Trích dẫn:
Nguyên văn gởi bởi nguyenhaidangduy
Gửi Elizabeth!
...người mà phải nhờ ông tơ bà mối xe duyên chỉ hồng đó liệu có mấy phần chân tâm? Cuộc sống không tình yêu có ai hạnh phúc không?...
|
TẤT NHIÊN 1 ''THUYỀN QUYÊN'' NHƯ NGỌC HÂN, NGUYỄN HUỆ KHÔNG THỂ CHỐI TỪ, CÒN NGỌC HÂN, NGỌC HÂN CÓ YÊU 1 ANH HÙNG NHƯ NGUYỄN HUỆ ?!
Lúc sống ở kinh đô Phú Xuân, hoàng hậu Ngọc Hân đã sáng tác nhiều thơ văn và
vua Quang Trung là chủ đề cảm xúc lớn lao trong sự nghiệp sáng của bà.
Theo sử sách, sau lễ kết hôn, Nguyễn Huệ và Ngọc Hân đều lên kiệu đến bái yết tôn miếu nhà Lê, lễ xong hai người cùng về. Như thấu hiểu được tâm trạng của Ngọc Hân, Nguyễn Huệ mở lời bông đùa, dí dỏm: "
Con trai con gái nhà vua, đã có mấy người được vẻ vang như nàng?". Công chúa đáp: "Nhà vua ít lộc, các con trai con gái ai cũng thanh bạch nghèo khó,
chỉ riêng thiếp có duyên, lấy được Lệnh công, ví như hạt mưa, bụi ngọc bay ở giữa trời được sa vào chốn lầu đài như thế này, là sự may mắn của thiếp mà thôi". Nghe Ngọc Hân thủ thỉ lên nỗi niềm đó, Nguyễn Huệ lấy làm thích thú, tâm đắc.
Vì giỏi văn thơ, Ngọc Hân được Nguyễn Huệ yêu say đắm. Nguyễn Huệ cũng được Ngọc Hân xem như một vĩ nhân hiếm có. Không chỉ yêu vì nết, Nguyễn Huệ còn trọng Ngọc Hân vì tài, nên giao coi giữ các văn thư trọng yếu, phong cho chức nữ học sĩ, dạy dỗ các con cái và các cung nữ.
Có thể nói, tình yêu đã thật sự chắp cánh cho tài năng đôi lứa Ngọc Hân - Nguyễn Huệ, làm cho sự nghiệp của chúa Tây Sơn thêm hiển hách sau này.
Năm 1792, vua Quang Trung đột ngột qua đời.
Sau tang lễ, bà đau buồn âm thầm đặt riêng một lễ ở Hữu cung, đọc bài Văn tế tự soạn để khóc chồng! Thật là một chuỗi lâm li bi thiết, ví như: "… Một phút mây che vừng Thái Bạch. Trong sáu cung thoắt đã nhạt hơi hương. Tơ đứt tấc lòng ly biệt. Châu sa giọt lệ cương thường…". Và: "… Liều trâm thoa mong theo chốn chân dung, da tóc trăm thân nào có tiếc. Ôm cưỡng bảo luống ngập ngừng di thể, sữa măng đôi chút lại thêm thương". (Trích Văn tế vua Quang Trung)
Tiếp đó, bà còn sáng tác thêm "Ai tư vãn" bằng văn quốc âm, thể song thất lục bát, dài 164 câu. Toàn bài tác giả đã vận dụng lời lẽ thật tha thiết mà rất chân thành, rất xúc động từ câu mở đầu: "Gió hiu hắt, phòng tiêu lạnh lẽo. Trước thềm lan hoa héo ron ron! Cầu Tiên khói tỏa đỉnh non. Xe rồng thăm thẳm, bóng loan rầu rầu..." Lúc thì chạnh nghĩ mối duyên may mình đã được trải qua: "… Rút dây vâng mệnh phụ hoàng. Thuyền lan chèo quế thuận đường vu qui. Trăm ngàn dặm quản chi non nước. Chữ nghi gia mừng được phải duyên. Sang yêu muôn đội ơn trên. Rỡ ràng vẻ thúy, nối chen tiếng cầm…" (Trích Ai tư vãn)
Khi lo lắng thuốc thang cho chồng (vua Quang Trung): "Từ nắng hạ, mưa thu trái tiết. Xót mình rồng mỏi mệt chẳng yên. Xiết bao kinh sợ lo phiền. Miếu thần đã đảo, thuốc tiên lại cầu. Khắp mọi chốn đâu đâu tìm rước. Phương pháp nào đổi được cùng chăng?"
Thoắt lại mơ tưởng lúc chồng vẫn còn sống: "… Mơ hồ bằng mộng, bàng hoàng như say. Khi trận gió, hoa bay thấp thoáng. Ngỡ hương trời bảng lảng còn đâu. Vội vàng sửa áo lên chầu. Thương ôi, quạnh quẽ trước lầu nhện giăng" (Trích Ai tư vãn)
Tác giả lại ngậm ngùi trách tạo hóa hẹp hòi… và tha thiết xin thay mạng: "… Công dường ấy mà nhân dường ấy. Cõi thọ sao hẹp bấy Hóa công? Rộng cho chuộc được tuổi rồng. Đổi thân ắt hẳn bõ lòng tôi ngươi".
Rồi còn muốn liều thân: "… Quyết liều mong ven chữ tòng. Trên rường nào ngại, giữa dòng nào e" (Trích Ai tư vãn)
Nhưng còn vướng víu chỉ vì con nhỏ: "… Còn trứng nước thương vì đôi chút. Chữ tình thâm chưa thoát được đi. Vậy nên nấn ná đòi khi. Hình dường còn ở, hồn thì đã theo.
Mặc dầu biết chắc còn sống thì sẽ nhiều khổ đau oan nghiệt: "Phút giây bãi bể nương dâu. Cuộc đời là thế, biết hầu nài sao?
Chữ tình nghĩa trời cao, đất rộng. Nỗi đoạn trường còn sống còn đau! ..." (Trích Ai tư vãn).
NGỌC HÂN CÓ YÊU NGUYỄN HUỆ KHÔNG HỠI HẬU THẾ ?!