Muội đọc lại kỹ bài post TC-N mở màn bằng 2 câu "tiền bất kiến cổ nhân, hậu bất kiến lai giả", ngay ở dưới có dẫn mấy câu anh anh em em của Đan Đan tiểu thư. Mớ triết lý "tử sinh nhập vào nhau trong cái vô cùng tận" ăn nhập chi đến "lãng mạn dễ thương bồi hồi nhớ lại thơ ấu"?
Huynh góp ý là góp ý về cái màn a-la-xô của "chàng" TC-N của muội. Muội thì lại đem cảm nhận của mình "gán" qua cho TC-N. Khẩu chiến suốt rồi mới giật mình nhìn lại: cái người cần lên tiếng, thì đã rút êm đâu mất rồi.
Giờ thêm vài chữ cho rõ ý huynh, hỉ?
Lấy bài Ly tư của Nguyên Chẩn làm ví dụ:
Tằng kinh thương hải nan vi thuỷ
Trừ khước Vu sơn bất thị vân
Thủ thứ hoa tùng lãn hồi cố
Bán duyên tu đạo bán duyên quân
(Dịch nghĩa: Ai từng ngắm biển xanh, khó còn gì đáng gọi là nước
Trừ phi đã đến Vu Sơn, nếu không coi như chưa nhìn thấy mây.
Chọn được một khóm hoa tươi, lại lười không buồn chăm sóc,
Một nửa duyên kiếp của ta dành cho tu đạo, chỉ một nửa cho nàng)
Giả sử muội chẳng biết Nguyên Chẩn là ai, chẳng biết bài thơ này nói về ai, chẳng biết sáng tác trong dịp nào, tình cờ vớ được mà đọc thôi. Tất nhiên muội chỉ thấy hai câu đầu hình như tả cảnh, hai câu sau nói về duyên kiếp, trước đó câu thứ 2 đề cập đến Vu sơn, chắc là dính dáng đến người đầu ấp tay gối. Kết luận: có thể ông thi sĩ này đang nhớ vợ. Bài thơ... sao thấy tàm tạm, ý tứ nửa trên nửa dưới có vẻ không liên can mấy.
Bây giờ nhìn lại nhé: Nguyên Chẩn khóc thương người vợ tào khang chết trẻ bằng bốn câu này. Thế thì hai câu đầu có còn chỉ nước chỉ mây, chỉ biển chỉ núi? Hay đã biến thành bi thương sầu khổ: ai đã từng được người vợ đầu ấp tay gối, thì khó có thể mặn nồng cùng ai khác nữa? Biết thêm về hoàn cảnh như thế, có đủ cho muội thay đổi hẳn cái nhìn đối với bài thơ? Hai câu thơ đầu có đủ xót thương, có đủ ý tình triền miên bất tuyệt với người vợ đã khuất? Nay nàng đi rồi, thế gian này còn gì là hứng thú, chăm sóc hoa cũng chẳng làm ta khuây khỏa. Thương ôi, chỉ nửa mối duyên của ta là dành cho nàng, nửa về sau đành để tu đạo thôi...
Quay lại vấn đề chính. Mấy posts trước huynh đã nói rõ quá rồi, bây giờ mỏi tay hong nói nữa, chỉ tặng muội thêm câu này để ngẫm. Lư Tàng Dụng từng nhận xét về Trần Bá Ngọc: "Hoành chế đồi ba, thiên hạ hấp nhiên chất văn nhất biến!" Giả sử ngài TC-N đường hoàng biết rõ Trần Bá Ngọc có địa vị thế nào trong giới Đường đại thi nhân, làm bài thơ đó trong hoàn cảnh nào, tâm trạng thực sự của ông ta trong bài thơ đó ra sao, khí phách trong bốn câu thơ đó lẫm nhiên trùm đời thế nào, đoan chắc ngài ta chẳng dám dẫn bừa, hoặc ngắt ra be bé dán chỗ này một tí, chỗ kia một tí.
Trích dẫn:
Nguyên văn gởi bởi Quận Chúa Quỳnh Anh
Đâu có, trong khi chờ diễn viên chính xuất hiện, thì muội phải hát "thế" để câu giờ mà, kẻo khán giả la ó đòi trả vé.
|
Chứ không phải diễn viên chính tài giỏi của chúng ta đang bận nói ngọng, chưa đọc nhuần bài văn chuẩn bị nên để nữ nhân ra mặt đỡ đòn giùm, phải hok ngài diễn viên?
P.S. Ẹc, hai chữ "tài năng", "chỉ giáo" của muội, huynh không đỡ nổi mô. Vì, đọc đến mấy chữ kiểu như thảo nguyên "tắt-mở" của ngài TC-N, huynh toàn là bỏ của chạy lấy người không hà
Còn chuyện nữa: sở dĩ huynh nói muội dùng từ phù phiếm hoa mỹ, là vì đọc vào mấy bài về Phật đạo của muội, cảm giác rất thiếu không khí. Danh từ mà rợn ngợp bóng loáng quá, thường là rút hết tinh thần của câu. Đôi khi huynh hơi tiếc vì muội có phần sa đà vào đường lối trọng từ không trọng ý của TC-N. Nếu cái hồn của tiếng Anh nằm ở động từ, nhất là tiếng preposition theo sau động từ, thì cái hồn của tiếng Việt đa phần toát ra từ tiếng tính từ trong câu.