Phần 4
HOÀN, NHÀ TIỀN LÊ VÀ BỐI CẢNH ĐỊNH ĐÔ THĂNG LONG HOA LƯ VÀ THĂNG LONG QUA TƯ LIỆU KHẢO CỔ HỌC Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
PGS. TS. Tống Trung Tín
Viện Khảo cổ học. Viện Khoa học xã hội Việt Nam
Hoa Lư là kinh đô của Đại Cồ Việt dưới thời Đinh và thời Tiền Lê trong 42 năm (968 - 1010).
Thăng Long là kinh đô của Đại Việt kể từ khi Lý Thái Tổ dời đô Hoa Lư ra năm 1010 đến hết thời Hậu Lê.
Như vậy là kinh đô Hoa Lư có trước, kinh đô Thăng Long có sau và tiếp liền với kinh đô Hoa Lư. Theo các phát hiện mới về khảo cổ học, mối quan hệ khăng khít giữa hai kinh đô ngày càng nhìn nhận rõ hơn. Có thể phác ra một vài nét cơ bản như sau :
1. Cả hai khu vực Hoa Lư và Thăng Long, đều là những trung tâm lớn của đất nước dưới thời thuộc Đường
Ở Hoa Lư, theo ý kiến của một số nhà địa lý học lịch sử, đó là lỵ sở của Trường Châu. Các phát hiện khảo cổ học đã tìm thấy dấu tích các kiến trúc lớn được xây cất bằng gạch trong đó có loại gạch phổ biến in chữ “Giang Tây quân” tiêu biểu được sản xuất khoảng đầu thế kỷ IX.
Còn Thăng Long, trước khi trở thành kinh đô, vốn là An Nam đô hộ phủ của nhà Đường. Các dấu tích kiến trúc và gạch “Giang Tây quân” được phát hiện rất nhiều tại địa điểm 18 Hoàng Diệu. Đó chính là vết tích của thành Đại La. Như vậy, cả hai khu vực trước khi trở thành kinh đô đều là những trung tâm lớn của đất nước.
2. Khi Hoa Lư là kinh đô của thời Đinh - Tiền Lê, các vua Đinh - Lê đã chú trọng đặc biệt tới khu vực thành Đại La, và khi đã chuyển đô ra Thăng Long, Lý Thái Tổ tiếp tục chú ý xây dựng Hoa Lư
Sử ghi rằng các vua Đinh và vua Lê khi lên ngôi ở Hoa Lư đã đặc biệt chú ý xây dựng kinh đô Hoa Lư. Đinh Tiên Hoàng dựng đô mới, đắp thành, đào, xây dựng cung điện. Lê Đại Hành cũng làm rất nhiều cung điện lớn. . .
Khảo cổ học đã tìm thấy ở đây vết tích các tường thành, các nền móng kiến trúc, vật liệu xây dựng khá phong phú đặc biệt là loại gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên”.
Trước đây, giới nghiên cứu hầu như chỉ biết đến kiến trúc thời Đinh - Tiền Lê ở Hoa Lư mà chưa biết đến một nơi nào khác kể cả Thăng Long.
Bây giờ thì khảo cổ học đã tìm thấy vết tích văn hoá vật chất thời Đinh : Tiền Lê ở Thăng Long. Tại 18 Hoàng Diệu; đã tìm thấy gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên”, ngói có tượng uyên ương, gạch hoa sen, các loại gốm thế kỷ X. . .
Về loại hình, các loại di vật này tương tự như ở Hoa Lư và đều là những loại vật liệu dùng để xây dựng các kiến trúc rất lớn.
Việc phát hiện các dấu tích. kiến trúc thời Đinh - Tiền Lê ở Thăng Long đã chứng tỏ trong khi đặc biệt chú trọng kinh đô Hoa Lư, các vua Đinh - Lê vẫn hết sức chú ý tới khu vực Thăng Long (khi đó vẫn là thành Đại La).
Hẳn rằng, dưới thời Đinh - Tiền Lê, Đại La vẫn tồn tại tiếp tục như một trung tâm lớn nhất của đất nước với thế đất bằng phẳng, cao ráo, sáng sủa, thuận tiện cho việc hội tụ bốn phương. Bởi thế, khi có điều kiện, ngay lập tức Lý Thái Tổ đã cho dời đô từ Hoa Lư về Đại La đổi tên là Thăng Long.
Khi đã chuyển đô ra Thăng Long, Lý Thái Tổ cũng thể hiện sự quan tâm tới Hoa Lư bằng việc cho con là Khai quốc vương Bồ trấn giữ. Hoa Lư lúc này được đổi là Trường Yên.
Di tích lớn thời Lý đã được phát hiện ở khu vực động Thiên Tôn. Tại đây đã tìm thấy các khối vật liệu trang trí rất Lý như đầu rồng, tượng uyên ương, các khối trang trí sóng nước, các khối trang trí chạm rồng . .
Sau thời Lý, ít thấy có các công trình kiến trúc lớn đặc sắc như thời Lý ở Hoa Lư. Quan hệ Hoa Lư - Thăng Long thời Lý rất rõ có lẽ bởi vì khi mới ra Thăng Long, ảnh hưởng của Hoa Lư vẫn còn rất lớn do đó Lý Thái Tổ đã thể hiện sự quan tâm sâu sắc như vậy.
3. Nghệ thuật Hoa Lư - thời Đinh - Tiền Lê đã tạo những tiền đề vững chắc cho sự phát triển rực rỡ của nghệ thuật Lý nói riêng, nghệ thuật Đại Việt nói chung ở Thăng Long
Có thể thấy rõ điều đó qua so sánh hệ vật liệu trang trí ở Hoa Lư với Thăng Long.
Gạch lát nền trang trí hoa sen ở Hoa Lư có 3 loại chính. Sang thời Lý, loại gạch này phổ biến ở Thăng Long. Bố cục và phong cách thể hiện hoa sen trên mặt gạch lát nền ở Thăng Long đã được thể hiện tương tự như gạch lát hoa sen thời Đinh Tiền Lê ở Hoa Lư.
Uyên ương Đinh - Tiền Lê hình dáng to khoẻ. Sang thời Lý, uyên ương có dáng thon thả hơn và phát triển khá đa dạng. Hoa cúc dây thời Đinh - Tiền Lê đơn giản, chưa phổ biến.
Sang thời Lý, hoa cúc dây phát triển mạnh.
Ngói âm dương và loại đầu ngói trang trí hoa sen tròn thời Đinh - Tiền Lê khá đa dạng. Sang thời Lý, loại ngói này là chủ yếu nhưng các kiểu mẫu trang trí hoa sen có nhiều kiểu loại, trang trí đầu ngói hoa sen thu lại một vài kiểu nhưng lại phát triển nhiều kiểu loại khác.
Ngói mũi lá thời Đinh - Tiền Lê chưa thấy trong thời Lý nhưng lại thấy rất nhiều vào thời Trần - Lê sơ. Ngói mũi sen hớt cong thời Lý cũng được bắt nguồn từ ngói mũi sen có kích thước tương tự ở Hoa Lư.
Có thể nói, những loại hình vật liệu xây dựng và vật liệu xây dựng trang trí kiến trúc thời Lý ở Thăng Long chủ yếu bắt nguồn từ Hoa Lư thời Đinh - Tiền Lê. Chỉ có điều là loại hình thời Lý đa dạng hơn, hình tượng nghệ thuật trau truốt và tỉa tót hơn, kỹ thuật chế tác cao hơn.
Về kỹ thuật, xây dựng thời Lý ở Thăng Long đạt tới đỉnh cao. Nó được thể hiện ở kỹ thuật xây dựng các loại móng trụ hết sức công phu và kiên cố bằng sỏi, gạch ngói vụn và sành vụn. Tuy nhiên, kỹ thuật này đã được thấy trong thời Đinh - Tiền Lê ở chùa Nhất Trụ. Ở đây, người Đinh - Tiền Lê đã xây dựng loại móng rất lớn bằng móng bè kết hợp với đá. Chắc chắn, kỹ thuật xây dựng móng trụ như vậy đã được sử dụng ở Thăng Long thời Lý.
Qua vài so sánh sơ bộ trên đây, có thể thấy thời Đinh - Tiền Lê đã tạo ra một loạt tiền đề cho nghệ thuật Lý phát triển. Tiền đề đó không những là các mẫu mã cụ thể mà còn là cả hệ thống công nghệ sản xuất Đại Việt sau đó dường như cũng là được bắt đầu từ thời Đinh- Tiền Lê.
Một ví dụ: nếu như hệ vật liệu xây dựng trước Đinh - Tiền Lê thường có màu xám là chủ yếu kết hợp với màu đỏ. Sang thời Đinh - Tiền Lê, vật liệu xây dựng hoàn toàn là màu đỏ. Thời Lý, thời Trần, thời Lê sơ, vật liệu xây dựng hoàn toàn theo truyền thống chế tác loại gạch ngói thuần màu đỏ. Rõ ràng, đó là một truyền thống được bắt đầu từ thời Đinh - Tiền Lê ở Hoa Lư.
Mở rộng hơn, có người còn liên hệ tới việc quy hoạch kinh đô Thăng Long cũng có ảnh hưởng nhất định của các quy hoạch Hoa Lư. Ví dụ ở cả hai kinh đô cùng có chùa Nhất Trụ.
Có thể là đã có ảnh hưởng nào đó của quy hoạch Hoa Lư đối với quy hoạch Thăng Long. Tuy nhiên, trên thực tế khảo cổ học vẫn chưa thấy rõ ảnh hưởng của Hoa Lư với Thăng Long chỉ được thấy rõ trên các loại hình vật liệu xây dựng, kỹ thuật xây dựng và có thể là một số công trình kiến trúc bởi Lý Thái Tổ khi dựng đô vẫn trên cơ sở những con người của thời Đinh - Tiền Lê chuyển sang. Nền nghệ thuật dân tộc, nghệ thuật Đại Việt đã phát triển rực rỡ và đạt tới đỉnh cao dưới thời Lý ở Thăng Long trên thực tế đã bắt nguồn từ nghệ thuật Hoa Lư.
Phần 4
HOÀN, NHÀ TIỀN LÊ VÀ BỐI CẢNH ĐỊNH ĐÔ THĂNG LONG NƯỚC ĐẠI CỒ VIỆT THỜI TIỀN LÊ Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
TS. Vũ Văn Quân
Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội
1. Dù còn có một vài điểm khác biệt, nhưng đến nay chúng ta đã nhất trí cơ bản về phạm vi lãnh thổ nước Văn Lang - Âu Lạc thời đại Hùng Vương- An Dương Vương. Đó là không gian tương đương với vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ của Việt Nam ngày nay. Trong thời Bắc thuộc, các chính quyền phong kiến Trung Hoa, dù thống nhất hay cát cứ, cũng buộc phải tôn trọng thực tế này, thể hiện qua việc tổ chức các khu vực hành chính.
Nhà Triệu chia đất đai Âu Lạc cũ thành hai quận Giao Chỉ (Bắc Bộ) và Cửu Chân (Thanh - Nghệ - Tĩnh). Nhà Hán đặt thêm quận Nhật Nam (từ Đèo Ngang đến Quảng Nam). Cuối đời Ngô, chia làm sáu quận là Giao Chỉ (phần lớn quận Giao Chỉ đời Hán), Tân Xương (một phần phía tây quận Giao Chỉ đời Hán), Vũ Bình (một phần phía tây quận Giao Chỉ đời Hán), Cửu Chân (phần lớn quận Cửu Chân đời Hán), Cửu Đức (một phần quận Cửu Chân đời Hán), Nhật Nam. Đời Tống (cuối thế kỷ V) đặt thêm quận Tống Bình (một phần quận Giao Chỉ).
Nhà Tuỳ, ban đầu bỏ quận đặt châu, sau lại bỏ châu đặt quận, gồm Giao Chỉ (Bắc Bộ), Cửu Chân (Thanh Hoá), Nhật Nam (Nghệ Tĩnh) và các quận Tỳ Ảnh, Hải Âm, Tượng Lâm (vùng Đèo Ngang trở vào).
Nhà Đường đặt Giao Châu đại tổng quản (sau đổi làm An Nam đô hộ phủ) gồm Giao Châu (đất quận Giao Chỉ đời Tuỳ), Lục Châu (một phần Quảng Đông của Trung Quốc và duyên hải Quảng Ninh của Việt Nam), Phong Châu (vùng đất ngã ba Bạch Hạc, phần dưới các thung lũng sông Chảy, sông Thao, sông Đà), Trường Châu (Ninh Bình), Ái Châu (Thanh Hoá), Diễn Châu (Bắc Nghệ An), Hoan Châu (Nam Nghệ An) và Phúc Lộc Châu (Tây Hà Tĩnh) và bốn châu Thang Châu, Chí Châu, Võ Nga Châu và Võ An Châu thuộc đất Trung Quốc và hai châu Lâm Châu và Ảnh Châu ở phía nam Hoành Sơn.
Đối với những tộc người vùng núi, nhà Đường không đặt châu quận để thống trị trực tiếp được thì đặt những phủ, châu ki mi. Lệ vào An Nam đô hộ phủ có 40 châu như vậy, đại khái là vùng núi phía Bắc và đông Bắc nước ta hiện nay (1).
2. Buổi đầu độc lập, Khúc Hao (907 - 917) đã tiến hành một số cải cách hành chính, lấy lộ thay cho châu, lấy phủ, châu thay cho huyện, đổi hương (đơn vị dưới huyện) làm giáp, dưới giáp là xã. Tuy nhiên, qua sử biên niên và các tài liệu thư tịch khác, không thấy nhắc đến các đơn vị hành chính mới. Trong khi đó các địa danh như Giao Châu, Ái Châu, Phong Châu, Đằng Châu lại vẫn thấy được dùng.
Thời Đinh, sử chép chia nước thành mười đạo. Nhưng danh sách và diên cách mười đạo đó như thế nào, biên niên sử và hầu hết các thư tịch cổ không thấy nhắc đến. Đào Duy Anh nhận xét: Sử chép rằng Đinh Tiên Hoàng chia nước làm mười đạo hiện nay không rõ danh hiệu và vị trí các đạo là thế nào (2).
Sách Đại Nam nhất thống chí và một số sách địa chí đời Nguyễn như Dư địa chí trong Lịch triều hiến chương loại chí của Phan Huy Chú, Phương Đình địa dư chí của Nguyễn Văn Siêu . . . , rải rác có nhắc đến đơn vị đạo đời Đinh, Tiền Lê.
Cụ thể:
Tỉnh Hà Nội: Đại Nam nhất thống chí chép thời Đinh gọi là đạo.
Tỉnh Lạng Sơn: Đại Nam nhất thống chí chép thời Đinh chia làm đạo. Phương Đình địa dư chí cũng chép như vậy.
Tỉnh Bắc Ninh: Lịch triều hiến chương loại chí chép nhà Đinh đặt làm đạo Bắc Giang, Lê Đại Hành mới đem đổi làm phủ, châu, đầu đời Lý đổi châu Cổ Pháp làm phủ Thiên Đức, cùng với Vũ Linh, Lạng Châu đều gọi là lộ cả. Đại Nam nhất thống chí chép tỉnh Bắc Ninh thời Tiền Lê là Bắc Giang. Phương Đình địa dư chí chép tỉnh Bắc Ninh thời Đinh gọi là đạo Bắc Giang.
______________________
(1) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qna các đời. Nxb Thuận Hóa, Huế, 1994.
(2) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. Sđd tr. 113
Tỉnh Nam Định: Đại Nam nhất thống chí chép đời Thái Bình nhà Đinh đặt làm đạo.
Tỉnh Quảng Yên: Lịch triều hiến chương loại chí chép ba đời Đinh, Tiền Lê, Lý gọi là đạo Hải Đông.
Thời Tiền Lê, năm 1002, Lê Hoàn đổi mười đạo làm lộ, châu, phủ. Khâm định Việt sư thông giám cương mục chua: thay đổi và sắp xếp các lộ, châu, phủ thế nào không rõ. Đào Duy Anh cũng nhận xét: “Lê Hoàn cướp ngôi, nhà Lê đổi mười đạo làm lộ, phủ. châu. Hiện nay không rõ danh hiệu và vị trí các lộ phủ. châu ấy là thế nào”. (1)
Các sách địa chí đời Nguyễn có nhắc đến một số lộ đời Tiền Lê. Cụ thể:
Tỉnh Hà Nội: Đại Nam nhất thống chí chép đầu đời ứng Thiên nhà Tiền Lê gọi là lộ.
Tỉnh Nam Định: Đại Nam nhất thống chí chép đầu đời ứng Thiên nhà Tiền Lê đặt làm lộ.
Tỉnh Lạng Sơn: Đại Nam nhất thống chí chép nhà Tiền Lê, nhà Lý gọi là lộ. Phương Đình địa dư chí cũng chép tỉnh Lạng Sơn đời nhà Tiền Lê, nhà Lý gọi là lộ.
Tỉnh Sơn Tây: Đại Nam nhất thống chí chép các đời Đinh, Tiền Lê, Lý gọi là lộ.
Về đơn vị phủ, Đại Việt sử ký toàn thư chép năm 1005 Lê Long Đĩnh đổi Đằng Châu làm phủ Thái Bình, Phương Đình địa dư chí cũng chép lại như thế.
Có vẻ các sách địa chí thế kỷ XIX căn cứ vào việc nhà Đinh tổ chức đất nước thành mười đạo, nhà Tiền Lê đổi mười đạo làm phủ, lộ, châu mà sau này đoán định vậy. Trong hầu hết biên niên sử và thư tịch trước đó gần như không thấy nhắc đến các đơn vị này. Trong khi đó, đơn vị châu lại vẫn được dùng phổ biến.
Dưới đây là danh sách các châu thời Đinh, Tiền Lê đượcập trên cơ sở ghi chép của biên niên sử và một số thư tịch cổ khác:
1. Ái Châu: Đại Việt sử ký toàn thư (dưới đây gọi tắt là Toàn thư) chép các sự kiện dưới hai triều Đinh. Tiền Lê gắn với Ái Châu: Lê Đại Hành người Ái Châu; Lê Hoàn đánh nhau với Đinh Điền, Nguyễn Bặc ở Tây Đô. vì Lê Hoàn là người Ái Châu nên sau khi lên ngôi đóng đô ở Hoa Lư mới gọi Ái Châu là Tây Đô; năm 989 Dương Tiến Lộc làm phản ở Hoan Châu và Ái Châu; năm 1009 Lê Long Đĩnh cho đào kênh, đắp đường và dựng cột bia ở Ái Châu. Khâm định Việt sử thông giám cương mục (dưới đây viết tắt là Cương mục) chua: Ái Châu là đất Thanh Hoa. Đại Nam nhất thống chí chép: tỉnh Thanh Hoá, đời Vũ Đế nhà Lương lấy Cửu Chân làm Ái Châu tên Ái Châu có từ đây), đời Đường gọi là Ái Châu, các đời Đinh, Tiền Lê cũng gọi như vậy.
2. Ám Châu: Toàn thư chép năm 1003 Lê Hoàn đi Hoan Châu, vét kênh Đa Cái (vùng Hưng Nguyên, Nghệ An) thẳng đến trường Tư Củng thuộc Ám Châu. Không rõ cụ thể, nhưng theo ghi chép trên thì chắc Ám Châu cũng thuộc vùng Nghệ An.
3. Cổ Pháp châu: Toàn thư chép năm 995 Lê Hoàn phong cho hoàng tử thứ mười một là Đề (tức Minh Đề) làm Hành Quân vương, đóng ở Bắc Ngạn châu Cổ Lãm, lại chép Lý Công Uẩn người hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp. Cương mục chua: châu Cổ Pháp, từ đời Đinh về trước là châu Cổ Lãm, nhà Tiền Lê đổi làm châu Cổ Pháp, nhà Lý đổi làm phủ Thiên Đức, nay là huyện Đông Ngàn, tỉnh Bắc Ninh. Như vậy, tên châu Cổ Pháp mới có sau năm 995.
4. Đại Hoàng châu: Toàn thư chép Đinh Bộ Lĩnh người động Hoa Lư, châu Đại Hoàng. Cương mục chua: Đại Hoàng là tên châu, nay là huyện Gia Viễn, tỉnh Ninh Bình.
______________________
(1) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. Sđd tr. 113
5. Đằng Châu: Toàn thư chép năm 992 Lê Hoàn phong cho hoàng tử thứ năm là Đĩnh làm Khai Minh vương đóng ở Đằng Châu, năm 1005 Lê Long Đĩnh đổi Đằng Châu làm phủ Thái Bình. Lịch triều hiến chương loại chí chép: Đằng Châu thời Đinh Lê thuộc về Sơn Nam - tương đương với Khoái Châu đời Lý, Khoái Lộ đời Trần, Khoái Châu đời Lê, gồm hầu hết tỉnh Hưng Yên sau này. Đại Nam nhất thông chí chép: tỉnh Hưng Yên, đầu đời Ngô là châu Đằng. Phương Đình địa dư chí chép: cương vực tỉnh Hưng Yên, cũng như tỉnh Nam Định, xưa gọi là Đằng Châu, nhà Tiền Lê gọi là phủ Thái Bình.
6. Định Biên châu: Toàn thư chép năm 999 Lê Hoàn thân đánh Hà Động, tất cả gồm 49 động, phá được động Nhật Tắc, châu Định Biên. Nguyễn Thiên Túng chú Dư địa chí của Nguyễn Trãi có ghi mỏ vàng ở Định Biên thuộc Cao Bằng, có thể là châu này. Cương mục lại chua: Hà Động là động Hà Man, thuộc huyện Thạch Thành, tỉnh Thanh Hoá.
7. Đô Lương châu: Toàn thư chép năm 1008 Lê Long Đĩnh đánh hai châu Đô Lương, Vị Long, bắt được người Man. Đào Duy Anh đoán Đô Lương có lẽ là Đô Kim, là châu ở đất Tuyên Quang (1).
8. Hoan Châu: Toàn thư chép năm 989 Dương Tiến Lộc làm phản ở Hoan Châu và Ái Châu. Cương mục chua: Hoan Châu là Nghệ An. Đại Nam nhất thống chí chép: tỉnh Nghệ An, đời Tuỳ Khai Hoàng đặt châu Hoan, đời Đại Nghiệp đổi làm quận Nhật Nam, đời Đường đặt làm ba châu Hoan, Diễn, Đường Lâm, đời Đinh và Tiền Lê là châu Hoan. Phương Đình địa dư chí chép: châu Hoan và Diễn đời Đường, đời Đinh và Tiền Lê gọi là Hoan Châu. Sau có lẽ lại tách thành hai châu Hoan và Diễn (Toàn thư chép năm 1012 Lý Thái Tổ thân cầm quân đi đánh Diễn Châu).
9. Hoan Đường châu: Toàn thư chép tháng 7 năm 1009 Lê Long Đĩnh thân đi đánh các châu Hoan Đường và Thạch Hà. Cương in!lc chua: châu Hoan Đường là thuộc đất Hoan Châu, nhà Đinh. Tiền Lê gọi là châu Hoan Đường. nhà Lê sư đổi là huyện Nam Đường. nay thuộc đất các huyện Nam Đàn, Anh Sơn. Đô Lương, tỉnh Nghệ An. Đào Duy Anh cho châu Hoan Đường là thuộc đất Hà Tĩnh. (2)
10 Lạng Châu: Toàn thư chép mùa thu năm Canh Thìn (980), quan Lạng Châu nghe tin quân Tống sắp kéo sang, làm tờ tâu báo về triều đình. Cương mục chua: Lạng Châu đời nhà Lê, nhà Lý đặt làm lộ: nay là Lạng Sơn.
11. Phong Châu: Toàn thư chép năm 981 phong hoàng tử thứ tư là Đinh làm Ngự Man vương đóng ở Phong Châu, năm 1000 xuống chiếu đánh giặc ở Phong Châu. Lịch triều hiến chương loại chí chép: đặt Phong Châu, Phúc Lộc Châu, sau biệt ra làm Phong Châu, Tam Đới Châu, các đời Đinh, Lê, Lý gọi là lộ. Đại Nam nhất thống chí chép: tỉnh Sơn Tây, đời Tuỳ là Phong Châu, đời Đinh, Tiền Lê, Lý gọi là châu (sử chép có Phong Châu, Quốc Oai Châu, Chân Đăng Châu). Phương Đình địa dư chí chép: nhà Đinh, Lê, Lý đặt làm châu, có Phong Châu, Quốc Oai Châu và Chân Đăng Châu (tức vùng Lâm Thao).
12. Thạch Hà châu: Toàn thư chép tháng 7 năm 1009 Lê Long Đĩnh thân đem quân đi đánh châu Hoan Đường và Thạch Hà, năm 1005 Đông Thành Vương bị giết ở châu Thạch Hà. Cương mục chua: nhà Đinh, Tiền Lê gọi là châu Thạch Hà, nhà Lý đổi là huyện Thạch Hà, nay là huyện Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh. Đại nam nhất thống chí chép: đạo Hà Tĩnh, đầu đời Đường là Minh Châu và Trí Châu, sau sáp nhập vào huyện Việt Thường thuộc Hoan Châu: đời Tiền Lê là châu Thạch Hà.
13. Thiên Liễu châu: toàn thư chép năm 1008 Lê Long Đĩnh tự làm tướng đi đánh Hoan Châu, Thiên Liễu châu. Đào Duy Anh đoán châu Thiên Liễu có lẽ là miền nam hay miền tây Hoan Châu. (3)
14. Tô Mậu châu: Toàn thư chép năm 995 dân châu Tô Mậu xâm lấn Ung Châu. Nay là vùng Nà Dương, Đình Lập, An Châu thuộc tỉnh Lạng Sơn.
15. Trường Châu: Việt sử lược chép Lê Đại Hành người Trường Châu. Toàn thư chép năm 990 đoàn thuyền đưa Tống Cảo đến Hoa Lư qua trạm Nại Chinh ở Trường Châu, nay là đất Hà Nam.
_____________________
(1) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời, Sđd, tr.115
(2) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. Sđd. tr. 116
(3) Đào Duy Anh: Đất nước Việt Nam qua các đời. Sđd. tr. 116
16. Trường Yên châu: Toàn thư chép Lê Hoàn mất chôn ở sơn lăng châu Trường Yên. Đại Nam nhân thống chí chép: tỉnh Ninh Bình là châu Trường Yên được đặt từ cuối đời Lương. Phương Đình dư địa chí chép tỉnh Ninh Bình nhà Đinh gọi là Hoa Lư, nhà Tiền Lê vẫn theo, nhà Lý gọi là phủ Trường Yên, lại là châu Đại Hoàng.
17. Vị Long châu: Toàn thư chép năm 1006 châu Vị Long nay là châu Đại Man) dâng ngựa trắng bốn chân có cựa. Cương mục chép sự kiện năm 1013 châu mục Vị Long làm phản và chua: Vị Long là tên châu, nhà Đinh, Tiền Lê gọi là Vị Long, nhà Lý, nhà Trần cũng thế, nay là đất Chiêm Hoá, tỉnh Tuyên Quang.
18 . Vũ Lung châu: Toàn thư chép năm 994 phong hoàng tử thứ mười là Mang làm Nam Quốc vương đóng ở châu Vũ Lung. Cương mục chua: Vũ Lung là tên châu, thuộc về Thanh Hoá, nhưng nhiều lần phân chia thế nào không khảo được.
Ngoài các đơn vị châu, sử biên niên và các sách địa chí còn nhắc đến một trấn: trấn Triều Dương. Toàn thư chép năm 996 bọn Văn Dũng người trấn Triều Dương làm loạn. Cương mục chua: xưa là bộ Ninh Hải; nhà Đinh: Tiền Lê gọi là trấn Triều Dương, nhà Lý gọi là châu Vĩnh An, nay đất châu Tiên Yên và Vạn Ninh, tỉnh Quảng Yên. Đại Nam nhân thống chí chép tỉnh Quảng Yên; đời nhà Đinh, Tiền Lê về trước gọi là trấn Triều Dương. Phương Đình dư địa chí chép tỉnh Quảng Yên thời Tiền Lê là trấn Triều Dương, nhà Lý đổi làm châu Vĩnh Yên.
Như vậy, đơn vị châu được sử sách nhắc đến nhiều nhất trong biên niên sử, trong đó, phần nhiều là những châu có từ đời Đường. Danh sách các châu trên có thể chưa đầy đủ so với thực tế, những cơ bản đã phủ đầy vùng lãnh thổ Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, tức cương vực nước Đại Cồ Việt thời Tiền Lê. Cũng có thể đạo thời Đinh và lộ thời Tiền Lê là những đơn vị hành chính vùng rộng lớn nên khi chép về các sự kiện sử biên niên không nhắc đến. Dưới đạo - lộ vẫn là các châu được đặt từ đời Đường.
3. Trên lãnh thổ đó, dấu ấn hoạt động của triều đình Hoa Lư thể hiện ở khắp mọi nơi, tuy mức độ nhiều ít có khác nhau. Theo ghi chép của biên niên sử, có ít nhất 53 địa danh được nhắc đến gắn với hoạt động của nhà Tiền Lê, nhiều nhất là châu, một số là các cấp phối thuộc. Khu vực được nhắc đến nhiều nhất là vùng Thanh Nghệ Tĩnh và vùng núi phía Bắc.
Hoạt động của nhà nước phần nhiều là đánh dẹp các cuộc nổi dậy chống lại chính quyền. chủ yếu là của các tộc thiểu số miền núi. Điều này cho thấy nhà Tiền Lê đã rất nỗ lực trong việc khắc phục các khuynh hướng phân tán, cát cứ, thống nhất quốc gia. Nhưng cũng chính thực tế này chứng tỏ rằng khả năng kiểm soát đất nước của nhà Tiền Lê vẫn còn hạn chế
Nhà Tiền Lê đã có nhiều nỗ lực trong việc xây dựng nền hành chính mới cũng như tăng cường khả năng kiểm soát đất nước. Tiên địa bàn truyền thống vùng Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ, ý thức về sự toàn vẹn lãnh thổ được thể hiện rất rõ trong quan hệ với nhà Tống (ở phía Bắc) và với Chăm pa (ở phía nam).
Việc tổ chức lại các đơn vị hành chính đã được tiến hành, đặt thêm cấp mới (đạo, lộ) đồng thời với việc duy trì các cấp hành chính đã có từ trước, nhất là hệ thống các châu vốn có từ đời thuộc Đường.
Đặc biệt, nhà Tiền Lê, từ Lê Hoàn đến Lê Long Đĩnh, thể hiện thái độ kiên quyết trong việc trấn áp các hoạt động chống đối chính quyền, các mưu đồ cát cứ.
Những nỗ lực đó đã củng cố ý thức của người Việt về chủ quyền lãnh thổ quốc gia, tăng cường khả năng và hiệu quả về tổ chức và quản lý đất nước, tạo tiền đề giúp Lý Công Uẩn vững tin rời Hoa Lư chật hẹp nhưng hiểm yếu ra Đại La rộng rãi nhưng trống trải để tính kế cho con cháu muôn đời, cũng là tạo tiền đề cho Đại Cồ Việt bước sang một trang mới.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 14-01-2010 lúc 10:53.
Lý do: 3
Phần 4
HOÀN, NHÀ TIỀN LÊ VÀ BỐI CẢNH ĐỊNH ĐÔ THĂNG LONG PHẬT GIÁO THỜI TIỀN LÊ VÀ VAI TRÒ CỦA PHẬT GIÁO
TRONG QUÁ TRÌNH KHỞI LẬP VƯƠNG TRIỀU LÝ Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Nguyễn Ngọc Phúc
Khoa Lịch sử. Trường Đại học KHXH&NV. Đại học Quốc gia Hà Nội
So với thời Lý - Trần, nguồn sử liệu Việt Nam ghi chép về tình hình Phật giáo thời Tiền Lê còn lại không nhiều, tản mạn trong các sách: Đại Việt sử lược, Đại Việt sử ký toàn thư, Thiền uyển tập anh, Việt sử tiêu án, Khâm định Việt sử thông giám cương mục...
Nhưng qua thông tin từ các nguồn thư tịch cổ này, kết hợp với việc tìm hiểu các loại hình văn bản bia ký, thần tích, truyền thuyết địa phương.., bức tranh Phật giáo cùng vai trò, ảnh hưởng của Phật giáo đối với xã hội Việt Nam thời Tiền Lê nói chung ngày càng được nhận thức rõ ràng hơn.
Phật giáo, thông qua đội ngũ tăng lữ, cũng chính là một bộ phận quan trọng của tầng lớp trí thức đương thời đã có những ảnh hưởng khá sâu sắc tới đời sống chính trị - xã - hội, không chỉ trong dân gian mà còn đối với cả triều đình.
Xem xét nguyên nhân bối cảnh lịch sử - xã hội thời kỳ này, căn nguyên của thực tế trên đây có thể lý giải được. Thời Ngô, Đinh và Tiền Lê, trải qua gần 10 thế kỷ Bắc thuộc, sau những chiến công vang dội chống quân Nam Hán và quân Tống, nền độc lập còn non trẻ của dân tộc được bảo vệ và củng cố càng thêm vững chắc.
Nhưng, đứng trước yêu cầu quản lý, duy trì ổn định xã hội, bảo vệ quốc gia lãnh thổ thống nhất, đối phó với các thế lực ngoại xâm, triều Tiền Lê, và trước đó là cả triều Ngô, Đinh đều nhận thấy tầm quan trọng của việc tập hợp và sử dụng sự hiểu biết của đội ngũ trí thức đương thời.
Tuy nhiên, lúc này, có thể do nhà Ngô, Đinh và Tiền Lê đều tồn tại không lâu dài, lại phải đặt mối quan tâm nhiều hơn đến công cuộc chống ngoại xâm và nạn cát cứ nên khoa cử chưa thể và cũng chưa có điều kiện để được thực thi, đội ngũ quan lại trí thức phục vụ cho công việc điều hành đất nước tuyển lựa thông qua con đường thi cử chưa hề có. Triều đình do đó phải chọn lựa, sử dụng nhân tài nhờ vào phương cách tiến cử và phần nào bằng việc xem xét khả năng của cá nhân bộc lộ qua việc tham gia tư vấn hay trực tiếp giải quyết công việc, qua vai trò và tầm ảnh hường trong xã hội...
Trong xã hội Việt cổ truyền, Nho và Phật là hai hệ tư tưởng đóng vai trò chủ đạo góp phần đào tạo nên tầng lớp trí thức. Đối với Nho học, được truyền bá vào Việt Nam từ khá sớm, nhiều trường Nho học do người Hán lập và trực tiếp tham gia giảng dạy ở Việt Nam đã xuất hiện ngay từ những thế kỷ đầu sau Công nguyên.., tuy vậy, dấu ấn của Nho giáo trong lòng xã hội Việt qua gần 7 - 8 thế kỷ truyền bá dường như còn rất mờ nhạt, mà một trong những biểu hiện của nó chính là đội ngũ nho sĩ người Việt còn yếu và thiếu, hầu như chưa có tiếng nói và vị trí trong xã hội.
Còn Phật giáo, du nhập vào Việt Nam cũng từ khá sớm, gần như cùng thời kỳ với Nho giáo, nhưng khác với Nho giáo, ngay trong thời Bắc thuộc, Phật giáo đã phát triển khá mạnh, hình thành nên những trung tâm Phật giáo nổi tiếng và tiêu biểu lúc bấy giờ là Luy Lâu (nay thuộc Thuận Thành, Bắc Ninh).
Các hệ phái Phật giáo từ bên ngoài khi du nhập vào Việt Nam ít nhiều đều sớm được bán địa hoá, tích hợp vào trong nó những yếu tố văn hoá cổ truyền của người Việt đặc điểm này làm cho sức sống, sức lan toả và tồn tại của Phật giáo càng bền chặt hơn trong dân gian.
Chùa chiền ngoài chức năng thờ Phật. tổ chức các hoạt động tín ngưỡng còn đóng vai trò là trung tâm văn hoá, giáo dục của làng xã. Giữ vai trò trường học và đảm nhận công việc giáo dục dân gian chính là nhà chùa và đội ngũ sư tăng. Nhiều vị sư ngoài việc thông hiểu giáo lý Phật giáo (thậm chí cả tư tưởng Nho giáo) còn là những người hiểu biết xã hội và thời cuộc, có ảnh hưởng trong đông đảo dân chúng.
Thời Đinh, Tiền Lê, sư Khuông Việt “thuở nhỏ theo học Nho, lớn lên theo đạo Phật, cùng bạn đồng học Trụ Trì đến chùa Khai Quốc thụ giới cụ túc với thiền sư Vân Phong, nhờ đó được đọc rộng kinh điển Phật giáo. . . năm bốn mươi tuổi, danh tiếng vang dội đến triều đình”, sư Vạn Hạnh: “thuở nhỏ thông minh khác thường, học thông ba giáo, đọc kỹ trăm nhà” (1).
Đây có lẽ là những lý do cơ bản để nhiều vị vua thời Đinh và Tiền Lê quyết định lựa chọn và trọng dụng các nhà sư nhiều hơn là các nho sĩ. Chính nhờ sự trọng dụng này, giới tăng lữ trí thức Phật giáo Việt Nam đã có tầm ảnh hưởng không nhỏ, tác động tới hướng giải quyết nhiều vấn đề quan trọng của triều đình và quốc gia. Sử cũ ghi nhận nhà Đinh “vua tôn sùng đạo Phật, mới đặt phẩm cấp cho tăng nhân và đạo sĩ” (2), “bắt đầu quy định cấp bậc văn võ, tăng đạo.
Lấy Nguyễn Bắc làm Định quốc công, Lưu Cơ làm Đô hộ phủ sĩ sư, Lê Hoàn làm Thập đạo tướng quân, Tăng thống Ngô Chân Lưu được ban hiệu là Khuông Việt đại sư, Trường Ma Ni làm Tăng lục, đạo sĩ Đặng Huyền Quang được trao chức Sùng chân uy nghi”. (3)
Tăng thống mà triều đình ban cho Ngô Chân Lưu là chức quan đứng đầu hàng Phật giáo còn Tăng lục là chức quan trông coi Phật giáo dưới chức Tăng thống, đây đều là những chức vụ quan trọng trong hàng tăng quan, do đó, việc làm này chính là một minh chứng nói lên vai trò ảnh hưởng của giới tăng lữ đối với triều đình.
Về nội dung giáo lý, đặc điểm của Phật giáo Việt Nam lúc bấy giờ là chủ yếu tiếp nhận ảnh hưởng từ các hệ phái thuộc dòng Thiền tông, nhưng cũng không phải là Thiền tông thuần nhất, nhiều nhà nghiên cứu qua những phát hiện gần đây đã chứng minh rằng ngoài việc tiếp thu, hoà trộn với tín ngưỡng dân gian bản địa, Thiền tông Việt Nam - ít nhất từ thế ký X - đã có những biểu hiện của sự ảnh hưởng, dung nạp ngay chính một số yếu tố của hệ phái Phật giáo khác trong đó có Mật tông (4).
Mật tông là hệ phái chú trọng đến các nghi lễ tôn giáo mang tính thần bí, sử dụng nhiều câu thần chú huyền bí bằng chính tiếng Phạn (gọi là chân ngôn hay đà-la-ni) để tụng niệm trong tu hành. Ở Việt Nam, nhiều vị sư dòng Thiền tông do chịu ảnh hưởng của Mật tông cũng đã tu hành bằng việc sử dụng thần chú đà-la-ni, chính sư Vạn Hạnh - tổ thứ 12 của phái Tỳ-ni-đa-lưu-chi (Vinitaruci) dòng Thiền tông cũng đã từng chuyên tâm tu tập kinh Tổng trì tam ma địa, lấy đó làm sự nghiệp”. (5)
Với khả năng trí tuệ cùng uy tín, ảnh hưởng xã hội của bản thân, nhiều vị đại sư danh tiếng đương thời như Khuông Việt, Pháp Thuận, Vạn Hạnh... đều được vua Lê Hoàn rất tin cậy, Vạn Hạnh “nói ra điều gì. thiên hạ đều coi như lời sấm ngữ”, được Lê Hoàn “đặc biệt tôn kính” (6).
________________________
(1) Thiền uyển tập anh. Nxb Văn học. HN. 1990. tr. 42 và tr. 188.
(2) Quốc sử quán triều Nguyễn: Khâm định Việt sử thông giám cương mục. Tập 1. Nxb. Giáo dục. HN. 1998. tr. 239.
(3) Ngô Sỹ Liên và các sử thần triều Lê : đại Việt sử ký toàn thư. Tập 1. Nxb. KHXH. HN. 1993. tr.212.
(4) Xem Hà Văn Tấn: Từ một cột kinh Phật năm 973 mới phái hiện ở Hoa Lư. T/c NCLS. số 76 (1965) và cột kinn Phật thời nhà Đinh thứ hai ở Hoa Lư. T/c Khảo cổ học. số 5-6 (1970). in lại trong: Theo dấu các văn hoá cổ. Nxb KHXH. HN. 1997. tr. 786-832 .
(5), (6) Thiền uyển tập anh. sđd. tr. 188.
Góp phần trong việc giải quyết nhiều vấn đề chính trị, quân sự quan trọng của triều đình thời Lê Hoàn, Vạn Hạnh đã có những ý kiến thể hiện sự hiểu biết và khả năng tiên liệu chính xác tình hình của mình, được Lê Hoàn tin nghe theo, Thiền uyển tập anh chép:
“năm Thiên Phúc thứ nhất (980) nhà Tống sai Hầu Nhân Bảo đem quân sang xâm lược nước ta, đóng quân ở gò Tử Cương núi Giáp Lãng. vua mời sư (Vạn Hạnh) đến hỏi tình thế thắng bại thế nào. Sư đáp: Chỉ trong ba, bẩy ngày giặc tất phải lui. Sau quả đúng như thế. Vua muốn đi đánh Chiêm Thành, cùng bàn bạc với triều thần, nhưng chưa quyết. Sư tâu vua xin cấp tốc tiến quân, nếu không sẽ lỡ dịp. Vua bèn đem quân đi đánh”.
Chúng tôi cho rằng đây là một chi tiết cần chú ý trong việc tìm hiểu quá trình sư Vạn Hạnh “tiến hành vận động” đưa Lý Công Uẩn lên ngôi, Vạn Hạnh đã khai thác và sử dụng những câu sấm ký - loại hình về mặt nào đó gần gũi và khiến người ta dễ có sự liên tưởng với những câu tụng niệm mang tính thần bí tu hành của lật giáo. Vạn Hạnh đã sừ dụng nó như một công cụ để khẳng định việc nhà Lý lấy ngôi là do mệnh trời”. Lời sấm ký là điềm báo trước qua đó tạo nên/và tìm sự ủng hộ của đông đảo dư luận quả nhiên thu được toàn thắng”. (1)
So với Khuông Việt - vị Tăng thống của cả hai triều Đinh và Tiền Lê, Vạn Hạnh dường như là trường hợp “ngoại lệ” bởi tuy không nắm giữ chức vị tăng quan quan trọng nào của triều đình, lại là người có lẽ không liên tục ở kinh đô Hoa Lư (2) nhưng đối với Lê Hoàn, Vạn Hạnh luôn được “đặc biệt tôn kính”, thể hiện qua việc vua đã tham vấn ý kiến của sư trong hai vấn đề hệ trọng của triều đình bấy giờ: đó là đánh Tống và đánh Chiêm, nếu như những ghi chép của Thiền uyển tập anh về việc những ý kiến của Vạn Hạnh được Lê Hoàn tin nghe, giúp cho Lê Hoàn thêm vững tin vào những quyết định của mình, do đó đã đạt được những thắng lợi quan trọng về quân sự là chân thực, thì như thế, ảnh hường của Vạn Hạnh đối với Lê Hoàn và triều đình hẳn phải rất sâu sắc.
Cũng bởi uy tín cao của bản thân đối với triều đình Lê Hoàn mà sư Vạn Hạnh càng có thêm điều kiện trong việc tiến cử với triều đình những người mà ông cho là tài năng và có thể trọng dụng, hẳn trong nhiều lần vào kinh đô Hoa Lư, ông đã đưa theo Lý Công Uẩn - người mà ông nuôi dạy từ bé và đặt nhiều kỳ vọng ở nhân vật này vào triều đình Hoa Lư tiến cử, bắt đầu với việc giữ một chức quan nhỏ trong đội cấm quân của Lê Hoàn, bước đầu tạo cho Lý Công Uẩn một vị trí nhất định trong triều.
Về gia đình và tuổi thơ của Lý Công Uẩn, còn có nhiều điểm nghi vấn và chưa sáng tỏ về nguồn gốc, cha mẹ đích thực của ông, Toàn thư chỉ ghi Công Uẩn có “mẹ họ Phạm, đi chơi chùa Tiêu Sơn cùng với người thần giao hợp rồi có chửa, sinh vua ngày 12 tháng 2 năm Giáp Tuất, niên hiệu Thái Bình năm thứ năm (974) thời Đinh”, và khi Lý Công Uẩn “mới 3 tuổi, mẹ ẵm đến nhà sư Lý Khánh Văn, Khánh Văn bèn nhận làm con nuôi”, rồi lúc còn nhỏ đi học nhà sư ở chùa Lục Tổ là Vạn Hạnh”. (3)
Chính sử chỉ ghi vậy, nhưng truyền thuyết dân gian ở quê hương Lý Công Uẩn thì cho rằng Công Uẩn chính là con của thánh Vạn” (tức sư Vạn Hạnh) và bà hộ chùa chùa Tràng Liêu là Phạm Thị, Công Uẩn được sinh chính tại quê mẹ: làng Dương Lôi/Đình Sấm (dân gian ghi nhận việc này qua câu thành ngữ ở Đình Sấm: “Nở Đường Sau. đau chùa Dặn”), sau đó được sư Khánh Văn (em của sư Vạn Hạnh) và Vạn Hạnh trực tiếp nuôi, dạy học trong chùa Cổ Pháp (chùa Dặn) và chùa Lục Tổ.
Như vậy, dẫu còn nhiều điểm chưa và rất khó để có thể làm sáng tỏ về thân thế, gốc tích thực sự của Lý Công Uẩn nhưng rõ ràng rằng Lý Công Uẩn ngay từ khi còn nhỏ. sống trong chùa, là con nuôi, được những vị đại sư nổi tiếng đương thời trực tiếp nuôi dưỡng và dạy bảo, chắc chắn ông đã chịu sự giáo dục mang dục ấn mạnh mẽ của Phật giáo, trong suốt quá trình nuôi dạy đó, Vạn Hạnh là người giữ vị trí đặc biệt.
_________________
(1) Thiền uyển tập anh. sđd. tr. 188- 189.
(2) Thư tịch cũ và các tài liệu dân gian cho biết thiên sư Vạn Hạnh từng tu hành tại chùa Tràng (Trường) Liêu (tục gọi là chùa Lào) và trụ trì chùa Lục Tổ ở chân núi Tiêu Sơn (nay đều thuộc tỉnh Bắc Ninh).
(4) Đại Việt sử ký toàn thư. sđd . tr. 240.
Giữa Vạn Hạnh và Lý Công Uẩn, dù Vạn Hạnh chính là cha đẻ hay chỉ là người có công trực tiếp nuôi dưỡng, giáo dục Công Uẩn thuở nhỏ thì quan hệ giữa hai con người này chắc chắn đều rất sâu đậm. Vạn Hạnh đã dồn nhiều tâm sức để nuôi dạy cho Công Uẩn trưởng thành, rồi dần sắp đặt để đưa ông tham chính và tiến đến bước cao nhất là chuẩn bị các điều kiện tác động để ngôi của họ Lê chuyển sang được cho họ Lý, quá trình vận động này chắc chắn có sự tính toán. chuẩn bị khá kỹ Lưỡng và lâu dài của sư Vạn Hạnh. Sâu chuỗi những sự kiện được biên chép trong thư tịch cổ, chúng ta càng thấy rõ hơn điều này.
Nuôi dưỡng Công Uẩn từ nhỏ. Vạn Hạnh đã sớm nhận ra khí chất của con người này, thư tịch cũ ghi lại việc Lý Công Uẩn “bé đã thông minh. vẻ người tuấn tú khác thường” nên khi được đưa đến học ở chùa Lục Tổ, Vạn Hạnh thấy đã khen ngay rằng: “đứa bé này không phải là người thường, sau này lớn lên ắt có thể giải nguy gỡ rối, làm bậc minh chủ trong thiên hạ”. (1) Lời nhận xét này tự nó đã phần nào bộc lộ ý định từ rất sớm của Vạn Hạnh đối với Công Uẩn.
Với tầm nhìn xa, tiên liệu được thời cuộc, lại khá gần gũi Lê Hoàn, nuôi dưỡng Công Uẩn từ nhỏ, Vạn Hạnh dường như rất hiểu cả hai con người này, đối với vị vua khai sáng triều Tiền Lê, có ‘lẽ ‘đã nhìn thấy cái được và chưa làm được ở con người Lê Hoàn, dự liệu trước được kết cục của triều đình Tiền Lê sau Lê Hoàn.
Là người có sự nghiệp võ công hiển hách, dẹp yên được nạn cát cứ, thống nhất được quốc gia, chăm lo tới phát triển kinh tế, phục hồi văn hoá truyền thống nhưng với gia đình thì Lê Hoàn đã có phần “nhãng” mất việc “tề gia”, cái mầm họa rối ren sau khi Lê Hoàn mất năm 1005 có một phần nguyên nhân bắt nguồn từ điều này.
Lê Hoàn có 11 hoàng tử, ngay khi Lê Hoàn vừa băng hà, các hoàng tử đã đánh lẫn nhau để tranh giành ngôi báu, 7 tháng sau đó, Long Việt mới được đưa lên ngôi, nhưng chỉ có 3 ngày, Long Đĩnh lại giết anh cướp ngôi. Cục diện triều đình rối loạn, quan lại trong triều chia rẽ.
Chiếm ngôi bằng con đường bạo lực, khi ở ngôi, Lê Long Đĩnh còn tiếp tục có rất nhiều hành động tàn ác hơn, sử cũ lên án “vua tính hiếu sát, bạo ngược với dân chúng”. Sử còn chép một hành động của Long Đĩnh mà có lẽ đối với giới tăng lữ Phật giáo đương thời (vẫn đang còn có thế lực rất mạnh) chắc chắn là khó có thể chấp nhận được: có lần vua róc mía trên đầu sư Quách Ngang, giả vờ lỡ tay làm đầu sư bị thương chảy máu rồi cả cười, (2)
Cục thế triều đình Tiền Lê như vậy càng khiến cho Vạn Hạnh quyết tâm thực hiện nhanh hơn ý định của mình. Đương nhiên, trong việc này, không thể không kể đến mong muốn, ý định của chính bản thân Lý Công Uẩn. Khi Lê Long Việt (tức Lê Trung Tông) bị sát hại thời điểm đó, Lý Công Uẩn đã có một hành động khiến ông trở thành một nhân vật được đặt nhiều sự chú ý, trong khi “bầy tôi đều chạy trốn” thì “duy có Điện tiền quân là Lý Công Uẩn ôm xác mà khóc”, vì thế khi Long Đĩnh lên ngôi, khâm phục lòng trung, “cho Công Uẩn làm Tứ sương quân phó chỉ huy sứ” (3), bảo vệ bốn mặt kinh thành, rồi sau tiếp tục được thăng lên làm Tả thân vệ điện tiền chỉ huy sứ, trông coi cấm quân, nắm một phần binh quyền quân đội bảo vệ kinh đô trong tay.
Vạn Hạnh cũng đã không ngần ngại trực tiếp bộc lộ ý định ủng hộ của mình đối với Lý Công Uẩn: mới rồi tôi thấy chữ bùa sấm kỳ lạ, biết họ Lý cường thịnh, tất dấy lên cơ nghiệp. Nay xem trong thiên hạ người họ Lý rất nhiều, nhưng không ai bằng Thân vệ là người khoan thứ nhân từ được lòng dân, lại đang nắm binh giữ quyền trong tay, đứng đầu muôn dân, chẳng phải Thân vệ thì còn ai đương nổi nữa. Tôi đã hơn 70 tuổi rồi, mong được thư thả hãy chết. để xem đức hoá của ông như thế nào, thực là cái may nghìn năm có một” (4).
Vạn Hạnh còn tích cực vận động một số trọng thần trong triều đình, mong tìm được sự hậu thuẫn về lực lượng cũng như qua họ gián tiếp tác động tới Lý Công Uẩn, Toàn thư đã ghi lại nhiều lần các cuộc đối thoại giữa quan Chi hậu Đào Cam Mộc với Công Uẩn:
___________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. sđd. tr. 240.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. sđd. tr. 236.
(3) Đại Việt sử ký toàn thư. sđd. tr. 232.
(4) Đại Việt sử ký toàn thư. sđd. tr. 237-238.
“Gần đây chúa thượng (chỉ Lê Ngọa Triều) ngu tối bạo ngược, làm nhiều việc bất nghĩa, trời chán ghét nên không cho hết thọ, con nối thơ ấu, không kham nổi nhiều khó khăn. Mọi việc phiền nhiễu thần linh không ưa, dân chúng nhao nhác, mong tìm chân chúa. Sao Thân vệ không nhân lúc này nghĩ ra mưu cao, quyết đoán sáng suốt, xa xem dấu cũ của Thang Vũ, gần xem việc làm của Đinh - Lê, trên thuận lòng trời, dưới theo ý dân, mà cứ muốn khư khư giữ tiểu tiết làm gì” và: “người trong nước ai cũng nói họ Lý khởi nghiệp lớn, lời sấm đã hiện ra rồi... Đây là lúc trời trao người theo, Thân vệ còn nghi ngại gì nữa?”. Công Uẩn nói: “Tôi đã hiểu rõ ý ông, không khác gì ý của Vạn Hạnh...” (1).
Không ai khác, chính sư Vạn Hạnh, để tạo sự ủng hộ rộng rãi của dư luận, đã “mượn” việc cây gạo ở quê ngoại Công Uẩn bị sét đánh mà làm nên câu chuyện sấm ký, và cũng chính Vạn Hạnh đã giải thích bài sấm ký này, rằng đó chính là điềm báo của việc nhà Lê sắp hết, nhà Lý sẽ thay: “ở hương Diên Uẩn, châu Cổ Pháp có cây gạo bị sét đánh, người hương ấy xem kỹ dấu sét đánh thấy có chữ: Thụ căn diểu diểu, mộc biểu thanh thanh. hoà đao mộc lạc. thập bát tử thành. . . (Gốc cây thăm thẳm, ngọn cây xanh xanh, cây hoà đao rụng, mười tám hạt thành...), Sư Vạn Hạnh tự đoán riêng rằng: “Thụ căn diểu diểu’, chữ căn nghĩa là gốc, gốc tức là vua, chữ diều đồng âm với yểu, nên hiểu là yểu. “Mộc biểu thanh thanh”, chữ biểu nghĩa là ngọn, ngọn tức là bề tôi, chữ thanh. . . âm gần giống với thanh... nghĩa là thịnh; hoà, đao, mộc ghép lại là chữ Lê, Thập, bát, tử là chữ Lý... Mấy câu này ý nói là vua thì non yểu, bề tôi thì cường thịnh, họ Lê mất, họ Lý nổi lên” (2).
Hẳn là trong dân gian, và ngay cả đối với triều đình, nội dung bài sấm ký theo cách lý giải của Vạn Hạnh đã có tác động không nhỏ khi mà đương thời, Vạn Hạnh được coi là người “nói ra điều gì, thiên hạ đều coi như lời sấm ngữ”. Có lẽ vì thế mà dấu ấn về bài sấm ký đó còn tồn tại sâu đậm và lâu dài trong ký ức nhiều lớp người ở quê hương Của Lý Công Uẩn, thành tên đất, tên làng, tên chùa (3).
Những câu chuyện về điềm báo trước ứng nghiệm cho việc Lý Công Uẩn sẽ lên làm vua: “trước ở viện Cảm Tuyển chùa ứng Thiên Tâm, châu Cổ Pháp có con chó đẻ con sắc trắng có đốm lông đen thành hình hai chữ “thiên tử”. Kẻ thức giả nói đó là điềm năm Tuất sinh người làm thiên tử. Đến nay, vua sinh năm Giáp Tuất lên làm thiên tử, quả là ứng nghiệm” (4), hay “xung quanh mộ Hiển Khánh đại vương (tước hiệu Lý Công Uẩn truy phong cho sau khi lên ngôi) ban đêm nghe tiếng tụng kinh râm ran, cây đa ở chùa Song Lâm có vết sâu ăn hình chữ “quốc” sư đều biện giải được, tất cả đều hợp vời điềm Lê suy Lý dấy” (5) ... dường như đều có sự ra tay sắp đặt của sư Vạn Hạnh.
Như thế là, lớn lên trong sự nuôi dưỡng và giáo dục của nhà chùa, trưởng thành dưới triều Tiền Lê từ một chức võ quan, nhờ vai trò to lớn của sư Vạn Hạnh - một nhân vật xuất chúng, tiêu biểu cho lực lượng tăng lữ Phật giáo đương thời, Lý Công Uẩn đã nắm lấy thời cơ, nhận lấy “thiên mệnh”, lập nên một triều đại mới. Đối với quá trình khởi lập vương triều Lý, Vạn Hạnh chính là người đã chuẩn bị những điều kiện vững vàng và “đạo diễn” cho cuộc thay đổi triều đại, là một chỗ dựa tinh thần cho ông vua sáng nghiệp triều Lý.
____________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư. sđd. sđd, tr 238.
(2) Đại Việt sử ký toàn thư. sđd, tr. 237.
(3) Quê ngoại của Lý Công Uẩn là làng Đình Sấm/Dương Lôi (nay thuộc xã Tân Hồng. huyện Từ Sơn. Bắc Ninh), trong làng có ngôi chùa Cha Lư. theo GS. Trần Quốc vượng, thực ra. bản thân cụm từ Cha Lư có nghĩa là Sấm Cha Lư tự nghĩa là chùa Sấm gắn với câu chuyện cây gạo bị sét đánh làm “lộ” ra bài sâm ký năm xưa. Xem Trần Quốc vượng: Cổ Pháp - Thiên Đức - Kinh Bắc quê hương nhà Lý in trong: Kỷ yếu hội thảo khoa học Lý Công Uẩn và vương triều Lý. Nxb ĐHQG. HN. 2001, tr. 76
(4) Đại Việt sử ký toàn thư, sđd . tr. 240
(5) Thiền uyển tập anh. sđd, tr. 190.
Cũng bởi thế, nhắc lại và khẳng định công lao của Vạn Hạnh, sau này vua Lý Thái Tông đã ca tụng sư bằng bài kệ truy tán:
Vạn Hạnh dung tam tế
Chân phù cổ sấm ky (cơ)
Hương quan danh Cổ Pháp
Trụ tích trấn vương kỳ.
(Vạn Hạnh thông ba cõi
Lời sư nghiệm sấm thi
Từ làng quê Cổ Pháp
Chống gậy trấn kinh kỳ)(1).
Như vậy, thời Tiền Lê - đặc biệt dưới thời kỳ Lê Hoàn trị vì - qua ghi chép của thư tịch cũ, cùng với những truyền thuyết dân gian liên quan và đề cập đến các sự kiện, các nhân vật tiêu biểu trong đội ngũ tăng lữ Phật giáo đương thời trong các hoạt động của triều đình, trước yêu cầu của thực tế quản lý, bảo vệ đất nước, Phật giáo vẫn tiếp tục được trọng dụng, đội ngũ trí thức tăng lữ, thậm chí, còn có phần hậu đãi hơn nhà Đinh trước đó, bằng chứng là vai trò của một số vị đại sư rất được đề cao trong triều, họ là những “cố vấn cao cấp” cho Lê Hoàn trong việc giải quyết các vấn đề quân sự, đối ngoại . . .
Giữa các nhân vật tiêu biểu của giới trí thức tăng lữ tham chính thời kỳ này, nổi lên vai trò của thiền sư Vạn Hạnh. Đối với triều đình của Lê Hoàn, Vạn Hạnh là vị cố vấn giúp vua hoàn thành được quyết tâm bảo vệ đất nước trước nạn ngoại xâm, mở rộng ảnh hưởng xuống phía nam. Đối với Lý Công Uẩn và vương triều Lý, Vạn Hạnh chẳng những có công rèn đúc ý chí, đào tạo nhân cách cho vị vua sáng nghiệp mà còn giúp Lý Công Uẩn hội tụ đầy đủ các điều kiện để làm cuộc đổi ngôi, thay thế một triều đại đã suy vi.
Đại Cồ Việt trong những năm cuối thế kỷ X, đầu thế kỷ XI dù có rất nhiều những biến động chính trị, nhưng nếu bỏ qua một bên những biến động đó thì thấy rằng thay thế triều Tiền Lê, sáng nghiệp triều Lý, Lý Công Uẩn đã thừa hưởng được của triều đại trước rất nhiều những thành quả quan trọng - trong đó có công lao rất lớn thuộc về Lê Hoàn - thành quả đấy là một quốc gia thống nhất về lãnh thổ, là nền độc lập của dân tộc được bảo vệ vững chắc sau hai chiến công oanh hệt chống Nam Hán và chống Tống, là truyền thống văn hoá lâu đời của dân tộc hơn lúc nào đang hội tụ đầy đủ các điều kiện để phục hồi và phát triển.., điều đó đặt ra cho triều Lý rất nhiều cơ hội và cũng là những thách thức to lớn, mà trước hết, cho vị vua sáng nghiệp triều Lý.
Phần 4
HOÀN, NHÀ TIỀN LÊ VÀ BỐI CẢNH ĐỊNH ĐÔ THĂNG LONG VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH LỊCH SỬ ĐÔNG Á THẾ KỶ X Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
TS. Nguyễn Văn Kim
Khoa Lịch sử, Trường Đại học KHXH&NV. Đại học Quốc gia Hà Nội
1. Ý thức dân tộc và hành trình giành độc lập dân tộc.
Trong tiến trình phát triển lịch sử, văn hoá lâu dài của các dân tộc trên thế giới thực ra mỗi giai đoạn hoặc thời đại lịch sử đều chứa đựng trong đó những ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, do những vận động nội tại cũng như tác động của những nhân tố ngoại sinh mà nhiều quốc gia đã diễn ra những chuyển biến xã hội hết sức sâu sắc và căn bản để rồi chỉ trong một khoảng thời gian tương đối ngắn đã đạt đến một trình độ và dạng thức phát triển mới, cao hơn.
Đối với lịch sử Việt Nam “thế kỷ X đánh dấu một chuyển biến lớn lao về nhiều mặt có ý nghĩa như một bước ngoặt trong lịch sử dân tộc. Tất cả những chuyển biến đó đều xoay quanh một trục trung tâm là chống Bắc thuộc giành độc lập dân tộc, chấm dứt hoạ mất nước kéo dài hơn nghìn năm và mở ra một thời kỳ phát triển độc lập của đất nước” (2) .
_______________________
(1) Thiền uyển tập anh. sđd, tr. 192.
(2) Phan Huy Lê: Về tính chất của nhà nước Khúc - Dương - Ngô - Đinh - Tiền; trong Tìm về cội nguồn, Nxb Thế Giới, Tập 1I, 1999. tr.17
Thế kỷ X ghi dấu trong lịch sử Việt Nam là thế kỷ của những cuộc đấu tranh liên tục và vô cùng anh dũng của dân tộc ta nhằm quyết tâm giành lại nền độc lập. Trong những thời điểm trọng đại của thế kỷ bản lề đó, tổ tiên ta không những đã giành được độc lập sau hơn mười thế kỷ chịu ách nô lệ mà hơn thế, còn đã bảo vệ thành công chủ quyền đất nước đồng thời từng bước xây dựng và củng cố chính quyền với vị thế của một dân tộc tự cường.
Trong những bước đi đầu tiên sau ngày độc lập, các bậc tiền nhân vừa chủ Trường một lối ứng xử mềm dẻo, khoan hoà vừa sẵn sàng tạo nên những kháng lực cần thiết trước áp chế mạnh mẽ, liên tục từ phương Bắc. Tinh thần và võ công oanh liệt đó gắn liền với tên tuổi của họ Khúc (905-917), họ Dương (931-937) và các triều Ngô (939-965), Đinh (968-980), Tiền Lê (980-l009).
Nhìn nhận lịch sử dân tộc như một dòng chảy để thấy tính phát triển liên tục của nó là yêu cầu cần thiết trong nghiên cứu nhưng ngay một dòng chảy được coi là thuần khiết nhất vẫn và bao giờ cũng là sự kết tụ của nhiều mạch nguồn văn hoá khác nhau (1).
Do vậy, việc đưa ra những lát cắt về thời gian sẽ tạo thêm cho chúng ta cơ hội nhìn nhận, chiêm nghiệm về lịch sử dân tộc một cách sâu hơn, rộng hơn và khách quan hơn trong mối tương quan với môi trường chính trị, văn hoá khu vực. Với ý nghĩa đó, là một dòng chảy mạnh mẽ, đầy sinh lực của văn minh Đông á, lịch sử - văn hoá Việt Nam, một quốc gia nằm ở vị thế hội giao giữa hai khu vực Đông Bắc á (Thế giới Trung Hoa) và một quần tụ các dân tộc Đông Nam á (Thế giới Đông Nam á), đã luôn chia sẻ và chịu tác động sâu sắc của môi trường xã hội, chính trị khu vực trên cả phổ rộng và chiều sâu lịch sử. (2)
Chúng ta đều biết, năm 907 với việc Chu Toàn Chung phế truất Đường Ai Đế rồi tự xưng là hoàng đế, nhà Đường (618-907), một trong những thời đại cường thịnh nhất của lịch sử Trung Hoa đã chấm dứt 289 năm nắm giữ quyền lực của mình.
Trong gần ba thế kỷ, bên cạnh việc sản sinh ra nhiều di sản văn hoá rực rỡ, nhà Đường còn được coi là một đế chế mạnh có ảnh hưởng rộng lớn với bên ngoài. Sự hình thành hai Con đường tơ lụa trên đất liền và trên biển trong thời đại này cũng góp thêm minh chứng cho thấy tầm nhìn của Trường An và mức độ ảnh hưởng của một trung tâm kinh tế luôn được coi là giàu tiềm năng nhất của châu á.
Do vậy, sự kiện năm 907 không chỉ là sự chấm dứt của một triều đại lớn trong lịch sử Trung Quốc mà còn là sự đứt gãy và đổ vỡ của cả một hệ thống được dày công kiến lập của đế chế Trung Hoa với các quốc gia vốn vẫn chịu sự nô dịch, quản chế bởi phương Bắc.
Điều đáng chú ý là, sau khi nhà Đường để mất quyền lực chính trị trung tâm ở Trung Quốc, trong vòng hơn nửa thế kỷ (907-960), không có một lực lượng chính trị hay triều đại nào có thể vươn lên giữ tầm thế của một triều đại lớn. Trong giai đoạn chuyển giao quyền lực từ nhà Đường sang nhà Tống (960- 1279), lịch sử Trung Hoa trải qua một thời kỳ phân liệt mạnh mẽ mà nhiều nhà nghiên cứu vẫn gọi đó là “Thời Ngũ đại - Thập quốc” với các triều: Hậu Lương (907-923), Hậu Đường (923-936), Hậu Tấn (936-947), Hậu Hán (947-950) và Hậu Chu (951 -960).
____________________
(1) Về luận điểm này GS. Trần Quốc Vượng từng viết: “Thời đại Hùng Vương là một tổng hợp lớn dầu tiên của lịch sử nước nhà. trôi khó dòng thừa nhận rằng, văn hoá Đông Sơn và nên văn minh Việt cổ chỉ là sự kế tục nâng cao và mở rộng của độc một dòng chảy Phùng Nguyên - Đồng Đậu - Gò Mun từ đầu thời đại đồng đến đầu thời đại sắt. Tiến hoá lịch sử không bao giờ và không ở đâu là một tiến hoá đơn tuyến. Tôi nhận ra ở Đông Sơn đủ mọi tinh tuý của các cộng đồng tộc người đã làm nên một Đông Nam á đặc thù”. Xem Trần Quốc Vượng: Theo dòng lịch sử - Những Vùng đất, Thần và Tâm thức người Việt, Nxb Văn Hoá, HN. 1996, tr.11
(2) Khái niệm “thế giới” ở đây được sử dụng nhằm để chỉ một không gian địa - kinh tê. địa - văn hoá trong đó các quốc gia khu vực cùng nhau chia sẻ những giá trị chung như: nền tảng kinh tế, thiết chế chính trị, tôn giáo...
Như vậy, so với nhà Đường và những triều đại trước đó, các triều đại thời Ngũ đại - Thập quốc đều tương đối yếu và khoảng thời gian tồn tại của mỗi triều đại khá ngắn. Tính trung bình, mỗi triều đại chỉ giữ được vương quyền trên một thập kỷ. Khoảng thời gian đó, không đủ để các triều đại này xây dựng một chính quyền mạnh duy trì địa vị thống trị và ổn định xã hội trong nước cũng như thực hiện một chính sách bành trướng mạnh mẽ ra bên ngoài (1).
Trong bối cảnh đó, với tinh thần dân tộc không ngừng được hun đúc qua các cuộc đấu tranh chống ách nô dịch của phương Bắc, nhận thấy triều chính nhà Đường đã suy vi; nắm bắt thời cơ thuận lợi, dân tộc ta đã đứng lên giành lại nền độc lập.
Trận chiến thắng trên sông Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo năm 938 trước quân Nam Hán, đã tạo nên một “Truyền thống Bạch Đằng” với ý thức dân lộc sâu sắc. Thắng lợi đó đã khẳng định niềm tin của dân tộc ta về khả đăng chúng ta có thể và hoàn toàn có đủ sức mạnh ý chí để giành và bảo vệ được nền độc lập dân tộc.
Đúng như nhà sử học thời Lê Trung hưng là Ngô Thì Sỹ (1726 - 1780) nhận xét: “Trận thắng trên sông Bạch Đằng là cơ sở cho việc khôi phục quốc thống. Những chiến công đời Đinh, Lê, Lý, Trần sau này còn nhờ vào uy danh lẫm liệt ấy để lại. Trận Bạch Đằng là vũ công cao cả, vang dội đến nghìn thu, há phải chỉ lẫy lừng một thời bấy giờ mà thôi đâu”. (2).
Mười thế kỷ sau nhìn lại, trong công trình nghiên cứu nổi tiếng “Sự sinh thành của Việt Nam” (The Birth of Vietnam), nhà sử học Mỹ Keith Wener Taylor cũng cho rằng: trận đánh trên sông Bạch Đằng đã diễn ra vào mùa thu năm 938. Trong tâm thức của người Việt đó chính là sự kiện trọng đại trên con đường vươn tới giành độc lập dân tộc. Trận đánh đã tác động mạnh mẽ đến nhân dân thời đại đó đồng thời là động lực trực tiếp để đi đến việc xoá bỏ mô thức thống trị của nhà Đường và khẳng định sự hiện diện của vị vua Việt Nam cầu tiên vào thế kỷ X” (3).
Từ cái nhìn tương quan với lịch sử khu vực, chiến thắng Bạch Đằng còn thể hiện sự mẫn cảm chính trị của cha ông ta trước những biến thiên của môi trường xã hội, chính trị khu vực. Sau hơn một thiên niên kỷ bị nô dịch trực tiếp, bị biến thành quận, huyện của đế chế phương Bắc nhưng ý chí giành độc lập dân tộc vẫn được duy tồn, nung nấu trong mỗi con người và làng quê Việt. Ở đó nhiều tầng lớp xã hội cùng chung sống, cùng chia sẻ thế giới tâm linh, những giá trị cộng đồng và nuôi dưỡng ý thức về cội nguồn dân tộc với huyền thoại Mẹ và tình cảm Đồng bào cùng sinh ra từ bọc trăm trứng.
Như vậy, từ rất lâu, trong lịch sử Việt Nam, các cộng đồng làng đã tồn tại song song cùng với cộng đồng siêu làng. “Sở dĩ các thành viên làng xã ngoài ý thức cộng đồng làng, có được ý thức cộng đồng dân tộc là vì cùng với làng, từ lâu đời, đã có sự tồn tại của cộng đồng siêu làng mà người ta có thể cảm nhận được qua những mối liên hệ làng và siêu làng” (4). Do vậy, “khi cộng đồng tộc người đã tiến đến trình độ dân tộc thì cộng đồng siêu làng lớn nhất là nước, là dân tộc” (5).
Nhân đây, cũng phải nói thêm rằng, có một số nhà nghiên cứu quốc tế đã từng đưa ra ý kiến là: “Sở dĩ Việt Nam giành được độc lập thế kỷ X vì từ thế VII, nhà Đường đã khai mở được con đường tơ lụa trên biển. Do vậy, tuyến đường bộ tiến xuống Đông Nam á chạy qua lãnh thổ Việt Nam không còn thật cần thiết nữa”?
_______________________
(1) Nguyền Văn Kim: vương triều Lê trong bồi cảnh lịch sử, chính trị khu vực Đông Bắc á thế kỷ XI - XIII trong Nhật Bản với chân á – Những mối liên hệ lịch sử và chuyển biến kinh tế - xã hội Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2003
(2) Ngô Thời Sỹ : Việt sử tiêu án. Nxb Thanh Niên. 2001 . tr.90
(3) Keith Wener Taylor: The Birth of VietNam, university of California Press. 1983. p.269
(4) & (5) Hà Văn Tấn: Làng, liên làng và siêu làng (Mấy suy nghĩ về phương pháp) trong: Khoa Lịch sử. Trường ĐH KHXH & NV: một chặng đường nghiên cứu lịch sử (1995-2000), Nxb Chính trị Quốc gia. 2000. tr.54 và 53
Thực ra, trong nhận thức của các triều đại phong kiến phương Bắc, Việt Nam không chỉ nằm trên tuyến giao thương trọng yếu mà còn là cửa ngõ, giữ vị thế địa chiến lược ở Đông Nam á. Đây cũng là một vùng đất giàu tiềm năng, có thể khai thác nhân lực và nguồn tài nguyên phong phú từ một vùng sinh thái phổ tạp, nhiệt đới, gió mùa để vừa bổ sung vừa bù lấp cho những thiếu hụt của trung tâm kinh tế vùng ôn đới Hoa Hạ.
Điều đó lý giải vì sao ngay cả khi tuyến hải thương khu vực không ngừng được mở rộng và hoàn thiện thì các hoàng đế Trung Hoa cũng chưa bao giờ từ bỏ mưu đồ xâm lược vùng đất phương Nam. Thực tế lịch sử cho thấy, 43 năm sau thất bại của quân Nam Hán và đúng hai thập kỷ sau khi thiết lập, củng cố được quyền lực, nhà Tống lại sang xâm lược nước ta.
Để chuẩn bị tiến quân xuống phía nam, năm 980 Tống Thái Tông (976-998) đã ra một tờ chiếu thư sai Lư Đa Tốn. đưa sang đe doạ: “Nay ta đang chỉnh đốn xe cộ quân lính, truyền hiệu lệnh chiêng trống. Nếu chịu theo giáo hoá thì ta sẽ tha tội cho, nếu trái lệnh ta sẽ sai quân đánh. Theo hay chống, lành hay dữ, tự ngươi xét lấy” (1).
Trước hoạ xâm lăng của một đế chế lớn, quân dân Đại Cồ Việt đã kiên quyết đứng lên bảo vệ độc lập dân tộc và một lần nữa lại giành được thắng lợi. Trong điều kiện nền độc lập mới được khôi phục, chính quyền Tiền Lê phải luôn đối chọi với nhiều vấn đề chính trị - xã hội trong nước, lại chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc tổ chức chiến tranh vệ quốc trên quy mô lớn nhưng kế thừa nghệ thuật quân sự của người xưa, dưới sự lãnh đạo tài giỏi của Thập đạo tướng quân Lê Hoàn (941 - 1005 ), lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam , quân và dân ta đã đập tan cuộc xâm lược của một đội quân chính quy do chính quyền trung ương, một đêl chêm hùng mạnh tiến hành. Thắng lợi đó càng củng cố khối đại đoàn kết toàn dân và khẳng định bản lĩnh của một dân tộc trước những thách đố khắc nghiệt của lịch sử. “Thắng lợi đó đã đem lại cho Việt Nam gần một thế kỷ thoát khỏi áp lực từ phương Bắc. Trong khoảng thời gian đó, những nền tảng của một chính thể đã được thiết lập đồng thời tạo nên những cơ sở cho nền độc lập của Việt Nam được duy trì cho đến thế kỷ XIV” (2).
Là những thành viên gắn bó mật thiết của xã hội Đông Bắc á, trước những biến đổi của Trường An, lịch sử Triều Tiên, Nhật Bản cũng diễn ra những chuyển biến sâu sắc. Trải qua thời gian, mặc dù .cả hai nước đều đã tiếp nhận nhiều ảnh hưởng lớn của văn minh Trung Hoa nhưng những tác động của yếu tố văn hoá ngoại sinh không những không làm triệt tiêu tinh thần dân tộc mà ngược lại càng nuôi dưỡng ý thức về một quốc gia có chủ quyền.
Tư tưởng Phật giáo dù đã thấm đượm trong văn hoá Triều Tiên và Nhật Bản từ thế kỷ VI nhưng dường như càng thấm sâu vào tư tưởng của nhiều tầng lớp xã hội bao nhiêu nó càng nuôi dưỡng và thúc đẩy sự phát triển hoàn thiện hệ thống luận lý của Sa1aman và Shinto, với tư cách là những tôn giáo bản địa, điểm tựa của tâm hồn và sự cố kết dân tộc.
Trong bối cảnh đó, sự suy thoái của nhà Đường là một trong những tác nhân dẫn đến tình trạng sa sút thế lực của vương quốc Shina (668-891). Nhân cơ hội thuận lợi, năm 918, Wang Kon (918-943 ), một quý tộc nhỏ vùng Kaesong, đã lập nên một triều đại lớn, triều Koryo (Triều Tiên) tồn tại từ năm 918 đến 1392.
Cuộc đấu tranh chính. trị và quân sự hết sức quyết liệt của Wang Kon nhằm tiêu diệt các thế lực chính trị đối lập đặc biệt là giới quý tộc Shina, một vương quốc luôn có mối liên hệ chặt chẽ và được sự hậu thuẫn mạnh mẽ của nhà Đường. và Paekche đã diễn ra trong bối cảnh không có sự can thiệp của bên ngoài. Thắng lợi chính trị đó đã mở ra một thời kỳ phát triển thịnh trị, thống nhất của triều Koryo kéo dài 474 năm trong lịch sử bán đảo này.
____________________
(1) Đại Việt sử ký toàn thư (Toàn thư). Nxb Khoa học xã hội. 1993. Tập 1. tr. 219
(2) Keith Wener Taylor: The Birth of Vietnam. University of Califomia Press. 1983. p.296
Đối với Nhật Bản, thế kỷ IX - X cũng đánh dấu những chuyển biến lớn về kinh tế - xã hội. Chế độ ban điền mà chính quyền trung ương chủ trương áp dụng từ sau Cải cách Taika (Đại Hoá 646-649) ngày càng bị vô hiệu hoá trong khi đó thì mô hình kinh tế trang viên (hoen) lại có khuynh hướng phát triển mạnh mẽ.
Tại các địa phương, thế lực của nhiều Võ sĩ đoàn (Bisnidan) dần lớn mạnh. Nhân khi nhà Đường sụp đổ, sau khoảng ba thế kỷ mở cửa tiếp nhận văn minh Trung Hoa, Nhật Bản cũng đã tự hạn chế quan hệ với Trung Quốc, tái tạo những di sản đã tiếp thu được và củng cố nền văn hoá bản địa của mình.
Như vậy là, vào thế kỷ X, bảng những mức độ và cách thức khác nhau, cả ba quốc gia trong khu vực Đông Bắc á đã thoát khỏi sự cương toả của Trung Hoa và mau chóng xây dựng cho mình một nhà nước độc lập.
2. Sự lựa chọn một mô hình phát triển
Sau khi giành được độc lập, một vấn đề lớn đồng thời cũng là một thách thức đặt ra đối với dân tộc ta lúc đó là sự lựa chọn mô hình phát triển phù hợp. Mặc dù các nguồn sử liệu trong và ngoài nước viết về vấn đề này rất khái lược nhưng qua đó cũng có thể giúp cho chúng ta hình dung về những biến chuyển căn bản trong nhận thức và con đường phát triển của dân tộc.
Trong vòng một thế kỷ, mô hình kiến lập Nhà nước đã chuyển dần từ thiết chế thời Đường sang thiết chế Tống. Sự lựa chọn đó càng được thể hiện rõ qua các triều đại Lý, Trần và Lê Sơ, tức là từ chỗ coi Phật giáo là nền tảng tư tưởng căn bản sang mô hình Nho giáo, với trọng tâm là học thuyết Trình - Chu mà hạt nhân là Lý học. Thiết chế đó tỏ ra mạnh mẽ hơn, tập quyền cao hơn và tương đối phù hợp với xu thế phát triển đất nước cùng tâm thế của các chính thể quân chủ thời bấy giờ. (1)
Điều có thể thấy được là, tổ chức nhà nước từ họ Khúc đến Tiền Lê còn nhiều sư giản trên cả hai phương diện là thiết chế chính trị và tư tưởng. Chúng ta có thể lý giải về sự sư giản đó trong thiết chế Nhà nước thế kỷ X từ nhiều tác nhân xã hội và lịch sử. Nhưng chỉ xét riêng về nguồn gốc xuất thân cũng thấy, cùng với một số người đứng đầu các dòng họ lớn có thế lực như Khúc Thừa Dụ, Dương Đình Nghệ và Ngô Quyền “người Đường Lâm, đời đời là nhà quý tộc” (2) thì một số nhân vật được đưa lên ngọn trào dân tộc thời bấy giờ đã được sinh ra từ tầng lớp bình dân.
Không là hiện tượng ngoại biệt so với các dân tộc phương Đông khác, lịch sử luôn được huyền thoại hoá. Những sắc màu tâm linh huyền thoại đó không chỉ góp phần đem lại cho các thủ lĩnh chính trị sức mạnh trên con đuung vuun tưi quyền lực mà còn cả trong việc thực thi quyền lực và bảo vệ vương quyền.
Bên cạnh đó, về phương diện tư tưởng, trải qua hơn mười thế kỷ, Nho - Phật - Đạo đã sớm thâm nhập vào Việt Nam nhưng đều chưa hội đủ những điều kiện cần thiết để có thể khắc hoạ những dấu ấn sâu đậm với tư cách là một bệ đỡ về văn hoá và nền tảng cho việc xây dựng một đường lối trị quốc.
Sự hoà trộn của tam giáo với vai trò ngày càng nổi trội của Phật giáo từ thế kỷ X không chỉ là sự lựa chọn chính thức, đầu tiên của lịch sử dân tộc mà còn thể hiện thế đi lên của một chính thể tự cường đang kiếm tìm và muốn dựa vào đức khoan dung cùng chiều sâu triết luận trong hệ thống giáo lý Phật giáo.
___________________
(1) Yu Insun: Luật và xã hội Việt Nam thế kỷ XII - XIII, Nxb Khoa học xã hội, HN.1994. Trong công trình này tác giả đã có những khảo cứu cụ thể và sâu sắc về tư tưởng biên soạn luật pháp qua các triều đại trong lịch sử Việt Nam: tính kế thừa và sáng tạo từ luật pháp Trung Hoa nhằm hướng đến sự thích ứng và vận dụng phù hợp với hoàn cảnh xã hội Việt Nam của các nhà soạn luật.
(2) Toàn thư. Sđd, tr.204: 204, 205 . 211 và 234
Như vậy, khi nói về thời đại văn hoá Lý - Trần với sự toả rạng của Văn hoá Phật giáo thì cũng không nên quên rằng ngay từ thế kỷ X, giữa tư tưởng trị quốc bao trùm và sự thiết lập một thiết chế chính trị mới cùng sự vận hành của nó đã có sự kết hợp, xen cài của những định chế Nho giáo.
Trên phương diện đối ngoại. trong bối cảnh lịch sử Đông á thời bấy giờ, mặc dù các triều đại phong kiến phương Bắc cũng luôn trải qua nhiều bước thịnh suy nhưng các quốc gia trong khu vực và ngay cả những nước xa xôi, bằng nhiều cách khác nhau cũng đã duy trì mối quan hệ với Trung Quốc.
Mục tiêu hướng đến việc thiết lập các mối quan hệ đó thật đa dạng. Nhưng, cũng có thể thấy sự thừa nhận hay sách phong của chính quyền phương Bắc không chỉ là sự công nhận chính thức về phương diện ngoại giao mà qua đó vị thế mà người nhận sách phong đạt được cũng là nhân tố có ý nghĩa cho việc củng cố địa vị chính trị trong nước và thực thi các mối bang giao quốc tế.
Vào đầu thế kỷ X, họ Khúc, họ Dương vẫn giữ chức Tiết độ sứ, tức chức quan đứng đầu “An Nam đô hộ phủ” thời Đường. Có thể coi đó là một thế ứng đối linh hoạt, khôn khéo trước một áp lực chính trị lớn nhưng cũng có thể cho rằng các nhà yêu nước họ Khúc cũng như Dương Đình Nghệ đều chưa thể vươn tới một khả năng tổ chức thiết chế Nhà nước với một khuôn mẫu khác và có trình độ cao hơn.
Sau khi giành được quyền lực. Ngô Quyền xưng vương “đặt trăm quan, chế định triều nghi, phẩm phục” (1). Thiết chế chính trị đó, theo nhận xét của Ngô Sỹ Liên “có thể thấy được quy mô của đế vương” (2). Đến thời Đinh, Đinh Bộ Lĩnh đã xưng Đế và “đặt quốc hiệu là Đại Cồ Việt, dời kinh ấp về Hoa Lư, bắt đầu dựng đô mới, đắp thành đào hào xây cung điện, đặt triều nghi” (3).
Khi quyết định dời Đại La về Hoa Lư, chắc hẳn Đinh Tiên Hoàng không chỉ muốn dựa vào địa thế hiểm yếu của vùng núi Ninh Bình, tìm sự hậu thuẫn của quê hương, họ tộc mà còn vì muốn thoát khỏi những liên kết, ràng buộc của thể chế Trung Hoa vẫn còn nhiều ảnh hưởng ở trung tâm châu thổ lớn để chuyên tâm chuẩn bị những bước đi mới căn bản cho sự chấn hưng dân tộc.
Như vậy, việc trở về xây dựng kinh đô ở Hoa Lư của vua Đinh không phải là sự quay trở lại với Chủ nghĩa địa phương mà chính là nhằm hướng tới một tầm nhìn rộng lớn hơn của Chủ nghĩa dân tộc mạnh mẽ. Song song với các quyết định trên. Đinh Tiên Hoàng cũng tiến thêm một bước định giai phẩm cho các quan văn võ và tăng đạo.
Đến cuối thế kỷ X. nhằm củng cố hơn nữa thể chế Nhà nước. triều Tiền Lê mô phỏng rõ nét hơn quan chế nhà Tống đồng thời đặt ra hệ thống hành chính bao gồm các cấp lộ, phủ, châuu, giáp - hương, và xã. Trong triều có các chức như Thái sư, Thái uý Tổng quản, Đô chỉ huy sứ... Sau khi Lê Hoàn mất, Lê Long Đĩnh lên ngôi cho “sửa đổi lại quan chế và triều phục của các quan văn võ và tăng đạo. theo đúng như nhà Tống”. (4)
Như vậy trải các đời Ngô, Đinh và Tiền Lê thiết chế chính trị của Nhà nước ngày càng được hoàn thiện. Điều đó chứng tỏ Đại Cồ Việt “là một quốc gia độc lập có Nhà nước riêng, quân đội riêng và làm chủ một giang sơn riêng” (5).
Nhưng, với tư tưởng Đại Hán, nhà Nam Hán và nhà Tống vẫn chỉ coi nước ta là an Nam đô hộ”, giao Chỉ quận” hay “An Nam quận”. Tương tự như vậy, triều Nam Hán chỉ phong cho Nam Tấn vương Ngô Xương Văn làm Tĩnh hải quân Tiết độ sứ kiêm Đô hộ”, nhà Tống phong cho Đinh Liễn là “Nam Việt vương”, Lê Hoàn là “An Nam đô hộ Tĩnh hải quân Tiết độ sứ kinh triệu quận hầu’ và Lê Long Đĩnh là “Giao Chỉ quận vương”.
___________________
(1), (2 ), (3) Toàn thư. Sđd. tr.204. 204. 205. 2 11 và 234
(4) Tòan thư. Sđd. tr.204. 204. 205, 2 11 và 234
(5) Phan Huy Lê : Về tính chất của nhà nước trong Tìm về cội nguồn. Sd. tr.2
Đó là một sự công nhận phi thực tế nhưng dù sao vẫn là sự công nhận trước tinh thần đấu tranh quật cường của một dân tộc ? Có thể coi đó là thành quả ngoại giao bước đầu của dân tộc ta để rồi sau một thời kỳ đấu tranh lâu dài, kiên quyết bảo vệ nền tự chủ, mãi đến năm 1164 tức thời Tống Hưng Long năm thứ hai, nhà Tống mới phong cho vua Lý Anh Tông (11 36- 1 1 75 ), vị vua thứ sáu của triều Lý, là “An Nam quốc vương” đồng thời đổi “Giao Chỉ quận” thành “An Nam quốc, (1)
Mặt khác, cũng phải thấy rằng, lừ năm 970, Đinh Tiên Hoàng đã chủ động sai sứ sang nhà Tống giao hảo. Đến thời Tiền Lê, ngay sau khi kháng Tống, bình Chiêm thắng lợi, mùa xuân năm 983, Lê Hoàn đã sai sứ sang thông hiếu và đã mau chóng bình thường hoá” quan hệ với Trung Quốc. Như vậy, trong 24 năm ở ngôi 980 - 1005), ông đã 9 lần sai sứ sang triều đình Tống. Cụ thể: Lần 1 : 983; 2: 985 (chỉ xin lĩnh chức Tiết trấn), 3: 986; 4: 991; 5: 994; 6: 995; 7: 996; 8: 997 và lần 9:1004.
Như vậy, trung bình cứ 2,6 năm (khoảng 31 tháng) triều Tiền Lê lại cử sứ sang Trung Quốc một lần. Ngược lại, cũng theo Toàn thư thì nhà Tống đã 10 lần cử sứ giả sang nước ta: Lần 1: 986; 2: 987; 3: 988; 4: 990; 5: 993; 6: 995; 7 & 8: 996; 9: 997 và lần thứ l0: 1003 (có thể chỉ đến biên giới để phủ dụ những người trốn sang Khâm Châu).
Việc hệ thống lại và phân tích nội dung những sự kiện lịch sử đó chắc chắn sẽ giúp cho chúng ta rút ra những kết luận khoa học thú vị về chính sách và sự ứng đối ngoại giao của cha ông ta trong lịch sử. Có thể nói, khởi đầu từ thời Đinh, đến triều Tiền Lê một truyền thống ngoại giao trên cơ sở giữ vững nguyên tắc tự chủ, chủ quyền đất nước nhưng cũng hết sức mềm dẻo, linh hoạt của dân tộc ta trước đế chế Trung Hoa đã được xác lập.
Để xây dựng một nhà nước tự chủ, những người đứng đầu chính quyền thời đó một mặt vừa kiên quyết bảo vệ nền độc lập về chính trị nhưng mặt khác cũng không chối từ những di sản quý báu của văn minh Trung Hoa trong đó có cả việc tiếp thu thiết chế hành chính để tăng thêm sức mạnh của chính mình.
Sự lựa chọn đó thể hiện rõ tầm suy nghĩ và bản lĩnh của dân tộc. Rõ ràng là, thiết chế hành chính thời Đường rồi thời Tống là những mô hình đã đạt đến trình độ tổ chức cao, được trải nghiệm, chọn lọc qua nhiều thế kỷ và đặc biệt là được điều hành, thực hiện bởi một đội ngũ quan lại có tri thức và kinh nghiệm quản lý.
Tuy nhiên, ngay cả cho đến thời Lý, khi thiết chế lục bộ đã được áp dụng thì những người đứng đầu thể chế thời bấy giờ cũng luôn biết vận dụng một cách sáng tạo khuôn mẫu bên ngoài một cách hoà hợp với điều kiện chính trị - xã hội Việt Nam.
Từ cái nhìn đối sánh với các quốc gia khu vực, chúng ta thấy một cơ chế hành chính gồm bát bộ dựa trên nền tảng của lục bộ theo mẫu hình Trung Quốc cũng đã được thiết lập ở Nhật Bản từ giữa thế kỷ thứ VII (2).
Và ở Triều Tiên, cũng phải đến thế kỷ X, sau khi Wang Kon (Taejo - Thái Tổ) lên ngôi, thiết chế nhà nước theo mô hình Trung Hoa mới từng bước được áp dụng ở Triều Tiên và phải đến thế kỷ XV thì cơ cấu lục bộ mới được thiết lập hoàn chỉnh và đảm đương những chức năng rõ rệt. (3)
___________________
(1) Đến thời Lý. nam 1016 nhà Tống vẫn chỉ phong cho Lý Thái Tổ (Công Uẩn) là Nam Bình vương”, cho Lý Nhân Tông là giao Chỉ quận vương”. Lý Thần Tông cũng là giao Chỉ quận vương”. Theo ghi chép của Toàn thư thì một số vua Lý không có sách phong.
(2) John Whitney Han: .Iapan froln Prehistor to Modern Tinles. Charles E. Tuttle Company Tokyo, 1992. p.51
(3) Carter J.Eckerl - Ki-baik Lee...: Korea - Old and New - A History chokak Publishers for Korea Institute. Han and University. 1990. p. 109- 115
Như vậy là, cho đến thế kỷ thứ X, giữa các quốc gia Đông Bắc á, do những điều kiện kinh tế - xã hội và chính trị riêng biệt mà sự tiếp nhận và ứng đối trước những ảnh hưởng của văn minh Trung Hoa của từng nước không hoàn toàn đồng nhất. Nhưng điều có thể thấy được là, nhân sự suy vi của Trung Quốc, các quốc gia trong khu vực đã mau chóng khẳng định ý thức độc lập của mình đồng thời tự chọn lựa và chủ động tiếp nhận những giá trị văn hoá chóng để cải biến những giá trị đó thành một bộ phận của di sản văn hoá dân tộc.
Điều đáng chú ý là, trong quá trình đi đến thiết lập một chính quyền trung ương tập quyền mạnh, những người đứng đầu nhà nước độc lập còn đồng thời phải giải trừ nạn cát cứ của các thế lực địa phương. ở một phương diện nào đó, có thể thấy, sự chiêu quân, dấy binh của các thế lực địa phương mà tiêu biểu là “Loạn 12 sứ quân” trong lịch sử Việt Nam thế kỷ X không chỉ là sự trỗi dậy của các thổ hào, hùng trưởng nhằm khẳng định sức mạnh của mình mà qua đó họ còn muốn tranh giành ảnh hưởng với thế lực chính trị trung tâm đang được kiến lập nhưng hãy còn chưa đủ mạnh, chưa có nhiều kinh nghiệm tổ chức và trở thành một thể chế Nhà nước thuần thục.
Tuy nhiên. trước những áp lực chính trị mạnh mẽ từ phương Bắc, khuynh hướng phân tán, cát cứ đã bị triệt tiêu để thay vào đó là một thiết chế chính trị tập quyền. Thiết chế đó là sự lựa chọn duy nhất đúng bởi nó có khả năng tập trung sức mạnh của toàn thể cộng đồng nhằm hướng tới mục tiêu chính trị cao nhất là bảo vệ độc lập dân tộc. Sự tồn tại của thiết chế chính trị tập quyền tự thân nó cũng sản sinh ra những nhu cầu quản lý và chính sách kinh tế - xã hội tương thích với tầm vóc của một thiết chế lớn.
Là một xã hội nông nghiệp, thiết chế chính trị dựa trên nền tảng kinh tế tiểu nông, việc điều hành xã hội vẫn còn “dựa theo tục dân” nên việc chăm lo phát triển kinh tế nông nghiệp, quản lý xã hội nông thôn luôn là mối quan tâm, ưu tiên hàng đầu của các chính quyền Ngô, Đinh, Tiền Lê. Từ những đặc tính lịch sử đó, có thế thấy Nhà nước Đại Cồ Việt thế kỷ X trước hết và chủ yếu không phải là sản phẩm của quá trình phân hoá xã hội và tăng trưởng kinh tế, là kết quả của quá trình đấu tranh giai cấp.
Nhà nước đó ra đời trong một hoàn cảnh lịch sử đặc biệt nhằm hợp tụ dân tộc chống ngoại xâm và gánh vác những trách nhiệm quản lý xã hội trước những yêu cầu cấp bách của lịch sử. Đó là mô hình Nhà nước chức nhăng, một đặc thù của thể chế chính trị phương Đông, có nhiều khác biệt so với con đường hình thành dân tộc và sự phát triển của Nhà nước thống trị đã xuất hiện ở phương Tây từ thời cổ trung đại.
Trong khi đó, do không phải đối chọi trực tiếp với nguy cơ xâm lược, thôn tính của đế chế trung Hoa, ở Nhật Bản cùng với quá trình vận động dân tộc, các thủ lĩnh, hào tộc địa phương ngày càng ý thức mạnh mẽ hơn về quyền lực chính trì, quân sự của mình. Cơ chế chính trị theo mẫu hình Trung Hoa mà Nhật Bản áp dụng từ giữa thế kỷ VII không bảo đảm những điều kiện cần thiết để có thể xây dựng nên một thiết chế tập quyền và giúp cho cơ chế tập quyền đó vận hành có hiệu quả.
Hệ quả là, các thế lực địa phương (kuni- no-miyatsuko) đã không ngừng lớn mạnh, lấn át thế lực chính trị trung ương và rồi đến năm 1185 dòng họ Minamoto đông thời là một Võ sĩ đoàn (Bushidan) mạnh nhất đã chính thức bước lên vũ đài chính trị ở Nhật Bản. Cũng từ đó, một cơ chế quyền lực ba cực gồm Thiên hoàng (Kyoto), dựa vào sức mạnh truyền thống và tôn giáo, đã tồn tại đồng thời với thiết chế Mạc phủ (Kamakura, Muromachi và Edo), dựa vào việc thâu tóm được quyền lực quân sự và chính trị.
Nhìn chung, Mạc phủ luôn ở thế đối trọng nhưng cũng luôn tìm sự liên kết, ủng hộ của các thủ lĩnh, hào tộc địa phương và từ cuối thế kỷ XV là các shomyo và daimyo. Dạng thức phát triển đó vừa mang những đặc tính của xã hội phương Đông vừa gần gũi với mô hình của chế độ phong kiến phân quyền phương Tây.
Trong lịch sử Triều Tiên, do cũng luôn bị sự can thiệp và áp chế trực tiếp của các triều đại phong kiến Trung Hoa nên vào cuối thế kỷ XII đầu thế kỷ XIII, mặc dù đã xuất hiện một khuynh hướng phân quyền, cát cứ nhưng cuối cùng đã không thể tồn tại và mau chóng bị thay thế bằng một thiết chế chính trị có mức độ tập quyền cao.
3. Đại Việt trong thế giới Đông Nam Á.
Bàn về tính đa dạng của các nền văn minh và văn hoá, nhà nghiên cứu văn hoá Christopher Dawson cho rằng: “Đằng sau mọi nền văn minh đều có một cách nhìn” (1).
Thực ra, với mỗi nền văn minh, từ một cái nhìn đồng đại cũng như lịch đại, thường có nhiều cách đánh giá khác nhau. Với ý nghĩa đó, khi nói đến những khái niệm như “Bành trướng”, “Cưỡng chiếm hay “Nô dịch văn hoá” v.v... với tâm thế của một dân tộc đã trải qua hơn mười thế kỷ sống dưới ách nô dịch của ngoại bang và luôn là mục tiêu xâm lược của nhiều triều đại phong kiến Trung Hoa, chúng ta thường có khuynh hướng luận suy về những hiểm họa từ phương Bắc.
Điều đó đúng nhưng thực tế lịch sử cũng cho thấy, những nền văn minh lớn, hình thành sớm và đạt trình độ phát triển cao bao giờ cũng có xu thế muốn khuếch trương tầm ảnh hưởng của mình. Điều có thể thấy được là, trong lịch sử châu âu, La Mã không chỉ là một thời đại văn minh huy hoàng mà còn là một đế chế lớn. Vào những thế kỷ trước sau Công nguyên, phạm vi ảnh hưởng của đế chế này đã vượt ra khỏi khu vực Địa Trung Hải rộng lớn.
Bên cạnh đó, Văn minh Ấn Độ ở tây - nam á, văn minh Ai Cập ở đông - Bắc châu Phi... cũng không phải là những trường hợp ngoại lệ mặc dù nhiều học giả vẫn cho rằng quá trình truyền bá văn hoá của các nền văn minh này đã diễn ra bằng những phương thức hoà bình (2). Tuy xuất hiện muộn và chậm hơn, hình thành trên một bán đảo sa mạc vùng Tây á, nhưng chỉ trong vòng một thế kỷ, vương quốc Trập cũng đã mau chóng trở thành một đế chế cường thịnh. Đồng hành với các đoàn chiến binh và thương nhân Hồi giáo, văn minh Trập đã lan toả đến nhiều vùng đất xa xôi (3).
Đối với Đông Nam á, sau một quá trình thâm nhập, trong cộng đồng khu vực đã thấy xuất hiện một số quốc gia Hồi giáo. Sự hiện diện của các quốc gia này vừa là sự thay thế vừa là sự kế thừa, đan cài lên những tiểu quốc Phật giáo, Hindu giáo đã sớm được thiết lập ở Đông Nam á từ những thế kỷ đầu sau Công nguyên.
Nhưng, xu thế hướng loại đó không chỉ là đặc tính nổi bật của những đế chế và trung tâm văn minh lớn. Từ rất sớm. cùng với những tiếp xúc văn hoá và giao lưu kinh tế tự nhiên. ở nhiều khu vực cũng đã dần hình thành một số trung tâm văn minh trung bình và nhỏ mà học giả người Anh Arnold Toybee gọi đó là “văn minh vệ tinh”. (4)
Do muốn khẳng định uy lực của một tộc người, do khát vọng mở rộng tầm ảnh hưởng văn hoá và đặc biệt là vì muốn chiếm đoạt những con đường giao thương giàu có, những châu thổ rộng lớn để mở rộng không gian sinh tồn . . . mà chủ nhân của các nền văn minh này cũng không ngừng thực hiện chủ trương mở rộng lãnh thổ và áp dụng các biện pháp chinh phục vũ trang.
_________________________
(1) Dẫn theo Arnold Toybee: Nghiên cứu về lịch sử - Một cách thức diễn giải. Nxb Thế Giới. 2002. tr.31
(2) Karashima Noburu : Hoạt động thương mại của Ấn Độ ở Đông Nam á thời cổ và trung đại. Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử. số 3, 1995
(3) Yơ Lacôxtơ: Những vấn đề địa - chính trị Hồi giáo, biển và châu Phi. Nxb Khoa học xã hội, HN. 1991
(4) Nhà nghiên cứu văn hoá nổi tiếng Amold Toybee cho rằng: Có một mối liên hệ gần gũi hơn nhiều giữa một bên là văn minh Trung Quốc với một bên là văn minh Triều Tiên. Nhật Bản và Việt Nam. Ba nền văn minh này mô phỏng vãn minh Trung Quốc, nhưng đã vay mượn văn minh Trung Quốc theo những con đường riêng biệt khá đặc trưng, khiến cho người ta có quyền coi chúng là những nền văn minh riêng biệt - thuộc vào một phân loại mà chúng ta có thể gọi là những “Văn minh vệ tinh” .Xem: Arnold Toybee: Nghiên cứu về lịch sử - Một cách thức diễn giải. Sđd. tr.61
Trên vùng đất Tây Nam Bộ Việt Nam, dựa trên tảng nền của văn hoá Óc Eo, từ thế kỷ III, vương quốc Phù Nam (TK I-VII) đã vươn lên trở thành một vương quốc biển, giữ vị thế của một Trung tâm liên thế giới (1). Vào thời thịnh trị, lãnh thổ và khu vực ảnh hưởng của vương quốc này về phía Bắc đến vùng trung lưu sông Mekong, phía nam giáp vịnh Thái Lan, phía đông giáp biển Đông còn phía tây giáp vịnh Bengan kéo dài xuống phía nam bán đảo Mã Lai (2).
Nằm ở phía Bắc lãnh thổ của Phù Nam, trên dải đất ngày nay là miền Trung và Nam Trung bộ Việt Nam, được thành lập khoảng năm 192 SCN (3), đến thế kỷ thứ V, Chăm pa cũng nổi lên thành một vương quốc biển, có mối giao lưu rộng rãi với nhiều quốc gia trong khu vực thông qua các hoạt động hải thương và khả năng khai thác môi trường kinh tế biển.
Điều chắc chắn là khi con đường tơ lụa hình thành, nối kết thị trường Trung Hoa với Ấn Độ. con đường này đã chảy qua các cảng biển và cảng đảo của vương quốc Chăm pa trong đó Cù Lao Chàm chiếm giữ một vị trí đặc biệt quan trọng. Nhưng Chăm pa còn là một quốc gia nông nghiệp vùng khô. Do chỉ có những đồng bằng nhỏ hẹp, vương quốc này cũng luôn nuôi khát vọng chiếm đoạt những châu thổ rộng lớn (4).
Sau khi nền thống trì của nhà Đường ở “An Nam” sụp đổ, nhận thấy sự xuất hiện của một “khoảng trống quyền lực” hiếm có, Chiêm Thành liền tổ chức nhiều cuộc tiến công “quấy nhiễu biên ải”. Nhưng, mưu toan đó bất thành (5) . Liên tiếp trong hai năm 981 và 982, Lê Hoàn không chỉ kháng Tống mà còn bình Chiêm thắng lợi, bảo vệ trọn vẹn bờ cõi phía nam của Tổ quốc (6).
Và cũng từ đây, trong tầm nhìn của nhà Tiền Lê và các triều đại Lý, Trần... cùng với khu vực châu thổ sông Hồng, vùng Thanh - Nghệ - Tĩnh với những địa danh cổ Ái Châu, Hoan Châu đã nổi lên thành một khu vực địa chiến lược hết sức quan trọng. (7)
______________________
(1) Sakurai Yumio: Thử phác họa cấu trúc lịch sử - địa khu vực Đông Nam á (Thông qua mối liên hệ giữa biển và lục địa). Tạp chí Nghiên cứu Đỏng Nam á. số 4. 1996.
(2) Jan M. Pluvier: Historical of South-East Asia. E.J. Brin. Leiden. 1995. p.4
(3) Georges Maspéro: Le Roannle de Champa (Vương quốc Chăm pa). Tư liệu Khoa Lịch sử. Trường ĐH KHXH & NV. ĐHQG HN, số LS-TL 0118. tr.15
(4) Trong tác phẩm Lịch sử Đông Nam á, nhà sử học người Anh D.G.E. Han viết: sau khi nhà Tấn sụp đổ vào thế kỷ V. người Chăm đã tiến hành một loạt các cuộc tiến công vào Bắc Kỳ khiến cho viên thủ hiến Trung Hoa buộc phải cầu cứu triều đình Trung Quốc. Năm 431, quân Trung Quốc tấn công nước Chăm pa bằng đường biển nhưng bị đẩy lùi”. Lịch sử Đông Nam . Nxb Chính trị Quốc gia. HN. 1997. tr.65. Đến năm 446. viên thứ sử Giao Châu thuộc nhà Tiền Tống là Đàn Hoà Chi đã đem quân đánh Lâm Ấp. thắng, cướp đoạt nhiều của cải, cướp phá kinh đô rồi rút về”. Xem Lương Ninh: Lịch sử Vương quốc Chămpa. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội. 2004. tr. 18. Theo D.G.E.Han thì trong trận này quân Trung Quốc đã cướp được một khối lượng vật chất trị giá 100.000 pao vàng nguyên chất.
(5) Theo G. Coedes thì năm 972 vua Chăm pa Paramesvaravannan lên ngôi. ông là người có quan hệ rất mật thiết với Trung Quốc. Chỉ trong các năm 972-979 Chăm pa đã cử ít nhất 7 sứ đoàn sang nhà Tống. “ông cũng là vị vua Chăm pa đầu tiên gặp những phiền toái trong quan hệ với Đại Cồ Việt - một vương quốc mới giành được độc lập”. Điều chắc chắn là Chăm pa hiểu rất rõ tình hình chính trị của nước ta lúc đó. Xem G. Coedes: The hidiamzed S’a’es ofsontheast Asia, University of Hawaii Press. Honolulu, 1968, p. 124.
(6) Về sự kiện này Toàn thư viết: “Vua thân đi đánh Chiêm Thành, thắng được. Trước đó vua sai Từ Mục, Ngô Tử Canh sang sứ Chiêm Thành, bị người Chiêm bắt giữ. Vua giận, sai đóng chiến thuyền, sửa binh khí, tự làm tướng đi đánh. chém Bê Mi Thuế tại trận. Chiêm Thành thua to. Bắt sống được quân sĩ của chúng nhiều vô kể, cùng là kỹ nữ trong cung trăm người và một nhà sư người Thiên Trúc, lấy các đồ quý đem về, thu được vàng bạc của báu kể hàng vạn; san phẳng thành trì. phá huỷ tông miếu, vừa một năm thì trở về kinh sư”. Toàn thư Sđd. Tập 1. tr.222. Theo việt sử lược thì: vua giận dữ, tự làm tướng đi dẹp Chiêm Thành chém được vua nó là Phi Mê Thuế. Toàn thư chép là Bê Mi Thuế. Xem: Trần Quốc Vượng (dịch): Việt sử lược. Nxb Văn Sử Địa. HN. 1960. tr.56.
(7) Năm 983, Lê Hoàn sai đào kênh từ núi Đồng Cổ (thuộc xã Đan Nê huyện Yên Đỉnh tỉnh Thanh Hoá) đến sông Bà Hoà (xã Đồng Hoà. huyện Tĩnh Gia, Thanh Hoá). Việt sử lược viết: xưa Vua đi đánh Chiêm Thành, qua núi Đồng Cổ đến Bà Hoà, thấy đường biển hiểm trở khó đi lại, sai người đào cừ. Do đó thuyền bè đi lại dễ dàng”. Việt sử lược. Sđd, tr.56. Đến năm 1003, Lê Hoàn lại sai vét kênh Đa Cái hay còn gọi là kênh Hương Cái nối kênh Sắt với sông Lam. Nghệ An. Năm 1009. ông tiếp tục cho đào sông ở Châu Ái. Thanh Hoá. Những con kênh và hệ thống sông đào này vừa là để phát triển kinh tế vừa nhằm tạo nên những tuyến giao thông huyết mạch, an toàn cho các hoạt động quân sự. quản lý hành chính.
Về sau, đây không chỉ là một hậu phương lớn của nhiều triều đại, địa bàn đứng chân của nhiều cuộc khởi nghĩa yêu nước mà đồng thời còn giữ vị thế phên giậu phía nam của quốc gia Đại Việt.
Ở phía tây của Phù Nam, từ thế kỷ VI-VII cũng đã nổi lên một quốc gia của người Khmer lấy việc khai thác lâm nghiệp và khai phá đồng bằng miền trung sông Mekong làm căn bản.
Từ thế kỷ VII, Chân Lạp đã mở rộng ảnh hưởng của mình ra một vùng rộng lớn ở tây - nam Đông Nam á lục địa. Dựa vào nền tảng kinh tế nông nghiệp, được dẫn dắt bởi hệ tư tưởng Phật giáo hoà trộn với những yếu tố Bà La Môn giáo và cả Hindu giáo... từ thế kỷ IX, văn minh Angkor đã toả sáng rực rỡ với hai viên ngọc quý là Angkor Vát và Angkor Thom, khắc hoạ sâu đậm sắc thái của văn hoá bản địa hoà trộn với những giá trị đặc thù của nghệ thuật kiến trúc, điêu khắc Ấn.
Ở vùng biển phương Nam, trên đảo Java và Sumatra, từ những thế kỷ đầu Công nguyên cũng đã dần hình thành một số tiểu quốc mà chủ nhân là người Mã Lai - đa đảo (Malayu - Polinesians). Vào thế kỷ VI, quá trình thống nhất các tiểu quốc đồng thời là các nhà nước sơ khai trên các đảo phương Nam diễn ra hết sức mạnh mẽ.
Hệ quả lớn nhất có thể thấy được là vào thế kỷ VIL-VIII, ở Java và Sumatra đã xuất hiện các vương quốc có nhiều ảnh hương với khu vực như Srivijaya, Sailendra. Cư dân Java nổi tiếng là những người đi biển giỏi, có kỹ thuật đóng thuyền đạt trình độ cao đồng thời cũng sớm thiết lập mối quan hệ với các quốc gia Đông Nam á lục địa. (1)
Họ cũng chính là những kiến trúc sư và nghệ nhân tài hoa xây dựng nên công trình kiến trúc tôn giáo Borobudur kỳ vĩ ở đồng bằng Ke du vào giữa thế kỷ VIII (2).
Phác dựng như vậy để thấy rõ, cho đến thế kỷ thứ X, do những hoàn cảnh và điều kiện lịch sử, xã hội khác biệt, ở Đông Nam á cũng đã sớm hình thành những nền văn hoá và một số vương quốc có tầm ảnh hưởng tương đối rộng lớn.
Mặc dù hệ thống kinh tế đối ngoại Trung Quốc và văn minh Trung Hoa cũng đã lan toả đến khu vực nhưng cho đến khoảng thế kỷ XIII, các nền văn hoá này vẫn chủ yếu tiếp nhận nhiều giá trị sâu đậm của văn minh khu vực Tây Nam á trong đó đặc biệt là tư tưởng, tôn giáo Ấn mà dòng chủ lưu là Phật giáo.
Các vương quốc đó đều có mối liên hệ mật thiết với khu vực kinh tế Tây Nam á trong đó đặc biệt là trung tâm Nam Ấn nơi có những thương cảng quốc tế nổi tiếng như Ankamedu. Trong khi đó. cho đến thế kỷ X. xét trên nhiều góc độ, do sự trấn áp liên tục của phương bắc, lịch sử Việt Nam đã diễn ra trong một bối cảnh hết sức đặc thù.
Những nhân tố kinh tế - xã hội như hoạt động kinh tế, thiết chế chính trị, văn hoá... đã không thể phát triển một cách tự nhiên. Do vậy, cho đến thế kỷ X. ảnh hưởng, của quốc gia Đại Cồ Việt đối với khu vực còn nhiều hạn chế. Dân tộc ta cũng chưa thể đóng góp cho văn hoá khu vực một hệ thống thuỷ nông quy mô lớn hay những công trình kiến trúc tôn giáo kỳ vĩ.
Điều mà cha ông ta để lại cho cháu con hậu thế là tinh thần và ý chí bất diệt về chủ quyền của một dân tộc. Trải qua hơn một thiên niên kỷ chịu ách nô lệ của ngoại xâm nhưng ý thức về nền độc lập dân tộc vẫn không ngừng được hun đúc, tôi rèn.
Sức sống văn hoá, bản sắc văn hoá được bảo tồn trong các làng quê, công xã nông thôn và sự huyền nhiệm” (3) về một thời đại lập quốc với các Vua Hùng và Nhà nước Văn Lang, Âu Lạc... đã đem lái sự trường sinh cho dân tộc.
Sức sống đó cùng với những chiến công vang dội của thế kỷ X đã mở ra cho đất nước ta một vận hội phát triển mới, tạo nên những động lực mạnh mẽ trong việc phục hưng văn hoá dân tộc. thúc đẩy những phát triển trội vượt hết sức mãnh liệt của các triều đại Lý, Trần, Lê đồng thời là nhân tố thiết yếu đưa dân lộc ta lên vị thế của một quốc gia cường thịnh ở Đông Nam á chỉ trong khoảng một thời gian tương đối ngắn sau đó.
___________________
(1) Nguồn tư liệu sớm nhất của nước ta viết về quan hệ với các quốc gia long khu vực là Đại Việt sử ký toàn thư. Năm 1149, thời vua Lý Anh Tông (11 36- 1175 ): “Mùa xuân. tháng 2. thuyền buôn ba nước Trào Oa, Lộ Lạc. Xiêm La vào Hải Đông, xin cư trú buôn bán, bèn cho lập trang ở nơi hải đảo, gọi là Vân Đồng để mua bán hàng hoá quý, dâng hiến sản vật địa phương”. Toàn như. Sđd. Tập 1. tr.317. Từ góc độ nghiên cứu lịch sử thương mại châu á, chúng tôi cho rằng nam 1149 không thể là lần đầu tiên thuyền buôn từ Đông Nam á trong đó có Java mới đến giao thương với Đại Việt.
(2) Kenneth R. Han: Marimte trade and State Development ín Early Southeast Asia. Uniersity of Hawaii press: 1985. p. 109
(3) Trần Quốc Vượng. Nhớ về Đất Tổ trong : Theo dòng lịch sử - Những vùng đất, Thần và Tâm thức người Việl. Sđd. tr.5.