Vào khoảng tháng 8 năm 1985, môn sinh Lê Lý Thuận ở thành phố Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, sáng tạo và hệ thống hóa các kỹ thuật côn nhị khúc thành chương trình đào tạo hoàn chỉnh, theo 3 bậc chuyên môn: + Sơ cấp
+ Trung cấp
+ Nâng cao
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO HUẤN LUYỆN VIÊN VÕ THUẬT VIỆT NAM
==oOo==
CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN
Sơ Cấp CÔN NHỊ KHÚC
Thu gọn nội dung
A. PHẦN THỰC HÀNH:
1. Lăn côn cơ bản.
2. Lăn số 8.
(Kiểm tra 15 phút: lăn côn 02 tay 50 lần).
3. 05 đòn quật.
* Quật dọc.
* Quật xéo ngoài.
* Quật xéo trong.
* Quật ngang hông.
* Quật an-pha (α).
4. 08 kỹ thuật chuyền.
* Chuyền số 1 (Chuyền trước dưới lên).
* Chuyền số 2 (Chuyền vai sau dưới lên, chếch ra sau).
* Chuyền số 3 (Chuyền trước vai sau dưới lên).
* Chuyền số 4 (Chuyền dọc trên xuống ngang cổ).
* Chuyền số 5 (Chuyền xéo dưới lên).
* Chuyền số 6 (Chuyền ngang hông).
* Chuyền số 7 (Xéo trong).
* Chuyền số 8 (Chuyền an-pha α ).
(Kiểm tra 45 phút : 02/08 kỹ thuật chuyền cơ bản trên).
5. Kỹ thuật cận chiến.
- Chuyển đổi thế thủ.
- Tháo gỡ côn nhị khúc.
- Bật côn.
- Bắn côn.
- Ném côn.
6. Tấn pháp
- Tấn dài.
- Tấn ngắn.
- Tấn sau.
- Tấn ngang.
- Tấn trung gian.
7. 05 bộ kỹ thuật phối hợp.
- Bộ số 1: Song Côn (Bịt mắt sử dụng 2 côn nhị khúc, tiến 5 bước, lùi 5 bước), không tính thời gian.
- Bộ số 2: Quật - Chuyền (2 phút 30 giây).
- Bộ số 3:Lăn đối xứng(10 lần), không tính thời gian.
- Bộ số 4: Quật luân phiên (10 lần/1 phút 15 giây/1 tay) tay trái, tay phải.
- Bộ số 5: Quật an pha (a) (15 giây/1tay).
Lời thiệu bộ số 5: “Lời qua tiếng lại, Có ích gì đâu! Sao không thở nhẹ? Mỉm cười nhìn nhau!”
8.Kiểm tra kết thúc tín chỉ:
a. Sáng tạo 01 bài quyền, thời gian từ 01-02 phút
b. Tự chọn 01 trong 05 bộ kỹ thuật phối hợp quy định & bốc thăm 04 bộ còn lại.
B. PHẦN LÝ THUYẾT:
a. Lịch sử ra đời và phát triển môn Côn Nhị Khúc. Tư thế nghiêm, Nghi thức chào, Lễ Nghi.
b. Những nguyên lý lực học được ứng dụng trong côn nhị khúc: lực ly tâm, đòn bẩy, quán tính, phản lực….
c. Những vấn đề cần chú ý: mục tiêu, điểm tập trung lực, sự hợp lực, sự triệt tiêu lực và tính liên hoàn, nguyên tắc trương cơ và thả lỏng, nguyên tắc đẳng thế.
d. Những vấn đề cần chú ý khi sáng tạo quyền: sự tương phản, cận chiến & liên hoàn, tính hoành tráng, tính nhịp điệu, điểm nhấn, cao trào, đòn quyết định, tiếng thét ki-ai, tinh thần của quyền.
C. LUẬT THI ĐẤU CÔN NHỊ KHÚC:
a. Lý Thuyết: Luật thi đấu và trọng tài.
b. Thi đấu đối kháng CNK.
* Trưởng Bộ Môn: Ls. LÊ LÝ THUẬN.
* Giáo viên giảng dạy: Lê Rích Tô.
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO HUẤN LUYỆN VIÊN VÕ THUẬT VIỆT NAM
==oOo==
CHƯƠNG TRÌNH HUẤN LUYỆN
Trung Cấp CÔN NHỊ KHÚC
Thu gọn nội dung
A. PHẦN THỰC HÀNH:
1. 04 kỹ thuật lăn côn cơ bản (âm – dương, trên xuống-dưới lên).
(Kiểm tra 15 phút: bốc thăm 1 đòn dương & 1 đòn âm).
2. Lăn 2 mặt, 3 mặt, n mặt phẳng.
3. 16 kỹ thuật chuyền dương, 16 kỹ thuật chuyền âm.
4. Tổng kết: 32 kỹ thuật chuyền cơ bản.
(Kiểm tra 45 phút : bốc thăm 04 kỹ thuật / 04 nhóm chuyền) .
5. Kỹ thuật +1, +2, + n.
6. Kỹ thuật cận chiến.
7. Nguyên tắc khống chế côn nhị khúc.
8. Phương pháp phối hợp (với kỹ thuật nhào lộn, kỹ thuật tay–chân, xe …).
9. Kỹ thuật tung côn.
10. Kỹ thuật lăn côn quanh người.
11. Kỹ thuật đảo côn.
12. Phương pháp sử dụng côn 02 tay: đồng thời – luân phiên; cùng hướng–khác hướng; hỗn hợp.
(Kiểm tra hết tín chỉ: sáng tạo 01 bài quyền 01 tay & 01 bài quyền 02 tay, mỗi bài từ 01-02 phút).
B. PHẦN LÝ THUYẾT:
a. Các vấn đề lực học trong CNK: lực ly tâm, đòn bẩy, quán tính, phản lực.
b. Những vấn đề cần chú ý: mục tiêu, điểm tập trung lực, sự hợp lực, sự triệt tiêu lực và tính liên hoàn, nguyên tắc trương cơ và thả lỏng, nguyên tắc đẳng thế.
c. Những vấn đề cần chú ý khi sáng tác quyền: sự tương phản, cận chiến & liên hoàn, tính hoành tráng, tính nhịp điệu, điểm nhấn, cao trào, đòn quyết định, tiếng thét ki-ai, tinh thần của quyền.
C. LUẬT THI ĐẤU CÔN NHỊ KHÚC:
a. Lý Thuyết: Luật thi đấu và trọng tài.
b. Đối kháng.
* Giáo viên giảng dạy:Trưởng Bộ Môn Ls. LÊ LÝ THUẬN.
* Trợ giảng: GV. Lê Rích Tô.
* Điều kiện theo học lớp Trung cấp CNK: Có tín chỉ sơ cấp CNK do TRUNG TÂM MIC cấp.
Trong những cố gắng hoàn thiện trên, nổi bật nhất là sự sáng tạo 04 kỹ thuật lăn cơ bản đã góp phần đưa côn nhị khúc từ một binh khí thông thường trở thành một môn thể thao nghệ thuật.
Ngày 20 tháng 5 năm 2005, Bộ môn Côn nhị khúc của Trung tâm đào tạo Huấn luyện viên võ thuật Việt Nam, gọi tắt là Trung tâm MIC[1] đã thông qua “Luật thi đấu côn nhị khúc” do thầy Lê Rích Tô - giáo viên côn nhị khúc của Trung tâm MIC nghiên cứu xây dựng. Điểm lưu ý của luật này là đã thể thao hóa côn nhị khúc với cả hai dạng thức thi đấu quyền thuật côn nhị khúc và đối kháng côn nhị khúc. Theo luật này, quyền thuật côn nhị khúc là loại hình thi đấu hoàn toàn sáng tạo - riêng biệt của mỗi thí sinh, không có các bài quyền mẫu như hệ thống thi đấu của các môn võ thuật khác.
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Long Phi Vũ vì bài viết hữu ích này:
Côn nhị khúc sơ khai là hai thanh tre, gỗ có tiết diện hình tròn hoặc hình chữ nhật, dài bằng nhau và nối với nhau bằng một đoạn dây chắc chắn. Từ dụng cụ sơ khai ban đầu, côn nhị khúc ngày nay có kiểu dáng rất đa dạng với rất nhiều biến thể của hình dạng hai thanh côn: hình tròn, hình nửa tròn, hình lục giác, hình bát giác, hình vuông, hình chữ nhật nhưng thịnh hành nhất là thân côn được tạo các cạnh hình lục giác hoặc bát giác để gia tăng đặc tính sát thương cho vũ khí nhưng vẫn thuận tiện khi sử dụng, không quá sắc cạnh nhưng cũng không quá trơn nhẵn. Hai khúc này thường được làm với chu vi phần đuôi côn (nơi nối dây), nhỏ hơn một chút so với phần đầu côn (nơi cầm trong tay người tập) để khi sử dụng thuận tiện hơn do lực ly tâm không khiến đôi côn tuột văng ra khỏi tay người tập trong những chiêu thức loan côn, múa côn. Chiều dài của mỗi đoạn côn, tùy theo sở thích cá nhân và cấu tạo cơ thể người sử dụng, nhưng thường tối ưu là bằng độ dài cẳng tay người sử dụng tính từ cùi chỏ đến giữa lòng bàn tay (khoảng 25-35 cm). Đường kính thân côn phần đầu (to nhất) khoảng 2,5 đến 3,5 cm; phần đuôi nơi nối dây khoảng 2 đến 3cm.
Chất liệu làm hai thanh côn cũng đa dạng hơn, kim loại (để không bị quá nặng thường làm bằng hai ống kim loại), tre, gỗ, nhưng thịnh hành nhất là côn làm bằng gỗ cứng. Đoạn dây nối hai thanh côn có thể làm bằng dây dù chắc hoặc làm bằng xích sắt mềm bằng cách đục lỗ thẳng xuyên tâm trên bề mặt của đuôi côn, luồn dây xuống cố định vào một hoặc hai lỗ xuyên ngang thân phía đầu côn. Theo kinh nghiệm của nhiều người đã từng sử dụng côn nhị khúc, việc luồn dây xuống qua hai lỗ khiến trọng tâm của côn vững vàng hơn và kiểm soát côn dễ hơn là chỉ luồn dây xuống một lỗ xuyên ngang. Khi kéo hai thanh côn thẳng ra, chiều dài đoạn dây còn lại sau khi đã nối côn tối ưu là bằng 1/2 cho đến dài nhất là bằng chu vi của cổ tay người tập. Dây quá ngắn thì đôi côn không linh động, dây quá dài thì tuy lực đánh mạnh hơn, linh hoạt hơn nhưng việc kiểm soát côn rất khó khăn.
Tập luyện
Người sử dụng thường cầm sát tay vào thân côn phía đầu, hoặc cách đầu côn khoảng 1-2cm, đôi khi có thể cầm vào giữa thân côn. Các động tác tập luyện phong phú giúp cho người tập làm chủ đôi côn thành thạo. Do khi cầm một thanh côn và tấn công bằng thanh còn lại, sau khi chạm mục tiêu nhận phản lực thanh côn sẽ bật mạnh về sau, nên để không bị "phản tác dụng" khi sử dụng côn nhị khúc đòi hỏi phải khổ luyện. Khổ luyện là một vấn đề, nhưng mà luyện tập cho thân thể mình phản ứng nhanh nhạy, người và côn phải hoà hợp như một. Phải cảm nhận được sự chuyển động của không khí khi côn đánh vào mục tiêu.
Lực đánh của côn nhị khúc rất mạnh ở phía đầu côn do được hỗ trợ bởi lực ly tâm và phản lực trong nhiều đòn thế mà người sử dụng cầm một thanh côn và đánh văng thanh còn lại vào các mục tiêu hiểm trên người đối phương như đầu, mặt, gáy, tay, chân. Tuy nhiên, ngoài những dạng thức dùng côn nhị khúc được tập luyện và sử dụng trong thực chiến rất đa dạng: có thể một tay cầm vào phía đầu một thanh côn, một tay cầm phía đuôi thanh còn lại, giữ thẳng 2 thân côn và tấn công bằng đầu thanh côn phía trên vào các yếu điểm như huyệt đạo, hoặc đỡ, gạt, đập; có thể cầm chập cả hai thanh côn và đánh, đâm, đỡ gạt; có thể hai tay cầm hai thanh côn và dùng đoạn dây ở giữa để xiết cổ, khóa tay, chặn chân đối phương v.v. Tuy nhiên, dù bằng bất cứ hình thức nào, để sử dụng thành thạo côn nhị khúc rất cần khổ luyện bằng các kỹ thuật loan (quay) côn, thu côn, và tập đánh côn trực tiếp lên các dụng cụ cứng như trụ cây, bao cát.
Có 2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến Long Phi Vũ vì bài viết hữu ích này:
Kỹ thuật sử dụng Côn nhị khúc được phân chia thành các nhóm nhỏ như sau:
Kỹ thuật quay (loan): số 8, vòng tròn, anpha....
Kỹ thuật quật: xéo, dọc, ngang.
Kỹ thuật chuyền: có 8 động tác cơ bản & 32 biến thể: chuyền trước, sau, đổi tay, qua hông, qua cổ.
Kỹ thuật lăn: có 4 động tác lăn cơ bản & vô số các bài tập phối hợp khác (Đây là nhóm kỹ thuật có xuất xứ đầu tiên tại Việt Nam).
Nhóm các tư thế thủ, cận chiến (bật, ném,...) & kỹ thuật sử dụng 2, 3 côn nhị khúc cùng lúc hoặc luân phiên.
Ngoài ra, trong các bài tập phối hợp & nâng cao còn có nhóm các kỹ thuật lia côn nhị khúc, tung côn nhị khúc lên không trung, kỹ thuật điều khiển côn nhị khúc bằng cổ tay, lăn hoặc chuyển hướng côn nhị khúc trên các ngón tay.
Sau giai đoạn tập luyện cơ bản (bậc sơ cấp), người yêu thích côn nhị khúc sẽ tiếp tục học lên cao. Khác hẳn với các môn võ thuật hoặc binh khí khác, việc giảng dạy nâng cao này không tập trung vào việc huấn luyện các đòn thế mà chủ yếu tập trung vào việc hướng dẫn cho môn sinh các CÔNG THỨC sáng tạo đòn thế mới. Từ 1 vài đòn tiêu biểu, sau khi thấm nhuần CÔNG THỨC ấy, môn sinh có thể khai sáng & phối hợp ra vô số các đòn thế khác, mới lạ hơn, đẹp mắt hơn..... (Hiện nay, tại Bộ môn côn nhị khúc của Trung tâm Đào tạo HLV Võ thuật Việt Nam, & từ năm 1985 đến nay, trong hơn 2.000 người đã tập luyện, chưa có 1 môn sinh nào khẳng định "Đã tập luyện được tất cả các kỹ thuật côn nhị khúc theo phân loại như trên!". Điều đó cho thấy, kỹ thuật sử dụng côn nhị khúc tại Việt Nam ngày nay đã phát triển thiên biến vạn hóa, cả về số lượng & độ khó của các đòn thế.
Một số nguyên tắc khi sử dụng côn nhị khúc
1- Nguyên tắc Nhất thể: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất khi sử dụng côn nhị khúc. Theo đó, côn và người sử dụng nó phải hòa nhập thành 1. Côn nhị khúc là sự (phương tiện) nối dài của cánh tay. Sự hợp nhất này giúp tăng cường khả năng kiểm soát và điều khiển côn theo ý muốn của người sử dụng.
2 - Nguyên tắc âm dương: côn nhị khúc là 1 binh khí thể hiện cả sự vận hành của nguyên tắc (triết lý, tư tưởng) âm dương khi sử dụng. Điều quan trọng là người sử dụng tìm ra sự giao hòa âm dương (thả lỏng & trương cơ) trong tất cả các chiêu thức mà mình đã tập luyện. (Nếu chưa phát hiện được điều này sẽ làm người tập rất mau mệt mỏi - vì phải trương cơ liên tục).
3 - Nguyên tắc cương quyết & dứt khoát: Trong mọi kỹ thuật của côn nhị khúc đều yêu cầu người sử dụng chúng phải thực hiện động tác ấy thật cương quyết và dứt khoát. Điều này làm tăng tính mạnh mẽ trong kỹ thuật & thần khí khi thực hiện các bài tập luyện về côn nhị khúc.
3 - Nguyên tắc Đẳng thế: Như trên đã nói, côn nhị khúc là sự nối dài của cánh tay, do đó, việc sử dụng đôi tay thuần thục không có nghĩa là trọng tâm cơ thể (vùng rốn) phải trồi sụt, lắc lư. Tương tự như bộ môn khiêu vũ, hông & vai người sử dụng côn nhị khúc phải thẳng, không được uốn éo, nhấp nhô. Vi phạm nguyên tắc này, bên cạnh việc vi phạm nguyên tắc "nhất thể", nó còn làm cho người xem có cảm giác mệt mỏi, làm mất tính thẩm mỹ và nghệ thuật của côn nhị khúc.
Ngoài ra, người sử dụng côn nhị khúc còn phải lưu ý đến một số nguyên tắc của vật lý học như lực ly tâm (cánh tay đòn), phản lực; điểm tập trung lực, sự hợp lực, sự triệt tiêu lực và tính liên hoàn, nguyên tắc khống chế côn nhị khúc, phương pháp xử lý khi va chạm côn nhị khúc trong tập luyện và thi đấu.
Có 3 thành viên đã gửi lời cám ơn đến Long Phi Vũ vì bài viết hữu ích này:
Trong ấn phẩm “TỰ LUYỆN CÔN NHỊ KHÚC” của Trần Đồng Quang Hòa có nói:
NUNCHAKU (côn nhị khúc) còn gọi là SO-SETSU-KON (lưỡng tiết côn). Nó là công cụ quen thuộc của người dân đảo OKINAWA (xung thằng) trước đây.Họ thường dùng Nunchaku để đập lúa. Sự cấm đoán dùng vũ khí khi người Trung Hoa xâm lăng đảo này vào thế kỷ 15. Đầu thế kỷ thứ 17, giòng họ SATSUMA (Nhật Bản) thống trị OKINAWA và thi hành lệnh cấm tồn trữ và sử dụng bất kỳ loại vũ khí nào. Ngoài tay không, người dân OKINAWA còn dùng các loại nông cụ sẵn có làm vũ khí như liềm cắt cỏ, đòn xay bột và đặt biệt là " NUNCHAKU" đã trở thành những vũ khí lợi hại trong tay họ.
Tuy nhiên cũng có nhiều giả thiết khác về nguồn gốc ra đời của NUNCHAKU, căn cứ theo quyển “ KỸ THUẬT CÔN NHỊ KHÚC” của Võ sư Phong Vũ – Kỳ Anh biên soạn thì theo truyền thuyết côn nhị khúc do Tống Thái Tổ Triệu Khuôn Dẫn sáng chế ra , nguuyên gọi là "đại bàn long côn", thời cận đại ở phương bắc lại gọi là "đại tảo tử" và "tiểu bàn long côn" (tiểu tảo tử). Nhưng lúc bấy giờ "đại bàn long côn" thì có hình thức 1 đoạn ngắn và 1 đọan dài, chuyên dùng để đánh quét vào chân ngựa của địch quân, phá loại binh có trang bị kiên giáp hoặc phá các loại binh khí cứng. làm mất sức chiến đấu của đối phương để bắt sống, về sau loại binh khí này truyền xuống phía Nam tới tận Philippin, phía đông tới Nhật Bản, theo dòng lịch sử côn nhị khúc được cải biến thành hình thức hiện nay: chiều dài toàn bộ côn nhị khúc khoảng 72 cm, hai khúc côn bằng nhau, mỗi khúc dài 30cm, khoảng giữa có 1 đoạn xích sắt hay 1 đoạn dây thừng dài khoảng 12cm nối liền hai khúc côn.
Còn theo quyển “ KỸ THUẬT CÔN NHỊ KHÚC” của Võ sư Từ Thiện – Hồ Tường thì: “Côn nhị khúc là 1 loại binh khí đã được phát sinh từ đảo OKINAWA – 1 hòn đảo nằm ở phía Nam Nhật Bản và cũng là quê hương của môn võ Không Thủ Đạo (Karatédo). Đảo OKINAWA là 1 hòn đảo chính nằm trong quần đảo Ryukyu với tổng số hơn 140 hòn đảo nhỏ, nằm trãi dài từ Nhật Bản ở phía Bắc xuống tới phía nam thềm lục địa của Trung Quốc. Người dân OKINAWA luôn trãi qua nhiều cuộc chiến tranh nội bộ giữa các bộ tộc bản địa, cũng như những cuộc xâm lăng của Trung Quốc và Nhật Bản trong những khoảng thời gian khá dài. Cho nên , có thể nói người dân OKINAWA lúc nào cũng như có sẵn trong người 1truyền thống thượng võ để khẳng tự định mình
Năm 1924, vua Sho Hashi thống nhất các lãnh địa ở OKINAWA và ban hành 1 đạo luật cấm đoán mọi việc mang vũ khí đối với tất cả mọi người, trừ quân cận vệ của nhà vua và quan lại triều đình, nhằm loại trừ các mưu toan bạo động. Như vậy là nhân dân OKINAWA đã bị tước mất tất cả các loại vũ khí thường dùng để chống lại cướp bóc, buộc họ phải tự tìm 1 loại vũ khi 1mới hợp pháp đó là Võ Thuật, tức Kempo, tiền thân của môn võ Karatédo sau này. Những đôi chân, những cánh tay đã được dày công luyện tập để thay thế cho những vũ khí đã bị tước mất. Chưa hết, bước sang đầu thế kỷ 17, OKINAWA lại bị Nhật Bản xâm lăng với 1 chính sách cai trị vô cùng khắc nghiệt, sưu cao, thuế nặng. Thế là có những cuộc nổi dậy nơi này, nơi khác để chống đối lại. Nhà cầm quyền xâm lăng đã tức thời ban 1 đạo luật tịch thu toàn bộ các loại vũ khí trong nhân dân. Một chiến dịch được mệnh danh là “ săn lùng kiếm” đã được tiến hành khắp trên lãnh thổ OKINAWA. Nông dân, thị dân và thậm chí các sư sãi cũng có thể bị hành hình do việc tàng trữ vũ khí dù chỉ là 1 lưỡi dao cạo, để ngăn chặn khả năng sản xuất bất kỳ loại vũ khí nào trong nhân dân, tất cả các lò rèn ở các làng xóm đều bị đóng cửa và các dụng cụ gia đình bằng sắt đều bị tịch thu. Suốt thời kỳ đàn áp dã man này, nông dân chỉ được sử dụng 1 con dao độc nhất cho cả làng, do 1 lính canh người Nhật cất giữ. Người sử dụng phải ký mượn và chỉ được dùng trong 1 thời gian rất ngắn. Thế là bằng Võ Thuật và bằng trí tuệ, nhân dân OKINAWA đã sáng tác ra nhiều loại vũ khí mới thoát thai từ những dụng cụ nông nghiập được phép lưu dụng, nhằm phối hợp với Võ Thuật để đấu tranh chống lại chính sách cai trị nghiệt ngã của Nhật Bản.
Môn côn nhị khúc đã được phát sinh trong thời gian này, cùng với nhiều vũ khí khác như: côn dài (bo), liềm cắt lúa (kama), song quải (tuifa), kiếm ngắn (sai). Tất cả những loại vụ khí này đều cũng có thể được mang dấu an toàn trong người nhằm qua mắt được bọn lính canh xâm lược. và dĩ nhiên trong từng loại vũ khí, những người OKINAWA sử dụng nó đều dày công luyện tập để phát huy tốt nhất khả năng của từng loại”
Côn nhị khúc không biết đã du nhập vào Việt Nam từ bao giờ, nhưng có lẽ khi nhắc đến Côn Nhị Khúc thì đồng thời ai cũng nghĩ ngay đến siêu sao điện ảnh Võ Thuật Lý Tiểu Long, có thể nói chính Lý Tiểu Long là người đầu tiên đã đưa Côn Nhị Khúc vào điện ảnh, với tài năng Võ Thuật xuất chúng của mình Lý Tiểu Long không chỉ làm nên tên tuổi của chính ông mà cũng đã góp 1 phần rất lớn trong việc truyền bá môn Côn Nhị Khúc
Nguồn gốc từ " NUNCHAKU"
Côn nhị khúc còn gọi là Nunchaku, theo Nguyễn Văn Quang, huyền đai đệ tứ đẳng Karaté, nguyên giám đốc võ đường Champion Karaté,
thì ngày xưa, khi phát kiến ra môn Nunchaku ( Côn nhị khúc), cái tên đó là kết hợp của những chữ sau đây:
N : chữ viết tắt của Côn Nhị Khúc (Nunchaku).
U : chữ tắt của Unrelengting (cứng rắn) vì muốn bảo vệ hay sử dụng vũ khi này chúng ta phải cương quyết.
N : chữ tắt của national (quốc gia) vì chúng ta phải đoàn kết mới có hiệu quả, như hai đầu côn nhị khúc được nối lại với nhau bằng 1 sợi dây.
C : chữ tắt của Care (cẩn thận) vì chúng ta phải cẩn thận khi sử dụng vũ khí này với kẻ địch.
H : chữ tắt của Holocaust (sự phá hủy)
A : chữ tắt của Adherance (sự kết chặt) vào 1 quy luật để quần chúng thừa nhận thứ vũ khí này.
K : chữ tắt của Karaté-do
U: chữ tắt của Uniformity (sự đồng nhất) của toàn bộ quy luật và luật lệ được áp dụng.
Cấu tạo của côn nhị khúc:
Côn nhị khúc gồm hai khúc gỗ cứng dài bằng nhau, có tiết diện hình tròn, lục giác, bát giác hoặc hình khối chữ nhật. Phần tận cùng gọi là “KONTEI” (đuôi hay đuôi côn) hơi lớn hơn phần “KONTO” (đầu côn).Chiều dài của mỗi đoạn côn bằng với chiều dài từ cùi chỏ đến giữa lòng bàn tay người tập là vừa, chúng được nối với nhau bằng 1 sợi thừng bện bằng lông đuôi ngựa hoặc dây xích sắt gọi là “HIMO”,chiều dài của đoạn dây sao cho đủ quấn quanh tròn cổ tay của người tập, dài hơn hay ngắn hơn đề thiếu linh hoạt khi sử dụng.
Côn nhị khúc thọat nhìn giống như 1 món đồ chơi rất hiền hòa hơn là 1 món vũ khí lợi hại, nhất là khi nguồn gốc của nó là 1 cái chày kẹp lúa để đập của người dân Đông – Nam Á.
Tuy nhiên do cấu trúc Côn Nhị Khúc luôn được tung ra theo những vòng tròn, hay sự căng giật của dây nối và đầu côn nắm trong tay, cho nên có 1 sức công phá rất mạnh, do sức ly tâm phát sinh khi quay, và phản lực khi giật. Từ đặc điểm trên người tập Côn Nhị Khúc phải dày công luyện tập, để cho đổi tay nhanh nhẹn, cứng rắn, để cơ thể phối hợp với đôi tay, để sự kiên trì ngày càng được chất cao trong tâm khảm, để sự nhạy bén của trí não luôn được vận dụng…..hầu như có thể sử dụng Côn Nhị Khúc như ý mình: đó là rèn luyện nghị lực, rèn luyện sức khỏe, bênh vực người chính nghĩa thế cô. Cách chọn lựa côn nhị khúc:
Mỗi loại gỗ có trọng lượng và sức bền khác nhau, cho nên khi bước vào tập luyện côn nhị khúc, bạn nên chọn lựa 1 cây côn nhị khúc sao cho:
- Vừa với sức cầm của tay mình.
- Có kích cỡ đúng với nguyên tắc đòi hỏi ( như đã trình bày ở phần trên).
- Chất lượng gỗ phải bền, có thể va chạm mạnh mà không bị gãy. Lưu ý rằng có nhiều loại gỗ có vân, sớ rất mỹ thuật được nhiều người ưa dùng thì lại dễ bị bể theo các vân, sớ khi va chạm.
Với cây côn nhị khúc đã chọn rồi, bạn sẽ sử dụng nó suốt trong quá trình tập luyện cho tới khi ra tự vệ. Như vậy hiệu quả đạt được mới ở mức cao. Các bạn không nên khi tập luyện thì dùng côn này, mà khi sử dụng để biểu diễn hay tự vệ thì dùng côn khác, như thế bạn sẽ dễ bị hẫng với cây côn mới do chưa quen tay, do mỗi cây côn có trọng lượng khác nhau.
Ngòai ra đối với loại côn nhị khúc làm bằng gỗ tốt khi gõ hai thanh vào nhau sẽ tạo nên 1 thứ âm thanh rất kêu, còn các loại gỗ xấu thì khi gõ vào nhau sẽ tạo nên 1 thứ âm thanh rất trầm. Dĩ nhiên chúng ta nên chọn loại có âm thanh rất kêu.
Một số bạn chế tạo loại thân cônbằng kim loại (sắt, inox..) điều này theo tôi là không tốt. Không tốt trước hết là ở việc sử dụng , loại côn này sẽ gây nên những tác hại rất nguy hiểm. Không tốt thứ hai là ở chỗ chất cấu tạo kim loại sẽ gây khó khăn trong việc cầm nắm côn nhị khúc.
Cách bảo quản côn nhị khúc:
Cũng như tất cả các loại vũ khí khác, côn nhị khúc cũng phải được bảo quản tốt, hầu tạo được hiệu quả tốt trong tập luyện, sử dụng, cũng như tránh được những sự cố nguy hiểm có thể xảy ra như: gãy côn, đứt dây…)
Chế độ bảo quản đối với thân côn là luôn được lau chùi kỹ lưỡng, 1 tháng vài lần, bằng cách tẩm dầu ôliu vào 1 mảnh vải mềm rồi tiến hành lau chùi. Nếu không có dầu ôliu thì có thể dùng các loại dầu khác như: dầu sơn cây trà…Sự lau chùi này giúp cho bạn cầm côn nhị khúc được dễ dàng và không làm chai tay khi bạn tập luyện nhiều.
Ngòai ra đối với dây côn thì cũng cần có 1 chế độ bảo quản thích hợp. Nếu bạn dùng loại côn nhị khúc nối với nhau bằng 1 đoạn dây nilon thì cạnh trong của lỗ cột dây côn bạn nên quét 1 lớp nhựa sơn, để tránh sự cọ xát quá mạnh làm cho dây côn mau đứt. Ngay cả sợi dây, nếu được bạn cũng nên sơn 1 lớp nhựa trơn. Có như vậy bạn mới tập luyện được 1 thời gian lâu dài và tránh được phần nào nguy hiểm khi dây đứt. Các loại côn có dây xích bằng sắt cũng phải thường xuyên được kiểm tra, bởi sự chuyển động xoay chiều làm cho các khoen sắt cọ xát, dễ tạo sự ăn mòn dẫn đến việc dây bị đứt. Tốt nhất là trước khi sử dụng côn nhị khúc để tập luyện hay tự vệ bạn cần 1 bước kiểm tra lại dây côn xem còn tốt hay không…..
TRÊN ĐÂY LÀ MỘT SỐ NÉT ĐẶC TRƯNG VỀ NGUỒN GỐC, XUẤT XỨ VÀ SƠ LƯỢC 1 VÀI NÉT VỀ CẤU TẠO CŨNG NHƯ ĐẶC TÍNH CỦA CÔN NHỊ KHÚC, CÁC BẠN CÓ THỂ THAM KHẢO THÊM 1 SỐ SÁCH NHƯ:
1. Tuyệt Kỹ Lý Tiểu Long – HƯỚNG DẪN TỰ LUYỆN CÔN NHỊ KHÚC - Võ sư Phong Vũ – Kỳ Anh biên sọan – Nhà xuất bản Đà Nẵng phát hành.
2. Tự Luyện Côn Nhị Khúc – của Trần Đồng Quang Hòa – nhà xuất bản Mũi Cà Mau phát hành.
3. Võ thuật tinh hoa – KỸ THUẬT CÔN NHỊ KHÚC ( căn bản và nâng cao) – Võ sư Từ Thiện – Hồ Tường - Nhà xuất bản Đồng Nai phát hành.
Đây là một số tư liệu mà LPV sử dụng để phục vụ trong bài viết của mình, xin thành thật cảm ơn quý tác giả và các bạn đã theo dõi bài viết.
Có 3 thành viên đã gửi lời cám ơn đến Long Phi Vũ vì bài viết hữu ích này:
Côn nhị khúc là vũ khí của Karate và đã có rất nhiều sách, tài liệu hướng dẫn tập luyện. Theo hệ thống luyện tập karate thì võ sinh cần học cơ bản Karate trước, đến trình độ đai đen mới bắt đầu tập Côn nhị khúc. Trong sách dậy Côn nhị khúc thì động tác cơ bản Côn nhị khúc cũng tương tự như kỹ thuật tay Karate.
Ngay tại Sài gòn những năm trước 1975, có sách dậy Côn nhị khúc do võ sư karate người Việt biên soạn.
Kỹ thuật sử dụng Côn nhị khúc được phân chia thành các nhóm nhỏ như sau:
Kỹ thuật quay (loan): số 8, vòng tròn, anpha....
Kỹ thuật quật: xéo, dọc, ngang.
Kỹ thuật chuyền: có 8 động tác cơ bản & 32 biến thể: chuyền trước, sau, đổi tay, qua hông, qua cổ.
Kỹ thuật lăn: có 4 động tác lăn cơ bản & vô số các bài tập phối hợp khác (Đây là nhóm kỹ thuật có xuất xứ đầu tiên tại Việt Nam).
Nhóm các tư thế thủ, cận chiến (bật, ném,...) & kỹ thuật sử dụng 2, 3 côn nhị khúc cùng lúc hoặc luân phiên.
Ngoài ra, trong các bài tập phối hợp & nâng cao còn có nhóm các kỹ thuật lia côn nhị khúc, tung côn nhị khúc lên không trung, kỹ thuật điều khiển côn nhị khúc bằng cổ tay, lăn hoặc chuyển hướng côn nhị khúc trên các ngón tay.
Sau giai đoạn tập luyện cơ bản (bậc sơ cấp), người yêu thích côn nhị khúc sẽ tiếp tục học lên cao. Khác hẳn với các môn võ thuật hoặc binh khí khác, việc giảng dạy nâng cao này không tập trung vào việc huấn luyện các đòn thế mà chủ yếu tập trung vào việc hướng dẫn cho môn sinh các CÔNG THỨC sáng tạo đòn thế mới. Từ 1 vài đòn tiêu biểu, sau khi thấm nhuần CÔNG THỨC ấy, môn sinh có thể khai sáng & phối hợp ra vô số các đòn thế khác, mới lạ hơn, đẹp mắt hơn..... (Hiện nay, tại Bộ môn côn nhị khúc của Trung tâm Đào tạo HLV Võ thuật Việt Nam, & từ năm 1985 đến nay, trong hơn 2.000 người đã tập luyện, chưa có 1 môn sinh nào khẳng định "Đã tập luyện được tất cả các kỹ thuật côn nhị khúc theo phân loại như trên!". Điều đó cho thấy, kỹ thuật sử dụng côn nhị khúc tại Việt Nam ngày nay đã phát triển thiên biến vạn hóa, cả về số lượng & độ khó của các đòn thế.
Một số nguyên tắc khi sử dụng côn nhị khúc
1- Nguyên tắc Nhất thể: Đây là nguyên tắc quan trọng nhất khi sử dụng côn nhị khúc. Theo đó, côn và người sử dụng nó phải hòa nhập thành 1. Côn nhị khúc là sự (phương tiện) nối dài của cánh tay. Sự hợp nhất này giúp tăng cường khả năng kiểm soát và điều khiển côn theo ý muốn của người sử dụng.
2 - Nguyên tắc âm dương: côn nhị khúc là 1 binh khí thể hiện cả sự vận hành của nguyên tắc (triết lý, tư tưởng) âm dương khi sử dụng. Điều quan trọng là người sử dụng tìm ra sự giao hòa âm dương (thả lỏng & trương cơ) trong tất cả các chiêu thức mà mình đã tập luyện. (Nếu chưa phát hiện được điều này sẽ làm người tập rất mau mệt mỏi - vì phải trương cơ liên tục).
3 - Nguyên tắc cương quyết & dứt khoát: Trong mọi kỹ thuật của côn nhị khúc đều yêu cầu người sử dụng chúng phải thực hiện động tác ấy thật cương quyết và dứt khoát. Điều này làm tăng tính mạnh mẽ trong kỹ thuật & thần khí khi thực hiện các bài tập luyện về côn nhị khúc.
3 - Nguyên tắc Đẳng thế: Như trên đã nói, côn nhị khúc là sự nối dài của cánh tay, do đó, việc sử dụng đôi tay thuần thục không có nghĩa là trọng tâm cơ thể (vùng rốn) phải trồi sụt, lắc lư. Tương tự như bộ môn khiêu vũ, hông & vai người sử dụng côn nhị khúc phải thẳng, không được uốn éo, nhấp nhô. Vi phạm nguyên tắc này, bên cạnh việc vi phạm nguyên tắc "nhất thể", nó còn làm cho người xem có cảm giác mệt mỏi, làm mất tính thẩm mỹ và nghệ thuật của côn nhị khúc.
Ngoài ra, người sử dụng côn nhị khúc còn phải lưu ý đến một số nguyên tắc của vật lý học như lực ly tâm (cánh tay đòn), phản lực; điểm tập trung lực, sự hợp lực, sự triệt tiêu lực và tính liên hoàn, nguyên tắc khống chế côn nhị khúc, phương pháp xử lý khi va chạm côn nhị khúc trong tập luyện và thi đấu.
Cái khúc đỏ đỏ đó bạn, dùng tới 3 côn nhị khúc thì cái côn thứ 3 đánh bằng răng hử bạn, cấm thì có thể cầm tời 10 cái côn, nhưng sử dụng hiệu quá tới 3 cái mình chưa nghe qua
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Thắng tài dậu vì bài viết hữu ích này:
Cái khúc đỏ đỏ đó bạn, dùng tới 3 côn nhị khúc thì cái côn thứ 3 đánh bằng răng hử bạn, cấm thì có thể cầm tời 10 cái côn, nhưng sử dụng hiệu quá tới 3 cái mình chưa nghe qua
Côn nhị khúc có 36 biến thế. Trong bài đó chỉ nhắc tới một vài biến thế. còn 32 biến thế nữa thì ít có người tập được lắm.
Nếu chưa tìm hiểu kỹ thì đừng phát biểu liều nhé
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Long Phi Vũ vì bài viết hữu ích này: