Gabrielle Chanel (1883 – 1971) NGƯỜI PHỤ NỮ LÀM ĐẸP CHO THẾ GIỚI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Trong một cuộc phỏng vấn, khi được hỏi cô mặc gì khi đi ngủ, minh tinh màn bạc Marilyn Monroe đã trả lời: “Hai giọt Chanel No5”
Câu trả lời ngắn gọn của người phụ nữ được coi là biểu tượng của sắc đẹp và sự quyến rũ ấy đã khẳng định sức mạnh của Chanel No5, loại nước hoa được ưa chuộng nhất trên thế giới.
Chanel No5, như theo ý đồ của người tạo ra nó, nhà thiết kế thời trang Coco Chanel, có mặt để làm nổi bật vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ. Và quả là ý đồ ấy đã được thực hiện hết sức thành công Bí ẩn, độc đáo, đầy cá tính, Chanel No5 đã trở thành một phương tiện làm đẹp của phụ nữ trên khắp hành tinh. Chanel No5 làm cho sân khấu thời trang trở nên hấp dẫn và lôi cuốn hơn. Chanel No5 làm cho không khí của những buổi dạ hội trở nên dễ chịu mà không kém phần sang trọng. Chanel No5 tạo cảm giác êm ái và say đắm cho các phòng ngủ. Chanel No5 làm cho nụ cười của phụ nữ thêm rạng rỡ và tự tin. Chanel No5 quyến rũ cả thế giới.
Không ít người thán phục Coco Chanel, người tạo ra Chanel No5, nhưng nếu chỉ biết đến Coco Chanel với nước hoa Chanel No5 thì sự thán phục ấy quả là chưa đi hết bến bờ của nó.
Tên thật của Coco Chanel là Gabrielle Chanel. Bà sinh ngày 19 tháng Tám năm 1883 tại Pháp. Mẹ bà qua đời năm bà mới mười hai tuổi. Không bao lâu sau cha bà bỏ rơi bà và bốn anh chị em của bà. Những đứa trẻ nhà Chanel phải sống nhờ sự cưu mang của những người họ hàng và đã có lúc phải vào trại mồ côi. Năm 1910 với sự giúp đỡ của người tình là một nhà công nghiệp người Anh, Coco Chanel đã mở một cửa hàng ở Paris chuyên bán mũ cho phụ nữ và chỉ một năm sau, bà quyết định bước vào lĩnh vực thiết kế thời trang cao cấp.
Tư duy thiết kế thời trang của Coco Chanel thể hiện rõ ba mối quan tâm chủ đạo: vẻ đẹp của trang phục, thẩm mĩ thời trang toàn diện, cảm giác của người sử dụng. Bà rất khắt khe trong việc chọn chất liệu vải và tông màu cho các mẫu trang phục. Bà ưa dùng các loại vải mềm nhưng không dễ nhăn. Bà chú ý từng chi tiết nhỏ của trang phục, từ vị trí đặt khóa đến vị trí đệm đai để tạo cảm giác dễ chịu cho người sử dụng. Mỗi mẫu trang phục của bà thường đi kèm với những sản phẩm phụ như hoa tai, giày, ví, được thiết kế với sự nhạy cảm cao về độ hòa hợp và sự tinh tế trong cách tạo điểm nhấn.
Vào những năm 20 của thế kỷ XX, các mẫu thời trang cao cấp của Coco Chanel đã trở nên nổi tiếng ở Paris và các trung tâm thời trang lớn trên thế giới. Năm 1923 bà tung ra thị trường kiểu vét tông Chanel đầy nữ tính. Bộ trang phục này gồm một chiếc áo vét may bó bằng vải len được tô điểm bằng những chiếc cúc màu vàng, mặc kèm với chiếc váy duyên dáng dài đến đầu gối. Ngay sau khi xuất hiện, kiểu vét này đã được phụ nữ ở Pháp và các nước trên khắp châu Âu rất ưa chuộng. Chanel cũng nổi tiếng với các mẫu trang phục màu đen sang trọng dễ kết hơp với các kiểu áo, áo len đen chui đầu, váy dài đen có kèm váy lót v.v... Không phải là người đầu tiên tạo ra các kiểu váy màu đen, nhưng khi Chanel tung ra các mẫu váy đen thì các mẫu váy của bà luôn là những mẫu váy chuẩn. Phong cách thời trang của bà đã ảnh hưởng đến nhiều nhà thiết kế thời trang cũng như xu hướng thời trang của thế giới. Các mẫu thiết kế của Coco Chanel được coi là những mẫu thiết kế không có tuổi.Gần một thập kỉ qua đi, người ta vẫn thấy bóng dáng các mẫu trang phục do bà khai sinh trên các đường phố, trong các công sở, và các tiệm thời trang trên khắp thế giới.
Năm 1921, tại một buổi giới thiệu thời trang nhỏ Coco Chanel đã tặng những chai nước hoa Chanel đầu tiên cho những khách hàng của bà với cách thức quảng cáo hết sức khéo léo và khôn ngoan. Nước hoa Chanel bắt đầu thâm nhập thị trường từ đó.
Lúc đầu Coco Chanel hợp tác với Ernest Beaux tung ra thị trường sáu loại nước hoa Chanel gồm Chanel N01, Chanel N02, v.v... nhưng vì Chanel No5 được người dùng ưa chuộng nhất nên nó được chọn là sản phẩm chủ đạo của hãng. Thay vì sử dụng hương liệu tự nhiên từ các loại hoa, nước hoa Chanel N05 được sản xuất chủ yếu bằng chất Andehyt. Coco Chanel nói: "Tôi muốn mang tới cho phụ nữ một loại nước hoa nhân tạo. Tôi muốn nó thật sự là do con người tạo ra, như một bộ váy vậy". Nhấn mạnh vào tính tương phản, Coco Chanel muốn loại nước hoa nhân tạo của bà sẽ tôn vinh vẻ đẹp tự nhiên của người phụ nữ. Suốt gần một thế kỷ kể từ khi ra đời, nước hoa Chanel N05 luôn có mặt trong hầu hết các cửa hàng thời trang cao cấp trên thế giới. Mặc dù giá bán của mỗi chai nước hoa Chanel N05 không hề rẻ, thường vào khoảng 40 bảng Anh (khoảng 730 nghìn đồng Việt Nam), nhưng lượng bán ra của sản phẩm này trên thị trường thế giới vẫn rất lớn.
Trong khi thành công mĩ mãn trong lĩnh vực thời trang thì Coco Chanel lại có vẻ không được mãn nguyện với cuộc sống riêng của mình. Bà chưa một lần lên xe hoa. Những người đàn ông bước vào cuộc đời bà như Etienne Balsan, nhà dệt may người Pháp, họa sĩ Paul Iribe, công tước người Nga Dmitri, hay vận động viên người Anh Boy Capel dường như không mang lại cho bà hạnh phúc trọn vẹn. Tuy nhiên người ta cho rằng những người đàn ông ấy đã ảnh hưởng đáng kể đến phong cách thời trang của bà.
Lise Meitner (1878-1968) NHÀ KHOA HỌC CHÂN CHÍNH
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Ai cũng biết giải Nobel là giải thưởng lớn nhất, danh giá nhất trong các giải thưởng được lập ra để tôn vinh những đóng góp của con người vì sự tiến bộ của nhân loại, nhưng không phải ai cũng biết xung quanh giải Nobel cũng có những câu chuyện gây tranh cãi, thậm chí có cả thiếu sót.
Một trong những thiếu sót ấy đã xảy ra vào năm 1944 khi hội đồng trao giải Nobel quyết định trao giải Nobel hoá học cho nhà hoá học người Đức Otto Hahn vì công phát hiện ra sự phân rã hạt nhân, mà lại không ghi nhận công lao của Lise Meitner, nhà khoa học đã cộng tác với Otto Hahn trong suốt quá trình phát hiện này và là người đầu tiên đưa ra giải thích lý thuyết và quá trình phân hạt nhân.
Lisa Meitner sinh ra ở Vienna, nước Áo vào năm 1878 trong một gia đình gốc Do Thái. Năm 1901khi lần đầu tiên cánh cửa trường đại học trong nước mở ra với nữ giới bà vào đại học Vienna theo học ngành vật lý. Sau khi giành học vị tiến sĩ vật lý bà sang Đức tiếp tục nghiên cứu về phóng xạ dưới sự hướng dẫn của Max Planck.
Vào ngày đó ít ai có thể đoán trước được rằng người phụ nữ trẻ say mê khoa học ấy sẽ gắn bó với nước Đức 31 năm và có những đóng góp to lớn cho nền khoa học của nước này. Viện hoá học Emil Fischer đã từ chối bà chỉ vì bà là phụ nữ. Mặc dù là nữ giáo sư vật lý đầu tiên ở Đức và liên tục được đề cử nhận giải Nobel vào những năm 20 và 30 bà vẫn phải buộc rời nước Đức vì gốc gác Do Thái của mình. Bà sang Đan Mạch rồi tới Thuỵ Điển. Mùa hè năm 1938 bà tiếp tục công việc nghiên cứu khoa học tại viện Manne Siegbahn ở Stockholm. Nhưng có lẽ đến Thuỵ Điển là một sai lầm của bà. Tại đây môi trường làm việc không ủng hộ phụ nữ làm khoa học. Meitner không được tham gia nhóm nghiên cứu của Siegbahn, cũng không được cung cấp các điều kiện để lập nhóm nghiên cứu riêng. Người ta cho phép bà sử dụng phòng thí nghiệm nhưng trong cái phòng thí nghiệm đó bà không có lấy một cộng sự nào, không có trang thiết bị, thậm chí bà không có chìa khoá riêng. Giải nobel một lần nữa từ chối bà chỉ vì bà là dân lưu vong.
Quen biết và bắt đầu cộng tác nghiên cứu phóng xạ với Otto Hahn từ khi nhà hoá học này còn làm việc cho viện Emil Fischer và trong khi nhiều nhà khoa học nổi tiếng khác có thành kiến với phụ nữ thì Hahn lại dành cho Meitner sự ủng hộ tích cực. Năm 1912 họ cùng nhau chuyển tới làm việc ở viện hoá học Kaiser Wilhelm và sát cánh bên nhau trong các công trình nghiên cứu quan trọng. Cho đến năm 1937, họ đã phát hiện ra ít nhất 9 nguyên tố có tính phóng xạ khác nhau. Trong thời gian Lise sống và làm việc ở Stockholm họ vẫn ấp ủ những dự định hợp tác nghiên cứu. Tháng mười năm 1938 họ bí mật gặp nhau tại Copenhagen và lập kế hoạch cho các thí nghiệm về phân rã hạt nhân, vấn đề đang được giới khoa học quan tâm. Trở ngại về không gian không ngăn cản được Meitner cộng tác chặt chẽ với Hahn. Lúc đầu Hahn tin rằng phân rã hạt nhân là điều không thể, nhưng Meitner đã chứng minh cho Hahn thấy rằng điều đó đã xảy ra. Meitner là người đầu tiên hiểu rằng nguyên tử hạt nhân chưa phải là nhỏ nhất mà các nguyên tử hạt nhân còn có thể chia thành các phần nhỏ hơn; các nguyên tử urani còn phân chia thành bari và kryton kèm theo sự giải phóng một số nơtron và một năng lượng rất lớn. Các thí nghiệm chứng minh sự phân rã hạt nhân được thực hiện ở phòng thí nghiệm của Hahn ở Berlin.
Thân phận lưu vong của Meitner không cho phép bà và Hahn cùng nhau công bố thành quả nghiên cứu của họ. Tháng Một năm 1939, Hahn công bố phát minh hoá học của mình về sự phân rã hạt nhân, một tháng sau Meitner công bố giải thích vật lý của mình về quá trình phân rã hạt nhân. Công bố của họ là một sự kiện nổi bật của thế giới vào thời điểm đó bởi nó mở ra những triển vọng ứng dụng vô cùng to lớn.
Năm 1944 Otto Hahn được trao giải Nobel hoá học cho thành công phát hiện sự phân rã hạt nhân. Nhiều nhà khoa học bất bình trước sự kiện này bởi họ cho rằng đáng lẽ Lise Meitner phải là người được chia sẻ giải thưởng này cùng Hahn. 22 năm sau, đóng góp của Lise Meitner trong việc phát hiện quá trình phân rã hạt nhân mới được ghi nhận khi bà cùng Hahn và Strassmann được trao giải thưởng Enrico Fermi, giải thưởng dành cho những cống hiến trong lĩnh vực phát triển năng lượng.
Giống như các nhà khoa học chân chính khác, Lise Meitner không lao động vì những giải thưởng. Điều bà theo đuổi là những đóng góp thiết thực cho nhân loại. Ba mươi năm cùng Hahn nghiên cứu hiện tượng phân rã hạt nhân bà chỉ nghĩ đến những khả năng ứng dụng làm lợi cho con người, chẳng hạn như triển vọng phát triển nguồn năng lượng mới cho tương lai của hành tinh. Khi phát hiện về quá trình phân rã hạt nhân được công bố, giới khoa học đã lo rằng nằm trong tay người Đức nó sẽ được sử dụng để chế tạo vũ khí huỷ diệt. Các nhân vật nổi tiếng như Leo Szilard, Edward Teller, và Eugene Wigner đã thuyết phục Albert Einstein viết một bức thư cảnh báo gửi lên tổng thống Mỹ Franklin D. Roosevelt và điều này đã dẫn tới việc thành lập dự án chế tạo bom nguyên tử mang tên Manhattan. Lise Meitner được mời tham gia dự án này nhưng bà kiên quyết từ chối. Bà nói: "Tôi sẽ không dính dáng gì tới bom hết".
Dù bị giải Nobel lãng quên, nhưng người phụ nữ sinh ra ở thành Vienne nước Áo vẫn được tôn vinh là người phụ nữ làm khoa học xuất sắc nhất của thế kỷ XX. Ngày 27 tháng Mười năm 1968 Lise Meitner qua đời lặng lẽ tại Cambrigde nước Anh. Năm 1992 thế giới đã làm tên tuổi của bà trở thành bất tử bằng cách lấy tên bà đặt cho nguyên tố hoá học thứ 109. Đó là một sự ghi danh xứng đáng đối với một nhà khoa học chân chính.
Amy Biehl (1967-1993) CHẾT CHO MỘT NAM PHI MỚI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Thông minh và chăm chỉ là hai ưu điểm giúp Amy Biehl trở thành sinh viên ưu tú của trường đại học Stanford nổi tiếng. Luận văn tốt nghiệp của cô được giáo sư hướng dẫn xếp vào 10% những luận văn xuất sắc nhất. Theo học ngành khoa học chính trị, Amy không chọn nghiên cứu về bất cứ quốc gia nào khác mà lại chọn Nam Phi, một đất nước mà cô tin rằng nếu xoá bỏ được nạn phân biệt chủng tộc (Apartheid) sẽ trở thành một quốc gia đầy tiềm năng của lục địa đen.
Năm 1993, trường đại học Stanford và đại học Western Cape của Nam Phi thực hiện một chương trình trao đổi nghiên cứu sinh. Amy Biehl quyết định đến mảnh đất mà cô quan tâm mặc dù cô biết rằng với 27000 vụ giết người mỗi năm chủ yếu do phân biệt chủng tộc, Nam Phi đã trở thành nơi nguy hiểm nhất thế giới. Không phải Amy không lường trước được những rủi ro mà cô có thể sẽ gặp phải, nhưng cô muốn cùng người dân Nam Phi đấu tranh cho một nước Nam Phi mới không còn nạn phân biệt chủng tộc.
Tại trường đại học Western Cape, Amy tiếp tục các chương trình nghiên cứu chính trị sau đại học của cô. Cô dành nhiều thời gian tham gia công việc chuẩn bị cho cuộc bầu cử đầu tiên dành cho mọi chủng tộc ở Nam Phi. Sau cuộc bầu cử này người da đen chiếm đa số sẽ dành quyền điều hành đất nước. Họ sẽ thoát khỏi cảnh bị phân biệt đối xử, sẽ có đất đai, sẽ được học hành. Amy đến gặp những người da đen ghi tên họ vào danh sách cử tri. Mười tháng của nghiên cứu sinh không phải là nhiều, vì vậy cô cố gắng làm tất cả những gì có thể để giúp cộng đồng người da đen tiến gần đến quyền lợi của họ.
Ngày 25 tháng Tám năm 1993, ba ngày trước khi lên đường về Mĩ để tiếp tục chương trình nghiên cứu tại đại học Rutger, Amy lái xe đưa ba người bạn da đen của cô qua Guguletu, khu phụ cận của Cape Town. Xe của họ đang chạy thì gặp phải một nhóm quá khích. Đó là những người thuộc phe chính trị của người da đen PAC vừa mới đổ ra đường sau một cuộc hội họp. Đám người vừa gào hét vừa thi nhau ném gạch, đá vào xe của Amy. Amy buộc phải cho xe dừng lại. Cô bị ném gạch trúng đầu và chảy máu rất nhiều. Cô cố chạy qua đường tìm cách thoát khỏi những kẻ quá khích nhưng đám người ấy đã vây lấy cô đấm đá tới tấp. Những người bạn của Amy cố nói cho những người da đen biết Amy là đồng chí của họ, cô ngăn cản họ nhưng đã quá muộn. Những kẻ quá khích đã dùng dao đâm trúng tim Amy. Phải vất vả lắm các bạn của Amy mới đưa được cô vào xe và lái tới đồn cảnh sát gần nhất. Amy trút hơi thở cuối cùng tại đó.
Thảm kịch xảy ra với Amy không phải là chuyện quá bất thường ở Nam Phi vào thời điểm đó. Không ít nhóm người da đen đã lấy bạo lực làm phương tiện cảnh tỉnh chính phủ cầm quyền, làm vũ khí chống phân biệt chủng tộc và rất nhiều vụ việc cho thấy hành động của họ đi đến chỗ cực đoan và man rợ. Một tháng trước khi Amy bị giết, một nhóm ủng hộ PAC đã tấn công một nhà thờ của người da trắng, ném lựu đạn và xả súng trường vào đám đông giết chết mười một người và làm bị thương bốn mươi tám người khác. Vì đất đai thuộc sở hữu của người da trắng nên các vụ giết chủ đất xảy ra như cơm bữa. Những người da trắng lái xe trên đường không dám dừng xe khi có người đi xin nhờ và thà vượt đèn đỏ còn hơn dừng lại để rồi chẳng may trở thành nạn nhân của khủng bố. "Mỗi người da trắng, một phát đạn", "Giết bọn Bua, giết chủ đất" là những khẩu hiệu được các nhóm quá khích hô vang và không ai có thể biết trước được kiểu bạo lực nào sẽ kèm theo các khẩu hiệu đó.
Amy Biehl nằm trong số không ít người da trắng là nạn nhân của sự căm hận từ người da đen, song cái chết của cô không vô nghĩa. Đã có ý nghĩa cay đắng rằng Amy chết để những người da đen như những kẻ giết cô đứng lên điều hành những người da trắng thuộc chủng tộc của cô. Nhưng hầu hết những người theo dõi tình hình Nam Phi cho rằng cái chết của Amy đã góp phần tạo ra nhận thức sâu sắc về một đất nước Nam Phi tự do. Từ chỗ đứng trước nguy cơ của mộc cuộc chiến tranh chủng tộc người Nam Phi đã quyết tâm hướng tới hoà hợp dân tộc. "Như vậy là đủ lắm rồi", nhà hoạt động xã hội Rolene Miller, sau cái chết của Amy đã kêu gọi người dân chấm dứt bạo lực bằng những lời ngắn gọn. Chính những kẻ hành hung Amy, những kẻ thừa nhận hành động vì động cơ chính trị, cũng tin rằng cái chết của Amy sẽ giúp chấm dứt chủ nghĩa Apartheid ở Nam Phi.
Cảm động và ý nghĩa không kém, cái chết của Amy đã tạo nên triết lý mới về lòng vị tha và sự hoà giải. Sau khi Amy chết, bố mẹ cô và ba người con còn lại của họ đã đến Nam Phi. Tại phiên toà xét xử bốn thanh niên da đen trực tiếp gây nên cái chết của con gái mình, họ có thể phản đối mức án phạt mười tám năm tù mà toà án đưa ra, nhưng họ đã không làm vậy. Họ dành nhiều thời gian ở Guguletu và thường xuyên đi qua chỗ con gái họ bị giết. Lần nào đi qua chỗ ấy họ cũng nghĩ tới Amy và cảnh cô bị người da đen đánh đập. Họ cố xác định xem họ có thù hận mảnh đất này và những con người của nó hay không. Nhưng khi họ tận mắt chứng kiến điều kiện sống của những thanh niên da đen trong các lều trại tồi tàn, họ biết vì sao người da đen lại làm vậy. Hơn thế, họ hiểu Amy đến Nam Phi để hàn gắn chứ không phải gây thêm hố sâu ngăn cách giữa người da đen và người da trắng.
Để tưởng nhớ Amy và để tiếp tục lí tưởng của cô, bố mẹ Amy đã lập ra một quĩ nhân đạo mang tên Amy Biehl. Quĩ này thực hiện mười lăm chương trình giáo dục ở Guguletu. Cho tới nay quĩ này đã hoạt động được hơn mười năm. Đã có tới 8000 trẻ em Nam Phi được hưởng lợi từ các chương trình này. Bố mẹ của Amy đã dành rất nhiều tâm sức cho các chương trình này, thời gian họ ở Nam Phi thậm chí nhiều thời gian họ ở quê hương họ. Mẹ của Amy đã bỏ hẳn công việc của mình ở Mĩ để có thể tập trung vào các chương trình nhân đạo tại Nam Phi.
Chủ nghĩa Apartheid sụp đổ và hơn ai hết bốn thanh niên bị kết tội giết Amy là những người đầu tiên được hưởng thành quả của nó. Họ được thả tự do sau bốn năm chịu án. Ân hận vì những gì mình đã gây ra, Easy Nofemela và Ntobeko Peni, hai trong số bốn người đó đã tìm cách liên lạc với gia đình của Amy qua trung gian. Bố mẹ của Amy đã không hề đắn đo khi quyết định cho phép họ gặp mặt. Không những cho những kẻ đã giết con mình cơ hội nói chuyện, mà họ còn giúp đỡ hai người này làm lại cuộc đời. Hiện nay Easy Nofemela và Ntobeko Peni đang làm việc trong một công ty xây dựng do bố mẹ Amy thành lập. Bạn có thể hỏi tại sao họ làm được như vậy. Câu trả lời không đến nỗi khó hiểu: Mơ ước của Amy là một nước Nam Phi mới dân chủ và phát triển. Bố mẹ của cô tin rằng hai người da đen ấy có thể góp phần biến ước mơ của con gái họ thành hiện thực.
Chiaki Mukai (Sinh năm 1952) HAI LẦN CHINH PHỤC VŨ TRỤ
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Có lẽ chưa có người phụ nữ Nhật Bản nào nhận được nhiều giải thưởng khoa học như Chiaki Mukai, chưa có người phụ nữ Nhật Bản nào là tác giả của nhiều ấn bản như Chiaki Mukai và cũng chưa có người phụ nữ Nhật Bản nào được thế giới nhắc đến nhiều như Chiaki Mukai.
Chiaki Mukai sinh ngày 6 tháng Năm năm 1952 tại Tatebayashi, Gunma, Nhật Bản. Sau khi tốt nghiệp trường nữ sinh Keio bà lần lượt dành học vị tiến sĩ y khoa rồi học vị tiến sĩ vật lý của trường đại học Keio. Năm 1989 bà được kết nạp vào Hiệp hội phẫu thuật tim mạch Nhật Bản. Bà là bác sĩ phẫu thuật của một loạt các bệnh viện danh tiếng như bệnh viện Keio ở Tokyo, bệnh viện đa khoa Shimizu, bệnh viện Saiseikai Kanagawa, bệnh viện Saiseikai Utsunomiya. Năm 1983 bà trở lại công tác ở bệnh viện của trường đại học Keio, là bác sĩ phẫu thuật tim hàng đầu của bệnh viện và trở thành giáo sư giảng dạy tại khoa phẫu thuật tim.
Năm 1985 bà được Hiệp hội phát triển hàng không vũ trụ Nhật Bản lựa chọn để đào tạo thành nhà du hành vũ trụ. Các khoá huấn luyện vất vả đến nỗi ngay cả những người đàn ông có sức khoẻ tốt nhất, chịu đựng dẻo dai nhất cũng khó vượt qua. Thế nhưng Chiaki Mukai đã khẳng định rằng chinh phục vũ trụ không chỉ là giấc mơ của đàn ông và chứng minh rằng bà có đầy đủ điều kiện để trở thành một nhà du hành vũ trụ.
Năm 1994 giấc mơ chinh phục không gian của Chiaki Mukai đã trở thành hiện thực. Vào 16 giờ thứ sáu ngày 8 tháng Bảy theo giờ miền Đông nước Mĩ, tàu vũ trụ Colombia F17 trong chuyến du hành vũ trụ mang tên STS-65, được phóng lên từ mũi Canavaral mang theo bảy phi hành gia thuộc các quốc gia khác nhau. Chiaki Mukai là người phụ nữ duy nhất trong phi hành đoàn và là người phụ nữ Nhật Bản đầu tiên bay vào vũ trụ.
Tàu con thoi Columbia F17 có nhiệm vụ thực hiện một hành trình dài 9816998 km với thời gian ở trong không gian vũ trụ kỉ lục 14, 75 ngày. Không những cả nước Nhật mà cả thế giới hồi hộp theo dõi chuyến du hành đặc biệt này.
Sáu giờ chiều ngày Chủ nhật mùng 10 tháng Bảy hình ảnh truyền về từ tàu Columbia cho thấy chuyên gia Mukai và chuyên gia Hieb đang tiến hành các cuộc nghiên cứu trong phòng thí nghiệm với thiết bị đo các ảnh hưởng của môi trường không trọng lượng đối với con người. Sáu giờ chiều ngày thứ Ba, Chiaki có nửa ngày nghỉ đầu tiên.
Thứ tư hình ảnh truyền về cho thấy Mukai miệt mài cả ngày với thí nghiệm. Thứ Sáu kênh truyền hình Nicklo tổ chức một cuộc trò chuyện giữa Mukai và các trẻ em. Từ vũ trụ Mukai đã trả lời một loạt các câu hỏi từ các câu hỏi về vệ sinh cá nhân ở trên tàu. Trong ngày thứ mười hình ảnh trái đất nhận được cho thấy chuyên gia Hieb và Mukai đang tiến hành một thí nghiệm thử biện pháp ứng phó của con người trước những hình ảnh tiêu cực của môi trường vũ trụ trong đó có cảnh Mukai chui vào một thiết bị trông giống như một chiếc bao tải có chức năng hút chất lỏng trong cơ thể xuống chân và bàn chân. Ngày 20 tháng Bảy thế giới có dịp nghe Mukai tả quang cảnh trái đất mà bà nhìn thấy từ vũ trụ và bộc bạch những điều bà dự định làm khi trở về Trái đất.
Vào 6 giờ 38 phút ngày 23 tháng Bảy theo giờ miền Đông nước Mỹ, trung tâm vũ trụ Kenedy đã đón tàu vũ trụ Columbia trở về trái đất an toàn với kết quả của 82 cuộc thí nghiệm bao gồm những thí nghiệm về môi trường không trọng lượng, các nghiên cứu về sinh lý người, sinh học phóng xạ, sinh học không gian, các nghiên cứu về chất lỏng, các nghiên cứu liên quan đến hệ thống tim mạch, hệ thần kinh, sự trao đổi chất của cơ và xương.
Cả nước Nhật tự hào về người phụ nữ của họ.
Người Nhật càng tự hào hơn khi Chiaki Mukai lại được lựa chọn vào đoàn du hành vũ trụ của tàu Discovery trong chuyến du hành vũ trụ mang tên STS-95 được thực hiện vào tháng Mười năm 1998. Trong chuyến đi này Chiaki Mukai vinh dự được là người đồng hành với John Glenn nhà thám hiểm vũ trụ nổi tiếng người Mĩ. Trên vũ trụ, Chiaki Mukai và các đồng sự đã tiến hành nhiều cuộc thí nghiệm liên quan đến sự sống, trong đó có thí nghiệm về hiện tượng lão hoá ở người và thí nghiệm thu tín hiệu điện của tế bào não trên sinh vật sống. Không chỉ trực tiếp tiến hành các thí nghiệm, Chiaki Mukai còn chịu trách nhiệm chăm sóc y tế và giải quyết các vấn đề nảy sinh về sức khỏe cho toàn bộ phi hành đoàn.
Sau chuyến bay vào vũ trụ lần thứ hai, Chiaki Mukai vẫn tiếp tục cống hiến cho khoa học. Hàng ngày bà làm việc miệt mài ở phòng nghiên cứu, tham gia các buổi giảng dạy và viết sách. Bà là chủ nhân của gần hai mươi giải thưởng cao quý từ giải thưởng dành cho nhà khoa học nữ xuất sắc đến giải thưởng của Hiệp hội phát triển vũ trụ quốc gia và là tác giả của hơn sáu mươi ấn phẩm. Bà là nguồn cổ vũ lớn đối với các nhà khoa học trẻ ở Nhật Bản và trên thế giới đặc biệt là các nhà khoa học nữ. Cùng với những người phụ nữ chinh phục không gian khác, Chiaki Mukai đã chứng minh rằng phụ nữ có thể làm được tất cả nếu họ có đủ nghị lực, quyết tâm và lòng say mê cống hiến.
Rosa Parks (1913-2005) NGƯỜI PHỤ NỮ DA ĐEN VÀ CHIẾN DỊCH TẨY CHAY XE BUÝT LỚN NHẤT TRONG LỊCH SỬ
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Sau một ngày làm việc mệt nhọc ở cửa hàng, Rosa Parks bước chân lên chiếc xe buýt dừng đón khách tại đại lộ Cleveland để về nhà. Bà trả tiền vé và tìm một chỗ ngồi thuộc hàng ghế đầu tiên dành cho người da đen. Trước mắt bà là bảy hàng ghế dành cho người da trắng.
Tất cả các ghế dành cho người da trắng đều đã có người ngồi và chiếc xe bắt đầu chạy theo lộ trình quen thuộc. Thế nhưng đến trạm dừng thứ ba lại có thêm vài người da trắng nữa bước lên xe và tay lái xe tên là Blake liền chuyển cái biển quy định chỗ ngồi cho người da đen xuống phía sau Rose Parks đồng thời bắt bốn người da đen ngồi đằng trước tấm biển phải đứng dậy lấy chỗ cho người da trắng mới lên xe. Ba người khác lặng lẽ đứng dậy chỉ duy nhất Rosa Parks là không. Tay lái xe gắt: "Tại sao bà không đứng dậy?" Rosa Parks đáp bằng giọng kiên quyết: "Tôi không nghĩ là tôi phải đứng dậy". Tay lái xe gọi cảnh sát đến bắt bà.
Luật áp dụng ở Montgomery, bang Alabama, cho phép sự phân biệt chủng tộc xảy ra gay gắt trên xe buýt. Theo luật, mỗi xe buýt đều có một tấm biển quy định chỗ ngồi cho người da đen, một tấm biển có thể được di chuyển (thường chỉ được di chuyển về phía sau) để đảm bảo rằng tất cả những người da trắng đều được ngồi ở những chỗ tốt nhất. Người da đen không được phép ngồi ở những hàng ghế đầu mà thường phải ngồi ở những hàng ghế sau có khi từ hàng ghế thứ mười trở đi. Người da đen không được phép ngồi ngang hàng với người da trắng. Nếu trong xe đã có người da trắng ngồi sẵn rồi thì người da đen có thể bước lên cửa trước để mua vé nhưng sau đó phải xuống xe rồi lên xe theo lối cửa sau chứ không được đi qua người da trắng. Và nhiều khi những tên lái xe buýt cứ thản nhiên cho xe chuyển bánh bỏ lại những hành khách người da đen đã trả tiền vé mà chưa kịp tìm đến cửa sau của xe.
Rosa Parks bị buộc tội vi phạm mục 11 thuộc Chương 6 của Luật phân biệt chủng tộc. Nhờ sự bảo lãnh của hai luật sư E.D. Nixon và Clifford Durr bà được tại ngoại. Luật sư Nixon khuyên bà theo đuổi vụ án để thay đổi tình trạng phân biệt chủng tộc trên xe buýt ở Montgomery. Vào ngày 5 tháng Mười hai năm 1955, tức là bốn ngày sau khi Rosa Parks làm các việc chưa một người da đen nào từng làm trên xe buýt ở Montgomery, phiên toà được mở và sau ba mươi phút xử án, thẩm phán tuyên bố Rosa Parks phải nộp mười đô la tiền phạt và bốn đô la án phí. Rosa Parks kể lại: "Tôi không muốn bị ngược đãi, tôi không muốn người ta cướp mất chỗ ngồi mà tôi đã trả tiền. Đã đến lúc... và có cơ hội để tôi thể hiện cảm giác bị ngược đãi. Tôi không cố tình để bị bắt. Tôi còn nhiều việc phải làm hơn là ngồi trong tù. Nhưng khi đứng trước quyết định đó, tôi không ngần ngại bởi người da đen chúng tôi đã chịu đựng quá nhiều rồi. Chúng tôi càng nhượng bộ thì chúng tôi càng phải tuân theo cách đối xử đó và càng phải chịu ức hiếp".
Hành động kháng lại sự phân biệt chủng tộc trên xe buýt và phiên toà xét xử bà đã làm dấy lên một chiến dịch tẩy chay xe buýt trong cộng đồng người da đen ở Montgomery. Tổ chức "Cải thiện Montgomery" do Martin Luther King lãnh đạo đã vạch ra đường hướng và cách thức tiến hành cuộc đấu tranh này. Một ngày sau khi Rosa Parks bị bắt, hơn 35 nghìn tờ thông báo về chiến dịch tẩy chay đã được phát đi. Kế hoạch của chiến dịch nhanh chóng được phổ biến ở các nhà thờ dành cho người da đen. Trong ngày diễn ra phiên toà xử Rosa Parks đã có tới 35 nghìn tờ truyền đơn được rải khắp thành phố. Bất cứ người nào đi trên đường phố Montgomery hôm ấy cũng có thể nhặt được một tờ truyền đơn với những dòng chữ: "Chúng tôi kêu gọi tất cả người da đen ãy tẩy chay những chuyến xe buýt thứ Hai để phản đối việc bắt giữ và xét xử Rosa Parks... Trẻ em, người lớn, xin các bạn đừng đi xe buýt ngày thứ Hai". Hưởng ứng lời kêu gọi đó, hầu hết bốn mươi nghìn người da đen trong ngày thứ Hai đã đi bộ đến chỗ làm việc, mặc dù có người phải đi bộ tới ba mươi cây số. Những người không thể đi bộ tới trường học hay nhà máy đều tìm phương tiện khác chứ nhất định không chịu lên xe buýt. Chiến dịch tẩy chay kéo dài 382 ngày.
Vì người da đen chiếm 75% tổng số khách đi xe buýt thường xuyên nên sự tẩy chay của họ đối với phương tiện giao thông này khiến nhiều chiếc xe buýt không có khách để chạy, dẫn tới thiệt hại không nhỏ về tài chính cho các công ty vận tải công cộng. Cùng với sự đóng góp tích cực của các luật sư tâm huyết trong các vụ kiện đòi quyền công bằng cho người da đen, chiến dịch tẩy chay xe buýt cuối cùng đã đạt được kết quả mong muốn. Ngày 13 tháng Mười năm 1956 Toà án tối cao của Mĩ tuyên bố dỡ bỏ qui định phân biệt chủng tộc trên xe buýt. Kể từ đó những hành động phân biệt chủng tộc trên xe buýt được coi là hành động trái pháp luật.
Rosa Parks đã trở thành một biểu tượng của phong trào đấu tranh vì quyền lợi của công dân. Sau vụ việc đó bà bị mất việc và bà đã cùng chồng chuyển đến Hampston rồi đến Detroit. Năm 1965 đại diện người Mĩ gốc Phi John Conyers tuyển bà làm thư ký văn phòng của ông ở Detroit. Bà làm việc ở đó cho tới khi về hưu.
Ngày 24 tháng Mười năm 2005 Rosa Parks từ trần ở tuổi chín hai. Thi hài của bà được chuyển bằng máy bay về Montgomery và được đưa bằng xe ngựa tới nhà thờ thánh Paul. Vào ngày nhân dân Montgomery cử hành lễ tang Rose Parks các hàng ghế trước của mọi xe buýt chạy trong thành phố đều có thắt những dải băng tang để tưởng nhớ người phụ nữ đã góp phần xoá bỏ một điều luật bất công, góp phần xoá bỏ nạn phân biệt chủng tộc không chỉ trên xe buýt mà ở khắp mọi nơi, để mọi con người đều được đối xử công bằng cho dù họ mang màu da nào.
Judy Feld Carr (sinh năm 1939) LỜI HỨA TỪ TRÁI TIM NHÂN ÁI
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Năm 586 trước Công nguyên, khi người Babylon xâm lược nước Jerusalem cổ đại họ đã đốt đền thờ của người Do Thái khiến những người Do Thái phải chạy sang Syria, để rồi hơn hai nghìn năm sau bị kịch lại lặp lại với họ. Năm 1947 những người Syria quá khích đã đốt thánh đường Aleppo của người Do Thái, nơi có cuốn kinh thánh Hebrew lâu đời nhất. Rất nhiều người Do Thái đã tìm cách trốn khỏi Syria. Đến cuối năm 1948 người Do Thái bị cấm rời Syria. Dư luận cho rằng họ bị quản thúc trong lãnh thổ của ba thành phố Damascus, Aleppo, Qamishli và bị ngược đãi. Chính phủ Syria có thể phủ nhận điều đó, nhưng những vụ trốn chạy bất thành đầy máu và nước mắt của người Do Thái được báo chí đưa tin, đã chứng tỏ rằng Syria là mảnh đất mà người Do Thái muốn thoát ra hơn là muốn ở lại.
Năm 1971 Judy Feld Carr, một giáo viên dạy nhạc sống ở Toronto, Canada cách Syria hàng nghìn dặm đọc được tin mười hai thanh niên Do Thái trốn qua biên giới Syria đã sa vào bãi mìn và lính biên phòng Syria đứng yên nhìn từng người trong bọn họ bị nổ tung thành nhiều mảnh. Judy và chồng của cô, Ronald, muốn làm điều gì đó giúp những người Do Thái đang bị kẹt ở Syria.
Họ tìm kiếm các tổ chức giúp đỡ người Do Thái ở Canada nhưng không có một tổ chức nào quan tấm đến cộng đồng thiếu may mắn này. Qua một nhà thờ của người Do Thái, họ thiết lập đường dây liên lạc bí mật với những người Do Thái ở Syria. Những người Do Thái ở Syria cho họ biết tình hình của mình bằng cách trích dẫn những câu kinh thánh để tránh bị nghi ngờ.
Vợ chồng Judy bắt đầu một chiến dịch nhân đạo. Họ gặp các đại biểu Quốc hội, viết thư tới các toà báo, tổ chức các cuộc họp nhằm hướng sự quan tâm của dư luận tới tình hình của người Do Thái ở Syria. Những lời đe doạ tới tập đến với vợ chồng Judy. Một ngày đầu tháng Sáu, một lời đe doạ táo tợn được gửi tới khiến Ronald vô cùng lo lắng. Một ngày sau khi nhận được lời đe doạ đó, trong lúc chơi với đứa con gái nhỏ Ronald bị đột quỵ và qua đời. Bác sĩ cho rằng người chồng bốn mươi tuổi của Judy đã chết vì quá căng thẳng.
Một nách ba con nhỏ, Judy nhận liền lúc ba công việc làm thêm. Cô thành lập quĩ giúp đỡ người Do Thái ở các nước Ả Rập mang tên chồng cô. Cô và những người tình nguyện đi khắp Toronto tổ chức diễn thuyết và quyên góp quỹ. Cô tới Bộ Ngoại giao đề nghị họ tiếp xúc với người Do Thái ở Syria nhưng bị từ chối. Cả lời đề nghị Bộ Ngoại giao lên tiếng ủng hộ người của tổ chức Ân xá quốc tế tới Syria tìm hiểu về tình hình của người Do Thái cũng bị từ chối nốt.
Vào thời điểm đó trên đất Syria có khoảng 4500 người Do Thái. Judy xác định rằng bằng giá nào cũng phải giúp họ thoát ra. Với số tiền từ quỹ Ronald cô thực hiện các chuyến đi bí mật tới Syria để thiết lập đường dây đưa người Do Thái ra nước ngoài.
Đó là một hành động vô cùng nguy hiểm. Tính mạng của những gia đình Do Thái được giúp trốn chạy khó mà được bảo đảm nếu họ bị phát hiện. Bản thân Judy liên tục nhận được những lời đe doạ. Cô tâm sự: "Lúc nào cũng căng thẳng hết sức. Cùng lúc tôi phải sống hai cuộc đời - vừa làm người hoạt động ngầm vừa phải làm bổn phận của người mẹ và phải sống một cuộc sống bình thường.... Tôi cảm thấy tôi còn sống được đến ngày nay quả là một điều kì diệu".
Sở dĩ chiến dịch đưa người Do Thái ra khỏi Syria của Judy thành công là vì Judy đã thực hiện nó một cách hết sức bí mật. Cô không nói cho bất cứ ai biết cách thức tiến hành công việc. Ngay cả những người Do Thái được cứu giúp cũng chỉ biết rằng họ có cơ hội ra khỏi Syria là nhờ một người phụ nữ tên là Judy và điều đó cũng chỉ được tiết lộ khi họ đã đến được nơi an toàn.
Cho đến tháng Ba năm 2001, khi đợt giải cứu cuối cùng hoàn tất, Judy mới cho phép công bố toàn bộ câu chuyện. Và chỉ tới kho cô bước lên bục danh dự để nhận các giải thưởng cao quý, thế giới mới biết đến Judy Feld Carr, một người phụ nữ Canada bình thường đã thầm lặng làm công việc giải cứu người Do Thái trong 28 năm và đưa được 3128 người Do Thái ra khỏi Syria! Đa số những người Do Thái ấy hiện đang định cư tại Israel. Nhiều gia đình người Do Thái được cứu thoát đã đặt tên cho con mình là Judy để nhắc nhở thế hệ sau nhớ đến người đã thay đổi cuộc đời họ.
Lớn lên ở thị trấn nhỏ thuộc Sudbury nơi chỉ có duy nhất một ngôi trường dành cho trẻ em Do Thái, Judy sớm có sự cảm thông với những cuộc đời đau thương của người Do Thái. Khi cô mười tuổi một người mẹ Do Thái có hai con bị giết ở trại tập trung Auschwitz đã bảo với cô: "Các cháu phải làm điều gì đó để chuyện này đừng bao giờ xảy ra với người Do Thái nữa". Judy đã trả lời: "Vâng, cháu không quên đâu".
Và Judy Carr đã giữ lời hứa.
Diana Frances Spencer (1961-1997) BÔNG HỒNG NƯỚC ANH
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Người phụ nữ có sắc đẹp không thua kém gì sắc đẹp của một minh tinh màn bạc Hollywood và có tấm lòng như thiên thần mà cả thế giới quen gọi là công nương Diana, có tên khai sinh là Diana Frances Spencer. Cái tên Diana được đặt theo tên một vị thần La mã, tượng trưng cho sự trong trắng.
Diana sinh ngày 1 tháng Bảy năm 1961, là con gái thứ ba của tử tước sứ Wales, Edward. Năm nàng lên sáu cha mẹ nàng bỏ nhau, Chín năm sau cha nàng trở thành bá tước xứ Wales và Diana trở thành công nương của xứ sở này.
Khi còn nhỏ Diana theo học ở các trường tư thục và tỏ ra có năng khiếu thể thao. Nàng từng mơ ước trở thành một diễn viên balê nhưng sau khi ra trường nàng lại trải qua những công việc như trông trẻ, tiếp tân để rồi cuối cùng hài lòng với công việc giảng dạy ở một trường mẫu giáo tại London.
Năm 1980 Diana gặp hoàng tử Charles con trai cả của nữ hoàng Anh Elizabeth II. Một năm sau họ cưới nhau tại nhà thờ Thánh Paul với sự chứng kiến của hoàng gia và chính quyền Anh cùng các hãng phát thanh truyền hình của 74 nước trên khắp thế giới với sự theo dõi của 750 triệu người. Nhưng thật trớ trêu, chỉ một thời gian ngắn sau đám cưới hoàng gia hoành tráng này Diana phát hiện ra hoàng tử Charles vẫn còn yêu người bạn gái cũ Camilla. Nàng đã từng than thở: "Cuộc hôn nhân này có những ba người. Như vậy thật là ngột ngạt". Nàng đã từng nghĩ đến việc tử tự, nhưng thay vì làm vậy nàng đã dành hết tình cảm và tâm sức của mình cho hai con trai và cho các hoạt động nhân đạo.
Công nương Diana là chủ tịch, là người bảo trợ của hơn 100 hội từ thiện.
Hai hoạt động nhân đạo mà nàng tham gia tích cự nhất là hoạt động giúp đỡ các bệnh nhân AIDS và hoạt động xoá bỏ bom mìn. Năm 1987 các hãng thông tấn báo chí công bố bức ảnh công nương Diana nắm tay một bệnh nhân nhiễm AIDS và bức ảnh này lập tức có tác dụng cải thiện thái độ của xã hội đối với những người nhiễm AIDS. Năm 2001 trong bài diễn văn nói về hoạt động vì bệnh nhân AIDS của công nương Diana, Tổng thống Bill Clinton đã nói: "Năm 1987, vào thời điểm mọi người vẫn nghĩ rằng bệnh AIDS có thể lây qua tiếp xúc thông thường, thì công nương Diana đã đến thăm một người đàn ông nhiễm AIDS, ngồi tại giường bệnh và nắm tay bệnh nhân này. Nàng muốn gửi đến thế giới thông điệp rằng những người bị nhiễm AIDS không đáng bị cách li, mà đáng được đối xử bằng tình yêu thương và sự cảm thông. Hành động của Diana đã giúp thay đổi quan niệm của thế giới, giúp mang lại hi vọng sống cho những nạn nhân của bệnh AIDS". Không muốn để báo giới khuyếch trương những việc làm nhân đạo của mình, Diana đã thực hiện những chuyến thăm "lặng lẽ tới các bệnh viện nơi có bệnh nhân nhiễm AIDS ở giai đoạn cuối, trong đó có những bệnh nhân tại bệnh viện Mildmay Hospital.
Có lẽ hoạt động nhân đạo nổi bật nhất của Diana là chuyến đi tới Angola vào tháng Giêng năm 1997 với tư cách là tình nguyện viên của Hội chữ thập đỏ quốc tế. Tại đây nàng đã đi thăm các bệnh viện có nạn nhân của các vụ mìn nổ sát thương, thăm quan các dự án tháo gỡ bom mìn, tham dự các lớp giáo dục nâng cao hiểu biết về sự nguy hiểm của mìn dưới lòng đất xung quanh các khu dân cư. Những bức ảnh chụp cảnh Diana với chiếc mũ sắt và áo chống đạn tại các bãi mìn được cả thế giới quan tâm chú ý. Diana còn đi đến Bosnia và nhiều nơi khác để thúc đẩy các chương trình gỡ bỏ mìn. Nàng đặc biệt quan tâm đến việc giải quyết hậu quả mà bom mìn gây ra cho con người đặc biệt là trẻ em.
Không chỉ lo ngại về những quả mìn hiện nằm trong lòng đất, Diana còn nỗ lực tranh đấu vì một thế giới không có mìn cho thế hệ mai sau. Nàng là người có công lớn trong việc vận động nước Anh và các nước khác đi đến kí Hiệp định Ottawa, hiệp ước cấm sản xuất và sử dụng mìn. Cho tới nay một số nước sản xuất nhiền mìn sát thương vẫn chưa tham gia hiệp ước này, nhưng tiếp tục những nỗ lực của Diana nhiều tổ chức quốc tế và những cá nhân tâm huyết đã và đang tiếp tục tranh đấu cho một thế giới không có mìn sát thương.
Cuộc đời của Diana có nhiều thay đổi khi nàng gặp Dodi Al Fayed, một nhà làm phim Hollywood. Dodi đã tham gia sản xuất những bộ phim nổi tiếng như phim Mã hoả xa (Chariots of fire), Kính vỡ (Breaking glass), Thế giới trong mắt Garp (The world according to Garp), F/X, Peter Pan.
Diana và Dodi từng cùng có mặt tại một số hoạt động xã hội và đã từng gặp nhau tại một trận bóng polo vào năm 1986, nhưng chỉ đến khi hôn nhân của Diana đổ vỡ, họ mới thực sự trở thành bạn của nhau. Diana từng ăn tối với Dodi trong căn hộ của Dodi ở Parkline. Họ đã cùng nhau đi thăm Villa Winsor, nơi ở cũ của công tước xứ York và có tin cho rằng họ dự định sẽ sống ở đó. Người ta cho rằng những ngày làm bạn với Dodi công nương Diana thực sự hạnh phúc.
Song, hạnh phúc ấy không kéo dài được bao lâu. Ngày 31 tháng Tám năm 1997, một năm sau khi ly dị với thái tử Charles, Diana bị tai nạn ô tô ở Pháp. Vụ tai nạn xảy ra tại đường hầm Pont de l Alma ở Paris sau khi Diana và Dodi rời khách sạn Ritz. Dodi và người lái xe tên là Henri Paul chết ngay tại chỗ. Diana được đưa vào bệnh viện và trút hơi thở cuối cùng tại đó vào 4 giờ sáng (giờ Paris). Nguyên nhân của vụ tai nạn được cho là các tay săn ảnh đã bám theo xe của Diana với tốc độ cao. Nhưng gần đây cảnh sát điều tra vụ tai nạn lại tiết lộ rằng các bằng chứng mới thu thập được cho thấy nguyên nhân vụ tai nạn phức tạp hơn chúng ta tưởng. Tuy nhiên chưa có tuyên bố chính thức nào về cuộc điều tra này.
Cũng như đám cưới của nàng với hoàng tử Charlie, đám tang của nàng cũng có một con số kỷ lục người tham dự và theo dõi. Có điều khác là người ta theo dõi đám cưới của nàng với nụ cười và sự ghen tị còn theo dõi đám tang của nàng với những giọt nước mắt và sự tiếc thương. Một tháng sau khi Diana qua đời, trên những trang của tờ tạp chí New idea, một tờ tạp chí nổi tiếng của Australia, niềm thương tiếc vô hạn dành cho nàng vẫn hiển hiện trên từng dòng tâm sự của độc giả. Một độc giả có tên là Sylvia đã viết: "Tôi tiếc rằng các con tôi chưa đủ lớn để có thể hiểu được những gì Diana đã làm cho thế giới này. Tim tôi đau đớn. Tôi không thể tin nổi một người phụ nữ tuyệt vời như Diana lại có cuộc đời ngắn ngủi như vậy. Diana là một trong những người tốt nhất". Còn để tưởng nhớ nàng, ca sĩ Elton John sáng tác một bài hát đầy cảm động. Trong bài hát ấy, Diana được gọi là "Bông hồng nước Anh". Bài hát đã đi vào lịch sử âm nhạc với vị trí cao trong các bảng xếp hạng, còn công nương Diana xinh đẹp và đầy lòng nhân ái trở thành bất tử trong những trái tim yêu mến và tôn thờ nàng.
Frieda Fromm Reichmann (1889-1957) NGÔI SAO CỦA THẾ HỆ F-2
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Nhắc tới chứng bệnh rối loạn tâm thần, chúng ta thường có những ý nghĩ không mấy lạc quan. Nhưng với bác sĩ Frieda Fromm Reichmann thì không có trường hợp rối loạn tâm thần nào là trường hợp không còn hy vọng. Và khẳng định dựa trên kinh nghiệm thực tế được Frieda đúc kết từ quá trình làm việc hơn 30 năm của bà đã chứng tỏ bà là một trong những chuyên gia điều trị các chứng bệnh tâm thần thành công nhất của thế kỷ XX.
Sinh ra tại miền Đông Prussia, nước Đức, trong một gia đình gốc Do Thái coi trọng giáo dục và văn hoá, từ nhỏ Frieda đã được cha mẹ gửi gắm nhiều kỳ vọng. Bà thoả mãn gần như mọi kỳ vọng của cha mẹ bà với những thành tích đáng tự hào trong học tập và sự gương mẫu của một người chị cả trong gia đình. Năm mười bảy tuổi, bà thi đỗ vào đại học và theo học ngành tâm thần học. Sau khi ra trường, bà nghiên cứu về các chấn thương vùng não và đặc biệt quan tâm đến phân tâm học. mối quan tâm này đã đưa bà ra nhập những người thuộc thế hệ F-2, thế hệ kế tiếp của ông tổ ngành phân tâm học Sigmund Freud.
Tuy chịu ảnh hưởng bởi những nghiên cứu của Freud, Frieda không chỉ quan tâm đến những chứng rối loạn tâm thần do những nguyên nhân vô thức mà còn chú trọng tới những nguyên nhân mang tính xã hội. Vào những năm 30 khi châu Âu trải qua cuộc khủng khoảng kinh tế trầm trọng và cuộc đại chiến thế giới lần thứ hai, khiến cho con số những người mắc bệnh tâm thần tăng vọt Frieda đã thành lập một bệnh viện chuyên điều trị các chứng bệnh rối loạn tâm thần ở Heidelberg. Sau đó bà chuyển đến làm việc tại bệnh viện Chestnut Lodge ở Maryland, thuộc nước Mỹ. Qua quá trình điều trị bà đã điều chỉnh những quan điểm về bản năng tính dục mà bà tiếp thu của Freud, tập trung chú ý tới những trải nghiệm thời thơ ấu cản trở khả năng hiểu bản thân và thế giới xung quanh của bệnh nhân. Hướng đi ấy của bà đã được chứng minh tính hiệu quả bằng những phản ứng tích cực từ các bệnh nhân mà bà điều trị.
Trong số rất nhiều bệnh nhân được Frieda giúp chữa khỏi bệnh có một trường hợp được coi là một kỳ tích. Đó là trường hợp của Joanne Greenberg. Từ bé Joanne được chẩn đoán làm mắc chứng "rối loạn suy nghĩ" và mặc dù gia đình cô đã cố gắng hết sức để giúp cô trở lại cuộc sống bình thường, nhưng tình trạng của cô mỗi ngày một xấu đi. Năm Joanne mười sáu tuổi, mẹ cô đưa cô tới bệnh viện Chestnut Lodge và Frieda trở thành bác sĩ trị liệu cho cô. Quá trình điều trị kéo dài ba năm và đạt được kết quả kỳ tích đến nõi Joanne không những bình phục mà cùng còn bác sĩ Frieda lập kế hoạch viết chung một cuộc sách kể về trải nghiệm của họ. Frieda không có cơ hội thực hiện phần viết của mình. Tuy nhiên cuốn sách vẫn được xuất bản và trở thành một trong những cuốn sách bán chạy nhất. Đó là cuốn tiểu thuyết I never promised you a rose garden mà theo Frieda có thể gọi ngắn gọn là Garden of roses- Vườn hồng. Mặc dù trong cuốn tiểu thuyết này Joanne với bút danh là Hannah Green đã thay đổi tên các nhân vật và các địa danh, các chi tiết về trải nghiệm của cô với bác sĩ Frieda được miêu tả hết sức sinh động và chân thực, khiến người đọc không khỏi khâm phục tài năng của người bác sĩ trị liệu. Joanne sau này trở thành một nhà văn được bạn đọc yêu thích với mười hai cuốn tiểu thuyết và bốn tập truyện ngắn. Thành công lớn nhất của cô là không một lần nào phải quay trở lại bệnh viện Chestnut Lodge với tư cách là một bệnh nhân.
Frieda coi việc trị liệu tâm lý là mang đến sự dẫn dắt tích cực về tinh thần. Bà cho rằng thành công của điều trị phụ thuộc vào mức độ thấu cảm giữa bệnh nhân và bác sĩ. Theo bà để đạt được sự thấu cảm, người bác sĩ cần phải coi trọng những đóng góp của bệnh nhân vào phiên trị liệu; phải luôn hiểu rằng bệnh nhân đến trị liệu luôn hướng tới sự cải thiện sức khoẻ tinh thần cho dù họ nói gì và xử sự thế nào đi chăng nữa và bác sĩ trị liệu phải luôn có thái độ sẵn sàng học hỏi từ bệnh nhân của mình. Thêm vào đó, muốn coi trọng những gì bệnh nhân đóng góp vào việc trị liệu người bác sĩ cũng cần phải coi trọng vai trò của mình. Bác sĩ phải có đủ độ yên tâm và ổn định để ý thức và kiểm soát được những gì mình truyền cho bệnh nhân qua lời nói.
Trong khi nhiều người cho rằng những bệnh nhân mắc chứng tâm thần phân liệt thiếu khả năng phát triển mối quan hệ qua lại với bác sĩ trị liệu nên không thể có biến chuyển tích cực nhờ quá trình trị liệu, Frieda lại cảm thấy rằng những bệnh nhân ấy có thể phát triển mối quan hệ đó một cách đáng kinh ngạc. Vấn đề đặt ra là người bác sĩ phải xác định được những suy nghĩ méo mó trong quan hệ của họ và bằng cách dùng lời hoặc không dùng lời làm cho bệnh nhân hiểu được mình không phải là người như bệnh nhân suy nghĩ. Sau đó người bác sĩ phải xác định điều gì, sự kiện nào trong thời thơ ấu của bệnh nhân đã khiến bệnh nhân có những kiến thức méo mó đó. Đây là một bước khó khăn, đòi hỏi nhiều thời gian và chỉ đạt được kết quả tốt nhất khi bác sĩ giao tiếp với bệnh nhân bằng cách đặt ra các câu hỏi hoặc đưa ra những khả năng chứ không phải bằng cách đưa ra những khẳng định có thể dẫn tới sự ngờ vực. Những kinh nghiệm này đã được Frieda cô đọng trong một cuốn sách mang tên Những nguyên tắc tâm lý trị liệu chuyên sâu (Principles of Intensive Psychotherapy), cuốn sách đã trở thành tài liệu nghiên cứu không thể thiếu của thế hệ các nhà tâm lý trị liệu sau bà.
Chữa bệnh chỉ bằng lời nói và từ chối áp dụng những liệu pháp như sử dụng sốc điện, liệu pháp gây ngủ và những liệu pháp kỳ dị khác, Frieda thực sự đã đi theo một con đường riêng đầy gian khổ. Mục đích, kết quả mà bà và người nhà bệnh nhân trông đợi phụ thuộc vào những giờ bà ngồi với bệnh nhân, nghe họ nói với sự kiên nhẫn, sáng suốt và nói cho họ nghe bằng lời nói từ cả trái tim và khối óc bà. Ảnh hưởng của Frieda Fromm đối với ngành tâm thần học nói chung và việc điều trị các chứng bệnh tâm thần phân liệt nói riêng có thể được tóm tắt ngắn gọn bằng lời nhận xét của Szalita: "Tôi muốn nói đi nói lại rằng một mình Frieda đã đóng góp nhiều hơn bất cứ ai trong việc khuyến khích cả thế giới phương Tây áp dụng tâm lý trị liệu vào điều trị các chứng bệnh tâm thần phân liệt".
Alison Hargreaves (1963-1995) CHINH PHỤC NHỮNG ĐỈNH CAO
Dịch giả: Nguyễn Bích Loan
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Có người nói rằng nếu bạn chinh phục được một ngọn núi bạn sẽ có khát khao được đứng trên đỉnh của một ngọn núi cao hơn. Điều đó có lý, bởi vì nếu không phải vậy thì có lẽ cho đến giờ vẫn chưa có ai đặt chân lên đỉnh Everest. Nhưng chinh phục được đỉnh Everest rồi một nhà leo núi sẽ làm gì? Tiếp tục leo núi, đó là câu trả lời của Alison Hargreaves, người phụ nữ đã chinh phục những ngọn núi cao nhất thế giới.
Sinh năm 1963 tại Scotland, quê hương của những đỉnh núi mù sương, Alison luôn ấp ủ mơ ước trở thành nhà leo núi giỏi nhất thế giới. Cô bắt đầu tham gia vào cộng đồng những người leo núi từ khi còn rất trẻ và không được chú ý nhiều cho tới năm 1988 khi cô tham gia đoàn leo núi chinh phục phía bắc ngọn Eiger thuộc dãy Alps trong lúc đang mang thai tháng thứ sáu. Rồi một mình cô chinh phục tất cả những ngọn núi thuộc phía bắc của dãy núi cao nhất châu Âu này. Cũng giống như những nhà leo núi khác, Alison không cưỡng nổi sự cuốn hút của những đỉnh núi chọc trời ở Nepal. Cô đã chinh phục đỉnh Ama Dablam cao 6812 mét. Và mục tiêu tiếp theo của cô tất nhiên là đỉnh Everest.
Năm 1994 ở tuổi ba mươi hai cô bắt đầu chinh phục Everest, nhưng khi leo được tới độ cao 8332 mét, gió tuyết đe doạ làm chân tay cô tê cứng khiến cô buộc phải quay xuống. Năm 1995, cô lập kế hoạch chinh phục ba đỉnh núi cao nhất thế giới Everest, K2, Kanchenjunga. Riêng với Everest, cô dự định sẽ thực hiện cuộc chinh phục một mình, không sử dụng sự trợ giúp của người bản địa cũng không sử dụng bình oxy. Cho tới thời điểm đó chỉ có nhà leo núi Reinhold Messner đã từng thực hiện thành công một chuyến leo núi như thế. Cô có mặt tại dãy Himalaya vào đầu tháng Tư. Ngày 11 tháng Tư, cô tới được trại chính ở độ cao 5199,9 mét. Cô buộc phải leo lên đỉnh theo mặt bắc hiểm trở bởi những đường dốc phía dưới hầu như đều có tuyết phủ. Cuối cùng vào 12 giờ 08 phút giờ địa phương ngày 13 tháng Năm, Alison đã đặt chân lên đỉnh Everest cao 8847,7 mét. Từ trên đỉnh núi cao nhất thế giới, cô liên lạc với trại chính và thông qua trại chính gửi cho hai con nhỏ của cô bức fax mang dòng chữ: “Mẹ đang đứng trên nóc nhà thế giới và mẹ yêu các con rất nhiều”. Vào thời điểm đó cô là người phụ nữ đầu tiên leo lên đỉnh Everest mà không cần sự trợ giúp của bình oxy.
Từ đỉnh Everest trở về, Alison chỉ nghỉ ngơi chưa đầy một tháng. Vào tháng Sáu năm 1995 cô đến tập trung cùng đoàn leo núi người Mĩ chuẩn bị cho chuyến leo núi chinh phục đỉnh K2. Nằm ở Pakistan, K2 là đỉnh núi cao thứ hai thế giới nhưng là thách thức lớn nhất đối với những nhà leo núi bởi nó hiểm trở hơn Everest. Có nhiều nhà thám hiểm đã phải đầu hàng trên đường chinh phục đỉnh núi này. Điển hình là chuyến chinh phục K2 vào mùa hè năm 1986 của chín đoàn thám hiểm đại diện cho mười quốc gia. Trong chuyến chinh phục này, có hai mươi bảy người đã lên được tới đỉnh K2 nhưng đã có tới 13 người phải bỏ mạng.
Trước ngày 13 tháng Tám, Alison và những nhà leo núi người Mĩ đã tới được trại số 4 trên đỉnh K2, một trại nằm ở độ cao 7600 mét so với mực nước biển và tập hợp với một đội thám hiểm gồm những nhà leo núi người New Zealand và Canada. Trong bốn ngày liền thời tiết rất ủng hộ đoàn các nhà leo núi và vào sáng sớm ngày Chủ nhật 13 tháng Tám đoàn leo núi gồm Alison, Slater, Grant, Lakes, Hillary, và năm nhà leo núi người Tây Ban Nha chia thành các nhóm nhỏ bắt đầu thực hiện chặng leo được dự tính kéo dài mười hai giờ tới đỉnh K2; những nhà thám hiểm người Tây Ban Nha leo theo mặt phía Nam, nhóm của Alison lao theo ngọn Abruzzi. Họ không biết rằng Peter Hillary, con trai của nhà thám hiểm đầu tiên chinh phục Everest, đã quyết định bỏ cuộc khi nhận thấy thời tiết đang có dấu hiệu xấu đi.
Vào 6 giờ chiều ngày hôm đó trại chính nhận được liên lạc qua radio cho biết nhóm của Alison đã lên tới đỉnh K2. Và kể từ đó trở đi những người ở trại chính không bắt được liên lạc với những người đã chinh phục được đỉnh K2. Những người có mặt trên núi kể lại rằng có một cơn giông lớn với sức gió khoảng 160km/giờ đã hoành hành dữ dội tại vùng núi K2. Người ta đã nhìn thấy có người rơi xuống khỏi vách núi. Alison và sáu nhà leo núi khác đã chết như thế nào không ai biết chính xác. Tuy nhiên Fitcher, người đã từng chinh phục K2 thành công và là người có mặt tại trại chính vào thời điểm đó, cho rằng họ đã rơi khỏi vách núi trên đường xuống các trại bên dưới. Cũng theo Fitcher, trong số bảy người đó chỉ có Lakes đã cố gắng xuống được tới trại số 2 nhưng cuối cùng đã chết ở đó.
Thảm kịch xảy ra với Alison Hargreaves vào ngày Chủ nhật ấy đã khiến báo chí trên thế giới nhắc đến cô nhiều hơn bao giờ hết. Người ta đã từng đặt ra câu hỏi rằng liệu một người phụ nữ bỏ con nhỏ ở nhà để lao vào những chuyến leo núi đầy nguy hiểm như vậy có nên chăng? Có lẽ đọc những dòng nhật ký của cô người ta sẽ thông cảm với cô hơn. Cô đã viết: "Tôi vừa muốn có con, vừa muốn K2... Tôi cảm thấy bị níu kéo từ cả hai phía. Có thể các con tôi sẽ vui hơn nếu tôi ở bên chúng nhiều hơn. Nhưng có lẽ chinh phục được K2 sẽ giúp mang đến cho các con tôi một tương lai tốt đẹp hơn". Liệu chúng ta có thể phán xét hay chỉ có thể cảm phục Alison Hargreaves khi mà tôi, bạn và hàng tỉ người sống trên hành tinh này từng mơ ước được một lần được đặt chân lên đỉnh núi cao nhất thế giới nhưng không có cơ hội hoặc không đủ khả năng thực hiện điều đó, trong khi với Alison Hargreaves việc chinh phục những đỉnh núi cao hàng nghìn mét lại là việc mà cô cảm thấy tự tin nhất?