Truyện 28
Tìm được bạn thơ rượu trong trường thi
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Nguyễn Hàm Ninh tuy hồi ấy phẩm hàm còn nhỏ, nhưng là kẻ bầy tôi phẩm hạnh nhất của vua Minh Mạng. Lúc tiễn Nguyễn đi Hà Nội chấm thi (khoa Ất Dậu 1825), Tùng Thiện Vương con thứ mười của Minh Mạng có tặng một câu thơ:
"Thảng ước lương viên tích du lữ,
Giang sơn xứ xứ hữu đề danh".
Nghĩa là "Nếu nhớ đến những bạn thơ rượu ngày xưa vui chơi với nhau ở vườn Lương Viên thì trong đất nước ta đâu đâu cũng có người thi đỗ", đại ý nói rằng hễ gặp ai hay thơ hay rượu trong đám sĩ tử ứng thi khoa này thì nên lấy đỗ để đem về Kinh cùng nhau chén tạc chén thù câu xướng câu họa cho vui.
Khoa ấy sĩ tử Hà Nội có một người thi cử hoài không đỗ vì tội quen viết chữ thảo, không đúng trường qui. Nếu phải ngồi viết cho chân phương đúng thể lệ thì hết giờ, vì thế mà thi hoài không đỗ. Anh đã định không thèm thi cử nữa, nhưng người đời gièm pha cho rằng nhà anh phúc bạc nên đến khoa Ất Dậu anh quyết tâm thi cho đậu.
Anh vào trường cắm trại vừa ngồi uống rượu vừa ung dung viết bài, viết một cách thong thả kỹ lưỡng. Viết xong nghe trống đánh nộp quyển anh cũng không nộp, khi mọi người nộp quyển xong ra khỏi trường anh vẫn nằm ôm quyển, mỉm cười tự bảo mình:
"Ta cứ nằm yên chắc chi cũng có người tới nhận quyển cho ta!".
Chiều hôm ấy, sau khi các thí sinh đã về hết, quan giám sát đi hết các vi trong trường xem còn ai lảng vảng đấy nữa không? Chợt thấy một người đang nằm ôm quyển rên hư hử, quan giám sát liền đến dắt đưa về nhà thập đạo đang có đủ mặt các quan trường. Hỏi ra mới người ấy tên là Nguyễn Văn Siêu, quê ở Sơn Tây, viết bài xong thì bị ngộ gió đau bụng không đi nộp quyển được, đành xin chịu hỏng, không hề trách gì phận, giận gì duyên. Nghe thế Nguyễn Hàm Ninh, nhớ lời dặn của Tùng Thiện Vương nhảy ra xin nhận quyển cho Nguyễn Văn Siêu. Hàm Ninh nói với Siêu:
- "Anh là Nguyễn mà tôi đang tìm đây!"
Bài của Nguyễn Văn Siêu rất giỏi đáng lẽ phải được xếp đỗ giải nguyên, nhưng vì chữ viết ngượng ngập không đều nên phải sếp xuống Á nguyên (nghĩa là đỗ cử nhân thứ hai). Năm sau Nguyễn Văn Siêu vào Huế thi Hội, Nguyễn Hàm Ninh đã đón về chơi nhà Tùng Thiện Vương và báo cho Vương biết Nguyễn Hàm Ninh đã hoàn thành hai sứ mạng mà Vương đã ủy thác cho mình, tình bạn của những người nổi tiếng thơ văn bắt đầu từ ấy.
Nguyễn Văn Siêu và Tùng Thiên Vương là hai trong bốn người văn tài quán thế, được vua Tự Đức nhắc đến trong câu thơ:
"Văn như Siêu Quát vô Tiền Hán,
Thi đáo Tùng, Tuy thất Thịnh Đường".
Vào một buổi sáng yên ắng dưới thời Tự Đức, trống Đăng Văn (nơi đặc Tỳ Bà Viện hiện nay) bỗng nổi lên ba tiếng thật mạnh rồi kéo theo một hội giục giã rộn ràng. Sống ở Kinh thành người dân cấm không được đánh trống để cho nhà vua dự trong Đại Nội khỏi nghe nhầm với trống Đăng Văn. Mỗi lần nghe trống giục trong Thành ra đến ngoài phố ai ai cũng cảm thấy rợn người và thốt lên:
- Ôi lại có người bị Oan đang đến xin minh oan!
Trống Đăng Văn treo ở ty Tam pháp - một cơ quan gồm đại diện bộ Hình, Viện Đô Sát và Đại Lý Tự chuyên nhận đơn khiếu nại cua những người bị bộ máy nhà nước xử oan. Ty chỉ làm việc ba ngày trong một tháng (ngày 6, 16 và 26). Hôm ấy không phải ngày họp nên người thường trực của ty liền ra "tiếp dân". Vào phòng treo trống người thường trực thấy một người đàn bà nước mắt sụt sùi trên đầu đội một lá đơn miệng không ngớt kêu van:
- Bẩm lạy ba toà quan lớn! Bẩm lại ba tòa...!
Người thường trực gặn hỏi thì được biết người đàn bà ấy tên Nguyễn Thị Tồn vợ thủ khoa Bùi Hữu Nghĩa vừa chèo ghe bầu từ Nam Bộ ra xin minh oan cho chồng. Theo lệ thường, bà Tồn bị trói ngay, và trong lúc lá đơn của bà đệ lên được vua châu phê thì bà bị nhốt vào một nơi đã quy định để đề phòng chuyện chồng bà có tội mà vẫn đến kêu oan làm rối loạn chốn triều nghi.
Đọc lá đơn vua Tự Đức biết có người đang bị trói ngồi chờ minh oan nên ông phê ngay và cho trực thần chuyển xuống Ty Tam Pháp kịp thời xét nghị.
Nội vụ được kể đàu đuôi ra sau:
Bùi Hữu Nghĩa là thủ khoa trường Gia Định khoá năm 1835, năm 1836 ông ra Huế thi Hội nhưng không đỗ ông lui về làm tri phủ Phước Long(Biên Hoà). Vốn là một nhà nho liêm khiết, trung thực, ông không chịu luồn cúi và tư vị một người nào. Bọn con ông cháu cha ỷ lại quyền thế hà hiếp nhân dân thường bị Ông trừng tri đích đáng. Lúc bấy giờ có tên em vợ của bộ chánh Truyện hay hống hách, ông cũng không nể nang. Một hôm nhân một cử chỉ vô lễ của hắn ông cho lính đánh một trận nên thân. Như thế cũng chưa vừa, ông đánh thêm năm roi nữa để gửi về phụ huynh cảnh cáo hành vi không biết dạy con cái. Bố chánh Truyện cảm thấy tri phủ Bùi làm thế là dằn mặt mình, hắn giận lắm và quyết tâm trả thù cho thật đã đời.
Thế rồi cơ hội để bố chánh Truyện được hả giận đã đến. Nguyên địa phương của tri phủ phụ trách có rạch Lang Thé thuộc đất Trà Vang - nơi vua Thế Tổ lúc bị quân Tây Sơn đuổi chạy đã đến ẩn và được địa phương che chở nuôi sống. Khi thành công lên ngôi nhà vua nhớ ơn xưa đã tha thuế rạch Lang Thé cho dân địa phương. Quyền lợi đó được duy trì qua nhiều đời. Đến đời Tự Đức bọn Hoa kiều thấy nguồn lợi lớn liền đem tiền đút lót cho tổng đốc Uyển và Bố Chánh Truyện để được độc quyền đắp đập khai thác. Bị cướp mất nguồn sống, dân địa phương thảo đơn kiện lên cửa phủ Phước Long. Bùi Hữu Nghĩa nghị xét và trong một buổi nói chuyện với dân, ông có bảo:
- Rạch Lang Thé vua Thế Tổ cho các ngươi không lấy thuế, các ngươi cứ giữ lấy. Nay có ai lớn hơn vua Thế Tổ phê giấy bán rạch ấy thì các ngươi hãy cam chịu. Con nếu ai nhỏ hơn vua đứng ra phê giấy bán rạch ấy thì có chem đầu nó cũng không sao!
Được tri phủ đứng về phía mình, nhân dân địa phương nổi lên chống người Hoa kiều vừa đến chiếm rạch Lang Thé. Hai bên giành nhau, tám người Hoa kiều bị đánh chết. Nhiều người dân bị bắt khai rằng sở dĩ có cuộc tranh đấu ấy vì lời xữ của tri phủ Bùi. Bố chánh Truyên căn cứ vào đó cho lính bắt đóng gông Bùi Hữu Nghĩa và giải về Gia Định. Tổng đốc Uyển và Bố chánh Truyện cò dâng sớ về Kinh đô buộc cho Bùi vao tội chết vì đã kích dân làm loạn và giết người.
Đứng trước nỗi oan của chồng, bà Nguyễn Thị Tồn không ngại đường xa nguy hiểm chèo ghe bầu ea Huế đánh trống Đăng Văn để xin minh xét cho chồng.
Khi sự thực được phanh phui, vua Tự Đức phê: "Tha tội tử hình cho Bùi Hữu Nghĩa, song phải quân tiền hiệu lực, lập công chuộc tội".
Nghe có người đàn bà thương chồng đến thế, bà Từ Dũ - mẹ vua Tự Đức - cho người mời bà thủ khoa vào Nội khen ngợi và ban cho một tấm biển đề "Liệt phụ khả gia".
Cứu được chồng bà thủ khoa chèo đò trở lại quê nhà. Ít lâu sau, có lẽ vì mệt nhọc sau một chuyến đi dài trên biển, bà thủ khoa ngoa. bịnh và mất ở Biên Hoà. Ở xa nghe tin Vợ mất ông Bùi Hữu Nghĩa rất đau khổ. Hôm về nhà ông làm một bài văn tế, trong bài văn có mấy câu nhắc đến sự việc bà thủ khoa đã ra đến Huế đánh trống Đăng Văn để kêu oan cho ông.
"Nơi kinh quốc mấy hồi trống dóng, biên bạch này, oan ức nọ, đấng hiền lương mắt thấy hẳn đau lòng;
Chốn tỉnh đường một tiếng thét vang, hẳn hòi lẽ chánh lời nghiêm, lũ bằng đằng tay nghe đều mất vía".
Truyện 30
Trước mặt vua chê vua khù khờ mà không bị phạt
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Tự Đức là một ông vua hay chữ, giỏi thơ và tự cho mình là giỏi hơn thiên hạ. Không hiểu thế nào, trong một buổi họp các quan, nhà vuavui cười kể lại rằng:
- Đêm qua Trẫm nằm chiêm bao thấy mình bật ngâm hai câu thơ, thơ là chữ Hán nhưng cứ mỗi câu lại chen vào hai chữ tiếng nôm thật lạ lùng. Nhà vua ngâm:
"Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm rơi".
Nghĩa là:
Trong vườn tiếng oanh hót khề khà,
ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
Các quan bàn tán khen ngợi hai câu thơ ấy lạ thật, Chu Thần Cao Bá Quát thấy đó là một dịp trêu vua Tự Đức chơi, ông bèn tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, hai câu thơ ấy không có gì lạ. Đó là hai câu tam tứ trong một bài thơ mà hạ thần đã được nghe. Vua Tự Đức hỏi toàn bài thơ như thế nào. Chu Thần liền ứng khẩu đọc ngay:
"Bảo mã tây phong huếch hoác lạt,
Huênh hoang nhân tự thác đề hồi.
Viên trung oanh chuyển khề khà ngữ,
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai.
Xuân nhập bất văn sương lộp bộp,
Thu thiên chỉ kiến vũ bài nhà.
Khù khờ thi tứ đa nhân thức,
Khệnh khạng tương lai vấn lú tài".
Nghĩa là:
"Ngựa báu theo gió tây huếch hoác lại,
Huênh hoang người tự theo về.
Trong vườn tiếng oanh hót khề khà,
Ngoài đồng hoa đào nở lấm tấm.
Ngày xuân chẳng thấy sương xuân rơi lộp bộp,
Trời thu chỉ thấy mưa bài nhài.
Khù khờ câu thơ đã nhiều người biết,
Còn khệng khạng đem hỏi các nhà văn học".
Quả thật Chu Thần đã bịa ra bài thơ này để trêu chọc vua Tự Đức chơi, nhất là hai câu cuối, cái ý ngạo mạn của ông bộc lộ không cần che giấu. Nhà vua biết mình bị trêu chọc ức lắm, nhưng ông không có bằng chứng gì để quở phạt Chu Thần được, ngược lại ông cũng phải băm bụng khen cái tài biện bác của Chu Thần.
Truyện 31
Từ "Khuê phụ thán" đến "Tiếng gọi bên trời"
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Báo Nam Phong (tập IV, số 21, tr. 229-230) đăng mười bài thơ Khuê Phụ Thán với tên tác giả là Nguyễn Thịï Phi (Do Phan Sơn Đại sao lục) đã làm cho người đọc hết sức cảm động. Tác giả "Nữ Lưu Văn Học" là ông Sở Cuồng Lê Dư (tr. 60-63) cho rằng mười bài thơ này là nỗi lòng của bà Nguyễn Hoàng Phi - một trong những bà phi vợ vua Thành Thái, đối với người chồng vì yêu nước mà bị lưu đày. Nhưng thực sự có đúng như thế không?
Lúc ấy ở Huế còn nhiều bà phi vợ vua Thành Thái người ta đã đến hỏi thì được biết cũng có nhiều bàgiỏi thơ văn nhưng họ thích làm thơ chữ Hán chứ không có ai giỏi thơ nôm đến có thể sáng tác được mười bài thơ trên. Như thế rõ ràng đã có một nhàyêu nước nào đó đã mượn hoàn cảnh và tâm sự gia đình ông vua yêu nước Thành Thái để tỏ chí mình. Vậy người ấy là ai?
Có người mách với nhà thơ Vân Đài rằng tên tác giả mười bài thơ Khuê Phụ Thán là một nhà thơ xứ Huế tên thật là Phang Quốc Quang hiệu là Thượng Tân Thị, sinh năm 1880, cụ đã vào miền Nam sau khi vua Thành Thái bị đày, và đến dạy học ở xã Tam Bình, quận Tùng Liên tĩnh Vĩnh Long (cũ). Vào Khoảng năm 1943, chị Vân Đài đã tìm đến thăm Thượng Tân Thị, hỏi về mười bài Khuê Phụ Thán. Cụ Thượng Tân Thị phàn nàn rằng:
- "Nếu tôi biết sự thể ra như ri thì tôi không cho con tôi (tức là Phan Đại Sơn) đăng báo làm chi! bây chừ người ta cứ lôi tên tuổi mình ra người ta hỏi, mà mình thì không muốn trả lời!"
Chị Vân Đài:
- "Cũng tại cụ khi cho đăng lên báo cụ không để tên thật của cụ, lại để tên Nguyễn Thị Phi nên người đời lầm tưởng là phải!"
Thượng Tân Thị:
- Với tui mười bài thơ Khuê Phụ Thán này ra đời, chẳng qua chỉ là một lúc cảm cái thân thế vô duyên của kẻ cùng đồ, nên mượn cảnh mượn tình một hoàng phi thất thế để để nói tâm sự mình. Tui không dè người đời lại để ý đến. Ba chữ Nguyễn Thị Phi tức là một bà phi nhà họ Nguyễn chớ không có chi khó hiểu. Vậy mà có người nghĩ là Nguyễn Thị Phi. Nguyên văn của tôi cũng có chỗ in sai lạc đi, như câu:
Ướm hỏi từ đây qua tới đó,
Đường đi non nước độ bao dài...
Người ta cứ in lầm là "bao đài".
Hôm ấy Thượng Tân Thị đã cho chị Vân Đài xem thêm một số tác phẩm của ông.
Sau khi từ giả Thượng Tân Thị, chị Vân Đài về khách sạn ở lại và đã làm 10 bài thơ họa 10 bài Khuê Phụ Thán.
Từ khi 10 bài Khuê Phụ Thán ra đời, nhiều người yêu nước đã vịn vào đó mà làm 10 bài họa để tỏ chí mình. Riêng ở Huế có Hoài Nam Nguyễn Trọng Cẩn (1900 - 1947) tác giả tập "Tiếng cuốc canh khuya" (xuất bản năm 1937) cũng làm 10 bài họa với tựa đề chung là Tiếng Gọi Bên Trời. Mười bài Khuê Phụ Thán thì nhiều người đã đọc, nhưng "Tiếng Gọi Bên Trời" thì ít người biết, chúng tôi xin sao lục đăng dưới đây để đọc giả ngâm nga cho vui.
Tiếng gọi bên trời
Xã tắc khôn nhìn nữa vợ con!
Trăm năm hết tính cuộc vuông tròn.
Nguyền xưa vàng đá trôi dòng nước,
Hồn cũ mây mưa cách mấy non.
Mù mịt ven trời tin nhạn lạc,
Gập ghềnh đất khách vó câu von.
Phần sầu, phần giận, phần trông nhớ,
Mắt đã mòn thêm ruột lại mòn.
Mắt mòn bên Á lại bên Âu,
Mà nước non nhà có thấy đâu?
Kiến cỏ trêu người khi lỡ bước,
Mưa ngâu giục khách mấy cơn sầu...
Tấc lòng muôn dặm đôi hàng lệ,
Chiếc bóng năm canh một đĩa dầu.
Trướng phụng kìa ai chờ đợi đó?
Tấm lòng thổ thức suốt canh thâu.
Thổn thức canh thâu đứng lại ngồi,
Càng không yên giấc ruột càng sôi.
Nghìn năm cơ nghiệp còn đâu đó?
Mấy cuộc tang thương sự đã rồi.
Thương kẻ ngậm ngùi khi tựa gối,
Biết con trằn trọc lúc nằm nôi.
Nào con, nào vợ, nào ai đó?
Mình luống than mình, mình hỡi ôi!
Hỡi ôi!việc cả bấn hơn tương,
Để lại cho ai một tấm thương!
Mây mắt lờ mờ che đỉnh Ngự,
Sóng lòng cuồn cuộn lấp dòng Hương.
Non sông xưa những ngoài muôn dặm,
Trời đất nay đành khep một phương!
Nhục nhục, vinh vinh, âu cũng thế,
Tan tan, hợp hợp vẫn cơ thường.
Cơ thường tan hợp gác bên vai,
Hợp bởi vì ai, tan bởi ai?
Hợp giống cơn mây xây trước mắt,
Tan như trạn gió thoảng ngoài tai.
Gương sa xuống đất không tròn nữa,
Bóng giọt bên đèn dễ hoá hai.
Thôi nỏ tình chi cho mệt xác,
Quản bao tình vắn lại tình dài.
Tình dài tình vắn kể sao cùng,
Hai lẻ công tư đổ lộn chung.
Vì nước đã quen thân vạn thặng,
Không nhà đành phụ bạn tam tùng.
Đỉnh chung một cuộc, mưa tan tác,
Chăn gối đôi nơi, nguyệt lạnh lùng.
Muốn lặng để xem trời đất chuyển,
Sóng cồn đâu đã dậy lung tung.
Lung tung ngọn sóng vỗ quanh thành,
Khắc khoải lòng riêng suốt mấy canh.
Cỏ ngậm hơi sương tuông tả lá,
Lan theo ngọn gió phất phơ mành.
Để ai gối chếch lòng bao nả,
Vì nước hoa trôi phận đã đành.
Nông nỗi kiếp này thôi đã vậy,
Còn duyên hay nợ kiếp lai sinh?
Kiếp lai sinh có nợ gì không?
Trả hết cho tròn với núi sông.
Xao xác trời Nam trăm lũ kiến,
Chơi vơi bể Bắc một mỉnh hồng.
Rồng nằm bến cạn khôn phun nước,
Phượng mắc giây đăng khó rật lòng.
Nghĩ đến tôi con thêm thẹn, hổ...
Lại mang lấy tiếng "đức ông chồng".
Cái "đức ông chồng" bạc lắm chăng?
Tình kia chưa thoa? dạ chưa bằng.
Nguồn ân dòng ái đôi đường cách,
Núi thảm non sầu một dải dăng.
Các dạ trường xe sông khó lấp,
Đá tinh vệ ngập bể khôn ngăn.
Gương thề một mảnh chia đôi ngả,
Sực nhớ nguyền xưa thẹn với trăng.
Thẹn với trăng già với núi non!
Trăng bao nhiêu tuổi núi bao hòn?
Trăng toan mở mặt vì mây ám,
Núi muốn quay đầu sợ đá mòn.
Chim Việt lìa rừng ôm tổ khóc,
Ngựa Hồ quen lối thẳng đường bon.
Trăm năm thân thế mong gì nữa...
Xã tắc khôn nhìn nữa vợ con!
Rồng là mô típ trang trí phổ biến ở kinh đô Huế. Trong các kiến trúc của triều Nguyễn, nếu Phụng tượng trưng cho phái nữ như các bà Thái hậu, các bà công chúa thì rồng là biểu tượn của phái nam, của vua. Nhưng muốn phân biệt con rồng của vua và con rồng của phái nam phải cấu tạo con rồng của vua có năm móng, không phải vua thì chỉ có bốn móng. Vì thế mà khi muốn vẽ rồng 5 móng, triều đình phải rất thận trọng, phải tìm cho được hoa. sĩ giỏi nhất và phải dùng những chất liệu, những phương tiện tốt nhất để thể hiện.
Khải Định là một ông vua suốt mười năm ngồi trên ngai vàng chỉ lo xây lăng, cung An Định và điện Kiến Trung. Các công trình đã chịu ảnh hưởng nặng nề của kiến trúc châu Âu, có nhiều mảng tường lớn nên Khải Định đã phải xử dụng nhiều họa sĩ, điêu khắc làm tranh tượng hoành tráng. Một trong những họa sĩ bị trưng dụng là ông Cửu Tánh.
Một hôm Khải Định lên xem thợ xây lăng thì thấy Cửu Tánh đang nằm ngửa trên một cái giàn tre, trên thân hình chỉ độc nhất có một cái quần đùi, hai chân quắp hai cái cọ vẽ nhúng vào phẩm vẽ rồng năm móng ẩn mây trang trí cái trần điện Khải Thành. Thấy vua mà không chịu ăn mặt đàng hoàng đến phủ phục phục chào vua đã là mắc tội khi quân, lại còn dùng hai chân mà vẽ rồng năm móng nữa, quả thật Cửu Tánh không thể tránh được tội chết.
Khải Định đứng dưới dòm lên nói như quát vào mặt Cửu Tánh:
- "Vì răng mi dám dùng chân mà vẽ rồng năm móng? Mi không biết khi quân rứa là chết à?"
Cửu Tánh vẫn nằm ngửa, mắt nhìn lên trần điện Khải Thành hai chân vẫn ngúy ngoáy bệt phẩm vẽ lia lịa, miệng nói với xuống đất với Khải Định:
- "Dạ bẩm Hoàng thượng mô dám! Vì vẽ bứa rồng ẩn mây ni lớn mà khoảng cách giữa tay với mắt lại quá gần không thể điều chỉnh xa gần đậm lạt được, nên thần phải dùng chân!". Khải Định nghe có lý nên phải dịu giọng nói: - "May mà chỉ có một Cửu Tánh, chứ có đến hai đứa thì tau phải lấy cái đầu mi!". Cửu Tánh tủm tỉm cười và hình như cái đầu rồng vừa vẽ xong dưới cái trần nhà đang nhìn Khải Định và nhe răng cười.
Truyện 33
Vì lợi cho dân... đắng cay muôn phần
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Năm 1301, sau khi thắng quân Nguyên, vua Trần Nhân Tôn nước Đại Việt sang thăm Chiêm Quốc. Vua nước Chiêm lúc ấy là Chế Mân đã tổ chức Nghi Lễ đón vua Trần vô cùng trọng thể. Sau chín tháng trò chuyện, thăm viếng bàn bạc ngoại giao giữa hai nước, vua Trần đã quyết định gả công chúa Huyền Trân yêu quí của nước Đại Việt cho Chế Mân - mặc dù vua nước Chiêm đã lớn tuổi và đã có nhiều vợ.
Khi cái tin vua Trần hứa gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân đưa về đến Kinh đô Thăng Long, quần thần và dân trăm họ vô cùng xao xuyến. Công chúa Huyền Trân thì hoảng hốt, vật vả người một cách thảm thiết. Phần thì công chúa lo đi làm vợ vua Chiêm ở xứ lạ quê người, phần thì công chúa đau đớn phải xa lìa người yêu là Trần Khắc Chung - một vị tướng trẻ của nước Đại Việt. Suốt mấy năm liền, công chúa cứ ẩn mình trong cung, nổi khổ tâm da diết của công chúa không thể nào diễn tả cho hết được. Trong lúc đó quần thần và dân trăm họ chưa hiểu được dụng ý của vua Trần đã dùng thơ văn chế nhạo việc gả bán của nhà vua. Dư luận chống lại việc gả công chúa Huyền Trân cho Chế Mân đã vượt biên giới lan tận tai vua Chiêm, vua Chiêm không ngạc nhiên và cũng không bỏ ý định cưới Huyền Trân.
Năm 1306, vua Chiêm cho người sang Thăng Long xin vua Trần thực hiện lời hứa cũ và thông báo cho nước Đại Việt biết nếu cưới được công chúa Huyền Trân thì vua Chiêm sẽ cắt hai châu Ô, Lý (là đất cũ của nước Đại Việt) trả về cho nước Đại Việt làm quà sính lễ. Công chúa Huyền Trân vốn đã hiểu được nổi thao thức của vua cha về đất nước: Hai châu Ô, Lý của Đại Việt đã lọt vào tay nhà Tần rồi nhà Hán từ xa xưa và lệ thuộc Chiêm Thành, cho nên nghe tin ấy công chúa Huyền Trân đang đau khổ bổng dưng bà trở nên vui tươi. Bà hiểu được dụng ý của vua cha dùng tình cảm giao hảo giữa hai nước mà tiết kiệm được máu xương của trăm họ, Bà chịu hy sinh tình riêng để nhận lời ra đi.
Khi Bà sang đến Chiêm Quốc thì đồng bào ở hai châu Hoan, Aùi (Thanh Hóa, Nghệ An ngày nay) cũng rầm rộ kéo nhau vào tiếp nhận hai châu Ô, Lý. Châu Ô đổi thành châu Thuận, châu Lý đổi thành châu Hóa. Đồng bào thường gọi chung là Thuận Hoá.
Người đời sau biết ơn bà đã làm nhiều thơ văn ca ngợi sự hy sinh của bà.
Sau này, các điệu ca Huế nổi tiếng Nam Bình, Nam Ai ra đời cũng xuất phát từ cuộc ra đi của Bà Huyền Trân. Mấy câu ca kết thúc bài Nam Bình "Nước non ngàn dặm ra đi" thật thấm thía:
"Dặn một lời Mân quân,
Nay chuyện đà như nguyện.
Đặng vài phân,
Vì lợi cho dân.
Tình đem lại mà cân,
Đắng cay muôn phần."
Truyện 34
Vì sửa một nét chữ mà mang họa vào thân
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Cao Bá Quát có tài học mà chẳng được dùng, quan tỉnh Bắc Ninh thấy thế liền mật tấu về Kinh, nên năm 1841, ông được sung chức Hành tẩu bộ Lễ.
Nhân gặp khoa thi Hương, ông được cữ đi làm sơ khảo trường Thừa Thiên. Trong khi chấm văn, ông thấy có một quyển văn hay mà viết phạm một chữ húy; chữ ấy đáng lẽ phải bớt nét (tỉnh hoạch) mà thí sinh lại sơ suất không bớt. Đúng phép thì quyển văn dù hay đến đâu mà đã viết phải một chữ phạm vào quốc húy là phải đánh bỏ, nếu phạm vào trọng húy thì lại còn phải tội là khác, ông Quát vốn là người phóng đạt nên ông cho rằng những luật lệ ấy là quá khắc nghiệt của trường qui loại bỏ. Vì lòng thương tài, trong tâm trí ông bổng nảy ra ý nghĩ rằng phải sửa hộ để cứu quyển văn có giá trị này. Nhưng khốn thay ở chốn quan trường chỉ có mực son chứ không có bút mực xạ thì làm sao chữa hộ cho được? Ngừng một lát rồi ông lấy một mảnh giấy, hơ lên trên ngọn đèn để lấy muội khói, rồi gợt sạch bút son, dầm quện vào cái muội ấy thay làm mực để chữa. Đoạn, ông cứ cho điểm vào quyển ấy để láy như thường, nhưng sau đó người ta phát hiện ra việc sửa bài này. Người được Cao Bá Quát cứu ấy là Phạm Gia Hanh. Ông Quát bị cách chức và phát phôi đi Đà Nẵng.
Theo Đại Nam liệt truyện của Quốc sử quán triều Nguyễn thì không phải ông Quát sửa một quyển mà chính ông cùng với bạn đồng sự là Phan Nhạ đã dùng muôi đèn chữa những 24 quyển văn, trong đó có 5 quyển được đỗ. Việc vỡ lở, quan giám sát Trường thi là Hồ Trọng Tuấn dàn hặc, ông Quát bị ghép vào tội tử hình. Vua Thiệu Trị là người sính văn chương đã có sẵn cảm tình với ông Quát nên nhà vua đã gia ân giảm án cho ông thành "giam để chờ xử giảo". Nhưng sau ông Quát được ân xá và khởi dụng trở lại.
Sau ngày thất thủ kinh đô bọn giặc Pháp chiếm đóng Huế, đồng bào bị sưu cao thuế nặng vô cùng đau khổ. Dân gian đã phải ta thán:
"Từ ngày Tây lại đế đô,
Sưu cao thuế nặng biết chừng mô hỏi trời.
Còn lo một nổi khổ đời,
Quan trên ỷ thế nhiều lời hiếp dân".
Đó cũng là tình trạng chung của cả nước. Đến đầu năm 1908 phong trào chống thuế ở các tỉnh phía Nam bùng nổ. Ngọn lửa khán sưu, chống thuế ở Huế - Thừa Thiên có dịp sáng lên. Đặc biệt ở hai làng Gia. Lê Chánh và Công Lương (xã Thủy Vân ngày nay). Ông Khóa Nối (Tên thực là Nguyễn Hoàng Chi) giả làm người buôn quế loan truyền một tờ Thông tri mang nội dung như sau:
"Đáng yêu thay dân tỉnh Quảng Nam!
Đáng kính thay dân tỉnh Quảng Nam!
Đáng học thay dân tỉnh Quảng Nam!
Giặc Pháp mượn tiếng bảo hộ, ngược đãi dân ta thật đã quá lắm. Hàng năm nộp xong sưu thuế rồi, mình không còn chiếc áo lành, bụng không được ăn cơm no đi nới khác tìm ăn, khổ hết chỗ nói. Nếu không một phen đứng dậy tỏ tình kêu nài thì sưu thuế vẫn còn tăng mãi. Dân ta mười nhà đã đến chín nhà rỗng không. Khó lòng gánh chịu được. Nếu cứ ngồi mà đợi chết, chi bằng vùng dậy mà tìm lối sống!"
Bạn ông Khoá Nối là Lê Đình Mộng - người làng Gia. Lê - đứng lên lãnh đạo nông dân hội họp dân chúng phát động phong trào chống thuế ở Huế - Thừa Thiên.
Nghe tin đó, thực dân Pháp vội phái Ông Phủ doãn Thừa Thiên là Trần Trạm - một người nổi tiếng thanh liêm, cùng Phó quản Trần Phán đem theo một đội lính khố xanh, có tri huyện Phú Vang Trần Hữu Chí dẫn đường chèo đò về Công Lương - Gia. Lê với ý định hiểu dụ dân chúng không nên có những hành vi chống thuế như hạt Quảng Nam sẽ mang họa vào thân.
Dân chúng đón hỏi:
- "Lúc ni mà Ông Phủ doãn đi mô rứa?"
- "Quan binh đi hành hạt, sao dân không ra nghênh đón mà hỏi chi khiếm lễ rứa?"
- "Dân đói kém đang định kéo nhau lên Phủ, lên Huyện xin sâu, xin thuế, dân tình đâu có ở nhà mà quan Phủ doãn đi hành hạt?"
- "Ai cho phép dân đi?"
- "Cái bụng đói bắt đi!"
Sau một hồi tranh cãi bỗng có một người đứng trên cầu Gia. Lê ném một cục đất vào thuyền do Trần Phán chỉ huy. Dân chúng tưởng Lê Đình Mộng ra hiệu lệnh ùa xuống nước định bắt trói Trần Trạm. Nhưng may sao có ý kiến cho rằng Ông là người tốt chỉ bị bọn thực dân lợi dụng thôi nên họ bỏ Ông vô thúng ngồi. Bọn Trần Phán và Trần Hữu Chí hạ lệnh nổ súng. Dân chúng nghe súng nổ càng sôi máu, họ dùng đất rang ném lại bọn quan binh như mưa. Ông Nguyễn Cường - Người Công Lương, bị bắn chết tại chỗ. D6an đưa ra sau lấy lá Thầu Dầu đắp kín chuẩn bị khiêng đi đấu tranh chứ không chôn.
Tên Trần Phán hung hăng nhất bị trói ngoé, những tên lính đã gây nợ máu bị trói và bị nhận nước.
Sáng hôm sau (10-04-1908), dân hai làng Công Lương - Gia. Lê đã gánh Ông Trần Trạm và khiêng xác Nguyễn Cường vào Huế đấu tranh. Dân sáu huyện Thừa Thiên hay tin cũng kéo vào. Đoàn người đi đấu tranh có những nét rất đặc biệt: tóc cắt ngắn, áo quần rách tả tơi, mang bị như người đi xin và họ gọi nhau là đồng bào.
Bọn Pháp đã xua lính ở Mang Cá lên đàn áp đẫm máu cuộc đấu tranh. Tuy vậy, trước khí thế của quần chúng, bọn thực dân đã phải giảm sưu, hạ thuế. Và từ đó làm gì có hại cho dân, chúng cũng phải cân nhắc.
Phan Huy Ích (1750-1822) là một danh sĩ Bắc hà, ông có mối liên hệ đặc biệt với những người văn học nỗi tiếng. Oâng là học trò Ngô Thì Sĩ, em rể Ngô Thì Nhậm. Thân sinh ông là Phan Cẩn, em ruột ông là Phan Huy Oân, ba cha con đều đỗ đại khoa, cùn làm quan một triều. Đó là một trường hợp hiếm có. Sau khi đỗ tiến sĩ (1775), ông được Trịnh Sâm ủy nhiệm vào Thuận Quảng trao ấn kiếm và phong tước cho Nguyễn Nhạc - Thủ lĩnh Tây Sơn - làm Lưu thú Quảng Nam tước Cung quận công. Ngồi trên gác Triêu Dương bên bờ Nam sông Hương, Huy Ích được toàn quyền làm những việc hệ trọng (Triêu Dương các thượng thụ cơ nghi). Làm việc xong ông tranh thủ đi tham quan các danh thắng ở Huế như chùa Thiên Mụ, đồi Hà Khê, Phủ Cam, Phố Lữ (Bao Vinh)... Ông viết:
"Xuân Thành sơn thủy đa giai cảnh,
Công hạ thường cung phóng tăm kỳ".
Nghĩa là:
Non nước thành Phú Xuân nhiều cảnh đẹp,
Rỗi việc công thường đi xem cảnh lạ.
Trước đó vào cuối năm 1786, ông vào Nghệ An theo lệnh vua Lê đánh dẹp Nguyễn Hữu Chỉnh, nhưng ông không có tài cung kiếm nên bị Chỉnh bắt sống. May nhờ có Nguyễn Kim Khuê là chỗ quen biết cũ hết sức cứu gỡ ông mới thoát chết và được trở về Thăng Long. Tháng 4-1788, Nguyễn Huệ đưa quân ra Bắc lần thứ hai, Phan Huy Ích cùng một số danh sĩ Bắc Hà được Nguyễn Huệ vời vào Phú Xuân giúp phong trào Tây Sơn. Ông được Nguyễn Huệ cho dự lễ tấn tôn trên đỉnh núi Bân. Sau ngày đại thắng quân Thanh, Phan Huy Ích được vua Quang Trung cử cùng Ngô Thì Nhậm lo việc ngoại giao với nhà Thanh.
Nhiệm vụ thật khó khăn, ngày đêm lo nghĩ làm sao cho tròn khiến mawys Ích thêm sâu và tóc bạc sớm. Thế mà những nhân sĩ không phục vụ Tây Sơn vẫn còn gièm pha ông đủ điều. Nhiệm vụ đang làm thì bổng người em ông làm phản bị trọng tội. Những người đã từng gièm pha ông lại có dịp hù doa. Ông cho là "Quang Trung là người rất cương quyết sẽ giết ông như giết Võ Văn Nhậm, giết Nguyễn Hữu Chĩnh, ông hãy liệu mà xa chạy cao bay", nào là "Quang Trung từ nay sẽ không còn tin dùng ông nữa tận tuỵ với Tây Sơn vô ích".
Phan Huy Ích nơm nớp lo sợ. Nhưng mặc cho những lời gièm pha, từ Bắc thành ông viết một tờ biểu xin tạ tội với Quang Trung. Khi gửi tờ biểu đi rồi ông chuẩn bị mọi việc để chờ nhận tội. Nhưng không ngờ, chẳng bao lâu sau ông nhận được Chiếu cua vua Quang Trung truyền ra rằng:
- "Tính người ta thiện ác khác nhau, cha còn chưa vừa lòng được với con,huống chi anh đối với em, việc đã không dính líu đến, thì còn có hiềm nghi gì!"
Cũng trong tờ Chiếu ấy, vau Quang Trung cho Phan Huy Ích vào Phú Xuân triều kiến. Khi vào chầu, vua Quang Trung mời Phan Huy Ích đến gần căn dặn ân cần xem như không có chuyện gì xảy ra. Lúc ấy Phan quá cảm động ông đã cởi mở tâu bày với vua. Khi ở triều về ông đã làm bài thơ nay:
Gia môn hà gia sự,
Phong cảnh phát ninh cư.
Thân phận tồn hình tích,
Uyên thông, giữ chiếu thư.
Xu thương vưu dịch nhược,
Úy lạ cánh ôn như.
Cảm kích đàn trung tố,
Quân thiều, mông my mơ.
Nghĩa là:
Gia đình sao nhiều việc,
Tình cảnh muốn yên không xong.
Phận làm tôi đã có dấu vết,
Đấng sáng suốt lại ban chiếu thư.
Khi tới lui càng thấy sợ hãy,
Lời an ủi lại ôn tồn.
Cảm kích tác thành xin giải hết,
Trong mơ, văn vẳn nhạc quân thiều.
Mặc dầu cuộc đời cua Phan Huy Ích đã có những biến cố mâu thuẫn với Nguyễn Huệ - Quang Trung như thế, nhưng Nguyễn Huệ - Quang Trung đã thấy được Phan là người tốt và tin dùng ông như thường. Vì được tin dùng nên từ ấy Phan Huy Ích đã hết sức trung thành với sự nghiệp của Quang Trung. Khi Quang Trung mất,Phan Huy Ích đã khóc:
"Tao tái cơ duyên nan tái đắc,
Tùng kim cô lữ nhạn thần cô".
(Nghĩa là: Duyên may gặp gỡ khó có một lần nữa, từ nay ở quê người, thần như chiếc nhạ lẻ bầy!)
Dưới thời Quang Toản ông vẫn phục vụ tốt cho Tây Sơn. Khi Nguyễn Ánh làm chủ đất Phú Xuân (1801) ông bị bắt đưa về Bắc Thành và bị đưa ra trước Văn Miếu đánh đòn vì tội đã trung thành với Tây Sơn. Sau đó Nguyễn Ánh cho người thu phục ông, mời ông ra làm quan nhưng ông không làm. Cho đến lúc chết ông vẫn tưởng nhớ đến người anh hùng dân tộc đã hiểu ông và tin dùng.