Tự Đức (1847-1883)
Tài Bông Lơn Của Một Kép Hát
Cáp Tô Văn Ngồi Tù
Tiêu Tán Sáng Tạo Ăn Gan
Vì Sao Lại Sửa Tuồng Bàn Dân Gian
Khi Vua Nổi Giận
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
TÀI BÔNG LƠN CỦA MỘT KÉP HÁT
Sau khi bị mất 6 tỉnh ở Nam Kỳ, vua Tự Đức rất buồn phiền, suốt ngày trầm tư, không cười, ít nói. Để vua giải khuây, triều thần đề nghị cho đội tuống Thanh Bình vào trình diễn để vua xem. Bà Từ Dũ Hoàng Thái Hậu lại hứa ban thưởng cho ai đem lại nụ cười cho vua. Đội Vung - Đội trưởng đội tuồng Thanh Bình- xin đảm nhiệm việc ấy.
Khi đội Vung ra sân khấu thì vua Tự Đức đang hút thuốc lá. Đội Vung đang sắm vai vua, thấy vậy chạy lại gần Tự Đức nói:
- Cho tớ hút một hơi.
Vua Tự Đức đang buồn phiền thấy vậy cũng phải phì cười nói " mi táo gan hè " và tha cho cái lỗi phạm thượng ấy.
Đội Vung, sau buổi biểu diễn ấy, được lãnh thưởng của Hoàng Thái Hậu.
CÁP TÔ VĂN NGỒI TÙ
Đội Vung là kép giỏi của đoàn tuồng Thanh Bình, có tội phải vào tù, vì bị phát giác nằm trên máng xối của điện Thái Hoà để nghe bàn quốc sự, sau vụ Đoàn Trưng đột nhập Kinh Thành, mưu việc đưa Đinh Đạo lên ngôi không thành.
Nhân một buổi diễn tuồng cho vua Tự Đức xem, vai Cáp. Tô Văn không ai thủ xuất sắc, đội trưởng đội tuồng bẩm lại với vua cho thay tuồng khác.
Tự Đức hỏi lại lý do, đội trưởng mới tâu lại là phi đội Vung, không ai thủ nỗi vai Cáp Tô Văn, một tướng dữ đời Đường , suýt giết được vua Đường nếu không có Tiết Nhơn Quý phò trợ.
Vua Tự Đức đang lúc muốn xem tuồng , liền phán cho người vào tù kêu đội Vung cho ra tù đóng Cáp Tô Văn.
Xong việc, Cáp Tô Văn vào ngồi tù lại.
TIÊU TÁN SÁNG TẠO ĂN GAN
Tại nhà hát Duyệt Thị Đường , kép đóng vai " Tiêu Tán ăn gan " thật xuất thần. Vả khuôn mặt , tay chân , điệu bộ rất hấp dẫn người xem. Vua Tự Đức cũng bị tài nghệ kép hát lôi cuốn, hứng chí bảo nhỏ với quan bộ Lại ngồi cạnh bên:
- Ghi mau cho Trẫm, tên này được phong hàm bát phẩm.
Nhưng Tiêu Tán đang lúc say sưa diễn, muốn " sáng tạo thêm chút ít ", do ăn gan đã hết, đến khúc ruột , gặp khúc ruột thúi , nên phun phì phì. Thấy vậy , Tự Đức nổi giận:
- Nó diễn trước mặt Trẫm mà dám phun thứ hôi thói ấy, mau xoá bát phẩm.
VÌ SAO LẠI SỬA TUỒNG BÀN DÂN GIAN
Nhân ngày khánh tiết, bà Từ Dũ Cho vời đoàn Thanh Bình vào hát trước sân cung Thọ Ninh cho các bà Thái Hậu xem. Hôm ấy đoàn hát tuồng truyện , vở Đường Chinh Tây, lớp " Phàn Lê Huê tru huynh sát phụ ". Các diễn viên đóng rất đạt. Đặc biệt là Phàn Lê Huê do một kép già đào đóng tài tình vô cùng.
Xem xong , bà Từ Dũ có vẻ không vui. Bà liền bảo đội trưởng vào bảo:
- Người Tàu đặt truyện thật là nghịch lý nhẫn tâm. Đặt cho Phàn Lê Huê tài phép đến thế , có chuyện chi gấp rút mấy đi nữa thời với tài ấy tránh trút như chơi. Chớ chi phải đến nổi giết anh, giết cha chẳng còn tình nghĩa chi hết. Người Tàu khác, người mình khác, người đặt truyện đã đặt bậy cớ sao người soạn tuồng cũng soạn bậy luôn? Phải sửa lại đừng cho như vậy mới là hợp lý và thuận với người nước ta !
Đội trưởng đội Thanh Bình nhận tội và hứa sẽ sửa lại .
Vua Tự Đức nghe mẹ phê phán đội Thanh Bình, ông cũng cảm thấy có phần trách nhiệm. Sàu đó nhà vua cho thu tất cả các bản tuồng đang lưu hành trong dân gian đưa về Kinh nhuận sắc lại hết. Vở nào không đúng với đạo lý Việt Nam đều phải sửa. Từ đó mới có tuồng Kinh Bản và Phường Bản. Phường Bản là bản tuồng ở dân gian, Kinh bản là bản tuồng đã được sửa chữa lại tại Kinh Đô
( Theo Đại Nam Liệt truyện và Tử Dũ Hoàng Thái Hậu truyện )
KHI VUA NỔI GIẬN
Vua Tự Đức thường được truyền tụng là điềm đạm, nhưng vẫn có lần ông này nổi nóng, mất bình tỉnh. Giai thoại kể lại như sau:
Để giải khuây trước cảnh đất nước bị Pháp xâm chiếm, ông thường ngự thuyền trên sông Hương bắn chim bằng súng. Mỗi lần nhà vua bắn được chim rơi xuống sông, quân lình chèo thuyền rồng lại để các cung nữ khều chim bằng những cây sào dài. Những lúc như vậy cần phải giữ thái độ nghiêm túc, vì đang ở trên thuyền rồng của vua. Không hiểu tại sao, một lần có cung nữ vừa khều chim, vừa buông tiếng cười cợt. Nhà vua tức giận, ra khoang thuyền, thấy cung nữ vẫn không dứt tiếng cười, sẵn súng cầm tay liền bắn tại chỗ.
Các cung nữ thấy vậy đều xanh mặt, chẳng dám hó hé một lời.
Nhà vua bắn xong mới tỏ vẻ hối hận. Có lẽ đó là lần đầu. Tự Đức đánh mất tính điềm tỉnh của mình
( Theo Phan Văn Dật )
Tự Đức (1847-1883)
Nhìn Lại Bản Thân Mình Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vua Tự Đức không có con nên tự mình viết văn bia cho mình. Qua văn bia ở Khiêm Lăng
( Khiêm Cung Ký ) nhà vua muốn thố lộ tâm sự . Một ông vua ở trên ngai vàng khá lâu, trong hoàn cảnh đất nước gặp nhiều khó khăn, thay đổi, cho nên " Không khỏi tiếng thị phỉ ; Đây là một phương cách nhìn lại bản thân và tự đánh giá những việc làm của vua Tự Đức trong thời gian trị vì.
. . .
... Tính ta lại ít nói, cho nên không phải bạn chí thân, dù là thân cận đại thần gặp nhau khi vào triều thì cũng ít khi bàn việc quan hay lên mặt như kẻ khác, do đó hầu như ta có ít người để giao thiệp nhưng ta vẫn cứ yên vui sống trong lặng lẽ và vụng về ấy.
Khí huyết, ta vốn yếu đuối , thân thể thường gầy gò, trong lúc tuổi trẻ đang yên ổn này mà việc nối dõi còn khó có thể an ủi được lòng mong chờ của cha mẹ, thật quá hổ thẹn, nhưng đang buổi đầu ta chưa quan tâm lắm.
Gần đến tuổi trưởng thành, vào tháng sáu bỗng mắc bệnh đậu mùa rất nguy kịch, nhờ cha mẹ hết sức thuốc thang cầu đảo, tháng tám mới khỏi. ( 1)
( .......)
Còn như việc giặc cướp trong , ngoài có lúc làm mê loạn lòng người nhưng rồi cũng yên, ấy là nhờ vào sức mọi người chứ mình ta thì chẳng làm gì được.
Ôi! Dốt nát mà quen sống yên ổn, mông muội mà ở chốn nhà cao cửa rộng chẳng biết phòng bị, tôi tài tướng giỏi cũng đã tàn tạ hơn phân nữa, mấy ai có thể khôi phục lời di huấn về việc canh giữ biên cương của cha ta để giúp ta bước khỏi vòng tội lỗi? Trời cao lại trừng phạt nặng nề để răn dạy vua tôi ta. Người Âu Châu xa cách ngàn trùng dương vạn dặm, phong tục chẳng giống nhau, mà nước lại là nơi quen biết cũ, bỗng đưa quân lính thuyền bè đến, bỏ tình hoà hiếu mà tìm cách xâm lược bờ cõi, chúng cậy tàu bền, súng tốt giày xéo để hòng nuốt chửng đất Quảng Nam, phá phách đất Gia Định. Đất Bắc vốn ưa làm loạn nhân thể cũng nỗi lên. Hưởng thái bình đã lâu ngày, dân không biết chiến đấu, canh thành giữ chốt nào được mấy người?
Khiến đất nước đầy trộm cướp , trong gian ngoài giặc, chúng cấu kết với nhau ngày càng tràn lan, chúng đến đâu thì tàn hại như gió bão, thử hỏi biết cùng ai để bảo vệ bờ cõi của ta huống chi là việc bảo vệ dân ta? Bất đắc dĩ phải đánh qua loa cho xong chuyện nhưng dân thì ngày càng quấy nhiễu. Để thôi mệt nhọc, nhân giặc cầu hoà ta đành phải sai sứ cùng chúng bội ước, những nhà nho lão thành, những đại thần uy vọng đều lấy làm bùi ngùi và xin đi, rồi chẳng hiểu sao lại quá dễ dãi trong việc thương thuyết mà trở về. Các triều đã dày công khó nhọc mở mang đất đai tụ họp dân chúng, bỗng nhiên một sớm thấy giao cho địch, họ đã chọn lấy cái họa nhỏ nên đã dùng cái chết để khỏi nhục mạng vua, quả như thế chăng? Khiến ta cùng với một bề tôi thân cận chẳng làm sao hơn, chỉ còn biết nhìn nhau mà nuốt nước mắt, đành đắc tội với tông miếu và thiên hạ. Kẻ mất chẳng hoàn thành được ý chí và sự nghiệp, người còn thì đằng đẵng xót thương lo lắng không sao khuây được. Đó là cái dẫn đến chỗ thảm khốc . Nếu cho rằng đành bỏ cái đã mất để lo xoay xở cái nguy mới hiện ra, thật không làm như thế thì làm sao giữ được việc đã qua ? Than ôi, nếu bỏ là có công tất mất là có tội, nếu mất mà chưa cho là tội thì sao bỏ gọi là công? Hai điều ấy chắc có thể phân biệt được. Kẻ kia làm mất nay ta thu lại được nên gọi là công, huống hồ kẻ kia làm mất , ta lại hùa theo mà n bỏ luôn, ôi công sao? Sao có thể đo lường trái đến vậy mà cho là trí, dối trá như vậy mà cho là công? Những kẻ bàn luận riêng tư còn cho như thế, nên họ chối bỏ chẳng đoái hoài gì đến nước nhà, thế nên chẳng lạ gì họ ngày càng uể oải ,trốn tránh do đó chính sự ngày càng phiền phức, không biết lòng người có từng thổn thức đau đớn hay không? Nhưng không sáng suốt trong việc biết người ấy là tội của ta, hằng trăm việc không làm được đều là tội của ta cả, bắt đắc dĩ phải thuận theo quyền mà hành động, những mong được một phút nghĩ ngơi nhưng thiên hạ từ đó bắt đầu sinh ra lắm chuyện ...."
( Trích Khiêm Cung Ký - Phan Hứa Thụy dịch)
( 1 ) Vì mắc bệnh này mà vua Tự Đức không có con nối ngôi.
Dục Đức
Sự Phế Bỏ Dục Đức
Những Ngày Tù Tội
Nấm Mồ Kỳ Lạ
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
SỰ PHẾ BỎ DỤC ĐỨC
Ngày 14 tháng 6 năm thứ ( 17 - 7 - 1883 ) , vua Tự Đức truyền đến các đại thần trong Viện Cơ Mật bản di chiếu chỉ định con nuôi lớn tuổi nhất là Thụy Quốc Công Ưng Chân nối ngôi, Trần Tiễn Thành là Phụ Chính Đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết là đồng Phụ chính Đại thần . Trần Tiễn Thành dâng sớ xin vua bỏ bớt mất đoạn liên quan đến tính nết xầu của Dục Đức và việc Dục Đức " không đảm đương được việc lớn " , vì những ý kiến ấy chỉ làm tổn hại đến danh dự và uy tín của người phải nắm lấy vận mệnh của quốc gia vào thời kỳ vương triều gặp nhiều khó khăn .
Nhưng vua Tự Đức không đồng ý bỏ mấy câu ấy, mà theo nhà vua , nhầm mục đích " nhắc " người kế vị phải tự răn mình, tu tỉnh"
Vua Tư Đức băng hà vào ngày 16 tháng ấy. Hoàng Tử là Thụy Quốc Công vào vào điện Hoàng Phúc chịu tang. Nhưng ngày 18 , không có sự đồng ý của Trần Tiễn Thành , Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết dâng lên Hoàng Thái Hậu tờ hạch tội người được kế vị theo di chiếu và xin cử người khác thay. Bản hạch tội kể ba tội lớn của Hoàng Tử là:
1- Muốn sửa di chiếu.
2- Có đại tang mà mặc quần áo màu
3- Hư hỏng , ăn chơi
Hoàng Thái Hậu Từ Dũ chấp thuận, truyền rằng:
- Tiên đế cũng biết các tật xấu của người mà mà Ngài chỉ định kế vị và hết sức lo lắng, song sở dỉ phải chọn Hoàng Tử vì tình hình thù trong giặc ngoài đe dọa, cần có vua đã trưởng thành để cầm quyền chính. Nhưng bởi ông Hoàng ấy không bỏ tính xấu nên cần được thay thế.
Trong buổi thiết triều, khi Nhguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết trình bày cho Tôn thất và quan lại biết lý do phế Thụy Quốc Công; Trần Tiễn Thành định can thiệp , nhưng Thuyết giận dữ thét:
- Ông cũng có tội nặng, còn định nói gì?
Cả y triều đình cúi đầu khuất phục, chỉ trừ quan khoa đạo Phan Đình Phùng can rằng :
- Tự quân chưa có tội gì mà phế bỏ như thế, thì sao phải lẻ .
Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truyền bắt ngay lập tức . Sau nhờ sự can thiệp của Nguyễn Trọng Hợp, làm cho Thuyết hiểu là một người dũng cảm đến thế sẽ có lúc giúp ích được việc lớn , vị Thủ lãnh tương lai của phong trào Cần Vương mới chỉ bị cách tuột hết chức tước và đuổi về quê.
Lăng Quốc Công Hồng Dật, em vua Tự Đức được đưa lên ngôi.
Sau lễ tấn phong Lăng Quốc Công, lấy hiệu là Hiệp Hòa, Trần Tiễn Thành được thăng lên Thái Bảo Cần Chánh điện Đại học sĩ; các quan Khoa Đạo Hoàng Côn và Đặng Trần Hanh dâng bản hạch tội ông đã cố ý bỏ qua mấy đoạn trong tờ di chiếu mà ông được giao đọc ở nhà Hữu Vu.
Hiệp Hòa đưa sự việc ra đình nghị, Trần Tiễn Thành phải trả lời về lời buộc tội ấy và dâng tờ sớ như sau:
- Ngày 14 tháng truớc, tiên đế triệu chúng thần vào điện, thần Trần Tiễn Thành cùng chúng thần Nguyễn văn Tường và Tôn Thất Thuyết, để trao cho chúng thần tờ di chiếu để trong hộp. Chúng thần sang phòng thái giám để kính đọc. Di chiếu có đoạn như sau:
- Tính hiếu dâm, ngoài ra tâm tính rất xấu, không đương nổi việc lớn "
Thần Nguyễn Văn Tường nói:
- Di chiếu là để lập người nối ngôi trời. Sợ đoạn này không hợp lắm, nên xin bỏ đi. Thần Tôn Thất Thuyết và tiện thần Trần Tiễn Thành cũng cùng một ý và chúng thần đã cũng dâng sớ tâu xin như thế. Nhưng tiên đế bác đi. Ngày 18, Thụy Quốc Công triệu chúng thần đến điện Quang Minh và bảo:-
- Nhà vua đứng đầu trăm họ cũng phải là người đứng đầu về đạo đức. Trong di chiếu của tiên đế, vì lo cho tương lai nên có lời răn bảo nghiêm khắc, chẳng hạn như đoạn nói về sự bê tha . Hoàng tử nói không dám trái ý tiên đế , nhưng bảo thêm: " Tuy nhiên, đúng vào lúc trong nước rối loạn, quan hệ ngoại giao thì căng thẳng, nếu tin đồn về di chiếu loan ra, chẳng những bọn gây rối lấy đó làm cớ, mà các lân bang cũng vì vậy mà coi khinh. Làm thế nào cứu gỡ tình hình này? " . Hoàng tử hỏi có thể bỏ đoạn ấy không, nhưng tự mình không dám . Chúng thần đáp là Hội đồng Phụ Chính đã xin bỏ đoạn ấy nhưng tiên đế không cho và nay thì không còn có thể thay đổi gì được nữa. Hoàng tử yêu cầu mọi người suy nghĩ thêm, sao cho khỏi tổn hại đến việc quốc gia.
Ngày 19 ( ngày tuyên đọc di chiếu) thần Nguyễn Văn Tường cáo bệnh xin nghỉ. Tiện thần nhiều lần xin cáo vì tuổi già. Thần Tôn Thất Thuyết cho rằng thần là bậc trưởng lão , không chịu vượt qua để đọc di chiếu . Thế là lễ tuyên chiếu đã sẵn sàng . Không thể từ nan , Thần phải đọc di chiếu . Song thần quá đỗi đau thương nên mắt mờ , tai điếc, tâm trí bất định do gần đây có bệnh . Thần cũng không nhớ rõ mình có sai sót gì không khi đọc. Nay quan Khoa Đạo hạch tội, thần xin chịu mọi hậu qua.
Sau đó, Trần Tiễn Thành bị giáng hai cấp. Ông bèn xin miễn việc quan, về quê tỉnh dưỡng.
( Theo Quốc Triều Chính Biên, và Đào Duy Anh: Phụ chính đại thần Trần Tiễn Thành
NHỮNG NGÀY TÙ TỘI
Sau khi bị truất phế, Thụy Quốc Công bị giam ở Dục Đức đường , nhà học của Ưng Châu khi chưa làm vua . Tại đây, nhà vua ở trong một phòng kín mít vừa được cấp tốc xây lên.
Trong khi bị giam, hằng ngày Dục Đức chỉ được một phần cơm như phạm nhân thường mà người quen ăn ngon chẳng thể nào nuốt được . May nhờ có một người lính canh gác thương tình chủ cũ , hằng ngày đút vào cho một nắm cơm và một cái áo cũ thấm nước để vắt ra mà uống . Nhờ vậy Dục Đức sống cực khổ kéo dài gần được ba tháng ( 22 - 7 - 1883 đến 6 - 10 - 1883 ) Khi bị lộ chuyện, tên lính không tiếp tế cơm nước nữa. Dục Đức bị bỏ đói , chết khát trong ngục, sau cơn hấp hối cực kỳ đau đớn, thảm khốc.
NẤM MỒ KỲ LẠ
Sau khi chết vì tuyệt vọng và đói khát trong ngục, thi hài ông vua xấu số này được gói vào một chiếc chiếu giao cho hai tên lính và một quyền suất đội gánh đi . Đám tang lạnh lùng này định đưa về An Cựu để mai táng trong địa phận của chùa Tường Quang, nhưng mới đi được nửa đường thì chiếc quan tài bằng chiếu bị đứt dây, một người lính đã chạy vào chùa Tường Quang mời nhà sư trụ trì ra xử lý. Gặp lúc mưa gió, tối trời nên chẳng mấy ai nhiệt tình trong việc di chuyển thi hài nhà vua vào chùa.
Hơn nữa, ai cũng tin rằng, nhà vua đã tự chọn nơi ở vĩnh viễn của mình tại đó. Mảnh đất " thiên táng " ấy được chọn làm nơi mai táng thi hài một ông vua xấu số bậc nhất của triều Nguyễn.
Ba ngày sau , vợ con nhà vua mới được thông báo để làm lễ chịu tang . Tượng truyền rằng, về sau có một lão ăn mày kiệt sức, nằm chết còng queo trên nấm mồ của ông vua Dục Đức , dân địa phương bèn đem chôn ông ta ngay trên nấm mồ nhà vua mà không hay biết.
Sáu năm sau, do một hoàn cảnh bất ngờ, con trai của vua Dục Đức là Bửu Lân được lên làm vua. Sau khi tức vị, Bửu Lân đặt niên hiệu là Thành Thái và bắt đầu cho xây đắp lăng mộ của vua cha ngay tại nấm mồ " thiên táng " đó .
Nấm mồ có cả thi hài của ông vua xấu số và lão ăn mày tốt số
Hiệp Hòa
Lệ Tấn Tôn Hiệp Hòa
Cuộc Tranh Chấp Giữa Hai Thế Lực
Cái Chết Bi Thảm
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
LỄ TẤN TÔN HIỆP HÒA ( 1)
Sau khi truất phế Dục Đức , Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đề nghị lên đức Từ Dũ Hoàng Thái Hậu đưa Lăng Quốc Công Hồng Dật - em ruột Tự Đức, con thứ 29 của Thiệu Trị - lên làm vua.
Được sự đồng ý của đức Từ Dũ, Tường và Thuyết cử một phái đoàn lên Kim Long rước Lăng Quốc Công vào Đại Nội để chuẩn bị làm lễ tấn tôn. Nhưng Lăng Quốc từ chối . Năn nỉ mãi chẳng được , cuối cùng phải dùng võ lực ép ông lên kiệu, rước vào Cấm Thành , hai hôm sau làm lễ tấn tôn tại điện Thái Hoà.
Tương truyền trong buổi lễ, khi các quan đương sắp hàng lạy, có một con chim đậu trên ngọn cây trước điện kêu tiếng lớn. Đến khi đọc di chiếu, lại có một đoàn dê đi qua cầu Kim Thủy. Người ta cho là điềm không tốt.
Quả nhiên, Hiệp Hòa chỉ làm vua được 4 tháng 10 ngày trong một hoàn cảnh vô cùng khó khăn.
( Theo Quốc triều chính biên )
CUỘC TRANH CHẤP GIỮA HAI THẾ LỰC
Hiệp hòa lên ngôi lúc 37 tuổi nên không cam tâm làm tên bù nhìn trong tay hai phụ chính Đại thần, chỉ chờ cơ hội thuận lợi là tìm cách thoát khỏi. Cơ hội ấy là ngày ký Hiệp Ước Harmand ( 25 - 8 - 18883 ) sau khi Pháp chiếm Thuận An. Hiệp Hòa thông đồng với hai người tin cậy của mình là Hồng Sâm, con trai Tuy Lý Vương và Hồng Phi con trai Tùng Thiện Vương . Nhà vua giao cho Tuy Lý Vương cầu viện nhà cầm quyền Pháp giúp đỡ.
Ngay từ tháng tám, Hiệp Hòa đã có ý định từng bước loại bỏ Tôn Thất Thuyết. Để dập tắt dư luận chống đối cho là mình chuyên quyền, Tôn Thất Thuyết vờ xin thôi nhiệm vụ ở Bộ Binh, vua nhân có lời xin ấy đã chuyển Thuyết sang bộ Lễ , rồi sang bộ Lại thay cho Nguyễn Trọng Hợp phái làm khâm sai ra Bắc Kỳ . Nhưng Tôn Thất Thuyết đâu cam chịu mất quyền lực có được cơ nắm quân đội. Ông không sang nhận nhiệm vụ mới ( ở Bộ Lại ) và trong thực tế vẫn tiếp tục điều hành bộ Binh. Chính từ lúc ấy Thuyết bắt đầu cảnh giác đề phòng nhà vua.
Mặt khác Hồng Sâm và Hồng Phi cậy vào sự ủng hộ của Hiệp Hòa, có lần công khai chỉ trích chính sách của hai vị Phụ Chính Tường Và Thuyết ngay giữa buổi thiết triều .
Khoảng 4 tháng sau khi lên ngôi, Hiệp Hòa nhận được một tờ mật sớ của Hồng Sâm và Hồng Phi xin giết hai quyền thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết.
Theo một số người đương thời, sau khi đọc tờ sớ , Hiệp Hòa châu phê: " Chuyển cho Trần Tiễn Thành " và sai thái giám Phạm Tác giao lại cho Hồng Phi. Nhưng viên thái giám nhầm lẫn trao cho thượng thư Phạm Như Xương. Phạm Như Xương vội chuyển ngay cho nhà vua văn thư không phải dành cho chính mình . Hiệp Hòa nổi giận phạt Phạm Tác 30 roi. Chính sự trừng phạt ấy dẫn Phạm Tác đến chỗ phản bội.
Theo nhân chứng khác , sau khi xem sớ và châu phê: " Chuyển cho Trần Tiễn Thành " , Hiệp Hòa giao cho thái giám Trần Đạt đích thân mang đến cho Trần Tiễn Thành. Theo thông lệ , tờ sớ đặt trong chiếc tráp có đóng ấn riêng. Trời chập choạng tối, viên thái giám đến cửa Nhật Tinh thì gặp Nguyễn Văn Tường đang vào cung. Thấy viên thái giám bối rối . Tường sinh nghi, bèn đoạt lấy chiếc tráp, mở ra lấy tờ sớ ghi bản án tử hình của ông ta. Nguyễn Văn tường đi thẳng đến bộ Binh, Tôn Thất Thuyết đang ở đó. Sau khi Thuyết biết rõ sự việc, ông đề nghị triệu tập ngay đình thần để xử tội trạng vua Hiệp Hòa , Trần Tiễn Thành , Hòng sâm, Hồng Phi mưu sát các viên Phụ Chính.
Lấy chữ ký các quan xong, Nguyễn Văn tường và Tôn Thất thuyết thân hành vào cung Diên Thọ để dâng lên Hoàng Thái hậu tờ sớ ấy, xin Hoàng Thái Hậu cho phế vua Hiệp Hòa, lập người khác, đó là Ưng Đăng, hoàng tử thứ ba của vua Tự Đức.
( Theo Phụ Chính đại thần Trần Tiễn Thành - Đào Duy Từ )
CÁI CHẾT BI THẢM
Sau khi phát giác được âm mưu của Hiệp Hòa với Hồng Sâm, Hồng Phi, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đồng tình thực hiện ngay dự án của mình. Ngay trong đêm 28 thánh 11 ( 29 tháng 10 Âm lịch ) sau khi các cửa Hoàng thành đóng kín ) vào canh hai ( 20 giờ ) , Tôn Thất Thuyết thu tất cả chìa khóa và biện minh việc ấy bằng cách báo cho vua biết là bên ngoài có những người bất mãn tụ tập. Mặt khác , Thuyết tụ tập đội cận vệ riêng của mình , do Hồng Chuyên cầm đầu ở một vị trí bên hữu ngạn sông Hương, đồng thời sai Ông Ích Khiêm và Trương Đăng đệ dẫn 50 người lình vào điện Càn Thành bắt buộc vua tự xử mình theo lệ " tam ban triều điển ", dành cho các đế vương, khanh tướng phạm tội tử hình.
Theo Đào Duy Anh, khi Hiệp Hòa biết cơ mưu bất thành, quanh mình chỉ thấy vài viên thái giám, không biết làm sao chống lại, bèn quyết định soạn sẵn tờ chiếu thoái vị , trong đó nhà vua yêu cầu được quay về tư dinh. Người ta mang kiệu đến đưa nhà vua cùng những người tùy tùng, theo lời họ nói là đi về dinh cũ của vua, nhưng trước đó , Ông Ích Khiêm và Trương Văn Để ( không phải Trương Văn Đệ - TTB ) đã được lệnh đón ở cửa Hiển Nhân để đưa kiệu về Dục Đức Đường , bấy giờ đã trở thành nhà Hộ Thành.
Ở đó , Ích Khiêm và Văn Để đưa cho Hiệp Hòa một thanh gươm, một dải lụa điều và một chén thuốc độc, yêu cầu vua chọn cái chết cho mình. Thấy vua do dự , Ông Ích Khiêm ép đổ thuốc độc vào miệng vua và bóp mũi để buộc vua phải nuốt. Thuốc công hiệu ngay và ông vua khốn khổ lăn lộn quằn quại . Đúng vào lúc đó , Đề Đốc Trần Xuân Soạn mang lệnh của Tôn Thất Thuyết bảo phải làm nhanh , người ta sợ người Pháp can thiệp để giải thoát vua, và Ông Ích Khiêm đã kết liễu mạng sống nạn nhân bằng ba thanh gỗ đập vào cổ họng, vào ngực và bụng. Cú đánh thứ nhất làm vỡ thanh quản và cú thứ ba làm lòi ruột ra
( Theo Phụ Chính Đại Thần Trần Tiễn Thành - Đào Duy Từ )
Kiến Phúc
Kiến Phúc Lên Ngôi Trong Nước Mắt
Một Câu Nói Đổi Mạng Đế Vương Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
KIẾN PHÚC (1) LÊN NGÔI TRONG NƯỚC MẮT
Kiến Phúc là hoàng tử thứ ba của vua Tự Đức, nguyên là con thứ ba của Kiên Thái Vương, phủ thiếp là bà BùiThi- Thanh, sanh năm Kỷ Tỵ ( 1869 ) . Năm thứ 23 tri::4Ầ10:: Tự Đức , tháng Giêng , Tự Đức truyền đem vào cung, nuôi làm Hoàng Thiếu Tử. Khi ấy nhà vua mới hai tuổi, bà Học phi Nguyễn Văn Thị phụng mạng nuôi nấng.
Sau khi hai quan Phụ Chính Đại Thần họp các quan văn, võ ở Tịch Điền để các quan cùng ký tên vào lá sớ truất phế Hiệp Hòa và đưa hoàng tử Ưng Đăng lên ngôi, bấy giờ đã sang canh tư ( 2 giờ sáng ) , mưa gió sụt sùi , quan Hậu quân Nguyễn Hanh được cử đi rước hoàng tử ở Khiêm Lăng, nơi hoàng tử được đưa về ở từ sau đám tang vua Tự Đức.
Đó là hoàng tử được vua Tự Đức yêu quý nhất, mới được 14 tuổi, có phẩm cách trang nghiêm, cao quý đáng ngạc nhiên ở một thiếu niên còn trẻ tuổi.
Khi biết có đoàn rước đến, hoàng tử trốn dưới gầm giường ; người ta lôi hoàng tử ra, đưa lên kiệu, mặc cho hoàng tử la hét, khóc lóc . Kiệu của hoàng tử được cáng đến Tịch Điền, vào nhà quan canh. Trời tờ mờ sáng, mưa gió vẫn sụt sùi không dứt
Khi hai vị Phú Chính cho hoàng tử biết sự tình, hoàng tử lấy lý do mình còn ít tuổi và thiếu kinh nghiệm để từ chối ngai vàng, nhưng bị mọi người xung quanh dụ dỗ và thúc ép, rốt cuộc phải nhận lời. Hai vị Phụ Chính báo cho các quan, trong đó có thêm các quan gặp phải phiên trực trong cung đêm đó.
Ngày 1- 12- 1883 Ưng Đăng lên ngôi với niên hiệu Kiến Phúc.
Từ đó , trong dân gian lưu truyền rộng rãi câu đối:
Nhất giang lưỡng quốc nan phân thuyết
Tứ nguyệt tam vương triệu bất tường
Nghĩa là:
Một sông hai nước lời khôn nói
Bốn tháng ba vua điềm chẳng lành
( Kiến Phúc ( 1883 - 1884 )
MỘT CÂU NÓI ĐỔI MẠNG ĐẾ VƯƠNG
Khi chọn Ưng Đăng về làm con nuôi, vua Tự Đức đã giao việc nuôi nấng và dạy dỗ cho bà phi thứ ba là Học Phi. Cho nên khi trở thành vua Kiến Phúc thì thế lực của bà Học Phi lên ngay. Nguyễn Văn Tường thấy được điều ấy nên tìm hết cách để lấy cảm tình của bà Học Phi. Dịp may của Tường đã đến . Kiến Phúc bị bệnh đậu mùa, bà Học Phi ngày nào cũng hầu cạnh đức vua còn bé bỏng, từ tờ mờ sáng đến nửa đêm. Quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường tối tối thường đến chầu Hoàng Đế và Hoàng Mẫu. Kiến Phúc đã nhiều lần bắt gặp thái độ là lơi giữa Nguyễn Văn Tường với bà Học Phi nên rất tức bực.
Một đêm, Kiến Phúc giả vờ ngủ để theo dõi câu chuyện trao đổi giữa hai người. Đến một lúc chịu chẳng nổi . Kiến Phúc kêu lên :
- Lành bệnh rồi tau sẽ chặt đầu cả ba họ nhà mi "
Ngay tối đó, sau khi uống thuốc của bà Học Phi dâng lên, nhà vua qua đời. Cái chết của Kiến Thức tuy vẫn còn trong vòng bí mật, nhưng người đời nghi là Nguyện Văn Tường đã đánh tráo thuốc của Thái T Viện, sau khi nghe câu nói đầy phẫn nộ và nguy hiểm của nhà vua.
Về Thất thủ Kinh Đô cũng có đoạn miêu tả lại sự kiện dẫn đến cái chết của Kiến Phúc:
Ngài vừa mười bảy ( 1 ) tuổi trời
Tánh tình cương nghị dáng người mảnh mai
Đại thần Phụ Chính hai ngài
Riêng phần quan Quận kiêm vai Ngự Điều
Bất phân sớm tối mai chiều
Để khi cần cấp xét liều thuốc thang
Vào ra trong chốn điện vàng
Rất là tương đắc với nàng Học Phi
Một hôm trong chốn cung vi
Quan Quận ( 2 ) cùng với Học Phi chuyện tró
Trao lời lúc nhỏ lúc to
Không màng tai vách, không lo mạch rừng
Tưởng rằng, kín mít như bưng
Nào hay có kẻ ngó chừng một bên
Một hôm ngài Ngự quở lên
" Ai như thầy Quận ở bên kia phòng"
Quan Quận nghe quở chột lòng
Thế rồi tâm niệm bất trung âm thầm
Hằng ngày đã có tiềm tâm
Lòng người hiểm ác thầm trầm ai hay
Đức vua án giá ngày nay
Họ nghi quan Quận có rày liên quan
Người mà có dạ gian ngoan
Ngấm ngầm bán nước, ngấm ngầm hại dân
Tuồi tuy mười bảy thanh Xuân
Mà vua Kiến Phúc có phần anh minh
(1) Thật ra Kiến Phúc mới mười lăm tuổi
( 2 ) Quan Quận : chỉ Nguyễn Văn Tường
Hàm Nghi (1884-1885)
Hàm Nghi Những Ngày Bôn Tẩu Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vua Kiến Phúc mất, đáng lý con thứ hai của vua Tự Đức là ông Chánh Mông lên nối ngôi, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết không muốn lập , bèn chọn em ông Chánh Mông là Ưng Lịch lên làm vua, niên hiệu Hàm Nghi lúc đó mới mười ba tuổi
Lễ đăng quang của Hàm Nghi được tiến hành ngày 1 - 8 - 1884.
Làm vua chưa được 1 năm , Kinh Thành thất thủ vào đêm 4 -7 -1885 ( đêm 22, sang 23 Ất Dậu )
vua Hàm Nghi và Hoàng Thái Hậu được Tôn Thất Thuyết mời lên kiệu tẩu thoát.
Hàm Nghi mới 13 tuổi sửng sốt nói :
- Ta có đánh nhau với ai đâu mà phải chạy .
Tôn Thất Thuyết liền rút gươm ra khiến quân lính vực vua lên kiệu, qua cửa Hữu, ra khỏi phòng thành đi về phía Kim Long.
Đến Quảng Trị, đoàn đạo ngự chia làm hai, một đoàn theo đức Từ Dũ trở về Huế gồm có các hoàng thân và quan lại, hoặc già yếu, hoặc mất ý chí chiến đấu và phụ nữ không muốn đi lên Tân Sở . Một đoàn đi theo nhà vua lên Tân Sở gồm những quan văn, võ muốn giữ trọn chữ trung với nhà vua ; với nước và các phụ nữ muốn đi theo cha mẹ , chồng con.
Sáng sớm mồng 9 tháng 7, sau khi bái biệt Từ Dũ Thái hậu và hai bà Trang Ý, Học Phi , nhà vua lên đường ngay và chiều tối thì đến thành Tân Sở . Hàm Nghi cả gày đăm chiêu, buồn rầu vì nhớ Kinh Đô. Sau 3 ngày ở Tân Sở , nhà vua đòi Tôn Thất Thuyết cho người đưa về Huế, nhưng Tôn Thất Thuyết tỏ ý chí quyết chiến với Pháp, nên hai ngày sau Thuyết đệ vua một tờ chiếu kể tội giặc Pháp và yêu cầu nhân dân nổ dậy chống Pháp. Hịch Cần Vương ra đời
Nhà vua đọc hai lần mới phê chuẩn , rồi nói thêm:
- Bây giờ Trẫm mới hiểu vì sao khanh không muốn Trẫm về Huế còn bị giặc Pháp chiếm đóng.
- Vậy nếu công cuộc kháng chiến đòi hỏi phải đi vào sống trong rừng sâu, Ngài có đi không? Tôn Thất Thuyết hỏi:
- Đi đâu cũng đi, sống thế nào cũng được, miễn là đuổi cho giặc Pháp ra khỏi đất nước . Nhà vua nói với giọng trầm , chậm rãi nhưng cương quyết.
Thế là ngày hôm sau, Tôn Thất Thuyết phò vua rời Tân Sở, ngược Mai Lĩnh qua Lào, tiếp tục vượt đèo Qui Hợp, sang địa phận Hà Tỉnh để về Ấn Sơn là nơi mà Tôn Thất Thuyết dự định đặt đại bàn doanh của nhà vua.
Đoàn người trên 500 ra đi từ Hành Cung Quảng trị chỉ còn 200 người cả quan lẫn lính với một cái kiệu trong đó Hàm Nghi đang lên cơn sốt, 6 cái võng, 1 con ngựa, 3 con voi và 50 gánh hành lý
Suốt dọc con đường dài hiểm trở , gian lao, vị vua sơm nếm mùi gian khổ ấy vẫn giữ vững ý chí, trầm ngâm, suy ngẫm về cuộc chiến đấu sẽ vô cùng ác liệt sắp đến.
Hàm Nghi (1884-1885)
Cuộc Chiến Đấu Trong Rừng
Những Ngày Kháng Chiến Cuối Cùng Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
CUỘC CHIẾN ĐẤU TRONG RỪNG
Sau khi ban Hịch Cần Vương, các nơi đều hưởng ứng . Riêng ở Hà Tỉnh Lê Ninh, và Ấm Võ đã lãnh đạo thân hào, nhân sĩ và nhân dân chiếm tỉnh thành, bắt Trịnh Văn Báu, giết Lê Đạt là những người chống lại phong trào Cần Vương.
Triều đình Huế cử Hoàng Kế Viêm ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi và các quan cựu thần về . Trong tờ dụ Đồng Khánh ban cho Hoàng Kế Viêm đại lược nói rằng :
- Nếu vua Hàm Nghi thuận về thì thì sẽ phong cho làm Tổng Trấn ba tỉnh Thanh Hoá, Nghệ An và Hà Tỉnh, lại cấp cho bổng lộc theo y tước vương. Các quan cựu thần như Trương Văn Ban, Nguyễn Trực, Lê Mô Khải, Phan Trọng Mưu , Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nha, Ngô Xuân Quỳnh..... ai về thú thì sẽ được phục nguyên chức , cho làm quan từ Quảng Trị trở vào. Còn các ông Trần Xuân Soạn, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Đình Phùng có chịu về thì sẽ tha những lỗi trước, và phong cho chức hàm khác.
Chẳng có quan nào chịu về đầu hàng cả. Hoàng Kế Viêm chải triệt về tháng 5 năm Đinh Hợi ( 18887 )
Bấy giờ quân của Đề Đốc là Lê Trực đóng ở mạn Thanh Thủy, thuộc huyện Tuyên Chánh; quân của Tôn Thất Đạm là quân của Tôn Thất Thuyết đóng ở ngàn Hà Tỉnh, về hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên. Còn Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Phạm Tuân thì phò vua Hàm Nghi ở mạn huyện Tuyên Hóa.
Trong đoàn hộ giá vua Hàm Nghi còn có Trương Quang Ngọc , con một viên quan đã từng bị triều đình đày lên làng Vè, đem một đội quân Mường rất tinh nhuệ ra hàng, khi biết tin nhà vua đến Ấn Sơn.
Tôn Thất Thiệp giữ gìn nhà vua một cách nghiêm mật, thề sống chết không để cho quân Pháp bắt được . Bởi vậy hễ ai nói đến sự đầu hàng thì bắt chém ngay, cho nên bọn Trương Quang Ngọc tuy đã bị Pháp mua chuộc , nhưng chưa dám hạ thủ.
Ở mé ngoài thì các ông Lê Trực và Tôn Thất Đạm nay đánh chỗ này, mai phá chỗ kia, không sao bắt được. Đại úy Mouteaux đánh đuổi lâu ngày nhọc mệt, bèn xin về Pháp nghì.
Cuộc chiến đấu trong rừng của vua Hàm Nghi vẫn ntiếp tục cho đến tháng chín năm Mậu Tý ( 1888 )
NHỮNG NGÀY KHÁNG CHIẾN CUỐI CÙNG
Từ tháng Giêng đến tháng chín năm Mậu Tý ( 1888) quan Pháp tuần tiễu vua Hàm Nghi , đuổi bắt ông Lê Trực và Tôn Thất Đạm nhưng không thành công . Chúng toan rút về . Bỗng có tên suất đội Nguyễn Đình Tình hầu cận vua Hàm Nghi , ra hàng ở đồn Đồng Cả, khai rỏ tình cảnh cùng chổ vua đóng. Bọn Pháp bèn sai tên Tình đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm, cả hai tình nguyện xin đi bắt vua Hàm Nghi.
Mười giờ đêm ngày 26 tháng 9 năm 1888, Ngọc và Tình đem hơn 20 lính Mường vào vây lều tranh của vua Hàm Nghi trên bờ khe Tả Bảo. Nghe ngoài có tiếng động, quan Thống Chế Nguyễn Thúy và con trai ông 45 tuổi giữ chức Tham biện Nội Các, chạy ra bị tên Ngọc đâm chết ngay.
Tôn thất Thiệp, con út Tôn Thất Thuyết còn đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra cũng bị một lính Mường phóng ngọn giáo vào ngực chết ngay
Biết mình bị phản, vua Hàm Nghi bước ra, cầm thanh gươm đưa cho Trương Quang Ngọc và bảo rằng:
- Mày giết tao đi còn hơn đưa tao về nộp cho Tây.
Vua vừa nói dứt lời thì một tên lính Mường lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy rồi giật thanh gươm ra. Từ đó, nhà vua không nói năng gì nữa.
Sáng hôm sau, Ngọc cõng nhà vua ra đến bến Ngã hai, rồi đưa xuống bè, đi mất hai ngày mới đi đến đồn Thanh Lang, nộp cho viên đại úy coi đồn là Boulangier. Viên đại úy lập tức đưa nhà vua về đồn Thuận Bài ờ sông Gianh, gần chợ Đồn.
Khi nhà vua từ dưới thuyền bước lên, quân đội Pháp do một thiếu tá chỉ huy cử nhạc và bồng súng chào thì nhà vua kéo chăn che mặt lại. Đến khi viên thiếu tá Pháp đọc lời chúc từ thì vua nói :
- " Tôi không dám nhận lời chúc mừng của ông vì tôi chỉ là kẻ bề tôi của vua Hàm Nghi. Vua chúng tôi hiện ở trong rừng. Nếu tôi không bị ốm nặng thì tôi đã tẩu thoát được với nhà vua rồi " .
Từ đó nhà vua lại im lặng. Bọn Pháp lại hoang mang không biết là người trước mặt có thật là vua Hàm Nghi chăng? hay là tên Trương Quang Ngọc phỉnh lừa?
Được tin vua Hàm Nghi tới Thuận Bài, viên đô đốc đồn Thanh Thủy và các đề đốc đến bái yết, nhà vua giả vờ không biết những người ấy, không truyền bảo một lời nào, càng làm tăng thêm sự hoang mang cho bọn quan Pháp .
Giữa lúc ấy, có một cụ già chống gậy đến. Đó là Nguyễn Thuận, thầy dạy vua Hàm Nghi thuo thiếu thời . Vừa thấy thầy cũ, vua Hàm Nghi đột nhiên đỡ cụ và vái chào. Bọn Pháp lúc đó mới tin chắc đó là vua Hàm Nghi , người đã chịu bao gian truân, khổ ải trong rừng sâu nước độc, quyết chiến đấu đến cùng, giờ đã sa vào tay giặc. Lúc đó nhà vua mới 17 tuổi, đã kháng chiến được ba năm.
Hàm Nghi (1884-1885)
Trên Đường Lưu Đày Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
TRÊN ĐƯỜNG LƯU ĐÀY
Từ Thuận Bái, quân Pháp đưa nhà vua về cửa Thuận An, khi bằng võng, khi bằng thuyền.
Tại Thuận An, khi Khâm sứ Rheinard và các cơ quan mật Đại thần đến chào , vua Hàm Nghi cáo ốm không ra tiếp. Sau vì nể, nhà vua phải tiếp Rheinard nhưng tỏ ra lạnh nhạt. Đến khi Rheinard cho biết Hoàng Thái hậu đang ốm và hỏi :
" Nếu nhà vua muốn thăm, tôi sẽ cho tàu về đón ra đây " Nhà vua đáp:
- " Tôi thân đã tù , nước đã mất, còn dám nghĩ chi đến cha mẹ, anh chị em nữa ".
Nói rồi vua cáo ốm, lánh vào phòng riêng.
Từ Thuận An, nhà vua được đưa bằng tàu La Comet vào Sài Gòn, rồi đáp tàu Biên Hòa cập bến Alger ngày 13 / 01 / 1889 Alger là thủ đô nước Algeries , một thuộc địa Pháp nằm trên bờ nam Địa Trung Hải
Ở đây , hằng năm Nam Triều sẽ trợ cấp cho vua hai mươi lăm ngàn quan, và cứ ba năm thay một người phục vụ.