Evangelina Villegas (Sinh năm 1924) MANG NIỀM VUI ĐẾN NHỮNG CÁNH ĐỒNG
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Hàng trăm triệu dân trên hành tinh đặc biệt là những người dân thuộc các nước đang phát triển ở các khu vực Nam Mỹ, Châu Á và châu Phi tồn tại được là nhờ cây ngô. Hàng triệu gia đình đã sử dụng hạt ngô như loại lương thực chính trong bữa ăn hàng ngày từ đời này qua đời khác. Nhiều triệu trẻ em ở độ tuổi cai sữa được nuôi dưỡng bằng các chế phẩm từ ngô hạt. Nhiều trang trại sử dụng hạt ngô để duy trì và phát triển đàn gia súc, gia cầm. Tuy có ưu điểm là loại lương thực rẻ, giàu calo và dễ chế biến các giống ngô được phát triển từ nửa đầu thế kỷ XX lại không có lượng protein cần thiết cho cơ thể. Chính vì vậy mà sức khoẻ của những người sử dụng hạt ngô làm thức ăn chủ yếu thường không được đảm bảo. Một giống ngô giàu hàm lượng protein là mơ ước của hàng triệu người dân và là điều trăn trở của nhiều nhà khoa học trên thế giới.
Năm 1962 các nhà khoa học tại trường đại học Purdue ở Mỹ nghiên cứu được giống ngô mới mang tên opeque 2 có hàm lượng protein cao hơn các giống ngô đã tồn tại từ trước đó, song giống ngô này không được cả nông dân lẫn người tiêu thụ hoan nghênh. Ngoài nhược điểm dễ bị nhiễm bệnh trong thời gian sinh trưởng và cho sản lượng thấp, giống ngô này còn có một nhược điểm khác là hạt mềm dễ bị mọt. Theo đuổi ưu điểm về chất lượng protein của loại ngô opeque 2, năm 1970 tiến sĩ Evangelina và đồng nghiệp của bà là tiến sĩ Surinder K. Vasal tại trung tâm phát triển lúa và ngô quốc tế ở Mexico đã bắt tay vào nghiên cứu giống ngô mới. Sử dụng các kĩ thuật phân tích hoá học và kĩ thuật gây giống thực vật họ đã tiến hành lai tạo các loại ngô với nhau, khi thì giữa các loại ngô cùng dòng, khi thì giữa các loại ngô khác dòng để xác định những cấu trúc gien có ưu thế hơn. Họ sử dụng gần như tất cả các mẫu ngô có trên thế giới và tiến hành lựa chọn hết sức tỉ mỉ và công phu. Họ làm việc với cường độ cao đến mức một năm họ tạo và phân tích tới 2500 mẫu lai. Trong khi tiến sĩ Evangelina tập trung nghiên cứu chất lượng protein thì đồng nghiệp của bà đảm trách phần gây giống. Công việc nghiên cứu kéo dài đến giữa những năm 80 cho tới khi họ cho ra đời giống ngô mang tên QPM (viết tắt của High-Quality Protein Meize- có nghĩa là giống ngô có hàm lượng protein cao).
QPM được đưa ra trồng ở Ghana và một số nước châu Phi từ đầu những năm 90. Trước năm 2000 ở Mexico đã có 300 000 hecta ngô QPM, ở Brazil có 50000 hecta. QPM cũng đã nhanh chóng có mặt trên các cánh đồng ở các nước Burkina Faso, Mali, Nam Phi, Ethiopia, và nhiều nước châu Á. Kết quả thực tế thu được từ những vụ ngô tại những vùng có điều kiện thổ nhưỡng và khí hậu khác nhau cho thấy giống ngô mới này luôn cho sản lượng cao hơn các giống ngô khác từ 10% trở lên, thêm vào đó lại có hạt chắc, vị ngon và đặc biệt là có hàm lượng protein cao hơn các giống ngô cũ từ 70 đến 100%. Cho đến nay giống ngô QPM đã có mặt ở hầu hết các nước đang phát triển trên thế giới với diện tích 9 triệu hecta.
Khó mà tính hết được lợi ích to lớn mà giống ngô QPM mang đến cho thế giới. Bên cạnh việc góp phần ổn định an ninh lương thực một cách hiệu quả, nó còn giúp giải quyết các vấn đề về dinh dưỡng cho người dân của thế giới thứ ba. Những người dân nghèo không có điều kiện sử dụng protein bằng các nguồn lương thực đắt tiền thì có thể sử dụng ngô QPM làm thức ăn hàng ngày để đảm bảo sức khoẻ. Vì có thể cung cấp 99% giá trị dinh dưỡng của sữa không kem, ngô QPM đã góp phần làm giảm tỉ lệ trẻ suy dinh dưỡng trên thế giới. Với giống ngô QPM tiến sĩ Evangelina và đồng nghiệp của bà đã đóng góp cho nền kinh tế của các nước đang phát triển hơn một tỉ đô la mỗi năm.
Giống ngô QPM đã khiến tên tuổi của Evangelina Villegas trở nên nổi tiếng trên thế giới. Sinh năm 1924 tại thành phố Mexico, thuộc Mexico, Evangelina đã từng theo học ngành hoá học và sinh học tại đại học Bách khoa Mexico. Vào những năm 50 bà bắt đầu sự nghiệp của một nhà nghiên cứu tại Viện dinh dưỡng quốc gia. Mặc dù hoàn thành chương trình đào tạo sau đại học ở các trường đại học danh tiếng của Mỹ, sau khi giành học vị tiến sĩ bà quyết định quay trở về quê hương Mexico của mình và tại trung tâm Nghiên cứu các giống lúa và ngô quốc tế bà đã cống hiến tất cả công sức và tài năng của mình để nghiên cứu các giống cây lương thực mới giúp cải thiện đời sống không chỉ cho người dân Mexico mà cho cả hành tinh.
Năm 2000, Evangelina cùng tiến sĩ Vasal đã vượt qua hơn 4000 ứng cử viên thuộc các nhóm nhà khoa học thuộc các viện nghiên cứu trên toàn thế giới giành Giải thưởng World Food Prize, giải thưởng của tổ chức lương thực thế giới. Được hỏi về việc giải quyết nạn đói trên thế giới trong hai thập kỉ tới, tiến sĩ Evangelina nói: “Chúng ta cần sản xuất ra nhiều loại lương thực giá rẻ, bởi mỗi ngày dân số thế giới lại tăng lên, sẽ nảy sinh nhiều vấn đề về dinh dưỡng hơn. Các nhà khoa học cần phải rút ngắn thời gian nghiên cứu hơn nữa”.
Những gì người phụ nữ Mexico này nói và làm đã khiến cả thế giới lạc quan hơn về tương lai phía trước.
MẸ CỦA CHÚNG TAá
Thưa toàn thế huynh đệ tỉ muội,xin nói rằng mẹ của chúng là vĩ đại nhất trong trái tim mỗi chúng ta,trừ phi bạn là con của một trong những người nói trên còn không thì họ chẳng thể vĩ đại bằng mẹ của chúng ta được........
MẸ ƠI XUÂN NÀY CON KHÔNG VỀ
(xin lỗi bạn nào đã lập topic,mong bạn thông cảm)
Adi Roche (Sinh năm 1955) XOA DỊU NHỮNG NỖI ĐAU
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vào những năm tám mươi của thế kỷ XX, Adi Roche là một tình nguyện viên tích cực cho chiến dịch tuyên truyền giải trừ vũ khí hạt nhân ở Ireland. Bà là người đã có sáng kiến đưa chương trình mang tên “Giáo dục Hoà bình” vào các trường học ở Ireland và đích thân bà đã đi đến nhiều trường học trực tiếp giảng dạy chương trình này. Công việc tuyên truyền giải trừ vũ khí hạt nhân của bà đã khiến bà có cơ hội hiểu biết sâu sắc về thảm hoạ Chernobyl.
Mọi người đều biết rằng vụ nổ lò phản ứng hạt nhân số 4 tại nhà máy điện nguyên tử Chernobyl xảy ra ngày 26 tháng Tư năm 1986 là một thảm hoạ khủng khiếp nhất do con người gây ra, nhưng không ai có thể biết được con số chính xác những nạn nhân của thảm hoạ này bởi vì sau hai mươi năm xảy ra thảm hoạ, người ta vẫn tiếp tục đưa ra những con số thống kê mới khiến chúng ta giật mình. Theo báo cáo của tổ chức Y tế thế giới WHO đưa ra vào năm 1998 thì số người bị nhiễm phóng xạ từ thảm hoạ này là 72 nghìn người, nhưng theo công bố của tổ chức Hoà bình xanh đưa ra vào năm 2005 thì số người mắc bệnh ung thư do thảm hoạ Chernobyl là không dưới 270 000 trường hợp. Càng sửng sốt hơn khi đầu năm 2006 Bộ Y tế Ukraina thông báo hơn 2,4 triệu người Ukraina trong đó có 480 nghìn trẻ em bị ảnh hưởng sức khoẻ do thảm hoạ Chernobyl.
Hơn ai hết trẻ em là những nạn nhân thiệt thòi nhất của thảm hoạ. Trên toàn châu Âu có tới mười nghìn trường hợp trẻ sinh ra đã bị dị dạng do các bà mẹ bị nhiễm phóng xạ từ Chernobyl khi mang thai. Các trường hợp ung thư tuyến giáp, ung thư máu và các rối loạn chức năng khác phổ biến ở trẻ bị nhiễm phóng xạ. Phải chịu đau đớn ngay từ khi chào đời, mỗi ngày với các em là một cuộc vật lộn đầy gam go để giành sự sống.
Adi Roche biết rằng thế giới không thể mang lại cho các em nhỏ ấy tương lai tươi đẹp như các em đáng được hưởng, nhưng bà biết mỗi người đều có thể làm gì đó để xoa dịu nỗi đau cho các em. Ý tưởng thành lập một dự án giúp đỡ trẻ em nạn nhân của Chernobyl đã đến với bà. Được thành lập vào năm 1991, dự án vì trẻ em nạn nhân Chernobyl của Adi Roche đã nỗ lực huy động các nguồn hỗ trợ để thực hiện các chương trình nhân đạo thiết thực. Dự án đã đưa 16 chương trình hỗ trợ nhân đạo trị giá hơn 50 triệu đô la tới các vùng chịu ảnh hưởng của thảm hoạ Chernobyl. Năm 1994 đoàn công tác nhân đạo của dự án đã trực tiếp đến các vùng bị nhiễm phóng xạ nặng nhất triển khai các chương trình cung cấp thuốc men, trang thiết bị y tế, trang bị kiến thức chăm sóc sức khoẻ cho gia đình các nạn nhân v.v… Năm 1995 chương trình “Phẫu thuật hy vọng” của dự án bắt đầu triển khai. Đoàn công tác nhân đạo của dự án đã tới các nước Belarus, Ukraine, Nga đưa hơn 12 000 em nhỏ ở các vùng bị nhiễm phóng xạ nặng tới Anh và Ireland. Các em được phẫu thuật miễn phí, được hưởng điều kiện y tế tiên tiến, được sống trong các trung tâm với điều kiện chăm sóc đặc biệt hoặc trong các gia đình người Ireland.
Song song với các hoạt động hỗ trợ nhân đạo khắc phục thảm hoạ, Adi Roche đã nỗ lực tuyên truyền để nâng cao nhận thức của thế giới về thảm hoạ Chernobyl. Bà tham gia nhiều diễn đàn quốc tế về thảm hoạ Chernobyl. Tại các diễn đàn đó những tài liệu do Adi Roche công bố và các kinh nghiệm hoạt động nhân tạo mà bà chia sẻ luôn thu hút được sự quan tâm đặc biệt của cử toạ. Bộ phim tài liệu đầu tiên bằng tiếng Anh về thảm hoạ Chernobyl mang tên “Sống với Chernobyl- gió đen, đất trắng” do Adi Roche tham gia thực hiện, được chiếu trên các đài truyền hình trên khắp thế giới, đã góp phần giúp các công dân sống trên hành tinh đặc biệt là những người đứng đầu các quốc gia có dịp chia sẻ sự cảm thông với các nạn nhân của thảm hoạ Chernobyl, đồng thời ý thức rõ hơn về tác động hai mặt của việc nghiên cứu và sử dụng năng lượng hạt nhân.
Adi Roche đã nhận được nhiều giải thưởng cao quý cho những hoạt động nhân đạo của bà. Ở quê hương Ireland của bà, Adi Roche được bầu là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất. Còn đối với người dân của những nước chịu ảnh hưởng nặng nề của thảm hoạ Chernobyl như Belarus và Ukraine, Adi Roche được coi như một công dân thực thụ của họ, một người anh hùng, một ân nhân.
Các nhà nghiên cứu cho biết phóng xạ rò rỉ từ nhà máy điện hạt nhân Chernobyl có thể ảnh hưởng đến môi trường và sức khoẻ của con người trong giai đoạn dài từ 20 đến 60 năm. Như vậy có nghĩa là với quyết tâm xoa dịu nỗi đau của những trẻ em là nạn nhân của Chernobyl, Adi Roche và những đồng sự của bà vẫn còn rất nhiều việc phải làm ở phía trước.
Anita Roddick (Sinh năm 1942) MẸ ĐẺ CỦA BODYSHOP
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Khi còn là một thiếu nữ, Anita Roddick đã tận dụng mọi cơ hội để đi đây đi đó. Năm 1962 bà rời quê hương Littlehampton, nước Anh của mình để đến Kibbutz, Israel theo một chương trình đào tạo sư phạm có học bổng. Ra trường bà nhận làm công việc xén báo cho tờ International Herald Tribune ở Paris, dạy học ở Anh một thời gian rồi tới Geneva làm cho tổ chức Liên hiệp quốc. Dường như bà miệt mài làm việc chỉ để dành dụm tiền cho những chuyến đi sau này. Bà đã tới Tahiti, New Hebrides, New Caledonia, Réunion, Madagascar, Mauritius, Australia, Johannesburg và Nam Phi. Đi tới đâu bà cũng ham tìm hiểu những phong tục tập quán, đời sống văn hoá của người dân bản địa. Bà cho rằng đi như thế chính là trường đại học tốt nhất; việc đến nơi này nơi kia không chỉ là sự di chuyển đơn thuần mà còn tạo ra những thay đổi, những thách thức, những ý tưởng và những cảm hứng mới.
Có lẽ những gì Anita cảm nhận bằng tai, mắt và trái tim về những miền đất đậm đà bản sắc riêng đã đọng lại trong con người bà, chờ đợi một ngày hình thành nên những ý tưởng giá trị. Năm 1976 trong khi chồng bà đang thực hiện một chuyến đi du lịch bằng ngựa xuyên châu Mĩ, Anita quyết định bắt đầu công việc kinh doanh. Với số vốn ban đầu 6.500 bảng Anh vay được nhờ thế chấp dãy nhà trọ gồm tám phòng của gia đình, người phụ nữ ba mươi tuổi đầy quyết đoán đã mở cửa hàng Body Shop đầu tiên của mình ở Brighton. Bà dùng những nguyên liệu tự nhiên, mà các phụ nữ dùng để làm đẹp trong những buổi nghi lễ ở những vùng bà từng đến thăm để tạo ra những loại mỹ phẩm cho da và tóc. Bà sử dụng những chai cực nhỏ bằng chất liệu có thể tiêu hủy với mục đích giảm giá thành sản phẩm và hạn chế tác hại đối với môi trường. Hầu hết các công việc từ pha chế cho đến đóng gói sản phẩm đều diễn ra ngay trong gara của cửa hàng. Bà tâm sự: “Tôi bắt đầu Body Shop đơn giản chỉ để kiếm chút thu nhập cho bản thân và hai đứa con trong khi chồng tôi đi xa. Tôi không được đào tạo về kinh doanh, cũng không có kinh nghiệm gì trong lĩnh vực này. Không ai nghĩ rằng cửa hàng của tôi sẽ trụ được”.
Những người nghi ngờ khả năng tồn tại của Body Shop không khỏi ngạc nhiên bởi nó không chỉ tồn tại mà còn phát triển rất nhanh. Ban đầu với mười lăm loại mỹ phẩm, Body Shop đã mau chóng thu hút được sự quan tâm của nữ giới trong thành phố. Chỉ sáu tháng sau, do nhu càu của khách hàng ngày càng tăng, một Body Shop thứ hai đã ra đời ở Chichester. Sau khi chồng của Anita từ Mĩ trở về hợp lực phát triển kinh doanh. Năm 1984 họ tuyên bố thành lập hãng mỹ phẩm Body Shop và nhanh chóng nhân rộng các chi nhánh trên khắp nước Anh. Đa số những người đứng đầu các chi nhánh ấy là phụ nữ.
Trên bước đường phát triển Body Shop. Anita và chồng bà đã tạo cho hãng một triết lý kinh doanh độc đáo. Họ tạo ra lợi nhuận với những nguyên tắc khắt khe. Trong chiến lược kinh doanh của họ không có những chiêu lợi dụng hay lừa phỉnh phụ nữ. Họ không hứa hẹn xóa bỏ dấu vết của tuổi tác trên những khuôn mặt, thay vì thế họ hướng khách hàng quan tâm tới mục tiêu tồn tại của doanh nghiệp. Đó là: (1) theo đuổi sự thay đổi về môi trường và xã hội; (2) tạo sự cân bằng giữa vấn đề tài chính và nhu cầu của những đối tượng tham gia, bao gồm từ nhân viên cho tới cổ đông; (3) đảm bảo rằng công việc sản xuất kinh doanh của Body Shop đáp ứng nhu cầu của hiện tại nhưng không gây hậu quả có hịa cho tương lai, đóng góp thiết thực cho địa phương, quốc gia và cộng đồng quốc tế. Ngay từ ngày đầu kinh doanh với một cửa hàng Body Shop duy nhất, Anita đã không bỏ tiền ra làm quảng cáo như các hãng mỹ phẩm khác. Sở dĩ như vậy là vì Anita cho rằng sản phẩm tốt tự nó tìm được khách hàng. Bà cho xức nước hoa dọc lối đi dẫn tới cửa hàng của mình để thu hút khách hàng. Bà sử dụng các khoảng trống của các gian trưng bày trong các Body Shop để giới thiệu các hình ảnh về nỗ lực của tổ chức Hòa bình xanh chống lại sự lãng phí nguồn nước ở biển Bắc, hay những hoạt động cứu rừng nhiệt đới của tổ chức Người bạn trái đất.
Sau hơn hai mươi năm hoạt động, Body Shop đã trở thành hãng kinh doanh lớn thứ hai ở Anh và là một trong số 28 hãng kinh doanh hàng đầu thế giới. Từ cơ sở Body Shop đầu tiên nằm khiêm tốn bên cạnh một nơi cung cấp dịch vụ tang lễ, tới nay Body Shop đã phát triên thành 700 chi nhánh ở 52 quốc gia với 2010 cửa hàng, cung cấp hơn 300 mặt hàng, phục vụ 77 triệu khách hàng và tạo việc làm cho gần một nghìn nhân công. Tổng giá trị tài sản của Body Shop được ước đoán là vài trăm triệu đô la.
Anita cho rằng mỗi người đều có quan niệm riêng về sự thành công và đối với bà, thành công đơn giản là biết tìm kiếm và sát cánh những con người cởi mở, khéo léo, những người biết tiếp nhận ý tưởng điên rồ của chúng ta và biến nó thành thứ có giá trị sử dụng. Theo bà, Body Shop phát triển được như ngày nay một phần vì những con người của nó có năng lực tiềm tàng và năng lực tiềm tàng đấy đã giúp họ có được lòng nhiệt tình tuyệt vời, điều tối cần thiết trong thành công của bất kì doanh nghiệp nào. Anita cũng cho rằng chính sự ám ảnh đã thúc dẩy nhà kinh doanh tìm ra cái mới. Làm sao có thể dạy người ta bị ám ảnh được chứ? Bà thường vừa cười vừa hỏi câu đó mỗi khi nhận được lời mời đến giảng về sự phá cách trong kinh doanh cho các sinh viên của các trường đại học danh tiếng như Harward và Yale.
Không bào giờ cho hép bản thân đo sự thành công bằng giá trị của cải mình có, Anita luôn hướng công việc bà làm tới những mục đích tốt đẹp. Năm 2002 Anita rút lui khỏi chức vụ đồng chủ tịch của hãng. Bà quyết định dành ra 80 ngày làm cố vấn cho một trong những cửa hàng của Body Shop và dùng thời gian còn lại vào các công việc xã hội. Tờ Bưu điện quốc gia số ra ngày 13 tháng Mười hai năm 2005 đăng tin Anita đã quyết định rời khỏi thương trường và đem hiến tặng khoản tiền 51 triệu bảng tương đương với 104 triệu đô la của bà.
Tháng Ba năm 2006, hãng L’Oreal mua Body Shop với giá kỷ lục 625,3 triệu bảng Anh. Body Shop tiếp tục tồn tại và phát triển, còn Anita thì bận rộn với các hoạt động xã hội của bà. Bà tham gia các chiến dịch bảo vệ môi trường, bảo vệ nhân quyền. Bà còn lập một trang web riêng. Bà cho rằng với trang web của mình, bà là người hướng dẫn du lịch cho những trái tim và khối óc. Bà kêu gọi: “Các bạn hãy cùng tôi bước vào thế giới của những hoạt động xã hội, các hoạt động kinh doanh coi trọng đạo đức, các vấn đề về môi trường, những vấn đề về phụ nữ, về gia đình, v.v… Một ngày nào đó tôi sẽ nói với các bạn về các nghi lễ đẹp đẽ ở nước Nhật, một ngày khác tôi sẽ làm biến chuyển thái độ phớt lờ của chính phủ Mỹ đối với những điều tuyệt vời mà cây dầu gai có thể mang lại cho con người… sẽ là những mùa bội thu”.
Wardah Hafidz (Sinh năm 1953) TẤM LÒNG VÌ NGƯỜI NGHÈO
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Trong cuốn tiểu thuyết nổi tiếng mang tên Shataram, nhà văn Australia Gregory David Roberts đã miêu tả cảnh sống của những người dân nghèo ở thành phố Bombay như sau: “Nhiều người sống trên các đường phố gần khu nhà ổ chuột của chúng tôi không cưỡng nổi sự an toàn, khiêm tốn mà những mái lều tồi tàn của chúng tôi mang lại. Họ là những người sống trên vỉa hè, tận dụng bất cứ chỗ trống nào không có người và xe qua để làm chỗ ăn, ở. Nhà của họ là những kiểu nhà nguyên thủy nhất và điệu kiện sống của họ dưới những mái che mong manh đó phải nói là tồi tệ nhất, khắc nghiệt nhất so với điều kiện sống của hàng triệu người vô gia cư ở Bombay. Khi mùa mưa đến, nơi ăn ở của họ luôn bị đe dọa và nhiều người trong số họ không còn cách nào khác buộc phải tìm đến tá túc trong những khu nhà ổ chuột”.
Chắc chắn Wardah Hafidz cũng đã tận mắt chứng kiến những cảnh như thế hoặc tồi tệ hơn thế ở thủ đô Jakarta và những thành phố khác ở Indonesia, nên bà quyết định từ bỏ công việc của một giảng viên đại học để sáng lập tổ chức Urban Poor Consotium (Hiệp hội người nghèo thành thị), viết tắt là UPC với mục đích giúp người nghèo ở các khu đô thị nói lên tiếng nói của mình.
Bắt đầu hoạt động năm 1997, trong bối cảnh ở Indonessia có tới gần 60 triệu người sống dưới mức nghèo khổ và chỉ riêng ở Jakarta có hơn 3,5 triệu người sống trong các khu ổ chuột, UPC không khuyến khích những người dân nghèo nổi loạn hay xin sự ban ơn từ chính phủ, mà giúp họ nhận thức được những quyền cơ bản của mình như quyền được phát triển kinh tế, quyền được có vị thế chính trị, quyền được hưởng phúc lợi xã hội, quyền được hưởng chất lượng cuộc sống tốt hơn và động viên họ dũng cảm đấu tranh giành các quyền lợi đó. Tổ chức này đã gióng lên những tiếng chuông báo động về các vấn đề của người nghèo ở các khu đô thị. Đó là vấn đề đói nghèo, vô gia cư, bị đối xử bất công, bị phớt lờ và bị gạt ra ngoài sự tiến bộ xã hội.
Năm 1999 khi đất nước Indonesia phải đối phó với cuộc khủng khoảng kinh tế trầm trọng, Ngân hàng thế giới đã triển khai dự án An sinh xã hội (SNN) để giúp dân nghèo nước này vượt qua khủng khoảng. Trong khi số vốn dành cho dự án Ngân hàng quốc tế được công khai, hoạt động của dự án lại cho thấy sự mập mờ đáng quan tâm. Wardah cùng các tình nguyện viên của UPC đã đến tận những vùng triển khai dự án. Họ gặp những đối tượng của dự án và đi thẳng vào vấn đề bằng các câu hỏi: “Ông có biết gì về tiền của chương trình SNN không?”; “Bà có được thông báo về dự án SNN không?”; “Ông có biết địa phương của ông được nhận bao nhiêu tiền từ nguồn vốn của SNN không?”. Đa số câu trả lời là “Không”. Qua thu thập các số liệu, UPC đã phát hiện ra rằng chỉ 30% tổng số tiền của SNN thực sự đến tay người dân. Cụ thể là ngân sách SNN dành cho người nghèo Indonesia trong hai năm 1998-1999 là 17,8 tỉ rupi, nhưng người dân chỉ nhận được 9 tỉ rupi thông qua năm chương trình được triển khai. Tệ tham nhũng đã nuốt mất số tiền còn lại. UPC đã thu thập 10000 chữ kí của dân nghèo đề nghị dừng dự án SNN nếu tình trạng tham nhũng ở Indonesia vẫn tiếp diễn. Wardah đã tìm gặp đại diện triển khai dự án SNN. Bà nói: “Nếu các ông không muốn gặp 40 người chúng tôi ở văn phòng của các ông thì các ông sẽ gặp 4000 người chúng tôi trên đường phố”. Sự cảnh tỉnh của UPC khiến Ngân hàng thế giới rà soát lại việc triển khai dự án SNN. Đích thân ông Mark Baird đại diện ngân hàng thế giới đã đến các khu ổ chuột, các nhà máy trực tiếp nghe những người được coi là đối tượng giúp đỡ của dự án nói rằng, họ chẳng nhận được sự giúp đỡ nào từ SNN hết.
Cuộc đấu tranh cho quyền lợi của những người đạp xích lô cũng là một cuộc đấu tranh quyết liệt đối với Wardah và tổ chức UPC của bà. Lệnh cấm xe xích lô hoạt động được ban hành từ thời ông Suharto còn nắm quyền điều hành đất nước. Lệnh này được triển khai mà không kèm theo bất cứ một biện pháp giải quyết thất nghiệp nào cho các đối tượng bị ảnh hưởng. Hàng nghìn người dân nghèo làm nghề đạp xích lô bị thất nghiệp và bị tịch thu phương tiện kiếm sống. Khi Indonesia thực hiện công cuộc đổi mới, xích lô được phép hoạt động trở lại nhưng chỉ một thời gian sau nó lại được thiết lập trở lại khiến cho những người đạp xích lô vừa sắm phương tiện mới lại phải đi tìm việc làm. UPC đã tổ chức họ lại, giúp họ đấu tranh, thương lượng, thậm chí kiện chính quyền. Họ tiến hành một cuộc thăm dò ý kiến người dân thành phố. Cuộc thăm dò cho thấy cứ 100 người dân được hỏi thì có 860 người nói rằng họ thích xích lô hoạt động trở lại. Trong một cuộc trả lời phỏng vấn trên truyền hình diễn ra vào tháng Một năm 2000, tổng thống tuyên bố rằng ông không phản đối xích lô hoạt động trong những khu dân cư của thành phố. Ngày tháng Hai năm 2000, Wardah cùng một đoàn gồm những người đạp xích lô tập trung bên ngoài dinh tổng thống yêu cầu tổng thống hoạt động theo lời tuyên bố trên. Cảnh sát cho họ 15 phút để giải tán. Wardah hỏi những người đạp xích lô: “Các anh muốn giải tán hay ở lại?”, “Ở lại”, họ đáp. Họ ở lại cho tới khi Wardah cùng mười ba người khác bị cảnh sát dồn lên xe tải đưa về đồn. Cuộc đấu tranh của những người đạp xích lô vẫn chưa đi đến hồi kết, tuy nhiên nhiều người đạp xích lô vẫn kiếm sống bằng nghề của mình trên các đường phố của Indonesia. Họ cho biết nếu họ không đi đạp xích lô thì cả nhà họ sẽ chết đói.
Không phải ngẫu nhiên người dân nghèo thành thị ở Indonesia nói chung và những người dân sống trong các khu ổ chuột ở Jakarta, Palembang, Lampung, và Aceh nói riêng, coi Wardah là người phát ngôn của họ. Cùng 12 nhân sự chính thức của UPC và 980 tình nguyện viên cộng đồng, Wardah luôn nỗ lực đấu tranh cho quyền được có nhà ở của dân nghèo thành thị. Lên nhận giải thưởng COHRE, giải thưởng ghi nhận công lao bảo vệ quyền được có nhà ở của người nghèo vào ngày 2 tháng Mười hai năm 2005 tại Bangkok, Thái Lan, Wardah đã phát biểu: “Từ năm 2000 đến năm 2005 Jakarka đã đuổi 92720 người khỏi nơi ở của họ và đe dọa đuổi 1592011 người để lấy đất cho các dự án xây dựng… Các thành phố khác cũng theo gương Jakarta đối xử với người nghèo theo cách đó”. Tuy nhiên bà cũng thừa nhận rằng, vì dân nghèo đã có ý thức cao hơn về quyền được định cư của mình nên buộc các cấp chính quyền phải có những động thái tích cực để cải thiện tình hình. Nhiều khu ổ chuột ở Jakarta đã được nâng cấp, nhiều người thuộc diện nghèo nhất đã có nhà mới. Bà cũng cho biết sau thảm họa sóng thần ở Ache, tổ chức của bà đã làm hết sức mình giúp người dân bảo vệ quyền được trở về nơi ở cũ. Trong số tám trăm ngôi nhà được xây dựng lại đầu tiên của người dân Aceh sau thảm họa sóng thần, có công của Wardah và tổ chức UPC của bà.
Người ta thường thấy Wardah có mặt nhiều tại các khu ổ chuột tồi tệ nhất ở Jakarta. Bà cũng đã có mặt tại hiện trường hoang tàn đổ nát của Ache ngay khi cơn sóng thần vừa đi qua. Thay vì coi mình là một phần của vấn đề, những người dân nghèo được tiếp xúc với bà và tổ chức của bà đều nhận thức được rằng mình là một phần của giải pháp. Chính điều đó đã thúc đẩy Wardah và tổ chức của bà không ngừng nỗ lực đấu tranh giúp họ cải thiện cuộc sống.
Zahra Kazemi (1949-2003) SỰ THẬT KHÔNG THỂ CHẾT
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Zahra Kazemi là một phóng viên nhiếp ảnh tự do. Bà đã làm việc với ống kinh máy ảnh hơn hai mươi năm. Những bức ảnh bà chụp được nhiều tờ báo sử dụng. Phong cách làm việc và quan điểm của bà thể hiện đậm nét trong các bức ảnh ghi lại thực trạng đói nghèo, cơ cực, áp bức bất công, và cảnh tha hương của những công dân thiệt thòi trên địa cầu.
Sinh ra ở Iran, học ngành văn học và điện ảnh ở đại học Paris, định cư ở Canada, Kazemi đã đi đến những nơi nóng bỏng nhất trên thế giới. Bà đã đến châu Phi, các nước Mĩ La tinh và Caribe, các nước thuộc Trung Đông. Bà là một trong những nữ phóng viên nhiếp ảnh không ngại nguy hiểm đã có mặt ở Afganistan và Iraq khi quân đội Mĩ được triển khai ở hai nước này.
Iran, quê hương của Kazemi là một đất nước bất ổn. Con số thống kê không chính thức cho tấy trong hai thập kỉ gần đây, các nhà tù ở Iran đã giam giữ 120 nghìn tù chính trị và những người đấu tranh vì nhân quyền. Đặc biệt từ năm 2000 nước này trở thành mối quan tâm của thế giới bởi một loạt vụ bắt giữ nhà báo và đóng cửa các cơ quan báo chí. Dư luận cho rằng vào tháng Bảy năm 2003, ở thủ đô Teheran có khả năng sẽ xảy ra những cuộc biểu tình lớn. Bởi vậy đầu năm 2003 Kazemi quyết định trở về Iran. Trong email gửi cho con trai mình, Kazemi đã miêu tả tình hình phức tạp ở Iran. Bà viết: “Đất nước đang trải qua những bước ngoặt lí tưởng cho các nhà nhiếp ảnh tác nghiệp”.
Ngày 23 tháng Sáu là một ngày không yên tĩnh ở thủ đô Teheran. Có một cuộc biểu tình của sinh viên đòi thả tự do cho các tù nhân ở bên ngoài nhà tù Evin. Kazemi và ống kính máy ảnh của bà chớp cơ hội ghi lại cảnh biểu tình. Bà đang thực hiện công việc thì bị cảnh sát Iran bắt bởi họ cho rằng Kazemi đã chụp ảnh nhà tù Evin, một điểm cấm chụp ảnh. Mặc dù Kazemi đã khẳng định rằng bà chỉ chụp cảnh biểu tình trên đường phố và không hề chụp ảnh nhà tù Evin, bà vẫn bị giam giữ.
Kazemi bị cảnh sát và sĩ quan tình báo hỏi cung trong 77 giờ. Ngày 27 tháng Sáu bà được đưa vào bệnh viện Baghiyyatollah al- Azam ở Teheran. Một tuần sau gia đình Kazemi nhận được thông báo từ nhà chức trách rằng Kazemi đang ở trong bệnh viện. Ngày 11 tháng Bảy Kazemi qua đời tại bệnh viện. Hai ngày sau, hãng thông tấn báo chí của Iran đưa tin Kazemi “bị đột quỵ trong một cuộc hỏi cung và chết tại bệnh viện”, nhưng cùng ngày dưới sức ép của chính phủ Canada, Tổng thống Iran buộc phải chỉ thị cho một ê kíp gồm năm nhân vật cao cấp của Iran tiến hàng điều tra về cái chết của nữ phóng viên nhiếp ảnh Kazemi. Ngày 24 tháng Bảy Thông tấn xã của Iran đưa tin Kazemi chết do chấn thương sọ não, hậu quả của một vụ đánh đập.
Ngày 21 tháng Bảy, chính phủ Iran chỉ định uỷ viên công tố Saeed Mortaza phụ trách một cuộc điều tra độc lập về cái chết của Kazemi. Ngay khi tin này được thông báo, những chính khách thuộc phe ủng hộ cải cách lên tiếng tố cáo rằng Saeed Mortaza đã không can thiệp để ngăn chặn cái chết của Kazemi, và rằng chính ông ta là người đứng đằng sau một loạt các vụ bắt bớ nhà báo xảy ra ở Iran trong thời gian gần đây.
Con trai của Kazemi và chính quyền Canada muốn thi hài của Kazemi được đưa về Canada, nhưng vào ngày 23 tháng Bảy người ta đã tiến hàng mai táng bà ở Shiraz quê hương của bà theo nguyện vọng của mẹ bà và họ hàng bà ở Iran. Mẹ của bà thừa nhận trong việc này bà phải chịu nhiều sức ép. Bất bình trước diễn biến của sự việc, chính phủ Canada bắt đầu xem xét khả năng áp đặt cấm vận đối với Iran. Chính phủ Iran buộc phải tiếp tục cuộc điều tra.
Ngày 30 tháng Bảy năm 2003, phó tổng thống Iran Mohammad Ali Abtahi nói rằng có khả năng Kazemi đã bị cơ quan tình báo của chính phủ giết hại. Tiếp theo tuyên bố này, tháng Mười năm 2003, nhân viên tình báo 42 tuổi Mohammed Reza Aghdam Ahmadi, người trực tiếp tham gia lấy cung Kazemi đã bị đưa ra xét xử với tội danh giết người phần nào có chủ ý.
Bất bình trước phán quyết của toà án Iran, gia đình của Kazemi đã mời luật sư Shirin Ebadi, nữ luật sư được trao giải Nobel hoà bình vì những nỗ lực bảo vệ nhân quyền ở Iran, giúp họ theo đuổi vụ kiện. Họ tin rằng Kazemi không chết chỉ vì bị nhân viên tình báo hỏi cung mà vì bị đánh đập dã man. Họ muốn kẻ giết người thực sự phải bị xét xử.
Phiên thứ hai và thứ ba của vụ xét xử Mohammed Reza Aghdam Ahmadi được mở vào tháng Bảy năm 2004. Luật sư Shirin Ebadi và các đồng sự dẫn ra báo cáo chính thức về cái chết của Kazemi, báo cáo xác nhận trên thi thể Kazemi có những vết thương nghiêm trọng ở đầu, ở tay, ở bụng, những chỗ rách và dính máu trên quần áo chứng tỏ bà đã bị tra tấn. Các luật sư yêu cầu toà án cho mời các nhân chứng bao gồm năm thẩm phán có mặt trong các lần hỏi cung Kazemi, ông Saeed Mortazavi, uỷ viên công tố Teheran, bộ trưởng tình báo Iran ông Ali Younesi, phó tổng thổng phụ trách các vấn đề luật pháp ông Mohammed Ali Abtahi. Bà cũng yêu cầu sự có măặ của một số nhân sự của nhà tù Evin và bệnh viện Baghiyyatollah al-Azam. Toà án Iran đã bác bỏ tất cả những yêu cầu đó.
Không có đủ thời gian để đưa ra bằng chứng, nhân chứng cần có mặt lại không có mặt là những lí do khiến Shirin Ebadi và các luật sư của gia đình Kazemi buộc phải chấp nhận để các phiên xét xử khép lại. Tuy nhiên luật sư Shirin Ebadi và một số luật sư tâm huyết tuyên bố sẽ tiếp tục theo đuổi vụ kiện. Họ muốn toà án xét xử tội phạm của Iran xem xét lại toàn bộ vụ án và nếu gia đình của Kazemi đề nghị, họ sẽ đưa vụ việc ra các cơ quan quốc tế có thẩm quyền.
Trong khi những người yêu chuộng sự thật và tôn trọng công lí vẫn đang đi tìm công bằng cho Kazemi thì vào tháng Sáu năm 2005, một triển lãm trưng bày các bức ảnh do Kazemi chụp đã được khai trương tại thư viện thành phố Montréal, Canada. Lúc đầu những người tổ chức triển lãm đã có ý định loại các bức ảnh được coi là nhảy cảm ra khỏi danh sách những bức ảnh được trưng bày, song con trai của Kazemi đã không chấp nhận điều đó. Tất cả hoặc không có gì, anh tuyên bố. Cuối cùng tất cả các bức ảnh của Kazemi đều được giới thiệu tới công chúng. Nhưng đáng tiếc là triển lãm sau đó lại bị đóng cửa vì một luật sư cho rằng, trong triển lãm có những bức ảnh có thể gây bất đồng.
Quyền tự do báo chí được tôn trọng đến đâu? Chúng ta muốn thấy sự thật hoàn toàn hay sự thật nửa vời? Đó là những câu hỏi mà nữ phóng viên nhiếp ảnh Zahra Kazemi đã can đảm đặt ra cho thế giới.
Bethany Hamilton (Sinh năm 1990) TRỞ LẠI VỚI NHỮNG CON SÓNG
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Cả gia đình của Bethany Hamilton đều yêu biển và thích lướt ván. Họ thích lướt ván đến nỗi họ đã chuyển từ đất liền tới đảo Hawaii định cư để có nhiều cơ hội sống cùng những con sóng hơn.
Sinh năm 1990, Bethany học lướt ván từ khi cô năm tuổi. Cô học rất nhanh. Bố mẹ của cô nói đùa rằng nước biển đã ngấm vào máu của cô. Còn đang học tiểu học Bethany đã tham gia một cuộc thi lướt ván dành cho các vận động viên nhí và đã giành giải nhất. Không bao lâu sau cô giành chiến thắng trong cuộc thi lướt ván dài và ván ngắn.
Sự nghiệp của một vận động viên lướt ván thực sự bắt đầu đối với Bethany khi cô giành chức vô địch trong cuộc thi lướt ván Haleiwa Menehune được tổ chức vào tháng Hai năm 2002. Trong cuộc thi này cô đã giành vị trí số một ở nội dung thi lướt ván dành cho lứa tuổi dưới mười ba, giành vị trí số một ở nội dung thi dành cho nữ dưới mười bảy. Với những thành tích nổi bật của mình cô đã được xếp ở vị trí thứ tám trong danh sách những vận động viên lướt ván nghiệp dư xuất sắc nhất thế giới và trở thành vận động viên của đội lướt ván Rip Curl.
Con đường của một vận động viên lướt ván chuyên nghiệp đang rộng mở trước mắt Bethany thì một tai nạn khủng khiếp xảy ra.
Ngày 31 tháng Mười hai năm 2003, ngày lễ Haloween, Bethany cùng với ba bố con ông Blanchard bạn của gia đình cô đến bãi biển Tunnels, một vùng biển nổi tiếng với những ngọn sóng cao tới gần 20 mét. Đó là một ngày nắng đẹp và sóng trên biển không to lắm. Bethany Hamilton quyết định cô không thể bỏ lỡ cơ hội đùa vui với sóng biển cùng chiếc ván lướt của mình.
Cô nằm trên ván lướt, thả tay xuống làn nước biển mát rượi, đợi con sóng tới đưa cô vào bờ. Cảm giác đó thật tuyệt vời. Bỗng nhiên Bethany nhận thấy có điều gì đó không ổn. Và điều không ổn ấy không là bất cứ gì khác mà lại là một con cá mập dài khoảng năm mét, loại cá mập mà theo đặc tính hung dữ của nó được đặt tên là cá mập cọp. Cô bé mới mười ba tuổi ấy không thể tin nổi rằng cô đang mặt đối mặt với một con cá mập ngay giữa vùng biển cô yêu thích. Con cá mập xem Bethany là miếng mồi của nó. Nó tấn công cô và chiếc ván lướt của cô. Sự việc xảy ra rất nhanh, chỉ trong vòng hai hoặc ba giây nhưng thật khủng khiếp. Trước khi con cá mập bỏ đi, nó cắn mất ba phần tư cánh tay trái của Bethany và 43 cm ván lướt.
Ông Blanchard bắt đầu chú ý đến Bethany khi cô ở cách ông khoảng 6 mét. Ông kể lại rằng, lúc đó ông thấy một vùng nước nhuốm đỏ và Bethany đang điều khiển chiếc ván lướt bơi về phía ông. “Cháu bị cá mập tấn công”, Bethany nói không hề tỏ ra hoảng sợ, khiến Blanchard tưởng cô nói đùa cho tới khi ông nhìn thấy cánh tay trái của cô chỉ còn một phần rất ngắn. Máu chảy rất nhiều từ vết thương. Blanchard biết rằng phải mất khoảng 20 phút họ mới vào được đến bờ và ông không biết nếu máu cứ tiếp tục chảy thì tính mạng của Bethany sẽ ra sao. Blanchard lập tức sử dụng tất cả những gì họ có để làm garo, cầm máu cho Bethany. Trong khi đó, con trai ông mau chóng vào bờ để gọi 911 cho xe cấp cứu tới. Khi Bethany đến được bệnh viện cô đã mất 70% lượng máu trong cơ thể. Gia đình cô không biết làm gì hơn là gọi điện tới câu lạc bộ lướt ván, đến nhà thờ họ cầu nguyện cho cô. Cuối cùng Bethany đã chiến thắng tử thần.
Nhiều người tưởng rằng tai nạn khủng khiếp xảy ra ở biển Tunnels đã đặt cái dấu chấm hết cho ước mơ vươn tới đỉnh cao tại những cuộc thi lướt ván của Bethany và rằng cô sẽ không bao giờ còn muốn lướt ván nữa, nhưng thật đáng khâm phục, chỉ ba tuần rưỡi sau vụ tai nạn, Bethany đã trở lại với những con sóng của biển xanh. Cô tập làm quen với chiếc ván mới. Mất một cánh tay, Bethany lướt ván không được dễ dàng như trước, cô phải sử dụng nhiều lực hơn, và phải khéo léo hơn để giữ thăng bằng trên ván. Cô nói: “Lần đầu tiên lại được đứng trên ván lướt để cho con sóng đưa mình vào bờ tôi hạnh phúc muốn trào nước mắt”.
Mười tuần sau cô lại bắt đầu tham gia thi lướt ván. Năm 2004 tại cuộc thi lướt ván dành cho các vận động viên của các trường trung học ở Hawaii, Bethany đã thi đấu xuất sắc và giành vị trí số một. Tại cuộc thi này ở cấp quốc gia, cô được xếp vị trí số năm. Cô cũng đăng ký tham gia cuộc thi lướt ván dành cho các vận động viên nữ tại Oahu. Cùng với những giải thưởng tại các cuộc thi lướt ván, năm 2004 Bethany được trao giải Teen Choice Awards dành cho thanh thiếu niên dũng tiêu biểu. Sự gan dạ và ý chí vượt khó của Bethany là một tấm gương sáng cho thanh thiếu niên trên khắp thế giới noi theo. Rất nhiều bạn muốn làm quen với Bethany. Bethany viết trên trang web của mình: “Tôi rất vui khi các bạn viết thư cho tôi. Tôi sẽ đọc thư của các bạn nhưng xin các thông cảm vì tôi không thể hồi âm cho tất cả bởi mỗi tuần tôi nhận được hơn 1500 lá thư của các bạn trên khắp thế giới…”.
Sadako Sasaki (1943-1955) CÒN ĐÓ ƯỚC NGUYỆN HOÀ BÌNH
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Mẹ của Sadako Sasaki mang thai cô vào thời điểm chiến tranh thế giới thứ hai đang bước vào giai đoạn khốc liệt nhất. Nước Nhật của họ dồn tất cả những gì có thể vào cuộc chiến, khiến dân chúng chẳng mấy người có đủ cơm ăn. Sadako lúc lọt lòng mẹ chỉ nặng có 2,2 kg. Sadako ra đời chưa được bao lâu thì bố cô phải đăng lính. Với thu thập từ tiệm cắt tóc nhỏ của gia đình, mẹ cô xoay xở nuôi cô qua lúc khó khăn.
Vào ngày 6 tháng Tám năm 1945 khi quả bom nguyên tử rơi xuống thành phố Hiroshima, cô bé Sadako Sasaki đang chơi trong nhà tại khu Kusunokicho, cách điểm rơi của quả bom 1,7 km. Sức ép của quả bom khiến cô bé bị văng ra khỏi căn nhà nhưng cô không hề bị bỏng hay bị thương ở đâu cả. Mẹ cô vội bế cô chạy khỏi khu đó trong khi những ngọn lửa đang bùng lên tứ phía. Mẹ cô nhớ rằng chạy đến gần cầu Misasa thì họ gặp phải một trận mưa đen.
Từ nơi lánh nạn trở về, người mẹ thấy nhà mình đã bị thiêu rụi nhưng bà cũng biết so với hơn 140.000 người đã thiệt mạng trong vụ nổ bom, họ là những người may mắn. Cũng giống như những người dân còn sống sót ở Hiroshima, mẹ của Sadako bắt tay vào gây dựng lại cuộc sống. Bà rất mừng vì Sadako lớn lên khoẻ mạnh.
Sadako vào học tiểu học tại trường Noboricho như các bạn cùng tuổi khác trong khu. Lên lớp 6 cô bé cao 1,35 mét, nặng 27 kg. Ai trong trường cũng biết cô bởi cô là nhà vô địch trong các cuộc thi chạy. Cô chạy 50 mét chỉ mất có 7,5 giây. Cô được chọn vào đội tuyển điền kinh tham dự đại hội thể thao mùa thu ở Hiroshima. Cô mơ ước lớn lên được làm một giáo viên dạy thể dục.
Đang khoẻ mạnh bỗng nhiên Sadako trở nên xanh xao. Thỉnh thoảng cô bị những cơn chóng mặt. Một hôm cô phát hiện ra những khối u nhỏ ở cổ và sau tai. Cô nói với mẹ về những khối u đó. Tháng Sáu năm 1954, mẹ đưa cô tới uỷ ban thường trực phụ trách vấn đề về bom nguyên tử. Người của uỷ bạn bảo Sadako rằng cô không sao cả, rằng cô không cần phải lo lắng. Thế nhưng các khối u ở cổ và sau tai Sadako mỗi ngày một phát triển, khiến mặt cô bị biến dạng. Rồi chân cô xuất hiện những đốm đỏ. Sau khi làm các xét nghiệm, các bác sĩ kết luận Sadako Sasaki bị mắc bệnh bạch cầu do nhiễm phóng xạ. Gia đình Sadako vô cùng đau đớn. Đã 9 năm kể từ khi thành phố Hiroshima bị ném bom nguyên tử và họ cứ nghĩ rằng Sadako Sasaki là đứa trẻ may mắn không bị ảnh hưởng gì từ thảm hoạ kinh hoàng đó.
Tháng Hai năm sau, Sadako buộc phải tạm biệt trường lớp và bạn bè để vào điều trị tại bệnh viện của Hội chữ thập đỏ ở Hiroshima. Sau một thời gian điều trị các khối u trên người Sasaki có vẻ ngừng phát triển, nhưng hai chân cô bé lại xuất hiện thêm nhiều vết tụ máu. Cô bé rất buồn bã và lo lắng. Ngày 3 tháng Tám năm 1955, những người ở Nagoya gửi tới bệnh viện chữ thập đỏ những con nhạn được gấp bằng giấy màu để động viên các bệnh nhân bị nhiễm phóng xạ kiên cường đấu tranh vượt qua bệnh tật. Nhìn những con nhạn giấy đó, Sadako vui hẳn lên.
Những con nhạn giấy nhắc Sadako nhớ đến một truyền thuyết nói rằng nếu một người gấp được 1000 con nhạn giấy thì một điều ước của người đó sẽ thành hiện thực. Sadako chỉ có một điều ước duy nhất. Cô ước được khoẻ mạnh trở lại để có thể tiếp tục thi chạy. Cô bắt đầu học gấp những con nhạn giấy. Cô dùng tất cả những mảnh giấy cô có đuợc, từ những mảnh giấy bạn bè mang đến cho cô cho tới những mảnh giấy cô bóc từ các chai thuốc của bệnh viện để gấp những con nhạn. Mẹ cô kể lại: “Con bé tin vào truyền thuyết đó. Nó gấp những con nhạn giấy rất cẩn thận, từng con từng con một. Khi nó gấp nhạn giấy, mắt nó sáng long lanh chứng tỏ nó muốn sống bằng bất cứ giá nào… Nhìn những con nhạn giấy con gái tôi gấp với niềm tin ngây thơ, tôi chỉ muốn bật khóc”.
Mặc dầu sức khoẻ của cô mỗi ngày một xấu đi, và thỉnh thoảng lại phải chứng kiến một trẻ em nhiễm phóng xạ qua đời, Sadako vẫn tiếp tục gấp những con nhạn giấy. Cho đến cuối tháng Tám cô đã gấp được 1000 con nhạn giấy và vẫn gấp thêm những con khác. Cuối tháng Chín, các xét nghiệm cho thấy lượng bạch cầu của Sadako tăng lên gấp ba lần so với hồi cô mới nhập viện. Cô không thể tự đi lại được nữa, chỉ có thể nằm nhìn những con nhạn cô treo thành chuỗi dài trong phòng bệnh. Sadako qua đời vào ngày 25 tháng Mười năm 1955 khi cô bé mới mười hai tuổi. Khi an táng cho Sadako, bố mẹ của cô đã xếp những con nhạn giấy vào quan tài của cô bé.
Câu chuyện cảm động về Sadako, em bé Hiroshima, được truyền đi khắp thế giới. Ai cũng nghĩ rằng lúc đầu Sadako gấp những con nhạn giấy vì cô tin vào một truyền thuyết, nhưng về sau cô làm thế vì cô muốn gửi lại thế giới một điều ước: Một điều ước cho thế giới hoà bình, không còn nỗi đau chiến tranh. Sau khi Sadako qua đời, các bạn học của cô đã gửi thư tới khắp các bạn nhỏ trên nước Nhật kêu gọi quyên góp xây tượng đài tưởng nhớ cô. Năm 1958 tượng đài mang tên “Tượng đài hoà bình Hiroshima” được khánh thành. Tượng đài là hình ảnh Sadako nâng trên tay một con nhạn vàng. Dưới chân tượng đài khắc dòng chữ: “Đây là tiếng kêu khẩn thiết của chúng tôi. Đây là lời nguyện cầu của chúng tôi. Hoà bình cho thế giới”. Hình ảnh Sadako trên tượng đài là hình ảnh đại diện cho tất cả những em nhỏ là nạn nhân của trận ném bom nguyên tử xuống thành phố Hiroshima và Nagasaki.
Năm 1988, tiến sĩ người Mĩ Floyd Schmoe được nhận giải thưởng hoà bình Hiroshima trị giá 5000 đô la. Ông đã dành số tiền này xây dựng công viên hoà bình ở thành phố Seatle. Ông cho đúc một bức tượng Sadako bằng đồng và đặt nó ở vị trí trung tâm của công viên. Hàng năm cứ đến ngày kỉ niệm sự kiện hai thành phố của Nhật bị ném bom nguyên tử, khi người Nhật thả những con chim bồ câu lên bầu trời thì ở bên kia đại dương, hàng nghìn học sinh Mĩ lại diễu hành tới công viên hoà bình ở Seatle, xếp những con chim nhạn giấy xung quanh bức tượng Sadako để tưởng nhớ những nạn nhân của thảm hoạ bom nguyên tử và gửi gắm ước nguyện hoà bình của các em.