Nhóm chúng tôi gồm 6 người trong các buổi cùng nhau soạn thảo bức thư đã thống nhất với nhau rằng chúng tôi sẽ xem qua bức thư của Harry Rowen, Giám đốc của Công ty Rand trước khi gửi nó đi. Chúng tôi không nghĩ ông ta có quyền cấm chúng tôi gửi bức thư này đi với tư cách cá nhân. Chúng tôi không muốn sử dụng biểu tượng logo của Rand và cũng không muốn xác nhận rằng chúng tôi làm việc cho công ty này. Mặt khác ông ta có thể nghi vấn về việc trước đây chúng tôi tiếp cận được với những thông tin mật. Có thể ông ta sẽ thôi không cho phép chúng tôi được tiếp cận nữa hoặc đe doạ sa thải chúng tôi.
Konrad Kellen nghĩ rằng nếu Harry không đồng ý gửi bức thư đó đi thì chúng tôi không thể gửi được và những người khác cũng đồng ý với việc này. Nếu ông ta đồng ý gửi thư đi, chúng tôi có thể đưa bức thư đó cho các trưởng phòng trong công ty, ví dụ như Fred Iklé của phòng Khoa học Xã hội hay Charlie Wolf của phòng Kinh tế. Chắc chắn họ sẽ chẳng ưa gì việc gửi bức thư này đi, nhưng vì Harry đã đồng ý nên họ không thể nào ngăn cản được. Những người cấp trên khác sẽ thể hiện sự khó chịu của họ theo những cách khác, nhưng chúng tôi nhất trí với nhau rằng điều đó cũng không thể ngăn chúng tôi được chừng nào mà Harry đã cho phép.
Tôi là người duy nhất quen biết Harry. Tôi nghĩ rằng ông ta sẽ thông cảm với đề xuất của chúng tôi, cho dù ông ta có hay không nghĩ đó là cách tốt nhất để rút ra khỏi Việt Nam.
Tôi không dám chắc ông ta cũng chống chiến tranh như bất kỳ ai trong số chúng tôi, và rất khó hình dung ra khả năng ông ta đồng ý gửi bức thư này đi, trên cương vị giám đốc Công ty Rand. Do vậy, thoả thuận của chúng tôi là sẽ nhờ cậy vào sự đồng ý của ông ta làm cho cách này khó có tính khả thi, thiếu tính thực tế, ít nhất là đối với tôi. Tuy nhiên tôi có thể thấy những người khác cũng đã đồng ý như vậy. Họ không giống tôi ở khả năng bị mất việc. Tôi không liên quan tới những cuộc thảo luận về cách gửi bức thư này ra khỏi Công ty Rand. Thực ra sau ngày 1-10, tôi không còn tham gia nhiều vào các cuộc thảo luận của nhóm về việc soạn thảo bức thư nữa.
Sau hàng đêm phải nhân bản tài liệu, tôi đã quá mệt. Hàng sáng, tôi chỉ được ngủ vài tiếng vì uống rất nhiều cafe, tôi cố gắng dự vào buổi chiều nhưng chẳng tham gia ý kiến gì nhiều.
Đó không phải là vì tôi nghĩ bức thư này không quan trọng bằng tập tài liệu, nếu như có thể gửi đi. Ngược lại tôi nghĩ rằng những tuyên bố công khai phản đối chính sách hiện nay và yêu cầu có một phương án khác có khả năng làm thay đổi chính sách nhiều hơn là các tài liệu lịch sử của công trình nghiên cứu, cho dù những gì được tiết lộ từ nghiên cứu đó có kịch tính đến đâu đi nữa. Tuy nhiên tôi không chỉ dựa vào một thứ để phản kháng Nixon. Không một cách tiếp cận nào mà tôi nghĩ tới lại tỏ ra nhiều hứa hẹn hơn những cách tiếp cận khác. Tuy nhiên, tôi vẫn cố gắng làm thế nào đó để chuyển một số lượng lớn tài liệu bí mật tới tay Quốc hội và công chúng trước ngày 15-10, tức là chỉ còn 10 ngày nữa. Tôi đoán là tôi sẽ bị tống giam vào cuối tháng mười. Viễn cảnh đó khiến tôi không còn phải lấn cấn với những suy tính cho công việc của mình, điều mà đang làm những người khác bận tâm.
Cuối cùng, vào ngày thứ tư, 8-10, chúng tôi cũng có được bức thư, trên giấy trơn, không có biểu tượng logo gì của Công ty Rand, chỉ đề dẫn rằng chúng tôi là một nhóm các nhà nghiên cứu và phân tích chuyên nghiệp về Việt Nam, ngụ ý nói chúng tôi làm việc cho chính phủ. Chúng tôì hẹn gặp với văn phòng của Harry và cả nhóm cùng đến gặp ông ta. Ông ta đọc rất kỹ bức thư và gật đầu đồng ý. Dường như ông ta không tỏ ra không thích bức thư này. Ông ta bình luận thêm rằng bức thư sẽ gây nhiều rắc rối đối với Rand từ những nhà tài trợ cho công ty và đáng nhẽ ra ông ấy sẽ nói là ông ấy không muốn gửi bức thư đó đi (Những tuyên bố sau này của ông ta với các nhân viên của Rand cho thấy điều này, mặc dù tôi không nhớ cụ thể). Cầm bức thư trong tay, ông ta ngẩng cao đầu, nhìn chúng tôi qua cặp kính và hỏi: "Tại sao lại không cho logo của Rand vào bức thư này nhỉ?" Chúng tôi giải thích là chúng tôi không muốn Rand dính líu vào việc này. Ông ta nói. "Mọi người sẽ biết cả thôi. Trông như thể là chúng ta đang giấu giếm việc gì đó. Hãy đánh lại bức thư này với logo của Rand. Mọi người sẽ xì xào bàn tán nhưng nó cũng có những mặt tích cực. Nó sẽ cho thấy tại công ty này chúng ta khuyến khích nhiều quan điểm khác nhau. Chỉ cần đưa ra lời tuyên bố các bạn đang bày tỏ quan điểm cá nhân, không phải đại diện cho Rand hay những nhân viên khác của Rand".
Đó là nhận xét duy nhất mà ông ta đưa ra. Chúng tôi rất phấn chấn khi rời phòng làm việc của ông ta để soạn lại đoạn mở đầu và đưa logo của Công ty Rand vào, rồi gửi tới toà soạn của tờ Thời báo New York. Một phần của bức thư có nội dung như sau(100):
"Thưa các quý ông,
Giờ đây khi người Mỹ một lần nữa tranh luận về vấn đề Việt Nam, chúng tôi muốn đóng góp vào cuộc tranh luận đó bằng cách bày tỏ quan điểm của chúng tôi, những quan điểm phản ánh cả đánh giá cá nhân và nhiều năm nguyên cứu chuyên nghiệp về chiến tranh Việt Nam và các vấn đề có liên quan. Ở đây chúng tôi muốn bày tỏ quan điểm như những cá nhân, chứ không nhân danh Công ty Rand, nơi chúng tôi đang làm việc. Trong các đồng nghiệp làm việc tại Rand, có nhiều quan điểm khác nhau về vấn đề này, giống như bất kỳ một vấn đề nào khác.
Chúng tôi tin rằng giờ đây nước Mỹ nên quyết định chấm dứt sự can thiệp của mình vào cuộc chiến tại Việt Nam, trong vòng một năm tới phải rút hết quân đội Mỹ còn đóng ở đó. Sự rút lui của quân đội Mỹ không được đi kèm với bất kỳ một điều kiện nào đối với chính quyền Sài Gòn hay Hà Nội - điều đó có nghĩa là một trong hai bên không thể nào phủ quyết được điều này.
Quan điểm của chúng tôi là ngoài những lập luận đạo đức thuyết phục dẫn tới kết luận tương tự, có bốn luận điểm phản đối những nỗ lực tiếp theo của Mỹ trong cuộc chiến tranh Việt Nam:
1. Chúng ta không thể tiêu diệt các lực lượng của kẻ thù tại Việt Nam bằng lực lượng quân sự được; trên thực tế "chiến thắng về quân sự" không còn là mục tiêu của Mỹ nữa. Những gì bây giờ cần được công nhận là ban lãnh đạo của phe chống đối không thể bị chiến lược hiện nay hay bất kỳ một chiến lược nào của Mỹ bắt ép phải nhượng bộ.
2. Những lời hứa đây của Mỹ đối với nhân dân Việt Nam không thể nào trở thành hiện thực nếu chúng ta tiếp tục các hoạt động quân sự phá hoại lớn tại Việt Nam. Hoạt động này không được phép kéo dài chỉ vì dựa trên yêu cầu của chính quyền Sài Gòn. Cần kiểm tra xem chính quyền này có khả năng tự tồn tại được không dù kết quả có ra sao đi nữa.
Sự quan trọng đối với lợi ích quốc gia của Mỹ về ý nghĩa chính trị trong tương lai của Nam Việt Nam đã bị phóng đại quá mức, cũng như tác động quốc tế tiêu cực của việc Mỹ đơn phương rút quân. Trên hết, chi phí con người, chính trị và vật chất khi chúng ta tiếp tục chiến tranh vượt xa hơn những lợi ích chúng ta nhận được và lớn hơn chi phí và nguy cơ nếu chúng ta rút quân.
Chúng tôi không dự đoán rằng việc rút quân chỉ đem lại những kết quả tốt đối với Đông Nam Á và Nam Việt Nam (hoặc thậm chí cả Mỹ). Những gì chúng tôi thực sự muốn nói là những mối nguy hiểm sẽ không giảm bớt đi nếu Mỹ tiếp tục tham chiến tại Việt Nam thêm một năm nữa và chắc chắn tổn thất về con người sẽ lớn hơn.
Daniel Ellsberg, Melvin Gurtov, Oleg Hoeffding, Amold Horelick, Konrad Kellen, Paul F. Langer
Công ty Rand.
Chúng tôi gửi một bản sao bức thư cho Fred Iklé và hẹn gặp ông ta sau khi ông ta đã đọc xong. Chắc chắn tôi cũng đã cho Charlie Wolf thấy bức thư, mặc dù tôi không nhớ rõ lắm.
Trong khi đó, tôi gọi cho văn phòng của tờ Thời báo New York tại Los Angeles và nói chuyện với Steve Roberts, trưởng cơ quan đại diện, tìm cách tốt nhất để đưa bức thư này lên mặt báo.
Anh ta nói chắc chắn đăng một câu chuyện trong đó và tôi nên trao bức thư trực tiếp cho anh ta. Tôi bảo anh ta đợi tôi ở bãi đỗ xe của Công ty Rand…
Cuộc gặp với Iklé khá căng thẳng. Bốn người ký vào bức thư làm việc trực tiếp cho ông ta và họ hầu như không nói gì. Họ để cho tôi đối đáp với ông ta. Chúng tôi ký tên vào bức thư theo vần chữ cái và tên tôi xuất hiện đầu tiên. Như tất cả những ai đọc bức thư này, Fred lầm tưởng rằng tôi là người soạn thảo và tác nhân chính của bức thư. Điều này cũng không sai. Fred không đả động gì đến những người khác và chủ yếu chĩa mũi dùi vào tôi.
Chúng tôi đã là đồng nghiệp tốt với nhau trong vòng 10 năm mặc dù tôi không thân với ông ta lắm, nhưng trên thực tế cũng chẳng có ai thân với ông ta. Ông ta là người Thuỵ Sĩ, rất kín đáo trong phong cách cũng như lời ăn tiếng nói. Ông ta không phải là người dễ gần. Giọng nói của ông ta nặng, trầm và đều đều khiến người khác thấy khó chịu, nhưng tôi quý mến và tôn trọng ông ta và ông ta đối với tôi cũng vậy.
Fred không mất thời gian tranh luận về nội dung bức thư. Có lẽ ông ta cũng không quá phản đối nó. Giống như phần lớn những người khác ở Rand sau này, ông ta không quan tâm đến điều đó ông ta bắt đầu bằng những nhận xét khá trịch thượng, kẻ cả, muốn bác bỏ tất cả. Cách tiếp cận của chúng tôi chẳng có nghĩa lý gì cả. Gửi một bức thư tới báo chí à? Điều đó sẽ giải quyết được vấn đề gì? Ông ta không cần phải nhắc chúng tôi nhớ lại một phương án cao tay khác: tiếp cận trục tiếp với các nhân viên và các quan chức cấp cao của chính phủ trên cơ sở bí mật.
Chúng tôi không cần phải tiếp xúc với họ thông qua một bức thư gửi tới báo chí, công khai với tất cả mọi người và có thể họ cũng không thèm đọc bức thư đó.
Ông ta nói rất ít có khả năng bức thư sẽ được mọi người chú ý ông ta đuối lý khi lập luận về điều này. Tôi nói chúng tôi có lý do để tin rằng bức thư sẽ trở thành một chủ đề trên tờ Thời báo New York. Ông ta thôi không hạ mình nữa và tự nhiên cáu tiết. Điều đó thật tệ hại? Điều đó vẫn chẳng giải quyết được vấn đề và sẽ có tác động rất xấu đối với Rand. Ở điểm này ông ta phản đối việc Harry ý đã đồng ý với bức thư nhưng điều đó không có nghĩa rằng Owen đúng. Tôi nói với ông ấy là tôi không đồng ý với những ước tính của ông ta về tác động. Chúng ta phải chờ xem sao đã.
Ông ta trở nên quẫn trí. Tóc ông ta vốn ngắn nhưng ông ta bắt đầu vò đầu bứt tai. Ông ta nói: "Tôi thực sự không thể hiểu được là tại sao các ông lại làm việc này - việc làm này sẽ không có tác dụng gì cả. Thậm chí phản tác dụng!". Ông ta quay về phía chúng tôi và hạ giọng: "Có rất nhiều việc chúng ta có thể làm mà hiệu quả lại lớn hơn. Ví dụ như các anh có thể nghiên cứu bí mật về chi phí của cuộc chiến tranh, và có thể gửi một bức thư tới tư lệnh chiến lược không quân, đề là tối mật, chỉ ra rằng việc tiếp tục chiến tranh đang thâm hụt vào ngân sách hiện đại hoá?". Ông ta đang điên tiết. Ông ta quay trở lại phía chúng tôi và nói với một giọng bình tĩnh hơn, "Bức thư này sẽ chẳng có tác dụng gì ở Washington".
Tôi không tin vào điều đó. Tôi nói: "Fred, ai trong chúng ta biết nhiều về hệ thống hoạt động ở Washington, anh hay là tôi?"
Ông ta nói: "Anh".
Tôi nói: "Tôi nghĩ việc này rất đáng làm". Trông ông ta không vui khi chúng tôi rời văn phòng làm việc của ông ta, và tới 22 năm sau ông ta mới nói chuyện lại với tôi.
Ở dưới tiền sảnh, tôi hội ý với các bạn đồng nghiệp: "Chúng ta vẫn quyết tâm làm chứ?". Mọi người đều gật đầu đồng ý, mặc dù một số người làm việc cho Fred trông hơi rầu rĩ. Ở bãi đỗ xe của Rand, tôi lấy ra bức thư và thấy Steve Roberts đang đợi trong xe hơi của anh ta. Tôi nói với anh ấy: "Hãy gửi bức thư này đi và đợi một lúc đừng trả lời điện thoại, được không? Tất cả mọi người đang quyết tâm làm việc này, từ giờ phút này trở đi và một số người đang chịu sức ép và điều đó có thể thay đổi. Bức thư này có thể chóng được đưa lên mặt báo không?" Anh ta nói tờ báo đang đợi bức thư này và ngày hôm sau thì thư sẽ được đăng trên báo, khoảng buổi trưa. Tôi về nhà, cúp máy điện thoại và đi ngủ để chuẩn bị đêm hôm đó còn tiếp tục sao chụp tài liệu.
Sáng ngày hôm sau, thứ năm, ngày 9-10-1969, có một câu chuyện đăng trên tờ Thời báo New York, đăng ở trang bên trong, với tiêu đề "Sáu chuyên gia của Rand ủng hộ việc Mỹ đơn phương rút quân khỏi Việt Nam trong vòng một năm". Tác giả bài viết là "Steven V. Roberts", từ Santa Monica, ngày 8-10-69. Nội dung chính của bài báo nhắc lại tiêu đề và nói thêm rằng tất cả chúng tôi đã làm nghiên cứu về Việt Nam cho chính phủ liên bang. "Cả sáu người này nói rằng họ hành động như những cá nhân, chứ không phải những nhân viên của Rand. Và số người này đảm nhiệm tới 76% công việc trong bộ phận quốc phòng của công ty. Bức thư do các chuyên gia của công ty này viết muốn tránh sự chú ý của dư luận đã tạo thêm động lực cho áp lực của dư luận đòi nhanh chóng rút quân khỏi Việt Nam".
Dưới tiêu đề nhỏ "Hai năm ở Sài Gòn", câu chuyện kể tiếp, "Theo như hợp đồng ký với Lầu Năm Góc, sáu chuyên gia này đã nghiên cứu những đối tượng từ tính hiệu quả trong việc ném bom Bắc Việt Nam cho tới việc hỏi cung các tù nhân đối phương. Một chuyên gia trong số họ là Daniel Ellsberg đã làm việc hai năm cho Bộ Ngoại giao Mỹ tại Sài Gòn trước khi chuyển sang làm việc cho Công ty Rand. Nhóm này còn bao gồm những chuyên gia phụ trách về Nga, Trung Quốc và Nhật Bản. Một chuyên gia đã ký vào bức thư, Melvin Gurtov, là tác giả của cuốn sách sắp xuất bản về tương lai của chính trị Mỹ tại Đông Nam Á".
Roberts trích dẫn lời bình luận của một thành viên giấu tên trong nhóm: "Đơn phương rút quân là một việc làm đáng nể trọng". Câu chuyện này tiếp tục trích dẫn trực tiếp nội dung của bức thư (khoảng một nửa) và diễn đạt theo cách khác (nhưng không hoàn toàn chính xác) nửa nội dung còn lại. Tôi nghĩ là một số điểm quan trọng đã bị bỏ. Và bởi vì nó được coi như một câu chuyện tin tức nên toàn bộ bức thư không xuất hiện trên trang xã luận. Tuy nhiên quan điểm cơ bản của chúng tôi đã được thể hiện rõ và câu chuyện trên báo này kết thúc với câu cuối cùng chúng tôi viết trong thư.
Bởi vì tờ Thời báo New York không đăng tải toàn bộ bức thư, chúng tôi gửi bức thư này tới cả tờ Bưu điện Washington. Họ đã cho đăng tải toàn bộ bức thư thật nổi bật giữa trang xã luận vào ngày chủ nhật 12-10 với tiêu đề "Một trường hợp phản đối việc tiếp tục ở lại Việt Nam". Nội dung bức thư xen kẽ với sự tố cáo trong quan điểm của chúng tôi. Phía bên phải bức thư là một bài viết ngắn của Henry Owen, người trước đây quản lý các cán bộ hoạch định chính sách trong Bộ Ngoại giao Mỹ, người đã bác bỏ việc rút quân trong thời hạn một năm, coi đó là việc làm cực đoan và không thực tế. Phía bên trái là một bài xã luận dài, trực tiếp tấn công bức thư của chúng tôi (ba lần chúng tôi bị coi là những "kẻ chỉ trích nòng cốt" và một lần bị coi là "những kẻ chỉ trích cực đoan". Không giống như bây giờ, ngày đó những từ ngữ này không có nghĩa tốt).
Rõ ràng là những người viết bài xã luận cũng chia sẻ niềm tin của họ với Owen rằng chính phủ Mỹ đang "tiến tới việc rút quân và quá trình này là không thể đảo ngược được". Chắc chắn họ và Owen đều hiểu ý nghĩa của từ "rút quân" tức là cuối cùng phải rút quân toàn bộ, chứ không chỉ có tạm thời giảm số lượng quân. Điều đó có nghĩa là "chấm dứt sự tham gia quân sự của Mỹ tại Việt Nam". Nói một cách khác, họ tin rằng những tuyên bố công khai của Tổng thống về sự trung thành mãi mãi đối với chính quyền Sài Gòn không thể hiện dự định của ông ta. Họ nghĩ rằng, chiến lược của ông ta là chấm dứt chiến tranh - hoặc ít nhất là giảm bớt tham gia quân sự dần dần - trái ngược lại so với những gì ông ta nói - chấm dứt tham gia quân sự vô điều kiện, hoàn toàn, đơn phương, không thể đảo ngược.
Do vậy có gì khác nhau giữa chiến lược của Tổng thống và chiến lược của "những nhà phê bình cực đoan" hay "nòng cốt" như chúng tôi? Đó là thời gian. Việc Nixon rút quân sẽ tiến hành "dần dần", kéo dài hơn 12 tháng và không có một lộ trình cụ thể và công khai nào, "với hy vọng rằng có thể đạt được một phần mục đích ban đầu của chúng ta". Họ thực sự thông cảm với "nỗ lực của Tổng thống để cứu vãn điều gì đó".
Nhưng chính xác là Tổng thống muốn đạt được mục đích nào? Cơ may ông ta đạt được mục đích đó là bao nhiêu phần trăm? Ông ta sẽ tiếp tục cho quân đồn trú ở Việt Nam trong bao lâu hơn 12 tháng hay tiếp tục duy trì lực lượng không quân?
Liệu các biên tập viên của tờ Buu điện Washington có hình dung ra không? Ít nhất là 4 năm? Sẽ có hơn 20.000 lính Mỹ nữa và hàng trăm nghìn dân thường thiệt mạng? Đó là những gì đã xảy ra, khi Nixon theo đuổi việc giữ tướng Thiệu cầm quyền ở Sài Gòn lâu dài. Việc Mỹ ném bom kết thúc năm 1973 chỉ bằng một đạo luật của Quốc hội, không phải theo sự lựa chọn của Nixon, trong hoàn cảnh đang khủng hoảng hiến pháp dẫn tới việc suýt luận tội Tổng thống và dẫn tới kết thúc nhiệm kỳ của ông ta.
Cũng trong số xuất bản hôm đó của tờ Bưu điện Washington, còn có một mục của Joe Craft, gửi từ Santa Monica, nơi anh ta đã tới phỏng vấn tôi và một số những người viết thư khác. Với tiêu đề "Phá vỡ quy định: Sự phản đối của các nhà phân tích của Rand về chính sách tại Việt Nam nêu ra vấn đề cơ bản về trách nhiệm", bài báo viết: "Khi sáu nhà phân tích của Rand, từ bỏ những quy định của mình và lên tiếng phản đối về chính sách ở Việt Nam, một điều gì đó quan trọng đã xảy ra. Đối với sự phản đối của Công ty Rand… đã đi xa hơn cả vấn đề Việt Nam. Nó động chạm tới vấn đề đạo đức then chốt của cuộc sống của dân chúng Mỹ. Nó nêu lên câu hỏi về trách nhiệm của các quan chức và các nhà phân tích về hành động họ làm và chính sách họ thi hành".
Kraft nhận xét rằng "sự tồn tại của Rand phụ thuộc vào có nguồn kinh phí và quan hệ tốt với chính phủ liên bang. Trước đây các nhà phân tích của Rand đã nhiều lần đặt dấu hỏi về các chính sách lớn của chính phủ đằng sau hậu trường, nhưng sáu nhà phân tích tham gia viết bức thư hiện nay đã vượt ra khỏi khuôn khổ truyền thống. Vì họ đã thẳng thắn và trực tiếp phản đối chính sách của chính phủ mà trước đây họ chưa từng bao giờ thách thức cả. Họ đã cho in bức thư bất chấp sự phản đối kịch liệt của ban lãnh đạo Công ty Rand. Và họ làm điều đó, chấp nhận rủi ro đối với công việc tương lai của mình".
Sau khi đã viết lại nội dung bức thư, bài báo này viết tiếp:
"Không có gì quá ngạc nhiên trong những quan điểm này cả. Những quan điểm đó được nhiều quan chức cấp cao trong chính quyền hiện nay và trước đó chia sẻ. Điều đáng nói là chỉ có rất ít người tin vào những ý tưởng này dám công khai nói những gì họ tin.
Phần lớn mọi người đều dồn nén niềm tin của mình. Họ thích tham gia vào cuộc chơi chính trị hơn. Họ tán thành với không khí thần bí ở Washington rằng sự trung thành với Tổng thống có nghĩa là sự trung thành với niềm tin đối với cả những vấn đề quan trọng nhất. Họ tuân thủ theo những quy chuẩn của bộ máy quan liêu.
Bức thư của Rand quan trọng vì nó bác bỏ quy chuẩn của bộ máy quan liêu đó. Sự phản đối của công chúng phá vỡ những truyền thống quan liêu, thậm chí ngay cả khi chính sách mâu thuẫn với lương tâm.
Không bao giờ có một tuyên bố nào tốt hơn bài học kinh nghiệm mà tôi hy vọng các quan chức rút ra được từ ví dụ của bức thư chúng tôi viết (và Hồ sơ Lầu Năm Góc tôi công bố sau này).
Kể từ ngày câu chuyện xuất hiện trên tờ Thời báo New York, công văn bắt đầu được các đồng nghiệp gửi cho chúng tôi, mỗi công vấn đều đề người nhận là sáu người đã ký vào bức thư và còn được gửi cho nhiều người khác nữa. Trong khoảng 500 nhân viên làm việc tại Rand, tôi nhớ là nhận được khoảng 70 thư hồi âm, một số viết ngắn, một số dài khoảng 3-4 trang giấy. Rất dễ chuyển công văn trong Công ty Rand, nhưng tôi nhớ là trước đây không có khi nào mà công văn lại được chuyển phát nhiều đến như vậy.
Đó không thể gọi là sự tranh luận, bởi vì hầu như tất cả các thư hồi âm đều hùa về một phe, phản đối hành động của chúng tôi và đưa ra những lập luận tương tự. Chỉ có hai, ba trường hợp ngoại lệ, còn tất cả các bức thư đó đều có nội dung tiêu cực, thậm chí thù địch, giọng điệu tố cáo, trách mắng, khinh miệt, tức giận. Hơn thế nữa - đây là những gì khiến tôi ngạc nhiên nhất, những gì tôi ít chuẩn bị tinh thần nhất - hầu như không có bức thư nào phản đối nội dung bức thư chúng tôi viết, ngoại trừ có một hai câu bác bỏ sự lập luận của chúng tôi là nông cạn và không thuyết phục. Phần lớn những người viết công văn chỉ ra rằng người viết (cũng như tất cả các nhân viên tại Rand lúc đó) phản đối việc tiếp tục cuộc chiến tranh mạnh mẽ như chúng tôi, trước khi tiếp tục nói rằng hành động của chúng tôi cho thấy "tinh thần thiếu trách nhiệm đối với các đồng nghiệp ở Rand, bản thân Công ty Rand và rất có thể cả lợi ích quốc gia nữa".
Không hiểu sao có ai đó nói rằng chúng tôi sử dụng biểu tượng logo của Rand trên bức thư, mặc dù biểu tượng này không xuất hiện trên tờ Thời báo New York. Điều này khiến mọi người phát điên lên. Trong các công văn, họ lên án chúng tôi "thiếu đạo đức nghề nghiệp" và "hành vi của chúng tôi đáng bị khiển trách". Bằng giọng điệu từ lạnh nhạt tới túc giận, họ cho rằng chúng tôi đã coi thường, không tính gì tới sự an nguy trong công việc của họ và mối quan hệ theo hợp đồng và bí mật giữa Rand và Bộ Quốc phòng Mỹ. Giống như nhiều người khác, một người viết công văn bắt đầu bằng câu: "Tôi đồng ý với kết luận của các anh nhưng không đồng ý với việc các anh có quyền bày tỏ công khai những quan điểm này với tư cách là cán bộ làm việc cho Rand". Anh ta kết thúc bằng câu, "Các anh có thể trở nên nổi tiếng về việc làm này, nhưng thực ra là "khét tiếng". Trong công văn đó anh ta tổng kết lại tất cả những gì mà nhiều người khác nói chưa rõ: "Ở cấp thấp nhất, trong khi các anh cảm thấy có thể dễ dàng để bị mất việc, nhưng các anh không thể làm như vậy với chúng tôi".
Tôi giật mình nhận ra rằng sự bộc lộ lợi ích cá nhân luôn là sợi chỉ xuyên suốt trong những công văn mà chúng tôi nhận được từ đồng nghiệp và điều đó thể hiện quá rõ. Tôi luôn nghĩ họ sẽ ngầm bộc lộ điều quan ngại này đằng sau việc chỉ trích quan điểm của chúng tôi hay lời buộc tội cho rằng với việc công khai phản đối, chúng tôi đang gây nguy hiểm cho khả năng của Công ty Rand để đóng góp vào an ninh quốc gia thông qua mối quan hệ bí mật với ngành hành pháp. Nhưng thật kinh ngạc biết bao khi điều ngược lại đã xảy ra. Điều quan trọng nhất ở đây là sự nguy hiểm mà những tuyên bố của chúng tôi gây ra đối với các hợp đồng của Rand và thu nhập của những người đã viết những công văn kia. Như một người trong số họ đã nói rất chua cay: "Tôi rất ngạc nhiên khi biết rằng các nhà nghiên cứu chuyên nghiệp, cùng nhau hợp sức hành động và sử dụng tên của công ty để bày tỏ quan điểm của mình đã phóng một quả ngư lôi phá hoại không hề chệch đích cùng một lúc nhằm vào các khách hàng lớn nhất và trung thành nhất và các đồng nghiệp nghiên cứu".
Có lẽ tôi đã ngây thơ khi tỏ ra ngạc nhiên về điều này, nhưng xét cho cùng thì Rand không phải là công ty kinh doanh vì lợi nhuận. Khoản tài trợ ban đầu mà nó nhận được từ quỹ Ford quy định rằng công ty này sẽ làm việc vì lợi ích quốc gia và lẽ dĩ nhiên điều này được quy định trong tất cả các hợp đồng làm việc chúng tôi ký với Rand. Phần lớn nhân viên của công ty là các kỹ sư có thể được trả lương cao hơn nếu làm việc cho các công ty tư nhân trong ngành hàng không. Bản thân tôi trước đây cũng đã có thời gian làm việc tạm thời cho chính phủ, với mức lương cao hơn mức lương tôi kiếm được ở Rand, và một số đồng nghiệp khác của tôi cũng vậy. Tôi nghĩ rằng rất ít người trong chúng tôi làm việc ở Rand là vì tiền. Một động lực lớn khiến mọi người làm việc cho Rand là ở đây chúng tôi được hưởng tự do ngôn luận và suy nghĩ nội bộ trong Rand cũng như giữa chúng tôi với khách hàng, so với những bó buộc của bộ máy quan liêu trong chính phủ. Nhưng xét cho cùng thì suy nghĩ của chúng tôi tự do đến đâu tại Rand khi xuất hiện những lo ngại nêu trên?
Giống như phần lớn các đồng nghiệp khác, tôi đã quen với bầu không khí thần bí của Rand, một bầu không khí không có nỗi sợ hãi và độc lập, sẵn sàng thông báo với lực lượng không quân và những nhà bảo trợ khác những kết luận và đề xuất mà trong một số trường hợp không được hoan nghênh, những gì mà khách hàng không muốn nghe. Thực ra có một số trường hợp quan trọng, không thể phủ nhận được, trên hết là sự nghi ngờ kéo dài của Rand về ưu tiên hàng đầu là mua được các máy bay ném bom siêu âm B70 (sau này gọi là Bl). Đối với tôi, cũng như đối với nhiều người khác, điều này thể hiện sự trung thành đối với Rand, một công ty bao gồm những nhân viên suy nghĩ rất thoáng, can đảm, độc lập, ngay thẳng, bộc trực vì lợi ích của công chúng. Nhưng liệu hình ảnh này có chính xác, trong số những nhà phân tích, những người đã phát hoảng lên khi sáu đồng nghiệp của họ viết thư đăng báo, thông qua một đề xuất mà nhiều người trong số họ ủng hộ ngầm cùng với các đại biểu quốc hội và đa phần công chúng Mỹ?
Có thời điểm, Konrad Kellen tiếp âm cho tôi nghe một câu chuyện mà ông ta vừa mới tham gia với một quan chức cấp cao giấu tên của Rand (hoá ra là một phó giám đốc). "Ông ta nói rằng một thư ký của Rand bị mất việc vì bức thư này (thông qua cắt giảm ngân sách). Chúng ta không có quyền gửi bức thư đó đi.
Thật mỉa mai thay, những nhân viên duy nhất quyết định chúc mừng tôi vì bức thư đều là tất cả các nữ thư ký. Họ không tham gia viết các bức công văn, nhưng không giống như cánh đàn ông, những người cứ nhìn thấy tôi ở đâu là chau mày khó chịu, các nữ thư ký thường gật đầu chào tôi rất thân thiện, hoặc bắt tay tôi và nói thầm: "Việc anh làm thật tuyệt! Một bức thư tuyệt vời!". Một số cô thư ký nói: "Việc làm của anh làm cho tôi thấy rất tự hào được làm việc tại Rand". Một trong số hai, ba bức công văn bảo vệ quyền và quyết định chúng tôi gửi bức thư đi là của một trong rất ít các chuyên gia nữ tại Rand, cô Kathy Archibald.
Bức công văn khác tương tự như vậy là của một nhà tư vấn mời cộng tác cho Rand đã được hai năm, anh Ben Bagdikian.
Trong một bức công văn thể hiện sự "kinh ngạc" đối với các công văn khác, anh ta cho hay một số các quan chức có thế lực đang chỉ trích việc làm của chúng tôi thì trước đây đã nhờ ông ta tư vấn hay giúp đỡ để làm điều tương tự "Trên thực tế họ luôn ủng hộ việc triển khai vũ khí". Anh ta ghi nhận: "Tôi có thể hiểu được nỗi lo lắng rằng hành động trả đũa của các ông chủ đối với những ý kiến độc lập là sa thải nhân viên. Nhưng luận điểm cho rằng những gì tốt cho thu nhập cá nhân của tôi thì dĩ nhiên cũng tốt cho Rand và cho đất nước tôi là một luận điểm không đạo đức chút nào".
Một đồng nghiệp của tôi trước đây đã tham gia vào cuộc thảo luận về khả năng rút quân và trong đó anh ta tỏ ra rất ôn hoà. Chúng tôi không nghĩ ra là cần mời anh ta cùng tham gia ký vào lá thư chúng tôi viết. Có thể anh ta đã nói họ cho một nhóm nhân viên khác khi anh ta giải thích với tôi, mặc dù tôi không yêu cầu, tại sao anh ta không tham gia ký vào lá thư đó. Tuần đó tôi ăn tối với anh ta ở Pacific Palisades - vợ anh ta đi vắng. Anh ta nói với tôi: "Sự thật là anh không thể làm việc cho chính phủ và công bố một bức thư như vậy được. Anh không thể làm cả hai việc cùng một lúc được".
Tôi nói: "Ý anh muốn nói gì, không thể làm được à? Anh có nói quá không đấy? Cả sáu người bọn tôi đều làm việc cho chính phủ và chúng tôi vừa làm được điều đó".
Anh ta nói: "Điều đó không nên làm. Dù sao thì anh không thể làm điều đó và thoát được".
Tôi nói: "Việc đó còn chờ xem thế nào đã".
Anh ta đi đi lại lại trong phòng khách được bày biện rất lịch sự và nói: "Dan, nếu tôi muốn từ bỏ tất cả những thứ này, nếu tôi muốn thất hứa với thoả thuận ly dị với người vợ trước, nếu tôi muốn bán ngôi nhà của mình và dùng tiền để mua một cơ sở kinh doanh, tôi sẽ ký vào bức thư đó".
Có lẽ tôi đã đánh giá thấp tình hình thực tế. Vì có bức thư đó, ai đó trong Quốc hội đã đưa ra một giải pháp là xoá hợp đồng của Rand khỏi ngân sách dành cho quốc phòng. Điều đó chẳng giải quyết được vấn đề gì. Đối với những đồng nghiệp cùng ký bức thư với tôi, một năm sau Konrad nói "phần còn lại của chúng tôi cố sức bấu víu một cách yếu ớt vào công việc ở Rand. Họ muốn sa thải tất cả chúng tôi". Mel Gurtov gần đây nói với tôi rằng Iklé gọi anh ta vào văn phòng sau khi bức thư xuất hiện trên mặt báo và nói anh ta không còn tương lai gì ở công ty này nữa. Anh ta phải đi tìm việc ở nơi khác. Tôi được biết một năm rưỡi sau đó, anh ta đã rời Rand đi dạy học ở Irvine, nhưng tôi không biết liệu điều đó có liên quan gì tới bức thư hay không.
Mặt khác, một ngày sau khi bức thư của chúng tôi xuất hiện trên tờ Bưu điện Washington, hôm thứ Hai, 13 tháng mười, Thượng nghị sỹ William Fulbright gửi tôi một bức thư, mời tôi, với tư cách là người đầu tiên trong danh sách những người đặt bút ký bức thư đó, và hai người khác nữa ("thật không may" là họ không có thời gian để nghe cả sáu người), tới điều trần trước Uỷ ban đối ngoại về các giải pháp khác nhau đối với Việt Nam do các thành viên của quốc hội đưa ra. Những phiên điều trần theo dự kiến bắt đầu vào ngày 27-10. Có lẽ chúng tôi sẽ điều trần vào ngày 30 hoặc 31 tháng đó. Cùng ngày thứ hai hôm đó thượng nghị sỹ George McGovern trích dẫn lời bức thư của chúng tôi trong một bài phát biểu trước Thượng nghị viện và đưa cả nội dung bức thư vào Hồ sơ của Quốc hội Mỹ.
Khi sếp của tôi là Charlie Wolf, người đứng đầu Phòng Kinh tế, biết tin tôi đã nhận lời mời sau hai tuần nữa sẽ điều trần trước Uỷ ban đối ngoại Thượng viện, ông ta gọi tôi vào phòng làm việc và yêu cầu tôi thôi việc khỏi Rand trước khi tôi xuất hiện để điều trần. Tôi nói không. Ông ta nói: "Tôi yêu cầu anh làm như vậy vì anh đang làm việc cho Rand. Anh đang lợi dụng danh tiếng của Rand, một công ty nổi tiếng vì tính khách quan cao. Anh không nên dính dáng gì đến Rand nữa, bằng cách là xin thôi việc. Khi đó anh tha hồ nói với tư cách cá nhân. Nói cách khác anh đang dùng tên tuổi của Rand để tạo cho những ý kiến của mình một quyền lực mà đáng nhẽ ra không nên đó".
Tôi nói: "Nhưng tôi là một nhà phân tích của Rand. Tôi sẽ không nói nhân danh Công ty Rand, nhưng tôi có quyền xuất hiện trước Uỷ ban đối ngoại thể hiện quan điểm từ Rand, giống như bất cứ ai trong toà nhà này? Làm thế nào mà Rand có được danh tiếng như ngày hôm nay chứ? Đó là nhờ vào công việc của những người như tôi. Ai đang lợi dụng ai? Rand sử dụng sự khách quan của chúng tôi, sự trung thực, tên tuổi và đúng ra là công việc của chúng tôi. Đúng vậy, họ mời tôi vì họ muốn một nhà nghiên cứu của Rand, người đã ký vào bức thư đó".
Tôi nói tiếp: "Charlie, anh có thể sa thải tôi. Nhưng tôi sẽ không xin thôi việc. Anh sẽ phải sa thải tôi nếu anh thực sự muốn vậy".
Charlie tái người và tôi đi ra. Tôi quyết tâm sẽ xuất hiện trước Uỷ ban với tất cả quyền lực mà tôi có - với tư cách trước đây là quan chức của Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao, đã từng hai năm phục vụ tại Việt Nam, trước đây và bây giờ là nhà phân tích của Rand. Do vậy tôi không muốn bị tách rời khỏi Rand trước khi tôi ra điều trần, giờ đây khi tôi đã được mời hẳn hoi.
Một tác động ngầm của lời mời đó là tôi phải thay đổi những ưu tiên và kế hoạch công bố tài liệu mà hàng đêm tôi vẫn đang sao chụp. Tôi nhận ra rằng tôi không thể theo thời hạn của Hội đình hoãn nhập ngũ (Moratorium - Một tổ chức hàng đầu trong phong trào phản chiến ở nước Mỹ những năm 1970 - ND) giờ đây chỉ còn vài ngày nữa, và tôi phải xuất hiện điều trần trước Uỷ ban với tư cách là một nhân viên làm việc cho Rand vào cuối tháng. Do vậy tôi phải hoãn việc công bố tập tài liệu mật kia lại và tôi sẽ có nhiều thời gian để sao chụp tài liệu hơn. Hơn thế nữa, việc điều trần trước Uỷ ban sẽ cho tôi địa điểm và cơ hội lý tưởng để trao toàn bộ số hồ sơ mà tôi đã chụp được tính đến thời điểm đó.
Cuối ngày hôm đó, tôi nói với Harry rằng Charlie đã yêu cầu tôi xin thôi việc. Harry nói luôn: "Tôi không yêu cầu anh làm việc đó. Thực ra, tôi không muốn anh làm việc đó. Điều đó không có lợi cho chúng tôi". Chúng tôi nói chuyện rất lâu trong phòng làm việc. Lúc đó đã khá muộn. Tôi còn nhớ là anh ấy ngồi trên ghế, hai tay duỗi thẳng khi tôi kể cho anh ấy nghe chi tiết hơn những gì tôi đã kể về cảm nghĩ của tôi về chiến lược của Nixon và chiến lược này sẽ đi đến đâu. Tôi nói một phần chiến lược là giảm lực lượng bộ binh của Mỹ đến mức mà tổn thất và chi phí của lính Mỹ thấp khiến công chúng Mỹ có thể chấp nhận lâu dài. Tôi công nhận rằng trái ngược lại những gì mà mọi người vẫn nghĩ, thực ra Nixon có thể làm được điều đó cùng với thời gian - bằng cách sử dụng lâu dài lực lượng không quân Mỹ để hỗ trợ cho lực lượng không quân Nam Việt Nam và chống lại chính phủ Bắc Việt Nam - mặc dù điều đó không bao giờ có thể khiến Mặt trận dân tộc giải phóng hay chính quyền ở Hà Nội chịu khuất phục và kết thúc chiến tranh.
Harry ngồi trầm tư suy nghĩ. Anh ấy nói: "Nếu ông ta có thể giảm tổn thất về người và của đến mức thấp như vậy, và dư luận Mỹ chấp nhận được điều đó thì có vấn đề gì?"
Tôi nói: "Điều đó có nghĩa là sẽ ném bom Việt Nam vĩnh viễn. Và điều đó đối với tôi là không thể chấp nhận được". Sau đó khi tôi chuẩn bị đi, Harry một lần nữa nói rằng không có gì phải lo lắng về Charlie cả. Tôi nói: "Không chỉ có Charlie. Tôi biết điều này sẽ gây rắc rối cả cho anh. Nhưng đây chưa phải là hồi kết đâu. Tôi sẽ không xin thôi việc. Có thể anh cần phải cân nhắc tới việc sa thải tôi. Tôi sẽ gây cho anh rắc rối to đấy".
Ông ta nói: "Thật vậy sao?" và cười phá lên: "Anh dự định làm gì?"
Tôi nói: "Tôi chưa quyết định".
Điều tôi nói là không đúng và chắc chắn lừa dối anh ta.
Nhưng có một lý do khiến tôi không giải thích thêm gì với anh ta cả. Tôi biết tôi sẽ gây rắc rối lôi thôi to cho anh ta. (Bức thư của chúng tôi không khiến anh ta bị sa thải với tư cách là Giám đốc của Rand, mặc dù những người chỉ trích anh ta đã ra tay nỗ lực rất nhiều hòng làm điều đó, nhưng việc sau này tôi công bố tập tài liệu mật cùng với bức thư là nguyên nhân chính khiến anh ta bị sa thải). Suy nghĩ rằng tôi sẽ làm điều này với người bạn thân nhất của mình là một cân nhắc khủng khiếp nhất mà tôi phải đối mặt trong suốt quá trình công bố tập tài liệu. Tôi nghĩ cách duy nhất mà tôi có thể giúp anh ta vượt qua được tất cả những điều này là không cho anh ta biết tôi dự định làm việc đó. Tôi muốn anh ta sẽ nói với những người hỏi cung rằng anh ta không hề tiên đoán được lại có vụ việc như vậy để ngăn chặn. Cũng vì lý do đó nên tôi cũng không nói gì với Mort Halperin và Les Geth, và bất kỳ ai có thể bị nghi ngờ khi tài liệu mật được công bố. Nhưng trong trường hợp của Harry, điều đó có nghĩa là phải giấu anh ta trong một thời gian dài, một người mà đáng nhẽ ra tôi phải tin tưởng để dốc bầu tâm sự mới đúng.
Chú thích:
(100) "Kính gửi các ngài: Bởi vì hiện nay người dân Hoa Kỳ" - Ellsberg và nhiều người khác, thư gửi Thời báo New York, tài liệu không xuất bản.
Khi Nhà Trắng thông báo Tổng thống sẽ có bài phát biểu quan trọng về Việt Nam vào ngày 3-11-1969, Fulbright đã hoãn buổi điều trần theo dự kiến để chờ xem nội dung và phản ứng của công chúng đối với bài phát biểu. Tôi vẫn chờ để trình bày trước Quốc hội và đêm đêm tiếp tục sao chụp Bản nghiên cứu McNamara để chuẩn bị trước. Ngày 15-10, cuộc biểu tình chống nhập ngũ, chống chiến tranh đã diễn ra với quy mô lớn chưa từng có. Ngày 15-10, biểu tình sẽ còn lan rộng cả ở Washington dù cho Tổng thống tuyên bố ông không bận tâm tới những cuộc biểu tình như thế.
Sau ba năm xa cách, Patricia và tôi đã có khoảng thời gian ngắn ngủi bên nhau, một lần vào tháng Năm và lần nữa vào mùa hè. Chúng tôi đã sắp xếp tới với nhau một tuần tại nhà tôi ở Malibu, bắt đầu từ mồng 2 -11. Chiều muộn hôm đó khi tôi đang đợi cô ấy tới thì chuông điện thoại reo. Đó là Sam Brown gọi từ Washington. Anh là một trong bốn người điều phối Hội đình hoãn nhập ngũ. Chúng tôi chưa bao giờ nói chuyện với nhau. Anh muốn tôi tới Washington vào tối hoặc sáng sớm hôm sau để tham gia với Ban chấp hành của Hội, bàn thảo đưa ra phản ứng đối với bài phát biểu của Nixon vào tối hôm đó, rồi sẽ vận động quốc hội về vấn đề này. Họ sẽ chi trả tiền đi lại và ăn ở cho tôi. Khi chúng tôi đang nói thì có tiếng gõ cửa. Patricia đi tắc-xi từ sân bay tới. Tôi ra hiệu cho cô ấy là tôi đang có điện thoại rồi để cô ấy tự vào. Khi Patricia trả tiền tắc-xi và mang túi vào thì tôi nói tiếp với Brown. Những gì anh nói có vẻ quan trọng. Tôi nói tôi sẽ tới.
Thật là một tình huống tế nhị. Có lẽ lần này chúng tôi được ở gần nhau lâu nhất trong suốt ba năm, nhưng chúng tôi lại sắp xếp trước khi tôi sao chụp đống tài liệu. Tôi vẫn muốn Patrcia đến, nhưng vẫn muốn tiếp tục công việc của mình, cũng chẳng thích từ chối đề nghị của Brown. Ngoài ra, tôi nghĩ đó sẽ là cơ hội để tôi gửi những tài liệu được cho Fulbright.
Khi tôi gác máy, tôi kể với Patricia và nói sáng hôm sau phải đi Washington. Tôi e nói vậy thật chẳng khác gì, năm 1966 khi tôi nói với cô ấy tôi đã tình nguyện sang Việt Nam. Ít nhất thì lần này tôi đã nói tôi sẽ rất sung sướng nếu cô ấy cùng tôi tới Washington. Thật ngạc nhiên là Patricia đã rất bình thản và còn đồng ý ngay lập tức. Sáng sớm hôm sau chúng tôi ra sân bay, Patricia mang theo cái vali còn chưa kịp mở, tôi thì mang một nghìn trang đầu của tập Nghiên cứu McNamara để ở đáy vali, dưới đống áo sơ mi.
Theo kế hoạch, Nixon sẽ phát biểu về Việt Nam vào bảy giờ tối hôm đó, và do máy bay mãi hơn năm giờ mới tới nên chúng tôi quyết định từ Dulles đi thẳng tới trụ sở của Hội đình hoãn nhập ngũ. Tổng thống chuẩn bị bắt đầu khi chúng tôi chạy vào văn phòng, đồ đạc vẫn trên tay. Chúng tôi bắt tay mọi người rồỉ tất cả cùng ngồi trước tivi. Mọi người đều cho là đứng trước số lượng người khổng lồ tham gia biểu tình tháng mười, Nixon sẽ tìm cách hạ thấp cuộc biểu tình vào ngày 15-11 của chúng tôi. Mọi người trong phòng cá với nhau xem ông ta sẽ tuyên bố rút bao nhiêu quân. Hai mươi lăm nghìn? Thế có lẽ quá ít. Năm mươi nghìn? Một trăm nghìn?
Chúng tôi chăm chú nghe ông ta thông báo. Nhưng khi bài phát biểu kết thúc, chúng tôi không thể tin vào tai mình. Ông ta không hề thông báo sẽ rút thêm quân!
Chúng tôi chẳng hy vọng ông ta sẽ tuyên bố rút quân, nhưng ông ta thậm chí còn không tuyên bố (giả vờ) rút quân chiếu lệ vào lúc này. Ngược lại, ông ta đưa ra những điều kiện xương xẩu trước khi nước Mỹ có thể rút hoàn toàn. Hoặc là Hà Nội phải từ bỏ mục tiêu thống nhất Việt Nam và các lực lượng nước ngoài phải rút quân và từ bỏ quyền kiểm soát, hoặc chế độ Sài Gòn phải có khả năng tự mình đương đầu với những thách thức. Một thực tế tương đối rõ ràng là cả hai khả năng này chẳng bao giờ trở thành sự thực. Trước phong trào phản chiến lớn nhất mà chưa Tổng thống Mỹ nào phải đối mặt, ông ta đã lựa chọn giải pháp là tiếp tục đối đầu với những yêu sách của những người biểu tình.
Tổng thống đã liều lĩnh một cách khó hiểu. Ông ta không có vẻ gì là quan tâm tới tâm trạng của người dân, và điều đó tạo cho chúng tôi thêm nhiều cơ hội để kêu gọi phản đối chính sách của Tổng thống. Chúng tôi nghĩ, chính Nixon đã làm số người tới đây tham gia biểu tình tăng gấp đôi.
Sáng hôm sau, theo sắp xếp tôi tới gặp mười nghị sỹ có tư tưởng cấp tiến, đứng đầu là ba nghị sỹ Abner Mikva, Robert Kastenmaier và Don Edwards, những người đã làm việc cùng nhau và tự gọi là Nhóm. Họ đã xem bản ghi nhớ của Rand, và tôi đưa họ bản sao chụp tài liệu. Sau khi tôi trình bày về bài phát biểu của Nixon, Mikva đề nghị tôi thảo cho họ một tuyên bố theo những ý bình luận của mình. Tôi có một văn phòng, một cái máy chữ và bắt đầu công việc. Đầu giờ chiều tôi chuyển cho trợ lý của Mikva một giác thư bốn trang có tiêu đề "Cuộc chiến tranh của Nixon". Bức thư bắt đầu như sau: "Tối thứ hai Tổng thống đã sử dụng một tiêu chuẩn sai lệch và tuyên bố cuộc chiến tranh của Nixon. Nhìn kỹ hơn, cuộc chiến mà ông ta tiếp tục theo đuổi đáng buồn thay lại tương tự với cuộc chiến của Johnson: cam kết theo đuổi ở Việt Nam những mục tiêu không thể đạt được, một cuộc chiến không hồi kết cả về thời gian, cả về tiền bạc và hoả lực Mỹ để chống lại người Việt Nam".
Ngày hôm sau, mồng 5-11, Hạ nghị sỹ Don Fraser đã lấy toàn bộ bức giác thư của tôi để làm bài phát biểu trước Hạ viện. Trong lúc đó, cả mười thành viên của Nhóm đã ký chung một bức thư gửi "Đồng nghiệp thân mến" kêu gọi đồng bảo trợ cho một nghị quyết sẽ được giới thiệu trong thời gian ngắn nhất. Tuyên bố đi kèm với nghị quyết mở đầu bằng phần đầu tiên trong giác thư của tôi, có chỉnh sửa chút ít:
"Thiếu sót cơ bản nằm ở việc hạn chế lựa chọn một trong hai khả năng: "thúc đẩy" rút quân hoặc cam kết làm chỗ dựa vô thời hạn về quân sự cho chính quyền Sài Gòn hiện tại (với một hy vọng hão huyền là cuối cùng sẽ chuyển giao chiến tranh trên bộ cho quân đội Nam Việt Nam). Chúng tôi không đề nghị cả hai khả năng này, và chúng tôi thấy chính sách Việt Nam của Tổng thống đã bị nhận thức sai lầm một cách bi thảm vì ba lý do chủ yếu".
Ba đoạn tiếp theo được lấy nguyên xi từ bản ghi nhớ của Rand. Tuyên bố kết thúc như sau: "Vì những lý do chúng tôi đã nêu trên", cần phải "kiên quyết rằng theo Quốc hội, quân lực Mỹ ở Nam Việt Nam cần phải được rút một cách có hệ thống theo một lịch trình trật tự và cố định - không thúc đẩy hoặc phụ thuộc vào những yếu tố nằm ngoài sự kiểm soát của chúng ta - sao cho có đủ thời gian cần thiết để (a) bảo đảm sự an toàn của binh lính Mỹ, (b) bảo đảm tù nhân Mỹ sẽ được trả tự do, (c) hỗ trợ bất kỳ người Việt Nam nào mong muốn được tị nạn, và (d) tạo điều kiện để Mỹ có thể bố trí có trật tự các trang thiết bị ở Nam Việt Nam".
Đây là lần đầu tiên trong đởi, tôi trao đổi với các nghị sỹ về một phần dự luật và đã giúp thảo ra dự luật đó. Một tuần trước cũng là lần đầu, tôi thực sự được chuẩn bị một bài phát biểu cho một nghị sỹ. Các nhân viên của Rand thỉnh thoảng cũng làm vậy với những dự án mà họ có được sự bảo trợ của ít nhất một vài quan chức cao cấp trong không quân. Nhưng đây thực sự là phá lệ khi làm việc trực tiếp với những nghị sỹ phản đối chính sách của Tổng thống, công khai chỉ trích và thách thức chính sách đó, mà không có sự ủng hộ ngầm của bất kỳ ai trong nhánh hành pháp.
Chiều hôm sau, tôi gặp Jim Lowenstein, trợ lý của Fulbright, người đã mời tôi tới dự buổi điều trần trước khi nó bị hoãn, và Norvil Jones, trự lý pháp lý của Fulbrightt. Lần đầu tiên tôi kể cho họ Bản nghiên cứu McNamara là gì và làm thế nào để sử dụng nó làm cơ sở cho buổi điều trần. Họ quyết định là tốt hơn hết Fulbright nên trực tiếp nghe tôi nóỉ.
Lúc đó là chiều muộn, văn phòng của Fulbright đã tối om, vài ánh đèn leo lét. Tôi đem theo Hồ sơ Lầu Năm Góc, tất cả tôi đã sao chụp và lôi từ va li rồi cho vào hai cặp tài liệu. Tôi ngồi trên ghế sofa, đặt cặp tài liệu bên cạnh. Tôi nói với họ những điều cơ bản về Bản nghiên cứu McNamara và tại sao tôi cho rằng Quốc hội và công chúng cần phải có được Bản nghiên cứu này. Hầu hết thông tin đã bị giấu kín với Quốc hội dù chúng liên quan chặt chẽ với những gì đang diễn ra. Tôi trình bày cách hiểu của tôi về chính sách của Nixon và tác động của nó - chiến tranh sẽ tiếp tục và ngày càng lan rộng. Fulbright đồng ý với tôi, nhưng ông nói phản ứng ban đầu đối với bài phát biểu của Nixon cho thấy rằng rất nhiều người, kể cả những người trong Uỷ ban của ông, đang ngờ nghệch tin vào những thứ họ muốn tin, rằng Nixon đang rút khỏi Việt Nam.
Tôi nói với họ rằng tôi không có tài liệu chứng minh điều ngược lại, nhưng câu chuyện này cho thấy vẫn một kiểu lừa như thế, vẫn những kế hoạch và mối đe doạ bí mật hòng leo thang chiến tranh, vẫn những dự đoán nội bộ đầy bi quan, và vẫn những hứa hẹn trước công chúng như suốt thời kỳ của bốn Tổng thống trước. Đưa những điều đó ra ánh sáng với những bằng chứng nội bộ sẽ giúp công chúng hiểu được vị Tổng thống thứ năm dính líu đến cuộc chiến Việt Nam đang làm gì. Thay vì coi việc leo thang chiến tranh là việc đã rồi, Quốc hội sẽ có thể kịp thời có biện pháp ngăn chặn.
Tôi nói tôi đã nghĩ tới việc đưa những tài liệu này đăng tải qua báo chí và đã chuẩn bị trước, nhưng với tôi, có lẽ tốt nhất là nên báo cáo những điều này trong các buổi điều trần của quốc hội. Dù sao đi nữa thì những tài liệu này cũng không thể nói lên tất cả. Có những khía cạnh quan trọng của chính sách này không bao giờ được ghi chép lại, và chỉ có những người trong cuộc mới có thể làm sáng tỏ. Quốc hội có thể triệu tập các nhân chứng cả ở các phiên kín và các phiên công khai và yêu cầu họ giải thích về những khác biệt giữa những tài liệu và những gì họ tuyên bố trước công luận. Trong quá trình đó, các thượng nghị sỹ và đội ngũ trợ lý của họ có thể tìm ra được sự thật từ các nhân chứng, điều mà chẳng ai dám mơ tới nếu không có bằng chứng từ những tài liệu này, những tài liệu mà có thể sử dụng làm nền tảng cho một kiểu chất vấn độc nhất vô nhị.
Tôi kể với ông về kinh nghiệm của bản thân, khi đó là vào năm 1964, chính Fulbright cũng đã bị lừa dối khi xử lý Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ. Tôi nói, mãi cho đến tháng hai, khi kết thúc điều trần về vụ việc đó, ông vẫn đinh ninh tin vào báo cáo của McNamara. Fulbright ngắt lời tôi, nói rằng họ đã nghe nói tới nghiên cứu của Joseph Ponturo về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ viết cho Cơ quan tác chiến chiến dịch của Hội đồng Tham mưu trưởng liên quân, nhưng Bộ Quốc phòng đã từ chối cho họ tiếp cận tài liệu này. Tôi nói tôi đã sao nguyên văn hầu hết những ghi chép của mình từ nghiên cứu đó và có mang theo.
Fulbright có vẻ rất hứng khởi khi nghe những gì tôi nói.
Ông nói tôi nên đưa tài liệu cho Jones và họ sẽ tiếp tục chuẩn bị cho buổi điều trần. Tôi cũng nóỉ rõ ràng là việc tôi sao chụp những tài liệu này khiến tôi có nguy cơ bị truy tố. Chẳng hay ho gì khi phải vào tù, nên tôi hỏi liệu có thể sử dụng tài liệu mà không tiết lộ tôi là người cung cấp hay triệu tôi tới để điều trần.
Tôi thích thế hơn, nhưng vấn đề quan trọng là làm thế nào sử dụng tốt nhất những tài liệu đó. Tôi sẵn sàng trước mọi điều có thể xảy ra. Ví dụ như, nếu họ gọi tôi tới điều trần về tính xác thực của nghiên cứu này, hoặc giả nếu cần chuẩn bị tài liệu và gửi tới Uỷ ban thì cứ gọi tôi.
Fulbright nói: "Tôi không nghĩ cần thiết phải làm như thế. Chúng ta có thể xử lý bằng nhiều cách. Tôi không nghĩ chúng tôi phải nêu ra là nhờ anh chúng tôi mới có được những tài liệu này. Chỉ có điều, chúng ta nên sẵn sàng đưa ra chính thức trước chính quyền nếu cần thiết. Nếu họ ỉm tài liệu này đi, chúng ta có thể yêu cầu những tài liệu chi tiết. Giờ thì chúng tôi biết cần gì rồi, sẽ không phải phiền anh tí nào đâu".
Tôi nói với tôi thế thì ổn quá. Tôi chỉ muốn mọi người hiểu rằng tôi không muốn họ phải quá lo lắng về những thứ có thể xảy ra với tôi khiến ảnh hưởng tới công việc này. Không phải là không quan trọng, nhưng kể cả thế đi nữa thì đó cũng không phải là điều đáng bận tâm nhất. Tôi đã đâm lao rồi. Điều gì làm cho công việc được trôi chảy nhất thì phải làm cho bằng được.
Tôi sẵn sàng ngồi tù, vì dù sao đó cũng là điều tôi đã dự liệu khi bắt đầu sao chụp tài liệu một tháng trước. Fulbright nói ông ngưỡng mộ tinh thần của tôi và rất biết ơn vì những gì tôi đã làm. Nhưng ông nghĩ là không đến mức phải như thế. Quốc hội có quyền biết thông tin này, và lẽ ra phải được biết sớm hơn nhiều, ông không nghĩ rằng một cựu quan chức có thể bị tống vào tù vì đã dũng cảm báo cáo tài liệu này cho Quốc hội.
Ông đứng lên, chúng tôi cũng đứng lên theo và chuẩn bị đi ra. Nhưng tôi còn một thứ phải làm. Dù có thế nào chăng nữa, tôi muốn nói rằng tôi đã nỗ lực để đưa tài liệu này cho Chủ tịch Uỷ ban đối ngoại của Thượng viện. Tôi muốn trực tiếp đưa cho ông ít nhất một phần trong nghiên cứu này, và trước sự chứng kiến của những người khác.
Tôi đã chụp thêm một bản tập tài liệu về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, cùng với những ghi chú của tôi về Nghiên cứu Pontoro. Tôi hỏi liệu ông có muốn xem qua không. Ông đáp: "Tôi thực sự muốn". Miệng ông cười thật tươi, rộng như giọng miền Nam kéo dài của ông vậy. Ông vươn tay nhận tập tài liệu tôi đang cầm trước mặt những người trong phòng. Ông nói ông sẽ đọc ngay lập tức và tôi có thể tin ông sẽ làm đúng như thế.
Tôi biết rằng tập tài liệu này không nêu thẳng thắn bằng các tập còn lại, nhưng lại gây ấn tượng hơn nhiều. Một sĩ quan không quân làm việc cho McNamara theo nghiên cứu này đã viết trong vài ngày sau khi diễn ra cuộc điều trần của nghị sỹ Fulbright về cùng nội dung trên. Anh này đã rất cẩn thận không tiết lộ những chi tiết mâu thuẫn trong phân tích về tường trình của McNamara trong những phiên điều trần đồng thời. Theo như tôi biết thì đó là tập duy nhất phụ thuộc vào một mức độ tự kiểm duyệt nhất định. Nhưng tôi biết rằng thế cũng đủ gợi mở để khiến Fulbright nổi xung lên rồi.
Chúng tôi để Fulbright ở lại trong văn phòng. Vào phòng bên cạnh, tôi dốc hết cặp xách trên bàn của Norvil Jones và hứa rằng tôi sẽ gửi cho anh ấy số tài liệu còn lại ngay khi tôi sao chụp xong.
Sau khi chúng tôi từ Washington trở về vào ngày 6-11, Patricia tới Seattle vài ngày với một người bạn thân đang chuẩn bị lập gia đình. Tôi trở lại với thói quen đêm đêm nhét đầy cặp Bản nghiên cứu McNamara và lái xe tới văn phòng của Lynda Sinay ở Hollywood để sao chụp. Tôi vẫn ngủ ít. Vẫn như trước, tôi lên giường đi ngủ vào khoảng chín mười giờ sáng và ngủ tới ba bốn giờ chiều, rồi làm ở Rand tới tám chín giờ, rồi ra về để hoàn thành công việc ban đêm ở Đại lộ Melrose. Tôi vẫn hy vọng Fulbright sẽ điều trần trước Uỷ ban đối ngoại của Thượng viện về vấn đề rút khỏi Việt Nam, dù cho ông vẫn chưa sắp xếp lại lịch cho vấn đề này. Tôi muốn sao chụp càng nhiều tài liệu càng tốt, trước khi diễn ra buổi điều trần, cũng như tranh thủ lúc Patricia còn chưa quay về. Tôi chưa hề nói gì với cô ấy về những gì tôi đang làm với đống tài liệu này. Tôi không muốn cô ấy hay ai đó giúp tôi sao chụp phải dính líu vào vụ này. Tôi chỉ nói với Janaki, và là qua điện thoại. Cũng vì thế, tôi cũng đã có ý nói với Randy Kehler trước tháng mười hai, khi anh phải vào tù. Tôi muốn cho họ biết rằng họ đã ảnh hưởng đến tôi nhiều đến thế nào. Tôi muốn họ biết rằng tôi đã đi theo cái cách mà họ đã sống.
Đến giờ công việc thật là cực nhọc, nhưng tôi vẫn làm một mình. Lynda và Tony không đến nữa. Tôi làm cả đêm, sao chụp và so sánh đối chiếu, rồi lại có mặt ở Rand vào khoảng tám giờ.
Trước đó tôi để các bản sao ở nhà một người bạn. Tôi lái xe về nhà theo xa lộ Pacific, ngược đường buổi sáng, tắm biển trước khi lên giường đi ngủ. Tôi bắt đầu thấy lạnh và không thể ở dưới nước quá lâu, nhưng lướt vài con sóng thật quá mê ly và tôi chẳng biết mình có thể lướt tiếp bao lâu nữa. Vì thế, trên thế giới này với tôi chẳng có nơi nào dễ chịu hơn bãi biển Las Tunas ở Malibu. Đó là một bãi biển hẹp, vào mùa đông, những con sóng khi triều lên có thể tràn tới cả những mái nhà tranh ven bờ, cùng những con sóng cao thật thích hợp để lướt ván thì chỉ cách nhà có vài mét. Suốt từ tháng mười đến giữa tháng mười một, khi thời gian để tôi công bố những tài liệu chỉ tính bằng ngày, bằng tuần, sau một đêm sao chụp tài liệu tôi thường ra ngắm nhìn những con sóng nối đuôi nhau tràn vào bờ ngay trước hiên nhà, ngước nhìn bầu trời, chiêm ngưỡng những ngọn đồi nằm về một bên, và nghĩ rằng, làm sao mình có thể từ bỏ công việc này được.
Cuối năm 1969 tôi tính rằng mình có lẽ còn phải ở lại làm việc cho Rand thêm một năm rưỡi nữa. Tôi nghĩ Nixon sẽ rút quân chậm chạp và Bắc Việt có xu hướng để yên cho ông ta hành động mà không gây rắc rối gì. Cuối cùng, khi ông ta dần ổn định được tình hình và dần chấm dứt rút quân, thương vong của quân Mỹ cũng giảm dần do các đơn vị lính Mỹ không còn tham gia các hoạt động tấn công quân sự quy mô lớn, thì Bắc Việt có lẽ sẽ làm nóng chiến trường với hy vọng rằng điều đó sẽ gia tăng sức ép của công chúng đối với Nixon để ép ông ta giảm quân hoặc rút hẳn khỏi Việt Nam. Từ những gì Mort nói thì tôi e rằng nếu như vậy, Nixon sẽ lại leo thang bằng cách nối lại các đợt không kích ác liệt vào miền Bắc. Nhưng điều đó hầu như chỉ diễn ra sau một năm rưỡi hoặc hai năm tới. Trong thời gian đó, công chúng có lẽ chẳng phản ứng gì mấy trước những chỉ trích đối với chính sách của Tổng thống, do họ tin rằng ông ta vẫn đang dần rút hẳn.
Nixon cố ý cho Hà Nội biết ông ta sẵn sàng mạnh tay hơn cả Johnson bằng hành động chứ không chỉ nói suông nếu như Bắc Việt tiến công lớn vào các mục tiêu của Quân lực Việt Nam cộng hoà hay số quân Mỹ còn lại. Halperin đã hiểu việc bí mật ném bom Campuchia bí mật theo ý như vậy và nghĩ rằng sẽ còn có thêm những hoạt động nữa. Nhưng Nixon vẫn giấu kín vụ ném bom này.
Như tôi đã đề cập, tình hình đã được miêu tả một cách thật mỉa mai, do trên trang nhất tờ Thời báo New York vào tháng ba xuất hiện một bài báo của William Beecher miêu tả vụ ném bom này. Nhưng khi Lầu Năm Góc bác bỏ bài báo thì cả báo giới, Quốc hội và công chúng đều chấp nhận bác bỏ này và để vấn đề trôi qua. Và dù cho các hoạt động ném bom không hề giảm bớt, vẫn không có thêm một bài báo nào, và người ta vẫn gửi đến Quốc hội những báo cáo tối mật, nhưng lại sai sự thật, về các mục tiêu tấn công. Trong những ngày này chính quyền chỉ dùng mỗi một cách là bác bỏ thông tin để ỉm đi sự thật. Nhiều người vẫn coi L.B. Johnson là một kẻ nói dối, nhưng cả báo giới và công chúng vẫn không thực sự biết họ bị L.B. Johnson lừa tới mức nào, chưa nói đến những người tiền nhiệm, và giờ đây là người kế nhiệm của ông ta.
Đối với tôi Hồ sơ Lầu Năm Góc, cũng như những câu chuyện lịch sử, không còn là một công cụ hữu hiệu để chống lại chính sách của Nixon. Tài liệu cuối cùng là vào tháng 3-1968, khá lâu trước khi Nixon lên cầm quyền. Ông ta đã thuyết phục dân chúng Mỹ rằng ông ta có một chính sách mới. Có lẽ Hồ sơ Lầu Năm Góc khó thay đổi được nhận thức sai lệch này.
Theo lời Fulbright thì nếu như công bố những hồ sơ đó vào lúc này thì người ta coi đó "chỉ là lịch sử" và nó chẳng thể có mấy ảnh hưởng tới quá trình mà Nixon được coi là đang tiến hành để dần rút khỏi Việt Nam. Nếu tôi cho lập luận rằng việc cả bốn Tổng thống trước đều lừa bịp theo một cách giống nhau có thể gợi ý rằng Nixon rồi cũng có thể đánh lạc hướng đất nước này theo chủ ý của ông ta, thì cảnh báo này của tôi sẽ bị coi là hoài nghi quá đáng, kiểu như một sự cảnh báo về việc leo thang hoặc kéo dài chiến tranh thêm nhiều năm nữa. Tôi tin rằng trước sau gì cả hai điều này cũng sẽ xảy ra, nhưng đồng thời tôi cũng nghĩ trong thời gian gần thì không việc gì phải vội đưa công khai những tài liệu này. Cũng không cần phải ủng hộ Uỷ ban đòi hoãn nhập ngũ nữa. Sau phát biểu ngày 3-11 của Nixon và việc hai cuộc biểu tình khổng lồ tỏ ra thiếu hiệu quả, chiến dịch này có vẻ đã xì hơi.
Nhưng cuối cùng Hồ sơ Lầu Năm Góc có thể sẽ đưa đất nước thoát khỏi chiến tranh. Một ngày nào đó, chúng sẽ giúp đa số trong Quốc hội có dũng khí đứng lên thách thức Tổng thống và chấm dứt chiến tranh bằng cách cắt ngân sách. Đó là vào lúc có đủ số nghị sỹ nhận ra lịch sử của những trang tài liệu đang được tái diễn. Để chuẩn bị cho tình hình đó, dù không cần quá vội vàng, tôi tiếp tục sao chụp phần còn lại của tập tài liệu và gửi tới Fulbright.
Tôi mang theo những tài liệu này trong một chuyến tới New York phòng trường hợp tôi xuống Washington. Tôi còn khoảng ba nghìn trang. Tôi gọi và báo cho Norvil Jones - trợ lý của Fulbright - tôi mang theo cái gì. Anh gợi ý khi tới sân bay để về Los Angeles thì tôi nên gửi bằng đường không cho nhanh và an toàn. Tôi không chắc những thứ tôi mang theo có bản sao dự phòng không, nên tôi tra danh bạ tìm một cửa hàng sao chụp gần khách sạn. Tôi gọi thử một cửa hàng. Họ nói họ sẽ làm ngay khi tôi mang tài liệu đến.
Cửa hàng sao chụp là một căn phòng đông đúc nằm trên một toà nhà văn phòng rộng. Tôi điền phiếu yêu cầu. Người thư ký ở đó nói phải mất vài tiếng. Trước khi đưa cho họ, tôi quyết định xem qua xem tài liệu có theo đúng thứ tự không. Trong vòng vài giây, tôi bắt gặp một trang ghi rõ "Tối Mật". Tôi vội lật qua và xem tiếp. Qua vài trang, tôi lại gặp một trang như vậy, phần trên của nét chữ bị mất, nhưng vẫn đọc được. Do một vài ký hiệu trên trang bị ghi quá thấp, mà những người phân loại và giải mã thì chỉ đọc phần trên của các trang nên đã không bỏ đi những trang ghi thấp như vậy. Tôi đóng tập tài liệu lại, lấy từ quầy thu tiền nhét lại vào cặp xách. Tôi không biết những người photocopy sẽ phản ứng thế nào nếu họ nhìn thấy những ký hiệu đó, nhưng dù sao cẩn thận vẫn hơn.
Tôi nói với người phụ nữ đứng ở quầy thu ngân là tôi sẽ chóng quay trở lại rồi đi ra ngoài. Tôi mua một cái kéo to ở cửa hàng văn phòng phẩm. Gần đó có một tiệm cà phê. Tôi ngồi ở một bàn giữa tiệm, đặt cặp xách trên ghế cạnh chỗ tôi gọi một cốc cà phê và một ổ bánh mỳ ngọt. Giờ ăn sáng qua đã lâu nên ở đây tôi là khách hàng duy nhất. Tôi đặt một chồng tài liệu trước mặt và bắt đầu kiểm tra từng tờ một, tờ sau úp lên tờ trước. Được vài trang thì thấy một trang có ghi chữ "Tối Mật" để ngang với số trang. Tôi dùng kéo cắt lề trên và nhét giấy vụn vào túi áo mưa. Cứ khoảng nửa giờ tôi lại gọi một cốc cà phê hoặc nước hoa quả rồi làm tiếp.
Những người đứng sau quầy thu tiền chẳng hề để ý gì đến tôi, nhưng càng lúc thì quán càng đông. Đột nhiên một nhóm người rất đông bước vào chật kín cả quán và đứng đợi để mua đồ ăn mang về. Lúc đó là giờ ăn trưa của các cơ quan xung quanh.
Để giữ chỗ tôi phải gọi đồ ăn trưa, khiến trên bàn chẳng còn chỗ để đống tài liệu nữa. Tôi còn hơn một nghìn trang chưa xem qua.
Tôi rút một tập tài liệu rồi để nghiêng trong lòng, mở xem vài trang một lúc để xem có ký hiệu tối mật trên đầu hay cuối trang nào không.
Cứ độ bốn mươi năm mươi trang lại có một trang như vậy.
Không muốn để ai nhìn thấy, tôi để trang giấy ngay trước ngực, lấy kéo cắt phần đầu trang hoặc cuối trang rồi lại nhét giấy vụn vào túi áo. May là mọi người xung quanh đều đang bận ăn.
Trong quán rất ồn. Hành động của tôi rõ ràng là bất thường, nhưng tôi cố gắng tỏ ra tự nhiên và những người New York chẳng có vẻ gì là quan tâm cả. Cứ một lúc tôi lại ăn vài miếng.
Cuối cùng thì quán lại trống trơn, nhanh như khi toán khách kia bước vào vậy. Chỉ còn lại có một mình, tôi không phải để vài trăm trang còn lại sát trước ngực để kiểm tra nữa. Khi xong việc thì túi tôi đã ních chặt những dải giấy vụn ghi ký hiệu "Tối Mật".
Tôi quẳng hết vào một thùng rác ven đường.
Tôi mang cặp xách trở lại hàng photocopy và đưa cho họ để chụp. Phải mất một lúc khá lâu, vì thới đó thì cả những cái máy photocopy to chạy cũng chẳng nhanh lắm. Hết cả thảy khoảng ba trăm đô la. Tới sân bay tôi lại tốn thêm bốn lăm đô la để đóng gói tài liệu và gửi cho Norvil Jones tại Uỷ ban đối ngoại Thượng viện. Tôi gọi nói với Norvil tài liệu đang được chuyển đi rồi.
Anh nói: "Thật tuyệt, chúng tôi đang sốt ruột đây? Đương nhiên là chúng tôi sẽ thanh toán chi phí cho anh".
Tôi đã ngạc nhiên. Anh ấy không hề nói trước về điều đó.
Nghe vậy tôi rất mừng. Photocopy một trang mất mười cents thì sao chụp cả tập tài liệu hết cả thảy bảy trăm đô la. Tôi đã tốn vài nghìn đô la để sao chụp rồi. Nhưng những thứ gửi cho Fulbright chỉ là một phần trong số đó, cho nên tôi quyết định chỉ nói số tiền để chụp và gửi tập tài liệu tôi vừa gửi. Tôi nói: "Hay quá? Tôi không định nói, nhưng được thế thì tốt quá. Tôi mất ba trăm bốn lăm đô la để chụp và gửi tập tài liệu gửi cho anh đó".
Anh ấy có vẻ bị sốc: "Ô, Chúa ơi, chúng tôi không chi tiền sao chụp đâu".
Tôi nói: "Thế anh định đề nghị gì đây?"
"Trả tiền cước vận chuyện thôi".
Tôi nói: "Thế thì thôi".
Ngày 7-4-1970, sinh nhật tôi, vợ cũ của tôi gọi đến. Thật là bất thường. Carol kể rằng trước đó 6 tuần, các nhân viên FBI đã đến gặp cô ấy, yêu cầu nói với họ về những tài liệu tối mật mà chồng cũ đã sao chụp. Họ nói tôi đã gửi những tài liệu này cho hai Thượng nghị sỹ Fulbright và Goodell. Cô ấy đã từ chối nói chuyện với họ mà không có luật sư riêng, nhưng họ đã không cho. Rồi họ đến gặp luật sư của cô ấy về vấn đề này, rồi anh này đã khuyên Carol nên kể với tôi. Thế là trong ngày sinh nhật thứ ba chín của mình, tôi và Patricia đã phải suy tư thật nhiều.
Ngày hôm sau, Carol và luật sư đã từ chối nói chuyện với FBI. Nhưng tôi cho rằng bước tiếp theo FBI sẽ tìm đến tôi ở Rand hoặc yêu cầu nói chuyện với Harry Rowen. Dường như thế là hết. Tôi không muốn bị bắt ở Rand. Tôi không muốn để Harry phải liên luỵ. Tôi muốn không dính gì với Rand khi FBI chất vấn tôi và điều này có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Sáng sớm hôm sau tôi gọi Everett Hagen, giáo sư kinh tế, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế ở Học viện công nghệ Massachusens (MIT). Trước đó khoảng một hai tháng ông đã gọi cho tôi và đề nghị tôi làm nghiên cứu viên cao cấp một năm ở Trung tâm và viết một cuốn sách nếu như tôi muốn. Ông đã đề cập tới Bill Bundy, một nghiên cứu viên của trung tâm và đang viết một cuốn sách về Việt Nam, và việc một sinh viên nào đó tỏ ra bất bình do chẳng có ai đủ tầm để phê phán chiến tranh. Ông nói rất thẳng thắn rằng ông muốn tôi làm ở đó một phần là để đối trọng với Bundy. (Sau đó Bundy đã đề cập trong một cuốn sách là chính ông đề nghị giới thiệu tôi với Hagen). Khi tôi từ chối đề nghị của Hagen, tôi nghĩ rằng mình có thể viết ở Rand cũng như ở bất kỳ nơi nào khác. Nhưng cảnh sát sẽ sớm gõ cửa nhà tôi, và tôi không muốn đó là cánh cửa văn phòng của Rand.
Tôi hỏi Hagen liệu đề nghị còn giá trị không và tôi có thể viết những gì tôi muốn không. Ông nói rất sung sướng nếu tôi bắt đầu ngay lập tức và thậm chí chẳng ai ngó tới tôi viết gì cho tới khi tôi xuất bản những thứ tôi viết. Tôi được đề nghị mức lương bằng với Bundy, mức lương cao nhất của MIT. Nó chỉ bằng một nửa mức tôi nhận ở Rand, nhưng đó không phải là vấn đề đối với tôi. Tôi đồng ý ngay lập tức và sắp xếp để tuần sau đó tới MIT để ký hợp đồng.
Lúc về văn phòng tôi ghé thăm Harry Rowen. Tôi nói mình nghĩ đã đến lúc rời Rand. Anh không hề phản đối gì cả. Tôi nói rất chân thật, và anh cũng chân thành đồng ý, rằng đúng, thế là tốt nhất. Dù sao thì nói nhẹ đi cũng là phong cách bình thường của anh ấy. Nhưng tôi hiểu việc anh chấp nhận ngay lập tức quyết định của tôi chứng tỏ nó làm anh nhẹ gánh nhiều sau vài tháng vừa rồi. Anh chỉ nói: "Thật quá tệ khi phải kết thúc như thế này".
Charlie Wolf, trưởng phòng của tôi, còn kiềm chế thất vọng giỏi hơn vậy. Một lần nữa tôi lại được mời đến để điều trần trước Uỷ ban của Fulbright vào ngày 13-5, và ông nghĩ rằng tôi nên rời Rand trước ngày đó càng sớm càng tốt, vì vậy ông đề nghị tôi đi hẳn từ ngày 15-4. Điều đó thật trùng khớp với những lo lắng của tôi. Tôi e FBI có thể triệu tập tôi bất kỳ ngày nào. Ông muốn tôi vẫn làm cố vấn cho Rand để tôi có thể hoàn thành chuyện đề dang dở "Judo cải tiến". Chính vì lợi ích của Rand nên tôi thấy miễn cưỡng khi duy trì mối liên hệ này. Nó cũng trái với mục đích của tôi khi rời đi. Nhưng tôi phải nói đồng ý vì chẳng thể đưa ra được lý do nào hợp lý cả.
Thứ hai, ngày 13-5, tôi bay tới Boston, rồi từ sân bay đi thẳng tới Trung tâm ở MIT, để ký hợp đồng. Janaki, một nghiên cứu sinh cao học ở Đại học Harvard, đón tôi ở đó. Chúng tôi đi theo xa lộ Memorial chạy dọc sông Charles về nhà cô ấy.
Tôi không nói với Janaki rằng tôi để trọn bộ tập Hồ sơ Lầu Năm Góc trong cốp chiếc Volkswagen của cô ấy. Khi chúng tôi tới gần Harvard, chúng tôi thấy một đám đông dang tràn qua một cây cầu và có tiếng la hét cùng tiếng còi báo động. Trong bóng tối chúng tôi rời xe, đi theo một con phố nằm giữa những toà nhà của Đại học Harvard tới đại lộ Massachusetts để xem chuyện gì xảy ra. Một cảnh tượng đầy kinh ngạc hiện ra trước mắt. Chúng tôi thấy mình lạc trong một đám đông những người biểu tình xông vào quảng trường nhưng bị chặn bởi một cả một đội cảnh sát cầm dùi cui dài và lá chắn che tới tận mặt. Tôi chưa bao giờ chứng kiến nhiều cảnh sát một lúc như vậy.
Có một khoảng trống giữa cảnh sát và đám đông trên đại lộ Massachusetts, kề bên sân Harvard, nhưng lại mờ mịt hơi cay bay hết từ bên này tới bên kia. Chúng tôi nghe rằng hình như cuộc biểu tình chống chiến tranh đã nổ ra ở bờ sông bên kia rồi tràn qua cầu vào quảng trường, ở đó đã bị cảnh sát đẩy lùi ngay trước khi chúng tôi tới. Đám đông vẫn ào ào dồn lên rồi lại phải lùi lại. Một số cửa sổ của các cửa hiệu bên đường bị đập phá.
Nơi đây là quê hương tôi, nơi tôi thực sự cảm giác như đang ở nhà, và tôi hiểu rõ từng cửa hàng đó đã hơn hai mươi năm nay rồi. Một chuyến trở về thật phiền lòng. Nơi đây, kể cả những vùng lân cận vốn thật thân quen đối với tôi, dường như đang vượt khỏi tầm kiểm soát.
Vẫn không có động tĩnh gì từ FBI. Họ đã thương lượng với Carol suốt sáu tuần. Tôi không biết cuộc điều tra này còn kéo dài đến đâu trước khi họ đến gặp tôi. Tôi cũng chẳng biết họ đã biết đến mức nào và làm thế nào họ có thể biết được. Tôi không thể ở mãi tại bờ Đông (vùng bờ biển phía Đông nước Mỹ, bên bờ Đại Tây Dương, chạy từ Boston tới thủ đô Washington - ND). Tất cả đồ dùng và tài liệu tôi vẫn để ở California. Cuối tuần trước, trong tháng tư, tôi trở về nhà ở Malibu để hoàn thành chuyên đề của Rand và chuẩn bị cho cuộc điều trần trước Uỷ ban của Fulbright vào tháng Năm. Tôi chẳng mấy khi tới Rand, nếu có thì chỉ trong chốc lát. Tôi rất bực mình bởi chuyện tôi rời Rand với tư cách là nhân viên chính thức lại bị người ta coi là vì tôi sợ bị tóm ở văn phòng hoặc do có liên hệ với Rand. Nhưng Charlie Wolf chẳng biết gì về những vụ này, lại dựa vào tôi vì muốn chuyên đề của tôi hoàn thành vào tháng sáu rồi sau được chuyển hạn là vào tháng bảy. FBI không có vẻ gì là đang rình rập, nên dần dần, từng ngày từng tuần trôi qua, tôi chẳng nghĩ gì mấy đến vấn đề này nữa.
Ngày 30-4-1970, tôi theo dõi tuyên bố của Nixon trên tivi về việc xâm lược Campuchia. Cả nước như sôi lên, đặc biệt là giới học sinh sinh viên. Vào ngày 4-5-1970 lực lượng vệ binh quốc gia nổ súng vào một đoàn biểu tình ở Kent State. Hôm đó Howard Miller, người của chương trình "Luật sư" - một chương trình trên truyền hình công cộng - đã gọi điện cho tôi, đề nghị tôi giúp đỡ trong vụ xâm lược Campuchia này. Chương trình "Luật sư" có nội dung mô phỏng một phiên toà, có các chưởng lý và nhân chứng đối lập chất vấn nhau. Ngày hôm sau tôi bay tới Washington để giúp Miller tìm nhân chứng.
Cho đến cuối năm 1969, tôi đã có một thời gian dài làm việc với Clark Clifford. Miller chưa bao giờ gặp ông, nên với Miller thì giới thiệu sơ qua của tôi về Clifford làm cơ sở cho việc nhận ông cùng tham gia. Nhưng Clifford cũng nói rõ rằng ông không muốn công khai phê phán sáng kiến của Tổng thống về vấn đề Campuchia, thậm chí không muốn tranh luận riêng với chúng tôi. Sau khi Howard tự giới thiệu về mình và về chương trình của anh rồi bắt đầu nói rõ anh muốn gì, Clifford vẫn làm theo ý mình với những cảm thán không ngớt về những ưu điểm của chương trình ti vi "Phố Vừng", nào là chương trình thật tưyệt vời do giúp trẻ em vừa học vừa chơi, nào là ông muốn xem cùng với mấy đứa cháu, nào là nhân vật Big Bird thật quá tuyệt vân vân và vân vân (Big bird - Chim lớn - một nhân vật hoạt hình trong chương trình Phố Vừng (Sesame Street) có hình dạng một con chim to lớn, lông màu vàng - ND). Tôi nghĩ là chương trình "Phố Vừng" cũng là một chương trình ti vi công cộng giống như "Luật sư", cho nên Clifford muốn cho Howard biết rằng ông đánh giá cao truyền hình công cộng. Chúng tôi cố gắng lái ông trở lại vấn đề Mỹ xâm lược Campuchia, có lẽ để cho những người khác thấy rằng chúng tôi có thể hỏi hoặc tranh luận, nhưng ông vẫn tủm tỉm nói tiếp về Oscar.Người cáu kỉnh, hai tay ấn ấn vào nhau chống trên thành ghế. Howard và tôi chỉ biết nhìn nhau. Chúng tôi chào ông và nhận được một thôi một hồi những lời chúc của Clifford.
Sau đó tôi mới biết được rằng Clifford vốn nổi tiếng vì thói quen lảng đi khi không muốn thảo luận về một vấn đề nào đó. Nhưng mấy ngày sau, sự miễn cưỡng của ông về vấn đề này hoá ra không phải là duy nhất mà lại nhận được sự chia sẻ của nhiều cựu quan chức và sĩ quan mà chúng tôi tiếp cận. Chẳng có ai chịu tham gia cả.
Thứ sáu, ngày 8-5-1970, tôi bay tới St. Louis để lần đầu tiên tham dự một cuộc hội thảo rộng rãi với chủ đề chống chiến tranh tại Đại học Washington. Tôi được một đại uý hải quân gửi lời mời tham dự. Anh này trước đã từng làm việc với tôi ở ISA và hiện là người đứng đầu đơn vị NROTC (National Reserve Omcers Training Corps: Quân đoàn huấn luyện sỹ quan dự bị quốc gia - ND) ở đây. Dưới sự hướng dẫn của tôi, vào mùa xuân năm 1965 anh đã điều phối một nghiên cứu về vấn đề phong toả Hải Phòng, sau đó nghiên cứu này đã giúp thuyết phục McNamara không đề nghị thực thi điều đó. Còn một diễn giả chống chiến tranh khác nữa là Thượng nghị sỹ Charles Mathias. Trước khi hội thảo bắt đầu thì xảy ra vụ cháy toà nhà của ROTC. Trong phần hỏi đáp, một sinh viên đề cập tới vụ này một cách đầy tính thách thức, đồng thời hỏi tôi suy nghĩ gì về nó. Khán giả đã hoan nghênh nhiệt liệt cậu sinh viên này. Thực ra cậu ta ngụ ý là chính cậu đã tham gia vào vụ đốt nhà này, dù không nói thẳng ra, và rõ ràng đây là một hành động phổ biến trong sinh viên.
Tôi nói mình đã được đào tạo trong lực lượng lính thuỷ đánh bộ để giành cho bạo lực và chính tôi đã chứng kiến quá nhiều điều đó ở Việt Nam. Nhưng hiệu quả của bạo lực cuối cùng có thể biện minh cho chính hành động đó không? Đây không chỉ là câu hỏi của bản thân tôi. Tôi đã có được kinh nghiệm kha khá để có thể xem xét vấn đề này, và tôi không còn thấy ấn tượng với nó nữa, rồi khi còn là một lính thuỷ đánh bộ, tôi đã thấu hiểu hơn điều đó có thể sai lệch đến mức độ nào. Tôi cũng thấy được rất rõ, và xin chia sẻ sự thất vọng của các bạn sinh viên khi không có cách nào chấm dứt được cuộc chiến. Nhưng chính điều này lại có nhiều điểm thật giống với nỗi buồn nản của những người lính Mỹ ở Việt Nam. Họ cũng trạc tuổi các bạn sinh viên trong buổi hội thảo hôm nay, và cũng bất lực không thể nào giành thắng lợi trong cuộc chiến này. Và phản ứng mà tôi được chứng kiến ở Việt Nam cũng gần tương tự. Lúc nói, trí nhớ tôi dường như thật sống động, cứ như tôi mới trở về Mỹ, dù ba năm đã trôi qua kể từ khi tôi rời Việt Nam. Tôi kể cho họ về những người lính ở Rạch Kiến, về việc họ đã đốt mọi căn lều họ bắt gặp, chẳng vì một lý do thực tế nào hết, đơn giản chỉ là để đánh dấu nhưng nơi đã đi qua để cho có cái mà nói rằng họ đã làm được cái gì đó. Điều đó thì dễ hiểu thôi, nhưng thật chẳng có ích gì mấy, vì nó chẳng làm tình hình thay đổi được.
Tôi nói, thật là rất Mỹ nếu ai đó nghĩ rằng sẵn lòng sử dụng bạo lực là sự thể hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Nhưng đó không phải là điều tôi đã học được ở Việt Nam. Tôi có thể thấy nhiều người trong số khán giả tỏ ra tự hào vì vụ cháy vừa rồi, nhưng tôi nói luôn rằng đốt cháy những toà nhà của ROTC, cũng như đốt phá những ngôi làng ở Việt Nam, sẽ không thể nào làm chiến tranh kết thúc. Để chấm dứt cuộc chiến, cần phải có sự nhẫn nại, lòng can đảm và tận tâm chứ không cần sự bắt chước những hành động phá hoại của chính quyền.
Nhiều người vỗ tay tán thưởng, một số thì la ó tôi, và còn lại thì im lặng. Thực tế là một câu hỏi đầy thách thức đặt ra cho phong trào phản chiến và cả đất nước vào lúc này là: Cần làm gì, làm thế nào, và có thể làm gì để ngăn cản chính quyền này, ông Tổng thống này kéo dài và mở rộng chiến tranh? Không ai, trong đó có tôi, có thể tự tin vào câu trả lời cho vấn đề này. Không biện pháp nào có tác dụng, từ bạo lực (dù chưa có nhiều lắm) cho đến các cuộc biểu tình khổng lồ và sự bất phục tùng của người dân. Lúc này tôi chỉ có thể nói những gì từ đáy lòng mình dựa trên những kinh nghiệm của bản thân về những hành vi bạo lực.
Tôi không chắc là mình đã đúng. (Hơn ba mươi năm sau, khi tôi có thời gian xem xét thế giới và trở nên già dặn hơn, tôi mới chắc là lúc đó mình đã đúng. Nhưng vào thời điểm đó tôi vẫn còn bỡ ngỡ với những suy nghĩ này).
Bốn sinh viên đã thiệt mạng ở Kent State, nhưng hơn năm trăm vẫn sinh viên tham gia bãi khoá. Thượng nghị sỹ và tôi cùng bay về Washington vào sáng thứ bảy. Ngày hôm sau cả thủ đô chìm trong hơi cay vì các cuộc biểu tình. Chúng tôi đi vào trung tâm thành phố, qua những con phố tắc kín bởi hơn một trăm ngàn sinh viên đổ ra từ những khu học xá đã đóng cửa trên cả nước.
Chúng tôi đã làm bạn từ trên chuyến bay. Mathias kể cho tôi những chuyện đầy ấn tượng. Ông đã biết Nixon từ lâu, và với tư cách Thượng nghị sỹ Cộng hoà của bang Maryland (bang của Phó Tổng thống Agnew) ông đã nhiều lần tới Nhà Trắng. Ông nói trong vài tháng gần đây ông thấy khó chịu khi thấy Tổng thống đang trở nên "mất cân bằng". Một ví dụ là việc Nixon chọn cho cảnh vệ Nhà Trắng đồng phục mới như kiểu trang phục trong các buổi nhạc kịch Trung Âu thế kỷ 19. Có rất nhiều những bình luận tương tự trên báo chí về đồng phục mới này, chứ không riêng gì Mathias. Nhưng điều khiến ông lo ngại nhất là khi một lần gần đây ông cùng vợ tới Nhà Trắng dùng bữa tối thân mật cùng gia đình Nixon. Họ phải đợi một mình ở phòng ăn bên một bàn tiệc có bốn chỗ ngồi, thưởng thức một dàn kèn trumpet và sau đó là Ban nhạc Hải quân chơi bài "Hoan nghênh Tư lệnh" (Một bài hát người Mỹ thường dùng để đón chào Tổng thống của mình - ND). Tổng thống cùng phu nhân Pat Nixon tay trong tay chậm rãi bước xuống cầu thang đón hai khách quý trong thanh âm của dàn nhạc. Mathias rất bực mình trước cái cảnh đó. Từ mà ông đã dùng để diễn tả ấn tượng mà vị "giám đốc điều hành" gây nên là "mất trí".
Vào thứ bảy, tôi trở lại Washington. Howard Miller quyết định là người phản chiến trong chương trình "Người luật sư" nên là tôi dù trước đó chúng tôi nhắm ai đó chóp bu hơn. Thượng nghị sỹ Goodell sẽ tham gia cùng tôi. Đó sẽ là lần đầu tiên tôi xuất hiện trên ti vi trước công chúng với tư cách là một người phê phán chiến tranh, trừ một vài đoạn giới thiệu ý kiến của các nhà ga địa phương về bản ghi nhớ của Rand. Patricia đã đến với tôi và cả ngày chủ nhật chúng tôi đã đi xem khu trung tâm thủ đô Washington. Chúng tôi thấy hàng trăm người biểu tình ngồi la liệt trên những con đường dẫn tới Nhà Trắng, nơi đã bị vây quanh bởi hàng rào xe buýt. Hơi cay phóng ra các đường phố, hình như là từ bãi cỏ trước Nhà Trắng. Nhưng đó không phải là hơì cay của cảnh sát để ngăn cản những người biểu tình phong toả Nhà Trắng. Đó lại là những thanh niên tham gia biểu tình, tay mang băng trông như cán bộ, đang đi đi lại lại giữa đám người đang ngồi hoặc nằm, tóm lấy khuỷu tay họ và kéo lên nói "hôm nay chúng ta không biểu tình phản kháng". Hoá ra đây hầu hết là thành viên Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa (SWP), những người đã tình nguyện làm những người đi đầu trong đoàn biểu tình dự kiến vào chiều hôm đó. Về mặt tư tưởng, Đảng trostkist này phản đối sử dụng biện pháp phản kháng của người dân vì họ cho rằng biện pháp này khiến công nhân bị gạt ra rìa. Ngày hôm đó, một cuộc tranh cãi căng thẳng về vấn đề này đã diễn ra giữa những người tổ chức biểu tình.
Khi Patricia và tôi chứng kiến những cảnh tượng này, tôi thấy người ta đang phạm một sai lầm lớn. Trước hết là do có quá nhiều người dân sẵn sàng tham gia phong trào bất tuân luật pháp khiến cả thành phố có thể bị tê liệt. Đồng thời, lần đầu tiên và cũng là cuối cùng trong thời gian chiến tranh, Quốc hội tỏ ra nóng giận với Tổng thống vì đã tấn công một đất nước mà lại không hề tham khảo gì trước với Quốc hội, dù cho, tôi tin rằng, hành động này có thể nhận được sự cảm thông hoặc ngấm ngầm hoặc công khai của một số lớn các nghị sỹ. Và bây giờ là thời điểm mà các cuộc biểu tình liên tiếp của nhân dân trong những tuần vừa qua đã có thể thuyết phục cả hai viện của Quốc hội quyết định chấm dứt chiến tranh bằng cách thông qua dự luật McGovern-Hatfield để cắt ngân sách cho cuộc chiến này.
Một làn hơi cay phun ra đường từ phía Nhà Trắng khiển mắt tôi cay xè. Khi trở về khách sạn, tôi phải tắm để gột sạch hơi cay và vận bộ cánh đẹp nhất để lên ti vi vào tối hôm đó.
Chương trình được truyền hình trực tiếp từ Câu lạc bộ Báo chí quốc gia. Trong số khán giả có một số người biểu tình đã rời cuộc tuần hành có hàng trăm nghìn người tham gia, số khác là những người bị hơi cay (và các đảng viên SWP) giải tán. Chủ đề hôm đó là: "Quốc hội có nên ra quyết định Tổng thống phải ngay lập tức rút toàn bộ quân đội, viện trợ và cố vấn khỏi Campuchia và không được đưa thêm quân ra khỏi Việt Nam?"
Một đề xuất khá vừa phải vào lúc này. Một ngày sau vụ Kent State, Tổng thống đã hứa trước với Quốc hội sẽ rút quân đội khỏi Campuchia vào cuối tháng sáu và công khai tuyên bố điều này trong một cuộc họp báo sau đó. Trong hồi ký của mình, Kissinger đã gọi đây là một "quyết định yếu bóng vía…, một kết quả cụ thể từ sức ép công luận".
Chính vì vậy, tranh luận về đề xuất này cơ bản là về nghị quyết Church-Cooper, nghị quyết mà đã cắt ngân sách dành cho các chiến dịch tại Campuchia và khiến cam kết của Tổng thống có thêm hiệu lực về pháp lý. Chương trình không dành thời gian tranh luận về dự luật McGovern-Hatfield đề nghị cắt ngân sách dành cho cuộc chiến ở Đông Dương vào cuối năm 1971. (Dự luật này đã bị bác bỏ vào tháng chín, với 55 phiếu chống và 39 phiếu thuận, khiến tranh cãi về Campuchia bị xua tan).
Nhưng tôi lại tham gia chương trình để nói về dự luật McGovern-Hatfield, như Luật sư Howard Miller đã nói rõ khi giới thiệu tôi "đến để nói với chúng ta tại sao Quốc hội phải quyết định rút quân khỏi Campuchia và Đông Nam Á". Có lẽ thượng nghị sỹ Charles Goodell, người trong cuộc tham gia cùng tôi hôm nay, là người sẽ ủng hộ đề xuất này. Tôn trọng mong muốn của Charlie Wolf, người ta đã không đề cập gì tới mối liên hệ của tôi với Rand trong thời gian qua. Tôi được giới thiệu là đang làm việc tại Trung tâm nghiên cứu quốc tế, Viện Công nghệ Massachusetts, và nguyên là cố vấn (thực tế là quan chức) Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao.
Người sẽ phản bác chúng tôi cũng như cả đề xuất là luật sư bảo thủ William T. King cùng các nhân chứng là Thượng nghị sĩ Robert Dole và William H. Sullivan, phó trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, nguyên là Đại sứ Mỹ tại Lào, người mà theo Miller là tham gia theo chỉ thị của chính quyền.
Trong không khí và tâm trạng chung đó, rất nhiều người sẽ tư chức trớc khi có thể nói về cuộc xâm lược Campuchia trên ti vi. Sullivan không nằm trong số đó, nhưng điều này không có nghĩa anh thực sự ủng hộ hành động xâm lược trên. Một vài thành viên nội các đã công khai phản đối nó, và một số lượng lớn các nhân viên ngoại giao đã ký vào một bức thư kiến nghị chưa từng có để lên án hành động này. Miller nói rằng ông chỉ có thể tìm được một người duy nhất có lập trường ủng hộ chính quyền, đó là Dole, Chủ tịch Uỷ ban quốc gia của Đảng Cộng hoà.
Điều tôi nhớ nhất về chương trình hôm đó là trao đổi giữa Miller và Dole, người mà theo như tôi nhớ đã nói một câu: "Cuộc sống của chỉ một cậu bé Mỹ thôi cũng đã quý hơn bất kỳ một đường tưởng tượng nào trên bản đồ". Ý ông muốn nói tới biên giới Campuchia, ranh giới mà những chiếc xe tăng Mỹ xâm lược đã tràn qua, vì cái mà theo logic mơ hồ của chính quyền là để bảo vệ sinh mạng của lính Mỹ. Khi bị luật sư đối lập chất vấn, Miller đã thốt lên: "Thưa Thượng nghị sỹ, ranh giới đó là một đường biên giới quốc tế đó?".
Dole đáp trả. "Tôi không quan tâm anh gọi đó là gì, nó không đáng giá bằng sinh mạng của chỉ một cậu bé Mỹ".
Sau đó là trao đổi của tôi với người chất vấn:
King: Anh có thấy là Tổng thống Mỹ đã bị tẩy não?
Ellsberg: Trước đây các ứng cử viên Tổng thống đều đã thừa nhận điều đó. (Thống đốc bang Michigan George Romney khi tự rút khỏi cuộc chạy đua cùng Nixon nhằm giành vị trí ứng cử viên Tổng thống của Đảng Cộng hoà vào năm 1968 đã nhận xét thẳng thắn như vậy). Thưa ông, tôi tin rằng thực tế là năm Tổng thống đã tự tẩy não mình, tẩy não đội ngũ của mình, và tẩy não cả công chúng Mỹ trong thời gian dài nắm quyền của các chính quyền khác nhau. Cả một thế hệ đấy.
King: Ông chẳng ưa gì chính quyền ở Nam Việt Nam phải không?
(Dừng)
Ellsberg: Với tôi câu hỏi này thật lạ. Tôi không - …
Người dẫn: Tôi nghĩ King không có ý hỏi về tình cảm cá nhân chỉ là hỏi xem thực tế anh có ác cảm gì với chính phủ Nam Việt Nam không.
(Dừng)
Ellsberg: Tôi tin rằng chính phủ Nam Việt Nam là một chế độ độc tài quân sự tham nhũng, không đại diện cho số đông người dân mà chỉ cho một số ít. (Cười và vỗ tay) Nếu có nói thêm, thì tôi muốn nói cái gì đó về mối liên hệ giữa chính quyền này với nước Mỹ… Tôi tin rằng nó là một tập hợp số ít người ở miền Nam Việt Nam, những người chỉ muốn chứng kiến cuộc chiến này kéo dài vô thời hạn hơn là phải thấy nó kết thúc cùng sự ra đi của người Mỹ.
King: Vậy cho tôi hỏi ý kiến của anh về Chính phủ Bắc Việt Nam?
Ellsberg: Chính phủ Bắc Việt Nam trên nhiều khía cạnh chẳng khá hơn Chính phủ Nam Việt Nam.
King: Nói cách khác, anh không quan tâm ai sẽ thắng phải không?
Ellsberg: Vấn đề là ở chỗ thật là một sai lầm bi thảm khi để cho một người Mỹ, dù cho có là tôi, là anh hay là Tổng thống Mỹ, quyết định cho Chính phủ Nam Việt Nam, điều đã dẫn đến thảm kịch cho cả hai đất nước.
Vào ngày 13-5-70, tôi báo cáo trước Uỷ ban đối ngoại của Hạ viện. Phiên họp này, theo lời Fulbright, kêu gọi phải "điều trần về hệ quả về lịch sử, chính trị và kinh tế mà chính sách của Mỹ đã gây nên ở Việt Nam và Đông Nam Á". Lúc đầu người ta dự kiến buổi điều trần sẽ mang tính giáo dục và không tranh cãi, phản ánh tâm trạng của Thượng viện và công chúng, nhưng trong những giới hạn đó, tôi quyết định sẽ bình luận thẳng thắn về bản chất của chế độ Sài Gòn do Mỹ hậu thuẫn.
Trong bối cảnh này, tôi bắt đầu bằng việc điểm lại những nỗ lực của chính quyền nhằm ngăn cản quyền "tự quyết" đích thực ở Việt Nam - mục tiêu mà Mỹ tuyên bố khi can thiệp vào đất nước này. Thực tế lại là "trong số những chế độ mà chúng ta đã hỗ trợ, từ chế độ Bảo Đại do Pháp khống chế, cho đến Ngô Đình Diệm, đến chế độ quân sự hôm nay cầm quyền dưới vỏ bọc hợp hiến, chẳng có chế độ nào là kết quả của một quá trình nhân dân lựa chọn một cách thực sự tự do, hoặc thực sự không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài của chúng ta".
Trong phần điều trần của mình, tôi đã gắn với lịch sử những cố gắng của Mỹ nhằm duy trì một loạt các chính quyền hầu như không có hoặc hoàn toàn không có sự ủng hộ của người dân, chỉ đơn thuần dựa trên khả năng họ có thể duy trì những lợi ích nổi trội của Mỹ và ngăn chặn các chính phủ này cuối cùng rơi vào sự kiểm soát của Cộng sản. Tôi nói kỹ trường hợp cụ thể của bạn tôi là Trần Ngọc Châu, người đã bị bắt ở Sài Gòn và bị xét xử trái luật vào tháng ba (Một cựu bộ trưởng trong chính quyền Ngô Đình Diệm, sau các cuộc đảo chính của phe quân sự Sài Gòn đã mất chức - ND). Châu bị bắt vì bị cho là có tiếp xúc bí mật với người anh ở miền Bắc. Trên thực tế, chính Đại sứ Lodge đã khuyến khích những tiếp xúc như vậy và mọi người ở sứ quán đều biết rõ điều đó. John Van đã nói với tôi rằng lý do thực sự khiến Thiệu truy đuổi Châu là vì Châu đã lên án những vụ tham nhũng của kẻ mối lái cho Thiệu và kêu gọi đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng.
Nhân việc này, Fulbright đã hỏi kỹ những gì tôi biết về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, một chủ đề mà ông hết sức quan tâm.
Tôi nói rằng trong những phiên điều trần trước, Fulbright đã nói ông thấy "xấu hổ" vì một phần có trách nhiệm trong việc thông qua nghị quyết của quốc hội về vụ việc này. Tôi nói từ đó đã đập ngay vào tai tôi "vì tôi nghĩ mình chưa bao giờ nghe thấy ai dùng một từ như vậy hay bằng cách nào đó ngụ ý nói đến trách nhiệm cá nhân của mình đến mức độ như vậy". Tôi nói tinh thần đó thật không bình thường, nhưng thế mới thích đáng. Tôi chỉ tiếc rằng những ai đã lừa dối ông, lừa dối đất nước vào thời điểm đó, lại không hề tỏ ra như vậy.
Cuối năm 1969 tôi tính rằng mình có lẽ còn phải ở lại làm việc cho Rand thêm một năm rưỡi nữa. Tôi nghĩ Nixon sẽ rút quân chậm chạp và Bắc Việt có xu hướng để yên cho ông ta hành động mà không gây rắc rối gì. Cuối cùng, khi ông ta dần ổn định được tình hình và dần chấm dứt rút quân, thương vong của quân Mỹ cũng giảm dần do các đơn vị lính Mỹ không còn tham gia các hoạt động tấn công quân sự quy mô lớn, thì Bắc Việt có lẽ sẽ làm nóng chiến trường với hy vọng rằng điều đó sẽ gia tăng sức ép của công chúng đối với Nixon để ép ông ta giảm quân hoặc rút hẳn khỏi Việt Nam. Từ những gì Mort nói thì tôi e rằng nếu như vậy, Nixon sẽ lại leo thang bằng cách nối lại các đợt không kích ác liệt vào miền Bắc. Nhưng điều đó hầu như chỉ diễn ra sau một năm rưỡi hoặc hai năm tới. Trong thời gian đó, công chúng có lẽ chẳng phản ứng gì mấy trước những chỉ trích đối với chính sách của Tổng thống, do họ tin rằng ông ta vẫn đang dần rút hẳn.
Nixon cố ý cho Hà Nội biết ông ta sẵn sàng mạnh tay hơn cả Johnson bằng hành động chứ không chỉ nói suông nếu như Bắc Việt tiến công lớn vào các mục tiêu của Quân lực Việt Nam cộng hoà hay số quân Mỹ còn lại. Halperin đã hiểu việc bí mật ném bom Campuchia bí mật theo ý như vậy và nghĩ rằng sẽ còn có thêm những hoạt động nữa. Nhưng Nixon vẫn giấu kín vụ ném bom này.
Như tôi đã đề cập, tình hình đã được miêu tả một cách thật mỉa mai, do trên trang nhất tờ Thời báo New York vào tháng ba xuất hiện một bài báo của William Beecher miêu tả vụ ném bom này. Nhưng khi Lầu Năm Góc bác bỏ bài báo thì cả báo giới, Quốc hội và công chúng đều chấp nhận bác bỏ này và để vấn đề trôi qua. Và dù cho các hoạt động ném bom không hề giảm bớt, vẫn không có thêm một bài báo nào, và người ta vẫn gửi đến Quốc hội những báo cáo tối mật, nhưng lại sai sự thật, về các mục tiêu tấn công. Trong những ngày này chính quyền chỉ dùng mỗi một cách là bác bỏ thông tin để ỉm đi sự thật. Nhiều người vẫn coi L.B. Johnson là một kẻ nói dối, nhưng cả báo giới và công chúng vẫn không thực sự biết họ bị L.B. Johnson lừa tới mức nào, chưa nói đến những người tiền nhiệm, và giờ đây là người kế nhiệm của ông ta.
Đối với tôi Hồ sơ Lầu Năm Góc, cũng như những câu chuyện lịch sử, không còn là một công cụ hữu hiệu để chống lại chính sách của Nixon. Tài liệu cuối cùng là vào tháng 3-1968, khá lâu trước khi Nixon lên cầm quyền. Ông ta đã thuyết phục dân chúng Mỹ rằng ông ta có một chính sách mới. Có lẽ Hồ sơ Lầu Năm Góc khó thay đổi được nhận thức sai lệch này.
Theo lời Fulbright thì nếu như công bố những hồ sơ đó vào lúc này thì người ta coi đó "chỉ là lịch sử" và nó chẳng thể có mấy ảnh hưởng tới quá trình mà Nixon được coi là đang tiến hành để dần rút khỏi Việt Nam. Nếu tôi cho lập luận rằng việc cả bốn Tổng thống trước đều lừa bịp theo một cách giống nhau có thể gợi ý rằng Nixon rồi cũng có thể đánh lạc hướng đất nước này theo chủ ý của ông ta, thì cảnh báo này của tôi sẽ bị coi là hoài nghi quá đáng, kiểu như một sự cảnh báo về việc leo thang hoặc kéo dài chiến tranh thêm nhiều năm nữa. Tôi tin rằng trước sau gì cả hai điều này cũng sẽ xảy ra, nhưng đồng thời tôi cũng nghĩ trong thời gian gần thì không việc gì phải vội đưa công khai những tài liệu này. Cũng không cần phải ủng hộ Uỷ ban đòi hoãn nhập ngũ nữa. Sau phát biểu ngày 3-11 của Nixon và việc hai cuộc biểu tình khổng lồ tỏ ra thiếu hiệu quả, chiến dịch này có vẻ đã xì hơi.
Nhưng cuối cùng Hồ sơ Lầu Năm Góc có thể sẽ đưa đất nước thoát khỏi chiến tranh. Một ngày nào đó, chúng sẽ giúp đa số trong Quốc hội có dũng khí đứng lên thách thức Tổng thống và chấm dứt chiến tranh bằng cách cắt ngân sách. Đó là vào lúc có đủ số nghị sỹ nhận ra lịch sử của những trang tài liệu đang được tái diễn. Để chuẩn bị cho tình hình đó, dù không cần quá vội vàng, tôi tiếp tục sao chụp phần còn lại của tập tài liệu và gửi tới Fulbright.
Tôi mang theo những tài liệu này trong một chuyến tới New York phòng trường hợp tôi xuống Washington. Tôi còn khoảng ba nghìn trang. Tôi gọi và báo cho Norvil Jones - trợ lý của Fulbright - tôi mang theo cái gì. Anh gợi ý khi tới sân bay để về Los Angeles thì tôi nên gửi bằng đường không cho nhanh và an toàn. Tôi không chắc những thứ tôi mang theo có bản sao dự phòng không, nên tôi tra danh bạ tìm một cửa hàng sao chụp gần khách sạn. Tôi gọi thử một cửa hàng. Họ nói họ sẽ làm ngay khi tôi mang tài liệu đến.
Cửa hàng sao chụp là một căn phòng đông đúc nằm trên một toà nhà văn phòng rộng. Tôi điền phiếu yêu cầu. Người thư ký ở đó nói phải mất vài tiếng. Trước khi đưa cho họ, tôi quyết định xem qua xem tài liệu có theo đúng thứ tự không. Trong vòng vài giây, tôi bắt gặp một trang ghi rõ "Tối Mật". Tôi vội lật qua và xem tiếp. Qua vài trang, tôi lại gặp một trang như vậy, phần trên của nét chữ bị mất, nhưng vẫn đọc được. Do một vài ký hiệu trên trang bị ghi quá thấp, mà những người phân loại và giải mã thì chỉ đọc phần trên của các trang nên đã không bỏ đi những trang ghi thấp như vậy. Tôi đóng tập tài liệu lại, lấy từ quầy thu tiền nhét lại vào cặp xách. Tôi không biết những người photocopy sẽ phản ứng thế nào nếu họ nhìn thấy những ký hiệu đó, nhưng dù sao cẩn thận vẫn hơn.
Tôi nói với người phụ nữ đứng ở quầy thu ngân là tôi sẽ chóng quay trở lại rồi đi ra ngoài. Tôi mua một cái kéo to ở cửa hàng văn phòng phẩm. Gần đó có một tiệm cà phê. Tôi ngồi ở một bàn giữa tiệm, đặt cặp xách trên ghế cạnh chỗ tôi gọi một cốc cà phê và một ổ bánh mỳ ngọt. Giờ ăn sáng qua đã lâu nên ở đây tôi là khách hàng duy nhất. Tôi đặt một chồng tài liệu trước mặt và bắt đầu kiểm tra từng tờ một, tờ sau úp lên tờ trước. Được vài trang thì thấy một trang có ghi chữ "Tối Mật" để ngang với số trang. Tôi dùng kéo cắt lề trên và nhét giấy vụn vào túi áo mưa. Cứ khoảng nửa giờ tôi lại gọi một cốc cà phê hoặc nước hoa quả rồi làm tiếp.
Những người đứng sau quầy thu tiền chẳng hề để ý gì đến tôi, nhưng càng lúc thì quán càng đông. Đột nhiên một nhóm người rất đông bước vào chật kín cả quán và đứng đợi để mua đồ ăn mang về. Lúc đó là giờ ăn trưa của các cơ quan xung quanh.
Để giữ chỗ tôi phải gọi đồ ăn trưa, khiến trên bàn chẳng còn chỗ để đống tài liệu nữa. Tôi còn hơn một nghìn trang chưa xem qua.
Tôi rút một tập tài liệu rồi để nghiêng trong lòng, mở xem vài trang một lúc để xem có ký hiệu tối mật trên đầu hay cuối trang nào không.
Cứ độ bốn mươi năm mươi trang lại có một trang như vậy.
Không muốn để ai nhìn thấy, tôi để trang giấy ngay trước ngực, lấy kéo cắt phần đầu trang hoặc cuối trang rồi lại nhét giấy vụn vào túi áo. May là mọi người xung quanh đều đang bận ăn.
Trong quán rất ồn. Hành động của tôi rõ ràng là bất thường, nhưng tôi cố gắng tỏ ra tự nhiên và những người New York chẳng có vẻ gì là quan tâm cả. Cứ một lúc tôi lại ăn vài miếng.
Cuối cùng thì quán lại trống trơn, nhanh như khi toán khách kia bước vào vậy. Chỉ còn lại có một mình, tôi không phải để vài trăm trang còn lại sát trước ngực để kiểm tra nữa. Khi xong việc thì túi tôi đã ních chặt những dải giấy vụn ghi ký hiệu "Tối Mật".
Tôi quẳng hết vào một thùng rác ven đường.
Tôi mang cặp xách trở lại hàng photocopy và đưa cho họ để chụp. Phải mất một lúc khá lâu, vì thới đó thì cả những cái máy photocopy to chạy cũng chẳng nhanh lắm. Hết cả thảy khoảng ba trăm đô la. Tới sân bay tôi lại tốn thêm bốn lăm đô la để đóng gói tài liệu và gửi cho Norvil Jones tại Uỷ ban đối ngoại Thượng viện. Tôi gọi nói với Norvil tài liệu đang được chuyển đi rồi.
Anh nói: "Thật tuyệt, chúng tôi đang sốt ruột đây? Đương nhiên là chúng tôi sẽ thanh toán chi phí cho anh".
Tôi đã ngạc nhiên. Anh ấy không hề nói trước về điều đó.
Nghe vậy tôi rất mừng. Photocopy một trang mất mười cents thì sao chụp cả tập tài liệu hết cả thảy bảy trăm đô la. Tôi đã tốn vài nghìn đô la để sao chụp rồi. Nhưng những thứ gửi cho Fulbright chỉ là một phần trong số đó, cho nên tôi quyết định chỉ nói số tiền để chụp và gửi tập tài liệu tôi vừa gửi. Tôi nói: "Hay quá? Tôi không định nói, nhưng được thế thì tốt quá. Tôi mất ba trăm bốn lăm đô la để chụp và gửi tập tài liệu gửi cho anh đó".
Anh ấy có vẻ bị sốc: "Ô, Chúa ơi, chúng tôi không chi tiền sao chụp đâu".
Tôi nói: "Thế anh định đề nghị gì đây?"
"Trả tiền cước vận chuyện thôi".
Tôi nói: "Thế thì thôi".
Ngày 7-4-1970, sinh nhật tôi, vợ cũ của tôi gọi đến. Thật là bất thường. Carol kể rằng trước đó 6 tuần, các nhân viên FBI đã đến gặp cô ấy, yêu cầu nói với họ về những tài liệu tối mật mà chồng cũ đã sao chụp. Họ nói tôi đã gửi những tài liệu này cho hai Thượng nghị sỹ Fulbright và Goodell. Cô ấy đã từ chối nói chuyện với họ mà không có luật sư riêng, nhưng họ đã không cho. Rồi họ đến gặp luật sư của cô ấy về vấn đề này, rồi anh này đã khuyên Carol nên kể với tôi. Thế là trong ngày sinh nhật thứ ba chín của mình, tôi và Patricia đã phải suy tư thật nhiều.
Ngày hôm sau, Carol và luật sư đã từ chối nói chuyện với FBI. Nhưng tôi cho rằng bước tiếp theo FBI sẽ tìm đến tôi ở Rand hoặc yêu cầu nói chuyện với Harry Rowen. Dường như thế là hết. Tôi không muốn bị bắt ở Rand. Tôi không muốn để Harry phải liên luỵ. Tôi muốn không dính gì với Rand khi FBI chất vấn tôi và điều này có thể xảy ra bất kỳ lúc nào.
Sáng sớm hôm sau tôi gọi Everett Hagen, giáo sư kinh tế, Giám đốc Trung tâm nghiên cứu quốc tế ở Học viện công nghệ Massachusens (MIT). Trước đó khoảng một hai tháng ông đã gọi cho tôi và đề nghị tôi làm nghiên cứu viên cao cấp một năm ở Trung tâm và viết một cuốn sách nếu như tôi muốn. Ông đã đề cập tới Bill Bundy, một nghiên cứu viên của trung tâm và đang viết một cuốn sách về Việt Nam, và việc một sinh viên nào đó tỏ ra bất bình do chẳng có ai đủ tầm để phê phán chiến tranh. Ông nói rất thẳng thắn rằng ông muốn tôi làm ở đó một phần là để đối trọng với Bundy. (Sau đó Bundy đã đề cập trong một cuốn sách là chính ông đề nghị giới thiệu tôi với Hagen). Khi tôi từ chối đề nghị của Hagen, tôi nghĩ rằng mình có thể viết ở Rand cũng như ở bất kỳ nơi nào khác. Nhưng cảnh sát sẽ sớm gõ cửa nhà tôi, và tôi không muốn đó là cánh cửa văn phòng của Rand.
Tôi hỏi Hagen liệu đề nghị còn giá trị không và tôi có thể viết những gì tôi muốn không. Ông nói rất sung sướng nếu tôi bắt đầu ngay lập tức và thậm chí chẳng ai ngó tới tôi viết gì cho tới khi tôi xuất bản những thứ tôi viết. Tôi được đề nghị mức lương bằng với Bundy, mức lương cao nhất của MIT. Nó chỉ bằng một nửa mức tôi nhận ở Rand, nhưng đó không phải là vấn đề đối với tôi. Tôi đồng ý ngay lập tức và sắp xếp để tuần sau đó tới MIT để ký hợp đồng.
Lúc về văn phòng tôi ghé thăm Harry Rowen. Tôi nói mình nghĩ đã đến lúc rời Rand. Anh không hề phản đối gì cả. Tôi nói rất chân thật, và anh cũng chân thành đồng ý, rằng đúng, thế là tốt nhất. Dù sao thì nói nhẹ đi cũng là phong cách bình thường của anh ấy. Nhưng tôi hiểu việc anh chấp nhận ngay lập tức quyết định của tôi chứng tỏ nó làm anh nhẹ gánh nhiều sau vài tháng vừa rồi. Anh chỉ nói: "Thật quá tệ khi phải kết thúc như thế này".
Charlie Wolf, trưởng phòng của tôi, còn kiềm chế thất vọng giỏi hơn vậy. Một lần nữa tôi lại được mời đến để điều trần trước Uỷ ban của Fulbright vào ngày 13-5, và ông nghĩ rằng tôi nên rời Rand trước ngày đó càng sớm càng tốt, vì vậy ông đề nghị tôi đi hẳn từ ngày 15-4. Điều đó thật trùng khớp với những lo lắng của tôi. Tôi e FBI có thể triệu tập tôi bất kỳ ngày nào. Ông muốn tôi vẫn làm cố vấn cho Rand để tôi có thể hoàn thành chuyện đề dang dở "Judo cải tiến". Chính vì lợi ích của Rand nên tôi thấy miễn cưỡng khi duy trì mối liên hệ này. Nó cũng trái với mục đích của tôi khi rời đi. Nhưng tôi phải nói đồng ý vì chẳng thể đưa ra được lý do nào hợp lý cả.
Thứ hai, ngày 13-5, tôi bay tới Boston, rồi từ sân bay đi thẳng tới Trung tâm ở MIT, để ký hợp đồng. Janaki, một nghiên cứu sinh cao học ở Đại học Harvard, đón tôi ở đó. Chúng tôi đi theo xa lộ Memorial chạy dọc sông Charles về nhà cô ấy.
Tôi không nói với Janaki rằng tôi để trọn bộ tập Hồ sơ Lầu Năm Góc trong cốp chiếc Volkswagen của cô ấy. Khi chúng tôi tới gần Harvard, chúng tôi thấy một đám đông dang tràn qua một cây cầu và có tiếng la hét cùng tiếng còi báo động. Trong bóng tối chúng tôi rời xe, đi theo một con phố nằm giữa những toà nhà của Đại học Harvard tới đại lộ Massachusetts để xem chuyện gì xảy ra. Một cảnh tượng đầy kinh ngạc hiện ra trước mắt. Chúng tôi thấy mình lạc trong một đám đông những người biểu tình xông vào quảng trường nhưng bị chặn bởi một cả một đội cảnh sát cầm dùi cui dài và lá chắn che tới tận mặt. Tôi chưa bao giờ chứng kiến nhiều cảnh sát một lúc như vậy.
Có một khoảng trống giữa cảnh sát và đám đông trên đại lộ Massachusetts, kề bên sân Harvard, nhưng lại mờ mịt hơi cay bay hết từ bên này tới bên kia. Chúng tôi nghe rằng hình như cuộc biểu tình chống chiến tranh đã nổ ra ở bờ sông bên kia rồi tràn qua cầu vào quảng trường, ở đó đã bị cảnh sát đẩy lùi ngay trước khi chúng tôi tới. Đám đông vẫn ào ào dồn lên rồi lại phải lùi lại. Một số cửa sổ của các cửa hiệu bên đường bị đập phá.
Nơi đây là quê hương tôi, nơi tôi thực sự cảm giác như đang ở nhà, và tôi hiểu rõ từng cửa hàng đó đã hơn hai mươi năm nay rồi. Một chuyến trở về thật phiền lòng. Nơi đây, kể cả những vùng lân cận vốn thật thân quen đối với tôi, dường như đang vượt khỏi tầm kiểm soát.
Vẫn không có động tĩnh gì từ FBI. Họ đã thương lượng với Carol suốt sáu tuần. Tôi không biết cuộc điều tra này còn kéo dài đến đâu trước khi họ đến gặp tôi. Tôi cũng chẳng biết họ đã biết đến mức nào và làm thế nào họ có thể biết được. Tôi không thể ở mãi tại bờ Đông (vùng bờ biển phía Đông nước Mỹ, bên bờ Đại Tây Dương, chạy từ Boston tới thủ đô Washington - ND). Tất cả đồ dùng và tài liệu tôi vẫn để ở California. Cuối tuần trước, trong tháng tư, tôi trở về nhà ở Malibu để hoàn thành chuyên đề của Rand và chuẩn bị cho cuộc điều trần trước Uỷ ban của Fulbright vào tháng Năm. Tôi chẳng mấy khi tới Rand, nếu có thì chỉ trong chốc lát. Tôi rất bực mình bởi chuyện tôi rời Rand với tư cách là nhân viên chính thức lại bị người ta coi là vì tôi sợ bị tóm ở văn phòng hoặc do có liên hệ với Rand. Nhưng Charlie Wolf chẳng biết gì về những vụ này, lại dựa vào tôi vì muốn chuyên đề của tôi hoàn thành vào tháng sáu rồi sau được chuyển hạn là vào tháng bảy. FBI không có vẻ gì là đang rình rập, nên dần dần, từng ngày từng tuần trôi qua, tôi chẳng nghĩ gì mấy đến vấn đề này nữa.
Ngày 30-4-1970, tôi theo dõi tuyên bố của Nixon trên tivi về việc xâm lược Campuchia. Cả nước như sôi lên, đặc biệt là giới học sinh sinh viên. Vào ngày 4-5-1970 lực lượng vệ binh quốc gia nổ súng vào một đoàn biểu tình ở Kent State. Hôm đó Howard Miller, người của chương trình "Luật sư" - một chương trình trên truyền hình công cộng - đã gọi điện cho tôi, đề nghị tôi giúp đỡ trong vụ xâm lược Campuchia này. Chương trình "Luật sư" có nội dung mô phỏng một phiên toà, có các chưởng lý và nhân chứng đối lập chất vấn nhau. Ngày hôm sau tôi bay tới Washington để giúp Miller tìm nhân chứng.
Cho đến cuối năm 1969, tôi đã có một thời gian dài làm việc với Clark Clifford. Miller chưa bao giờ gặp ông, nên với Miller thì giới thiệu sơ qua của tôi về Clifford làm cơ sở cho việc nhận ông cùng tham gia. Nhưng Clifford cũng nói rõ rằng ông không muốn công khai phê phán sáng kiến của Tổng thống về vấn đề Campuchia, thậm chí không muốn tranh luận riêng với chúng tôi. Sau khi Howard tự giới thiệu về mình và về chương trình của anh rồi bắt đầu nói rõ anh muốn gì, Clifford vẫn làm theo ý mình với những cảm thán không ngớt về những ưu điểm của chương trình ti vi "Phố Vừng", nào là chương trình thật tưyệt vời do giúp trẻ em vừa học vừa chơi, nào là ông muốn xem cùng với mấy đứa cháu, nào là nhân vật Big Bird thật quá tuyệt vân vân và vân vân (Big bird - Chim lớn - một nhân vật hoạt hình trong chương trình Phố Vừng (Sesame Street) có hình dạng một con chim to lớn, lông màu vàng - ND). Tôi nghĩ là chương trình "Phố Vừng" cũng là một chương trình ti vi công cộng giống như "Luật sư", cho nên Clifford muốn cho Howard biết rằng ông đánh giá cao truyền hình công cộng. Chúng tôi cố gắng lái ông trở lại vấn đề Mỹ xâm lược Campuchia, có lẽ để cho những người khác thấy rằng chúng tôi có thể hỏi hoặc tranh luận, nhưng ông vẫn tủm tỉm nói tiếp về Oscar.Người cáu kỉnh, hai tay ấn ấn vào nhau chống trên thành ghế. Howard và tôi chỉ biết nhìn nhau. Chúng tôi chào ông và nhận được một thôi một hồi những lời chúc của Clifford.
Sau đó tôi mới biết được rằng Clifford vốn nổi tiếng vì thói quen lảng đi khi không muốn thảo luận về một vấn đề nào đó. Nhưng mấy ngày sau, sự miễn cưỡng của ông về vấn đề này hoá ra không phải là duy nhất mà lại nhận được sự chia sẻ của nhiều cựu quan chức và sĩ quan mà chúng tôi tiếp cận. Chẳng có ai chịu tham gia cả.
Thứ sáu, ngày 8-5-1970, tôi bay tới St. Louis để lần đầu tiên tham dự một cuộc hội thảo rộng rãi với chủ đề chống chiến tranh tại Đại học Washington. Tôi được một đại uý hải quân gửi lời mời tham dự. Anh này trước đã từng làm việc với tôi ở ISA và hiện là người đứng đầu đơn vị NROTC (National Reserve Omcers Training Corps: Quân đoàn huấn luyện sỹ quan dự bị quốc gia - ND) ở đây. Dưới sự hướng dẫn của tôi, vào mùa xuân năm 1965 anh đã điều phối một nghiên cứu về vấn đề phong toả Hải Phòng, sau đó nghiên cứu này đã giúp thuyết phục McNamara không đề nghị thực thi điều đó. Còn một diễn giả chống chiến tranh khác nữa là Thượng nghị sỹ Charles Mathias. Trước khi hội thảo bắt đầu thì xảy ra vụ cháy toà nhà của ROTC. Trong phần hỏi đáp, một sinh viên đề cập tới vụ này một cách đầy tính thách thức, đồng thời hỏi tôi suy nghĩ gì về nó. Khán giả đã hoan nghênh nhiệt liệt cậu sinh viên này. Thực ra cậu ta ngụ ý là chính cậu đã tham gia vào vụ đốt nhà này, dù không nói thẳng ra, và rõ ràng đây là một hành động phổ biến trong sinh viên.
Tôi nói mình đã được đào tạo trong lực lượng lính thuỷ đánh bộ để giành cho bạo lực và chính tôi đã chứng kiến quá nhiều điều đó ở Việt Nam. Nhưng hiệu quả của bạo lực cuối cùng có thể biện minh cho chính hành động đó không? Đây không chỉ là câu hỏi của bản thân tôi. Tôi đã có được kinh nghiệm kha khá để có thể xem xét vấn đề này, và tôi không còn thấy ấn tượng với nó nữa, rồi khi còn là một lính thuỷ đánh bộ, tôi đã thấu hiểu hơn điều đó có thể sai lệch đến mức độ nào. Tôi cũng thấy được rất rõ, và xin chia sẻ sự thất vọng của các bạn sinh viên khi không có cách nào chấm dứt được cuộc chiến. Nhưng chính điều này lại có nhiều điểm thật giống với nỗi buồn nản của những người lính Mỹ ở Việt Nam. Họ cũng trạc tuổi các bạn sinh viên trong buổi hội thảo hôm nay, và cũng bất lực không thể nào giành thắng lợi trong cuộc chiến này. Và phản ứng mà tôi được chứng kiến ở Việt Nam cũng gần tương tự. Lúc nói, trí nhớ tôi dường như thật sống động, cứ như tôi mới trở về Mỹ, dù ba năm đã trôi qua kể từ khi tôi rời Việt Nam. Tôi kể cho họ về những người lính ở Rạch Kiến, về việc họ đã đốt mọi căn lều họ bắt gặp, chẳng vì một lý do thực tế nào hết, đơn giản chỉ là để đánh dấu nhưng nơi đã đi qua để cho có cái mà nói rằng họ đã làm được cái gì đó. Điều đó thì dễ hiểu thôi, nhưng thật chẳng có ích gì mấy, vì nó chẳng làm tình hình thay đổi được.
Tôi nói, thật là rất Mỹ nếu ai đó nghĩ rằng sẵn lòng sử dụng bạo lực là sự thể hiện nghiêm túc và có hiệu quả. Nhưng đó không phải là điều tôi đã học được ở Việt Nam. Tôi có thể thấy nhiều người trong số khán giả tỏ ra tự hào vì vụ cháy vừa rồi, nhưng tôi nói luôn rằng đốt cháy những toà nhà của ROTC, cũng như đốt phá những ngôi làng ở Việt Nam, sẽ không thể nào làm chiến tranh kết thúc. Để chấm dứt cuộc chiến, cần phải có sự nhẫn nại, lòng can đảm và tận tâm chứ không cần sự bắt chước những hành động phá hoại của chính quyền.
Nhiều người vỗ tay tán thưởng, một số thì la ó tôi, và còn lại thì im lặng. Thực tế là một câu hỏi đầy thách thức đặt ra cho phong trào phản chiến và cả đất nước vào lúc này là: Cần làm gì, làm thế nào, và có thể làm gì để ngăn cản chính quyền này, ông Tổng thống này kéo dài và mở rộng chiến tranh? Không ai, trong đó có tôi, có thể tự tin vào câu trả lời cho vấn đề này. Không biện pháp nào có tác dụng, từ bạo lực (dù chưa có nhiều lắm) cho đến các cuộc biểu tình khổng lồ và sự bất phục tùng của người dân. Lúc này tôi chỉ có thể nói những gì từ đáy lòng mình dựa trên những kinh nghiệm của bản thân về những hành vi bạo lực.
Tôi không chắc là mình đã đúng. (Hơn ba mươi năm sau, khi tôi có thời gian xem xét thế giới và trở nên già dặn hơn, tôi mới chắc là lúc đó mình đã đúng. Nhưng vào thời điểm đó tôi vẫn còn bỡ ngỡ với những suy nghĩ này).
Bốn sinh viên đã thiệt mạng ở Kent State, nhưng hơn năm trăm vẫn sinh viên tham gia bãi khoá. Thượng nghị sỹ và tôi cùng bay về Washington vào sáng thứ bảy. Ngày hôm sau cả thủ đô chìm trong hơi cay vì các cuộc biểu tình. Chúng tôi đi vào trung tâm thành phố, qua những con phố tắc kín bởi hơn một trăm ngàn sinh viên đổ ra từ những khu học xá đã đóng cửa trên cả nước.
Chúng tôi đã làm bạn từ trên chuyến bay. Mathias kể cho tôi những chuyện đầy ấn tượng. Ông đã biết Nixon từ lâu, và với tư cách Thượng nghị sỹ Cộng hoà của bang Maryland (bang của Phó Tổng thống Agnew) ông đã nhiều lần tới Nhà Trắng. Ông nói trong vài tháng gần đây ông thấy khó chịu khi thấy Tổng thống đang trở nên "mất cân bằng". Một ví dụ là việc Nixon chọn cho cảnh vệ Nhà Trắng đồng phục mới như kiểu trang phục trong các buổi nhạc kịch Trung Âu thế kỷ 19. Có rất nhiều những bình luận tương tự trên báo chí về đồng phục mới này, chứ không riêng gì Mathias. Nhưng điều khiến ông lo ngại nhất là khi một lần gần đây ông cùng vợ tới Nhà Trắng dùng bữa tối thân mật cùng gia đình Nixon. Họ phải đợi một mình ở phòng ăn bên một bàn tiệc có bốn chỗ ngồi, thưởng thức một dàn kèn trumpet và sau đó là Ban nhạc Hải quân chơi bài "Hoan nghênh Tư lệnh" (Một bài hát người Mỹ thường dùng để đón chào Tổng thống của mình - ND). Tổng thống cùng phu nhân Pat Nixon tay trong tay chậm rãi bước xuống cầu thang đón hai khách quý trong thanh âm của dàn nhạc. Mathias rất bực mình trước cái cảnh đó. Từ mà ông đã dùng để diễn tả ấn tượng mà vị "giám đốc điều hành" gây nên là "mất trí".
Vào thứ bảy, tôi trở lại Washington. Howard Miller quyết định là người phản chiến trong chương trình "Người luật sư" nên là tôi dù trước đó chúng tôi nhắm ai đó chóp bu hơn. Thượng nghị sỹ Goodell sẽ tham gia cùng tôi. Đó sẽ là lần đầu tiên tôi xuất hiện trên ti vi trước công chúng với tư cách là một người phê phán chiến tranh, trừ một vài đoạn giới thiệu ý kiến của các nhà ga địa phương về bản ghi nhớ của Rand. Patricia đã đến với tôi và cả ngày chủ nhật chúng tôi đã đi xem khu trung tâm thủ đô Washington. Chúng tôi thấy hàng trăm người biểu tình ngồi la liệt trên những con đường dẫn tới Nhà Trắng, nơi đã bị vây quanh bởi hàng rào xe buýt. Hơi cay phóng ra các đường phố, hình như là từ bãi cỏ trước Nhà Trắng. Nhưng đó không phải là hơì cay của cảnh sát để ngăn cản những người biểu tình phong toả Nhà Trắng. Đó lại là những thanh niên tham gia biểu tình, tay mang băng trông như cán bộ, đang đi đi lại lại giữa đám người đang ngồi hoặc nằm, tóm lấy khuỷu tay họ và kéo lên nói "hôm nay chúng ta không biểu tình phản kháng". Hoá ra đây hầu hết là thành viên Đảng Công nhân xã hội chủ nghĩa (SWP), những người đã tình nguyện làm những người đi đầu trong đoàn biểu tình dự kiến vào chiều hôm đó. Về mặt tư tưởng, Đảng trostkist này phản đối sử dụng biện pháp phản kháng của người dân vì họ cho rằng biện pháp này khiến công nhân bị gạt ra rìa. Ngày hôm đó, một cuộc tranh cãi căng thẳng về vấn đề này đã diễn ra giữa những người tổ chức biểu tình.
Khi Patricia và tôi chứng kiến những cảnh tượng này, tôi thấy người ta đang phạm một sai lầm lớn. Trước hết là do có quá nhiều người dân sẵn sàng tham gia phong trào bất tuân luật pháp khiến cả thành phố có thể bị tê liệt. Đồng thời, lần đầu tiên và cũng là cuối cùng trong thời gian chiến tranh, Quốc hội tỏ ra nóng giận với Tổng thống vì đã tấn công một đất nước mà lại không hề tham khảo gì trước với Quốc hội, dù cho, tôi tin rằng, hành động này có thể nhận được sự cảm thông hoặc ngấm ngầm hoặc công khai của một số lớn các nghị sỹ. Và bây giờ là thời điểm mà các cuộc biểu tình liên tiếp của nhân dân trong những tuần vừa qua đã có thể thuyết phục cả hai viện của Quốc hội quyết định chấm dứt chiến tranh bằng cách thông qua dự luật McGovern-Hatfield để cắt ngân sách cho cuộc chiến này.
Một làn hơi cay phun ra đường từ phía Nhà Trắng khiển mắt tôi cay xè. Khi trở về khách sạn, tôi phải tắm để gột sạch hơi cay và vận bộ cánh đẹp nhất để lên ti vi vào tối hôm đó.
Chương trình được truyền hình trực tiếp từ Câu lạc bộ Báo chí quốc gia. Trong số khán giả có một số người biểu tình đã rời cuộc tuần hành có hàng trăm nghìn người tham gia, số khác là những người bị hơi cay (và các đảng viên SWP) giải tán. Chủ đề hôm đó là: "Quốc hội có nên ra quyết định Tổng thống phải ngay lập tức rút toàn bộ quân đội, viện trợ và cố vấn khỏi Campuchia và không được đưa thêm quân ra khỏi Việt Nam?"
Một đề xuất khá vừa phải vào lúc này. Một ngày sau vụ Kent State, Tổng thống đã hứa trước với Quốc hội sẽ rút quân đội khỏi Campuchia vào cuối tháng sáu và công khai tuyên bố điều này trong một cuộc họp báo sau đó. Trong hồi ký của mình, Kissinger đã gọi đây là một "quyết định yếu bóng vía…, một kết quả cụ thể từ sức ép công luận".
Chính vì vậy, tranh luận về đề xuất này cơ bản là về nghị quyết Church-Cooper, nghị quyết mà đã cắt ngân sách dành cho các chiến dịch tại Campuchia và khiến cam kết của Tổng thống có thêm hiệu lực về pháp lý. Chương trình không dành thời gian tranh luận về dự luật McGovern-Hatfield đề nghị cắt ngân sách dành cho cuộc chiến ở Đông Dương vào cuối năm 1971. (Dự luật này đã bị bác bỏ vào tháng chín, với 55 phiếu chống và 39 phiếu thuận, khiến tranh cãi về Campuchia bị xua tan).
Nhưng tôi lại tham gia chương trình để nói về dự luật McGovern-Hatfield, như Luật sư Howard Miller đã nói rõ khi giới thiệu tôi "đến để nói với chúng ta tại sao Quốc hội phải quyết định rút quân khỏi Campuchia và Đông Nam Á". Có lẽ thượng nghị sỹ Charles Goodell, người trong cuộc tham gia cùng tôi hôm nay, là người sẽ ủng hộ đề xuất này. Tôn trọng mong muốn của Charlie Wolf, người ta đã không đề cập gì tới mối liên hệ của tôi với Rand trong thời gian qua. Tôi được giới thiệu là đang làm việc tại Trung tâm nghiên cứu quốc tế, Viện Công nghệ Massachusetts, và nguyên là cố vấn (thực tế là quan chức) Bộ Quốc phòng và Bộ Ngoại giao.
Người sẽ phản bác chúng tôi cũng như cả đề xuất là luật sư bảo thủ William T. King cùng các nhân chứng là Thượng nghị sĩ Robert Dole và William H. Sullivan, phó trợ lý ngoại trưởng phụ trách các vấn đề Đông Á và Thái Bình Dương, nguyên là Đại sứ Mỹ tại Lào, người mà theo Miller là tham gia theo chỉ thị của chính quyền.
Trong không khí và tâm trạng chung đó, rất nhiều người sẽ tư chức trớc khi có thể nói về cuộc xâm lược Campuchia trên ti vi. Sullivan không nằm trong số đó, nhưng điều này không có nghĩa anh thực sự ủng hộ hành động xâm lược trên. Một vài thành viên nội các đã công khai phản đối nó, và một số lượng lớn các nhân viên ngoại giao đã ký vào một bức thư kiến nghị chưa từng có để lên án hành động này. Miller nói rằng ông chỉ có thể tìm được một người duy nhất có lập trường ủng hộ chính quyền, đó là Dole, Chủ tịch Uỷ ban quốc gia của Đảng Cộng hoà.
Điều tôi nhớ nhất về chương trình hôm đó là trao đổi giữa Miller và Dole, người mà theo như tôi nhớ đã nói một câu: "Cuộc sống của chỉ một cậu bé Mỹ thôi cũng đã quý hơn bất kỳ một đường tưởng tượng nào trên bản đồ". Ý ông muốn nói tới biên giới Campuchia, ranh giới mà những chiếc xe tăng Mỹ xâm lược đã tràn qua, vì cái mà theo logic mơ hồ của chính quyền là để bảo vệ sinh mạng của lính Mỹ. Khi bị luật sư đối lập chất vấn, Miller đã thốt lên: "Thưa Thượng nghị sỹ, ranh giới đó là một đường biên giới quốc tế đó?".
Dole đáp trả. "Tôi không quan tâm anh gọi đó là gì, nó không đáng giá bằng sinh mạng của chỉ một cậu bé Mỹ".
Sau đó là trao đổi của tôi với người chất vấn:
King: Anh có thấy là Tổng thống Mỹ đã bị tẩy não?
Ellsberg: Trước đây các ứng cử viên Tổng thống đều đã thừa nhận điều đó. (Thống đốc bang Michigan George Romney khi tự rút khỏi cuộc chạy đua cùng Nixon nhằm giành vị trí ứng cử viên Tổng thống của Đảng Cộng hoà vào năm 1968 đã nhận xét thẳng thắn như vậy). Thưa ông, tôi tin rằng thực tế là năm Tổng thống đã tự tẩy não mình, tẩy não đội ngũ của mình, và tẩy não cả công chúng Mỹ trong thời gian dài nắm quyền của các chính quyền khác nhau. Cả một thế hệ đấy.
King: Ông chẳng ưa gì chính quyền ở Nam Việt Nam phải không?
(Dừng)
Ellsberg: Với tôi câu hỏi này thật lạ. Tôi không - …
Người dẫn: Tôi nghĩ King không có ý hỏi về tình cảm cá nhân chỉ là hỏi xem thực tế anh có ác cảm gì với chính phủ Nam Việt Nam không.
(Dừng)
Ellsberg: Tôi tin rằng chính phủ Nam Việt Nam là một chế độ độc tài quân sự tham nhũng, không đại diện cho số đông người dân mà chỉ cho một số ít. (Cười và vỗ tay) Nếu có nói thêm, thì tôi muốn nói cái gì đó về mối liên hệ giữa chính quyền này với nước Mỹ… Tôi tin rằng nó là một tập hợp số ít người ở miền Nam Việt Nam, những người chỉ muốn chứng kiến cuộc chiến này kéo dài vô thời hạn hơn là phải thấy nó kết thúc cùng sự ra đi của người Mỹ.
King: Vậy cho tôi hỏi ý kiến của anh về Chính phủ Bắc Việt Nam?
Ellsberg: Chính phủ Bắc Việt Nam trên nhiều khía cạnh chẳng khá hơn Chính phủ Nam Việt Nam.
King: Nói cách khác, anh không quan tâm ai sẽ thắng phải không?
Ellsberg: Vấn đề là ở chỗ thật là một sai lầm bi thảm khi để cho một người Mỹ, dù cho có là tôi, là anh hay là Tổng thống Mỹ, quyết định cho Chính phủ Nam Việt Nam, điều đã dẫn đến thảm kịch cho cả hai đất nước.
Vào ngày 13-5-70, tôi báo cáo trước Uỷ ban đối ngoại của Hạ viện. Phiên họp này, theo lời Fulbright, kêu gọi phải "điều trần về hệ quả về lịch sử, chính trị và kinh tế mà chính sách của Mỹ đã gây nên ở Việt Nam và Đông Nam Á". Lúc đầu người ta dự kiến buổi điều trần sẽ mang tính giáo dục và không tranh cãi, phản ánh tâm trạng của Thượng viện và công chúng, nhưng trong những giới hạn đó, tôi quyết định sẽ bình luận thẳng thắn về bản chất của chế độ Sài Gòn do Mỹ hậu thuẫn.
Trong bối cảnh này, tôi bắt đầu bằng việc điểm lại những nỗ lực của chính quyền nhằm ngăn cản quyền "tự quyết" đích thực ở Việt Nam - mục tiêu mà Mỹ tuyên bố khi can thiệp vào đất nước này. Thực tế lại là "trong số những chế độ mà chúng ta đã hỗ trợ, từ chế độ Bảo Đại do Pháp khống chế, cho đến Ngô Đình Diệm, đến chế độ quân sự hôm nay cầm quyền dưới vỏ bọc hợp hiến, chẳng có chế độ nào là kết quả của một quá trình nhân dân lựa chọn một cách thực sự tự do, hoặc thực sự không chịu ảnh hưởng từ bên ngoài của chúng ta".
Trong phần điều trần của mình, tôi đã gắn với lịch sử những cố gắng của Mỹ nhằm duy trì một loạt các chính quyền hầu như không có hoặc hoàn toàn không có sự ủng hộ của người dân, chỉ đơn thuần dựa trên khả năng họ có thể duy trì những lợi ích nổi trội của Mỹ và ngăn chặn các chính phủ này cuối cùng rơi vào sự kiểm soát của Cộng sản. Tôi nói kỹ trường hợp cụ thể của bạn tôi là Trần Ngọc Châu, người đã bị bắt ở Sài Gòn và bị xét xử trái luật vào tháng ba (Một cựu bộ trưởng trong chính quyền Ngô Đình Diệm, sau các cuộc đảo chính của phe quân sự Sài Gòn đã mất chức - ND). Châu bị bắt vì bị cho là có tiếp xúc bí mật với người anh ở miền Bắc. Trên thực tế, chính Đại sứ Lodge đã khuyến khích những tiếp xúc như vậy và mọi người ở sứ quán đều biết rõ điều đó. John Van đã nói với tôi rằng lý do thực sự khiến Thiệu truy đuổi Châu là vì Châu đã lên án những vụ tham nhũng của kẻ mối lái cho Thiệu và kêu gọi đàm phán với Mặt trận dân tộc giải phóng.
Nhân việc này, Fulbright đã hỏi kỹ những gì tôi biết về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ, một chủ đề mà ông hết sức quan tâm.
Tôi nói rằng trong những phiên điều trần trước, Fulbright đã nói ông thấy "xấu hổ" vì một phần có trách nhiệm trong việc thông qua nghị quyết của quốc hội về vụ việc này. Tôi nói từ đó đã đập ngay vào tai tôi "vì tôi nghĩ mình chưa bao giờ nghe thấy ai dùng một từ như vậy hay bằng cách nào đó ngụ ý nói đến trách nhiệm cá nhân của mình đến mức độ như vậy". Tôi nói tinh thần đó thật không bình thường, nhưng thế mới thích đáng. Tôi chỉ tiếc rằng những ai đã lừa dối ông, lừa dối đất nước vào thời điểm đó, lại không hề tỏ ra như vậy.
Tháng 8-1970, bạn tôi là Lloyd Shearer, chủ bút tạp chí Parade (Diễu hành), đã nói rằng anh có cuộc hẹn phỏng vấn Kissinger ở San Clemente và hỏi tôi có muốn đi cùng không. Tôi nói có. Tôi nghĩ mình có thể động viên Kissinger đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc, ít nhất là vài phần, để ông ta có thể thấy được là những vụ leo thang như Campuchia gần đây thực ra đã được nói tới từ nhiều năm trước chứ không phải giờ mới xuất hiện. Ông ta có thể hiểu được rằng tất cả những hy vọng trước khi người ta đe doạ rồi tiến hành leo thang chiến tranh đều đã sụp đổ. Và có lẽ ông ta rút ra được điều gì đó.
Tôi cũng tin rằng chính sách của ông ta, theo như tôi hiểu, phụ thuộc vào việc nó có thể che mắt công chúng Mỹ hay không. Tôi muốn ông biết rằng đối với một số người, trong đó có tôi, những nét chính của chính sách thực lế đã hiện hình khá rõ nét. Và tôi vẫn nói với những người khác về chính sách này. (Ví dụ ít nhất thì ai đó ở Nhà Trắng cũng đã phải nói cho tôi biết). Trên thực tế, tôi đã có ý tiết lộ với Nhà Trắng về những gì mà người ngoài, như tôi chẳng hạn, có thể nhận thấy được. Tôi muốn Kissinger phải lo lắng về việc người ta có thể "đọc vị" được chính sách của ông ta, vì thế nó sẽ trở nên ít hấp dẫn hơn đối với ông ta. Đó cũng là điều tôi muốn làm đối với Tổng thống Johnson khi tôi tiết lộ với báo giới năm 1968.
Chúng tôi lái xe tới San Clemente. Tôi nhớ rằng khi lái vào một bãi đỗ xe, chúng tôi nghe một giọng nói vang vang đâu đó chỉ chỗ đỗ cho chúng tôi, nghe như tiếng Chúa vậy. Hình như có một hệ thống quan sát bí mật theo dõi hoạt động của chúng tôi. Cuối cùng tôi mới nhận ra đó là tiếng loa phát ra từ nóc phòng bảo vệ. Chúng tôi ngồi ở một phòng chờ bên ngoài trông như phòng chờ nha sĩ, có vài bức ảnh màu về Nixon treo trên tường. Người thợ chụp ảnh tán gẫu với chúng tôi ở sảnh cho tới khi anh ta lao ra ngoài cửa khi nhìn thấy một chiếc xe golf màu hồng chạy qua. Có một người ngồi lái xe với tốc độ khoảng bảy dặm một giờ giống như chiếc xe điện nhỏ ở công viên Disneyland. Đó chính là Nixon. Ông ta đang quắc mắt lên, trông rất dữ tợn, hai vai khom khom trông như đang lái một chiếc xe đua chạy điện vậy. Ngay đằng sau là một chiếc xe golf màu hồng khác do Bebe Rebozo lái, sau nữa là chiếc xe hồng thứ ba với hai nhân viên an ninh. Một phái đoàn hồng.
Cuối cùng chúng tôi được đưa tới sân trong và dùng bữa trưa với Kissinger. Cùng ăn với chúng tôi còn có trợ lý của Kissinger là Alexander Haig, anh này giờ đang mang cấp tướng. Khi chúng tôi chào, Kissinger quay về phía Lloyd và nói theo kiểu lấy lòng: "Anh thấy đấy, tôi đã học được từ Dan Ellsberg nhiều hơn từ bất kỳ ai khác…". Tôi cho rằng ông ta sẽ lặp lại điều đã nói với tôi ở Rand hai năm trước: "… ở Việt Nam". Nhưng hoá ra là khác "… về đàm phán".
Tôi đã rất sửng sốt. Đàm phán? Mất một lúc tôi vẫn không nghĩ ra ý ông ta nói tới điều gì. Rồi tôi nhớ lại bài "Nghệ thuật ép buộc" tôi đã trình bày với nhóm nghiên cứu của ông ta ở Harvard năm 1959, được trích từ loạt bài giảng Lowell của tôi. Đó là chuyện của mười một năm trước. Tôi nói "Ông có trí nhớ thật tốt".
Ông ta nói giọng lè nhè từ trong cổ họng: "Đó là những bài giảng hay".
Thú vị đây, trừ việc sau đó khi nghĩ lại, tôi dựng hết cả tóc gáy. Những bài giảng của tôi trước lớp của ông ta là về sự đe doạ của Hitler đối với Áo và Tiệp Khắc cuối thập kỷ 1930 mà nhờ đó, Hitler đã có thể chiếm những nước này mà chẳng tốn viên đạn nào. Một trong những bài giảng mang tên "Đe doạ: Lý thuyết và thực hành", một bài khác là "Những sự điên rồ mang mục đích chính trị". Hitler đã chủ ý gây dựng cho địch thủ của mình ấn tượng về những hành động khó lường và phi lý của Hitler. Không thể trông đợi hắn ta không đe doạ ai đó để rồi làm điều gì đó điên rồ và có hại cho cả hai phía. Ở một mức độ nào đó thì làm vậy sẽ có lợi cho hắn ta, vì hắn điên rồ, hiếu chiến đến liều lĩnh và táo bạo. Ít nhất là đã có lúc cả thế giới phải phục dưới chân hắn. Đó không phải là cách mà tôi khuyến nghị nước Mỹ, cũng như bất kỳ nước nào khác, tiếp cận đối với vấn đề này. Cách mà tôi muốn đề xuất hoàn toàn khác. Nếu như ai đó bắt chước Hitler làm vậy thì chỉ gây nên sự điên cuồng và chuốc lấy tai hoạ.
Thông tin về việc xâm lược Campuchia, lọt ra vào tháng tư trước từ những quan chức không rõ danh lính, khẳng định trên thực tế rằng động cơ chủ yếu của việc tấn công Campuchia là để cho Liên Xô, Trung Quốc và Bắc Việt tin rằng việc hoạch định chính sách cấp cao của chúng ta là không thể tiên đoán.
Đồng thời, do chúng ta có thể hành động bất thường và điên rồ như đã được chứng minh bởi việc xâm lược Campuchia vào giai đoạn chiến tranh này, họ không thể tin vào sự tính toán và thận trọng của chúng ta trong những tình hương khủng hoảng tương tự. Khi tôi đọc những thông tin này, tôi băn khoăn liệu những nguồn thông tin từ các quan chức cao cấp cũng như chiến lược sai lầm đó có phải bắt nguồn từ chính Nixon và Kissinger hay không. Tôi hy vọng là không.
Việc Kissinger chẳng mấy tỏ ra khen ngợi đã trả lời cho thắc mắc của tôi. Thật rùng mình khi nhận ra rằng ba tháng sau vụ xâm lược Campuchia, trong đầu Kissinger lại có những gợi nhớ về những thủ thuật của Hitler.
Bốn chúng tôi ngồi ăn trưa bên hiên nhà. Ngay đầu bữa ăn, Lloyd đã tận dụng sự có mặt của tôi để nêu lên chủ đề Việt Nam. Kissinger nói: "Này, chúng ta ngồi đây không phải để nói về Việt Nam". Tôi nghĩ thế thì nói gì? Ông ta nhìn tôi lo lắng và lộ ý rằng ông ta không muốn nói trước mặt tôi. Tôi cho rằng ông ta muốn nói dối Shearer về Việt Nam nhưng điều đó sẽ chẳng dễ gì với sự hiện diện của tôi. Chính vì muốn buộc ông ta phải nói thật về Việt Nam nên Lloyd đã mời tôi tham gia buổi nói chuyện này.
Nhưng hoá ra, theo như sau đó Lloyd kể lại, điều mà Kissinger muốn thảo luận với anh lại là đời sống vợ chồng của ông ta và cái cách mà báo chí đưa tin về vấn đề này. Lloyd viết mục "Nhân vật" với bút danh là Walter Scott cho phụ trương chủ nhật của tạp chí Parade. Lloyd tự hào nói đó là trang thu hút nhiều độc giả nhất trong giới báo chí Mỹ. Thực tế anh là cây bút bình luận những chuyện bên lề hàng đầu nước Mỹ. Anh thường xuyên có các bài viết được xem là theo yêu cầu của độc giả về cuộc sống độc thân của Kissinger và những cuộc hẹn hò với cô đào Jill St. John và các ngôi sao đang lên khác. Nhìn chung chính quyền chấp thuận cách thức quan hệ công chúng như thế này vì nó góp phần làm cho Nhà Trắng thời Nixon trở nên gần gũi hơn, nhưng rõ ràng nó cũng chứa đựng những nguy cơ. Kissinger muốn khuyến khích quan hệ kiểu này để có được những lời khuyên của Lloyd và để lái dư luận về vấn đề này theo hướng mong muốn.
Đấy là điều ông ta không muốn làm trước mặt tôi. Gõ gõ tay trên mặt bàn, đột nhiên ông ta nói: "Này Dan, sao anh và tướng Haig không ăn cùng nhau trong lúc chúng tôi nói chuyện khác nhỉ? Rồi chúng ta sẽ ngồi lại với nhau". Cuối cùng thì ông ta cũng gạt tôi đi. Haig và tôi sang phía bên kia ngôi nhà và cùng dùng bữa. Haig rất nhã nhặn và tôi quyết định thử thông qua anh ta đưa thông tin về chiến lược của Nixon lọt vào Nhà Trắng. Anh ta nghe và gật gật đầu. Tôi chỉ có thể coi điệu bộ này thể hiện anh ta đang lắng nghe lập luận của tôi, chứ không phải là anh ta đang khẳng định nó, mà tôi cũng chẳng mong đợi anh ta làm vậy. Tất nhiên là anh ta chẳng phản bác hay đính chính tôi, cho dù cách tôi mô tả về chính sách này đi ngược lại niềm tin của công chúng.
Một giờ sau Kissinger đến với chúng tôi. Tôi rất ngạc nhiên nghe ông ta nói muốn nói chuyện với tôi, và chúng tôi đã hẹn gặp vào chuyến đi tới đây của ông ta tới California.
Patricia và tôi đã định ngày cưới vào tháng tám, nên thời điểm ông ta muốn gặp tôi lại rơi đúng vào tuần trăng mật của chúng tôi ở Maui. Đến giờ tôi vẫn lấy làm lạ là tại sao tôi lại đồng ý.
Chắc lúc đó tôi bị ám ảnh. Tôi đã không bỏ qua một cơ hội nào để gặp Nixon, có lẽ là để tránh những Campuchia mới và giúp chiến tranh sớm kết thúc. Tôi chắc là Patricia sẽ đồng ý (và đúng như vậy). Chúng tôi rút ngắn kỳ trăng mật để tôi có thể đúng hẹn.
Trên đường trở về Santa Monica, Lloyd kể về buổi nói chuyện với Kissinger. Anh đã hỏi câu mà tôi gợi ý: ông có nghĩ đến trường hợp ông rời khỏi cương vị và phản đối chính sách của Tổng thống? Đầu tiên Kissinger trả lời không, hoàn toàn không. Nhưng khi Lloyd hỏi dồn, ông ta nói: "Tôi nghĩ có thể, nếu có kế hoạch dùng phòng hơi độc…"
Tôi nói: "Đương nhiên là không thể tính tới kế hoạch sử dụng vũ khí hạt nhân". Đó là một thứ vũ khí hiểm hoạ, có thể giết chóc bừa bãi; nhưng tôi đã không biết rằng Kissinger lại đang chỉ suy tính về những kế hoạch nhằm gây ra những hoạt động bất thường như vậy. "Này Lloyd, đối với Kissinger, chỉ có một thứ mà ông ta coi là tội ác chống nhân loại, và nó đã xảy ra, xảy ra trong quá khứ. Đó là tội ác người Đức gây ra cho người Do Thái. Đó là hành vi chính trị duy nhất mà ông ta coi là vô đạo đức, Lloyd hơi bị sốc. Anh nói: "Dan, tôi hỏi hơi khó nghe một chút. Anh có thực sự tin vào điều đó không?" Tôi nói có, và tôi không nghĩ nó chỉ áp dụng cho mỗi Kissinger.
Ngày 8-8-1970, Patricia và tôi làm lễ cưới cùng gia đình và bạn bè. Chúng tôi cùng hứa hôn. Tôi thề: "Patricia, anh sẽ yêu em, che chở em, tôn trọng em suốt đời".
Tôi đã giữ lời thề đó, và cô ấy cũng vậy.
Cuối tháng tám, sau khi buổi gặp của tôi với Kissinger bị hoãn lần thứ nhất, tôi gặp ông ta ở văn phòng ở San Clemente.
Ông ta nói chỉ có nửa giờ, nhưng lại bắt đầu "tôi rất lo lắng về tình hình Trung Đông". Gần đây có nhiều thông tin tiết lộ trên báo chí, có lẽ là từ Kissinger, về những phê phán của ông ta đối với cách Ngoại trưởng William Rogers xử lý các cuộc đàm phán về Trung Đông mà hiện Kissinger không được tham gia.
"Tôi e rằng tình hình sẽ sôi lên mất".
Tôi chỉ có nửa giờ để thực hiện ý muốn, nên nói luôn: "Henry này, tôi muốn nói với ông về chính sách đối với Đông Dương. Tôi nghĩ chính nó mới sôi lên đấy". Đêm hôm trước tôi đã rút gọn tóm tắt của tôi về chiến lược của Nixon thành một trang kín, trong đó tôi nói rõ: những mục tiêu đầy tham vọng (không được công khai tuyên bố), ý đồ của "hoà bình trong danh dự"; việc rút quân khỏi Việt Nam một cách chậm chạp và kéo dài nhưng vẫn để lại một số lượng quân khá lớn; những đe doạ về việc leo thang chiến tranh, điều mà tôi chắc chắn rằng sẽ không thể răn đe hoặc ép buộc được ai, cho dù có những cuộc diễu võ giương oai như ở Campuchia; những cuộc xâm lược tiềm năng trong tương lai, ở Lào, có thể ở phía Nam miền Bắc Việt Nam, và ném bom trở lại; việc phong toả cảng Hải Phòng; và xuyên suốt là việc cố tình lừa bịp dư luận. Theo tôi, phía trước đang là một cuộc chiến không ngày tháng và ngày càng lan rộng.
Khi tôi thuật lại tất cả những điều này, ông ta nheo mắt, cau mày, bĩu môi nhìn tôi, theo cái cách mà tôi hiểu là muốn nói tôi đang sai hướng rồi. Nhưng ông ta chẳng nói lại gì cả. Gõ gõ tay trên bàn, đột nhiên ông nói: "Này, tôi không muốn thảo luận về chính sách của chúng tôi. Nói cái khác đi".
Tôi hỏi ông có biết đến Bản nghiên cứu McNamara về Việt Nam không, ông ta đáp có. (Lúc đó tôi không biết rằng ông ta đã từng là một cố vấn cho nghiên cứu này trong một tháng đầu) "Ông có bản sao của nó ở Nhà Trắng không?". Ông ta nói ông có một bản.
Tôi thấy phấn khởi khi nghe thế. Tôi hỏi tiếp: "Ông đã đọc chưa?"
"Chưa, có cần không?"
Tôi nói ông rất nên đọc, ít nhất là phần tóm tắt, thường là vài trang nằm ở đầu mỗi tập. Ông có thể nói một trợ lý đọc toàn bộ rồi nhặt ra giúp ông ta những đoạn có vẻ trúng tâm điểm của vấn đề. Nhưng chỉ tóm tắt thôi cũng đã lên đến khoảng sáu mươi trang. "Họ viết được đấy. Thực sự là anh nên cố gắng đọc nó".
"Nhưng nghiên cứu này thực sự có cái gì để chúng ta học hỏi không?"
Tim tôi như ngừng đập. Chúa ơi? Đầu óc ông ta cũng chỉ dạng như những người khác mà thôi. Họ đều chỉ nghĩ rằng lịch sử bắt đầu cùng chính quyền của mình và chẳng có gì phải học từ những chính quyền khác cả. Nhưng thực tế lại là mỗi chính quyền, kể cả chính quyền hiện nay, không hề biết mình đều đi vào vết xe đổ trong hoạch định chính sách cùng những chính sách vô vọng)giống hệt nhau. Đó là điều có thể rút ra từ Nghiên cứu McNamara, và rõ ràng là Kissinger cần phải biết.
Hồ sơ Lầu Năm Góc mang đến cơ hội phá bỏ vết xe đổ này, nhưng chỉ sự tồn tại của nó thôi thì không thể làm được.
Tôi đã thực sự thấy chán nản, nhưng vẫn cố trả lời: "Tôi nghĩ là có. Đó là lịch sử hai mươi năm, và có nhiều điều có thể rút ra từ đây".
Ông ta nói: "Nhưng rốt cục giờ đây chúng ta đã quyết sách theo một cách rất khác mà".
Tôi lại càng buồn nản: "Campuchia thì chẳng có vẻ gì là khác cả Kissinger trông vẻ khó chịu, nhấp nhổm trên ghế. Ông ta nói: "Anh phải hiểu là vụ Campuchia bắt đầu từ những nguyên nhân hết sức phức tạp".
Tôi nói: "Henry, ở nơi này chẳng có quyết định sai lầm nào mà lại không xuất phát từ những nguyên nhân hết sức phức tạp cả Và thường là cùng một loại nguyên nhân phức tạp đấy".
Đó không phải là cách mà bạn nói chuyện với một quan chức cấp cao khi bạn vẫn muốn gặp ông ta lần nữa. Nhưng lúc này tôi đã mất một năm sao chép tài liệu, và tôi chẳng tốn mấy sức để giữ cầu quan hệ với Kissinger. Tôi đã làm điều tôi muốn làm với ông ta, dù cho chẳng mấy thành công. Tôi sẽ rất vui lòng nói rõ ý tôi là gì nếu ông ta chịu đọc tài liệu này, nhưng ông ta đã không làm vậy. Tuy nhiên, giọng tôi đã không đến mức làm cho buổi nói chuyện phải chấm dứt tại đây cũng như chẳng khiến ông ta muốn tôi quay lại thêm. Thay vào đó ông ta nói tới việc bực mình với nhóm học giả Đại học Harvard, hầu hết trong số đó từng là.đồng nghiệp của cả hai chúng tôi, kể cả Tom Schelling, những người đã đến gặp ông ta để từ chức tập thể, không làm cố vấn nữa để phản đối vụ Campuchia. (Theo tôi đó là giờ khắc đúng đắn nhất của họ). Ông ta tỏ vẻ coi khinh những người này do họ cho rằng có thể đánh giá một chính sách mà không biết gì mấy về quá trình nội bộ hoạch định chính sách. Ông ta nói đầy coi thường: "Họ chẳng bao giờ được biết những thông tin mật".
Đó là câu ông ta nói. Hẳn ông ta ương tuý luý thuốc độc của Circe rồi (Circe: tên mụ phủ thuỷ trong tác phẩm Odyssey của Homer, kẻ biến người thành lợn - ND). Kinh nghiệm hai năm trước đã quá đủ để tôi có thể giải độc cho ông ta. Không muốn bị đánh đồng và để nhắc ông ta nhớ tới lần nói chuyện với tôi hai năm trước, tôi nói: "Nhưng điều đó không đúng với tôi".
Ông ta vội nhấn mạnh: "Không, đương nhiên là không rồi. Tôi không có ý nói tới anh đâu".
Tôi tiếp tục tấn công: "Và cũng không đúng với Walt Rostow". Lần này chủ yếu tôi muốn Kissinger thấy rằng những ai đã từng đọc Hồ sơ Lầu Năm Góc thì có thể thấy chân tướng chính sách đang nằm trong vòng bí mật của ông ta hiện nay, cũng như chính sách của người tiền nhiệm Walt Rostow và trước đó là McGeorge Bundy. Tất cả những chính sách đó chỉ là một, đó là bí mật tôi muốn tuồn lại vào Nhà Trắng. Nhưng nhắc tới Rostow cũng chẳng có tác dụng gì.
Kissinger nói: "Walt Rostow là một đồ ngốc".
Tôi nói: "Có thể thế thật, nhưng McGeorge Bundy thì không".
Ông ta lại nói: "Phải, McGeorge Bundy không ngốc… Nhưng… ông ta chẳng nắm được tinh thần của chính sách".
Tóm lại, theo ông ta, chiến lược không lặp lại, mà thậm chí nếu có thế thật thì những người kia thực thi không tốt. Họ không biết cách đe doạ và không thể nào để làm chính sách trở nên hữu hiệu hơn. Buổi nói chuyện này càng khẳng định cảm giác của tôi trong năm trước đó. Đây không phải là một chính sách hay một mô hình hoạch định chính sách mà có thể thay đổi được từ bên ưong nhờ vào việc nói thẳng, nói thật với người có quyền lực. Các giáo sư Cambridge chuyển sang nắm vị trí trong chính quyền chẳng thể rút được kinh nghiệm từ thất bại của những đồng nghiệp cũ hơn những gì mà những đảng viên Cộng hoà học hỏi được từ các Đảng viên Dân chủ hay như người Mỹ học được từ người Pháp.
Nhưng tôi không hiểu được rằng, vì thế này thế khác, Kissinger đã tỏ ra khẩn thiết gặp lại tôi và đã cố hẹn gặp. Tôi nói đến Cambridge tôi sẽ gọi lại vì chúng tôi đang chuẩn bị rời đến đó.
Tôi đã gọi cho ông ra và cùng hẹn ngày giờ. Nhưng rồi chỉ một giờ trước khi tôi bay tới Washington, thư ký của ông ta gọi cho tôi báo hoãn lại, rồi cô ta lại hẹn một ngày khác. Lại hoãn thêm một lần nữa, rồi cô thư ký lại cố hẹn tiếp lần thứ ba. Tôi nói: "Rõ ràng là ông ta rất bận. Tôi không muốn cứ tiếp tục phải bị lỗi hẹn như vậy khi mà rõ ràng là ông ta không có thời gian gặp tôi" - "Không phải, ông ấy rất muốn gặp ông mà". Lần hẹn sau, nửa giờ trước khi đi tôi đã gọi trước cho chắc, nhưng rồi lại được biết rằng cuộc hẹn lại bị hoãn. Cô ta ướm tôi một hôm khác nhưng tôi đã nói rằng ông ta nên gọi cho tôi khi ông ta thấy có thời gian. Tôi không thấy nhắc đến chuyện đó nữa. Tôi đã không bao giờ biết tất cả những chuyện này là do đâu. Lúc đó tôi đã cho qua vụ này, vì từ những lần lỗi hẹn như vậy tôi đã kết luận rằng ông ta chẳng mấy quan tâm, và ông ta muốn gặp tôi chỉ là để có thể nói ông ta đã lắng nghe "tất cả mọi người với nhiều quan điểm khác nhau, ví dụ như Dan Ellsberg".
Sau đó khi gián tiếp nghe nói tới ông ta thì sự nghi ngờ của tôi càng được khẳng định. Đó là vào giữa tháng 1-1971, khi tôi đang ở Minneapolis để làm chứng tại phiên toà xét xử hai người trong nhóm gọi là "Minnesota Tám". Những người này đã bị bắt quả tang khi đang tiêu huỷ tài liệu tại một trụ sở tuyển quân. Tôi mang theo một tập Hồ sơ Lầu Năm Góc để trong cặp xách, dự kiến để đưa vào tập hồ sơ của toà. Tôi hy vọng sẽ có thể làm chứng theo cách nào đó để có thể đưa những tài liệu này ra làm bằng chứng. Sau đó các luật sư bên bị sẽ yêu cầu xem toàn bộ tài liệu và đưa vào hồ sơ phiên toà.
Đêm trước phiên toà, luật sư biện hộ cho nhóm Tám đã hỏi về lai lịch của tôi để có thể đề đạt tôi thành nhân chứng tại phiên toà. Anh ta hỏi tôi đã bao giờ làm trong chính quyền chưa. Tôi nói đã từng làm trong chính quyền, nhưng tôi không thể tiết lộ điều đó tại phiên toà. Đã hai năm rồi tôi vẫn giữ kín về chuyện này vì Kissinger không muốn người ta biết tới ông vẫn nhờ vào sự giúp đỡ của Rand và đặc biệt là của tôi. Tôi không còn ở Rand, nhưng tôi không muốn làm họ khó xử khi quan hệ với Kissinger nếu tôi nói về nơi làm việc cũ, dù cho người luật sư tin rằng nếu nói ra thì sẽ giúp tăng vị thế của tôi trước toà.
Sáng hôm sau, ngày 14-1, Patricia gọi điện, nói rằng Don Oberdorfer của tờ Bưu điẹn Washington gọi cho tôi.
Còn một giờ nữa mới phải đến toà nên tôi đã gọi cho ông ta. Ông ta nói đang làm một tổng kết về chính sách của Nixon trong hai năm qua, trong đó có Việt Nam. Ông đã hỏi Kissinger về nguồn gốc của chính sách hiện thời. Kissinger nói: "Mỉa mai thay là có một số người đang phê phán chính quyền thì trước đây lại có vai trò then chốt trong việc hình thành chính sách", đặc biệt là "có một anh tên là Ellsberg".
Tôi đã hết sức kinh ngạc: "Kissinger nhắc đến tôi?"
"Phải, chắc chắn đấy. Nhờ thế tôi mới biết đến anh. Ông ta cũng nói tới Halperin và Schelling. Nhưng ông nói rằng anh đã tham gia vào việc nghiên cứu đề xuất các chính sách và vấn đề để lựa chọn".
Theo như tôi biết, đây là lần đầu tiên Kissinger đề cập với các nhà báo về sự tham gia của những người ngoài chính quyền vào việc đề ra những lựa chọn chính sách. Tôi hỏi: "Thế Kissinger nói chính sách đó là gì?"
"Đó là chính sách vừa đàm phán với Hà Nội vừa rút quân khỏi Việt Nam".
Tôi nói: "Nếu đó là là câu tóm lược chính sách hiện thời thì tôi vẫn đang ở Rand và Mort Halperin vẫn đang ở Nhà Trắng rồi. Ông này vẫn đang che giấu thực chất chính sách là gì và vẫn che mắt chúng ta với thứ chính sách dở tệ đó". Tôi hỏi thì được biết Kissinger không nói gì về việc đe doạ leo thang chiến tranh, về các hoạt động nhằm phô trương, về việc kiên quyết yêu cầu hai bên cùng rút quân (quân Mỹ và quân Bắc Việt Nam - ND), hoặc về kế hoạch duy trì một lực lượng lớn ở Việt Nam. Oberdorfer đã rất ngạc nhiên khi nghe tôi nói về vai trò của những nhân tố đó. Ông nói chuyện thêm với vài người và kết luận rằng tôi đã đúng và ông đã bị Kissinger làm lạc hướng. Don là một trong những nhà báo đầu tiên mà tôi thành công trong việc thuyết phục họ tin theo cách nhìn của tôi.
Kết quả tức thời của câu chuyện là tôi thấy mình có thể lần đầu tiên thoải mái công khai về công việc của mình khi tới dự phiên toà vài giờ sau đó. Khi được chất vấn rằng tôi đã từng làm việc cho chính quyền Nixon hay chưa, tôi nói rằng tôi yừa được biết Kissinger đã tiết lộ điều này, do đó tôi hoàn toàn có quyền thừa nhận.
Nhưng tôi đã không thể đưa Hồ sơ Lầu Năm Góc vào hồ sơ của phiên toà. Tối hôm trước tôi đã nói với luật sư bên bị về tài liệu này. Chúng tôi đã cùng bàn thảo kế hoạch khiến toà phải chấp nhận dùng tài liệu này làm bằng chứng. Theo đó, anh ta sẽ hỏi ý kiến của tôi về một tuyên bố (sai lầm) nào đó của Kennedy hoặc Johnson (tôi đã chọn được một tuyên bố như vậy) Tôi sẽ nói: "Tuyên bố đó là sai lầm". Anh ta sẽ hỏi: "Đó là một cáo buộc hết sức nghiêm trọng; anh đang cáo buộc rằng Tổng thống của Hợp chủng quốc nói dối. Anh có bằng chứng nào để xác minh cáo buộc này?" Tôi sẽ nói: "Tôi có. Ở đây tôi có nhiều tài liệu có thể làm bằng chứng". Tiếp đó anh ấy sẽ bước tới lấy tập tài liệu và dùng làm chứng cớ biện hộ và được gửi tới công tố viên, thẩm phán và bồi thẩm đoàn. Theo tôi hiểu thì thẩm phán sẽ quyết định xem có công khai những tài liệu này hoặc có gửi cho bồi thẩm đoàn hay không. Nhưng dù sao đi nữa ông ta cũng sẽ có cơ hội đọc chúng và tài liệu này sẽ trở thành một phần trong hồ sơ của phiên toà nếu ông ta niêm phong tài liệu. Toà phúc thẩm có thể sẽ xem tới những tài liệu này, rồi theo cách nào đó, chúng sẽ đưa đến những phản ứng có tính pháp lý đối với cuộc chiến.
Ngày hôm sau, tôi mang theo cái cặp xách khi ngồi vào chỗ người làm chứng tại toà. Khi luật sư đề nghị tôi, với tư cách là một chuyên gia, bình luận về tuyên bố (mà tôi đã chọn trước) của Tổng thống Johnson, tôi đã đáp: "Tuyên bố đó là một sự bịa đặt". Tất cả mọi thứ đột nhiên ngưng lại. Viên thẩm phán đập mạnh búa xuống bàn, tạm dừng phiên toà và yêu cầu các luật sư tới chỗ ông ta. Ông ta nói thầm với các thành viên bồi thẩm đoàn, nhưng chỗ tôi ngay gần chỗ ông ta, nên tôi nghe được những gì ông ta nói. Ông ta rất giận dữ: "Tôi đã cảnh báo các anh là tôi không cho phép bất cứ khai báo nào trong phòng xử này cũng không được chỉ trích chính quyền".
Tôi nghĩ, "Chỉ trích chính quyền?" Thế phiên toà này để làm gì? Hai bị cáo đang đứng trước nguy cơ phạt tù dài hạn vì những hành động mà họ thừa nhận là để thể hiện sự công khai phê phán chính sách của Tổng thống. Họ cho rằng ông ta đang tiến hành một cuộc chiến tranh đầy tội ác và vô đạo đức, đó chẳng là chỉ trích thì là gì? Đó chính là động cơ của họ. Liệu những chứng cớ và lời khai biện minh rằng việc họ chỉ trích là hợp lý có thể bị bác bỏ ngay lập tức hay sao? Như đọc được suy nghĩ của tôi, viên thẩm phán nói thêm: "Chính quyền và các chính sách của họ không được xét xử ở đây. Tôi cảnh cáo anh lần cuối: Nếu anh còn định cố gắng khai báo rằng chính quyền đã nói dối, tôi sẽ bác bỏ cả anh và nhân chứng".
Thẩm phán đã yêu cầu bồi thẩm đoàn bỏ qua câu hỏi và câu trả lời của tôi. Tôi vẫn tiếp tục khai báo, nhưng chiếc cặp xách vẫn đóng kín.
Có lẽ Don Oberdorfer đã nói với Kissinger về việc tôi không hài lòng khi ông ta nói tới tên tôi, nên hai tuần sau, lần tiếp theo tôi gặp ông ta, cũng là lần cuối cùng, trong một căn phòng đông người ông ta đã tới bắt tay tôi. Ông ta nói khi đang bắt tay: "Tôi phải xin lỗi anh nếu như tôi đã làm khó cho anh với Don Oberdorfer".
"Ồ không, Henry, không có gì đâu". Tôi rất mừng là mình đã có cơ hội nói với Oberdorfer chính xác chính sách đó là gì.
Lúc đó là vào thời gian đón tiếp khách mời trước lễ khai mạc một hội nghị của các sinh viên MIT và các doanh nhân, nhiều người trong số họ là phụ huynh của các sinh viên, những người mà đã phê phán chiến tranh. Diễn ra từ 29 đến 31-1, ý tưởng của hội thảo là để bắc nhịp nối hai thế hệ sinh viên và doanh nhân, rất nhiều trong số đó là những người Cộng hoà có tư tưởng tự do, để cùng chung tay.phản đối chiến tranh.
Tên của hội thảo là Runnymede, được đặt theo tên cánh đồng mà các nam tước Anh đã buộc Vua John phải tuân theo Magna Carta (100*). Ai đó chọn tên này thật là khéo, vì nó có thể có hàm ý là những sinh viên MIT cũng như những doanh nhân có chút nào đó tự cảm thấy mình cũng mang chất thượng lưu như những nam tước khi đối đầu với hoàng đế. Hội thảo sẽ bắt đầu với bài phát biểu của Kissinger về tình hình nói chung.
Nghe Kissinger nói tôi mới hiểu tại sao ông ta có thể đạt hiệu quả cao đến như vậy trong quan hệ với công chúng. Ông ta nói hết sức nhẹ nhàng và thuyết phục. Bề ngoài là nhắm tới các sinh viên dự hội thảo, ông ta nói đến "thảm kịch" của những phong trào cách mạng gây ra những bất ổn tiêu cực và thật "bi thảm" khi cần phải xử lý bằng biện pháp mạnh. Đến phiên hỏi đáp, ông ta cũng rất tự tin và sẵn sàng trả lời. Cũng có lúc ông ta thể hiện sự bực bội, nhưng theo một cách rất thuyết phục.
Một vài người hỏi rằng tại sao không rút quân nhanh hơn và ông ta đã trả lời: "Bạn đang hỏi là liệu chính sách của chúng tôi có phải là ở lại Việt Nam. Nhưng chính sách đó là rút khỏi Việt Nam. Chúng tôi đang xuống thang chiến tranh ở Việt Nam và tôi có thể bảo đảm với bạn rằng chiến tranh sẽ tiếp tục giảm cường độ". Ông ta lấy ví dụ về việc giảm bớt số lượng cũng như thương vong của quân Mỹ.
Kissinger cũng đã tránh trả lời một câu hỏi, nhưng một lần nữa lại theo cách càng tăng thêm sự đáng tin cậy của ông ta. Mark Gerzon, một trong những sinh viên tham gia tổ chức hội thảo, đã hỏi về những bước đi trong đời, những bước đi đã ảnh hưởng tới quan niệm về giá trị và nhận thức của ông ta về thế giới. Có lẽ vì liên quan đến cuộc sống cá nhân nên Kissinger đã từ chối trả lời. Ông ta nói với chút gì đó khá tự tôn: "Bạn sẽ không thể tôn trọng tôi nếu như tôi cố tự nói về mình trước mọi người".
Sau một số câu hỏi được Kissinger trả lời đầy thuyết phục với một dáng vẻ đĩnh đạc, tôi đứng lên hỏi tiếp. Ông ta nhận ra tôi. Tôi nói mình có một câu hỏi, nhưng trước hết muốn bình luận về những gì ông ta vừa nói.
"Ông nói rằng Nhà Trắng không phải là nơi dành cho triết lý hoá đạo đức. Nhưng trên thực tế Nhà Trắng vẫn giáo dục người dân bằng tất cả những gì họ làm, tất cả những gì họ nói và không nói. Đặc biệt là, tối nay, ông đã thể hiện những giá trị đạo đức khi nói rằng chiến tranh đang xuống thang và sẽ tiếp tục xuống thang, kế đó là việc ông chỉ liên hệ tới số lượng và thương vong của lính Mỹ ở Việt Nam. Ông đã không đề cập tới thương vong của người dân Đông Dương hay số lượng người tị nạn ở đây, về khối lượng bom đạn… mà thực tế là những thứ này đang leo thang. Với việc bỏ qua chi tiết này, ông đang nói với người Mỹ rằng họ không cần phải quan tâm tới những hệ quả đối với người dân Đông Dương, và ông kêu gọi người Mỹ ủng hộ những chính sách mà bỏ qua những hệ quả đó".
"Vậy tôi có một câu hỏi cho ông: ông dự tính chúng ta sẽ giết hại bao nhiêu người dân Đông Dương nếu theo đuổi chính sách này trong vòng mười hai tháng tới?"
Điều có thể nhận thấy ngay là ông ta hoàn toàn ngạc nhiên.
Khán giả cũng sửng sốt bởi đây là lần đầu ông ta tỏ mất bình tĩnh. Ông ta cúi thấp đầu, mặt cau lại, nửa như quay ngược phía khán giả. Rồi ông ta quay lai, mắt nheo nheo nhìn tôi đầy soi mói khiến tôi nhớ lại cảnh ông ta gõ gõ tay lên bàn khi ở San Clemente, rồi nói với giọng đầy cáo buộc: "Thật là một câu hỏi trau chuốt… Tôi trả lời thậm chí nếu tôi không trả lời…"
"Tôi không cố nói cho hay. Đó là một vấn đề cơ bản. Ông có thể trả lời chứ?"
Ông ta lặng im suy nghĩ chừng một phút rồi nói: "Anh đang buộc tội chúng tôi thi hành chính sách phân biệt chủng tộc".
Thật là phi lý. Ông ta vẫn đang cố xoáy vào câu chữ của tôi để câu giờ. Tôi nói: "Chủng tộc không phải vấn đề ở đây. Để tôi nói lại: Bao nhiêu sinh mạng sẽ bị chúng ta giết hại với chính sách này trong mười hai tháng tới?"
Lại im lặng một lúc. Ông ta đi tới đi lui. Chẳng có vẻ gì là ông ta đang ngồi ở buổi trao đổi này cả. Khán giả cũng lặng im.
Rồi ông ta chợt nói: "Thế giải pháp thay thế của anh là gì?"
"Tiến sỹ Kissinger, tôi biết rất rõ ngôn ngữ của những giải pháp thay thế và những sự lựa chọn. Nhưng điều đó chẳng giải quyết được câu hỏi này. Tôi đang hỏi về những ước tính, về những hậu quả mà chính sách của chính ông gây ra trong mười hai tháng tới nếu như ông có biết. Ông có một ước tính nào không?"
Lại một lúc im lặng. Rồi cậu sinh viên đang chủ toạ buổi tối hôm đó đứng lên và nói: "Chương trình tối nay đã kéo dài khá lâu rồi, và tôi nghĩ chúng ta đã có đủ thời gian hỏi đáp. Có lẽ chúng ta nên để tiến sỹ Kissinger trở lại Washington". Buổi hội thảo kết thúc tại đó. Một vài sinh viên vây quanh Kissinger cố hỏi thêm vài điều cuối cùng. Tôi không tìm cách tiếp cận ông ta trước khi ông ta rời đi.
Sáng hôm sau, khi dự một phiên thảo luận, tôi đã miêu tả điều mà tôi tin là bản chất chính sách của Nixon với một nhóm nhỏ những người tham gia, trong đó có Osborne Elliott, biên tập viên của tờ Tuần tin tức. Tôi nói về khả năng bước tiếp theo ít nhất sẽ là tấn công Lào, và tệ nhất có thể là tấn công phía Nam của Bắc Việt Nam. Elliott tỏ ra đặc biệt hoài nghi. Anh nói rằng những nhà báo của Tuần tin tức không thấy có bất kỳ dấu hiệu nào, dưới bất kỳ hình thức nào, cho thấy những hành động đe doạ leo thang như vậy. Nhưng trong giờ nghỉ giải lao phiên buổi sáng, anh đã đến gặp tôi và nói: "Ellsberg, có lẽ có điều gì đó trong những điều anh vừa nói. Tôi đã gọi cho văn phòng của tôi ở New York. Họ vừa nghe bộ phận của chúng tôi ở Sài Gòn thông báo là người ta đã cấm hoàn toàn việc đưa thông tin từ Nam Việt Nam ra bên ngoài. Có điều gì đó bất thường đang diễn ra".
Ngày hôm sau, tin tức phát ra cho biết Quân đội Việt Nam cộng hoà đã xâm lược Lào với sự hỗ trợ chiến đấu của quân Mỹ. Hoá ra là ngay lúc Kissinger còn đang nói với chúng tôi rằng: "Chúng tôi đang xuống thang chiến tranh ở Việt Nam và tôi có thể bảo đảm với bạn rằng chiến tranh sẽ tiếp tục giảm cường độ" thì các cuộc ném bom ở Lào đã bắt đầu. Sau khi bớt chút thời gian vốn đã eo hẹp để đưa ra sự bảo đảm này với một số lượng nhỏ những khán giả thượng lưu ở Massachusetts, ông ta đã bay ngay về Washington để theo dõi chiến dịch tấn công này. Hẳn ông ta đã thức trắng cả đêm.
Từ hội thảo ở MIT trở về, khi mà cuộc tấn công ở Lào đang ở mức ác liệt nhất (dù lúc này Quân đội VNCH chưa bị đánh bại), tôi cho ra một bài phân tích và phê phán chính sách của Nixon theo cách hiểu của tôi. Tôi viết tên bài là "Lào: Vấn đề Nixon phải phụ thuộc", nhưng biên tập viên của chuyên san "Điểm sách New York" lại chuyển thành "Giết chóc ở Lào". Ba tháng sau, Kissinger ám chỉ tới tên bài này ở Phòng Bầu dục để làm chứng cho sự thiên lệch của tôi kể từ khi ông ta biết tôi năm 1968. Vào ngày 17-6-1971, bỏ qua những lần tham vấn với tôi vào năm 1969 và 1970, ông ta đã nói với Tổng thống, Ehrlichman và Halderman rằng tôi đã cáo buộc ông ta là "một tên giết người" ở hội thảo tại MIT đầu năm đó. Thực tế là tôi chẳng hề dùng từ này ở Runnymede cũng như trong bài báo, cũng như trong bất kỳ cáo buộc nào khác. Nhưng có lẽ ông ta đã không quá nhạy cảm để có thể nghe ra nó trong những câu hỏi và bình luận của tôi. Nhắc lại trao đổi giữa chúng tôi ở Runnymede, tôi đã nêu ra thắc mắc này trong một bài báo trên tờ "Điểm sách New York" vào cuối tháng hai:
"Có bao nhiêu người sẽ chết ở Lào?(101) chính xác nhất thì Nixon sẽ ước tính bao nhiêu người dân Lào - cả "kẻ thù" và "không phải kẻ thù" - sẽ bị hoả lực Mỹ giết hại trong mười hai tháng tới? Ông ta không có một ước tính như vậy. Ông ta đã không hỏi Kissinger về vấn đề này, và Kissinger cũng không hỏi Lầu Năm Góc… và tất cả họ đều giống hệt những người tiền nhiệm…"
Tôi đã trích dẫn tính toán của Tiểu ban người tị nạn của Thượng nghị sỹ Edward Kennedy:
"Từ năm 1965 đến năm 1970, ít nhất đã có 300.000 dân thường đã thiệt mạng ở Nam Việt Nam, hầu hết là do hoả lực Mỹ. Tổng số thương vong ít nhất là một triệu. Trong số đó… khoảng 50.000 dân thường thiệt mạng trong năm đầu Nixon cầm quyền, trong năm thứ hai là 35.000".
Bài báo kết luận:
"Người Mỹ cần phải nhìn lại những sự lựa chọn, những thông báo trong quá khứ, cả những thông tin thuận chiều và trái chiều, để thấy được người ta đang nhân danh nhân dân Mỹ làm cái gì, để từ đó cự tuyệt không đồng loã với những hành động đó Họ phải nhận ra và buộc Quốc hội và Tổng thống tuân theo lẽ phải là quân Mỹ dừng ngay việc giết chóc ở Đông Dương, và rằng cả những sinh mạng mà chúng ta mất đi và những sinh mạng mà chúng ta đã lấy đi cũng không thể khiến nước Mỹ có quyền dùng hoả lực và không lực để quyết định ai sẽ thống trị hay ai sẽ chết ở Việt Nam, Campuchia và Lào"(102).
Chú thích:
(100*) Magna Carta: Tiếng Latinh nghĩa là Bản hiến chương vĩ đại. Đây là bản hiến chương hạn chế quyền lực của nhà vua và quy định các quyền tự do dân sự và chính trị của công dân Anh. Năm 1215, sau quá trình đấu tranh lâu dài của các nam tước Anh, tại cánh đồng Runnymede. vua John đã phải công nhận bản hiến chương này - ND
(101) "có bao nhiêu người sẽ chết"; "ít nhất 300.000 người" - Ellsberg, Hồ sơ cuộc chiến, trang 271.
(102) "… người Mỹ cần phải nhìn lại" - sđd, trang 274.
Cuối tháng 12-1970, tôi có lần gặp áp chót với Thượng nghị sỹ Fulbright ở văn phòng của ông để thảo luận xem nên làm gì với tập Hồ sơ Lầu Năm Góc. Ông đã có gần đủ những gì tôi có, kể cả NSSM-l và những ghi chú của tôi về bản nghiên cứu Pontoro về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Norvil đã nói rõ rằng sẽ không có những phiên điều trần công khai về chiến tranh theo kiểu mà anh đã dự tính vào tháng năm, khi chiến dịch xâm lược Campuchia đang diễn ra. Công chúng không giành sự quan tâm cho vấn đề này nữa, mà chính Uỷ ban đối ngoại cũng chẳng ủng hộ những phiên điều trần như thế. Chiến tranh không hẳn là vấn đề được quan tâm trong kỳ bầu cử Quốc hội tháng mười một. Chính Fulbright không phải không đồng ý với bức xúc của tôi khi tôi cho rằng sau vụ tấn công Sơn Tây để giải cứu tù binh Mỹ bị thất bại và việc ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam thì chiến tranh sẽ lan rộng, nhưng ông thấy rằng khó có khả năng huy động được sự ủng hộ ở Quốc hội cho đến khi điều đó thực sự diễn ra.
Về Hồ sơ Lầu Năm Góc, Fulbright có vẻ thông cảm vói việc tôi mong muốn bên cạnh việc nhanh chóng điều trần thì tìm cách nào đó để đưa ra công khai tài liệu này để gắn với cuộc chiến đang diễn ra. Ông nêu ra một loạt biện pháp có thể đưa ra tài liệu mà ít gây nguy hiểm cho tôi, dù tôi không quan tâm lắm tới vấn đề này. Ông gợi ý việc đưa ra một lệnh triệu tập Bộ trưởng Quốc phòng Melvin Laird báo cáo về tài liệu này. Ông nói ông có quyền yêu cầu Laird cung cấp tài liệu này, điều ông đã từng làm vài lần. Đến đây Norvil mới tiết lộ điều mà tôi hiểu là lo lắng bấy lâu của anh, từ lúc mọi chuyện bắt đầu. Anh nghĩ rằng kể cả khi có được tập tài liệu từ Laird thì Uỷ ban cũng sẽ không thể tự mình đưa công khai nếu không có sự đồng ý của Nhà Trắng. Hơn thế nữa, Chủ tịch Uỷ ban không thể tự mình làm vậy bởi Uỷ ban có trách nhiệm giúp Thượng viện bảo vệ tài liệu mật này, tài liệu họ đã luôn có thể có được và có những địa điểm và thiết bị để lưu trữ nó. Nếu Fulbright tiết lộ tài liệu hoặc phân phối hay xuất bản chúng thì ông có thể bị buộc tội gây nguy hại tới khả năng có được các tài liệu bảo mật từ nhánh hành pháp, không chỉ cho bản thân ông hay cho Uỷ ban mà là cho cả Thượng viện. Jones cũng nói rằng các thành viên Uỷ ban và đặc biệt là các nhân viên của Uỷ ban thường bị buộc tội tiết lộ thông tin. Không khó để đoán ra là bản thân Jones cũng chẳng muốn mình bị buộc tội này. Anh vẫn thường lưu ý tôi đừng cho ai biết mình đã chuyển những tài liệu này cho Fulbright.
Fulbright nói với tôi rằng ông đã vài lần đề nghị Laird đưa Hồ sơ Lầu Năm Góc, nhưng chẳng có gì cho thấy là ông sẽ có nó. Càng lúc càng rõ là Jones sẽ không khuyên Fulbright thách thức tất cả bằng việc đưa ra hoặc sử dụng những gì tôi đã chuyển cho ông. Chính Fulbright đã nói với tôi: "Chẳng phải rốt cục đó chỉ là lịch sử thôi sao?". Tôi nói rằng phải, nhưng với tôi đó là một lịch sử hết sức quan trọng. Đó còn là một lịch sử dang dở.
"Nhưng điều đó có thực sự quan trọng không? Có nhiều thứ trong đó mà chúng ta không biết không?". Ông đề nghị tôi chỉ ra một tiết lộ mới trong tập tài liệu mà có thể thu hút sự quan tâm của dư luận.
Tôi nói không phải là từng trang hay từng chi tiết, hay thậm chí là một phần nhỏ trong tài liệu là quan trọng. Điều quan trọng là toàn bộ tập tài liệu đã mô tả chi tiết về sự can dự của chúng ta vào Việt Nam) về sự bi quan trong nước và liều lĩnh leo thang chiến tranh, lừa bịp công luận về một thực tế bế tắc và vô vọng theo một cách giống hệt nhau qua nhiều đời Tổng thống. Sẽ chẳng thể nào tìm thấy một cái gì đó đáng chú ý nếu chỉ chú ý tới từng chi tiết. Ông cần phải đọc nhiều phần trong đó, có thể là một nghìn trang, xem xét thông tin về một số giai đoạn để nắm được vấn đề chung. Hơn thế nữa, quá trình tiếp theo vẫn đang còn diễn ra. Đó mới là mấu chốt. Thật khó có thể tin rằng tài liệu này có độ xác tín nếu như không đọc được phần lớn tài liệu.
Sau khi nói chuyện với Fulbright, Jones và tôi sang phòng của anh ở ngay bên cạnh và tiếp tục thảo luận. Lúc này anh mới gợi ý rằng tôi có thể chỉ cần gửi tài liệu này cho tờ Thời báo New York. Tôi nói mình đã tính tới khả năng này. Về mặt pháp lý thì làm như vậy có thể tương đối nguy hiểm cho tôi, nhưng tôi sẵn sàng làm những gì cần thiết. Tôi hỏi Jones anh có thể nghĩ ra thượng nghĩ sỹ nào đó sẵn lòng công bố nghiên cứu này. Anh lôi ra danh sách các thượng nghị sỹ, đầy đủ cả địa chỉ văn phòng và điện thoại liên lạc. Anh dùng ngón tay lần từng cái tên từ trên xuống dưới một cách tương đối nhanh để tìm ra một người khả dĩ. Nhưng chẳng chỉ ra được ai. Tôi thử nêu thượng nghị sỹ McGovern. Jones nghĩ không thể, dù anh đồng ý với tôi rằng McGovern là người khả dĩ nhất có thể làm chuyện đó. Tôi nêu tiếp Thượng nghị sỹ Mathias và một số người khác. Jones thực sự nghĩ rằng chẳng có thượng nghị sỹ nào có vẻ sẽ làm vậy, nhưng một hạ nghị sỹ thì khả dĩ hơn vì xét trên khía cạnh nào đó thì ít nguy cơ đối với họ hơn. Vấn đề là hạ nghị sỹ không có quyền ngăn cản một dự luật. Ông ta hoặc bà ta không thể là người khởi xướng việc đưa tài liệu này vào sử dụng tại quốc hội hoặc thậm chí là không thể đưa nó vào Hồ sơ Quốc hội. Tài liệu này quá dài. Hơn thế nữa, một hạ nghị sỹ không thể bảo vệ tôi tương tự như một thượng nghị sỹ do thượng nghị sỹ có thẩm quyền trong lĩnh vực đối ngoại. Tuy nhiên, Jones cho rằng tốt nhất là nhờ được hạ nghĩ sỹ bang California Pete McCloskey, người được trao danh hiệu anh hùng trong chiến tranh Triều Tiên. Sau đó tôi đã đến thử gặp McGovern và McCloskey.
Ngày 1-1-1971 ở Cambridge tôi tình cờ nói chuyện với Sandy Gottlich, Chủ tịch của SANE (Committee for a Sane Nuclear Policy - Uỷ ban vì chính sách hạt nhân sáng suốt). Chúng tôi đã trao đổi về các vụ ngăn cản thông qua dự luật tại quốc hội và các hoạt động phá lệ khác. Gottlich cho rằng Gaylord Nelson là Thượng nghị sỹ có khả năng làm những điều tương tự nhất. Vào thời điểm thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ, khi tranh luận ở quốc hội, ông đã đưa ra những câu hỏi sắc bén nhất về sự nguy hiểm khi trao quyền cho Tổng thống được phép tự do hành động và đã đề xuất sửa đổi nghị quyết theo dự thảo do trợ lý của ông là Gar Alperovitz thảo ra. Anh này đã hối thúc ông đưa ra vấn đề này nhằm ngăn chặn bất kỳ hành động mở rộng chiến tranh nào mà không có sự chấp thuận của Quốc hội. Nhưng Fulbright đã thuyết phục Nelson rằng nếu cả hai viện của quốc hội cùng nhau đưa ra một nghị quyết chung để giải quyết vấn đề câu chữ thì khó có thể đưa ra một thông điệp về sự thống nhất và quyết tâm của Mỹ cho phía Bắc Việt Nam sau vụ (được cho là) tấn công của Hà Nội ở Vịnh Bắc Bộ và "phản ứng" sau đó của Tổng thống. Cuối buổi thảo luận đó, Nelson đã không cùng hai Thượng nghị sỹ Morse và Gruening bỏ phiếu chống nghị quyết này. Trong một hành động phản đối sau đó, gần như chỉ có mình ông bỏ phiếu chống Dự luật phân bổ ngân sách Quốc phòng cho chiến tranh.
Cảm tính đã mách bảo tôi có thể trông đợi ở Nelson.
McGovern có vẻ là người khả dĩ nhất, do đó vào cuối tháng 1-1971, tôi đã gọi cho Arthur Schlesinger (con) để nhờ anh sắp xếp cho tôi gặp Thượng nghị sỹ. Lúc tôi đến thì McGovern đang làm quá giờ và sau đó gần một giờ sẽ nghỉ ăn trưa. Trong khoảng thời gian đó, tôi đã nói với ông những thứ chung nhất về chính sách Việt Nam và những thủ thuật chính trị của Nixon. Ông có vẻ quan tâm khi tôi nói tới những mục đích của Nixon. Ông đã gây ấn tượng tốt với tôi bởi cách nhìn nhận của ông về những điều cần phải làm và tầm quan trọng của việc cần phải làm cái gì đó khác đi. Ông tin tưởng ở những vụ ngăn cản thông qua dự luật và hoàn toàn sẵn sàng để làm một hành động như vậy về vấn đề chiến tranh Việt Nam (dù ông đã không bao giờ làm thế). Ông nói muốn nói chuyện thêm với tôi, nên chúng tôi đã hẹn sẽ gặp lại vào cuối giờ chiều.
Tôi tới quầy cà phê của Quốc hội và tình cờ nhận ra I. F. Stone đang ngồi ăn một mình. Tôi chưa bao giờ gặp ông, nhưng tôi đã nhớ ra ông qua những bức ảnh. Từ lâu tôi đã muốn nói với ông rằng ngay từ đầu, trong bản tin chiến tranh của mình, ông đã thể hiện một quan điểm thật đúng đắn đối với cuộc chiến tranh Việt Nam. Tôi tự giới thiệu và đề nghị được nói chuyện. Ông kéo tôi ngồi xuống, săm soi nhìn tôi qua cặp kính dày cộp, rồi chúng tôi đã vừa ăn vừa nói chuyện với nhau suốt gần một giờ.
Ông rất buồn trước tình cảnh đang diễn ra ở Việt Nam. Đã có lúc tôi thấy mắt ông ngấn lệ. Ông kể rằng lúc nói chuyện với sinh viên, thậm chí ông đã không biết phải nói với sinh viên có thể làm những gì. Mọi thứ thật vô vọng.
Tôi kể cho ông về những gì tôi đang cố gắng làm, một phần là để ông vui lên chút ít và cũng là để hỏi xin ý kiến của ông. Tôi đã nói tới Hồ sơ Lầu Năm Góc một cách bộp chộp chẳng suy nghĩ gì. Tôi muốn được nghe lời khuyên của ông, nhưng đó không phải lý do duy nhất khi tôi được có dịp nói chuyện với ông. Tôi nói với ông vì ông là vị anh hùng trong trái tim tôi, ông đã lên tiếng với một tinh thần mà tôi kiếm tìm bấy lâu, giờ mới thoả, như khi tôi nói với Janaki và Randy Kehler về những gì tôi đang làm, để họ biết rằng họ đã truyền cảm hứng cho tôi đến thế nào và tôi đang nỗ lực cùng họ để được họ tôn trọng.
Ông thấy rằng McGovern đúng là nơi duy nhất có thể đặt cược hy vọng, nhưng cũng nên thử cả Nelson. Stone nói ông sẽ giúp đỡ hết mức có thể. Ông hỏi liệu tôi có dám trả giá không. Tôi trả lời sẵn sàng. Khi tôi đứng lên, ông nắm tay tôi thật chặt và nói: "Chúa phù hộ anh vì những gì anh đang làm. Tôi ngưỡng mộ anh".
Đằng sau cặp kính dày cộp (không lâu sau ông đã bị mù) mắt ông lại ngấn lệ. Với tôi những lời ông nói thật ý nghĩa biết bao.
Còn hơn một tiếng mới tới giờ gặp McGovern, nên tôi đã gọi tới văn phòng của Nelson và nói rằng Stone đã giới thiệu.
Tình cờ là Nelson đang rỗi và có thể gặp tôi ngay. Chúng tôi nói chuyện rất thoải mái trong gần một giờ.
Tôi có mang theo một chồng Hồ sơ Lầu Năm Góc để trong cặp và sẵn sàng cho ông biết về tài liệu này cũng như sẽ gửi ông xem, nhưng tôi muốn biết trước là liệu ông có thực sự sẵn sàng làm điều gì đó bất thường và liều lĩnh. Việc hàng năm ông đều bỏ phiếu chống dự luật phân bổ ngân sách quốc phòng là một ví dụ như vậy. Tôi chúc mừng ông về điều này, nhưng ông có vẻ không mặn mà lắm. Do không có mấy người cùng làm vậy với ông nên ông chỉ coi đó là một hành động mang tính tượng trưng mà thôi. Nhưng thật thất vọng là, sau khi đã nghe những gì Sandy Gottlich nói với tôi, dường như là ông chẳng muốn bổ sung cho những gì chúng tôi đã nói với nhau về ông. Khi tôi đề cập tới khả năng một hành động ngăn cản thông qua một dự luật (tôi coi đó là một phép thử xem Thượng nghị sỹ có sẵn lòng làm việc gì đó kiểu như tiết lộ một tài liệu bảo mật) thì ông nhún vai gạt đi. Ông cũng đã nêu ra những phản bác đối với vài ý kiến khác của tôi, ví dụ như bỏ phiếu chống dự luật phân bổ ngân sách nào đó (ngoài ngân sách quốc phòng), về việc luận tội, ngăn cản các điều khoản của dự luật hay những bổ nhiệm dơ chính quyền đề nghị, cam kết trước sẽ bỏ phiếu chống việc phân bổ ngân sách… tất cả những việc mà người ta chưa thử làm. Ông đã bác bỏ tất cả với lập luận chủ yếu là những thứ này không mấy khả thi.
Cuối cùng tôi đã hỏi về đề xuất của chính ông nhằm kết thúc chiến tranh. Ông nói: "À, đi vận động từng người một ủng hộ cho dự luật McGovern-Hatfield". Tôi hỏi ông có tin rằng dự luật này có thể được Hạ viện thông qua hay không, và câu trả lời là: "Không, không hẳn". Tôi nói rằng tiếp cận theo kiểu này cũng tốt nếu như nó có thể chấm dứt chiến tranh trước khi chúng ta phá huỷ cả Việt Nam. Ông ta không có vẻ gì là bất đồng với quan điểm của tôi về sự bức thiết của tình hình, nhưng điều đó cũng không khiến ông cảm thấy phải liều mình hành động. Ông ta có vẻ bị động đến kỳ quặc, thậm chí là cam chịu trước khả năng không thể làm gì ở Thượng viện để ngăn chặn việc leo thang chiến tranh hơn nữa. Dĩ nhiên là chính những gì Ông đã trải qua về vấn đề này đã khiến ông trở nên nghi ngờ các thượng nghị sỹ khác, nhưng tôi bắt đầu băn khoăn là đến nước này thì liệu ông có khác gì so với họ hay không đây.
Ông không có vẻ muốn sớm kết thúc buổi nói chuyện, nhưng việc ông thờ ơ bỏ qua từng biện pháp một vì cho rằng như thế là phi thực tế hoặc là quá ngây thơ đã đột ngột khiến tôi thấy khó chịu. Tôi đã đùng đùng đứng dậy đi ra. Ông ta tỏ ra ngạc nhiên. Tôi nói: "Thượng nghị sỹ, ông biết đấy, vài năm trước khi còn làm ở Lầu Năm Góc tôi đã có thể làm điều gì đó để ngăn chặn cuộc chiến, nhưng tôi thấy tiếc là lúc đó tôi đã không làm. Tôi hy vọng ngày này một năm sau ông sẽ không phải thấy tiếc vì đã không thử làm bất kỳ điều gì".
Đó chẳng phải là một câu tốt đẹp gì để kết thúc câu chuyện và tôi cũng không cố tỏ ra như vậy. Tôi cảm ơn ông ta vì đã giành thời gian tiếp tôi rồi đi ra. Tôi tới văn phòng của McGovern và ngồi đợi ông. Khi ông quay trở lại, chúng tôi lại tiếp chuyện lúc sáng đang nói dở. Khi nghe ông nói về nỗi khổ tâm của ông vì cuộc chiến, tôi càng lúc càng thấy tin tưởng rằng "lời mách bảo" văng vẳng trong tai tôi lúc sáng hoàn toàn đúng đắn: ông chính là người tôi cần. Ông sẵn sàng liều mình để góp phần kết thúc cuộc chiến. Ông muốn góp phần kết thúc nó. Và tôi muốn giúp ông.
Tôi quyết định đưa cho ông tập tài liệu. Trong phát biểu đầu tiên tuyên bố tranh cử Tổng thống, ông đã nói rằng ông muốn nói sự thật với nhân dân Mỹ. Tôi nói với ông, nếu như đó đúng là điều ông thực sự muốn làm, tôi có thể đem đến cho ông nhiều sự thật đến mức ông không thể nói ra hết được trong khoảng thời gian từ nay tới tháng mười một năm 1972 (thời điểm diễn ra cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ - ND). Tôi nói qua một vài chi tiết về Nghiên cứu McNamara, về việc tôi đã sao chụp nó, về Fulbright và hiện có mang vài phần của tài liệu và đề nghị được gửi cho ông đọc.
Ông đã đồng ý một cách hết sức phấn khởi. Ông muốn có nó, muốn đưa nó vào hồ sơ của Thượng viện. Ông sẽ dùng nó để ngăn cản việc thông qua dự luật nào đó. Tài liệu này chính là cái mà ông đang cần. Ông cũng nói rằng không có bất kỳ một nguy cơ nào về mặt pháp lý nếu ông tiết lộ thông tin này khi tranh luận tại Thượng viện. Ông cũng sẽ không bao giờ nói nhờ đâu ông có được tài liệu này.
Tôi nói với ông điều đã nói với Fulbright rằng chẳng thích thú gì nếu phải vào tù, nhưng tôi sẵn sàng chấp nhận bất kỳ nguy cơ nào nếu cần thiết. Ông nói theo cách dứt khoát hơn Fulbright rằng không cần phải như thế. Không ai có thể buộc ông tiết lộ nguồn thông tin được. Ông đứng dậy, đi tới một giá sách cao trong góc phòng, lấy một tập sách giầy cộp có in bản Hiến pháp.
Ông tìm một điều luật rồi đọc cho tôi nghe. Với tư cách là Thượng nghị sỹ, ông "không thể bị chất vấn" về bất kỳ điều gì. Ông nói ra khi tranh luận tại Thượng viện. "Không thể bị chất vấn" - ông nhấn mạnh, "kể cả bởi FBI, Bộ Tư pháp, nhánh hành pháp, thẩm phán, bồi thẩm đoàn cũng như các thượng nghị sỹ khác".
Tôi chủ yếu coi sự đảm bảo mạnh mẽ đó là sự biểu hiện cam kết của ông đối với việc này. Như thế sẽ không thực sự bảo vệ được tôi, bởi vì tôi sẽ là nghi phạm rõ ràng nhất và bất kỳ ai cũng có thể chất vấn tôi. Được thôi. Tôi không định sẽ nói dối một khi được yêu cầu tuyên thệ trước toà hoặc do chính quyền yêu cầu.
Sau những bài học thời kỳ McCarthy, tôi cũng sẽ không vin vào Điều bổ sung thứ năm. Trên thực tế, nếu như trong trường hợp bị điều tra, tôi cung cấp tài liệu này cho ông thì tôi muốn ông sẽ khẳng định rằng tôi đã nói sự thật. Nhưng tôi thích giọng quả quyết của ông và sự mạnh mẽ của nó. Điều đó cho thấy chúng tôi đã gặp nhau ở điểm này và ông sẽ làm tất cả những gì có thể để bảo vệ tôi.
Tôi đã nghĩ rằng nếu như đưa tài liệu cho một thượng nghị sỹ (hoặc một hạ nghị sỹ, nếu như phải làm vậy) thì tôi sẽ được bảo vệ an toàn hơn là đưa cho một tờ báo nào đó, thậm chí cả khi luật liên quan không công nhận có sự khác biệt. Dù thế nào chăng nữa ít nhất thì tôi cũng sẽ không còn có quyền tiếp cận các tài liệu mật để rồi tiêu tan sự nghiệp, nhưng hẳn người ta sẽ phải lưỡng lự khi truy tố tôi nếu như có một thượng nghị sỹ có uy tín nào đó bảo vệ sự đúng đắn của tôi khi cung cấp thông tin cho ông ta và cho công chúng. Thậm chí nếu tôi có bị truy tố thì điều đó cũng sẽ tác động tới phán quyết hay bản án đối với tôi.
Nhưng điều quan trọng đối với tôi là làm sao những tài liệu này được đưa ra phòng họp thượng viện và sẽ được nói tới trong các buổi điều trần. McGovern là thành viên Uỷ ban đối ngoại và có thể yêu cầu điều trần cứ cho là Fulbright lo ngại rằng bên hành pháp sẽ trả đũa nếu như tài liệu mật này bị tiết lộ, do McGovern có thể tự chịu trách nhiệm vì hành động này nên không gì có thể ngăn cản ông đưa các buổi điều trần và triệu tập nhân chứng vào chương trình công tác của Thượng viện. Trước phản ứng ban đầu của McGovern, tôi có cảm tưởng cuối cùng thì mình đã đi đúng hướng để đưa tài liệu này ra trước công luận.
Thực sự là McGovern có vẻ hăng hái tới mức không gì có thể ngăn cản, khiến tôi cũng không chắc ông có thể đương đầu với những nguy cơ đối với sự nghiệp chính trị của ông hay không. Tôi không muốn nghĩ rằng mình đang lợi dụng ông, khiến ông vấp phải điều gì đó mà chưa tính toán hết được. Do đó, tôi đã thử đóng vai phản bác để nêu ra những thách thức mà ông có thể phải đối mặt. Ví dụ, ông có thể bị cáo buộc đã sử dụng thủ đoạn bầu cử nếu dùng tới tài liệu này. Ông nói ông không nghĩ đó là vấn đề nghiêm trọng. Lập trường của ông đối với chiến tranh đã được khẳng định từ lâu và mọi người đều biết rõ cho nên có tiết lộ tài liệu này thì cũng là rất nhất quán và ông sẽ không bị cáo buộc gian lận trong vận động bầu cử. Tôi hỏi: "Thế còn khả năng là những tiết lộ này sẽ gây rối các cựu quan chức Dân chủ?" Điều đó chẳng khiến người ta cho rằng ông làm hại đảng mình và ảnh hưởng tiêu cực đến quá trình gây quỹ bầu cử của ông hay sao? Ông nói: "Nguồn gây quỹ bầu cử của tôi là khác với những người như Muskie (Muskie Edmund Sixtus (1914 - 1996), Thượng nghị sỹ Dân chủ bang Maine (1958 - 1980), ngoại trưởng Mỹ (1980 - 1981) - ND). Những người ủng hộ tôi muốn tôi làm như vậy. Làm thế sẽ không ảnh hưởng gì đâu".
"Thế còn việc người ta có thể cho rằng ông đang tranh cử Tổng thống, một vị trí là người chịu trách nhiệm đối với cả một hệ thống hoạt động bí mật, thế mà ông lại cư xử thiếu trách nhiệm khi tự ý tiết lộ những tài liệu mật?". Ông nói đó sẽ là cáo buộc nghiêm trọng nhất. Ông sẽ chỉ đơn giản nói đó là một trường hợp đặc biệt. Chúng ta đang ở trong một cuộc chiến tồi tệ mà không có cách nào khác để chấm dứt nó, do đó trong những tình huống nhất định thì phải tiết lộ những thông tin này cho cơng chúng. Những gì tôi nói về nội dung của tài liệu này chủ yếu là khẳng định thêm những cáo buộc và đánh giá lâu nay ông vẫn thường đưa ra. Rõ ràng đó là thông tin công chúng có quyền được biết và Quốc hội cần phải có nhưng từ trước đến giờ lại bị ỉm đi. Đây là một sự lạm dụng hệ thống bảo mật tài liệu nhằm che giấu những thông tin này.
Ông đã có những thông tin cần thiết về tài liệu nên có lẽ tôi không cần nói thêm. Trông ông có vẻ tỉnh táo và tự tin: "Tôi muốn làm việc này. Tôi sẽ làm". Ông nói tôi đưa tài liệu mang theo cho trợ lý của ông là John Holum. Rồi ông đã thận trọng và trách nhiệm lưu ý tôi: "Lúc này tôi thấy đây là cách làm đúng. Nhưng hôm nay tôi không muốn đưa ra kết luận cuối cùng. Tôi nghĩ tôi cần suy nghĩ trong vài ngày. Tôi sẽ không nói với ai hết. Trong vòng một tuần tôi sẽ gọi lại cho anh". Tôi thấy như vậy còn trên cả hợp lý. Dù thế nào thì như vậy đã đảm bảo rằng ông sẽ thực sự nghiêm túc đúng mức đối với vấn đề này. Chúng tôi bắt tay và ông giới thiệu tôi với Holum. Tôi đã đưa tập tài liệu trong cặp cho anh này.
Tôi bay về Cambridge và khoe với Patricia thông tin này. Dĩ nhiên là tôi đã một lần được nghe những lời như thế, khi Fulbright ban đầu cũng hăng hái và bảo đảm với tôi hệt như vậy.
Nhưng tôi thực sự thấy hy vọng. Thậm chí tôi có thể nói rằng mình thấy tự tin rằng sau buổi nói chuyện này McGovern sẽ không thay đổi quyết định. Nhưng khi chỉ một tuần sau khi ông gọi cho tôi và nói: "Tôi xin lỗi. Tôi không thể làm được", thì tôi lại phản ứng bình tĩnh đến mức mà đến giờ tôi vẫn thấy ngạc nhiên. Tôi chỉ nói, "Tôi hiểu", và tôi tin rằng tôi thực sự hiểu.
Tôi thực sự thông cảm với ông khi đang phải tranh cử Tổng thống. Tôi muốn ông có một chiến dịch tranh cử mạnh mẽ. Phản ứng của tôi trước quyết định đầy thất vọng của ông cho thấy rằng chính tôi đã âu lo, băn khoăn liệu những gì tôi đề nghị có thực sự đúng đắn đối với ông ấy không. Nhưng tôi vẫn hy vọng rằng ông vẫn có thể là một đồng minh, một cố vấn, vì dù sao tôi cũng đã chia sẻ câu chuyện này với ông. Tôi không muốn nói chuyện này qua điện thoại nên đã hỏi xem khi tôi tới Washington liệu chúng tôi có thể nói thêm một chút cụ thể hơn được không, tất nhiên là không phải để cân nhắc lại quyết định của ông.
"Chắc chắn rồi".
Chúng tôi hẹn gặp vào tuần sau đó.
Sau khi thượng nghị sỹ Fulbright nói với tôi vào tháng 12-1970 rằng "chẳng phải rốt cục đó chỉ là lịch sử thôi sao?" và Thượng nghị sỹ McGovern cũng rút lui, Patricia đã hỏi liệu tài liệu này có đáng đưa ra công khai hay không, có đáng để tôi có nguy cơ phải vào tù hay không: "Có vẻ những ông thượng nghị sỹ này nghĩ nó chẳng đáng để họ phải mạo hiểm. Tại sao anh lại chắc chắn là họ đã sai và anh thì đúng thế""
"À, anh không thể chắc về điều này. Họ có thể đúng. Không ai có thể biết được hậu quả sẽ đi đến đâu, kể cả anh. Vấn đề là anh là người duy nhất đã đọc những tài liệu này. Họ không như vậy. Anh không thể dựa vào những xét đoán của họ được. Anh phải tin ở chính mình chứ".
Nhưng lúc này chúng tôi đã là gia đình. Việc tôi có khả năng phải vào tù không chỉ ảnh hưởng tới mỗi mình tôi. Patricia có quyền tham gia quyết định, và cô ấy không thể thực sự quyết định được khi mà không biết gì về tài liệu đó. Cho tới lúc này tôi vẫn cố ý không để cô ấy đọc chúng. Tôi muốn cô ấy có thể nói rằng mình đã không biết có cái gì trong những thứ đó. Nhưng nếu cô ấy muốn đồng cam cộng khổ với tôi trong chuyện này thì cần phải hiểu hơn về những thứ tôi đang làm. Cách duy nhất để hiểu được hơn là phải đọc một vài tài liệu, dù điều đó có thể khiến cô ấy phải chịu những nguy cơ lớn hơn. Tôi nghĩ đã đến lúc Patricia cần phải đọc một phần. Cô ấy đã đồng ý.
Tôi chọn ra một vài hồ sơ mà tôi đã nhớ từ thời còn làm ở Lầu Năm Góc từ năm 1964 đến 1965. Nó nói về những quan điểm đồng và nghịch về các chiến dịch ném bom miền Bắc. Tôi nghĩ nó sẽ giúp cô ấy biết được công chúng đã bị làm lạc hướng như thế nào trong chiến dịch ném bom năm 1964 và sau đó mà không hay biết rằng những quan chức trong chính quyền Johnson đã mặc nhiên ủng hộ chiến lược kiểu Goldwater này. (Thượng nghị sỹ bảo thủ bang Arizona ( từ 1953 - 1965 và 1969 - 1987), thất bại trong cuộc tranh cử Tổng thống năm 1964 - ND). Những người đã viết các hồ sơ này là các đồng nghiệp của tôi như John McNaughton và Bill Bundy, cấp trên trực tiếp của tôi. Tôi đã cùng làm việc với những người này nên hiểu rõ họ.
Căn hộ của chúng tôi nằm ở tầng ba, vốn là một gác xép được sửa sang lại, có một căn phòng rộng, gồm một bếp, phòng khách và phòng ngủ nhỏ chỉ vừa đủ kê một cái giường. Patricia đem hồ sơ vào phòng ngủ, đóng cửa lại và đọc, phòng khi tôi phải nói chuyện điện thoại. Tôi thì ngồi ở phòng ngoài, trên bàn ngổn ngang hàng đống tài liệu, lật tìm xem có thể đưa cô ấy xem thêm cái gì. Khoảng một giờ sau, Patricia bước ra, tay cầm tập hồ sơ tôi đã đưa. Cô ấy đã thấy cái gì đó mà tôi không biết khi lần đầu đọc vào năm 1964- 1965 cũng như khi đọc lại trong nghiên cứu McNamara. Patricia chỉ cho tôi những đoạn về các giải pháp ném bom khác nhau, trong đó đầy những câu nói về việc "khiến chúng đau đớn đến cùng cực"; "chúng ta sẽ huỷ diệt ý chí của Việt Nam Dân chủ Cộng hoà"; "theo những kinh nghiệm của lần chiến tranh trước, việc ném bom trở lại miền Bắc Việt Nam sẽ khiến dân Bắc Việt đau đớn hơn là nếu chúng ta tiếp tục ném bom với cường độ thấp"; "chiến thuật mưa dầm thấm lâu"; "nỗi đau đớn của Việt Nam Dân chủ cộng hoà ở miền Bắc"; "nỗi đau đớn của Việt Cộng ở miền Nam"; "Điều quan trọng là không "giết con tin" khi phá huỷ các cơ sở vật chất của Bắc Việt ở trong "cái bánh rán Hà Nội"; "đánh nhanh diệt gọn" và "vừa đánh vừa đàm"; "chiến thuật "nóng lạnh kết hợp"… mục tiêu "thuyết phục" Hà Nội, điều sẽ chi phối một kế hoạch các đợt tấn công tiêu diệt đầy đau đớn cách nhau tương đối lâu ; "kế hoạch ném bom "miếng xúc xích Ý"; "bánh cóc"; "vặt vít thêm một vòng nữa"…
"Đây là ngôn ngữ của bọn đồ tể", mắt ngấn lệ, Patricia nói, "Những thứ này cần phải được công bố. Anh cần phải làm điều đó".
Ngày 28-2-1971, tối chủ nhật, tôi tới Washington để tham gia một hội thảo diễn ra vào ngày hôm sau ở Đại học chiến tranh quốc gia. Tôi ăn tối cùng Dick Bamet, Mark Raskin và Ralph Stavins - ba học giả của Viện nghiên cứu chính sách, một trung tâm nghiên cứu cánh tả. Họ đang viết một cuốn sách phân tích sự dính líu của Mỹ vào Việt Nam dưới góc độ tội ác chiến tranh. Để làm phong phú thêm nguồn tài liệu tôi đã gửi cho họ một số phần của Hồ sơ Lầu Năm Góc, bao gồm cả bản thảo của tôi về những quyết định năm 1961, và họ đã cùng tôi tìm cách đưa tài liệu ra trước Quốc hội.
Khi họ hỏi tôi làm tới đâu rồi, tôi đã kể việc không nhờ cậy được Fulbright và McGovern. Họ cho rằng điều quan trọng là tôi đưa được tài liệu này ra công khai. Họ muốn xuất bản cuốn sách này vào tháng sáu, và đang dự tính nói tới tên tài liệu này trong phần tài liệu tham khảo trong sách.
Họ nói tôi nên đưa tài liệu tới tờ Thời báo New York, điều mà Fulbright và McGovern cũng đã nói tới. Tôi đã luôn nghĩ tới việc này như là một phương án dự phòng, dù có khả năng là một tờ báo như vậy chỉ có thể cho đăng vài trích đoạn. Nhưng đến lúc này thì có lẽ cánh cửa Quốc hội đã khép lại. Trong làng báo thì tờ Thời báo New York là sự lựa chọn khá rõ ràng. Đó là tờ duy nhất có đăng toàn phần các hồ sơ, các bài báo dài, ví dụ như các bài phát biểu hoặc các buổi họp báo. Không tờ báo nào khác làm như vậy. Chỉ có tờ này xuất bản trọn vẹn các bài viết vì họ có uy thế để làm việc này.
Mấy anh bạn này hỏi tôi có biết ai đó ở tờ Thời báo New York không.
Tôi có nói từ hồi ở Việt Nam tôi đã biết Neil Sheehan. Tôi không nhắc tới việc vào năm 1968 tôi cung cấp cho anh này một vài tài liệu tối mật. Chính vì việc này nên tôi đã cố tình tránh gặp anh trong vài năm gần đây. Nhưng giờ đây thì mọi thứ đều khiến tôi nghĩ tới việc gặp lại Sheehan.
Thứ ba ngày 2-3-1971, tôi trở lại văn phòng McGovern.
Ông thông báo cho tôi một việc là dù ông đã hứa sẽ không nói với bất kỳ ai về việc tôi nói với ông, nhưng ông đã quyết định cần phải nghe những cố vấn về mặt pháp lý nên đã tới gặp người bạn đồng thời là luật sư Gaylord Nelson. Mặt tôi tỉnh bơ khi nghe vậy, nhưng tôi có thể biết được tiếp theo sẽ là gì.
"Ông có nhắc tới tên tôi không đấy?"
"Tôi không định nói, ai đã đưa tài liệu cho tôi. Nhưng kỳ lạ là khi tôi nói đó là một cựu công chức, Gaylord đã hỏi "có phải Dan Ellsberg không?", nên tôi gật đầu".
Vậy đấy vừa mới tuần trước ông ta mới thề sẽ im lặng. Tôi hỏi thì ông nói rằng Nelson không đề cập đến việc trước đây anh ta đã gặp tôi. Gaylord chỉ nói rằng ông (McGovern) đang tranh cử Tổng thống và không thể làm một việc như vậy được.
"Anh ta rất chắc chắn về điều này và đã thuyết phục được tôi".
Tôi không nói lại nữa. Tôi chúc ông may mắn với chiến dịch tranh cử của mình rồi đi ra mà chẳng thấy khó chịu gì. Tôi thực sự hiểu được. Thật buồn cười khi nghe ông nói rằng ông đã nghe lời khuyên từ Nelson. Tôi không nghĩ lời khuyên đó là sự trả miếng đối với những nhận xét không hay của tôi đối với Nelson. Điều đó là nhất quán với những gì tôi nghe ông nói từ đầu câu chuyện. Tôi nghĩ rằng sự thật là cuối cùng thì McGovern sẽ có được lời khuyên tương tự từ bất kỳ ai mà ông hỏi ý kiến. Thậm chí tôi không thể nói như thế là sai. Tôi không muốn gây trục trặc cho chiến dịch tranh cử của ông bởi chính chiến dịch này rõ ràng là một phương tiện quan trọng để phản đối cuộc chiến tranh. Một ngày nào đó McGovern có thể trở thành nghị sỹ đầy hứa hẹn đối với mục tiêu của tôi như những phản ứng ban đầu của ông đã cho thấy. Nhưng cũng có thể là nếu như trong năm đó cần một thượng nghị sỹ để giải quyết việc này thì đó không thể là một người đang tranh cử lổng thống. Tôi nghĩ tới Thượng nghị sỹ Mathias, và cả Thượng nghị sỹ Mike Gravel, người đã thay thế Thượng nghị sỹ Gruening khi viết một lá thư chúc mừng tôi về bài báo đăng trên tờ Điểm sách New York. Ngày hôm đó tôi cũng đã tới văn phòng của Thượng nghị sỹ Mathias.
Chúng tôi đã không nói chuyện với nhau gần một năm nay, kể từ chuyến bay từ St. Louis về thủ đô đang chìm trong hơi cay khi cuộc xâm lược Campuchia diễn ra. Nhưng cả hai đã kịp có ấn tượng tốt về nhau khi nói chuyện với nhau trên chuyến bay đó. Thế nên chiều hôm đó, chúng tôi đã nói chuyện thoải mái và tin tưởng lẫn nhau. Rất nhanh chóng ông đã tự tin nói với tôi rằng với tư cách một thượng nghị sỹ, ông sẵn sàng đứng đầu một phong trào phản chiến.
"Đó cũng là cách khiến McCarthy bị hạ bệ. Cần phải có tiếng nói từ phía cánh hữu, hoặc hơn nữa là cánh trung dung, từ một thượng nghị sỹ khác, và đó phải là một thượng nghị sỹ cùng Đảng với ông ta - Thượng nghị sỹ Flanders. Đó là cách cần phải làm. Đó là cái chúng ta đang cần trong bối cảnh có cuộc chiến tranh này. Và tôi sẵn sàng làm điều đó".
Tôi thấy rất ấn tượng và đã chúc mừng Mathias vì sự quyết tâm của ông. Để ai đó cùng Đảng với một Tổng thống đương nhiệm chống lại ông ta về vấn đề nào đó - như cuộc chiến tranh đang diễn ra chẳng hạn - thì cần phải có dũng khí. Thượng nghị sỹ Goodell đã phải rời khỏi Đảng mình và trong cuộc bầu cử giữa nhiệm kỳ mùa thu vừa rồi đã mất ghế trong quốc hội vì đã thách thức Nhà Trắng về vấn đề chiến tranh Việt Nam. Mathias lại đang có ý muốn đi theo con đường này.
Vậy thì tôi có vài thứ có thể giúp ông ấy. Sau khi tôi nói về Hồ sơ Lầu Năm Góc và việc có thể làm gì với nó, ông đã nói rằng nghiên cứu về lịch sử này không đủ tính thách thức để có thể lên tiếng. (Dĩ nhiên là năm 1971 tôi cũng đã lo ngại điều này).
"Đó chỉ là lịch sử. Nó chỉ nói về những người Dân chủ. Tôi muốn tiết lộ nào đó về chính sách của Nixon. Anh có cái gì đó liên quan trực tiếp đến Nixon không?"
Tôi có, đó chính là thực tế đang diễn ra. Dù không nhiều như tôi mong đợi, nhưng có vẫn hơn không. Tôi nói về các văn kiện lựa chọn chính sách và NSSM-1. Tôi giải thích rằng những tài liệu của NSC mà tôi không chứng minh được trường hợp của Nixon, nhưng chúng cũng báo trước chiến lược bí mật của ông ta khi cho thấy rằng ngay từ ngày đầu của chính quyền Nixon người ta đã quan tâm tới việc xâm lược Campuchia. Tài liệu đó cũng cho thấy ngay từ đầu Nhà Trắng đã được cảnh báo về những hạn chế của Chiến lược Việt Nam hoá chiến tranh và về nhu cầu cần phải có sự có mặt lâu dài của bộ binh Mỹ và sự hỗ trợ vô thời hạn của không quân Mỹ.
Mathias rất phấn khởi. Ông muốn ngay lập tức có được những tài liệu mà tôi nói tới. Thậm chí là nếu những tài liệu đó không chứng minh hẳn hoi được điều gì thì chỉ việc tiết lộ chúng thôi cũng đã đủ gây ra một thách thức to lớn đối với Nhà Trắng và mở ra một cuộc tranh luận về vấn đề này. Tôi lại nói về những hệ quả pháp lý mà tôi có thể phải gánh chịu và việc tôi sẵn sàng vào tù vì điều này. Dù gì thì NSSM-l ít nhiều cũng là tài liệu của chính quyền đương nhiệm chứ không phải là "lịch sử" cho nên nếu bị tiết lộ chắc sẽ dẫn tới việc truy tố tôi.
Khi tôi nói đến đây, Mathias, hệt như McGovern, đã mang ra bản Hiến pháp và đọc cho tôi cũng điều khoản đó: ông không thể bị chất vấn. Vì thế chính quyền sẽ không thể biết được nguồn tài liệu thông qua ông.
Tôi không mang theo bản sao của cả văn kiện lựa chọn chính sách và NSSM-1, nhưng tôi nhớ rằng đã gửi một bản cho Norvil Jones để chuyển tới Fulbright. Sau khi nói chuyện xong, tôi tới Uỷ ban đối ngoại và nói với Jones rằng tôi cần lấy lại tài liệu đó. Jones lấy ra từ một phong bì to làm bằng giấy sản xuất từ sợi cây chuối ở Philippines đặt trong một két sắt và đưa cho tôi. Tôi mang ngay lại văn phòng của Mathias và đưa cho ông và trợ lý. Đó là một tập khá cồng kềnh khoảng năm trăm trang. Mathias xem qua, rất thích thú và tán thưởng.
Ông nói ông và trợ lý sẽ đọc và quyết định xem tiếp theo sẽ làm gì. Tôi cũng nhắc lại đề nghị của tôi về Hồ sơ Lầu Năm Góc, nhưng thậm chí ông còn không buồn nhắc đến chúng.
"Chúng có vẻ không liên quan và những gì tôi vừa đưa là đủ những gì ông cần rồi".
Tuy nhiên, trong hai tháng sau đó tôi đã hai lần gọi cho trợ lý của Mathias để hỏi xem đến đâu rồi. Anh ta nói họ vẫn đang vạch kế hoạch và chuẩn bị cơ sở cho chiến dịch. Điều này nghe có vẻ thú vị đấy Nhưng sau những gì gặp phải với Fulbright và McGovern, tôi chẳng thấy hy vọng lắm.
Tối muộn ngày thứ ba, mồng 2-3-1971, sau buổi chiều nói chuyện với Mathias, tôi gọi điện đến nhà Neil Sheehan ở Washington và xin ngủ nhờ lại một đêm. Anh nói ở tầng hầm dưới nhà có một phòng làm việc riêng với ghế dài.
Khi tôi tới, anh đưa tôi đi xuống và tôi giúp anh chuẩn bị chăn và khăn trải giường. Nhưng tôi không phải dùng đến những thứ này. Chúng tôi đã nói chuyện cả đêm.
Chúng tôi bắt đầu câu chuyện về bài báo anh mới viết về tội ác chiến tranh trên chuyện sau Điểm sách của Thời báo New York. Nhưng điều đọng lại là sự quan tâm thực lòng của anh đối với cuộc chiến, là việc anh cảm thấy đó là một sai lầm khủng khiếp và là sự phí phạm sinh mạng của cả hai bên, và hơn hết là khát vọng của anh được nhìn thấy cuộc chiến này kết thúc. Trước đây tôi chưa bao giờ thấy được một tình cảm tương tự ở các nhà báo cũng như ở những người không tham gia phong trào phản chiến, ngoại trừ David Halberstam. Việc anh ủng hộ quan điểm rằng người Mỹ có thể đã phạm tội ác chiến tranh và bản thân cuộc chiến cũng là một tội ác đã khiến anh coi như có một chân trong phong trào phản chiến rồi.
Trước khi trời sáng, tôi đã nói với anh về Nghiên cứu McNamara và rằng tôi có đầy đủ nghiên cứu này. Tôi kể về chuyện đưa nó cho Fulbright, rồi McGovern để rồi cuối cũng họ đều cho qua. (Tôi đã không nói đến việc ngay chiều hôm đó Mathias đã không cần đến nó mà chỉ lấy NSSM-l). Anh rất muốn được xem nghiên cứu này. Anh không thể hứa trước được là Thời báo New York sẽ sử dụng nó, nhưng nếu những gì tôi nói là chính xác thì anh tin rằng họ sẽ cần đến nó. Tôi sẽ cho anh xem tài liệu này ở Cambridge và chúng tôi hẹn ngày anh sẽ tới đó gặp tôi.
Một tuần trước đó, khi ở Cambridge, một phóng viên của tờ Boston Globe (Địa cầu Boston) là Tom Oliphant đã gọi cho tôi. Bài báo của tôi trên tờ Điểm sách New York đã khiến anh ta quan tâm và đề nghị đến phỏng vấn tôi. Tôi nhắc lại những phân tích của tôi về chính sách của Nixon và mối quan ngại của mình về chiều hướng của chính sách. Tôi đã chỉ ra những đe doạ bí mật của Nixon thật trùng hợp với kiểu những đe doạ và leo thang thất bại đã kéo dài suốt hai mươi năm trước. Tôi cũng nói với Oliphant điều mà tôi đã không nói trong bài báo, đó là nghiên cứu bí mật về toàn bộ giai đoạn nói trên mà tôi đã tham gia và sau đó được đọc toàn bộ văn bản. Trước đây tôi đã không đề cập tới điều này khi nói với một phóng viên, và lần này tôi không định nói nhiều. Đương nhiên là tôi không nói rằng mình đã sao chụp hay tiếp cận tài liệu này. Tôi chỉ muốn nói rằng những cảnh báo của tôi về chiến tranh là không chỉ dựa trên trực giác. Oliphant có vẻ kinh ngạc khi tôi bình luận rằng hai người khác sau khi đọc toàn bộ nghiên cứu này cũng đã đưa ra kết luận giống hệt về chính sách của Nixon. Anh ta hỏi đó là ai, tôi đáp là Gelb và Halperin (do lúc này cả hai người đều đã rời chính quyền). Chúng tôi chỉ nói khoảng năm mười phút về chuyện này trong hơn một giờ trao đổi với nhau.
Tôi cũng không nghĩ nhiều về lần gặp đó cho đến khi tôi thấy bài báo của anh ta vào chủ nhật, năm ngày sau khi tôi nói chuyện với Sheehan.
Tiêu đề của bài báo đăng ngày 7-3-1971 này là: "Chỉ ba người đọc báo cáo bí mật về Đông Dương, tất cả đều kêu gọi nhanh chóng rút quân". Trong tiêu đề phụ, anh đã nói về việc McNamara yêu cầu bí mật xem xét lại lịch sử của cuộc chiến: "Vào thời điểm đó có vài người trong chính quyền đã đọc vài phần nghiên cứu này, nhưng theo thông tin được biết thì chỉ có ba người đã đọc toàn bộ, từng chữ một. Đáng chú ý là cả ba người đều cho rằng Mỹ nên nhanh chóng đơn phương rút khỏi Việt Nam. Hơn nữa, trước khi rời khỏi chính quyền, cả ba người đều nắm giữ những chức vụ nhạy cảm trong những tháng đầu hình thành chính quyền Nixon".
Sau khi nói chuyện với tôi ở Cambridge, Oliphant đã bay tới Washington để phỏng vấn Halperin và Gelb. Trong bài báo anh ta đã kể về công tác của họ trong năm 1969 dưới chính quyền Nixon; và năm sau đó, sau vụ tấn công Campuchia, họ đã cùng viết "một bài báo được trích dẫn rộng rãi đăng trên tờ Bưu điện Washington có tên là "Chỉ có một lịch trình mới có thể gỡ rối cho Nixon". Anh ta viết tiếp: "Tháng trước… (Halperin) bắt đầu điều hành "văn phòng hoà bình" của tổ chức Sự nghiệp chung, một tổ chức vận động hành lang cho công dân do John Gardner thành lập. Hai tuần trước, tổ chức này đã tuyên bố dự định tham gia đấu tranh đòi đơn phương rút quân khỏi Đông Dương". Anh ta trích lời Halperin nói với mình: "Tôi nghĩ không phải là Tổng thống đang rút quân. Tôi nghĩ có nguy cơ nghiêm trọng là chính sách hiện thời nhằm tiếp tục leo thang chiến tranh và đang chia rẽ đất nước này (Mỹ). Hãy đọc những thông điệp thế giới gần đây. Tất cả nằm ở đó. Tôi tin ngài Tổng thống. Ông ta nói đúng như ông ta nghĩ, đó là: chúng ta đang không rút quân".
Oliphant trích lời tôi nói rằng nghiên cứu này đã có "ảnh hưởng lớn lao" đối với quan điểm của tôi. Khi tôi bắt tay vào làm nghiên cứu này, "Tôi coi chiến tranh là một nỗ lực đầy thiện ý và hợp lý, dù khi nghĩ lại thì thấy nó thật sai lầm. Nhưng rồi mọi thứ sớm trở nên rõ ràng là quyết định của người Mỹ thực sự là một chuỗi trò cờ bạc liều lĩnh của những kẻ đã làm nên chính sách này vào thời điểm đó".
"Khi nhìn lại sự liên quan của mình", Oliphant viết về tôi, "Ông lặng lẽ nói: "Tôi đã tham gia một âm mưu tội ác nhằm tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược". Anh ta đã mượn lời tôi nói về chính sách hiện nay của Nixon để kết luận bài báo: "Theo tôi, đó là một chính sách tội ác".
Khi tôi đọc bài báo này, tôi đã nghĩ rằng nó có thể sẽ khiến Nhà Trắng để mắt tới. Đúng như vậy, bởi Oliphant đã nói với tôi rằng vào cái ngày bài này được đăng, Kissinger đã gọi tới văn phòng của tờ Boston Globe ở Washington để tìm hiểu về nó. Kỳ quặc là ông ta đã muốn nhấn mạnh Dan Ellsberg chưa bao giờ là nhân viên của NSC (bài báo không hề nói tôi như vậy). Tôi cũng nhận ra rằng, theo như tôi biết, đây là lần đầu tiên có một tài liệu nào đó nhắc tới Nghiên cứu McNamara (hoá ra là trước đó đã có hai tài liệu đề cập tới, một là của Lloyd Shearer, nhưng đây là bài báo đầu tiên nhắc tới nó). Điều này đặt tôi vào một tình huống gần như là khủng hoảng.
Tháng tám năm ngoái, ở San Clemente, tôi đã nói về nghiên cứu này với Kissinger. Thế nên ông ta có thể nhanh chóng suy ra rằng nếu như tôi đã công khai nói về nó, cũng như nói về ảnh hưởng của nó đối với chính sách bí mật của Nixon, thì sớm muộn tôi sẽ tự mình công bố toàn bộ tài liệu, nhất là khi tôi đã có thể có một bản sao tài liệu này sau khi rời Rand.
Điều này cũng đúng với FBI, do một năm trước đây vì lý do này khác họ đã tìm cách nói chuyện với tôi sau khi gặp Carol.
Lúc đó tôi không biết rằng một năm trước đó FBI đã trao đổi với Rand về việc tôi đã sao chụp tài liệu và đưa cho Fulbright và Goodell. Tôi vẫn không biết liệu năm 1970 FBI có báo cáo với Kissinger hay không về những trao đổi của họ với Rand và Harry Rowen. Nhưng kể cả không biết chăng nữa thì tôi vẫn đoán rằng bài báo này là một cảnh báo nguy hiểm đối với cả Nhà Trắng và FBI. Điều đó có nghĩa là FBI có thể "ghé thăm" nhà tôi bất kỳ lúc nào cùng với lệnh khám xét. Suốt hơn một năm rưỡi, điều tôi lo lắng nhất là FBI có thể sẽ ập tới và lấy đi toàn bộ các bản sao tài liệu trước khi tôi kịp gửi tới Quốc hội hay chỗ nào khác. Giờ thì với bài báo này, điều đó có thể xảy ra trong hàng ngày hàng giờ.
Tôi chỉ có nhiều nhất là ba bản chụp những phần chính của nghiên cứu, một số phần khác chỉ có hai bản. Sau khi đã đưa một bộ hoàn chỉnh cho Fulbright, tôi chỉ còn lại một hoặc hai bản. Tôi không còn được sử dụng chiếc máy chụp Xerox cá nhân nữa. Tôi đã trì hoãn hết lần này đến lần khác việc sao chụp thêm tại một cửa hàng sao chụp vì tôi có cảm tưởng rằng chỉ một hay hai ngày sau khi tôi làm việc đó thì FBI sẽ xuất hiện. Tôi lo ngại rằng một tài liệu bị thất lạc vẫn còn nguyên dấu tối mật và ai đó tình cờ đọc thấy sẽ có thể dẫn dến việc cửa hàng sao chụp gọi điện cho cảnh sát.
Tôi cho Patricia xem bài báo và cho cô ấy biết điều gì sắp diễn ra. Cô ấy nói một cách sắc sảo hon so với thường ngày: "Anh đã nói về việc sao chụp thêm những tài liệu này cả mấy tháng trời rồi; bây giờ anh hãy đứng lên và làm ngay thì hơn".
Cô ấy đề nghị giúp tôi. Ngay lập tức chúng tôi đi đến căn hộ của em trai cô ấy là Spencer để tôi cất hộp đựng tài liệu ở đó.
Chỉ riêng việc sắp xếp lại tài liệu theo đúng trật tự đã là cả một vấn đề. Tôi rút ra một phần và đọc lướt qua. Đúng như khi ở New York, ngay trên một trong những trang đầu, tôi đã nhận ra một dấu tối mật đã thoát khỏi "kĩ thuật phân loại tức thì" của tôi. Thế là tôi chẳng biết phải làm thế nào ngoài việc xem lại từng trang một lần nữa, tất cả bảy nghìn trang.
Patricia đem tài liệu đến một cửa hàng sao chụp trên quảng trường Harvard, còn tôi phải trông cho đến sáng mới xong. Nếu như cần phải làm việc đó, thì phải làm thật nhanh, trước khi FBI kịp phản ứng trước bài báo hay theo lệnh của Nhà Trắng, hay sau khi nhận được một cú điện thoại từ cửa hàng sao chụp.
Những chiếc máy photo to để kinh doanh thế này thì nhanh hơn rất nhiều so với những chiếc mà tôi đã sử dụng, nhưng hầu như cũng không thể nhanh được bằng những chiếc máy ngày nay, và sao nhiều bản của hàng ngàn trang thì rất tốn thời gian. Chúng tôi cần chia việc này ra để làm cho nhanh. Thật may mắn là gần quảng trường có nhiều cửa hàng, một vài trong số đó mở cửa suốt đêm. Đó thật là một công việc mệt mỏi. Chúng tôi đã phải thay phiên nhau mỗi người nằm nghỉ một tiếng trong khi người kia kiểm tra kĩ lưỡng từng trang và thỉnh thoảng phải dùng kéo cắt. Cứ một hai tiếng Patricia phải đem chồng tài liệu sang một cửa hàng khác hoặc đi lấy những bản sao.
Chúng tôi phải làm gấp gáp thế này là vì FBI. Tôi biết là cả năm nay họ đã biết việc tôi sao chụp và bài báo của Orliphant có thể sẽ khiến họ giám sát tôi một cách chặt chẽ. Bắt quả tang chúng tôi ngay trong lúc đang sao chụp sẽ là việc động trời đối với họ. Khả năng xảy ra điều này khiến cho việc Patricia đi lấy những tráng tài liệu trở nên kịch tính. Mỗi lần cô ấy quay trở lại một cửa hàng thì hoàn toàn có thể FBI đã đang ngồi chờ sẵn ở bên trong rồi. Cho đến lúc này, chúng tôi có lẽ đã "chăm sóc cẩn thận" tất cả hoặc phần lớn những ký hiệu tối mật, nhưng đa phần nội dung tài liệu cũng đủ bất thường để thu hút sự chú ý của bất kỳ ai chợt cầm lên và liếc qua. Có rất nhiều ghi chú đề cập tới những kế hoạch và khuyến cáo của Hội đồng tham mưu trưởng liên quân hay các bản Đánh giá tình báo quốc gia đặc biệt của CIA. Điều gì sẽ xảy ra nếu ai đó tình cờ đọc được một chút của những gì tôi đang sao chụp và nhận ra điều gì đó bất thường? Đó thực sự là lý do vì sao tôi đã do dự lâu đến thế mà không chụp thêm một số bản. Chỉ riêng các dấu "tối mật" thì tôi có thể xử lý được, nhưng chẳng có gì có thể đảm bảo rằng những tài liệu với tiêu đề như thế này sẽ không gây ra lo lắng đối với người nào đó liếc qua nó. Vì thế nên việc đi lấy bản sao khiến Patricia rất hồi hộp.
Khi chúng tôi đã lấy lại hết các bản sao, phân loại, và xếp theo đúng thứ tự trong các hộp riêng biệt, tôi cần phải tìm ra chỗ để cất giữ. Một hộp gửi tại nhà anh trai tôi ở New York.
Những hộp khác gửi ở gác xép hoặc tầng hầm ở nhà bạn bè trong vùng; hầu hết họ không được biết trong hộp đựng gì, chỉ biết đó là những tài liệu mà tôi cần cất giữ.
Vào ngày 12-3, khi Neil Sheehan quay trở lại gặp tôi ở Cambridge, tôi mất nhiều đêm thức trắng để sao chụp thêm các bản tài liệu. Bài báo của Oliphant đã khiến cho tôi vô cùng lo lắng, không phải vì sợ bị bỏ tù, mà vì sợ sẽ không kiểm soát được những bản chụp tài liệu của mình trước khi chúng được công bố.
Tôi đưa Neil đến căn hộ của Spencer, nơi tôi đang cất giấu những bản sao và chỉ cho anh nghiên cứu đó. Anh đã thuê một phòng tại một nhà nghỉ gần quảng trường Harvard. Đọc lướt qua, Neil có thể thấy ngay rằng những tài liệu này quả đúng như những gì tôi đã mô tả. Anh nói để có thể đăng trên tờ Thời báo, anh phải đọc gần hết số đó, và việc này rõ ràng là sẽ cần thời gian. Anh ta xin chụp một bản, nhưng tôi không muốn thế. Chưa phải lúc.
Tôi đang phải cân nhắc hai khả năng. Một mặt, tôi quyết tâm bằng cách nào đó phải đưa phần lớn số tài liệu đến được với công chúng. Tôi nghi ngờ liệu tờ Thời báo có sẵn lòng làm việc này hay không. Đồng thời, tôi lo ngại rằng nếu đưa những tài liệu này cho tờ Thời báo trước khi ban biên tập cam kết xuất bản hay thậm chí là có ý định xuất bản, thì có thể ai đó trong số họ sẽ báo cho FBI; hoặc là FBI vì một lý do gì đó nghe phong thanh được về điều này và sẽ truy tìm những bản sao chụp khác của tôi.
Nếu tờ báo (1) cam kết xuất bản và (2) có kế hoạch xuất bản phần lớn nghiên cứu này trên mặt báo thì việc những bản sao còn lại (cũng là "bản cáo trạng" của tôi) bị mất cũng không phải là vấn đề gì to tát. Nhưng nếu trong trường hợp không có được cả hai điều kiện trên thì việc mất các bản sao và việc tôi bị cảnh sát theo dõi cũng sẽ có nghĩa là cuộc chơi chấm dứt nếu như tôi còn tính đến việc công bố tài liệu này ngoài Quốc hội.
Những tài liệu này ở đó càng lâu mà chưa có quyết định xuất bản, thì càng có khả năng nhiều người sẽ biết tới và đọc chúng và một trong số họ sẽ báo cho Chính phủ. Kết luận cuối cùng của những tính toán này là tôi không muốn gửi phần lớn tài liệu tới trụ sở tờ Thời báo trừ phi những người đứng đầu của tờ báo đã sẵn sàng xuất bản và phải là xuất bản phần lớn tài liệu.
Tôi trông đợi Neil sẽ đại diện của tờ Thời báo trong vấn đề này. Tôi đã sẵn sàng cho anh xem tất cả những gì anh ta muốn xem và ghi chép lại. Nhưng tôi sẽ không để anh chụp lại một bản nào để mang về toà báo.
Lẽ dĩ nhiên là Neil không thể ngay lập tức đưa ra bất kỳ cam kết nào với tôi trong vấn đề này. Anh cũng đã nói rõ với tôi như vậy. Anh ta sẽ phải làm các biên tập viên của anh ta có ấn tượng tốt về nội dung của tài liệu này, rồi sau đó sẽ là những cuộc thảo luận cấp cao hệ quả của việc này đối với tờ Thời báo. Thêm vào đó, tôi cũng đã nói với anh ấy rằng chẳng bao giờ có một sự đảm bảo tuyệt đối. Về những việc kiểu như thế này, tôi hiểu rằng dù cho họ có hứa hẹn và thực sự có ý định sẽ làm thì họ hoàn toàn có thể thay đổi quyết định vào phút chót. Đó là sự mạo hiểm tôi phải chấp nhận khi đưa cho họ những trang tài liệu.
Tôi nói với Neil rằng: "Khi tôi để anh sao chụp những tài liệu này và mang đi, tôi đã sẵn sàng chấp nhận sự thật là tôi đã mất hết quyền kiểm soát đối với chúng. Bản chụp đó ra khỏi tay tôi. Sau đó thì việc sử dụng ra sao là chuyện của các anh (tức là tờ Thời báo). Tôi không thể tác động vào việc này và đó là cách tôi nhìn nhận sự việc. Tôi không thể ngăn anh xuất bản dưới bất kỳ hình thức nào và tôi cũng không thể bắt anh xuất bản. Vì thế việc tôi đưa bản chụp cho anh nghĩa là tôi đã đồng ý trao cho tờ Thời báo và để họ tuỳ ý xuất bản những tài liệu này. Trên thực tế, điều đó sẽ có nghĩa là đưa ra sự chấp thuận trước của tôi đối với bất kỳ điều gì các anh làm".
Tôi biết là tôi không thể đặt ra những điều kiện trên giấy tờ những ràng buộc có chế tài buộc họ phải thực thi. Nhưng trước khi tôi đồng ý đưa bản sao của nghiên cứu này cho tờ Thời báo, tôi muốn có được sự đảm bảo tối đa có thể được đối với hai vấn đề sau: thứ nhất, toà báo có ý định xuất bản một phần nào đó; thứ hai, đó sẽ phải là một "câu chuyện lớn", chiếm một đa số số lượng trang báo và đó sẽ không chỉ là câu chuyện của một ngày, dù lớn hay nhỏ, mà là một loạt bài tương xứng với nội dung và dung lượng của tài liệu gốc. Trong lần gặp nhau sau đó, Neil đảm bảo với tôi rằng nếu tờ Thời báo tiến tới in nghiên cứu này, nó sẽ "lớn" như là tôi muốn. Anh ta thậm chí còn đi xa hơn khi bảo đảm chắc chắn với tôi rằng tờ báo sẽ in tài liệu này theo đúng nguyên bản. Tôi đã không đặt điều kiện đó ngang với những điều kiện khác, nhưng anh biết rằng tôi rất muốn thế và anh đã đồng ý với tôi. Tôi cũng đề nghị tờ Thời báo có "những cân nhắc nghiêm túc" về việc cuối cùng sẽ xuất bản toàn bộ công trình nghiên cứu thành sách.
Chúng tôi đã không nói về việc bảo vệ tôi với tư cách là nguồn cung cấp tư liệu. Tôi mặc nhiên cho rằng toà báo, ở một mức độ nào đó, sẽ làm việc này, và tôi đã không đòi hỏi bất kỳ biện pháp đặc biệt nào nếu như tờ báo phải đối mặt với áp lực của luật pháp. Tôi không muốn người ta biết tới với tư cách là nguồn cung cấp thông tin hay một người đã tham gia nghiên cứu này, nhưng tôi đã không đưa ra yêu cầu nào về cách thức mà tờ Thời báo đã giải quyết việc đó. Tôi cho rằng chính phủ sẽ biết hoặc sẽ coi tôi chính là nguồn cung cấp thông tin.
Nhưng tôi nói với Neil điều đã nói với các thượng nghị sỹ: tôi không muốn chọc giận chính quyền khiến họ truy tố tôi, vì nếu tôi không làm vậy thì dù có vì lý do chính trị hay lý do pháp lý họ có thể cũng sẽ chẳng truy tố tôi.
Đáp lại ý nghĩ này của tôi, Neil cam đoan một lần nữa rằng tờ Thời báo là kênh tốt nhất để đăng tải điều mà anh cho rằng cần phải cho nhân dân Mỹ biết. Anh cũng nói thêm về khả năng, dù không chắc chắn lắm, rằng anh sẽ thuyết phục được sếp của mình về việc này. Trong khi đó, anh sẽ phải đọc hết tập tài liệu và ghi chép lại. Một lúc sau, chúng tôi để anh ở lại một mình với tập tài liệu. Tôi không thể lúc nào cũng kè kè bên anh ấy được. Tôi nói với anh rằng tôi trông cậy anh sẽ không đi ngược lại những mong muốn của tôi, sẽ không mang tập tài liệu đi sao chụp. Tôi nói với Patricia rằng tôi thực sự không nghĩ rằng anh ấy sẽ làm vậy. Đó đơn giản là cơ hội mà tôi sẽ phải nắm lấy. Chúng tôi ghé thăm anh thường xuyên, anh luôn luôn trong tình trạng mệt mỏi nhưng ngày càng hăng hái và phấn khởi Anh tiếp tục đề nghị chụp một bản để còn có cái mà thuyết phục các biên tập viên toà báo, nhưng anh đành tỏ ra chấp nhận việc tôi giới hạn chỉ cho anh chụp vài trang làm mẫu. Vài ngày sau, anh rời Cambridge, sau khi thống nhất với tôi rằng anh sẽ sớm quay lại và ở lâu hơn.
Khi quay lại, Neil báo với tôi rằng các biên tập viên của toà báo rõ ràng là quan tâm, nhưng cũng chả có gì đáng ngạc nhiên là có nhiều tranh luận, sự không chắc chắn và băn khoăn về kế hoạch đó. Họ cần phải biết nhiều hơn về nội dung của nó.
Điều đó vẫn không đủ để thuyết phục tôi sẵn lòng đưa lại cả công trình nghiên cứu hoặc thậm chí là một số phần của nó.
Neil lại ngồi xuống để đọc thêm, ghi chép thêm, và tự chuẩn bị tốt hơn để thuyết phục họ về công trình đó. Tôi đã không hề nghi ngờ gì về thái độ của anh. Anh không bao giờ phàn nàn về độ dài hay những phần khô khan của tài liệu. Chúng tôi cùng bị ám ảnh về cuộc chiến. Và đối với một người như thế, đặc biệt đối với một nhà báo, thì tài liệu này là vô cùng hấp dẫn.
Vào lúc Neil một lần nữa rời Cambridge, anh đã cam kết mạnh mẽ hơn mọi lần trước về việc làm sếp mình tin rằng câu chuyện này xứng đáng một vị trí độc nhất vô nhị. Tuy nhiên trong những lần gọi điện cho tôi từ New York vài tuần sau đó, những gì anh nói với tôi lại không được phấn khởi cho lắm. Họ đang gặp trục trặc trong việc quyết định và không thể nhanh chóng đạt được một giải pháp. Neil vẫn hy vọng, và thực ra là trông đợi rằng cuối cùng họ sẽ tiến đến việc xuất bản tài liệu này, nhưng không rõ là sẽ mất bao lâu để họ có thể thực sự thấy nghiêm túc với vấn đề này. Neil cũng nói với tôi rằng bản thân anh được giao nhiệm vụ làm những vấn đề khác. (Tất cả những điều này hoá ra là sai).
Vào tháng tư, anh gọi cho tôi nói rằng ban biên tập vẫn đang lần lữa chưa đi tới quyết định và rằng dù đang theo đuổi một kế hoạch khác, anh muốn tiếp tục làm việc về nghiên cứu này để chuẩn bị cho quyết định cuối cùng về việc sử dụng nó.
Anh sẽ phải làm việc buổi đêm, thậm chí là cả vào các ngày cuối tuần với nó, và chỉ có thể làm thế nếu có một bản chụp ở New York. Liệu tôi đã sẵn sàng đưa cho anh ta một bản? Vào lúc này việc chiến tranh tiếp tục leo thang đã khiến tôi càng thấy phải gấp rút công bố tài liệu này. Tôi đã trở nên ngày càng hoài nghi việc có thể nhờ cậy gì đó ở Quốc hội. Sau những trì hoãn như vậy, tôi cũng không trông mong vào tờ Thời báo, nhưng tôi hầu như không có sự lựa chọn nào khác, và vào lúc này tôi đã sẵn sàng để gánh chịu một rủi ro lớn hơn. Trên cơ sở đó tôi đã đồng ý.
Khi đồng ý đưa một bản sao, thậm chí cả khi không có bất kỳ sự bảo đảm nào rằng tờ Thời báo sẽ đăng nó, tôi đã ý thức được như Neil có thể đoán, rằng tôi đã đặt niềm tin của tôi vào đối với việc anh ta sẽ sử dụng tài liệu này theo cách mà anh ta thấy phù hợp. Đó là sự chấp thuận của tôi cho tờ Thời báo xuất bản nó theo ý muốn của họ. Nhưng trên thực tế, như sau đó tôi được biết, anh ta đã không cần sự chấp thuận, hay bản sao của tôi để làm việc đó. Điều mà tôi đã không biết, và ông ta cũng đã quyết định không nói cho tôi, là tờ Thời báo đã thuê một vài phòng ở khu New York Hilton, nơi mà một nhóm đang làm việc cấp tốc với tập Hồ sơ Lầu Năm Góc, viết lời bình và lựa chọn các phần của văn bản và tài liệu để đưa vào.
Họ đã có bản sao đầy đủ của những gì tôi đã cho Neil xem cách đó hơn một tháng.
Trong hai năm sau, các phần của tài liệu này lần lượt được xuất bản (dù các phần chính cho đến bây giờ đối với tôi vẫn mơ hồ và khó hiểu). Mãi đến khi phiên toà xét xử tôi gần kết thúc, chúng tôi mới khám phá ra có cái gì trong két sắt của Howard Hunt ở Nhà Trắng. Trong đó có một biên niên của Hunt cho thấy rằng Neil và Susan Sheehan đã đăng kí phòng với những cái tên giả tại các khách sạn ở Cambridge và đã lấy hàng ngàn trang và cuối cùng là toàn bộ công trình nghiên cứu và đem đến các cơ sở sao chụp tự động ở Melford và Boston.
Vào một ngày cuối tuần, khi biết tôi sẽ đi khỏi thành phố cùng với Patricia, Neil đã bí mật đến Cambridge và sử dụng chiếc chìa khoá căn hộ của Spencer mà tôi đã đưa cho anh ta.
Anh ta đã lấy tất cả công trình nghiên cứu và cùng vợ mang đến hiệu sao chụp ở Melford.
Trong khi đó, không hề biết những diễn biến "hậu trường" này, tôi đã tiếp tục nỗ lực để có thêm nhiều người biết được chính sách của Nixon, trong khi vẫn cố gắng tìm ra bất kỳ con đường hứa hẹn nào nhằm công bố những tài liệu này trước công chúng.
Chương 27
Ngày Quốc tế lao động năm 1971 Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Nhà tổ chức phong trào phản chiến Rennie Davis trước đó đã kêu gọi một cuộc biểu tình rầm rộ ở Washington nhân ngày 1-5, sao cho đủ đông để khoá chặt mọi nẻo đường.
Khẩu hiệu là: "Nếu chính phủ Mỹ không chấm dứt chiến tranh, chúng ta sẽ chặn đứng mọi hoạt động của họ". Với mục đích tương tự, nhóm chúng tôi ở thành phố Cambridge đã tụ họp để bàn bạc về những hành động sắp tới. Chúng tôi tự hỏi liệu có nên tổ chức biểu tình ở Boston và khuyến khích mọi người kéo về Washington hay không. "Chặn đứng mọi hoạt động của chính phủ", điều đó có ý nghĩa gì? Liệu họ có dự định bạo động, giống như Weathermen? Liệu cuộc biểu tình có được lên kế hoạch kỹ lưỡng? Liệu nó có vượt ra ngoài tầm kiểm soát?
Đâu đó trong đám đông biểu tình nói rằng sẽ có những "chiến thuật di động". Điều đó nghĩa là gì, có phải là sẽ không ngồi yên chờ đến khi bị bắt? Liệu có phải là lật xe, đặt thùng, chặn đường, ném đá?
Bạo động là điều không ai muốn nhưng cuộc biểu tình dường như không được tổ chức tốt. Chúng tôi thấy khó khăn trong việc quyết định liệu chúng tôi có xuống đường hay không.
Chúng tôi không muốn tái diễn lại cảnh tượng hỗn loạn tại Đại hội quốc gia của Đảng Dân chủ tại Chicago năm 1968. Một vài ngày truức Ngày Quốc tế Lao động, khi tham dự một buổi mít tinh tại Brandeis, nơi mà tôi dự định phát biểu, tôi vẫn chưu có quyết định cuối cùng liệu có tham dự hay không. Theo tôi biết, số phận của các tập Hồ sơ Lầu Năm Góc vẫn chưa được định đoạt. Tôi vẫn đang chờ đợi các nghị sỹ quốc hội thông báo công khai, trong khi tiếp tục suy nghĩ về những điều đáng làm.
Nhưng chẳng có gì là hứa hẹn cả.
Hội trường ở Brandeis chật ních khán giả. Mọi người ngồi kín cả những lối đi giữa các hàng ghế và cầu thang. Không khí bức bối. Tôi không bao giờ chuẩn bị nội dung cần phải nói, và khi tôi sắp kết thúc bài phát biểu, tôi chợt nghĩ đến tác dụng của khả năng phản kháng tập thể phi bạo lực. Một suy nghĩ loé lên trong đầu tôi về một lời thoại trong bộ phim trình chiếu gần đây: "Người khổng lồ tí hon", trong đó Dustin Hoffman thủ vai một ông già nhớ lại cuộc sống ctỉa ông giữa những người Anh-điêng, cả lúc sống sót sau trận đánh Little Bighom và vụ thảm sát tại Wounded Knee. Tất cả mọi người đều ngầm liên tưởng cuộc chiến này với với chiến tranh Việt Nam. Tôi nói, "các bạn nhớ lại lời thoại trong bộ phim, một câu nói của Lakota, một người Mỹ bản xứ trước khi họ bước vào cuộc chiến: "Tiến lên, anh em, hôm nay là một ngày đẹp trời để quyết tử". Vâng, sự thật là, không bao giờ có cái ngày tốt đẹp đó để chết cả. Nhưng, tôi nghĩ rằng, ngày 1 tháng Năm là một ngày tốt đẹp để bị bắt tại Washington.
Hội trường hưởng ứng nhiệt liệt. Tất cả các khán giả đứng bật dậy, vỗ tay và reo hò. Tôi trở về nhà và nói với Patricia: "Tốt rồi, có thể anh sẽ đến Washington".
Nhóm chúng tôi (gồm có Howard Zinn, Marilyn Young, Fred Branfman, Mitcheil Goodman, Noam Chomsky, Zelda Gamson, Cindy Frederick, và Mark Ptashme - ND) đi đến quyết định tương tự. Chúng tôi tới Washington vào lúc đêm khuya. Những người tổ chức đang bận rộn tìm kiếm chỗ tá túc cho hàng ngàn người ở lại, trong trường học, nhà thờ và nhà dân. Chúng tôi được hướng dẫn đến nhà của một ai đó, nơi chúng tôi tìm thấy hàng chục người đã nằm la liệt ở đây, cố gắng yên giấc ở mọi nơi có thể. Không chiếc giường và trường kỷ nào còn trống. Nhiều người chỉ nằm trên sàn nhà, một số co ro trong các túi ngủ, một số nằm trên thảm, số khác nằm ngay trên sàn nhà trơ trụi. Chúng tôi tìm thấy chỗ trống trên sàn của phòng giải trí ở tầng hầm và cố chợp mắt vài tiếng đồng hồ. Khoảng 4h30 , tất cả mọi người thức giấc, chuẩn bị sẵn sàng. Ánh sáng lờ mờ toả ra từ ngọn đèn màu cam duy nhất ở tầng hầm. Những người trẻ tuổi, hầu hết ở tuổi đôi mươi, đang đổ đầy các bình nước, nhồi nhét thức ăn vào các ba lô nhỏ, đánh răng, viết lên mu bàn tay số điện thoại của các luật sư phòng khi họ bị bắt. Họ làm việc đó một cách im lặng, thuần thục và tập trung.
Cảnh tượng đó gợi tôi nhớ lại ánh đèn mù mờ trong khoang tàu chở lính, lúc bốn giờ sáng trong một ngày luyện tập đổ bộ.
Những người lính đứng dọc lối đi giữa các giường ngủ bốn tầng thắt chặt đồ đạc và ba lô, sẵn sàng đứng sang một bên. Tôi nghi ngờ rằng, thẳm sâu trong lòng, những người trẻ tuổi đang ở Washington dây cũng chung cảm xúc với những người lính trẻ trước khi họ bước khỏi mạn tàu xuống một chiếc thuyền cập sát đang nhấp nhô trên sóng. Lo lắng, háo hức. Không ai trong số họ trước đó đã từng bị bắt và họ cũng không có khái niệm họ sẽ làm như thế nào và những người cảnh sát sẽ hành động ra sao. Nhưng, dường như họ đều giấu kín những cảm xúc này.
Khi chúng tôi bước ra ngoài, trời vẫn còn tối đen. Chúng tôi đã sẵn sàng tiến về khu trung tâm. Nhưng ngay khi chúng tôi đến góc phố, một chiếc tắc-xi dừng ngay lại. Người phụ nữ da đen lái xe hỏi có phải chúng tôi trong đoàn biểu tình. Khi chúng tôi trả lời rằng "có", và cô ấy đã cho chúng tôi đi nhờ mà không lấy tiền. Cô nói cô biết đến sự kiện qua báo chí, và đây là chuyện xe thứ hai mà cô chở giúp những người biểu tình. Sau đó, chúng tôi nghe nói rằng tất cả các xe tắc-xi trong toàn thành phố đều làm như vậy, đặc biệt là các tài xế da đen. Nhiều lái xe bình thường, trên đường làm việc, cũng chở giúp khi họ thấy những nhóm người trẻ tuổi tiến bước về khu vực trung tâm.
Bây giờ trời đã sáng hẳn, nhưng âm u và ảm đạm. Cạnh tượng đài Washington, chúng tôi có thể trông thấy những người lính trang bị kỹ càng và đội mũ sắt. Đối với tôi, họ trông giống những anh lính thuỷ quân lục chiến. Tôi đi lên để nhìn rõ hơn họ là ai. Tôi nói chuyện với một vài trong số họ, và kinh ngạc khi biết rằng họ thuộc lực lượng của Binh chủng Hải quân Lục chiến, sư đoàn cũ của tôi, Sư đoàn Hải quân lục chiến số hai, được chuyển đến từ doanh trại Lejcune, phía Bắc Carolina. Tôi nhìn quanh một lượt và nhận ra họ trẻ đến nhường nào, thậm chí cả những người trung đội trưởng, hệt như những người lính mà tôi đã thức dậy cùng họ buổi sáng hôm nào. Họ cũng rất giống tôi, cùng một cảnh mà. Tôi không nghĩ lính thuỷ đánh bộ phù hợp với nhiệm vụ này. Rõ ràng, một số họ cũng có cùng suy nghĩ. Một tay họ cầm khẩu súng trường và tay kia thì ra dấu hiệu hoà bình với chúng tôi.
Trở lại với Phố 14, hàng tốp người đang đứng trên bãi cỏ trước tượng đài. Dường như thời khắc đã điểm, bất kể lúc đó chúng tôi sắp làm gì. Những chiếc ô tô đi ngang qua về phía cây cầu Phố 14, không phải thành một dòng liên tục, mà từng chiếc, từng chiếc một. Những người tài xế lái xe ở tốc độ tương đối nhanh, nhưng. chúng tôi nhận ra rằng, họ trông thấy chúng tôi phía trước và không muốn đâm vào chúng tôi. Họ đang đi về hướng Lầu Năm Góc, ở Arlington dọc theo sông Potomac. Đó dường như là điểm hợp lý để chặn đứng luồng giao thông. Nhóm chúng tôi rời khỏi vỉa hè và ngồi xuống giữa đường phố, thành một vòng cung tròn hướng ra phía ngoài, vai kề vai. Một vài chiếc xe vòng tránh chúng tôi, giảm tốc độ. Chúng tôi có thể nhìn thấy những người cảnh sát đứng thành một hay hai khối, đẩy người biểu tình trở lại vỉa hè. Các đám mây khí hơi cay dật dờ trôi về phía chúng tôi từ con phố nào đó phía dưới, nơi nhỉều người khác đang ngồi.
Sau đó, chúng tôi trông thấy một cảnh sát trang phục kín mít bước ngang qua chỗ chúng tôi từ phía tượng đài. Anh ta gỡ chiếc mặt nạ nhựa trên mặt và nhìn chúng tôi, rồi lôi ra bình khí hơi cay Mace vẫn đeo ở thắt lưng. Cùng lúc đó, một cảnh sát khác tiến về phía chúng tôi từ hướng cây cầu, tay lăm lăm chiếc gậy dài. Chiếc mặt nạ nhựa của anh ta bị kéo lệch về phía đỉnh của mũ sắt. Anh ta vừa vung gậy, vừa bước đến. Hai cảnh sát bước đến phía chúng tôi theo hai cạnh của một góc vuông. Chúng tôi nhìn nhau và rõ ràng có cùng suy nghĩ rằng còn quá sớm để bị bắt. Chúng tôi vọt ra ngoài ngay khi hai cảnh sát vừa xô đến.
Những điều xảy ra sau đó giống như cảnh múa ba lê của Keystone Kops. Tôi còn nhớ mãi cảnh đó như một thước phim quay chậm lại trong đầu, bởi vì nó được diễn lại một cách y chang. Viên cảnh sát tiến từ phía Nam lao về phía trước với chiếc gậy giơ quá đầu, và viên cảnh sát còn lại với chiếc mặt nạ xịt khí hơi cay về phía chúng tôi. Do chúng tôi lập lức rời khỏi vị trí, nên khí ga xộc thẳng vào anh cảnh sát ban đầu, hướng vuông góc với phía mặt trái, nơi không có mặt nạ che chắn. Tôi chứng kiến Viên cảnh sát đó lảo đảo, buông rơi cây gậy, ném mũ sắt và ôm lấy mặt. Viên cảnh sát còn lại kéo tay bạn qua vai mình và dựng anh ta dậy, không còn quan tâm đến chúng tôi bởi chúng tôi bắt đầu di chuyển trở lại trung tâm buôn bán Mall.
Bây giờ, chúng tôi đã hiểu ý nghĩa của "chiến lược di chuyển" và tìm kiếm một nơi khác để triển khai hành động tương tự. Chúng tôi làm đi làm lại một vài lần, và tất nhiên, không bao giờ thành công như lần đầu. Chúng tôi ngồi trên các con đường hẹp hơn, nơi những chiếc xe có xu hướng dừng lại trước chúng tôi thay vì tìm cách đi vòng qua. Khi những người cảnh sát tới gần, chúng tôi đứng dậy và chạy ra xa. Những người cảnh sát tập trung điều chỉnh giao thông thay vì đuổi bắt chúng tôi. Nếu họ có truy đuổi, chúng tôi cố gắng chạy thật nhanh, hoặc vùng vẫy không để bị bắt.
Đây là một thành phố của công chức, nơi hầu hết mọi người trên xe đang trên đường tới cơ quan thực hiện các công vụ hàng ngày. Trong số đó có nhiều vụ việc liên quan đến cuộc chiến ở Việt Nam, mặc dù có thể trên nhiều xe mà chúng tôi chặn lại có những người không liên quan trực tiếp đến công việc đó.
Dĩ nhiên, chúng tôi không ngăn chặn sự hoạt động của chính phủ, nhưng đối với những người lái xe, điều đó chẳng thể bình thường. Chúng tôi buộc họ phải ngừng giây lát trên đường tới nhiệm sở, dành cho họ một thoáng để suy nghĩ về công việc mà họ đang tìm cách đến đúng giờ để thực hiện và tìm hiểu tại sao một số người lại rỗi hơi làm như vậy để ngăn chặn công việc của họ. Chắc chắn nhiều người trong số họ sẽ cảm thấy khó chịu và cho rằng chúng tôi đang phí phạm thời gian một cách vô ích.
Tuy nhiên, rõ ràng không phải ai cũng nghĩ như vậy. Nhiều người bấm còi, mỉm cười và tỏ dấu hiệu ủng hộ qua cửa xe.
Phía bên kia của con phố, trước con dốc dẫn xuống đường ngầm bên dưới các toà nhà, chúng tôi đã chặn một đoàn xe khá lâu trước khi một cảnh sát phát hiện ra. Không mong bị truy đuổi và bắt giữ, chúng tôi đứng dậy khi anh ta tiến lại, tới góc phố và ngược theo con đường. Dường như, viên cảnh sát này bám theo chúng tôi bởi vì tôi có thể nghe thấy Fred Branfman ở phía sau tôi nói gì đó với anh ta. Tôi quay lại để nghe rõ họ đang nói với nhau cái gì. Viên cảnh sát là một người đàn ông trung tuổi mặc một bộ quân phục thông thường, không có mũ sắt, không có mặt nạ, không tỏ ý định gì. Chỉ khi tôi quay lại và Fred đang mải nói chuyện, anh ta bình tĩnh nâng bình khí hơi cay Mace lên và xịt thẳng vào tôi. Tôi cho rằng anh ta chủ ý vậy.
Trước đó, tôi đã từng bị tấn công bằng khí hơi cay. Trên thực tế, buổi sáng hôm đó, khi huấn luyện hải quân, tôi phải chịu đựng vài phút trong một phòng khí hơi cay mà không có mặt nạ.
Nhưng lần này là kinh nghiệm hoàn toàn khác. Tôi không thể nhìn thấy gì và hoàn toàn mất phương hướng. Tôi không biết mình đang ở đâu. Ai đó túm lấy và nâng tôi dậy. Đó là một dạng hiệu ứng của khí hơi cay Mace mà tôi đã tùng được đọc. Nếu tôi còn có thể mở miệng, điều tôi sẽ thốt ra là: "Chúa ơi, khí hơi cay Mace" như thể tôi là một người am hiểu về nó. Ý của tôi ở đây là Mace chính là một loại sản phẩm mà với tác dụng của nó hệt như đã được quảng cáo.
Tại thời điểm buổi sáng hôm đó, tất cả chúng tôi đều sẵn sàng bị bắt. Nhưng cảnh sát dường như không quan tâm đến việc cưỡng ép chúng tôi. Họ thành công trong việc giải tán những người tuần hành. Vì vậy, giao thông diễn ra tương đối bình thường ở những trục đường chính. Cuộc biểu tình dường như đã kết thúc. Theo chúng tôi biết, không một ai bị bắt. Chúng tôi ngồi xuống, nói chuyện với nhau một lúc trong công viên Lafayette, chênh chếch với Nhà Trắng. Chẳng còn nhóm nào xung quanh. Ai đó gọi cho I.F. Stone bằng điện thoại công cộng và sắp xếp cuộc gặp lúc ăn trưa với chúng tôi tại một nhà hàng Trung Quốc. Sau đó, chúng tôi quyết định giải tán. Một số người quay trở lại với các cuộc hẹn mà tưởng chừng sẽ không thực hiện được với suy nghĩ rằng chúng tôi sẽ bị tống giam. Noam bay tới Texas tham dự một sự kiện tại quán cà phê GI, một trong những trung tâm ủng hộ phong trào phản chiến trong nội bộ quân đội.
Tôi bay đến New York nghe bài giảng của McGeorge Bundy tại Uỷ ban Đối ngoại. Đó là một trong ba bài thuyết trình ông ta dự định thực hiện ở đó, và có kế hoạch sau này sẽ chuyện thành sách. Có ý kiến cho rằng, đó là nỗ lực của ông ta để được xem xét tới chức vụ ngoại trưởng trong chính quyền Dân chủ kế tiếp, sau khi ông ta rời khỏi quỹ Ford. Tuy nhiên, những bài thuyết trình của Bundy không bao giờ được xuất bản.
Việc xuất bản của Hồ sơ Lầu Năm Góc sáu tuần sau, đề cập đến giai đoạn mà ông ta nhắc đến, cho thấy ý kiến của ông đã đi lệch hướng. Hồi ức của anh trai ông về Việt Nam, điều mà Bill Bundy đã nghiên cứu trong suốt hai năm tại MIT, chịu chung số phận.
Tôi đi từ La Guardia đến căn hộ của Patricia ở New York, nơi tôi có vài ba bộ quần áo, có thể tắm táp và chỉnh đốn lại trang phục. Tôi kỳ cọ kỹ hơn mọi ngày. Đầu tóc cũng như quần áo mà tôi đang mặc đẫm mùi khí hơi cay. Sau khi gội đầu kỹ càng và mặc quần áo sạch sẽ, tôi có mặt tại Hội đồng Đối ngoại lúc chiều muộn, với một đám đông các cựu lãnh đạo và đồng nghiệp cũ từ Lầu Năm Góc, Bộ Ngoại giao và Đại sứ quán tại Sài Gòn. Toàn bộ bộ máy chính quyền Mỹ ở Việt Nam, tất cả các cựu đại sứ và các quan chức nội các, đều đến để lắng nghe Bundy. Với tôi, nó giống như nơi dành cho bị cáo của toà án Nuremberg. Điều khác nhau là không một ai trong chúng tôi bị buộc tội. (Cuối cùng, người bị buộc tội duy nhất là tôi).
Tại Washington, sau khi đã giải tán cuộc biểu tình cuối giờ sáng và thiết lập lại giao thông mà không tóm được mấy người, lúc chúng tôi ăn trưa, cảnh sát bắt đầu chiến dịch bắt bớ. Họ không còn phải làm gì với cuộc biểu tình ban sáng đã chấm dứt.
Những người cảnh sát không cần biết những người họ bắt có mối liên hệ gì với cuộc biểu tình không. Hầu như tất cả những người bị bắt không tham gia vào sự kiện đó. Nếu bạn trẻ tuổi và tóc dài, bạn đều bị bắt tại Washington chiều hôm đó nếu đi trên phố ở quận Georgetown. Khách du lịch, sinh viên, những người đi mua hàng, con cái của một số nghị sỹ, tất cả đều bị tóm.
13 ngàn người bị bắt ở Washington chiều và tối hôm đó. Không có đủ nơi giam giữ, nên họ bị nhốt ở Sân vận động Robert F. Kennedy. Cảnh sát không có chứng cớ về bất kỳ ai trong số đó có tham gia biểu tình chống chiến tranh hay không, hoặc làm điều gì đó trái pháp luật, ngoại trừ một số nhân vật mà họ biết, như Abbie Hoffman, với cái mũi bị đánh bầm tím khi bị bắt. Hầu hết trong số họ không phải là những người phản đối chiến tranh. Thế nhưng, cái đêm ở sân vận động RFK có thể đã gieo mầm mống nổi loạn trong họ. Nhiều năm sau, họ không thực sự thành công trong việc giải quyết vụ bắt bớ nhầm lẫn đó bằng một vụ kiện tập thể.
Nhưng tôi không biết gì về những điều đã xảy bởi tôi chăm chú lắng nghe bài thuyết trình của Bundy ở New York. Ông ta nói rằng không có bất kỳ ý định nào nhằm đánh lạc hướng Quốc hội liên quan đến việc thông qua Nghị quyết Vịnh Bắc Bộ. Nghị quyết đó về chức năng không tương đương với một lời tuyên chiến (lời của Nicholas Katzenbach năm 1967). Tôi vẫn nhớ suy nghĩ của mình lúc đó: "Trời, Bundy, đừng làm thế. Đừng tiếp tục nói ra điều đó một cách công khai như thế. Quá muộn rồi, điều đó sẽ sớm được nói ra thôi".
Đó quả là một kinh nghiệm nằm ngoài sức tưởng tượng của tôi: một buổi sáng biểu tình với chiến thuật "di động" trên Phố 14, sau đó ngồi trong một căn phòng với toàn các ông bạn tội phạm chiến tranh của mình, lắng nghe trợ lý an ninh quốc gia của Johnson nói dối về cuộc chiến.
Chương 28
Tiến tới ngày 13 tháng 6 Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Bất chấp thất bại trong âm mưu xâm lược Lào, Nixon vẫn không có dấu hiệu hạ thấp mục tiêu hay chiến lược của ông ta.
Thậm chí tôi còn cảm thấy chiến tranh còn có chiều hướng leo thang hơn nữa. Trên thực tế, có một cuộc tranh luận đáng lo ngại về việc mở rộng chiến tranh ra miền Bắc Việt Nam gắn liền với cuộc xâm lược đó. Thủ tướng Kỳ công khai kêu gọi Mỹ mở rộng địa bàn chiến tranh. Tôi rất lo ngại về triển vọng và nhịp độ leo thang của cuộc chiến kể từ vụ đột kích ở Sơn Tây.
Chiến dịch xâm lược Lào không khiến tôi ngạc nhiên. Tôi đang mong đợi, việc công bố các bản báo cáo sẽ tăng thêm xung lực cho dự luật McGovern-Hatfield ở Thượng nghị viện về việc cắt giảm ngân sách dành cho chiến tranh. Việc tiếp cận với tờ Thời báo New York dường như khó khăn.
Tôi đã nghe Peter McCloskey phát biểu chống chiến tranh một vài lần và rất ấn tượng với ông. Ông có một cách nói trầm lắng, luôn nhấn mạnh vào những điểm không khoan nhượng.
Ông ta là một thành viên đặc biệt quan trọng của bất kỳ một nhóm phản chiến nào bởi vì ông ta không để vấn đề bị ảnh hưởng bởi các đảng phái chính trị. Ông là một trong số ít những thành viên của Đảng Cộng hoà sẵn sàng chỉ trích Tổng thống là người trong đảng của ông. Thậm chí ông còn nói toạc ý định phản đối sự ứng cử của Nixon về vấn đề chiến tranh nếu cuộc chiến tiếp tục diễn ra trong năm 1972.
Sau khi chúng tòi cùng phát biểu trong một nhóm thảo luận tại Princeton, tôi đề nghị gặp riêng ông. Việc dàn xếp thời gian tỏ ra thật khó. Ông chuẩn bị bay về địa hạt của ông ở California và gợi ý tôi có thể đi cùng. Nhớ lại, thật kỳ lạ nếu tôi chấp nhận một chuyến bay dài bằng chi phí cá nhân chỉ để tận dụng cơ hội đó. Nhưng đó chính là điều tôi đã làm. Tôi mang theo một vali đầy và đưa cho ông vài tập báo cáo của Lầu Năm Góc để đọc khi chúng tôi trên máy bay.
Ông hoàn toàn đồng ý với tầm quan trọng của việc công bố tài liệu nghiên cứu đó. Ông nói rằng, nếu cần thiết, ông sẽ làm điều này ở Nghị viện. Nhưng trước hết ông cảm thấy cần phải thông qua Uỷ ban của ông để thực hiện đúng thể. thức. Tôi nói với ông rằng Bộ trưởng Quốc phòng Laird đã nhiều lần từ chối cung cấp tài liệu này cho Uỷ ban Đối ngoại của Thượng viện. Nhưng ông nghĩ rằng ông sẽ phải vận động để có được nó qua nhiều kênh. Tôi đưa nốt số tài liệu tôi mang theo để ông đọc ở California.
Khi trở lại Washington, ông đã đề nghị Chủ tịch Uỷ ban nêu yêu cầu tài liệu đó ông đề cập tài liệu đó như là bằng chứng trước Uỷ ban của Thượng viện, khiến cho Fubright phàn nàn trong một phiên họp mở về sự bất lực của ông ta trong việc tìm kiếm tài liệu đó hoặc đề nghị Laird cung cấp một lần nữa. Mc Closkey nói với tôi rằng ông ta không thực sự chờ mong có được tài liệu đó, nhưng ông phải dành cho chính quyền thời gian để trả lời.
Dường như tôi cần sớm có một luật sư. Tôi sắp xếp một cuộc hẹn tuần trước trong tháng 5-1971 để gặp Jim Vorenberg, một giảng viên của trường Luật Harvard. Patricia có chút hiểu biết về Jim Vorenberg bởi vì anh ta từng là một sinh viên Luật ở Harvard và là bạn của anh rể cô. Chúng tôi cùng đến thăm ngôi nhà lớn của anh ta ở Cambridge một buổi tối và bắt đầu bằng câu chuyện về chị gái và anh rể của Patricia. Patricia và tôi ngồi thoải mái trên ghế có tay dựa, đối diện với anh ta trong một góc của phòng khách. Tôi nói qua với anh về xuất thân và trình bày cặn kẽ công việc của tôỉ liên quan đến nghiên cứu của McNamara. Tôi giải thích cách thức lịch sử ảnh hưởng đến chính sách của Nixon theo cách hiểu của mình, tầm quan trọng của việc cho Quốc hội và dư luận biết về nghiên cứu đó, những gì tôi đã làm và điều gì vẫn đang xảy ra. Nhưng tôi không có cơ hội để nói nhiều về phần cuối của bài thuyết tnnh bởi anh ta đột ngột xua tay và nói: "Tôi buộc phải ngăn cản anh lại ngay bây giờ. Tôi e rằng mình không thể tiếp tục thảo luận về vấn đề này".
"Ông nói gì vậy?"
"Dường như ông đang mô tả những kế hoạch để thực hiện một tội ác. Tôi không muốn nghe bất kỳ điều gì thêm. Với tư cách là một luật sư, tôi không thể tham gia vào vụ việc này".
Đầu tôi như muốn nổ tung. Tôi đứng bật dậy, hạ thấp giọng và căng thẳng, càng lúc càng nhanh hơn, nhìn thẳng xuống anh ta: "Tôi vừa nói với ông về hàng ngàn trang hồ sơ về các tội ác: tội ác chiến tranh, tội ác chống lại hoà bình, tội ác giết người hàng loạt. Hai mươi năm chiến tranh dưới bốn đời Tổng thống.
Và tất cả những Tổng thống ấy đều có bên mình những giáo sư của Harvard, để cố vấn cho ông ta nên thực hiện điều đó như thế nào và tránh điều đó như thế nào? Cám ơn ông, chúc ngủ ngon".
Tôi quyết định quay sang tìm kiếm sự giúp đỡ từ một nhân vật mà tôi tiếp xúc một năm trước đây tên là Leonard Boudin.
Năm đó, ông ta đang ở Cambridge với tư cách là một giáo sư thỉnh giảng tại trường Luật Harvard. Luật sư cấp tiến Peter Weiss, người đã giới thiệu tôi với Boudin, nói thẳng rằng: "Leonard Boudin là luật sư về hiến pháp lỗi lạc nhất của quốc gia". Ông đã tranh cãi, và chiến thắng trong rất nhiều vụ kiện về quyền tự do dân sự trước Toà án Tối cao. Tôi gọi điện cho ông ta ngay sau ngày tôi trò chuyện với đồng nghiệp của ông ở Harvard. Chúng tôi nói chuyện trong văn phòng tại tầng hầm của ngôi nhà mà ông đang thuê ở Cambridge. Tôi rất thích ông. Ông lắng nghe tôi và cuối cùng, ông nói: "Anh biết không, tôi không phải là một anh hùng hay một kẻ tử vì đạo. Tôi là một luật sư. Nhưng tôi đã từng đại diện cho nhiều người như vậy. Và lần này, tôi lấy làm vui mừng được đại diện cho anh".
Không lâu sau đó, qua báo chí tôi biết rằng Thượng nghị sỹ Mike Gravel đang dự định ngăn cản việc thông qua dự luật về mở rộng chế độ quân dịch đã được đệ trình trong tháng sáu. Tuy không có bất kỳ đồng nghiệp nào sẵn sàng đứng về phía ông, nhưng ông sẵn sàng thực hiện một mình. Như tôi đã nói, đây là một loại giấy quỳ để thử sáng kiến của các thượng nghị sỹ. Khi cần các thượng nghị sỹ miền Nam thường xuyên sử dụng các bài phát biểu dài để linh hoạt ngăn cản (filibuster) các dự luật về quyền dân sự. Tuy nhiên chưa có một dự luật chống chiến tranh nào bị ngăn cản bởi chiến thuật này. Gaylord Nelson đã phớt lờ đề nghị của tôi. Thượng nghị sỹ Harold Hughes và Charles Goodell nói rằng họ sẽ xem xét ý kiến của tôi chỉ khi họ vận động được những người khác đứng về phía họ, điều không có khả năng xảy ra. Với chỉ một hoặc hai tiếng nói, nỗ lực đó không chỉ chắc chắn thất bại, mà tỏ ra vô ích, khoa trương và lố bịch. Goodell giải thích với tôi rằng: "Dan này, ông không thể gánh nổi hậu quả khi làm như vậy ở nghị viện: điều đó thật lố bịch và sẽ là trò cười cho mọi người". Do đó, Mike Gravel chính là một kiểu mẫu nghị sỹ mới, không giống như những thành viên khác của Nghị viện, sẵn sàng đứng dậy một mình và chấp nhận hành vi được coi là lố bịch.
Và đó là một vấn đề đáng để phản đối. Không hiểu những Thượng nghị sỹ già và trung niên đang nghĩ gì trong đầu, khi họ giơ tay ủng hộ việc mở rộng chế độ quân dịch, gửi thêm nhiều thanh niên trẻ tới cuộc chiến trong năm thứ bảy này.
Đã vài tuần nay, tôi không có tin tức gì từ Neil Sheehan về khả năng tờ Thời báo có thể xuất bản hồ sơ, và trước khi điều đó xảy ra, rất ít hy vọng le lói từ phía ông ta. Thượng nghị sỹ Mathias cũng chưa quyết định khi nào hoặc bằng cách nào ông sẽ sử dụng bản sao của báo cáo NSSM- 1 mà tôi đã chuyển cho ông. Gravel có vẻ như là nơi gửi gắm tốt nhất của chúng tôi trong tương lai gần. Tôi nghĩ, tôi có thể bay tới Washington với một bộ hồ sơ để đưa cho ông ta trong ngày thứ hai. Để chuẩn bị cho chuyến đi đó, tôi lấy một bộ từ căn hộ của Spencer. Đây là lần đầu tiên kể từ khi sao chụp tài liệu đó, chúng tôi cho phép để một bộ tài liệu trong căn hộ của chúng tôi tại số 10 phố Hilliard.
Tối thứ bảy ngày 12-6, chúng tôi có hẹn với Howard và Roz Zinn, cùng xem bộ phim: "Butch Cassidy và Sundance Kid"(*) tại khán phòng của Quảng trường Harvard. Tôi đã xem phim này hai lần và đây là một trong những bộ phim tôi yêu thích. Buổi sáng hôm đó, tôi nhận một cuộc điện thoại của Tony Austin, một biên tập viên của Thời báo New York. Ông ta đã đến Cambridge một vài lần mùa thu năm ngoái để phỏng vấn tôi cho cuốn sách mà ông ta viết về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ và hậu quả của nó. Ông ta gây ấn tượng mạnh cho tôi bởi nhiệt huyết, sự hiểu biết thấu đáo và quyết tâm của ông nhằm vén bức màn bí mật của cuộc tấn công lần thứ hai vào ngày 8 tháng. Ý cuối cùng tôi đã nói với ông là tôi không dám chắc ông có thể hoàn toàn làm sáng tỏ mọi điều. Bất chấp sự ngờ vực của bản thân, tôi quyết định giúp ông ta bằng cách cung cấp cho ông những gì tôi có. Tôi miêu tả tài liệu nghiên cứu của McNamara cho ông ta, mà không nói rằng tôi đang có một bản sao của toàn bộ nghiên cứu đó. Tôi đã để ông ta đọc một đoạn trích từ nghiên cứu đó, phần nói về những tình tiết của Sự kiện Vịnh Bắc Bộ. Thật ngạc nhiên, ông cuối cùng đã đưa ra bằng chứng thuyết phục để bác bỏ khả năng Bắc Việt đã lần thứ hai tấn công tàu khu trục của Mỹ ngày 4-8-1964. Nếu ông công bố bằng chứng này trên tờ Thời báo New York, tôi chắc chắn rằng bài báo của ông xứng đáng giành được giải Pulitzer(**). Nhưng ông ta muốn dành kết luận của ông cho cuốn sách: "Cuộc chiến của Tổng thống".
Trên điện thoại, Austine gần như nức nở. Ông ta nói trong tuyệt vọng: "Dan, tác phẩm của tôi phá sản rồi! Cuốn sách sắp được xuất bản trong vài tuần nữa, nhưng nó bị chìm mất. Thật là một thảm hoạ".
Tôi nói với ông ta rằng tôi không tin điều đó có thể xảy ra. Chuyện gì vậy?
Austine giải thích: "Thời báo New York có toàn bộ nghiên cứu mà ông (tác giả) đã cung cấp cho tôi một phần trong đó. Họ đang bắt đầu xuất bản ngày hôm nay. Toà nhà đã bị đóng cửa. Họ đang kiểm soát tất cả mọi người ra vào. Họ sợ rằng FBI sẽ rờ họ trước khi họ có thể in ra. Họ cũng dự tính một lệnh cấm từ phía chính quyền".
Tôi nói điều đó thật thú vị và cho rằng việc Thời báo New York xuất bản nghiên cứu đó là một tín hiệu tốt. Xét cho cùng, tất cả những gì về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ mà toà báo có nằm trong tập tôi đã cho Austine xem. Nhưng Austine có nhiều hơn thế ngay cả trước khi ông phát hiện ra sự thật. Trong trường hợp toà báo in toàn bộ nghiên cứu, độc giả sẽ quan tâm về lịch sử của cuộc chiến và cụ thể hơn về đề tài mà cuốn sách của ông đề cập.
"Những câu hỏi về Sự kiện Vịnh Bắc Bộ sẽ được đặt ra mà chỉ có ông là người có thể trả lời. Rất có thể, thời điểm đó là lý tưởng cho ông".
Tôi nói một cách nhẹ nhàng, cố gắng làm Austine an tâm. Nhưng ông ta trở nên quẫn trí. Ông ta chắc chắn rằng các loạt báo của Thời báo New York về cả cuộc chiến tranh sẽ lấn át cuốn sách nhỏ bé của ông ta và giành được sự chú ý của độc giả. Bất chợt, tôi hỏi liệu ông có biết bằng cách nào Toà soạn có được tài liệu đó. Austine trả lời không biết. Tôi nói, chúng ta cùng mong cho những điều tốt đẹp nhất, và chờ đợi xem điều gì sẽ xảy ra. Ông ta cúp máy.
Trái tim tôi đập rộn ràng. Tôi quay số của Neil ở toà soạn Thời báo New York. Trong khi chờ đợi trả lời, tôi nghĩ: Vậy thì có phải họ lo lắng về một lệnh cấm từ chính quyền. Tâm trạng của họ là chờ đợi FBI đến bất kỳ lúc nào. Neil không cho tôi biết chuyện này và ông ta cũng không hề cảnh báo tôi trong suốt cả tuần hoặc cả tháng vừa qua, thậm chí ngay cả sáng nay, vì Chúa.
Khi nào ông ta dự định báo cho tôi biết vậy? Và vào thời điểm này, lần đầu tiên trong nhiều tháng qua, tôi đang có một bản sao đầy đủ trong phòng khách nhà mình.
Neil không nhấc máy điện thoại. Nửa giờ sau, sau khi báo tin cho Patricia, tôi gọi lại cho ông ta. Không có tín hiệu trả lời.
Tôi gọi vào điện thoại bàn của ông ta tại Toà soạn và để lại lời nhắn để ông ta gọi điện cho tôi. Nhưng tôi không nhận được tin tức gì của ông ta kể từ hôm đó.
Tôi buộc phải di chuyển tập tài liệu đó ra khỏi nhà. Tôi gọi cho vợ chồng Zinns. Họ dự định ghé qua nhà của chúng tôi để cùng đến rạp chiếu bóng. Tôi hỏi Zinns liệu chúng tôi có thể tạt qua chỗ của họ ở Newton thay vì dự định cũ. Tôi để tập tài liệu trong một cái hộp và cất ở thùng xe phía sau. Họ là những người lý tưởng cho việc tránh sự để mắt của FBI. Howard ngầm phụ trách quản lý các phong trào của nhà hoạt động phản chiến Daniel Bengan trong vòng nhiều tháng khi ông ta lẩn tránh FBI (thực tế đó cho thấy, Howard là một người lý tưởng để che giấu bất cứ cái gì khỏi sự chú ý của FBI). Có thể đoán rằng điện thoại của ông ta đã bị nghe trộm, ngay cả khi ông ta không bị giám sát thường xuyên. Tuy nhiên, tôi không biết ai tốt hơn lúc này để nhờ vả trong buổi chiều thứ bảy đó. Dù thế nào, tôi cũng đã đưa cho Howard một tiết đoạn lớn của nghiên cứu đó để đọc với tư cách một nhà sử học. Ông ta đang giữ tài liệu này ở văn phòng của ông trong Đại học Boston. Đúng như tôi dự đoán, họ lập tức đồng ý. Howard giúp tôi bê chiếc hộp ra khỏi thùng xe.
Chúng tôi lái xe trở về Quảng trường Harvard xem chiếu bóng. Hai vợ chồng Zinns trước đó chưa xem bộ phim Butch Cassidy. Bộ phim động viên làm chúng tôi vững tin nhiều. Sau đó, chúng tôi mua kem ốc quế tại cửa hàng Brigham và quay lại căn hộ của tôi. Cuối cùng, Howard và Roz trở về nhà trước khi những loạt báo sớm của Thời báo New York số chủ nhật được chuyển tới quầy báo ở đường xe điện ngầm phía dưới quảng trường. Giữa đêm, Patricia và tôi ra quảng trường và mua một vài tờ báo. Chúng tôi vừa đi đến cầu thang dẫn tới Quảng trường Harvard vừa đọc trang nhất, với một bài báo dài ba cột nói về tư liệu lưu trữ bí mật. Cảm giác thật tuyệt.
Chú thích:
(*) Phim "Butch Cassidy và Sundane Kid" sản xuất năm 1969 với Paul Newman và Rober Redford, kể về hai nhân vật Butch Cassidy và Sundane Kid. Butch Cassidy (1869-1908) là tên cầm đầu một nhóm tội phạm ở vùng miền Tây hoang dã của nước Mỹ gọi là Wild Bunch hay còn gọi là "Hole-in-the-Wall Gang". Một thành viên khác là Harry Longbaugh, còn gọi là "Sundance Kid". Họ tấn công những đoàn tàu hoả ở Wyoming. Cả Cassidy và Longbaugh chạy trốn đến Bolivia và có thể chết ở đây - ND.
(**) Giải thưởng giành cho các tác phẩm văn học, âm nhạc và báo chí xuất sắc ở Mỹ - ND.