Bà Từ Dũ là mẫu thân vua Tự Đức, Bà là người vừa nuôi nấng vằ dạy học cho nhà vu. Bà rất nhân hậu nhưng cũng rất nghiêm khắc. Suốt 36 năm Tự Đức ở trên ngai vàng, các lễ nghi giao tiếp giữa bà Từ Dũ và nhà vua không hề thay đổi, nghĩa là tương quan mẹ hiền con hiếu vẫn duy trì một cách đẹp đẽ.
Cuộc đời làm vua của Tự Đức có lắm chuyện buồn. Để giải buồn, vua thường xem hát bội hay đi săn bắn... Bà Từ Dũ khuyên con không nên săn bắn.
Có lần nhà vua dâng mẹ mấy con chim mới bắn được, bà lựa ra những con chim bị thương tích nhưng có thể sống được, đem xức thuốc, nuôi cho lành rồi thả chúng bay đi. Bà lấy chuyện Cao Hoàng Hậu đã dạy để nhắc nhở Tự Đức:
- Vật cũng như người, bắn chết con trống thời con mái thương nhớ, bắn con con thời con mẹ thảm buồn, rứa thời bắn làm chi? Muốn tập bắn thời bắn súng điểu thương cho quen, bắn bia hay hơn... Tự hậu phải bớt bớt đi, chẳng nên sát hại sanh vật. Một hôm rãnh việc triều chính, vua Tự Đức ngự săn bắn tại rừng Thuận Trực, bên bờ sông Lợi Nông. Vì sợ mưa phải đi gấp, nhà vua không kịp bấm mạng, ông dặn nữ quan ở nhà tâu lên bà hay. Chẳng hay vị nữ quan bận rộn công việc quên lững không tâu. Đến khi trời mưa to điềm báo sắp có lụt lớn bà mới hay vua Tự Đức đi săn. Bà hết sức lo âu. Hơn nữa trong Nội sắp có kỵ vua Thiệu Trị, mà vua Tự Đức chưa về không biết sắp đặt thế nào.
Bà liền sai quan Đại thần Nguyễn Tri Phương đi rước...
Đi được nửa đường, cụ Nguyễn Tri Phương thấy thuyền ngự đang chèo lên. Vì nước chảy mạnh nên dù cố hết sức thuyền cũng không đi mau được. Gần tối, thuyền ngự mới về đến Nghinh Lương. Trời vẫn mưa như trút, vua Tự Đức vội vã lên kiệu trần ngự thẳng vào cung Gia Thọ lạy xin chịu lỗi với mẹ.
Giận con, bà Từ Dũ ngồi quay mặt vào màn, không nói một lời. Vua Tự Đức tự tay nắm lấy một cây roi mây dâng lên đặt trên tràng kỷ rồi nằm dài xuống chịu đòn...
Sau một hồi lâu, bà Từ Dũ xoay mặt ra, đưa tay hất cây roi mà ban rằng:
- Có một mẹ một con, con đi đâu lâu, thời mẹ ở nhà trông đợi lắm. Sao con đi không báo cho mẹ hay trước? Thôi, tha cho. Đi chơi để quan quân cực khổ thì phải ban thưởng cho người ta!
Vua Tự Đức khấu đầu lạy tạ lỗi:
- Từ nay con không dám vậy nữa!
Khi vua Tự Đức lui ra, bà còn dặn:
- Lo ban thưởng cho xong để ngày mai đi hầu kỵ.
Vua rời cung Gia Thọ.
Chương 22
CÔNG CHÚA CON VUA HÀM NGHI ĐỖ THỦ KHOA BÁC VẬT
Nguồn: trieuvyphung
Thu gọn nội dung
Thượng tuần tháng giêng năm 1889 vua Hàm Nghi được áp giải đến Alger ( Bắc PHhi) và bị giam lỏng tại làng EI Bỉa cách Alger chừng vài cây số. Đây là một vùng hoang dã trên dãy đồi Mustapha Superieur. Nhà vua được giao một ngôi nhà bình dân, trước đó có một khoảng sân rộng, chung quanh là vườn hoa. Lối đi từ trong nhà ra có hai rặng thông, trên cổng vào treo lủng lẳng một cái biển mang chữ “Tùng Hiên” ( villa des pins:biệt thự những cây tùng).
Lúc mới đến, nhà vua không chịu học tiếng Pháp vì nghĩ rằng học tiếng Pháp tức là mặc nhiên thừa nhận kẻ chinh phục mình. Nhưng qua thời gian ông đã suy nghĩ khác đi và thấy rằng : muốn chống Pháp phải thông thạo tiếng Pháp. Và nhà vua liền học tiếng Pápđọc tiếng Pháp và rất có năng khiếu về hội hoạ… Ôn De Varingi phóng viên báo Le Temps đã đến thăm vua Hàm Nghi và đã mô tả chỗ làm việc của nhà vua là:
“ Một phòng rộng lát đá hoa… Nơi đây vua Hàm Nghi thích hơn cả và ngài làm việc suốt ngày ở đó. Trên bàn sách, báo ngổn ngang, các hoạ phẩm treo đầy trên tường. Trên giá vẽ còn nhiều bức đang dở dang. Rồi nào chỗ đánh đàn, nào máy ảnh… Những vật ấy làm lộ rõ cái chí ham hiểu biết , ham sáng tạo của ngài….”
Tuy sống ở xứ người nhưng vua Hàm Nghi vẫn giữ cách phục sức của dân tộc,vẫn khăn lượt,áo dài.Vì thế dân bản xứ thường gọi ông là “ông Hoàng An-Nam le Prince d” An-nam.
Tại Alger, vua Hàm Nghi được dân bản xứ và những người Pháp không có đầu óc thực dân mến phục.Ông chánh án Laloe đã gả con gái cho nhà vua.Sống với người vợ Pháp này,vua có ba người con,hai gái,một trai: Công chúa Như Mai,Công chúa Như Lý, và Hoàng tử Minh Đức. trong ba người công chúa Như Mai nổi tiếng nhất.Nổi tiếng nhờ trình độ học vấn của bà và cũng nổi tiếng về cốt cách con gái Việt Nam của bà(1).
Báo ảnh Pháp tờ Ilustration số ra ngày 12-11-1927, ký giả Jules Vogue đã viết một bài ca ngợi tài năng và cốt cách của công chúa Như Mai.Bài báo cho biết,từ Alger sang Paris vào trường Nông Lâm Công chúa đỗ thứ năm.Trong những năm học ở trường Công chúa là một sinh viên giỏi.
Tháng 7-1927,trong mấy chục ông bác vật thi ra trường , công chúa Như Mai đã đỗ thủ khoa bằng Thạc sĩ Nông Lâm. Kết quả này đã làm kinh động giới báo chí Paris. Công chúa là con gái của một người tù giam lỏng,một người ăn gởi ở nhờ nhưng tài năng có thua gì ông Bertelor và bà Curie ở Âu Mỹ đâu! Bà là người phụ nữ Việt Nam đầu tiên đạt được kết quả cao nhất trong nền học vấn ở Âu châu.
Nhưng trước khi mọi người biết đến tài năng, người ta đã vô cùng kính phục bà về phong cách: suốt thời gian theo học bà thường phục sức theo kiểu đàn bà Việt nam và được mệnh danh là “cô An-Nam”.Các nhà báo chí hỏi vì sao bà lại chủ trương như thế,bà cho biết “ để theo ý muốn của vua Hàm Nghi”
Đỗ xong bằng thạc si Nông Lâm,bà Như Mai về Alger sống với vua cha một năm,sau đó bà đi thực tập ở trường Agro.Sau ngày vua Hàm Nghi mất(1947) được biết bà đang làm việc ở Cannes.Ngoài bằng Thạc sĩ Nông Lâm,bà còn nhiều bằng cấpvề khoa học…
Tài năng cốt cách của công chúa Như Mai đã góp phần làm sáng tỏ thêm tinh thần yêu nước và lòng tự trọng dân tộc của vị vua yêu nước Hàm Nghi.
Chú thích:
(1).Công chúa Như Lý kết duyên cùng với một đại tá không quân dòng dõi hoàng tộc Bỉ,hoàng tử Minh Đức về sau làm sỹ quan chiến xa
Chương 23
VUA THÀNH THÁI CHỌN QUÝ PHI
Nguồn: trieuvyphung
Thu gọn nội dung
Dưới thời các chúa Nguyễn Phúc Lan và Nguyễn Phúc Tần, Kim Long là nơi Đô hội. sau khi chúa Nguyễn Phúc Trân (1687) đưa thủ phủ về Phú Xuân,Kim Long được giao lại cho các ông hoàng,các gia đình quan lại làm nhà thờ,lập vườn và chẳng bao lâu,Kim Long đã trở thành một vùng ngoại ô xinh đẹp,trái cây bốn mùa không thiếu thứ gì… Đặc biệt là con gái Kim Long phần đông làm nghề thủ công ở chỗ im mát,lại xuất thân từ các gia đình có nề nếp,có văn hoá cho nên vừa đẹp người vừa nết na,duyên đang,rất dễ thương… Sự hấp dẫn,nét diễm kiều của con gái Kim Long đã nổi tiếng và vang xa…đến nỗi các bậc quân vương trong cung cấm phải cháy ước mơ để rồi trốn triều thần”vi hành” đến tận nơi mong nhìn tận mặt giai nhân.Dân gian đã ghi nhận trường hợp đó trong câu ca:
“Kim Long có gái mỹ miều
Trẫm yêu trẫm nhớ,trẫm liều trẫm đi”
Câu hát không nói rõ “trẫm” ở đây là ai,nhưng nhiều người quả quyết chỉ có “Ngài Thành Thái” mới dám “liều” như thế…
Chuyện kể rằng :” Vào một ngày tết Nguyên Đán, vua Thành Thái cải trang làm một người dân bách tính đi “liều” lên Kim Long để tìm chọn một Quý Phi.
Đến nơi nhìn khắp đó đây,không gặp ai vừa ý,thất vọng,ông liền thuê một chiếc đò ra vè.Đò ghé vào,khi bước lên,ông trông thấy cô lái,khoảng chừng hai mươi,đang khép nép trong chiếc áo vá vai,với đôi má ửng hồng rất có duyên.Lòng ông bỗng xao xuyến rộn lên một niềm cảm xúc lạ lùng… Ông gọi cô gái đang ở cuối thuyền và hỏi một cách đột ngột:
-Nì,o tê! O có muốn lấy vua không ?
Cô lái đò tình thiệt,nhìn ông khách lạ đời đáp:
-Đừng có nói bậy mà họ lấy đầu chứ!
Giọng nói và điệu bộ thật thà của cô gái thật càng đáng yêu hơn nữa,vua Thành Thái đổi giọng:
-Tui nói thiệt đó,o có muốn lấy vua thì tui làm mối cho!
Nghe thế cô lái đò làng Kim Long thẹn thùng, cúi mặt nhìn lơ chỗ khác.Một quan khác qua đò lớn tuổi,khăn đen áo dài chững chạc chừng như vừa mới dự lẽ về,tủm tỉm cười,vui vẻ bảo cô lái:
-Ni,o tê! O cứ nói “ưng” để coi thử nờ!
Cô lái đò đánh bạo nói nhanh:
-Ưng!”
Vua Thành Thái thích thú đứng dậy đi về phía lái,cầm tay cô kéo ra đầu mui thuyền.Mặc cho cô gái thẹn thùng dùng dằng,ông bảo:
-Rứa thì Quý Phi ngồi nghỉ để trẫm chèo cho!
Nói rồi đi ra sau lái cầm chèo đưa đò đi trước sự ngạc nhiên vui vẻ của mọi người.Trước cử chỉ đó những người ngồi trên đò bỗng nhẫn ra người khách lạ đời kia chác là vua Thành Thái,lòng vừa kính vừa sợ…
Chiếc đò xuôi theo dòng Hương êm ả…Cô lái đò không hiểu chuyện gì sẽ xảy ra…
Đến trước Kinh thành,vua đưa đò vào đậu ở bến Nghinh Lương(trước Phu Văn Lâu) và bảo mọi người”
-Thôi thiên hạc đứng dậy trả tiền đò cho Trẫm và tiễn đưa Quí Phi vào cung!
Mọi người đều phải làm theo ý nhà vua.Tất cả đứng lên,rời đò và đưa cô lái đò Kim Long vô nội làm Quí Phi của vua Thành Thái
(Viết theo Minh Văn và Xuân Trước-sách Việt Luận, lời kể của Bảo Hiền,Cháu nội vua Thành Thái)
Cuối năm 1815 vua Duy Tân sắp lên tuổi mười sáu.Nhân một hôm cắt nghĩa hai chữ “nạp phi”(có nghĩa là vua lấy vợ) cho vua nghe,Thượng thư Huỳnh Côn buột miệng hỏi:
-Ngài đã muốn lấy vợ chưa?
Vua Duy Tân không tỏ ra bẽn lẽn và cũng không cần phải suy nghĩ đắn đo nhiều,ông đáp:
-Vận nước mới đáng lo,chuyện nạp phi không cần gấp.Nếu trì hoãn được chậm bao nhiêu thì càng tốt bấy nhiêu.
Việc từ chối ấy đến tai bà Mẫu hậu Nguyễn Thị Định (mẹ đích của vua Duy Tân).Mẫu hậu rất lo buồn,bà gọi Duy Tân đến và năn nỉ hết lời.Vốn là một con người hiếu thảo,Duy Tân không thể từ chối được cho nên đã nhận lời.
Tin vua Duy Tân đồng ý nạp nhi lan ra khắp Kinh Thành.Thế là các bà mệnh phụ,các ông đại thần có con gái,cháu gái,những người đã từng được chơi trò cút bắt với nhà vua lúc còn thơ ấu vào chầu Mẫu hậu để nhắc lại tên tuổi các con,các cháu mình để mong có người được lọt vào sự chú ý của mẫu hậu
Tương truyền sau đợt cung tiễn ấy các thái giám đã lập được một danh sách chừng 25 người để đăng vua lựa chọn.Nhận được cái danh sách”con ông cháu cha ” ấy,nhà vua chẳng thích thú gì.Ông cứ hẹn rày hẹn mai,lần khần mãi không chịu “chấm” một cô nào.Chờ đợi một thời gian không đạt được kết quả,Mẫu hậu đâm ra sốt ruột.Bà đích thân cầm tờ danh sách hai mươi lăm”người đẹp” chìa ra trước mặt vua và yêu cầu vua thích được cô nào thì phải chấm ngay.Vua chịu nạp phi để sinh người nối nghiệp là “hạnh phúc” của trăm họ,giọng của mẫu hậu hơi gay gắt,không giấu được sự quyết liệt bên trong.Duy Tân biết không chần chừ được nữa bèn chúm chím cười trả lời một cách thản nhiên:
-Con không thể chấm được ai cả,vì con có người yêu rồi!
Bà mẫu hậu mừng rỡ,nước mắt tràn mi,bà hỏi giọng nóng hổi:
-Người yêu của con ở mô? Lên mấy tuổi?
-Ở Cửa Tùng.Hơn con một tuổi!-Duy tân bẽn lẽn khai đáp.
Đêm ngày mơ ước sớm có người nối nghiệp tông đường Mẫu hậu gạn hỏi về người yêu của nhà vua.Không giấu được Hoàng mẫu,Duy Tân hẹn:
-Ba ngày nữa con sẽ mời ả(mẹ) đi với con ra nghỉ mát ở Cửa Tùng mươi ngày.Lúc ấy ả sẽ gặp được cô ấy.Nếu ả đồng ý thì con mới lấy.
Thế là thị vệ lo sắm sửa thuyền rồng để rước Mẫu hậu và Duy tân đi chơi Cửa Tùng.Trời còn lạnh đi Cửa Tùng chẳng thú vị gì,nhưng vì muốn “nhìn mặt” “cô dâu” nên Mẫu hậu phải đi.
Ra Cửa Tùng ngồi chơi suốt năm ngày liền không thấy bóng dáng ai là người yêu của vua Duy Tân cả.Hỏi thị vệ,thị vệ nói nhà vua có tiếp xúc với ai đâu.Mẫu hậu hết sức thất vọng nhưng không tiện nói ra.Đến ngày thứ tám,người phụ trách thị vệ nêu một điều khó hiểu với mẫu hậu:
-Không hiểu sao mấy hôm nay mỗi lần ra bãi tắm vua rất say mê việc đào bới cát,có lần đào rất sâu.Chúng tôi không hiểu tâu thì Ngài đáp”Ta đang đãi cát tìm vàng đây!”
Câu chuyện càng làm cho Mẫu hậu mất ngủ.Sáng hôm sau ngồi nói với con,Mẫu hậu tỏ ra rất buồn.Vua Duy Tân thương mẹ hỏi:
-Hôm nay sao ả có vẻ buồn rứa?
Mẫu hậu nói ngay:
-Con điên sao mà lại đi tìm người yêu trong cát?
Duy Tân giải thích một cách từ tốn”
-Con không điên đâu.Con nói thật đó.Ả đừng buồn nữa.Nếu ở đây con tìm không được thì về Huế thế nào ả cũng gặp được.
Lúc này Hoàng mẫu mới hiểu rõ sự thật:
-Rứa thì ả hiểu rồi.Người yêu của con là Mai Thị Vàng,con gái quan phụ đạo Mai Khắc Đôn chứ gì?
Vua Duy Tân giọng rất vui:
-Thưa ả,đúng thế,vậy ả có bằng lòng không?
Mẫu hậu đáp”
-Ả bằng lòng.Nhưng tại sao con lại chọn như thế?
Vua Duy Tân đáp:
-Vì thân phụ của Mai Thị Vàng là thầy Đôn – người đã dạy con biết chữ,dạy con biết thương nước,thương dân,biết trọng dụng kẻ trung thần và xa lánh bọn nịnh thần.Con tin cô Vàng cũng từng được thày dạy cho như rứa!
Mẫu hậu hỏi:
-Thế thì con có muốn làm lễ thành hôn trước tết không?
-Hãy để thong thả - Vua Duy Tân đáp – càng chậm càng tốt.Dăm ba năm nữa chúng con cũng chỉ vừa đôi mươi thôi!
Nhưng ý kiến của nhà vua không được chấp thuận.Theo tử vi thì nhà vua phải nạp phi ngay.Ngày 12 tháng Chạp năm Ất mão(16-1-1916) được chọn làm ngày nạp phi cho vua
Chương 25
PHỎNG VẤN BÀ VƯƠNG PHI CỦA ĐỨC VUA DUY TÂN
Nguồn: trieuvyphung
Thu gọn nội dung
(Phan Thị Nga thực hiện Báo Sông Hương số 5-6-1936)
… Trời mưa, trong màn mưa,làng An Ninh ( Hậu thôn Kim Long) với những túp lều tranh,trông càng có vẻ tiều tuỵ hơn.Không ai ngờ được rằng trong những túp lều tranh ấy lại có một bà vợ vua ở đó.
Đi một đoạn đường hơi rộng,chúng tôi rẽ vào một ngõ hẻm đầy bùn,hai bên có lùm tre già bổ bóng.Ngót mười phút mới tới nhà Vương Phi.Qua khỏi ngõ cửa hep,bức bình phong hoa cẩn đơn sơ,chúng tôi bấm chân dò từng bước trên sân thảm rêu xanh mà tạt về phía tay phải.Thoáng thấy có một người hình vóc cân phân,bao tóc,đeo kiếng,mặc áo the tím từ nhà ngang đi lên,vụt qua khung cửa nhà trên,bạn tui bấm tui rồi nói nhỏ:
-Vương Phi đó rồi!
Lanh chân chúng tôi bước vào nhà dưới.Một cái nhà tranh nền đất,cụ bà (thân mẫu của Vương Phi) niềm nở dắt tay chúng tôi kéo lên nhà trên,lấy chiểu trải nơi phản gỗ kê ở gian phòng giáp nhà ngang.Tươi cười,cụ bà bảo chúng tôi:
-Các chị có lòng nghĩ tới,đến nói chuyện với bà,thế là tốt lắm.Mời các chị ngồi,chớ có rụt rè làm chi!
Nói thế chúng tôi nghe thế,chứ còn giữ lễ chúa tôi,chưa dám ngồi.
Sau một nụ cười,Vương Phi bước ra,nhẹ nhàng đặt mình ngồi trên chiếu vừa trải,xếp bê he(sic) ra lịnh
-Các chị cứ tự nhiên ngồi nói chuyện cho vui,chớ có ké né!
Tưởng chẳng còn nên từ chối nữa,chúng tôi cùng ngồi một chiếu với Vương Phi.Vương Phi dở trắp trầu mời chúng tôi ăn,rót nước cho chúng tôi uống.
Cúi mặt,Vương Phi đưa đôi tay mềm mại trắng hồng ra vân vê cuốn thuốc.Chốc chốc,người ngước đôi mắt lá đào đen nhánh,mơ mộng nhìn lên chúng tôi,hoặc để trả lời hoặc để mở đầu câu chuyện.Vương Phi không đánh phấn,không thoa son,nhưng cái khuôn mặt đầy đặn,tròn bé,mịn màng,hồng hồng càng nhìn càng dễ mến…
Trong khi nói chuyện,Vương Phi nói bằng giọng rất nhỏ nhẹ,đủng đỉnh,êm ru,thỉnh thoảng lại điểm một nụ cười xinh xắn,ẩn nét buồn rầu thăm thẳm…
Ngồi lâu,mỏi,Vương Phi nhè nhẹ trở chân,tay nâng vạt áo tím hông đã cũ che chiếc quần lĩnh cải màu ua úa.Tôi thoáng thấy một miếng vá bằng bàn tay ở đùi bên phải…Nhìn quanh ba gian nhà thấp hẹp,chẳng nhận ra được một thức gì là dấu vết của ngôi báu ngày xưa,tôi ái ngại!...
Tôi muốn biết cách sống của Vương Phi khi còn ở trong cung,nhưng mở đầu câu truyện rất khó,gợi dần tôi đánh bạo hỏi:
-Dạ,dịp Hội chợ Huế độ nọ bà có đi không?
-Mấy bữa đó trời mưa luôn,tôi không đi,nhưng nghe người ta nói lại thì Hội chợ Huế cũng chằng to bằng Hội chợ ở Sài Gòn,Hà Nội!
-Thế thì ra Bà có xem Hội chợ Sài Gòn,Hà Nội!
-Phải,tôi có đi,hồi mười mấy năm về trước,khi ở Pháp về!
-Lúc đó Bà cũng có sang Pháp nữa sao?
-À có chớ.Khi ở đáo Réunion từ biệt Ngài mà về,tôi có xin phép Ngài tạt qua Paris xem chơi mấy ngày.Lúc đó vừa gặp sau cơn đình chiến.
-Xin phép bà,khi ở ngoại quốc bà có cảm tưởng thế nào?
-Nói thiệt,khi mình chưa đi khỏi nước,mình tự cho đất nước mình là đẹp,là to.Nhưng lúc đã thấy được phong cảnh đất nước họ rồi,nhìn lại xứ mình thì cái đẹp,cái to chẳng vào đâu!
-Thưa bà,Ngài sang đến đảo Réunion bao lâu thì Bà sang?
-Không.Tôi đi với Ngài một lần.Lúc Ngài “bị đi” thì tôi đi ngay với Ngài.
-Ở đảo khí hậu và nhân dân ra làm sao?Có dễ chịu không,thưa Bà?
-Dễ chịu,đất nước không có độc gì cả.Nhân dân thì toàn làm một nghề chài lưới.Họ vui vẻ lắm,mua bán cũng tử tế.Ở đó thổ sản thật nhiều cá,ăn cá quanh năm.
-Ở đó được bao lâu thì bà về?
-Được hai năm.
-Bà đã đi để cùng chịu hoạn nạn với Ngài,chúng tôi tưởng Bà ở luôn bên ấy,không hay sự Bà về!
-Hồi đầu ra đi ,tôi há chẳng nghĩ như vậy?Nhưng tôi không biết làm sao,ở đảo Réunion phong thổ tuy tốt nhưng mà hình như sức khoẻ tôi không hợp,nên tôi hay đau.Vì thế mà tôi xin Ngài cho tôi về!
-Từ đó đến giờ(1936)Bà có sang thăm Ngài lại lần nào không?
-Tôi muốn đi lắm.Nhưng đường sá xa xôi,một lần đi là một lần khó.Trong thời buổi kinh tế này,xin nhà nước một món tiền để đi không phải là sự dễ,mà bỏ tiền nhà ra thì tôi không có tiền.Gặp cảnh nghịch âu là phải chịu.
-Ngài có năng gửi thơ về tham Bà không?
-Có,một năm cũng có đến mươi cái thư của Ngài.Ngài gởi thư về bên Ngài Sanh,vài ba tháng tôi qua hầu thăm một lần,nhận một thể đôi ba cái thơ.Năm ngoái đây,Ngài cho tôi hay Ngài đã có vợ đầm.Vừa rồi tôi nhận được thơ Ngài cho hay người ấy đã đẻ!
-Dạ,lấy vợ đầm,Ngài có xin phép Bà không?Mỉm cười Vương Phi đáp:
-Xin phép chi.Ngài ưng sao,Ngài làm vậy.Ngài chỉ nói cho tôi biết mà thôi.
Đến đây trong óc tôi chợt vụt qua tư tưởng bất bình.Có lẽ bởi tôi thấy một sự bất đồng đẳng giữa một người nam và một người nũ.Hai người ấy đều ở trong cảnh nghịch mà sao một người được lấy vợ khác tự do còn người kia lại không được lấy chồng?
Bấy giờ hẳn cái vẻ mặt bất bình có lộ ra trên nét mặt tôi,cho nên Vương Phi vội vàng nói tiếp,ý chừng để dò:
-Ngài cũng nói: cho phép tôi tự ý.Nhưng các chị nghĩ người không biết suy nghĩ,chẳng nói làm chi.Chứ con nhà nề nếp như tôi dầu thế nào cũng phải giữ danh giá.Vẫn biết tuổi trẻ chưa dám chắc ở mình,nhưng bây giờ có nói đến việc gì cũng là khó.Thôi thì tôi tưởng chỉ có hy sinh cái đời tôi cho Ngài cho trọn.
Câu của Bà vừa nói làm cho tôi thêm ảo não,tôi không thể không nghĩ đến,sự sinh hoạt lẻ loi hiu quạnh của bà,tôi phải hỏi:
-Thế thì lâu nay bà sống với gì?
Thầy tôi trước làm quan thanh liêm nên nhà chằng có chi.Còn lương tiền của tôi chẳng bao tầm.Trước kia mỗi tháng chỉ có 15 đồng,sau kêu nài lắm thêm được 10 đồng.Nếu nhà nước biết nghĩ,phát cho tôi một tháng 50 đồng tưởng cũng không quá đáng.
Lúc này là lúc câu chuyện đã vào được hơi sâu rồi,tôi day qua hỏi:
-Nghe nói đức Duy Tân ngày xua tuy trẻ mà nghiêm nghị lắm,không biết lúc ở thường thì Ngài cư xử với các Bà như thế nào?
-Người ngoài tưởng hễ đã là vua thì phải có tính cách khác thường dân.Tưởng vậy là lầm.Vua cũng như người thường,ngoài giờ làm việc,Ngài vẫn chơi đùa,vẫn nói cười chuyện vãn.Tóm lại vua vẫn sống cái đời bình dị của mọi người…
-Dạ,cách xưng hô giữa Bà và Ngài thế nào?
-Ngài thường kêu tôi bằng bà,có khi bằng khanh,có khi bằng em.Tôi phải tâu gởi Ngài và xưng “em”
-Thưa,ăn có ngồi chung một mâm không?
-Ở trong Nội mỗi Bà có viện riêng.Ai ăn riêng phần nấy,có người nấu cho mà ăn,chớ không có lệ ăn chung.Vì mỗi bà đều có lương tháng cả.Tuy thế,hồi tôi mới vào cung đương còn bợ ngợ, lại chưa tìm được người nấu ăn nên Ngài có cho phép tôi được ăn chung với Ngài.
Ngừng một giây rồi Bà nói tiếp”
-Mỗi thời mỗi khác.Hồi trước chúng tôi phải theo lễ nghi nhiều,lại phải làm dâu.Buổi đó chúng tôi chẳng có khi nào ra ngoài được.Trên còn có lưỡng cung,hàng ngày phải chầu hầu,nên lúc rỗi chỉ được dạo quanh vườn hoa trong Nội mà thôi.
-Thưa,mỗi khi đi dạo như thế,Ngài có đi với Bà không?
-Cũng có.
-Nghe nói đức Vua hay làm thơ lắm,có không thưa bà?
-Có,Ngài có làm nhiều bài,lâu ngày quá tôi quên đi.
-Bà còn nhớ ít nhiều chớ?
-Không tôi quên cả.
Có nhiều bài thơ truyền tụng nói là của vua Duy Tân mà có người nói là không phải.Đó cũng là một sự hoài nghi mà tôi muốn hỏi Bà để nói rõ thêm trên báo Sông Hương cho bạn đọc viết.Nhưng coi ý Bà không muốn đáp nữa nên tôi phải lảng sang chuyện khác.
-Cảnh trong Nội cung đáng mến lắm Bà nhỉ?
-Phải,mến vì cảnh có mà mến vì cái khác cũng có.Nhưng chuyện đã cũ nhắc tới làm chi…
Nghe đến đây,tôi biết Bà không muốn nói chuyện nữa,hai chị em đành cáo từ ra về.
Lúc ra về Bà có nói:
-Nhiều người làm báo lôi thôi lắm.họ cứ đến đây đòi phỏng vấn tôi.Người ta đã ở yên mặc người ta,họ còn bới đến làm chi!
Chúng tôi cười mà không đáp,cúi đầu chào Bà và bà cụ rồi bước ra.
Bài này đăng trên báo,chúng tôi có lời xin lỗi Bà,nhờ bà đánh chữ đại xá cho,vì chúng tôi cũng là một trong những người ấy.
Tháng 4-1987,Nhà nước Việt Nam và gia đình cựu hoàng Duy Tân đã tổ chức trọng thể lễ đưa hài cốt Hoàng đế từ Cộng Hoà Trung Phi về an táng ở Huế.
Đầu năm 1988,vợ cựu hoàng Duy Tân là bà Fernande Antier đã về thăm quê chồng.Cùng đi với bà có vợ chồng người con trai út Joseph Roger(sinh năm 1938).
Đây là một cuộc viếng có tính chất gia dình nhưng bà Duy Tân đã được thành phố Hồ Chí Minh,thành phố Huế và tỉnh Bình Trị Thiên đón tiếp thân mật.Bà rất cảm động.Bà xem việc Nhà nước đối đãi với gia đình cựu hoàng đế như thế là một niềm an ủi lớn nhất kể từ sau ngày cựu hoàng tử nạn cuối 1945 trong một trường hợp cho đến nay chưa có sự giải thích thoả đang.
Nhân chuyến về tham của bà Fernande Antier tại Huế,tôi tranh thủ thực hiện một cuộc phỏng vấn nhỏ nhằm cung cấp thêm cho các độc giả một số tư liệu về quãng đời lưu đày của vị hoàng đế yêu nước.
Nguyễn Đắc Xuân(NDX):Thưa bà,đồng bào Việt Nam rất yêu kính cựu hoàng Duy Tân(DT) họ đã biết rõ về những năm Ngài làm vua cũng như lúc Ngài đứng ra lãnh đạo cuộc khởi nghĩa bất thành năm 1916,nhưng ít người biết được tin tức liên quan đến Cựu hoàng trong suốt thời gian 30 năm lưu đày của Ngài ở đảo Réunion.Hiện nay có lẽ không ai có thể biết được những thông tin ấy hơn bà.Vậy xin bà vui lòng cho phép chúng tôi làm phiền bà qua ít câu hỏi sẽ nêu sau đây:
Bà Fernande Antier(F.A): tôi rất sẵn sàng.Nhưng xin nói trước,tôi không biết gì nhiều.bởi lẽ Cự hoàng Duy Tân sống rất kín đáo,ngoài việc trao đỏi sinh hoạt bình thường trong gia đình,Cực hoàng cũng rất ít khi thổ lộ tâm tư tình cảm,nhất là chuyện đất nước với vợ con.Hơn nữa,chuyện cũng đã quá bốn mươi năm rồi mà tôi thì tuổi cao, nay đã 75,sợ trí nhớ không còn minh mẫn đủ để làm vừa lòng nhà báo.
NĐX - Xin bà cho biết vài nét về gia đình.
Bà F.A – Tôi là người Pháp,gia đình tôi sang sinh sống ở đảo đã khá lâu.Tôi có hai chị em gái,không có anh em trai,ba mẹ tôi sống bằng việc buôn bán nhỏ ở vùng Salazie thuộc Réunion.
NĐX – Thưa bà,Cựu hoàng Duy Tân đã gặp bà trong trường hợp nào?
Bà F.A – Vào khoảng năm 1927,Cựu hoàng sống độc thân trong một ngôi nhà nhỏ đế rảnh rang việc học hành.Cựu hoàng không biết nấu ăn,với số tiền trợ cấp hàng tháng gửi từ Việt Nam sang không cho phép nhờ người giúp việc…gia đình tôi nấu cơm tháng cho học sinh,Cựu hoàng đã đến dùng và…từ đó chúng tôi quen nhau!
NĐX – Thưa bà,lúc đó bà có biết Duy Tân là một ông vua bị lưu đày không?
Bà F.A – Có biết lờ mờ.Nhưng chúng tôi yêu nhau vì quý trọng nhau chứ không phải vì chuyện ấy!
NĐX – Cựu hoàng đế có kể chuyện Việt Nam với người Réunion không?
Bà F.A – Người Réunion không biết gì về Việt Nam.Vì thế Duy Tân chẳng bao giờ nói chuyện Việt Nam với họ.Duy Tân sống thầm lặng…Thời gian của Cựu hoàng chỉ dành cho hai việc:học để mở mang trí tuệ,chơi thể thao để luyện tập thân thể tráng kiện.
NĐX – Thưa bà,ngoài việc học tập và luyện tập thân thể Ngài còn có sở thích nào khác không?
Bà F.A – Cựu hoàng còn có khiếu âm nhạc,Ngài chơi violon(vĩ cầm) giỏi và có chân trong ban nhạc đại hoà tấu tại Saint Denis;viết văn hay,nuôi ngựa và đua ngựa.Cựu hoàng đã giật giải nhất trong cuộc đua ngựa lớn ở đảo.Nhưng trội hơn cả là sở thích về vô tuyến điện!
Bị tù đày ở đảo Réunion,cựu hoàng thích vô tuyến điện không chỉ vì ngành kỹ thuật này hay,có thể giúp gia đình sinh sống mà còn vì đây là phương tiện duy nhất cho phép Cựu hoàng liên lạc với thế giới bên ngoài.
NĐX – Thưa bà,bà và cựu hoàng sinh hạ được mấy người con?
Bà F.A – Có bốn người
1. Rita Suzi Georgette Vĩnh San,sinh năm 1929.
2. Guy Georges Vĩnh San,sinh năm 1933.
3. Yves Claude Vĩnh San,sinh năm 1934.
4. Joseph Roger Vĩnh San,sinh năm 1938 (1)
NĐX – Họ của cựu hoàng Duy Tân là Nguyễn Phước,Vĩnh là chữ lót để chỉ thế hệ thứ bậc trong giòng họ nhà vua, San là tên huý của cựu hoàng…tại sao các con bà lại lấy hai chữ “Vĩnh San” làm họ? Cựu hoàng không giải thích và không đặt tên Việt Nam cho các con hay sao?
(1) Tôi được biết Cựu hoàng còn một người vợ thứ là Maillot Marie Ernestine,sinh cô Marie Gisèle Andréc năm 1945
Bà F.A – Hoàng phụ Thành Thái có giải thích và các con tôi đều có tên Việt Nam, nhưng sau ngày cựu hoàng Duy Tân mất,hoàng phụ Thành Thái về nước,chúng tôi không nhớ được tên Việt Nam cho nên nảy ra tình hình như thế.
NĐX – Thưa bà,bà có biết vì sao cựu hoàng Duy Tân không ở chung với hoàng phụ?Giữa hai người có sự bất đồng nào chăng?
Bà F.A và Roger Vĩnh San (cùng đáp): Tuy là cha con nhưng hai người đã từng là hai ông vua,được hấp thụ hai nền giáo dục khác nhau,hai người có hai cái nhìn khác nhau về tương lai: Cựu hoàng Thành Thái thì bất hợp tác với người Pháp để giữ khí tiết đến cùng; cựu hoàng Duy Tân lại muốn gần Pháp để tìm con đường giành lại nền thống nhất, độc lập cho đất nước. Như thế làm sao cha con có thể gần nhau được. Nhưng cựu hoàng Duy Tân rất kính nể hoàng phụ Thành Thái: hàng tuần – Roger nói – mẹ tôi thường nấu một món xúp ngon nhất để dâng lên ông nội…
NĐX – Thưa bà,Cựu hoàng thường giao du với giới nào?Xin bà cho biết một vài người bạn thân của cựu hoàng ở Réunion.
Bà F.A - ở Réunion có 23 gia đình nắm hết toàn bộ các thế lực về kinh tế và chính trị,Cựu hoàng không giao du với họ.Ngài quen thân với một số trí thức người Pháp ở tại đảo như ông Raoul Nativen(chưởng lý,trong luật sư đoàn),bác sĩ Vinson,ông Hugues Palant…
NĐX – Thưa bà,bà cho biết điều gì đã ảnh hưởng đến cựu hoàng Duy Tân nhất trong thời gian bị lưu đày?
Bà F.A –Điều chi phối tâm trí Ngài nhiều nhất là làm thế nào thoát khỏi Réunion một cách chính đáng để tìm cơ hội cứu nước Việt Nam.Có lẽ chính phủ Pháp biết điều này cho nên đã tìm mọi cách đày Ngài ở đảo cho đến chết,làm cho Ngài nhiều lúc muốn phát điên !
NĐX – Khi Cựu hoàng tử nạn máy bay,chính phủ Pháp có thông báo cho gia đình bà biết không?
Bà F.A – Được tin Cựu hoàng sẽ về nhà,gia đình chúng tôi ngồi trông,nhưng sau đó không thấy Ngài về.Chúng tôi đánh điện hỏi khắp các sân bay nằm trên đường bay từ Paris về Réunion.Chiều hôm sau,chúng tôi đau đớn nhận được tin Cựu hoàng đã tử nạn máy bay.Cơ quan trả lời là một đơn vị quân đội,còn chính phủ Pháp thì im lìm!
NĐX – Vào cuối đời,Cựu hoàng được chính phủ de Gaulle rất trọng quý,thế mà vì sao khi Ngài tử nạn, chính phủ ấy làm thinh,bà có hiểu vì sao không?
Bà F.A – Chúng tôi không biết được lý do.
NĐX – Sau ngày Cựu hoàng tử nạn, chính phủ Pháp có sự giúp đỡ nào cho gia đình bà không?
Bà F.A – Chúng tôi bị bỏ rơi.Mỗi tháng chúng tôi nhận được một số tiền trợ cấp trị giá bằng 200 phờ-răng bây giờ(nhận được cho đến năm Roger 18 tuổi).Số tiền này không đáng kể,mẹ con chúng tôi phải tự lo liệu nuôi nhau.Số tiền trên từ Việt Nam gửi qua.
NĐX – Thưa bà,nuôi nhau bằng cách nào?
Bà F.A – Các con tôi đều phải nghỉ học.Suzi và Claude đi làm,Georges đăng lính,Roger thì tuy còn quá nhỏ nhưng cũng phải làm việc nhọc nhằn mới đủ sống.
NĐX – Cái chết của cựu hoàng Duy Tân rất khó hiểu.Bà có nghĩ đến việc có một âm mưu ám hại nào không?
Bà F.A – Chúng ta có quyền suy nghĩ.Nhưng khi chưa tìm được những tài liệu chính xác thì không được đổ lỗi cho ai!
NĐX – Thưa bà, bà có còn giữ được những kỷ vật của cựu hoàng đế để đưa vào nhà lưu niệm sẽ xây trong khu vực lăng của Ngài không?
Bà F.A – Sau khi nghe tin cựu hoàng tử nạn,gia đình chúng tôi hết sức bối rối.Mọi người đều phải nghĩ đến việc giải quyết cuộc sống như thế nào nên không ai để ý đến việc cất giữ những kỷ vật ấy làm gì.Đến lúc thấy cần thiết thì đã muộn!Tuy nhiên chúng tôi sẽ cố gắng sưu tập,nhưng ít hi vọng thoả mãn được yêu cầu của nhà lưu niệm.
NĐX – Thưa bà,gia đình bà rời đảo Réunion từ lúc nào?và đến Pháp năm nào?
Bà F.A – Năm 1955 gia đình chúng tôi phiêu lưu theo Suzi sang tìm việc ở Madagascar và ở đó 10 năm.Đến lúc Georges ra lính xin làm việc ở Pháp,thế là lần lượt gia đình chuyển sang Pháp luôn.
NĐX – Lần đầu tiên về “quê chồng” xin bà cho biết một vài cảm tưởng?
Bà F.A – Tôi đã nghe nói đến Việt Nam rất nhiều,nhưng tôi vẫn ngạc nhiên trước cảnh đẹp của Việt Nam,nhất là Huế,đẹp lắm! Tôi cảm động trước sự nhiệt tình của chính quyền và đồng bào Việt Nam ở thành phố Hồ Chí Minh,ở Nha Trang,Đà Nẵng và Huế đã dành cho gia đình cựu hoàng Duy Tân,mặc dù lần này chúng tôi về tham với tư cách cá nhân đi du lịch.
NĐX – Ngoài mục đích về thăm quê chồng,bà còn có mục đích gì khác trong chuyến đi này không?
Bà F.A – Theo yêu cầu của con và gia đình,lần về thăm này chúng tôi lưu ý đến ba việc: một mặt là đặt vấn đề đưa mộ bà Hoàng quí phi Mai Thị Vàng từ Hậu Thôn Kim Long về cải táng gần lăng Cựu hoàng Duy Tân;hai là xem vấn đề qui hoạch khu vực lăng Thành Thái – Duy Tân để xây dựng và dần dần đưa vào phục vụ khách du lịch;ba là tính toán việc xây la thành bảo vệ khu vực lăng Thành Thái – Duy Tân.
NĐX – Thưa bà,bà có điều gì muốn đề nghị với nhà nước Việt Nam nữa không?
Bà F.A – Không có lời đề nghị nào nữa , nhưng cũng nhân đây , tôi xin nhắc lại một lời đề nghị cũ đã đề bạt lên Thủ tướng Phạm Văn Đồng hồi tháng tư năm 1987,đó là : ở Hà Nội,ở Huế,và ở thành phố Hồ Chí Minh trước kia đều có đường Duy Tân,sau ngày giải phóng 1975,một số nơi bỏ,chúng tôi mong sớm có những con đường mang tên Duy Tân đặc biệt là ở Huế.
NĐX – Xin cảm ơn bà đã giúp chúng tôi thực hiện cuộc tiếp xúc này.Chúc bà nhiều sức khoẻ để Việt Nam còn có dịp đón bà về thăm nhiều lần nữa.
Chương 27
CHUYỆN CÁC BÀ VỢ VUA KHẢI ĐỊNH
Nguồn: trieuvyphung
Thu gọn nội dung
Vua Khải Định là Hoàng trưởng tử của vua Đồng Khánh(1885-1888).Khải Định là một trong hai vị vua mang tiếng “bất lực”,nghĩa là kém khả năng trong tình dục, ân ái.
Suốt 10 năm làm vua (1916-1925),ông đã nuôi Nguyễn Đắc Vọng làm thị vệ.Ban đêm ông ôm Vọng mà ngủ.Nhờ sự khéo léo trong việc phục tùng này mà ông Vọng đã được thăng tiến đến Ngũ đẳng thị vệ. Những buổi sáng phải ra điện Cần Chánh thiết triều,các bà đứng hai hàng bái kiến đón chào, ông liền dùng tay ôm gọn hai vạt áo bào sát vào người để khỏi vương vào “đàn bà”…
Nhiều người biết Khải Định bất lực, chính vua cũng nhận điều đó.Thế nhưng các quan đại thần thì vẫn muốn “tiến” cung con gái mình vào làm vợ vua. Khó lòng chối từ,vua thường nói với các quan”
- Nội cung của Trẫm là một cái chùa (ý nói không có chuyện ái ân tình dục),ai muốn tu thì cứ vào!
Do đó,dù Khải Định không gần gũi đàn bà, ông vẫn có đủ tam cung lục viện như các vua tiền triều.
Trong số đông đảo các bà vợ vua Khải Định,được nhắc đến nhiều nhất là Đệ nhất Giai phi họ Trương,bà Ân phi Hồ Thị Chỉ và bà Huệ phi Hoàng Thị Cúc (tức bà Từ Cung).
Ba bà được tiến cung trong ba trường hợp khác nhau.
Bà họ Trương là ái nữ quan đại thần Trương Như Cương được cưới làm phủ thiếp khi vua Khải Định còn là ông Hoàng Phụng Hoá Công ở Tiềm đế (sau xây thành cung An Định). Lúc đó ”ngài” Phụng Hoá Công còn hàm vĩ nhưng lại ham chơi cờ bạc thâu đêm suốt sáng. Cứ mỗi lần thua bạc là một lần bắt bà vợ họ Trương về xin tiền cha mẹ để “ngài” gỡ… Vì thương con gái, ông bà Trương Như phải bấm bụng chiều theo, thoả mãn mọi yêu sách của chàng rể vương tôn.Thấy thế Phụng Hoá Công đinh ninh của cải nhà nhạc gia là vô tận nên càng cờ bạc ăn chơi đã đời…Thật ra thì tuy gia đình họ Trương đại thần giàu có nhưng chưa phải là muốn mấy cũng có. Ông Trương xuất thân từ làng thợ rèn Hiền Lương,một làng lao động có nề nếp,cho nên dù làm quan đến tột đỉnh danh vọng,ông vẫn giữ phong cách giản dị,cần kiệm của người cha là người lao động.Cứ kéo dài cảnh ném tiền qua cửa sổ như thế này,các cụ không chịu nổi.Nhiều lần bà phủ thiếp Phụng Hoá Công đã bị cha mẹ quở trách nặng nề…
Thế rồi…một hôm (vào khoảng năm 1915) Phụng Hoá Công nảy ý định mở một chén bạc lớn để thử thời vận.Khi thấy Công hô lớn,nhưng trên chiếu đã sạch tiền,các con bạc chận tay Công lại,đòi phải trưng đủ tiền chung mới được mở chén.Thâm tâm Công đã muốn mở liều,không ngờ bị lật tẩy…Một phần vì muốn ăn to, phần vì sợ mất mặt, Phụng Hoá Công liền bảo vợ về nhà xin tiền…Bà phủ thiếp họ Trương đau đớn vì thấy đức ông chồng đã bất lực mà chẳng còn biết liêm sỉ,bà dùng dằng không muốn đi…Công nổi nóng la lối om sòm,doạ sẽ có thái độ với bà.Cuối cùng bà đã đi và đó cũng là lần cuối cùng bà về nhà xin tiền cha mẹ cho chồng cờ bạc…
Ngán ngẩm sự đời,bà họ Trương quyết định dứt áo ra đi,giã từ cuộc đời làm phù thiếp.Bà lập một cảnh chùa tại độn Sầm,làng Thanh Thuỷ, huyện Hương Thuỷ(cách kinh thành Huế chừng 3km về phía Nam)để tu thiền,lấy pháp hiệu là Đạm Thanh,biệt hiệu là Tuyết Nhan.
Năm 1916,vua Duy Tân khởi nghĩa chống thực dân Pháp thất bại,vua bị đầy sang đảo Réunion(thuộc châu Phi),người Pháp chọn Phụng Hoá Công đưa lên kế vị lấy niên hiệu là Khải Định.
Nhớ chút nghĩa xưa,Khải Định phái người lên chùa rước bà về làm Đệ Nhất Giai Phi.Bà từ chối.Để tỏ rõ chân tâm của mình với cố nhân,Khải Đinh vẫn dành chức Đệ Nhất Gia Phi(hay hoàng quí phi) cho bà họ Trương,dù đã dứt tình… Người vợ chính thức do triều đình cưới vua Khải Định chỉ phong bậc Đệ Nhị Giai Phi…
Vua Khải Định vừa yên vị,đại thần Hồ Đắc Trung đã “tiến” ngay vào Nội một người con gái.Bà họ Hồ tên là Chỉ đã từng được thân sinh gả cho vua Duy Tân,nhưng vua Duy Tân không nhận.Cụ Hồ Đắc Trung có tiếng là người đã bênh vực vua Duy Tân trong cuộc khởi nghĩa không thành năm 1916,nay sợ Khải Định,người đối lập với Duy Tân nghi ngờ,nên cụ tìm cách tạo mối liên kết tình cảm để vua tôi hiểu biết nhau,bằng việc tiến cung con gái mình.
Là con quan đại thần,được Triều đình cưới hỏi đúng nghi lễ,bà Hồ Thị Chỉ được phong chức rất cao nhưng cũng vẫn ở vào bậc Ân Phi (Đệ Nhị Giai Phi)
Tước cao, chức trọng, danh nghĩa là vợ chính ở với vua Khải Định, nhưng thực chất bà chẳng được tí gì về ái ân chăn gối với ông vua “bất lực”. Bà phải chấp nhận cảnh đóng kịch làm vợ vua như thế để được hưởng phú quí danh vọng, với ý nghĩ mình sẽ là mẹ đích thực của hoàng tử Vĩnh Thuỵ, vì bà Từ Cung tuy là mẹ sinh, nhưng là con nhà bình dân, lại không được cưới hỏi theo nghi lễ triều đình … Có lẽ đọc được ý nghĩ đó nơi bà Ân phi mà ngày vua Khải Định mất (1925) đáng lẽ ông phải trăng trối trao rương hòm,chìa khoá lại cho bà, thì Khải Định đã truyền trao cho bà Từ Cung với lời di ngôn vắn tắt : “tử quý, mẫu vinh” (ý nói Vĩnh Thuỵ được quý trọng thì bà Từ Cung được vinh hiển). Việc làm này làm cho Ân phi họ Hồ tức giận muốn phát điên.
Và sau đó … bà đã điên thật. Cuối cùng bà đã chết già trong một tu viện Thiên chúa giáo.
Bà vợ thứ ba là Huệ phi Hoàng Thị Cúc sinh ra Vĩnh Thuỵ, lên ngôi lấy niên hiệu là Bảo Đại, bà Từ Cung được vinh danh là Đoan Huy Hoàng thái hậu…