CHƯƠNG BẢY: KHÍ GIỚI (BINH KHÍ)
I. NÓI VỀ 18 MÔN BINH KHÍ
18 môn binh khí gồm : Đao, Thương, Kiếm, Kích, Đảng, Côn Xoa, Ba, Tiên, Giản, Chùy, Búa Câu, Liêm, Trảo, Quải, Cung tiễn, Đăng bài.
Tuy vậy, vẫn có thuyết gọi 18 môn binh khí là
Đao, Thương, Kiếm, Kích, Đảng, Côn
Xoa, Ba, Tiên, Giản, Chùy, Phủ
Câu, Liêm, Trảo, Đại, Quyết, Cung thỉ
Thật ra quyết là một cây mộc côn gồm 2 nhánh, cách sử dụng không khác chi giản, còn đại là tên gọi thông thường của trảm mã đao, bởi vì vùng Sơn Đông gọi trảm mã đao là Song thủ đới, âm "đới" đọc theo tiếng Trung Hoa, chuyển thành âm "đại". Như vậy nên cho vào loại với đao. Vì thế theo thuyết thứ nhất khi nói về 18 môn binh khí thì đúng hơn.
1. Trong loại đao gồm có đơn đao, song đao, đại đao, phác đao, trảm mã đao.
2. Về thương thì gồm có đại thương, hoa thương. Ðại thương dài 1 trượng 8, 1 trượng 2, 1 trượng lẻ 8 tấc, 1 trượng, ngắn nhất là 8 thước (thước Tàu, 1 thước Tàu = 4 tấc Tây, 1 trượng = 10 thước Tàu). Hoa thương dài không quá 7 thước, ngắn khoảng 5 thước.
3. Kiếm gồm có đơn kiếm, song kiếm. Kiếm dài 3 thước (thước Tàu), ngắn 2 thước 4 tấc.
4. Kích gồm có đơn kích và song kích. Song kích đều ngắn.
5. Ðảng gồm có Nhạn linh đảng, Long tu đảng. Hai loại này giống nhau, nhưng cái móc của Nhạn linh đảng cong về phía dưới, còn của Long tu đảng thì cong về phía trên. Lại có Lựu kim đảng, gần giống với Nguyệt nha sản.
6. Côn thì có loại dài 6 thước, loại Tề mi côn chỉ trên đưới 6 thước.
7. Câu gồm 2 loại Hổ đầu câu, Lộc giác câu.
8. Liêm gồm có đao liêm và thương liêm đều có loại dài, ngắn khác nhau. Loại dài 6, 7 thước, loại ngắn 2 thước 4 tấc. Phàm những loại binh khí ngắn đều dùng 1 đôi như song kích, song kiếm... Lại có Hổ trảo liêm, còn gọi là Nhật nguyệt song bút.
9. Trảo gồm có Kim long trảo, giống như các ngón tay người ta.
10. Quải gồm có Dương giốc quải, Lý công quải. Dương giốc quải dài 4 thước. Lý công quải là 1 đôi đoản quải (quải ngắn). Tiên lặc quải còn gọi là Câu liêm quải, hình giống như đơn đao, cán đao là 1 mũi thương nhọn.
11. Tiên thì gồm có đơn tiên và song tiên. Ngoài ra còn có nhuyễn tiên, thường gồm 7 đốt, 9 đốt (Cửu tiết tiên). Ngoài 18 môn binh khí, còn có Phương tiên nguyệt nha sản, Bế huyệt Nga mi thích. Ám khí thì có tiêu, đạn, tụ tiền...
II. CÁCH SỬ DỤNG CỦA 18 MÔN BINH KHÍ
Cách vận dụng 18 môn binh khí, đại để thương và côn thuộc về một loại. Cách dùng côn và thương có nhiều chỗ giống nhau, nhưng dùng về "đả" thì côn nhiều hơn thương. Côn pháp của phái Thiếu lâm còn kiêm luôn cả những đặc tính của thương và bỗng, gồm 7 phần thương pháp, 3 phần côn pháp. Trong các loại côn pháp thì côn pháp Thiếu lâm hay nhất. Ðến như lối hai tay cầm côn, hổ khẩu tay hướng về nhau, gọi là âm thủ côn.
Theo sách Kỷ hiệu tân thư của Thích Kế Quang thì :"Thương có lối Lê hoa thương của họ Dương cùng với lối đánh côn của họ Sa và họ Mã ".
Theo sách Thiếu lâm côn pháp của Trình Xung Ðẩu thì : "Côn có loại côn pháp Ðại tiểu Dạ xoa của phái Thiếu lâm, cùng Âm thủ côn của nhà họ Tôn".
(Âm thủ côn là lối cầm 2 hổ khẩu hướng vào nhau). Kíchcó hai loại khác nhau là trường kích và song kích. Trường kích và câu liêm thương thuộc một loại.
Kích và câu liêm thương thường nặng ở đầu nên lúc sử dụng không được linh động như thương. Song kích thuộc một loại với song câu, song liêm.
Ðảng, xoa, ba, thuộc về một loại đều là những võ khí ngăn trở địch tấn công mau chóng, nhưng dùng không được tiện lợi, nhanh nhẹn, dễ bị chậm chạp, không phải là kẻ có sức mạnh thì không thể dùng được.
Trúc tiết tiên, đơn giản, đơn đao thuộc về một loại. Song tiên, song giản, song đao thuộc về một loại. Lối đánh của tiên và giản là lối chém của đao.
Ðại đao, trảm mã đao thuộc về một loại, chùy và búa đều là những võ khí nặng nề. Ngày xưa, trong lúc hành quân, nếu trận của quân giặc kiên mật khó xung đột, thường chọn những người có sức mạnh, cầm chùy dài, búa dài hăng hái xông lên mà phá. Nếu cá nhân chống nhau với địch thủ thì những võ khí như chùy và búa không thích dụng lắm. Chùy và búa chỉ có các phương pháp ngạnh đả, ngạnh chước, ngạnh thung, không có nhiều xảo pháp.
Lối sử dụng của quải có lúc dài, lúc ngắn làm cho kẻ địch khó đề phòng. Câu liêm quài còn có phép móc kéo địch thủ, nhưng rất khó sử dụng.
Kiếm được dùng từ xưa. Phàm các lối sử dụng võ khí đều thoát thai từ lối đánh kiếm mà ra. Bởi vì ngày xưa, các võ khí như qua, mâu, kích đều dùng trong chiến trận, hơn nữa lại còn dùng lối đánh nhau bằng xe (xa chiến) nên đánh, đâm, tiến, thoái đều theo sự tiết chế, theo mệnh lệnh mà động thủ, không thể nhảy nhót mau lẹ, tự do tung hoành, biến hóa như ý. Chỉ có kiếm là vật dụng người xưa mang theo, thường tập rèn có thể tự vệ được. Vả lại kiếm thường dùng khi đánh nhau dưới đất, vì vậy kiếm thuật rất dễ đến chỗ xảo diệu (vì nhiều người học và nghiên cứu, sáng tạo).
Kiếm khác với đơn đao ở chỗ đơn đao phía mũi rất nặng còn mũi kiếm thì nhẹ. Vì vậy, dùng kiếm mau chóng hơn là dùng đơn đao.
Còn các loại Nga mi thích, Cửu tiết tiên người xưa thường đem theo hộ thân, rất tiện lợi. Nga mi thích quá ngắn, còn cửu tiết tiên rất khó sử dụng.
III. LƯỢC BÌNH VÀ SO SÁNH VỀ CÁCH SỬ DỤNG BINH KHÍ CỦA CÁC MÔN PHÁI
Các loại võ khí thường dùng gồm có đao, thương, kiếm, côn, câu. Ba loại thương, côn, câu các phái Ðàn thoái và Tra quyền được chân truyền. Trong phái Ðàn thoái có môn Ngũ hổ đoạn môn thương, Trung bình thương hợp với phép đánh thương ghi trong sách Kỷ hiệu tân thư của Thích Kế Quang. Phong ma côn của phái này cũng giống như côn pháp của Thiếu lâm tự. Phép đánh câu cũng rất xảo diệu, tinh bác.
Về đao pháp thì phái Phê quải có lối song đao rất thực dụng. Lối sử dụng đại đao ở vùng Giang Nam cũng có nhiều chỗ hay.
Về kiếm thì các phái Thái cực, Bát quái, Phê quải đều có chỗ linh diệu là dùng nhu chế cương. Bàn long kiếm pháp của phái Chuyết cước vừa nhu lẫn cương rất hay. Ðến như loại côn pháp ở vùng Giang Nam, thường là loại Tề mi côn hoặc đoản côn hay dùng âm thủ, sử dụng cả 2 đầu, không thực dụng.
Hết phần 9
Theo vothuat