Hàm Nghi (1884-1885)
Âm Thầm Như Cá Chép Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
( Lời tường thuật của cô Blanche, con viên đại tá tư lệnh Alger )
" Vào một buổi chiều, tàu Biên Hòa ( chở vua Hàm Nghi -TTB) cập bến, chờ làm thủ tục, tôi theo cha ra đón ông Hoàng nhỏ bé ấy. Không hiểu sao tôi cảm thấy một nổi buồn man mác động lòng trắc ẩn. Dưới bóng chiều chập chờn, con tàu nhả khói phì phì dường như muốn trút vơi nỗi nhọc nhằn trong cuộc hành trình. Một bóng đen nho nhỏ tựa vào lan can, đăm đăm nhìn ra phía chân trời. Người nghĩ gì? Điều chắc chắn là nổi căm hờn người Pháp chúng tôi đang hừng hực dâng lên như những lớp sóng vô tận đuổi nhau ra khơi chẳng hay có về đến Tổ Quốc thiêng liêng của Người không?
Nỗi bất bình chiếm lĩnh trí óc tôi. Lòng thương vô hạn con người nhỏ bé ấy sớm bị nanh vuốt cú diều cuỗm đi xa tổ ấm, xa bầu đàn, xa những người thân càng làm tôi băn khoăn, thao thức:
- " Ta phải sửa chữa lỗi lầm này! " . Cha tôi chế nhạo tôi đến phát khóc, nhưng cũng khen tôi có trái tim vàng.
Tôi yêu cầu cha tôi đề đạt với phủ Toàn Quyền cho tôi được trông nom, săn sóc Người và đã được chấp thuận. Tôi từ bỏ ý định tiếp tục khoa luật: quanh quẩn bên con chim nhỏ bé của tôi. Buồn thay ! Con chim ấy quên tiếng hót, âm thầm như cá chép ( muet come une carpe - ngạn ngữ Pháp ), không nói năng , đòi hỏi gì. Tình trạng ấy kéo dài mấy tháng , tôi xoay xở đủ cách cũng vô hiệu.
Một buổi nào đó, trăng luồn song cửa. Ôi! Trăng kia mơ màng, ảm đạm làm sao. Tôi ngồi trước dương cầm. Xin giới thiệu , tôi là một nhạc công tồi, nhưng lúc ấy tôi cảm thấy cây đàn run run lên, dìu dặt, ai oán. Nỗi buồn lướt trên phím như tiếng nức nở của con tim, khi vút lên căm hờn sôi sục. Tôi không nhớ đã chơi bản nhạc nào, điều đó không quan trọng. Đây là khúc nhạc lòng tôi, tấm lòng vị tha đầy nỗi bất bình và thương cảm.
Tiếng đàn dứt , tôi ngoảnh lại thấy Người đứng sau tôi, cặp mắt long lanh. Tôi hỏi:
- Hoàng tử có ưa không?
Người gật đầu.
- Có thích học đàn không ?
Người lại gật đầu. Tôi sung sướng , hôn người từ đó con cá chép của tôi mở miệng. Có lẽ đó là hạnh phúc lớn nhất của đời tôi...
Vì sao Người từ bỏ ngai vàng? Nếu Người y thuận theo trở lại ngôi báu thì người Pháp chúng tôi vui mừng biết chừng nào. Vì Người được toàn dân sùng bái, toàn thể sĩ phu tôn thờ. Tôi hiểu rằng lòng yêu Tổ Quốc , yêu quê hương , yêu gia đình, yêu đồng loại cao hơn chiếc ngai vàng nhỏ bé. Tôi yêu nước Pháp Tổ Quốc tôi, nên rất trọng những người yêu mến Tổ Quốc họ ".
( Theo Những ngày cuối cùng của vua Hàm Nghi- Nguyễn Hải Âu).
Hàm Nghi (1884-1885)
Những Ngày Cuối Cùng Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Người ta quen gọi cụ là ông Hoàng An Nam ( Le prince d Annam ) . Cụ Hàm Nghi có hai gái, một trai. Cô chị Như Mân thạc sĩ canh nông, không lấy chồng để " trọn đời tưởng nhớ ba tôi " . Như Lý lấy một đại tá không quân dòng dõi Hoàng tộc Bỉ. Minh Đức là con út, đại tá chiến xa trong quân đội Pháp, khi cụ mất được gọi về. Còn hai chị ở Canne, lâu đài De Cosse, không sang chịu tang được vì Pháp đang bị Đức chiếm đóng.
Cụ tặng tôi một bức tranh thủy mạc mực Tàu có đề thơ và một thanh bảo kiếm.
Cụ quan tâm theo dõi tình hình đất nước, thường băn khoăn chưa tìm ra được kế sách giúp ích gì cho Tổ Quốc. Chưa bao giờ cụ nhắc lại quá khứ lịch sử mà chỉ hỏi tôi về đất nước, dân tình, về phong trào và triển vọng. Có lần cụ hỏi tôi về cụ Nguyễn Ái Quốc, nào tôi có biết được là bao! Cụ hỏi tôi về Bảo Đại. Tôi khá rõ Bảo Đại là tay thiện xa cưỡi ngựa, giỏi tiếng Pháp hơn tiếng mẹ đẻ và rát thạo khiêu vũ. Nghe tôi kể, cụ cười nhẹ:" Nó là con rối " . Đó là nụ cười hiếm hoi. Trong bốn năm tiếp xúc với cụ, có lẽ mới thấy cụ chỉ cười đôi ba lần, lại là cái cười châm biếm, mỉa mai ....
Cụ sống giản dị, quần áo đều tự may lấy theo kiểu cổ Việt Nam. Cụ để búi tóc củ hành cho tới khi mất. Suốt những năm tháng đó cụ quên mình trong điêu khắc, hội họa, âm nhạc. Nhiều lần triển lãm mỷ thuật họ mời cụ tham gia tác phẩm, cụ đều từ chối. Cụ soạn hoặc vẽ là để nung nấu tâm hồn u uất và thất vọng. Cụ chỉ đàn khi nào lâu đài mênh mông kia không một bóng người. Có lần tôi đến thăm thấy cụ đang say sưa đàn. Hình ảnh một cụ già rất Việt Nam thấp thoáng bên dương cầm bóng lộn khiến tôi liên tưởng đến ông nội tôi hay một cụ đồ nho khom lưng viết câu đối Tết. Tôi dốt âm nhạc, chỉ nghe thấy cây đàn khi nức nở thánh thót, khi bão bùng. Dứt tiếng đàn, cụ giang rộng hai tay đặt trên cây đàn đăm đăm suy nghĩ.
Tâm hồn cụ đang bay bổng theo tiếng đàn và đất nước quê hương chăng?
Cụ không có bạn, ít muốn tiếp xúc với ai. Một lần vợ chồng toàn quyền Catroux, lần khác tướng Givand Tổng thống lâm thời Pháp với De Gaulle, đến thăm, cụ đều thoái thác đi vắng, cho tôi thay mặt tiếp. Cụ nói :
- Họ đến với tôi vì tò mò.
Bà Foltz là người bạn duy nhất của cụ. Hình như số mệnh đã dă1t bà đến với cuộc đời ảm đạm của cụ Hàm Nghi; bà là niềm vui, là chút ánh sáng trong cuộc sống hằng ngày của cụ.
Bà Foltz kém cụ mười lăm tuổi, cháu ngoại dòng chính thống De Bourbon. Ông thân sinh ra bà là một nhân vật tăm tiếng ở Thụy Sĩ . Bà là một nhà văn. Người ta không hiểu được sức mạnh nào đã lôi cuốn bà ra khỏi chiếc lâu đài cổ kính, đồ sộ nhất Thụy Sĩ mà bà thừa kế, để sang Alger này, ngày hai buổi đến dùng trà và chăm sóc sức khỏe của cụ Hàm Nghi.
Tình yêu chăng? Tôi được bà thương yêu như con, cũng chưa bao giờ bà hé nửa lời tâm sự. Sự cách biệt về tuổi tác, nhất là lòng mến yêu của bà không cho phép tôi được nghỉ đến điều đó. Bà Foltz chỉ nói sơ qua là bà gặp cụ ở Londres và bà sang ở Alger.
Chớ đụng đến nước An Nam và người An Nam trước mặt bà ! Trong một buổi tiệc trà, mụ vợ toàn quyền Catroux muốn lấy lòng bà đã ca ngợi hết lời xứ An Nam văn minh :
- " Tôi kính cẩn nghiêng mình trước dân tộc An Nam " ( Je minchine devant la race Annamite ).
Tiệc tan, tôi nói với bà Flotz :
- Khi vợ chồng Catroux ở Đông Dương, chúng đã giết hại hàng ngàn người ".
Bà nổi giận ra lệnh ngay cho cô quản gia ( gouvernante ) Lola xóa tên mụ trong danh sách khác mời đến dự tiệc của gia đình.
Tôi không rõ được xu hướng chính trị của bà thế nào, có lẽ xu hướng duy nhất là tình người, là lòng nhân đạo, là lẽ phải ( bon sens). Bà phẫn nộ khi tôi kể lại tình cảnh sống dở , chết dở của người dân Đông Phương.Thực ra bà còn hiểu biết hơn tôi. Chính bà đã lục trong tủ sách của cụ Hàm Nghi đưa tôi cuốn Bản án thực dân Pháp ( Proces de la colonisation Française) của ông Nguyễn Ái Quốc và Đông Dương cấp cứu của bà Andrée Violla. Bà còn đưa một cuốn, không phải có phải Con Rồng Tre không, tôi đã bỏ qua không đọc, vì thấy một bản in litô nhòe nhoẹt, cho là chuyện tầm thường, chỉ nhớ mang máng ngoài bìa có một khóm tre có những chử to đậm nét như những lóng tre thôi. Nếu đúng là Con Rồng tre thì đáng tiếc vô cùng. Vào năm 1945 , bà đưa cho tôi một trang phụ lục báo đăng chi chít ảnh chụp cảnh chết đói của nước ta hồi đó. Bà hỏi tôi :
-" Anh muốn gì? Cần tiếp xúc với ai, khó khă, mấy tôi cũng làm hết mình, miển là có thể đem lại điều gì tốt lành cho đất nước anh".
( ..... )
Tôi nghĩ, chính cuộc đời sóng gió, lòng yêu nước và đức độ của cụ Hàm Nghi đã cảm hóa bà, bà đứng hẳn về phía Việt Nam, càng sâu đậm
( ......)
Cụ không còn nữa! Chỉ còn một nấm mộ hoang tận phía trời xa. Mỗi lần qua phố Hàm Nghi , tôi lại thầm ước vọng , nếu như nắm xương tàn của cụ được trở về với núi Ngự sông Hương , tưởng cũng xứng đáng và an ủi phần nào mảnh hương hồn của con người phí phách ấy
( Trích Những ngày cuối cùng của vua Hàm Nghi - Nguyễn Hải Âu )
Đồng Khánh (1885- 1888)
Sinh Hoạt Của Đồng Khánh Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Sau khi vua Hàm Nghi xuất bôn chống Pháp, triều đình Huế rối beng vì không có vua. Thống tướng De Coucey đày Nguyễm Văn Tường, Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính ra đảo Haiti; sai ông De Champeaux lên Khiêm Lăng yết kiến đức Từ Dũ, xin lập ông Chánh Mông là Kiến Giang Quận Công lên làm vua.
Ngày mồng 6 tháng 8, ông Chánh Mông phải thân hành sang bên tòa Khâm Sứ làm lễ thụ phong, rồi làm lễ tấn tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
Tương truyền khi còn là Hoàng Tử , muốn biết thời điểm nào lên ngôi và làm vua được bao lâu, hoàng tử đã khẩn cầu nữ thần Thiên Y Na ở điện Hòn Chén cho biết. Nữ thần đã đóan đúng ngày Hoàng Tử lên ngôi vua. Sau đó, Đồng Khánh đã xây cất lại ngôi đền này, đặt tên là Huệ Nam Điện.
Đồng Khánh là ông vua đầu tiên của triều Nguyễn thừa nhận nền bảo hộ của Pháp, tiếp xúc với nền văn minh Tây phương, mang huy chương Bắc Đẩu bội tinh, là người đầu tiên gửi mua hàng hóa của Pháp qua trung gian của một thương gia người Pháp ở Huế.
Ông cũng thích mua các đồ chơi do người Pháp chế tạo. Mội lần hàng về, Đồng Khánh ban một phần cho các hoàng thân, các đại thần, cung phi mỹ nữ cùng các thái giám hầu cận.
Trong sinh hoạt thường nhật, nhà vua hay chú ý đến ngoại diện, thường chăm sóc trang điểm. F . Baille kể lại trong bài " Les Annamite " như sau.
- " Hằng ngày một toán cung nữ được chọn trong tất cả đẳng cấp phục dịch Đức vua. Ba mươi người chia nhau canh gác hậu cung của Ngài, năm nàng luôn ở cạnh Ngài, luân phiên săn sóc, trang điểm cho Ngài. Các nàng thay quần áo cho Ngài, chải chuốt bộ móng tay cho dài hơn ngón tay, thoa dầu thơm, vấn khăn lụa chung quanh đầu Ngài. Sau cùng, chú ý đến từng chi tiết nhỏ nhặt quanh Ngài sao cho thật hoàn hảo; năm cung nữ này cũng kiêm lo hầu cơm nước Đức vua.
Thường nhật Ngài dùng ba lần: sáu giờ sáng, mười một giờ trưa và ba giờ chiều. Mội bữa ăn có 50 món khác nhau, do 50 đầu bếp nấu nướng cho hoàng cung. Một người lo nấu một món riêng của mình và khi chuông đổ thì trao cho đám thị vệ đưa qua đoàn thái giám. Các ông này chuyển đến năm cung nữ và chỉ có mấy nàng mới được hân hạnh quỳ gối hầu cơm Đức vua. Ngài nhấm nháp vài món ăn và uống một thứ rượu mạnh đặc biệt chế bằng hột sen và các loại cây có mùi thơm. Đức vua Đồng Khánh còn dùng rượu chát Bordeaux theo lời khuyên của các y sĩ để giúp cho tạng phủ hơi yếu.
Gạo đức vua dùng phải thật trắng và chọn lựa từng hạt, nấu trong nồi đất, mỗi lần nấu xong thì đập bỏ. Đũa vua dùng vót bằng tre vừa mới trổ đủ lá và thay đổ hằng ngày. Loại đủa ngà không tiện dụng vì hơi nặng với tay nhà vua. Số lượng gạo phải được xem kỷ và nấu thật đúng , không bao giờ nhiều hay ít hơn, nếu Đức vua không ăn như ngày thường, nếu ngày thấy không ngon miệng thì Ngài gọi các viên Ngự Y đến xem mạch bốc thuốc. Ngài bắt các y sĩ uống thuốc trước mặt Ngài ".
Đồng Khánh (1885- 1888)
Đồng Khánh Xem Diễn Tuồng
Một Cảnh Tiếp Đón Phái Điàn Pháp Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
ĐỒNG KHÁNH XEM DIỄN TUỒNG
Cuộc vui trong Hoàng Cung thường là diễn tuồng ở Duyệt Thị Đường. Từ vua Tự Đức trở về trước, nhà vua chỉ xem diễn tuồng với các đại thần hoặc cung phi; đến khi vua Đồng Khánh lên ngôi , có thêm các quan Pháp, cũng được mời xem. Đây là quang cảnh một buổi diễn tuồng dưới triều Đồng Khánh do F. Baille kể lại:
- " Cuộc vui được chọn diễn trong diễn Hoàng Cung để hầu Đức Vua thường là hát bội . Người ta trang hoàng một gian phòng thật rộng hình vuông, ba phía bỏ trống giữa có nhiều bàn dài trải vải đỏ để tiếp khách; trên có trái cây và bánh gói giấy đủ màu, hình dáng kỳ lạ, ly tách để các thị vệ rót rượu bia, nước trà. Đức vua ngồi trên ngai b vàng riêng biệt đặt trên cái bục khá cao trước mặt có một cái bàn để tách và hộp đựng đường làm bằng ngọc thạch, một cái mâm nhỏ có vành cao tuyệt khéo đựng những món đồ dùng của Ngài mà đi đâu Ngài đem theo. Một túi vải nhỏ đựng đầy thuốc điếu dài và nhỏ, một đồng hồ báo thức bằng vàng, vài món nữ trang, dầu thơm, bình xịt dầu, một cái gương nhỏ...tất cả đồ lễ của một ông vua ở Á Đông mới quen với nền văn minh của chúng ta.
Bên mặt và bên trái của Ngài, ông Thống Sứ và Tướng chỉ huy quân đội ngồi trên ghế riêng rẽ. Phía sau có treo một bức sáo đan thưa, người đứng có thể nhìn qua kẽ hở. Chúng tôi nghe được cả tiếng nói thì thầm của mấy nàng cung nữ hầu vua ( ....)
Đức vua vừa ngự trên long ỷ thì dàn nhạc giáo đầu gồm lối hai mươi nhạc sĩ ngồi xổm đánh trống, gảy đàn, thổi kèn tạo thành một giai điệu triền miên và ỉnh tai. Trước mặt n họ có một cái trống lớn, đúng ra là một cái thùng to. Một vị quan lớn ngồi sau trống. Chúng tôi nhận thấylà nhạc phụ của Đức Vua , quan kinh lược ở Bắc kỳ. Mỗi khi nghệ sỹ khéo trình diễn, thì ông đánh hai hay ba tiếng trống, mỗi tiếng tiêu biểu một số tiền biếu tặng diễn viên.
Các đào kép trong vở tuồng ăn mặc chững chạc ra sân khấu lạy chào Đức vua, đoạn đưa ra nhiều mảnh vải thêu những chữ nho lớn tỏ lòng tôn kính và chúc Đức vua sống lâu. Một diễn viên khác lược thuật vỡ tuồng với giọng chát chúa, tiếp đến là bắt đầu xuất hát mà người ta không biết chắc chừng nào chấm dứt .... "
Vì thích xem hát bội, vua Đồng Khánh đặt tên cho những cung nữ của mình theo tên các nhân vật trong vở Vạn Bửu Trình Tường, như Đại Hoàng , Nhân Sâm, Cam Thảo..v..v..
Đây là vở ông đặc biệt yêu thích, các nhân vật lấy tên các vị thuốc mà đặt.
( Theo Les Annamites - F - Bailler và sử tích . Và nghệ thuật hát bộ - Đoàn Nồng )
MỘT CẢNH TIẾP ĐÓN PHÁI ĐÒAN PHÁP
Khác với các vua Minh Mạng, Thiệu Trị, Tự Đức cố tìm cách xa lánh người Pháp, vua Đồng Khánh lại cố thắt chặt tình thân hữu. Thỉnh thoảng ông mời các vị đại diện Pháp vào Đại Nội dự yến hay xem hát tuồng.
Một sự thay đổi về cung cách tiếp đón phái đoàn ngoại giao Pháp dưới triều Đồng Khánh là phái đoàn được đi cửa giữa Ngọ Môn, kể cả viên Khâm Sứ lẫn đoàn tùy tùng. Đây là một sự kiện chưa bao giờ có từ triều Tự Đức trở về trước. Các quan Pháp, dù lớn đến bực nào, hễ vào đại Nội, là phải đi cửa bên, vì chỉ có vua mới đi cửa giữa. Lúc phái đoàn ngoại quốc vào điện, vua vẫn chễm chệ ngồi trên ngai vàng, việc đón tiếp đã có hoàng thân, bá quan văn võ đảm trách. Qua triều Đồng Khánh, có sự thay đổi khác biệt. Lúc quan khách ngoại quốc đến cửa Ngọ Môn, các hoàng thân, các viên Đại thần mặc áo đại triều, mang hia, đội mũ đứng chực sẵn để tiếp đón. Các hoàng thân, các vị đại thần đều đứng trong điện Thái Hòa, còn bá quan theo phẩm trật nhỏ không được tham dự.
Từ cửa Ngọ Môn, phái đoàn tiếp tân đưa viên Khâm Sứ và đoàn tùy tùng vào trong điện. Vua Đồng Khánh ngồi trên ngai đặt tận trong cùng sau lưng có mấy thị vệ phe phẩy quạt hầu.
Ông bước xuống ngai, nói mấy câu hàn huyên và nghe mấy câu chúc từ của đại diện Pháp rồi trả lời lại, tiếng nói rất nhỏ ( vì theo đúng nghi thức tiếng nói của bậc Đế Vương bao giờ cũng nhỏ). Một viên quan ngự tiền dịch ra tiếng Pháp.
Vua Đồng Khánh mời quan khách qua điện Càn Thành để dùng trà. Nhà vua mặc áo hoàng bào thêu rồng chạy chỉ vàng đính châu ngọc. Chiếc áo khá nặng nên đi mỗi bước phải có thái giám chạy theo nâng vạt áo trước lên ( cũng nên biết thêm là những lúc đáp thăm tại tòa Khâm Sứ, trên hai bên vai áo vua còn cài thêm hai cái ngủ đúc thành hình con rồng bằng vàng đặc). Tiếp theo vua là quan Khâm Sứ, đoàn tùy tùng và quan lại. Sau đó là một ban nhạc, vừa đi vừa cử nhạc...
( Theo Bửu Kê )
Đồng Khánh (1885- 1888)
Những Điều Huyền Bí Ám Ảnh Suốt Cuộc Đời Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vị nữ thần đền Ngọc Trản đã tiên đoán đúng ngày Đồng Khánh lên ngôi, nên nhà vua rất lo sợ khi nghỉ đến lời của thần báo cho biết mình chỉ làm vua được 3 năm.
Hẳn nhà vua muốn kéo dài tuổi thọ, thay đổi cơ trời nên rất thích đọc các sách về Kinh Dịch, bói toán, tìm hiểu những điều huyền bí. Với một ông vua còn trai trẻ như vậy ( 22 tuổi) cũng là một điều hiếm!
Nhà vua thường lên đền Ngọc Trản ( điện Hòn Chén ) cầu bái, lại sắc cho bộ Lễ, mỗi năm hai kỳ ( mùa Xuân và mùa Thu) phải cử một vị quan đại diện triều đình đến nơi để dâng đồ lễ.
Những bức hoành, bức liễn, những bài thơ treo trong đền thờ, một phần lớn do Đồng Khánh sáng tác để ca tụng công đức Nữ Thần che chở cho ngai vàng và bảo vệ dân chúng; tên Huệ Nam Điện do ông đặt cũng phát sinh từ ý đồ ấy.
Tuy vua rất sợ ngày kết cục cuộc sống đời mình, nhưng rồi ngày ấy cũng vẫn đến. Nữ thần đã đoán đúng. Sau 3 năm trị vì, Đồng Khánh nhuốm bệnh nặng, không ăn được thứ gì cả. Thỉnh thoảng cơn sốt nổi lên, đầu nhà vua nhức như búa bổ. Quan Ngự Y người Việt không chữa được, kẻ bị quở trách, kẻ bị giam cầm. Vua nhờ bác sĩ Pháp. Ông Cotte được cử sang chữa trị, nhưng không được ở lại trong cung, chỉ dặn dò các viên thái giám cách pha chế thuốc rồi phải ra về. Sau nửa tháng nhuốm bệnh, ông qua đời vào lúc 8 giờ tối ngày 28 tháng Giêng năm 1889. Theo nhiều người thuật lại, nhà vua bị ám ảnh bởi cái chết của Phan Đình Bình, vị đại thần có ý tôn Bửu Lân lên sau khi Hàm Nghi rời bỏ ngai vàng, nên trong khi nhuốm bệnh, thường la hét vì ác mộng.
Đồng Khánh qua đời, để lại hơn 10 bà phi, nhưng chỉ có 6 hoàng tử và 3 công chúa, thọ 25 tuổi.
Thành Thái (1889-1907)
Thành Thái Bất Ngờ Được Lên Ngôi Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vua Đồng Khánh thăng hà vào lúc năm cùng tháng tận, làm triều đình hết sức bối rối. Việc lựa người nối ngôi cần phải nhanh chóng để Tân Xuân cho có Tân Quân.
Việc Hoàng Tử Bửu Lân được tôn lên ngôi do một nguyên cớ như sau:
Viện Cơ Mật không dám tự tiện lựa chọn Tân Quân nên mới cùng nhau sang Tòa Khâm Sứ để hỏi ý kiến. Các quan hỏi ông Khâm Sứ rằng:
-" Hiện nay vua Đồng Khánh đã thăng hà, theo ý của quý Khâm Sứ thì nên chọn ai lên kế vị? ".
Nhưng ông Diệp Văn Cương, nhân viên tỏa khâm, lại dịch rằng:
- " Nay vua Đồng Khánh đã thăng hà, Lưỡng Tôn Cung cùng Cơ Mật đều đồng lòng chọn hoàng tử Bửu Lân lên ngôi, không biết ý kiến quý Khâm Sứ thế nào?.
Nghe thế, ông Khâm Sứ đáp:
- " Nếu Lưỡng Tôn Cung và Cơ Mật đã đồng ý chọn hoàng tử Bửu Lân thế tôi cũng xin tán thành " .
Câu này ông Cương cũng dịch ra một cách khác:
- " Theo tôi, thì các quan Cơ Mật nên chọn hoàng tử Bửu Lân là hợp hơn ca.
Thế rồi các quan Viện Cơ mật vâng lời ra về, liền đi rước hoàng tử Bửu Lân ( tức vua Thành Thái sau này) .
Có sự sắp đặt trên do ông Diệp Văn Cương chồng là bà Công Nữ Thiện Niệm, con gái Thoại Thái Vương . Bà Thiện Niệm là cô ruột của vua Thành Thái.
Hoàng Tử Bửu Lân theo mẹ là bà Từ Minh Huệ Hoàng hậu Phan thị Điều về quê ngoại khi vua Dục Đức còn sinh thời. Đến năm Đống Khánh thứ 3 ( 1888) thì theo mẹ vào ở Thành Nội lo việc hương khói ở nhà thờ của vua Dục Đức.
Lúc triều thần về đến nhà để rước hoàng tử vào cung thì bà Từ Minh đi vắng. Hoàng tử tỏ vẽ lo sợ, hỏi :
- Các ông đến đây làm chi? Đến để bắt tôi mà trị tội à? Các ông muốn làm gì thì làm nhưng hãy đợi á ( mẹ) tôi về đã ".
Đến khi bà Từ Minh về, nghe các quan xin rước hoàng tử vào cung để tôn lên ngôi vua thì bà khóc, vì lo sợ cho tính mạng của hoàng tử khi ở ngôi vua. Thảm cảnh của chồng chết vì đói khát trong ngục, sau đó là hai vua Hiệp Hòa, Kiến Phúc, còn vua Hàm Nghi đang bị lưu đày, vẫn còn ám ảnh bà. Bà cố chối từ, nhưng các quan cam kết là không có việc gì đáng phải lo ngại, Lưỡng Tôn Cung. Cơ Mật Viện và ông Khâm Sứ đã đồng lòng chọn hoàng tử lên kế vị vua Đồng Khánh . Bà Từ Minh khi ấy mới yên lòng.
Thế là hoàng tử Bửu Lân được rước vào Đại Nội chuẩn bị làm lễ đăng quang.
Thành Thái (1889-1907)
Lễ Tấn Tôn Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Hoàng tử Bửu Lân tuy mới 10 tuổi, nhưng cao lớn, mạnh khỏe, nước da ngâm ngâm đen, mắt linh lợi thông minh, đã biết giữ ý tứ. Một ông thị vệ rót nước mời, hoàng tử chỉ nhìn mà không uống. Biết ý, vị quan này hớp trước một ngụm, khi đó hoàng tử mới chịu uống.
Ngày mồng một Tết ( 31 - 12 - 1889 ) . Triều đình làm lễ chính thức tôn hoàng tử Bửu Lân lên địa vị Tân Quân
Vua Thành Thái ngồi trên ngai, chung quanh có hoàng thân, văn võ đình thần đứng chầu. Lúc các viên chức Pháp đến, vua ra khỏi điện, bước xuống gần để nghênh tiếp.
Vua mặc áo xanh, bịt khăn, đóng. Khi các viên chức Pháp đến, vua mới từ ngai vàng bước xuống, ra khỏi điện nghênh tiếp, có viên thái giám v cầm quạt lông theo hầu. Dáng điệu nhà vua đã tỏ ra người lớn.
Mồng hai Tết mới chính thức làm lễ đăng quang.
Sau khi một viên quan xướng " trung nghiêm ngoại chỉnh" vua Thành Thái đội mũ cửu long, mặc hoàng bào, mang đai ngọc, tay cầm trấn khuê ( 1 ) từ điện Cần Chánh bước lên kiệu, có quan quân theo hầu, ngự ra điện Thái hòa.
Mặc dù có một viên thái giám đi trước, hai tay nâng vạt áo lên, nhưng vì chiếc áo quá nặng, nhà vua bé nhỏ phải bước từng bước thật khó khăn.
Sau khi bắt tay viên Tổng Trú Sứ và những người tháp tùng, nhọc nhằn lắm vua mới leo lên được mấy tầng cấp để ngồi vào ngai vàng. Một viên quan xông trầm hương ngào ngạt. Bên ngoài 21 tiếng súng lệnh nổ vang, báo hiệu khởi sự lễ đăng quang.
Rheinard đọc chúc từ. Vua bước xuống ngai đứng nghe, đoạn đáp từ bằng chữ Hán viết vào thẻ ngà, giọng sang sảng giữa điện rồng.
( Miếng ngọc rồng bằng hai ngón tay, dài chừng hai tấc )
Thành Thái (1889-1907)
Các Cuộc Vi Hành Kỳ Lạ Của Thành Thái Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vốn sẵn thông minh, từ nhỏ đã sống chan hòa với nhân dân lao động nên nhà vua có ý thức dân chủ, muốn chia sẻ gian khổ với những lớp người cùng bần trong xã hội, muốn hiểu biết những tâm tư, tình cảm của họ, do vậy nhà vua thường vi hành, có khi lợa hóa trang đủ cách để được tự do đi lại.
Có lần vua Thành Thái đi bách bộ trên cầu Gia Hội, gặp một người vác mấy cây tre, lính vội chạy lên dẹp đường. Nhà vua bảo:
- Mình dân không phải là dân, vua không phải là vua, tại sao dẹp người ta làm chi? "
Vua Thành Thái thường đi bắn ở Cổ Bị cách Huế 30 cây số ), hay ghé chơi các làng dọc bờ sông Bồ. Vào làng vua thường cho trải chiếu ngồi giữa đất. Thế là dân làng vây quanh để xem mặt vua. Nhà vua hỏi dân muốn xem chi, dân chỉ nói muốn xem bắn, nhà vua bắn cho họ xem.
Lại có lúc nhà vua cải trang một người ăn mày và thực hành nghề nghiệp ấy. Ai cho gì, nhà vua cũng nhận. Chắc nhà vua muốn " thử chơi cho biết " để hiểu sâu sắc hơn nỗi đau trần thế!
Nhưng có lẽ cuộc vi hành thú vị nhất là nhà vua cải trang thành một thư sinh nho nhã lên Kim Long chơi. Sau khi thăm đủ nơi chốn trên vùng đất thanh lịch này, ông cùng với mấy người tùy tùng bước xuống bến Đò. Bỗng thấy cô lái đó xinh đẹp, nhà vua xuống gợi chuyện. Đò mới ra bến, nhă vua ỡm ờ hỏi cô gâi:
- " Này, có ưng làm vợ vua không? ".
Ngây thơ chẳng biết đó là vua cải trang, nàng nửa đùa nửa thật đánh bạo nói : " Ưng " .
Thế là nhà vua đứng dậy cầm tay nàng kéo ra mũi thuyền, bước nhanh ra sau đò cầm lái , giành lấy tay chèo từ tay người đẹp, đích thân chèo cho đò xuôi dòng Hương từ Kim Long đến bến Nghinh Lương trước Phu Vân Lâu. Đò cặp bến, nhà vua rước nàng " đưa em vào Nội ", thể theo lời nguyện ước của nàng.
Thật là một lối tuyển cung phi mới lạ! Chỉ có vua Thành Thái mới có sáng kiến ấy. Câu ca dao:
Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm thương, Trẫm nhớ Trẫm liều Trẫm đi
hẳn xuất phát từ giai thọai này.
Thành Thái (1889-1907)
Câu Nói Đùa Tai Hại
Đoàn Nữ Binh Trong Đại Nội Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
CÂU NÓI ĐÙA TAI HẠI
Trong Đại Nội, nhà vua thường xem tuồng ở Duyệt Thị Đường. Chính Thành Thái là một tay đánh trống tuồng giỏi và ưa diễn tuồng . Nhà vua đã từng đóng vai Thạch Giải Trại trong vở Xảo Tống.
Có lần nghe đồn có một tay đánh trống tuồng cừ khôi nhà vua triệu ngay vào cung, bảo
biểu diễn cho vua xem. sau khi nghe xong, vua ban thưởng ngay và thú nhận với đình thần là tài năng tên này hơn cả mình . Sau đó, nhà vua vỗ tvai người đánh trống nói đùa:
- Ta phục tài đánh trống của ngươi lắm, ta thường cho ba lạng bạc. Nhưng có một điều người cần sửa là trong khi đánh trống , nhà ngươi có tật lúc lắc cái đầu trông xấu lắm. sau thánh sáu, ngươi trở lại đây biểu diễn, nếu lúc đó cái đầu nhà ngươi vẫn còn lúc lắc, thì ta mượn nó đấy.
Kể từ đó, ngày nào tay trống ấy cũng luyện tập, nhưng tật lúc lắc đầu vẫn không bỏ được. Anh ta quá lo sợ nên nhuốm bệnh nặng rồi chết.
Nghe tin ấy, vua Thành Thái rất thương tiếc một tài năng nghệ thuật và hồi hận vì câu nói vô tình của mình. Nhà vua liền lệnh cho bộ Lễ ban phát cho gia đình người đánhtrống một số tiền bạc lớn để tống táng người chết và mưu sinh cho người thân còn
sống.
( Theo Hoàng Trọng Thược )
ĐÒAN NỮ BINH TRONG ĐI NỘI
Ngấm ngầm chống Pháp, vua Thành thái huấn luyện một đoàn lính nhưng toàn là nữ . Chẳng hiểu đoàn nữ binh này tài giỏi hơn nam binh ở điểm nào, nhưng có lẽ vua Thành Thái muốn che dấu việc huấn luyện quân ssự của mình nên mới có sáng kiến trên.
Nhà vua tự bỏ tiền ra để tuyển mộ nữ binh cho ăn mặc áo quần theo kiểu riêng, hằng ngày chăm lo luyện tập quân sự một cách bí mật.
Việc tuyển mộ cũng diễn ra một cách bí mật. Nhà vua cho lính cận vệ thân tín đến tiếp xúc với họ và gia đình. Nếu được chấp thuận, vua cho " dàn cảnh " bắt cóc, bằng cách hẹn ngày giờ và địa điểm gặp gở, rồi lính cận vệ, hoặc chính nhà vua đem xe song mã đến đón họ và đưa vào cung cấm. Một đội nữ binh gồm 50 người. Sau khi luyện tập quân sự đã thành thục, 50 nữ binhấy được giao trả về gia đình, đợi khi cần thì nhập ngũ chống Pháp, sau đó tuyển thêm 50 nữ binh mới.
Để bảo mật, các cô gái bị " bắt cóc" thường được đưa vào Tử Cấm Thành bằng cửa Hữu của Thành Nội, gần làng Kim Long, vì con đường chạy dọc theo bên ngoài Hoàng Thành dẫn đến cửa Hữu rất vắng vẻ vào ban đêm, hai bên đường lại không có nhà cửa của dân chúng. Cũng vì vậy mà các cô gái ở làng này được tuyển mộ ưu tiên nhiều n hơn cả.
Lý do thứ hai là các cô gái làng An Ninh ( giáp Kim Long ) được tuyển hầu hết là thợ dệt vải ( vải An Ninh rất nổi tiếng ) nên vua Thành thái cho tổ chức ở Đại Nội các chợ bán vải do các nữ binh ấy dệt trong Đại Nội. Như vậy một mặt dễ dàng lừa thực dân , mặt khác để cho nữ binh của vua có công việc mà trang trải chi phí
Nhưng việc làm của vua lâu ngày cũng bị mộ, do Thượng Thư bộ Lại Trương Như Cương cầm đầu Viện Cơ Mật theo dõi sát, mách lại với Khâm Sứ Pháp nhằm lật đổ vua Thành thái để đưa con rể mình là Bửu Đảo ( Khải Định sau này ) lên làm vua.