Và anh đã phải trả giá cho niềm tin đó: Quan đã kết án tử hình người chiến sĩ Đức Kitô làng Nam Điền.

Ngày 07.06.1862, trên đường tới nơi xử trảm, anh Giuse Tuấn bình thản đi sau đám quân lính, vừa đi vừa sốt sắng đọc kinh Cầu Các Thánh. Tới nơi, lý hình đã vung gươm chém đầu vị chứng nhân, đang khi anh qùy gối, miệng vẫn liên tục kêu tên cực trọng Chúa Giesu. Người nông dân chất phác hiền hòa nhưng đạo đức, gan dạ, đã dùng chính mình thay vì ngôn từ, để làm chứng cho Đức Kitô, nguồn chân lý vĩnh cửu bất diệt. Hai năm sau, thi hài vị tử đạo được các giáo hữu cải táng và long trọng rước về chôn cất tại nhà thờ họ Nam Điền, quê quán của ngài.

Ngày 29.04.1951 cùng với 24 vị tử đạo khác tại Việt Nam, người nông dân nghèo thánh thiện, Giuse Trần Văn Tuấn, đã được Đức Piô XII suy tôn lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.

Ngày nay chúng ta không có hoàn cảnh như các ngài ở thế kỷ trước, nhưng với những khó khăn thử thách vẫn thường xảy đến, chớ gì chúng ta vẫn noi gương Đức Cậy của thánh Giuse Tuấn để mãi mãi ca tụng Thiên Chúa: "Lạy Chúa ! con hết lòng cảm tạ trước tình yêu bao la và lòng thương xót hải hà của Chúa. Chúa là sức mạnh nâng đỡ con".

Trường thi tử Đạo

Năm Giáp Thân (1824) sinh Trần Văn Tuấn
Làng Nam Ðịnh phấn chấn nghề nông
Luống cầy thu hoạch lúa bông
Ca vang tiếng hát, cánh đồng phì nhiêu

Nắng gay gắt, sớm chiều vất vả
Dưới trời mưa tầm tã ngày đêm
Vững tin có Chúa ơn trên
Ðấng ban mọi sự, vững bền niềm tin

Ðời anh Tuấn hướng nhìn vui vẻ
Thì bỗng dưng phân rẽ nổi cơn
Cuộc bách hại gây căm hờn
Tầm thường nhỏ bé, giản đơn phiền hà

Như anh Tuấn cũng đà bị bắt
Cùng giáo dân quen mặt với nhau
Anh Tuấn phân tán đi mau
Về làng An Bái, rồi sau nhốt tù

Nơi giam giữ là khu chật hẹp
Cổ mang gông, kìm kẹp đôi chân
Mặt anh khắc tự tím bầm
Tháng ngày cơ cực, có phần yếu suy

Quan cứ tưởng anh thì bỏ cuộc
Nhưng ông lầm không buộc nổi anh
Kiên cường Thiên Chúa vinh danh
Chứng nhân của Chúa, chân thành xin vâng

Trên đường tới phó dâng Cha Cả
Anh Giuse thong thả nguyện cầu
Lý hình gươm giáo sợ đâu
Vung gươm đã chém, bay đầu chứng nhân

Phúc tử đạo mùa xuân Nhâm Tuất (1862)
Người chứng nhân đẹp nhất Thành Nam
Tân Mão (1951) Sắc chỉ Giáo Hoàng (Piô XII)
Suy tôn Chân Phước vẽ vang thế trần

Thi hài được chôn gần nơi xử
Hai năm sau giáo xứ rước về
Nam Ðịnh chôn cất chốn quê
Linh đình trọng thể, trọn bề kính tôn

Lời bất hủ: Quan bắt chà đạp lên Thánh giá, thánh nhân đã quỳ gối trước ảnh Chuộc Tội, mắt ngước lên trời cao và cầu nguyện lớn tiếng rằng: "Lạy Chúa, con hết lòng cảm tạ trước tình yêu bao la và lòng thương xót hải hà của Chúa. Chúa là sức mạnh đỡ nâng con".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 17-07-2009   #54
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.195.834
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
53. Giuse Túc (1953-1962)

Giuse Túc, Sinh năm 1852 tại Hoàng Xá, Bắc Ninh, Giáo dân, bị xử trảm ngày 1/06/1862 tại Nam Ðịnh dưới đời vua Tự Ðức, Ngày 29.04.1951. Ngày 29.04.1951, Đức Piô XII suy tôn anh Giuse Túc lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh. Lễ kính vào ngày 1/06.

Vì sao lấp lánh

Sử liệu về thánh Giuse Túc có sự khác biệt nhau khá xa về số tuổi tác của ngài khi bị bắt và tử đạo. Một số sử liệu ghi rằng : Khi bị bắt và tử đạo, cậu Giuse Túc chỉ mới chín tuổi. Sử liệu khác lại cho là 19 tuổi hoặc 21 tuổi. Tuy nhiên khi xem xét kỹ các chi tiết về bắt bớ, tù đáy và xử án thánh nhân, chúng tôi nghĩ rằng dù dã man, các quan cũng không thể xử quá tàn bạo như thế với một cậu bé chỉ mới chín tuổi đầu. Việc tra tấn hành hạ của các quan phải dành cho một thanh niên đã khôn lớn, hơn là cho một em nhỏ còn thơ dại.

Vâng, giữa tuổi thanh niên, tuổi của những ước mơ và hy vọng, tuổi của hăng say và nhiệt thành, tuổi mà sự chăm sóc và dưỡng dục đòi hỏi biết bao công phu đang chín dần, để trở thành người hữu ích cho gia đình và xã hội. Với cái tuổi thanh xuân đáng quý ấy, Giuse Túc đã chiếu sáng như một vì sao.

Giuse Túc sinh năm 1843 tại họ đạo Hoàng Xá, xứ Ngọc Đồng, tỉnh Hưng Yên (nay là Hải Hưng). Cha là Giuse Cẩn và mẹ là bà Trí. Trong cái nôi của gia đình nông dân đạo đức ấy, cậu Giuse Túc đã sinh ra và lớn lên với cuộc sống cần cù, hiền hòa như hầu hết mọi thanh niên Việt Nam ngày ngày miệt mài với nương ruộng. Nhưng thân phụ cậu không muốn cậu tiếp tục với công việc ruộng nương này, đã khuyến khích và lo liệu cho cậu theo nghiệp khoa cử. Cậu Túc vâng lời thân phụ chăm chỉ học chữ Nôm.

Những cuộc bách hại đạo của vua Tự Đức dai dẳng ngày càng khốc liệt hơn. Vì với chiếu chỉ Phân sáp ngày 05.08.1861, thì không một người nào, không một căn nhà nào của người công Giáo được bình yên. Biết bao người dân hiền hòa vô tội bị đạo đày, bị tàn sát và bị ghép cho những tội trạng mà họ không bao giờ nghĩ đến.

Gian truân thử đức.

Anh Giuse Túc bị bắt vào đầu năm 1862 khi đang ở độ tuổi thanh xuân tươi đẹp : tuổi 19. Anh bị tạm giam ít ngày ở huyện rồi bị giải về tỉnh. Sau đó, anh bị biệt giám 4 tháng tại Đông Khê, phủ Khoái Châu. Ban ngày phải mang gông nặng, ban đêm chân bị cùm xích. Dù vậy anh Túc vẫn trung kiên với đức tin chân chính. Nhiều bạn bè cùng bị giam với anh như Phêrô Kiên (18 tuổi), Phêrô Ngân (15 tuổi), Phêrô Lương (20 tuổi) cũng được kể vào số tôi tớ Chúa đang được chuẩn bị suy tôn Chân Phước. Các anh thường gặp nhau đọc kinh chung và an ủi khích lệ nhau can đảm đến cùng( 2).

Một số thân hữu lo lót quân lính để tạo cơ hội cho anh chốn khỏi ngục, nhưng anh nói : "Tôi sẽ không trốn bất cứ cách nào, vì nếu tôi trốn sẽ làm khổ người khác. Chúa muốn thế nào, tôi xin nhận như thế".

Khi một bạn tù tỏ vẻ lo âu không biết khi bị xử, người nhà có được tin để lãnh xác hay không anh Túc bình thản bày tỏ tâm trạng của mình : "Tôi an tâm, không lo lắng gì cả. Nếu Thiên Chúa cho tôi đổ máu vì đạo, tôi tin chắc sẽ được về trời. Còn thân xác này chôn được thì chôn, bằng không chôn được thì thôi.

Theo lá thư đề ngày 02.08.1862, cha Estévez Nam cho chúng ta biết tình hình ở tỉnh Hưng Yên: "… Trong tỉnh Hưng Yên, các quan còn giữ tợn hơn. Cuối tháng 5 rất nhiều giáo hữu bị dẫn lên tỉnh. Ngày 01.06, các quan giết 100 người, hôm sau giết 600, ngày mùng 3 giết nhiều hơn nữa. Các làng ngoại giáo được lệnh giết hết các tù nhân có đạo, và họ đã triệt để thi hành, nên tôi không biết được con số phải chết trong ký này…" (3).

Cuối tháng 5 năm đó, anh túc bị giải về Hưng Yên. Sau những lời dụ dỗ, dọa nạt và tra khảo nhiều lần không làm nay chuyển được lòng tin sắt đá của anh, các quan nhất trí kết án trảm quyết anh.

Khi lập án phong thánh cho anh Giuse Túc, một số giáo dân hiên diện trong cuộc tử đạo đã làm chứng, trong đó, ông Đaminh Hưng kể lại rằng : "Tôi đi theo cậu Túc ra tới pháp trường. cậu sốt sắng cầu nguyện và luôn kêu tên cực thánh Chúa Giêsu. Sau khi cậu bị xử chém đầu, tôi đã mai táng thi thể cậu rất tử tế".

Bà Maria Linh kể lại bà đã nhìn thấy đầu của vị tôi tớ Chúa bị quân lính tung lên cao cho quan thấy, để minh chứng với quan là họ đã triệt để thi hành mệnh lệnh. Hôm đó là ngày 01.06.1862. Thi hài anh Giuse Túc, người chiến sĩ đức tin được chôn tại chỗ, sau được cải táng và đem về nhà thờ xứ Ngọc Đồng, tỉnh Hưng yên.

Ngày 29.04.1951, Đức Piô XII suy tôn anh Giuse Túc lên bậc Chân Phước. Ngày 19-06-1988, Đức Gioan Phaolô II suy tôn ngài lên hàng Hiển thánh.

Trường thi tử Đạo.

Trong hàng ngũ các Thánh Tử Ðạo
Có những gương mạnh bạo thanh xuân
Mười lăm, hai mươi tuổi trần
Như bông hoa nở, toàn phần tươi xinh

Tin vào Chúa hy sinh cao cả
Chết hào hùng nên đã tuyên xưng
Sẵn sàng loan báo Tin mừng
Giuse tên Túc, tưng bừng Hưng Yên

Năm Quý Mão (1843) sinh trên Hoàng Xá
Xứ Ngọc Ðồng, người đã hy sinh
Nông dân đạo đức nhiệt tình
Mẹ cha lại muốn, con mình thành danh

Vâng lời thân phụ, anh chăm chỉ
Học Hán văn hoan hỷ siêng chăm
Bút nghiên mới được mấy năm
Vua ban chiếu chỉ, truy tầm giáo dân

Cuộc bách hại toàn phần lớn nhỏ
Giuse Túc, hồi đó thanh niên
Lính vây đã bắt anh liền
Giải giao về tỉnh, quan truyền tống giam

Ngày gông nặng đêm mang xiềng xích
Sống biệt giam chật ních Ðông Khê
Nơi đây bốn tháng não nề
Rồi sau mới được đưa về nhốt chung

Kiên, Lương, Ngân, thường cùng an ủi
Ðộng viên nhau, lần chuỗi nguyện chung
Ðức tin vững mạnh tới cùng
Một số thân hữu, trong vùng giúp anh

Muốn lo lót lính canh để trốn
Anh cản ngăn, tiền tốn phiền hà
Sợ người liên lụy vì ta
Vâng theo ý Chúa, mới là hồng ân

Còn thân xác giản đơn càng tốt
Chôn thì chôn hay đốt tùy nghi
Mọi người chớ có ngại gì
Linh hồn tin chắc sẽ đi về Trời

Sau lại giải về nơi thị trấn
Tại Hưng Yên tra tấn dụ khuyên
Lòng anh sắt đá trung kiên
Thanh niên dũng cảm, bạo quyền chịu thua

Quan nhất trí cho đưa trảm quyết
Tại pháp trường tha thiết kêu tên
Giêsu lớn tiếng vang lên
Bà Linh nhìn thấy đứng bên pháp trường
(Bà Maria Linh kể lại đã nhìn thấy đầu người tôi tớ Chúa tung lên cao cho quan thấy)

Ðầu tung lên, phô trương quan án
Ðể trình tâu, chứng giám tuân hành
Mộ chôn tại chổ xử anh
Sau được cải táng lưu danh Ngọc Ðồng

Phúc tử đạo tươi hồng Nhâm Tuất (1862)
Tuổi thanh xuân đẹp nhất tên anh
Ðức Giáo Hoàng (Piô XII) tôn thánh danh
Vào năm Tân Mão (1951) sử xanh lưu truyền

Lời bất hủ: Khi thân nhân lo lót cho quân lính để có cơ hội trốn khỏi ngục, anh nói: "Tôi sẽ không trốn bất cứ cách nào, vì nếu tôi trốn sẽ làm khổ người khác. Chúa muốn thế nào tôi xin nhận như thế". Giuse Túc lại nói với những bạn tù như sau: "Tôi an tâm, không lo lắng gì cả, nếu Thiên Chúa cho tôi đổ máu vì đạo, tôi tin chắc sẽ được về trời. Còn thân xác này chôn được thì chôn, bằng không chôn được thì thôi".

Tài sản của LSB-Sun
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời

Tags
118 thánh tử đạo việt nam


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 02:34
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,23256 seconds with 16 queries