Vua Đồng Khánh sinh được sáu trai và hai gái nhưng chỉ nuôi được một trai là Bửu Đảo và hai gái là công chúa Ngọc Lâm và công chúa Ngọc Sơn.Gia đình vua Đồng Khánh với bà Thánh Cung(con đại thần Nguyễn Hữu Độ) và bà Tiên Cung(họ Dương,mẹ đẻ Bửu Đảo sau này là vua Khải Định) hằng hy vọng những gì vua Đồng Khánh đã vun đắp được trong thời gian ở ngai vàng (1885-1888).
Khi Bửu Đảo đến cuối thập phủ thiếp, hai bà vui mừng đi cưới con quan đại thần Trương Như Cương cho con trai mình ngay. Cuộc hôn nhân này thật tuyệt vời: làm rể họ Trương vừa có thế lực vừa được của cải, biết đâu ”trời đất đoái hoài” Bửu Đảo được chọn làm vua,nào ngờ vợ chông Bửu Đảo ăn ở với nhau không có hạnh phúc.Ngày đêm Bửu Đảo chỉ ham thích đánh bạc không ngó ngàng đến bà vợ mới cưới,khi vợ chồng gặp nhau, Bửu Đảo chỉ bàn có một việc là làm sao xin gia đình họ Trương cho thật nhiều tiền. Vợ Bửu Đảo rất buồn,nhiều lần phải khóc lóc với cha mẹ mới xin được đủ tiền cho chồng tiêu xài.
Lúc đầu,gia đình họ Trương còn giữ uy tính cho ông Hoàng Phụng Hoá Công (tước của Bửu Đảo lúc còn Tiền đế) nhưng về sau Bửu Đảo cứ ép vợ về lấy tiền hoài,Trương gia rất bất bình đã nhiếc chàng rể là “đồ bất lực vô hậu”.
Biết chuyện con trai duy nhất của mình “không có hậu” hai bà Thánh Cung và Tiên cung buồn bã thất vọng não nề. Suốt ngày than thở cùng nhau về hậu vận. Và cứ thế, nỗi lo lắng chồng chất làm cho đêm mất ngủ, ngày biếng ăn…sức vóc của hai bà ngày càng sa sút tiều tuỵ… Tuy ham mê cờ bạc nhưng Bửu Đảo là đứa con có hiếu, thấy hai mẹ mình đau buồn như thế ông cũng phát lo.
Ông đem chuyện tâm sự với một người trong hoàng tộc thuộc bậc ông,nhưng tuổi tác lại đồng trang với cháu.Vị hoàng thân đó là cụ Hường Đ. Trong nhiều năm lui tới trà,rượu,bạc bài với cháu là Bửu Đảo ở Tiềm Đế,cụ Hường Đ. Đã được cháu gọ bằng ông ấy giúp đỡ những lúc thiếu thốn.Do đó,lần này,nhân được Bửu Đảo muốn san sẻ một phần khó khăn của mình,cụ Hường Đ. đã ra tay giúp cháu…
Bửu Đảo đã rất vui mừng khi nghe cụ Hường Đ dựng lên câu chuyện sau đây:
“Phụng Hoá Công vốn là người bất lực. Nhưng một hôm, Công bắn được một con chồn hương, người nhà đã hầm con chồn hương vói sâm, nhung và nhiều vị thuốc bổ dương khác. Buổi tối, Công uống rượu và ăn món hầm đại bổ ấy… liền cảm thấy hửng khởi và nổi cơn “đòi phụ nữ”… Cái phút thần hạnh phúc ấy đến đột ngột,sợ nó” tan biến đi nên sẵn có cô Hoàng Thị Cúc đang ở trong nhà, Công liền gọi đến “dùng” và may mắn sao cô Cúc đã thọ thai!
Tin cô Cúc có thai với Bửu Đảo đến tai bà Tiên Cung và bà Thánh Cung và những thân thích trong gia đình Phụng Hoá xem như một phép lạ.
Để xác minh thực hư,các bà đã sai đào một cái hố (sâu khoảng hai tấc) bảo cô Cúc nằm sấp,để cái bụng có mang nằm lọt dưới hố, rồi dùng roi đánh tra hỏi cô Cúc đã lấy ai mà dám vu chu Phụng Hoá Công. Cô Cúc cắn răng chịu đựng hình phạt và chỉ đinh ninh một lời khai là đích thị có mang với Bửu Đảo. Thế là các bà mừng rỡ công bố cho hoàng tộc biết Phụng Hoá Công sắp có con.
Và lúc ấy, trong hoàng tộc dù tin hay ngờ đều phải công nhận như thế.
Sự thật,theo ông Phan Văn Dật và ông Ngũ đẳng thị vệ Nguyễn Đắc Vọng thì không có chuyện Bửu Đảo “dùng” cô Cúc và may mắn cô Cúc có thai. Cô Cúc đã mang thai với chính Hường Đ.từ trước. Được Hường Đ. nhường cho một bào thai, Bửu Đảo rất hàm ân người ông. Để đền ơn,Bửu Đảo đã giúp đỡ rất nhiều (về quan tước cũng như vật chất tiền bạc).
Do có sự giúp đỡ của anh Bửu Dương,chúng tôi được đọc 17 cuốn vở gồm 1700 trang viết tay của thầy Ưng Đồng (con trai cụ Hường Đ.)viết về lịch sử gia đình và họ hàng nhà mình.
Qua tập di cảo đồ sộ ấy,chúng tôi đã lọc ra được một số chi tiết có liên quan đến sự việc thân sinh của Vĩnh Thuỵ sau là “hoàng đế Bảo Đại” là con cụ Hường Đ.
Trong khi đi dự họp Nguyễn Phước Tộc ở Phú Tân thày Ưng Đồng thường hay được chào là “Ông giáo sư em của Cựu hoàng”,lời chào này hàm ý thầy Ưng Đồng với Bảo Đại là anh em cùng cha.Thày Ưng Đồng cho biết: ”Khoảng năm 1972 thân phụ ta và hoàng tử Bửu Đảo là đôi bạn thân ăn một mâm nằm một chiếu”.
Ngày 22-10-1913 Vĩnh Thuỵ ra đời thì một tháng rưỡi sau (7-2-1913)Ưng Linh, con chính thức cụ Hường Đ. cũng ra đời. Hai cậu bé này lớn lên đều to béo khoẻ mạnh giống nhau, ảnh của hai người đặt cạnh nhau thấy giống như anh em ruột.
Thày Ưng Đồng còn cho biết thêm: ”Bà ngoại ta thường vào cung Diên Thọ chào thỉnh an đức Từ Cung.Đức Từ Cung gọi bà ngoại ta (tức là mẹ vợ cụ Hường Đ.) bằng “dì” dù bà ngoại ta không có họ hàng thân ruột gì với đúc Từ Cung”.
Bà Từ Cung nhiều lần dặn mẹ cụ Hường Đ.”khi nào Hoàng đế hồi loan,dì cho thằng Đồng vào đây ở đế nó được nhờ” (Phải chăng bà Từ Cung hàm ý cho Ưng Đồng vào Nội để hưởng lộc của anh?!).
Đoạn tư liệu trực tiếp nhất là: vào khoảng năm 1934, trong một lần vào Đại Nội tham viếng hoàng đế Bảo Đại, ông Hường Đ, đã bị mật thám Pháp ngăn trở. Về nhà ôm đầu bực tức,ông “quở” rằng: ”Đồ chó má! Tau là cha vua mà tụi nó chẳng nể nang chi”.
Nếu quả thật như dư luận (được thày Phan Văn Dật thuật lại) và như đã ghi một cách khá rõ trong tài liệu của gia đình cụ Hường Đ.,thì vua Khải Định đã nhận chú làm con (1)
(Theo lời kể của Phan Văn Dật căn cứ di cảo của Ưng Đồng,tài liệu của R.Orband và của Nguyễn Đắc Vọng,Ngũ đẳng thị vệ triều Khải Định)
(1) Trong bài Đế hệ vua Minh Mạng đã chọn sẵn chữ lót để phân biệt đẳng hệ cho 20 đời con cháu mình như sau:Miên Hường Ưng Bửu Vĩnh Bảo Quí Định Long Trường Hiền Năng Kham Kế Thuật Thế Thoại Quốc Gia Xương.Theo phổ hệ trên,Bửu Đảo phải gọi con cụ Hường Đ. bằng chú nhưng Bửu Đảo được cụ Hường cho một đứa con(dù còn phôi thai trong cô Hoàng Thị Cúc) thế có nghĩa là Bửu Đảo đã nhận một người chú làm con mình…
Chương 29
BÀ HOÀNG HẬU CUỐI CÙNG CỦA
VIỆT NAM ĐƯỢC CHỌN NHƯ THẾ NÀO
Nguồn: trieuvyphung
Thu gọn nội dung
Sau ngày ngự giá hồi loan (9-1932),tôi phải đảm trách nhiệm vụ bảo vệ nghi lễ.Tôi cố gắng hoàn thành một cách xuất sắc.Hằng ngày phải thi lễ trước bàn thờ liệt thánh và không quên ra vùng ngoại ô yên tĩnh và đẹp đẽ ngoài Kinh Thành để cung nghiêm các tôn lăng.
Cùng trong cách thức ấy, sau khi nắm được quyền hành ở triều đình,tôi ban sắc phong tặng cho mẹ tôi làm Hoàng thái hậu.
Thế rồi đã có một sự kiện quan trọng đã diễn ra thay đổi cơ bản cuộc đời tôi.
Từ ngày tôi trở về nước trong Nội có một cuộc tranh giành chuyện nạp phi cho tôi.Hoàng thái hậu,các đại thần mỗi người có một “dự tuyển” của mình.Tôi gặp thoáng qua người này một chút,người kia một chút chứ chưa có chủ tâm với cô nào.Tôi biết vấn đề lựa chọn phi tần của một vị hoàng đế tuỳ thuộc vào quyết định của đinh thần,tôi chờ người ta giới thiệu với tôi những người chính thức.
Nhân bàn đến chuyện nạp phi,tôi tuyên bố thẳng:tôi phá bỏ cái tục đa thê của người Việt Nam.Ông bà Charles – ân nhân của tôi,cũng bận tâm tìm cho tôi một người vợ.Họ mong muốn tìm được một người có một nền giáo dục như tôi.
Thế rồi cuối năm ấy(1933) tôi đi Đà-Lạt, trong một buổi tiếp tân ở phòng khách Palace,có cả toàn quyền Pasquier,người ta giới thiệu với tôi cô Nguyễn Hữu Thị Lan – con gái một hào phú theo đạo Thiên chúa ở Nam Bộ. Cô Lan ở tuổi 18, vừa học xong trường Couvent des Oiseaux ở Pháp.
Sau buổi gặp mặt ấy, chúng tôi đi lại thăm nhau nhiều lần.Nguyễn Thị Hữu Lan đã rất nổi tiếng ở Pháp. Cũng giống như tôi, cô chơi thể thao và thích âm nhạc… Cô Lan có cái vẻ quyến rũ của con gái miền Nam. Triều Nguyễn có tập quán chọn phi tần cho các vị Hoàng đế ở Nam Bộ. Đối với Trung Bộ , hay cả Bắc Bộ,Nam Bộ luôn là một “vùng đất hứa”.
Sau nhiều lần gặp gỡ tình cảm yêu thương nhen nhóm giữa chúng tôi. Chúng tôi cầu mong được sống bên nhau.
Sau đó về lại Huế, tôi bẩm với mẹ về chuyện gặp gỡ cô Nguyễn Thị Hữu Lan và những dự định của tôi.Nghe tôi thưa chuyện,mẹ tôi không thể giấu được sự lo lắng,nhất là khi bà nghe cô Lan là con nhà Thiên chúa giáo và lớn lên trong lối sống của châu Âu.Mẹ tôi lâu nay chỉ ước mong tôi có một người vợ sống trong khuôn phép lễ giáo Việt Nam mà thôi.Lại còn vấn đề giáo dục con cái về tôn giáo cũng làm cho mẹ tôi bận tâm.Thật vậy,đó không những là việc tín ngưỡng mà còn là việc sơn hà xã tắc.Con cái chúng tôi theo Thiên chúa giáo,khi được phong hoàng thế tử rồi thì làm sao đứng cử hành việc thờ cúng liệt thánh hay lễ Tế Giao.Đình thần cũng có những lo lắng đó.Các quan bàn thảo sôi nổi. Trong lần gặp sau đó tôi đã nói thẳng với Nguyễn Thị Hữu Lan,tôi muốn cưới cô làm vợ.Bất chấp mọi hình thức lễ nghi,tôi thông báo quyết định của tôi với đình thần.
Ngày cưới của tôi được ấn định vào ngày 20-3-1934.Lễ cưới được tổ chức trước sự hiện diện của đình thần và đại diện nước Pháp.Đây là một lễ cưới đổi mới trước kia chưa từng có trong cung đình.Tôi cũng quyết định sau khi cưới tôi sẽ tấn phong cho vợ tôi làm hoàng hậu – danh hiệu hoàng hậu trước đó chỉ phong cho thái hậu khi vị hoàng đế qua đời.
Tôi chọn tên trị vì cho bà hoàng hậu mới,từ đó gọ bà là Nam Phương – Nam Phương có nghĩa là “hương thơm của Miền Nam”.và tôi ra một chỉ dụ đặc biệt cho phép bà được phục trang sức màu vàng – màu dành riêng cho Hoàng đế.
Lễ cưới được tổ chức ngay trong phòng tiếp tân của điện Cần Chánh.Cũng giống như lễ đăng quang,triều thần đứng sắp hàng dọc theo một tấm thảm đỏ và vàng dành riêng cho hoàng đế.Lần đầu tiên trong lịch sử triều Nguyễn có một người phụ nữ xuất hiện giữa triều đình.Bà Nam Phương mặc một chiếc áo rộng thùng thình,chân đi hài mũi cong,đầu đội vương miện có đính vàng bạc châu báu óng ánh.Bà đi một mình đến giữa tấm thảm,tất cả triều thần cúi chào.Với một vẻ đẹp tuyệt vời bà đi thằng vào các phòng lớn,tôi đang ngồi chờ bà trên một cái ngai thấp ở đó.Bà đến trước mặt tôi ,cúi đầu chào tôi ba lần rồi vào ngồi ở cái chái bên phải của tôi.Chúng tôi sánh vai nhau bước đi trong tiếng nhạc mừng qua Tử Cấm Thành và điện Kiến Trung – nơi ở và làm việc chính của chúng tôi.
Lời nguyện ước ở bên nhau của chúng tôi trên cao nguyên Đà-Lạt, nay đã thành sự thật.
(Theo lời tự thuật của vua Bảo Đại trong Con Rồng An Nam)