Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Đã khóa chủ đề
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 24-03-2010   #361
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.182
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lý Anh Tông (1136 - 1175)

Lý Anh Tông là vua nhà Lý, tên huý là Lý Thiên Tộ, lên ngôi lúc 2 tuổi (1138), con trưởng Lý Thần Tông và hoàng hậu Lê Thị. Quê ở làng Cổ Pháp, nay là huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh. Quyền chính ở nơi Thái úy Đỗ Anh Võ. Do đấy, họ Đỗ lộng quyền rồi tư thông với Lê Thái hậu (mẹ vua), lại càng hống hách, việc xấu ở cung đình bị phát giác, nhờ Võ Đái và Nguyễn Dương bắt Đỗ Anh Võ, nhưng nhà vua vì mẹ mà bỏ qua cho Anh Võ, khiến Nguyễn Dương và Võ Đái sau đó bị Anh Võ giết chết.

Nội chính, ngoại biên rối loạn, dân tình khốn khổ. Đến khi Đỗ Anh Võ chết, Tô Hiến Thành thay làm Thái úy, sửa sang triều chính, chinh phục được quân Chiêm. Lúc bấy giờ, tình hình trong nước mới yên, nhân dân mới được yên ổn.

Nhà vua hối hận việc trước, đến khi sắp mất có lời dặn con:

"...Quốc gia sơn kì thủy tú, nhân kiệt địa linh, châu ngọc bảo bối, mị bất sinh yên. Tha quốc mạc tỉ dã. Nghi thận thử chi".

Nghĩa:

Nước ta non sông gấm vóc, người giỏi, đất thiêng, châu ngọc quí báu, không có gì không có. Nước khác không thể nào bì được. Con hãy nên giữ nước cẩn thận.
(theo Việt sử lược).

Tháng 7 năm Ất Mùi (1175), vua băng, hưởng dương 39 tuổi, ở ngôi 37 năm, đổi niên hiệu 4 lần:

1. Thiệu Minh: Đinh Tỵ 1137 - Kỷ Mùi 1139
2. Đại Định: Canh Thân 1140 - Nhâm Ngọ 1162
3. Chính Long Bảo Ứng: Quý Mùi 1163 - Quý Tỵ 1173
4. Thiên Cảm Chí Bảo: Giáp Ngọ 1174 - Ất Mùi 1175

Theo Đại Việt sử kí toàn thư, nhà vua có biên soạn cuốn Nam Bắc phiên giới đồ trong năm 1172, nay đã mất.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 24-03-2010   #362
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.182
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lý Bí - Lý Nam Đế (503 – 548)

Lý Bí (李賁) cũng gọi là Lý Bôn (do âm Hán Việt đọc là Bí hoặc Bôn), ông là người gầy dựng nên sự nghiệp nhà Tiền Lý, xưng Nam Đế, sinh ngày 17-10-503 (nhằm ngày 12 tháng 9 năm Quý Mùi), quê phủ Long Hưng, nay thuộc tỉnh Thái Bình. Ông là con trưởng của Lý Toản và bà Lê Thị Oánh. Lúc 5 tuổi bố mất, 7 tuổi mẹ mất, phải ở với chú ruột. Vị pháp tổ thiền sư thấy khôi ngô tuấn tú xin làm con nuôi đưa về chùa Linh Bảo nuôi dạy.

Từ nhỏ ông đã tỏ ra là cậu bé thông minh và hiểu biết. Lớn lên, tài văn võ song toàn, Lý Bí được tôn lên làm thủ lĩnh Địa Phương.

Thấy nhân dân ta vô cùng thống khổ dưới sự đô hộ tàn ác của Tiêu Tư. Tháng 1-542, Lý Bí lãnh đạo nhân dân khởi binh tấn công quân Lương. Thứ sử Tiêu Tư khiếp sợ bỏ chạy về nước. Chưa đầy 3 tháng, Lý Bí đã chiếm được hầu hết các quận, huyện và thành Long Biên. Nhà Lương sai tướng đem quân sang phản công chiếm lại, Lý Bí đã cho quân mai phục đánh tan bọn xâm lược.

Đầu năm 543, vua Lương lại huy động binh mã sang xâm lược nước ta một lần nữa. Lý Bí chủ động đem quân đón đánh ở bán đảo Hợp Phố, quân Lương bị tiêu diệt gần hết.
Tháng 2 năm Giáp Tý (544), Lý Bí lên ngôi Hoàng đế lấy niên hiệu là Lý Nam Đế, đặt tên nước là Vạn Xuân, đóng đô ở Long Biên.

Nhà Lương lại sai tướng Dương Phiêu và Trần Bá Tiên đem quân xâm lược. Ông chống cự nhiều trận bị thua, rút quân về đóng ở hồ Điển Triệt (huyện Lập Thạch). Quân Lương tiến công, ông thất thế chạy vào động Khuất Liêu (thuộc tỉnh Hưng Hoá), rồi bệnh mất ngày 13-4-548 (nhằm ngày 20-3 năm Mậu Thìn). Tướng của ông là Triệu Quang Phục tiếp tục kháng chiến.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 24-03-2010   #363
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.182
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lý Cao Tông (1173 – 1210)

Lý Cao Tông là vua nhà Lý, sinh ngày 06-07-1173 nhằm ngày 25-05 Quý Tỵ (1173), tên huý là Lý Long Trát, còn có tên khác là Lý Long Cán, con thứ 6 Lý Anh Tông (李英宗; 1138-1175) và Hoàng hậu Đỗ Thụy Châu. Quê ở làng Cổ Pháp, nay là huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.

Năm 1175, sau khi Anh Tông mất, hoàng hậu vợ chính của Anh Tông là Chiêu Linh thái hậu muốn lập con mình là Long Xưởng lên ngôi nhưng nhờ có sự kiên quyết của thái uý Tô Hiến Thành, Cao Tông vẫn được tôn phù ở ngôi báu.

Năm 1176, khi Lý Long Trát mới 3 tuổi đã được đưa lên ngôi. Không lâu sau, Tô Hiến Thành đã tuổi già sức yếu, qua đời năm 1179. Trước khi mất, vì vua còn nhỏ tuổi nên Hiến Thành tiến cử Trần Trung Tá với Đỗ thái hậu. Thái hậu dù khen hay nhưng cuối cùng không theo lời, lấy Đỗ An Di làm phụ chính.

Năm 1181, Long Xưởng muốn mưu làm loạn. Thái hậu dùng Lý Kính Tu làm đế sư (thầy của vua), trong thì hầu việc giảng sách, ngoài thì dạy dân trung hiếu, từ đấy Chiêu Linh thái hậu và Long Xưởng không dám manh tâm mưu khác nữa. Cao Tông tuy giữ được ngôi vua nhưng khi trưởng thành đã không trở thành minh quân của nhà Lý.

Tháng 3 năm 1189, Cao Tông đi du hành khắp các nơi trong cả nước, đi đến đâu mà có thần linh lại cho xây dựng đền miếu. Năm 1190, ông dùng em vợ là Đàm Dĩ Mông vốn là người không có học làm thái phó nên việc triều chính càng suy sút.

Tháng 9 năm 1203 nhân khi triều chính rối ren nên Phí Lang và Bảo Lương làm loạn. Vua sai Trần Lệnh Hinh làm Nguyên soái và Thượng thư Từ Anh Nhữ đem quân từ phủ Thanh Hóa tiến đánh Phí Lang nhưng bị thua, cả hai tướng đều bị giết; đến tháng giêng năm sau lại sai Đỗ Kính Tu đi đánh nhưng vẫn tiếp tục bại trận.

Đến năm 1207 lại tiếp tục có cuộc nổi loạn của người Man ở núi Tản Viên, thanh thế rất lớn. Cũng trong năm này, vua ban ra tờ chiếu hối lỗi. Tháng 3 năm 1207, Đoàn Thượng, Đoàn Chủ hào trưởng ở Hồng Châu nổi dậy, xây đắp thành lũy, xưng vương hiệu. Cao Tông phái rất nhiều quân đi đánh Hồng Châu chia thành nhiều hướng cùng họp nhau đánh Đoàn Thượng: Đàm Dĩ Mông đem quân đạo Đại Thông; Phạm Bỉnh Di đem quân đạo Khả Liễu; Trần Hinh đem quân đạo Phù Đái; Bảo Trinh hầu đem quân đạo Nam Sách.

Đầu năm 1209, Cao Tông sai Phạm Du coi việc quân ở châu Nghệ An. Phạm Du xin tuyển trai tráng để tự đề phòng nhưng thực chất là tuyển chọn quân cho mình làm phản. Cao Tông lại sai Phạm Bỉnh Di dẫn quân từ Đằng Châu đi đánh Phạm Du. Tuy nhiên, thế lực của Phạm Du mạnh nên Bỉnh Di bị thua.

Tháng 2 năm 1209, Phạm Bỉnh Di lại đem binh ở Đằng Châu, Khoái Châu đi đánh Du. Phạm Du thua trận bỏ trốn. Bỉnh Di tịch biên gia sản của Du rồi đốt hết.

Tháng 4 năm 1209, Phạm Bỉnh Di đánh tan quân Đoàn Thượng. Phạm Du ngầm sai người về kinh đút lót cho bọn quan lại trong triều, nói rằng Phạm Bỉnh Di tàn ác, giết hại người vô tội và kể lể tình oan, xin về kinh đợi tội. Cao Tông triệu cả Phạm Du và Phạm Bỉnh Di về triều. Phạm Du về kinh trước hầu Cao Tông, được vua tin cẩn; Phạm Bỉnh Di đến kinh sau, vào triều phụng mệnh. Cao Tông sai bắt Phạm Bỉnh Di và con là Phụ giam ở Thủy Viên chờ ngày định tội.

Quách Bốc là tướng Phạm Bỉnh Di khi nghe tin chủ tướng của mình bị bắt nên đã đem binh lính phá cửa Đại Thanh kéo vào nội điện để cứu. Phạm Du cùng em là Phạm Kinh giết hai cha con Bỉnh Di rồi cùng Cao Tông chạy trốn lánh ra vùng Quy Hóa (Thao Giang, ở phía Bắc, huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ). Quách Bốc tôn hoàng tử Thầm lên làm vua. Thái tử Sảm cùng mẹ và hai em gái chạy lánh vào vùng Hải Ấp, Thái Bình. Thái tử Sảm lấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung làm vợ, phong cho Trần Lý tước Minh Tự, Tô Trung Từ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Hai người này với danh nghĩa giúp thái tử Sảm đã chiêu tập binh lính kéo về đánh Quách Bốc, đưa thái tử Sảm lên ngôi vua, giáng Lý Thầm làm vương. Cuối năm 1209, loạn Quách Bốc được dẹp, Trần Lý tử trận, Tô Trung Từ đón Lý Cao Tông về cung.

Khi còn nhỏ, Cao Tông là người ngoan lành, song khi trưởng thành bắt đầu trực tiếp cầm quyền trị nước lại sinh ra đam mê hưởng lạc, thích săn bắn, chính sự pháp luật không rõ ràng, vơ vét của dân xây nhiều cung điện, bắt trăm họ xây dựng phục dịch, xã hội thối nát, giặc cướp dấy lên nhiều nơi, dân tình khốn khổ, triều chính suy tàn. Nhân đó ông soạn khúc nhạc “Chiêm Thành âm” có giọng điệu ai oán, sĩ phu đều chê trách.

Ngày 17-11-1210 nhằm ngày 28-10 Canh Ngọ nhà vua băng hà tại cung Thánh Thọ, hưởng dương 37 tuổi, ở ngôi 34 năm, đổi niên hiệu 4 lần:

• Trinh Phù: Bính Thân (1176) - Bính Ngọ (1186)
• Thiên Tư Gia Thụy: Bính Ngọ (1186) - Tân Dậu (1201)
• Thiện Gia Bảo Hựu: Tân Dậu (1201) - Ất Sửu (1205)
• Trị Bình Long Ứng: Ất Sửu (1205) - Canh Ngọ (1210)

Sau khi Cao Tông mất, thái tử Sảm lên ngôi, lấy tên hiệu là Lý Huệ Tông

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 24-03-2010   #364
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.182
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lý Chiêu Hoàng (1218-1278)

Lý Chiêu Hoàng (李昭皇) có tên huý là Lý Phật Kim (李佛金), sau đổi là Thiên Hinh (天馨), tức công chúa Chiêu Thánh, là con gái vua Lý Huệ Tông và mẹ là bà Trần Thị Dung, chị là công chúa Thuận Thiên. Bà là vị vua nữ đầu tiên cũng là vị vua cuối cùng của triều nhà Lý.

Vua Lý Huệ Tông không có con trai, lập công chúa làm hoàng thái tử rồi truyền ngôi, đổi niên hiệu là Thiên Chương Hữu Đạo, gọi là Lý Chiêu Hoàng. Đó là vị vua thứ 9 và cuối cùng của nhà Lý. Năm (1224-1225), họ Trần nắm giữ binh quyền và các chức vụ quan trọng. Dưới sự của Trần Thủ Độ, Trần Cảnh là cháu họ, con của Trần Thừa, 8 tuổi được đưa vào cung làm Chánh thủ hầu hạ Lý Chiêu Hoàng. Trần Cảnh được Chiêu Hoàng gần gũi, yêu mến. Trần Thủ Độ lấy dịp đó dựng nên cuộc hôn nhân giữa Lý Chiêu Hoàng và Trần Cảnh rồi chuyển giao triều chính bằng cách để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng.

Ngày 21-10-1225, Chiêu Hoàng nhường ngôi cho Trần Cảnh.

Sau khi nhường ngôi, Lý Chiêu Hoàng được phong Chiêu Thánh hoàng hậu. Vì lấy nhau 12 năm bà không có con, nên Trần Thủ Độ ép vua phải bỏ bà, phế làm công chúa. Trần Cảnh lúc đầu phản đối mạnh mẽ nhưng do Trần Thủ Độ dọa giết anh là Trần Liễu, cuối cùng cũng phải chịu nghe theo.

Cuối năm 1257, quân Nguyên sang đánh nước ta, vua phải thân chinh đi đánh dẹp, có Lê Phụ Trần luôn ở bên mình bảo vệ. Khi toàn thắng, vua gả công chúa cho Lê Phụ Trần để thưởng công.

Năm 1278, bà mất, thọ 61 tuổi.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 24-03-2010   #365
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.182
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lý Chính Thắng (? - 1946)

Lý Chính Thắng là Liệt sĩ cách mạng, không rõ năm sinh, quê ở tỉnh Hà Tĩnh, vào Nam sinh sống và tham gia cách mạng.

Lúc đầu ông gia nhập tổ chức Thanh niên cách mạng đồng chí hội. Năm 1930 là đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương, hoạt động tích cực, trải qua các cấp ủy từ chi bộ lên đến thành ủy viên kiêm thư ký công đoàn Sài Gòn - Gia Định năm 1945. Sau ngày Nam Bộ kháng chiến bùng nổ, từ tháng 11-1945 lực lượng ta rút về An Phú Đông, ông lập trạm đón tiếp công nhân từ thành phố ra và phụ trách tờ báo Cảm Tử của quân đội.

Tháng 3-1946 quân Pháp tấn công An Phú Đông lần thứ hai, quân ta chống cự rất anh dũng từ sáng đến chiều, đẩy lui được địch, giết chết 100 tên, bên ta 20 chiến sĩ hy sinh. Ông bị thương nặng, được đem vào bệnh viện Chợ Rẫy và mất trong đó.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 24-03-2010   #366
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.182
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lý Công Uẩn - Lý Thái Tổ (974 – 1028)

Lý Thái Tổ (李太祖) có tên huý là Lý Công Uẩn (李公蘊), thụy hiệu Thần Vũ hoàng đế. Ông là vị vua đầu tiên của nhà Lý, quê ở làng Cổ Pháp, xã Đình Bảng, huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh, sinh ngày 8-3-974 nhằm ngày 12-2 năm Giáp Tuất tại chùa Cổ Pháp. Thân mẫu ông họ Phạm.

Năm lên 3 tuổi ông làm con nuôi trụ trì Lý Khánh Vân chùa Cổ Pháp và được đặt tên là Lý Công Uẩn, đến tuổi trưởng thành ông thông minh, có tài văn võ, được sự bảo hộ của sư Lý Vạn Hạnh là anh trai sư Lý Khánh Vân, ông vào Hoa Lư làm quan nhà Tiền Lê, thăng đến chức Tả thân vệ Điện tiền Chỉ huy sứ.

Năm 1009, khi ông 35 tuổi, vua Lê Long Đỉnh (Lê Ngoạ Triều) mất, lại thêm lòng người lúc bấy giờ oán giận nhà Tiền Lê, lực lượng của Đào Cam Mộc cùng với sư Vạn Hạnh đã tôn ông lên làm vua. Nhà Tiền Lê suy vì Lê Ngọa Triều bạo ngược, triều thần là Đào Cam Mộc ngầm mưu với sư Lý Vạn Hạnh thường khuyên ông hãy sẵn sàng lật đổ nhà Lê. Ông cùng Hữu điện tiền chỉ huy sứ là Nguyễn Đề đem 500 quân Tùy Long vào cung canh giữ. Nhân thời cơ, Đào Cam Mộc giục ông hành động. Cuộc “đảo chính” thành công chớp nhoáng.

Ông lên ngôi vua, sáng nghiệp nhà Lý, dời đô ra thành Đại La (sau đổi là Thăng Long - Hà Nội). Ông sửa sang chính trị, trọng dụng Đào Cam Mộc, gả em gái là An Quốc cho, phong tước Nghĩa Tín hầu. Mặt khác, ông cũng trọng đãi tăng sĩ, chú trọng việc đúc tượng, xây chùa, thời kì này xem đạo Phật như là Quốc giáo.

Ngày 3-3 Mậu Thìn (31-3-1028) ông mất hưởng dương 54 tuổi, ở ngôi 19 năm, niên hiệu là Thuận Thiên.

Tác phẩm

Ngoài ra, ông còn là một tác giả. Các tác phẩm tiêu biểu của ông như:
• Thiên đô chiếu (Chiếu dời đô).
• Hoàng triều ngọc văn (văn)
• Tức sự (thơ).

Chiếu Dời Đô

Chiếu dời đô hay Thiên đô chiếu (遷都詔) là văn bản được cho rằng do vua Lý Thái Tổ ban hành vào mùa xuân năm 1010 để chuyển kinh đô của nước Đại Cồ Việt từ Hoa Lư (thuộc tỉnh Ninh Bình ngày nay) ra thành Đại La (Hà Nội ngày nay). Theo ý kiến GS Trần Quốc Vượng, Chiếu dời đô đã khẳng định được vai trò của kinh đô Thăng Long,[2] nó được coi là tác phẩm khai sáng văn học Hà Nội và triều Lý. Tuy nhiên, chiếu dời đô chưa nêu bật được tinh thần dân tộc và khát vọng độc lập, hơn nữa ngôn ngữ sử dụng trong văn bản này mang đượm màu sắc dị đoan, phong thủy.

Bản chữ Hán:

昔商家至盤庚五遷。周室迨成王三徙� �豈三代之數君徇于己私。妄自遷徙。� ��其圖大宅中。爲億万世子孫之計。上 謹天命。下因民志。苟有便輒改。故� �祚延長。風俗富阜。而丁黎二家。乃� ��己私。忽天命。罔蹈商周之迹。常安 厥邑于茲。致世代弗長。算數短促。� �姓耗損。万物失宜。朕甚痛之。不得� ��徙。
况高王故都大羅城。宅天地區域之中� �得龍蟠虎踞之勢。正南北東西之位。� ��江山向背之宜。其地廣而坦平。厥土 高而爽塏。民居蔑昏墊之困。万物極� �阜之丰。遍覽越邦。斯爲勝地。誠四� ��輻輳之要会。爲万世帝王之上都。
朕欲因此地利以定厥居。卿等如何。

Bản phiên âm Hán-Việt:

Tích Thương gia chí Bàn Canh ngũ thiên, Chu thất đãi Thành Vương tam tỉ. Khởi Tam Đại chi sổ quân tuẫn vu kỷ tư, vọng tự thiên tỉ. Dĩ kỳ đồ đại trạch trung, vi ức vạn thế tử tôn chi kế; thượng cẩn thiên mệnh, hạ nhân dân chí, cẩu hữu tiện triếp cải. Cố quốc tộ diên trường, phong tục phú phụ. Nhi Đinh Lê nhị gia, nãi tuẫn kỷ tư, hốt thiên mệnh, võng đạo Thương Chu chi tích, thường an quyết ấp vu tư, trí thế đại phất trường, toán số đoản xúc, bách tính hao tổn, vạn vật thất nghi. Trẫm thậm thống chi, bất đắc bất tỉ.
Huống Cao Vương cố đô Đại La thành, trạch thiên địa khu vực chi trung; đắc long bàn hổ cứ chi thế. Chính Nam Bắc Đông Tây chi vị; tiện giang sơn hướng bối chi nghi. Kỳ địa quảng nhi thản bình, quyết thổ cao nhi sảng khải. Dân cư miệt hôn điếm chi khốn; vạn vật cực phồn phụ chi phong. Biến lãm Việt bang, tư vi thắng địa. Thành tứ phương bức thấu chi yếu hội; vi vạn thế đế vương chi thượng đô.
Trẫm dục nhân thử địa lợi dĩ định quyết cư, khanh đẳng như hà?


Bản dịch tiếng Việt:

Xưa nhà Thương đến đời Bàn Canh năm lần dời đô, nhà Chu đến đời Thành Vương ba lần dời đô, há phải các vua thời Tam Đại; ấy theo ý riêng tự tiện dời đô. Làm như thế cốt để mưu nghiệp lớn, chọn ở chỗ giữa, làm kế cho con cháu muôn vạn đời, trên kính mệnh trời, dưới theo ý dân, nếu có chỗ tiện thì dời đổi, cho nên vận nước lâu dài, phong tục giàu thịnh. Thế mà hai nhà Đinh, Lê lại theo ý riêng, coi thường mệnh trời, không noi theo việc cũ Thương Chu, cứ chịu yên đóng đô nơi đây, đến nỗi thế đại không dài, vận số ngắn ngủi, trăm họ tổn hao, muôn vật không hợp. Trẫm rất đau đớn, không thể không dời.
Huống chi thành Đại La, đô cũ của Cao Vương, ở giữa khu vực trời đất, được thế rồng chầu hổ phục, chính giữa nam bắc đông tây, tiện nghi núi sông sau trước. Vùng này mặt đất rộng mà bằng phẳng, thế đất cao mà sáng sủa, dân cư không khổ thấp trũng tối tăm, muôn vật hết sức tươi tốt phồn thịnh. Xem khắp nước Việt đó là nơi thắng địa, thực là chỗ tụ hội quan yếu của bốn phương, đúng là nơi thượng đô kinh sư mãi muôn đời.
Trẫm muốn nhân địa lợi ấy mà định nơi ở, các khanh nghĩ thế nào?


(Bản dịch của Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, in trong Đại Việt sử ký toàn thư, Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1993)

Ý nghĩa

Chiếu dời đô đã thể hiện những ý tứ sâu sắc, tầm nhìn thời đại của một vị vua Đại Cồ Việt 1000 năm về trước khi ông chọn Đại La làm kinh đô mới để mưu nghiệp lớn, tính kế phồn vinh, trường kỳ cho muôn đời sau. Bản chiếu nêu bật được vai trò kinh đô Thăng Long xứng đáng là trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá của quốc gia. Thời gian sau đó, Thăng Long vẫn là kinh đô của các triều Trần, nhà Hậu Lê, nhà Mạc, Lê Trung Hưng và đang là Thủ đô của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Thăng Long thực sự là “nơi kinh đô bậc nhất của đế vương muôn đời”.

Nhận xét về kinh đô Thăng Long, sử gia Ngô Sỹ Liên viết:

“Núi là vạt áo che, sông là dải đai thắt, sau lưng là sông nước, trước mặt là biển, địa thế hùng mạnh mà hiếm, rộng mà dài, có thể là nơi vua ở hùng tráng, ngôi báu vững bền, hình thể Đại Việt không nơi nào hơn được nơi này”.

Tuy nhiên bên cạnh đó thì chiếu dời đô lại nổi bật những nhược điểm khiến nó không thể trở thành một áng văn tiêu biểu của dân tộc Việt Nam, thể hiện ở các yếu tố sau:

- Tinh thần dân tộc: là văn bản khai sinh ra một thủ đô Hà Nội nhưng chiếu dời đô không đề cập đến truyền thống đấu tranh dành độc lập dân tộc mà các triều vua Việt Nam trước đó đã gây dựng. Bản chiếu cũng không nêu vai trò của kinh đô Hoa Lư và các kinh đô trước đó như Phong Châu, Mê Linh, Long Biên. Lý Thái Tổ lấy việc làm của các triều đại của cường quyền đế quốc Trung Hoa để noi gương. Ông gọi đô hộ Cao Biền là "Cao Vương", gọi thành Đại La là "đô cũ". Điều này khiến chiếu dời đô chưa toát nên được tinh thần dân tộc chủ đạo mà các áng văn khác như Nam quốc sơn hà ("sông núi nước Nam vua Nam ở") và Bình Ngô Đại Cáo ("từ... Đinh, Lý, Trần bao đời gây nền độc lập") đã có. Chiếu dời đô chỉ có ý nghĩa trong nội bộ quốc gia mà không thể ảnh hưởng ở tầm quốc tế.

- Khát vọng độc lập: Các nhà nghiên cứu đều cho rằng việc lập đô của các nhà Đinh và nhà Tiền Lê không phải là tự theo ý riêng, thiển cận. Trong bối cảnh vừa thoát khỏi thời Bắc thuộc, chính quyền còn non trẻ, kinh đô Cổ Loa không còn trấn áp được loạn cát cứ thì việc lập đô ở Hoa Lư trở lên lợi hại hơn cả. Người Việt đã xây dựng kinh đô Hoa Lư của riêng mình mà không theo một hình mẫu nào của Trung Hoa. Sự xuất hiện của chiếu dời đô là bằng chứng cho thấy đất nước đã phát triển sang trang mới, vua Lý Thái Tổ không tự khởi nghiệp ở Thăng Long mà là người được triều đình Hoa Lư tiến cử lên ngôi thay nhà Tiền Lê. Vì thế mà hệ thống triều đình và cơ sở vật chất của kinh thành Thăng Long có được đều thừa hưởng từ đô cũ Hoa Lư. Sự kiện ban Chiếu dời đô vừa khẳng định vừa phủ định vai trò của kinh đô Hoa Lư. Là mốc son đánh dấu lịch sử hình thành thủ đô Hà Nội của Việt Nam trên cơ sở, nền tảng kinh đô Hoa Lư.

- Màu sắc dị đoan, phong thuỷ: Chiếu dời đô được viết với nội dung mang đượm màu sắc đầy dị đoan, phong thuỷ. Sự phát triển của một thủ đô so với các vùng đất khác hoàn toàn không bị ảnh hưởng nhiều vào yếu tố phong thuỷ. Roma nằm trên 7 quả đồi xa xôi khó đi lại, Seoul núi non bao bọc, lẻ loi ít khoáng sản, thời tiết khắc nghiệt, Singapore nhỏ nhoi thiếu nước, Bern núi non hiểm trở, Tokyo tủn mủn, rời rạc, chia cắt, Ottawa nằm giữa thung lũng ẩm ướt, sông ngòi dày đặc được bao bọc bởi rừng rậm và đầm lầy, Amsterdam chỉ xuất xứ từ một đập làng chài trong sông Amstel đều là các vùng không thuận lợi cho việc phát triển kinh tế mà vẫn đứng đầu quốc gia. Đánh giá thế nào là thuận lợi cho việc phòng thủ và phát triển kinh tế là trình độ và khả năng của nhà cầm quyền đương thời. Lý Thái Tổ ám chỉ các triều vua nhà Đinh, nhà Tiền Lê tự theo ý riêng mình mà vận mệnh ngắn ngủi trong khi chính ông là người thừa hưởng nền tảng độc lập mà các triều đại này để lại. Quan điểm này không phù hợp với đạo lý uống nước nhớ nguồn của người Việt. Thực tế rất nhiều anh hùng đã hy sinh như Hai Bà Trưng, Lý Nam Đế, Ngô Quyền, Quang Trung... mà triều đại do họ gây dựng tồn tại rất ngắn nhưng lịch sử luôn đánh giá công bằng. Bản chiếu dời đô cũng không thấy sự xuất hiện của vị vua Việt Nam nào được vua Lý nêu tới.

Chính vì tính không hoàn hảo của chiếu dời đô, tính chất đặc biệt của sự kiện lịch sử mà chiếu dời đô trở thành văn bản được nghiên cứu dưới nhiều góc độ. Nó vừa khẳng định, vừa phủ định, vừa khách quan vừa cảm tính. Việc xuất hiện bài chiếu có ý nghĩa rất nhiều đối với lịch sử Hoa Lư và Thăng Long. Nó làm nên tính chất trọng đại của hành trình 1000 năm lịch sử. Đó là một áng văn của thời khắc lịch sử từ Hoa Lư đến Thăng Long - một bước ngoặt hào hùng của dân tộc Việt Nam.

Hành trình dời đô

Hơn 1 năm sau khi lên ngôi Hoàng đế, tháng 7 năm Canh Tuất, Lý Thái Tổ bắt đầu dời đô từ Hoa Lư về Đại La. Việc tìm đất, nghị bàn đến việc chuẩn bị để dời đô diễn ra tương đối khẩn trương. Từ Hoa Lư về thành Đại La có thể đi theo đường bộ hoặc theo đường thuỷ. Sử cũ không ghi chép chi tiết nhà Lý dời đô bằng đường nào. Các nhà nghiên cứu đã kết luận: nhà Lý dời đô bằng đường thuỷ. Và chỉ có dời đô bằng đường thuỷ thì mới an toàn và tải được cả bộ máy triều đình đông đảo cùng vật chất bảo đảm đồ sộ đi kèm.

Năm Thái Bình thứ 7 (976) dưới thời vua Đinh Tiên Hoàng đã có việc buôn bán với nước ngoài bằng thuyền. Các nhà nghiên cứu khẳng định Lý Công Uẩn dời đô cũng cần đưa đội thuyền đi theo. Đoàn thuyền xuất phát từ bến Ghềnh Tháp (nay là khu vực giữa phủ Vườn Thiên và nhà bia Lý Thái Tổ ở khu di tích cố đô Hoa Lư). Rồi thuyền vào sông Sào Khê, qua cầu Đông, cầu Dền ở Hoa Lư để ra bến đò Trường Yên vào sông Hoàng Long. Đi tiếp đến Gián Khẩu thì rẽ vào sông Đáy. Từ sông Đáy lại rẽ vào sông Châu Giang. Đến Phủ Lý đoàn thuyền ngược sông Hồng, rồi vào sông Tô Lịch trước cửa thành Đại La.

Như vậy hành trình dời đô đi qua 6 con sông khác nhau, trong đó các hành trình trên sông Sào Khê, sông Hoàng Long, sông Châu Giang là đi xuôi dòng, trên sông Đáy, sông Hồng, sông Tô Lịch là đi ngược dòng. Sở dĩ nhà Lý đi bằng đường sông chứ không đi bằng đường biển cũng là bảo đảm an toàn vì thuyền phải tải nặng không chịu nổi sóng dữ ở biển.




Tài sản của LSB-Sun
Cũ 24-03-2010   #367
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.182
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lý Đạo Tái - Huyền Quang (1254-1334)

Huyền Quang (玄光) tên thật là Lý Đạo Tái, thiền sư đời Trần, pháp danh Huyền Quang - đừng lầm với Trần Đạo Tái là con trai của Thái sư Trần Quang Khải tổ thứ ba phái Thiền học Trúc Lâm Nhân Tông, (tổ nhất là Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, tổ thứ hai là Pháp Loa tôn giả Đồng Kiên Cương). Quê ở làng Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang, nay là làng Vạn Ty, huyện Gia Lương, tỉnh Bắc Ninh.

Năm Giáp Tuất (1274), ông đỗ khoa thi hương lúc 20 tuổi, năm sau (1275) đỗ đầu khoa thi hội, được bổ làm việc ở Viện nội Hàn, từng ứng tiếp sứ Trung Quốc, nổi tiếng văn chương. Nhưng chẳng bao lâu ông từ chức xuất gia đầu Phật.

Thiền sư Pháp Loa tận tình giúp đỡ ông, về sau khi Pháp Loa mất (1330) ông nối tiếp làm vị tổ thứ ba dòng thiền Trúc Lâm. Đạo hạnh và tài thơ ông khiến sĩ phu kính phục. Tuy nhiên, vẫn có kẻ gièm pha cho là ông chưa hẳn phải bậc chân tu. Do đấy, tương truyền câu chuyện Trần Anh Tông cho nàng Điểm Bích đến lân la trêu ghẹo ông, để thử lòng. Rốt lại ông vẫn vững vàng phong độ vị tổ một dòng thiền thuần túy Việt Nam. Vua Trần hối hận về điều thử thách ấy, càng đem lòng quý trọng ông hơn.

Năm Giáp Tuất (1334) ông mất, thọ 80 tuổi.

Tác phẩm

Còn để lại 2 bộ:

• Ngọc tiên tập,
• Chư phẩm kinh.

Ngày nay, thơ ông còn truyền tụng hơn 20 bài, toàn thể đều thâm trầm ý nhị.

Tương truyền khi ông còn trẻ, nhà nghèo khó, cuộc sống vất vả, thường bị bà con, bạn bè hất hủi. Đến khi ông cố gắng học hành lập thân, đỗ trạng nguyên, tấp nập bạn bè lui tới thường ngày. Ông ngao ngán tình người có hai câu thơ cảm xúc.

Khó khăn thì chẳng ai nhìn,
Đến thi đỗ Trạng chín nghìn anh em.


Vì thế, khi công danh thành đạt, ông cũng bỏ cả mà đi tu.

• Bộ Ngọc liên tập (2 quyển).

Theo Phan Huy Chú thì “thơ văn Huyền Quang bay bướm phóng khoáng”.

Nay thơ ông còn thấy khắc in 3 bài trong Việt âm thi tập, 24 bài trong Toàn Việt thi lục của Lê Quý Đôn, và 7 bài trong Hoàng Việt thi tuyển của Bùi Huy Bích.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 24-03-2010   #368
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.182
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lý Ðạo Thành (?-1081)

Thái sư Lý Đạo Thành (?-1081), là quan Tể tướng, đại thần phụ chính dưới hai triều vua nhà Lý là Lý Thánh Tông và Lý Nhân Tông.

Lý Đạo Thành quê làng Cổ Pháp huyện Từ Sơn tỉnh Bắc Ninh, dòng dõi tôn thất nhà Lý, là một đại thần phụ chính, tài năng nhưng liêm khiết và chính trực của nhà Lý.

Năm 1069 khi vua Lý Thánh Tông cùng các tướng như Thái úy Lý Thường Kiệt, đem quân đi đánh Chiêm Thành, thì ông giữ chức Thái sư (tể tướng) cùng Nguyên phi Ỷ Lan (nhiếp chính) điều hành triều chính.

Năm 1072 Lý Thánh Tông băng hà, Thái tử Càn Đức mới 7 tuổi đã nối ngôi thành Lý Nhân Tông, Thái sư Lý Đạo Thành cùng các Hoàng thái hậu là: Thượng Dương hoàng hậu và Linh Nhâm hoàng hậu Ỷ Lan giúp vua điều hành chính sự. Nhưng do hậu thuẫn cho Thượng Dương hoàng hậu chống lại Ỷ Lan, nên năm 1073 với sự giúp đỡ của Thái úy Lý Thường Kiệt, Ỷ Lan khôi phục quyền nhiếp chính, đã giáng ông xuống làm Tả gián nghị đại phu và chuyển đi Nghệ An.

Năm 1074 Hoàng thái hậu Ỷ Lan, đã dẹp bỏ hiềm kích, mời ông về triều giữ chức Thái phó bình chương quân quốc trọng sự, cùng Thái úy Lý Thường Kiệt điều hành việc nước.

Khi quân nhà Tống sang xâm lược Việt Nam, Lý Thường Kiệt lo chống giặc tại phòng tuyến Như Nguyệt (sông Cầu) năm 1075, thì ông là quan đầu triều lo việc triều chính.

Tài sản của LSB-Sun
Cũ 24-03-2010   #369
Ảnh thế thân của LSB-Sun
LSB-Sun
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
ღ Đại Trưởng Lão QPB ღ
Gia nhập: 28-10-2002
Bài viết: 33.053
Điểm: -5581
L$B: 34.196.182
Tâm trạng:
LSB-Sun đang offline
 
Lý Huệ Tông (1194 – 1226)

Lý Huệ Tông là Vua thứ 8 nhà Lý, tên thật là Lý Hạo Sảm hay còn gọi là Lý Sảm, người ở làng Cổ Pháp, nay thuộc huyện Từ Sơn, tỉnh Bắc Ninh.
Ông con trai Lý Cao Tông (李高宗) và mẹ là nguyên phi họ Đàm. Năm 17 tuổi ông lên ngôi lấy hiệu là Huệ Tông.

Ông lập con gái của Trần Lý làm nguyên phi, nên trọng dụng hai người anh vợ là Trần Thừa và Trần Tự Khánh, phong Tự Khánh làm Chương Thành Hầu. Do đấy vây cánh họ Trần càng lúc càng mạnh.

Năm Giáp Tuất 1214, trong nước biến loạn. Trần Tự Khánh đem quân đánh dẹp, đốt phá cung điện. Nhà vua rước mẹ và vợ chạy sang Lạng Châu, xuống chiếu kêu gọi tướng sĩ hãy đánh Tự Khánh để cứu nguy. Tự Khánh dâng thư trần tình, xin rước vua về cung như cũ. Trước, vua và Thái hậu không tin, nhưng sau vì áp lực của Tự Khánh, nhà vua đành phải trở về, rồi sách phong Trần thị làm Hoàng Hậu, thăng Tự Khánh làm Thái úy phụ chính.

Do tình hình không ổn định, nhà vua thác loạn tinh thần, lắm cơn điên dại, múa gậy tự xưng, “Thiên tướng giáng hạ” rồi rượu say ngủ vùi. Việc triều chính đều do Tự Khánh quyết đoán cả.

Năm Quý Mùi 1223 Tự Khánh mất, nhà vua cho anh bà Hoàng hậu là Trần Thừa làm Phụ quốc Thái úy, người em họ là Trần Thủ Độ làm Điện tiền chỉ huy sứ. Rồi thấy uy thế họ Trần lừng lẫy, nhà vua nhường ngôi cho con gái út là Lý Phật Kim (Lý Chiêu Hoàng), gả con gái lớn là Thuận Thiên cho Trần Liễu (con trưởng của Trần Thừa), đoạn dứt khoát bỏ đến chùa Chân Giáo ở ẩn, lấy hiệu là Huệ Quang thiền sư, vào năm Giáp Thân 1224. Trần Thủ Độ vẫn hằng theo dõi nhà vua. Một hôm, đi ngang qua chùa, thấy nhà vua đang ngồi nhổ cỏ, Thủ Độ nói: “Nhổ cỏ, thì phải nhổ cho tận gốc”. Nhà vua hiểu ý, tự vẫn chết, tháng 10 năm Bính Tuất 1226, hưởng dương 32 tuổi.

Nhà vua ở ngôi 13 năm (từ Tân Mùi 1211 - Giáp Thân 1224), hiệu là Kiến Gia.

Tài sản của LSB-Sun
Đã khóa chủ đề


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 22:30
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,10603 seconds with 15 queries