Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Đông Tây Nhân Vật Chí
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Đông Tây Nhân Vật Chí Luận bàn về những nhân vật nổi tiếng và tai tiếng...

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 05-05-2010   #19
Ảnh thế thân của lanhdienlangkhach
lanhdienlangkhach
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 20-04-2010
Bài viết: 115
Điểm: 194
L$B: 2.883
lanhdienlangkhach đang offline
 
Trích dẫn:
Nguyên văn gởi bởi Bách Việt 18 Xem bài viết
Trong tam@quốc có câu chuyện ngụ ngôn: quả trứng đại bàng rơi vào ổ gà, nở ra chim con. Đại bàng con to lớn, xấu xí, bị những con vật khác chê bai. Rồi một hôm có chim đại bàng bay liệng trên sân, lũ gà cuống quít chạy trốn. Chim con lúc đó mới mơ ước, ước gì được thành đại bàng để được bay cao, bay xa, ai cũng phải nể sợ...
Câu chuyện trên nói về Lưu Bị, lúc nhỏ làm nghề dệt chiếu, bán dép, nhưng lại là con đại bàng, dòng dõi Lưu Thắng, Lưu Bang... Chuyện nay nước Việt như trứng đại bàng nở trong ổ gà, một khi biết mình là đại bàng thì sẽ vươn cánh bay cao bay xa...

Trung Hoa cổ đại mất nước vào thời Vương Mãng. Vương Mãng hay Vương Mãn, tức là vị vua cuối cùng (Hùng Vương thứ 18) với cải cách không thành, quốc lực cạn kiệt. Đoạt ngôi của Vương Mãn là lũ giặc cỏ ở núi Lục Lâm Lưu Huyền, Lưu Tú, mạo xưng cháu mấy đời của Hiếu Cao Tổ. Lưu Tú từ vùng Sơn Tây chính là dân Hán, hay Hãn (hung hãn), lập nên nhà Đông Hán, một trang sử mất nước của dân Việt. Tên Bách Việt cũng có từ đó, chỉ sự mất nước của Trung Hoa cổ (phục sinh thành tộc Bách Việt ở phương Nam).
Vì thế những cuộc khởi nghĩa sau thời Đông Hán đều là của người Việt, chống lại sự đô hộ của Hãn tộc. Trưng (Hai Bà) chống lại Đông Hán, thắng lợi trên toàn cõi Lĩnh Nam (đất Bách Việt xưa, chứ không chỉ ở Bắc Việt). Triệu (Triệu Thị Trinh, với nghĩa là Bà Chúa) khởi nghĩa ở vùng Cửu Chân (Thanh Nghệ) là khởi nghĩa nhỏ (so với cương vực của Bách Việt), không thành công. Lý (Lý Bí), tức Lưu Bị cùng anh là Lý Thiên Bảo (Lưu Biểu) dấy binh ở nước Dạ Lang rồi xưng đế đất Thục. Ngô (Ngô Quyền) là vua nước ... Ngô, hay là Ngô tôn Quyền, chiếm toàn bộ Giang Nam (cũng là đất Bách Việt), với trận thủy chiến oanh liệt trên sông ... Đường Giang (Đằng Giang), chống lại giặc Nam Hãn (Ngụy vương Hoàng Tháo hay giặc giả Tào Tháo).

Trận Xích Bích Ao Binh là dân Việt đánh ah??? Huynh đài càng nói tại hạ cảm thấy càng rối rồi đó.

Lịch sử có thể thay đổi một chút tình tiết chứ không thể thay đổi về thời gian.

Lý Bí sinh năm 503, còn Ngô Quyền thì sinh năm 898...

Lưu Bị với Tôn Quyền thì sống trong những năm 200 đến 259.

Các hạ định làm bộ phim khoa học viễn tưởng hay sao mà để thời gian trôi qua nhanh đến vậy?

Thực sự thì nước Việt ta có chừng đó thôi và nhỏ hơn một chút nửa thì có...Chứ rộng và dài thì không phải của ta, cái đó của anh hàng xóm tham lam.


Chữ ký của lanhdienlangkhach
Xin mưa rơi ướt một mình
tôi thôi, còn để yên bình phần em

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 05-05-2010   #20
Ảnh thế thân của HànTuyếtBăng
HànTuyếtBăng
-=[ Lâu La ]=-
Thiên Sứ
Gia nhập: 24-11-2007
Bài viết: 5.171
Điểm: 27
L$B: 5.385
HànTuyếtBăng đang offline
 
Nghiên cứu lịch sử tí coi nè!

Các nhà sử gia còn chưa biết nổi 18 vị Hùng Vương là thiệt đến đỗi nào nữa là...???

Bách Việt 18 nói vậy: "Trung Hoa cổ đại mất nước vào thời Vương Mãng. Vương Mãng hay Vương Mãn, tức là vị vua cuối cùng (Hùng Vương thứ 18) với cải cách không thành, quốc lực cạn kiệt." có tài liệu dẫn chứng không vậy?

Hóa ra ông cha mình ngày xưa thuộc nhóm người nào vậy?

Tò mò thôi nhé! Hong hiểu thì hỏi mà ^^

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 06-05-2010   #21
Ảnh thế thân của Nhất Chi Mai
Nhất Chi Mai
-=[ Hộ Quân Đầu Lĩnh ]=-
太 學 生
Gia nhập: 20-06-2009
Bài viết: 212
Điểm: 118
L$B: 9.951
Tâm trạng:
Nhất Chi Mai đang offline
 
Cội nguồn Việt Tộc

Trích dẫn:
Nguyên văn gởi bởi Thanh Văn
Giới thiệu tác phẩm
“CỘI NGUỒN VIỆT TỘC” của PHẠM TRẦN ANH

Đã từ lâu tôi thường thắc mắc về một chi tiết trong cổ sử của Việt Nam về giai đoạn các vua Hùng dựng nước. Theo truyền thuyết Việt tộc là hậu duệ của Viêm Đế Thần Nông, cháu ba đời của Viêm Đế là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi. Đế Minh đi xuống phương Nam tuần tra, đến vùng Ngũ Lĩnh, nằm vế phương Nam nước Trung Hoa, kết hôn cùng tiên nữ, sinh ra Lộc Tục, là người có thánh đức.

Đế Minh muốn truyền ngôi vua cho, nhưng Lôc Tục lại nhường cho anh, nên Đế Minh để cho con trưởng là Đế Nghi làm vua phương Bắc (tức là nước Trung Hoa, phía Bắc sông Hoàng hà). Cho con thứ là Lộc Tục làm vua phương Nam. Lúc đó là vào năm Nhâm Tuất (2879TCN).

Lộc Tục xưng đế hiệu là Kinh Dương Vương, lấy họ là Hồng Bàng và đặt tên nước là Xích Qũy. Kinh Dương Vương lấy con gái Động Đình Quân là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm. Sùng Lãm kế nghiệp cha lên làm vua xưng là Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ. Sinh được trăm trứng và trăm trứng đó nở ra trăm người con trai. Đây là tổ của bách Việt.

Một hôm Lạc Long Quân bảo nàng Âu Cơ rằng ta vốn là giống Rồng, nàng là giống Tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó. Nên sau đó hai người chia tay nhau mỗi người dẫn theo 50 người con. Cha dẫn 50 con xuống phía biển, mẹ dẫn 50 con về núi. Lạc Long Quân phong cho người con trưởng (không rõ tên húy) lên nối ngôi, xưng là Hùng Vương, đặt tên nước là Văn Lang v..v.. Hùng Vương truyền được 18 đời, tất cả đều lấy hiệu là Hùng Vương, cho đến năm Qúy Mão (258TCN) thì nước Văn Lang của vua Hùng bị vua nước Thục la Thục Phán chiếm được. Thục Phán lên ngôi xưng la An Dương Vương và đổi quốc hiệu là Âu Lạc, đóng đô ở Phong Khê và xây Loa Thành theo hình trôn ốc.

Tính từ năm 2879TCN đến năm 258TCN cả thẩy là 2622 năm. Chi tiết này không những riêng cá nhân tôi thắc mắc vì tính từ Kinh Dương Vương đến vua Hùng thứ 18 có 20 đời vua mà thời gian trị vì những hơn 2600 năm thì thật là một điều khó tin. Các sử gia từ Lê Văn Hưu, Ngô Sĩ Liên, Ngô Thì Sĩ và gần đây Trần Trọng Kim, Phạm Văn Sơn và mới nhất là sử gia Trần Gia Phụng. Tất cả đều không ai tin các chi tiết về thời gian trị vì của 20 đời vua vào thời Hồng Bàng là đúng. Thậm chí nhà văn Nguyễn Ngọc Ngạn với kiến thức về sử Việt Nam khá giới hạn, trong một video do Thúy Nga Paris sản xuất trước đây đã dám tuyên bố rằng thời Hồng Bàng “chắc” chỉ chừng 800 năm mà thôi.

Đề tài nghiên cứu về Việt tộc không phải chỉ là đề tài dành riêng cho các sử gia. Các nhà nghiên cứu về văn hoá như giáo sư Nguyễn Xuân Khoan, tức nhà báo Thiện Nhân Chủ bút Tập San TV-Victoria hiện sống và làm việc ở thành phố Melbourne Tiểu bang Victoria của Úc, nhà nghiên cứu văn hóa Cung Đình Thanh, người chủ trương tủ sách Việt học và tập san Tư Tưởng ở Úc, hiện sống tại Sydney cũng thường chú ý. Nhà nghiên cứu Nguyên Nguyên cũng sống ở Úc, và còn nhiều nhà nghiên cứu khác ở Pháp, Mỹ và Canada và nhất là ngay trong nước Việt Nam cũng đều chú ý.

Nay đọc trong tác phẩm Cội Nguồn Việt Tộc của Phạm Trần Anh do Trần Thục Vũ và Phạm Trần Hào xuất bản ở California Hoa Kỳ năm 2004. thắc mắc trên của tôi đã được giải toả. Lý luận và dẫn chứng của Phạm Trần Anh đầy tính thuyết phục và hợp lý khiến sau khi đọc xong phần trình bầy về chi tiết này trong tác phẩm ghi trên tôi tự cảm thấy nhẹ nhõm vì bao lâu nay vẫn ấm ức về chi tiết “khó tin” trong truyền thuyết về giai đoạn dưng nước của các vua Hùng.

Bây giờ xin sơ lươc trình bầy về tác phẩm của Phạm Trân Anh trước sau đó sẽ viết rõ hơn về chi tiết nêu trên.

( ... )

"Cội Nguồn Việt Tộc" là cuốn sách dầy 388 trang, in trên giấy trắng mịn, bìa in mầu đen, chính giữa là một hình vuông mầu vàng bên trong có hình mặt trống dồng Ngọc Lũ với hai mầu đỏ và vàng. Tên Sách in trên đầu trang bìa và tên tác gỉa in khá nhỏ ngay dưới ô vuông mầu vàng có hình mặt trống đồng. Dưới cùng là mấy chữ Việt Nam 2004. .... .

Về nội dung, sau các phần Giới thiệu dẫn nhập dưới hình thức một lá thư của Trần Thục Vũ gửi Phạm Trần Anh, phần giới thiệu tác phẩm của Trần Công Hàm cựu sinh viên tốt nghiệp khóa 8 ban Đốc Sự HV/QGHC, tức nhà văn Anh Thái Phượng, phần dẫn luận của nhà văn Hải Triều (hiện sống ở Canada) là 12 chương sách gồm :

1/ Huyền thoại Rồng tiên.

2/ Thời đại Hùng Vương.

3/ Quốc gia Văn Lang.

4/ Hiện thực lịch sử của quốc gia Văn Lang.

5/ Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng.

6/ Nguồn gốc tiếng Việt cổ.

7/ Nguồn gốc Việt tộc.

8/ Nguồn gốc dân tộc trong thư tịch cổ.

9/ Chủng tính Malaynesien của Việt tộc.

10/ Từ Malaynesien của Bách Việt.

11/ Đồng bào thiểu số của Việt tộc.

12/ Nguồn gốc Bách Việt của thổ dân châu Mỹ-Úc.

Cuối cùng là bài sử thi :”Rồng Tiên truyền thuyết sử thi” của Phạm Trần Anh.

Trong sách cũng có in vài bản đồ thời cổ đại và một số hình chụp các cổ tự của Việt tộc, cả sơ đồ thành Cổ loa ở cuối sách.

Xuyên suốt 12 chương sách tác giả đã dẫn giải và minh chứng cho người đọc thấy rằng Việt tộc là một dân tộc xuất phát từ các hải đảo thuộc Châu Đại Dương ở phương Nam theo thời gian di chuyển dần lên phía Bắc, lập nghiệp ở phía Nam sông Hoàng Hà bên Tầu. Sau đó người Hán ở phía Bắc sông Hoàng Hà tiến đánh nên phải di chuyển dần xuống phía Nam.

Bằng những dẫn chứng về các khoa khảo cổ học, ngôn ngữ học, khoa khảo tiển sử học với các dẫn chứng bằng các tài liệu của viện Viễn Đông Bác Cổ, các khảo cứu của các nhà bác học như G. Coedès, nguyên Viện Trưởng Viễn Đông Bác Cổ (1962). Valois và G. Olivier. Các tài liệu của các học gỉa như Nguyễn Hiến Lê, nhà khảo cứu ngôn ngữ Bình Nguyên Lộc. Các nhà khảo cổ học Nguyễn Đình Khoa và Nguyễn Lân Cường (hiện ở trong nước) và nhiều nhà bác học và khảo cứu Trung Hoa và các quốc gia khác. Rồi với kết quả khảo cứu của các nhà khảo cổ học bằng phương pháp dùng Carbon C14 cũng như phương pháp đo chỉ số sọ của Việt tộc so sánh với Hán Tộc và các chủng tộc khác, Phạm Trần Anh đã chứng minh được rõ ràng nguồn gốc Việt tộc là chủng tộc lâu đời nhất xuất hiện ở vùng đất phía Nam Trung Hoa (phiá Nam sông Hoàng Hà và sau cùng do sự tấn công và lấn chiếm của Hán tộc, một tộc du mục xuất phát từ các vùng phía Bắc sông Hoàng hà, đã phải lui dần vế phương Nam và định cư tại châu thổ Bắc Việt ngày nay). Nguồn gốc của Việt tộc rõ ràng hoàn toàn khác hẳn Hán tộc là sắc dân du mục từ phương Bắc tràn xuống xây dựng nên nuớc Trung Hoa ngày nay. Việt tộc cũng là một sắc dân có ngôn ngữ, chữ viết từ thời cổ đại, có một nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước rất sớm và đã để lại các di sản như trống đồng, thuyền mũi cong, các nông cụ như lưỡi cầy bằng đồng v..v..

( ... )

Bây giờ xin đề cập đến chi tiết mà tôi cho là lý thú nhất là việc Phạm Trần Anh đã chứng minh được giai đoạn hơn 2600 năm của thời Hồng Bàng là “chính xác” và đúng :

Bàn về thời Hồng Bàng Phạm Trần Anh cho rằng các sử gia Hán tộc với quan niệm “Đại thống nhất”, tự cho mình là trung tâm của thế giới, cái rốn của nhân loại, Hán tộc là tộc ưu việt, nên trong kinh thi có câu :”Huệ thử Trung Quốc, dĩ tuy tứ phương”. Đó là chủ trương bành trướng của Hán tộc ”dĩ hạ biến di”, nghĩa là lấy cái cao thượng của Đại Hán để cải hoá man di. Chính vì vậy họ miệt thị các dân tộc khác, chủ trương tiêu diệt văn tự của các dân tộc khác. Âm mưu nô dịch văn hoá rồi tiến tới đồng hoá. Lợi dụng Hán tự là loại văn tự duy nhất của Hán tộc, các sử gia Trung Quốc từ cổ đại đến nay, thường tìm cách xuyên tạc, bóp méo sự thật, sửa đổi lịch sử của các dân tộc bị Hán tộc đàn áp hoặc đô hộ cho phù hợp với sử quan Đại Hán, mục đích để đánh đổ lòng tự hào của các dân tộc khác cho dễ bề đồng hoá và thống trị.

Theo Nguyễn Khắc Thuần thì tài liệu mang tên “Hùng Triều Ngọc Phả” cho biết họ Hồng Bàng truyền được 18 đời gồm :

1- Hùng Vương tức Lộc Tục.

2- Hùng Hiền tức Sùng Lãm.

3- HÙng Lân.

4- Hùng Việp.

5- Hùng Hy.

6- Hùng Huy.

7- Hùng Chiêu.

8- Hùng Vĩ.

9- Hùng Định.

10- Hùng Hy (chữ Hy này viết khác với chữ Hy ở đời thứ 5).

11- Hùng Trinh.

12- Hùng Võ.

13- Hùng Việt.

14- Hùng Anh.

15- Hùng Triều.

16- Hùng Tạo.

17- Hùng Nghị.

18- Hùng Duệ.

Từ trước đến nay “chúng ta” thường nghĩ rằng “đời” vua Hùng là giai đoạn sinh sống của một vị vua thuộc họ Hồng Bàng, cho nên với 18 đời vua mà thời gian kéo dài đến 2622 năm thì có vẻ rất vô lý.

Gần đây công trình nghiên cứu của Trần Huy Bá về Hùng Vương và sự tích “Hùng Triều Ngọc Phả” do Nguyễn Như Đỗ sống vào thời nhà Lê ghi rõ ràng như sau:”Thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm gồm 47 đời vua”. Theo Hùng Vương Ngọc Phả thì chữ Đời vua dùng trong tài liệu này phải hiểu là chữ “thế” trong Hán tự không phải là một đời người mà là “một dòng gồm nhiều đời”. Riêng thế (hay đời) tức là chi Hùng Vương thứ 18, chi cuối cùng của thời đại Hùng Vương đã gồm 3 đời vua trị vì suốt 150 năm (?). Hiện nay ở Đình Tây Đằng, huyện Ba Vì, tỉnh Vĩnh Phú, còn bài vị “Tam Vị Quốc Chúa”. thờ 3 vị vua cuối cùng thuộc thế (tức đời hay chi) Hùng Vương thứ 18 này. Thế này chấm dứt vào năm 258TCN, tức là vào cuối đời nhà Chu bên Tầu.

Theo sự tích Ngọc Phả thì mỗi dòng vua được gọi là một “CHI”. Mỗi chi gồm nhiều đời vua và được xếp theo thứ tự bát quái và thập can như sau:

Càn, Khảm, Chấn Cấn, Khốn Ly, Khôn, Đoài và Giáp, Ất, Bính, Đinh, Mậu, Kỳ, Canh,Tân, Nhâm, Qúy. Cũng theo sự tích Ngọc Phả này thì thời Hùng Vương gồm cả thảy 47 đời vua theo thứ tự như sau:

1/ Chi Càn: Kinh Dương Vương.

Đại Việt Sử Ký Toàn Thư của Ngô Sĩ Liên chép như sau:”Kinh Dương Vương là vị vua đầu tiên của nước Đại Việt ta, cùng với Đế Nghi ở phương Bắc lên ngôi năm 2879TCN”. Kinh Dương Vương húy là Lộc Tục, sinh năm Nhâm Ngọ (2919TCN), lên ngôi năm 41 tuổi, trị vì 86 năm từ năm Nhâm Tuất (2879TCN) đến năm Đinh Hợi (2794TCN).

2/ Chi Khảm: Lạc Long Quân.

Lạc Long Quân húy Sùng Lãm, tức Hùng Hiền Vương, sinh năm Bính Thìn (2825TCN), lên ngôi năm 33 tuổi. Chi này kéo dài 269 năm, từ năm Mậu Tý (2793TCN) đến năm Bính Thìn (2525TCN). Thời kỳ này được truyện cổ tích về họ Hồng Bàng Truyền Kỳ gọi là huyền sử Rồng Tiên. Tài liệu không ghi rõ là có mấy đời vua của chi này.

3/ Chi Cấn: Hùng Quốc Vương.

Hùng Quốc Vương húy Hùng Lân, thế này trị vì từ năm Đinh Tỵ (2524TCN) đến năm Bính Tuất (2253TCN), kéo dài 271 năm. Thời kỳ này chính là thời kỳ ở bên Tầu Hoàng Đế diệt Xuy Vưu, Du Võng mà cổ sử của Trung Hoa cho là khởi nguyên của dân tộc Hán. Tài liệu không ghi rõ là có mấy vị vua trong chi này.

4/ Chi Chấn: Hùng Hoa Vương.

Hùng Hoa Vương tức Hùng Bửu Lang. Lên ngôi năm Đinh Hợi (2254TCN) chi này trị vì suốt 342 năm, tức là đến năm 1712TCN, tài liệu cũng không ghi rõ gồm mấy vị vua.

5/ Chi Tốn: Hùng Huy Vương húy Bảo Lang sinh năm 2030TCN, lên ngôi năm 59 tuổi. Chi này kéo dài 200 năm tới năm 1771TCN. Không ghi rõ có mấy vị vua của chi này.

6/ Chi Ly: Hùng Hồn Vương.

Hùng Hồn Vương húy Long Tiên Lang, sinh năm 1740TCN, chi này gồm 2 đời vua kéo dài 81 năm đến năm 1690TCN.

7/ Chi Khôn: Hùng Chiêu Vương.

Hùng Chiêu Vương húy Quốc Lang, sinh năm 1502TCN, lên ngôi năm 12 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua kéo dài 200 năm từ năm 1690TCN đến năm 1490TCN.

8/ Chi Đoài: Hùng Vĩ Vương.

Hùng Vĩ Vương húy Văn Lang, sinh năm 1466TCN, lên ngôi năm 31 tuổi. Chi này gồm 5 đời vua cả thảy là 100 năm, từ năm 1435TCN đến năm 1335TCN.

9/ Chi Giáp: Hùng Định Vương.

Hùng Định Vương húy Chân Nhân Lang, sinh năm 1381TCN, lên ngôi năm 45 tuổi. Chi này gồm 3 đời vua kéo dài được 80 năm từ năm 1336TCN đến năm 1256TCN.

10/ Chi Ất:Hùng Uy Vương.

Hùng Uy Vương húy Hoàng Long Lang, sinh năm 1294TCN, lên ngôi năm 37 tuổi, chi này gồm 3 đời vua kéo dài được 90 năm, từ năm 1257TCN đến năm 1167TCN.

11/ Chi Bính: Hùng Trinh Vương.

Hùng Trinh Vương húy Hưng Đức Lang, sinh năm 1218TCN, lên ngôi năm 51 tuổi. Chi này gồm 4 đời vua kéo dài 107 năm, từ năm 1168TCN dến năm 1061TCN.

12/ Chi Đinh: Hùng Vũ Vương.

Hùng Vũ Vương húy Đức Hiền Lang, sinh năm 1114TCN, lên ngôi năm 52 tuổi, chi này có 3 đời vua, kéo dài 96 năm từ năm 1062TCN đến năm 966TCN.

13/ Chi Mậu: Hùng Việt Vương.

Hùng Việt Vương húy Tuấn Lang, sinh năm 990TCN, lên ngôi năm 23 tuổi, chi này có 5 đời vua kéo dài 105 năm từ năm 967TCN đến năm 862TCN.

14/ Chi Kỷ: Hùng Anh Vương.

Hùng Anh Vương húy Viên Lang, sinh năm 905TCN, lên ngôi năm 42 tuổi, chi này có 4 đời vua kéo dài từ năm 863TCN đến năm 779TCN tức là 89 năm.

15/ Chi Canh: Hùng Triệu Vương.

Hùng Triệu Vương húy Chiêu Lang, sinh năm 745TCN, lên ngôi năm 35 tuổi, chi này gồm 3 đời vua kéo dài từ năm 780TCN đến năm 686TCN tức là được 94 năm.

16/ Chi Tân: Hùng Tạo Vương.

Hùng Tạo Vương húy Đúc Quân Lang, sinh năm 740TCN lên ngôi năm 53 tuổi, chi này có 3 đời vua kéo dài từ năm 687TCN đến năm 595TCN, tức là được 92 năm

17/ Chi Nhâm: Hùng Nghi Vương.

Hùng Nghi Vương húy Bảo Quang Lang, sinh năm 605TCN, lên ngôi năm 9 tuổi, chi này có 4 đời vua kéo dài từ năm 596TCN đến năm 336TCN tức là được 160 năm.

18/ Chi Qúy: Hùng Duệ Vương.

Hùng Duệ Vương húy Huệ Vương, sinh năm 350TCN lên ngôi năm 14 tuổi, chi này có 3 đời vua kéo dài từ năm 337TCN đến năm 258TCN tức là được 79 năm.(Không phải 150 năm)

Theo sự tính toán của người viết bài này thì chi cuối cùng này chi kéo dài 79 năm chứ không phải 150 năm và các chi từ chi Khôn tức là từ chi thứ 7 của thời Hùng Vương cho đến hết chi cuối cùng thứ 18, năm sinh và theo như sách của Pham Trần Anh ghi năm lên ngôi tính ra không phù hợp. Do đó trong bài viết này tôi đã ghi lại cho đúng. Tôi không rõ là tài liệu “Hùng Triều Ngọc Phả” mà Trần Huy Bá có được ghi rõ ràng năm các vị vua đầu các chi lên ngôi hay không, và có ghi khi lên ngôi đã bao nhiêu tuổi như Pham Trần Anh ghi trong sách của anh hay không. Tôi đoán rằng có thể có, nhưng ghi theo âm lịch tức là tên năm chỉ gồm hai chữ, một của “thập can” và một của “thập nhị chi”, do đó đã khiến xảy ra sự kiện tính ra năm theo Tây Lịch không chính xác.

Dù sao đây là một phát giác vô cùng quan trọng đã giải toả được khúc mắc về sự kiện 18 “đời” vua Hùng mà chiếm đến 2622 năm như từ lâu nay các sử gia vẫn đổ cho truyền thuyết để “tạm” chấp nhận sự kiện “vô lý” này.

Sau hết tôi nghĩ rằng tác phẩm của Phạm Trần Anh là một tác phẩm sưu khảo rất có giá trị không những vế mặt lịch sử và văn hóa, mà còn là một tài liệu vô cùng qúy gía để chứng minh nguồn gốc của Việt tộc. Tuy nhiên do có những sai sót về thời gian ghi trên, thiết tưởng có hai sự kiện cần được các nhà nghiên cứu và thưc hiên nhất là tác gỉa cần làm là:

1/ Tìm cách xác nhân về thời gian trị vì và lên ngôi của các vua Hùng, cũng như tìm thêm tài liệu để xác minh những thiếu sót về các chi không rõ có bao nhiêu đời vua.

2/ Tác phẩm cần được in lại với công tác “biên tập” kỹ lưỡng hơn để xứng đáng với một công trình biên khảo công phu của tác giả
Mong giải thích rõ thêm những ý đã được nêu trong bài.
Xin cảm ơn Bách Việt 18 rất nhiều.


Chữ ký của Nhất Chi Mai
สวัสดีค่ะ

Chớ nghĩ xuân tàn hoa rụng hết
Đêm qua sân trước một nhành mai


Tài sản của Nhất Chi Mai

Chỉnh sửa lần cuối bởi AOH TIPNAPA: 07-05-2010 lúc 00:02.
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 11-05-2010   #22
Ảnh thế thân của Bách Việt 18
Bách Việt 18
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 26-03-2010
Bài viết: 182
Điểm: 196
L$B: 8.285
Bách Việt 18 đang offline
 
Trích dẫn:
Nguyên văn gởi bởi lanhdienlangkhach Xem bài viết
Trận Xích Bích Ao Binh là dân Việt đánh ah??? Huynh đài càng nói tại hạ cảm thấy càng rối rồi đó.

Lịch sử có thể thay đổi một chút tình tiết chứ không thể thay đổi về thời gian.

Lý Bí sinh năm 503, còn Ngô Quyền thì sinh năm 898...

Lưu Bị với Tôn Quyền thì sống trong những năm 200 đến 259.

Các hạ định làm bộ phim khoa học viễn tưởng hay sao mà để thời gian trôi qua nhanh đến vậy?

Thực sự thì nước Việt ta có chừng đó thôi và nhỏ hơn một chút nửa thì có...Chứ rộng và dài thì không phải của ta, cái đó của anh hàng xóm tham lam.
Sử Việt bắt đầu ghi chép theo ... trí nhớ từ thời Lê (thế kỷ 13-14), sau cuộc "đốt sạch, xóa sạch" của nhà Minh, phá cả Tứ đại khí của Đại Việt, đàn áp làng Cả (đất tổ đời Hùng), ... Vì thế những chuyện từ trước triều Lý thì khó mà chính xác như sử ghi, nhất là khi còn chưa ra đời ngành... khảo cổ.
Ngày sinh tháng đẻ của các tiền nhân được ghi dựa theo... niên đại của các vua Tàu, cộng với cách đếm theo Can Chi, mà cách đếm này cứ 60 năm thì lại lặp lại. Chưa kể Can Chi của Việt có thể bị đảo lộn... Vì thế những năm tháng trên còn phải thẩm tra lại...
Nếu nói thời Thần Nông, Nghiêu, Thuấn là thời đại của Việt thì ít người phản đối. Mở đầu Đại Việt Sử Ký cũng chép "thời Hoàng Đế mở muôn nước...". Nhưng nếu nói nhà Chu là Hùng Văn Lang thì một số người lập tức thắc mắc. Còn nếu nói Tôn Quyền, Lưu Bị cũng là Việt thì...
Nhưng nếu Nghiêu Thuấn Vũ là người Việt thì nhà Hạ cũng là Việt (Đại Vũ là tổ nhà Hạ). Mà như vậy thì Thương, Chu không thể không là triều đại Việt.
Vài dẫn chứng cho thấy đất Việt tới đời Tam Quốc còn rộng lắm...:
- Triệu Đà xưng Nam Việt Vương chiếm Lưỡng Quảng, Bắc Việt và có thể cả Vân Nam. Triệu Đà theo chính sử là vua Việt. Văn hóa nhà Triệu (mộ Triệu Mạt ở Quảng Châu) là văn hóa trống đồng...
- Hai bà Trưng khởi nghĩa thành công ở toàn cõi... Lĩnh Nam, tức là toàn bộ vùng Hoa Nam, với 65 thành trì. Tới nay đền thờ Vua Bà còn khắp nơi ở Nam Dương Tử. Như vậy đầu thời Đông Hán đất Hoa Nam vẫn là đất Việt.
- Tôn Quyền - người Nam, chiếm toàn bộ vùng phía Nam Dương Tử. Về thành phần dân tộc và đất đai thì rõ ràng phải coi đây là một triều đại Việt (như Triệu Đà).
Xem lại Ngô Quyền của Việt Nam, người Đường Lâm, đánh quân Nam Hán ở sông Đằng Giang. Nhưng có nhiều câu hỏi nghi ngờ:
- Đường Lâm không rõ ở Hà Tây hay ở Thanh Hóa vì chỉ có châu Đường Lâm trong sử sách chứ không có làng Đường Lâm. Ngô Quyền theo sử lấy vợ ở miền Trung (con rể họ Dương), chứ không ở miền Bắc.
- Nam Hán của Lưu Cung, Lưu Ẩn đóng ở Lưỡng Quảng, còn gọi là Lưỡng Việt (Việt Đông, Việt Tây). Khi lập quốc nước này xưng là ... Đại Việt, sau mới đổi tên (xem Wiki về nước này). Như vậy đây là nước của người Việt, không có lý gì lại xưng là Hán. Đây là sự nhập nhằng của sử Tàu đổi Hưng thành Hán. Nước của Lưu Cung, Lưu Ẩn chính là Đại Việt của Lý Công Uẩn, có thời gọi là Đại Hưng. Phủ thành ở Quảng Châu thời này vẫn gọi là Hưng Vương Phủ.
- Ngô Quyền cắm cọc ở sông Bạch Đằng, nhưng ở sông này chỉ tìm thấy cọc niên đại của Trần Quốc Tuấn đánh Nguyên chứ không hề có cọc thời Ngô Quyền.
Nếu chỉ có nước Đại Việt (Đại Hưng) ở Lưỡng Quảng thì Ngô Quyền đánh nhau với ai đây? Và sông Đằng Giang có cọc thời Ngô Quyền là ở đâu?


Chữ ký của Bách Việt 18
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài
http://báchviệt18.vn/


Chỉnh sửa lần cuối bởi Bách Việt 18: 11-05-2010 lúc 11:51.
Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Bách Việt 18 vì bài viết hữu ích này:
LSB-Sun (29-05-2010)
Cũ 11-05-2010   #23
Ảnh thế thân của Bách Việt 18
Bách Việt 18
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 26-03-2010
Bài viết: 182
Điểm: 196
L$B: 8.285
Bách Việt 18 đang offline
 
Trích dẫn:
Nguyên văn gởi bởi HànTuyếtBăng Xem bài viết
Nghiên cứu lịch sử tí coi nè!

Các nhà sử gia còn chưa biết nổi 18 vị Hùng Vương là thiệt đến đỗi nào nữa là...???

Bách Việt 18 nói vậy: "Trung Hoa cổ đại mất nước vào thời Vương Mãng. Vương Mãng hay Vương Mãn, tức là vị vua cuối cùng (Hùng Vương thứ 18) với cải cách không thành, quốc lực cạn kiệt." có tài liệu dẫn chứng không vậy?

Hóa ra ông cha mình ngày xưa thuộc nhóm người nào vậy?

Tò mò thôi nhé! Hong hiểu thì hỏi mà ^^
Ông cha Việt là ... người Việt (Bách Việt). Khác nhau là ông cha người Hán là ... người Hán. Đây là 2 đại chủng tộc khác hẳn nhau: Monglonoid phương Nam và Monglonoid phương Bắc.
Bằng chứng về sự mất nước thời Vương Mãng là nguồn gốc của của Lưu Tú (Hán Quang Vũ), người Sơn Tây, tức tộc Hán chính gốc. Trong khi đó Trung Hoa cổ đại là của người Hoa (Hoa Hạ). Ngày nay người Hoa là thành phần dân tộc chính của Trung Quốc nhưng trong số các dân tộc Trung Quốc lại không hề có người Hoa, chỉ có Hán. Hán tộc mới chỉ ra đời vào thời Đông Hán của Lưu Tú, không phải người Hoa Hạ phương Nam của cổ sử.
Thời Tây Hán của Lưu Bang thực ra phải gọi là nhà Hiếu, vì tất cả các vua thời này đều có tên Hiếu: Hiếu Cao Tổ, Hiếu Vũ đế... Nếu xem chính sách của nhà Hiếu và chính sách của Đông Hán đối với Giao Chỉ thì khác nhau một trời một vực. Thời nhà Hiếu, Giao Chỉ được quản lý như một châu quận bình thường của đất nước. Sử còn ghi các Lạc tướng, Lạc hầu (người địa phương) vẫn tham gia nắm quyền lãnh đạo. Khi chuyển sang Đông Hán, với cuộc tấn công của Mã Viện, thu hết trống đồng đúc thành ngựa, đàn áp tàn bạo các cuộc khởi nghĩa, xóa bỏ luật địa phương, ... Ở Giao Chỉ hình thành hệ thống chính quyền cai trị của người Hán, thứ sử cha chết cũng không được bỏ vị trí... Có thể thấy Đông Hán và nhà Hiếu (Tây Hán) khác nhau về bản chất. Triều Đông Hán thực chất là triều đại bị đô hộ của dân Hoa - Việt (Bách Việt).
Về ngôn ngữ có tiếng Quan thoại là phương âm Bắc Kinh, tức là vùng người Hán chính gốc. Nhưng Quan thoại có nghĩa là ngôn ngữ của tầng lớp thống trị. Vậy còn ngôn ngữ "Chúng thoại" là phương âm nào? Không khó nhận ra đó chính là các phương âm miền Nam, đặc biệt là vùng Triết Giang, Phúc Kiến, Quảng Đông, vốn rất gần với phát âm Hán Việt của Việt Nam. Âm Hán Việt là âm ngữ thời nhà Đường (các nhà ngôn ngữ học đã định nghĩa như vậy). Tiếng Quan thoại "sinh sau đẻ muộn" tới cả ngàn năm so với phương âm phía Nam. Tất cả cho thấy người Hán không phải là chủ nhân văn hóa của Trung Hoa cổ. Văn hóa đi vay mượn thì lịch sử cũng là Hán vay của Việt mà thôi.


Chữ ký của Bách Việt 18
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài
http://báchviệt18.vn/

Trả lời kèm theo trích dẫn
Thành viên sau đã gửi lời cám ơn đến Bách Việt 18 vì bài viết hữu ích này:
LSB-Sun (29-05-2010)
Cũ 11-05-2010   #24
Ảnh thế thân của Bách Việt 18
Bách Việt 18
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 26-03-2010
Bài viết: 182
Điểm: 196
L$B: 8.285
Bách Việt 18 đang offline
 
Trích dẫn:
Nguyên văn gởi bởi AOH TIPNAPA Xem bài viết
Mong giải thích rõ thêm những ý đã được nêu trong bài.
Xin cảm ơn Bách Việt 18 rất nhiều.
Tôi thấy bản thân bài viết đã rất rõ ràng:

Trích dẫn:
...Phạm Trần Anh đã chứng minh được rõ ràng nguồn gốc Việt tộc là chủng tộc lâu đời nhất xuất hiện ở vùng đất phía Nam Trung Hoa (phiá Nam sông Hoàng Hà và sau cùng do sự tấn công và lấn chiếm của Hán tộc, một tộc du mục xuất phát từ các vùng phía Bắc sông Hoàng hà, đã phải lui dần vế phương Nam và định cư tại châu thổ Bắc Việt ngày nay). Nguồn gốc của Việt tộc rõ ràng hoàn toàn khác hẳn Hán tộc là sắc dân du mục từ phương Bắc tràn xuống xây dựng nên nuớc Trung Hoa ngày nay. Việt tộc cũng là một sắc dân có ngôn ngữ, chữ viết từ thời cổ đại, có một nền văn minh nông nghiệp trồng lúa nước rất sớm và đã để lại các di sản như trống đồng, thuyền mũi cong, các nông cụ như lưỡi cầy bằng đồng v..v..
Nhận định trên được nhiều người ủng hộ vì những dẫn chứng rất rõ ràng. Tuy nhiên người ta lại không nghĩ xa hơn rằng với nền văn hóa sớm như vậy thì tại sao người Việt lại không lưu sử gì về thời Thượng cổ? Trong khi đó "dân du mục" Hán tộc lại có thể có lịch sử 5000 năm, cũng trồng lúa nước (ở sa mạc!?), nuôi tằm (vào mùa băng tuyết!?), ...

Việc dùng Bát Quái và Can Chi để đếm thành 18 đời Hùng có phần nào có lý. Cái chính cho thấy Dịch lý với Bát Quái và Can Chi chính là thành tựu văn hóa Việt, có từ đời các vua Hùng tới giờ.

Trích dẫn:
”Thời đại Hùng Vương kéo dài 2622 năm gồm 47 đời vua”. Theo Hùng Vương Ngọc Phả thì chữ Đời vua dùng trong tài liệu này phải hiểu là chữ “thế” trong Hán tự không phải là một đời người mà là “một dòng gồm nhiều đời”.
Nếu 18 đời Hùng là các triều đại khác nhau thì phải có lúc lên, lúc xuống, có vua hiền, vua ác, có khởi nghĩa, khai triều, ... Lịch sử các triều đại này ở đâu?

Suy nghĩ xa hơn thì thấy rõ rằng 18 đời Hùng là có thật và có lịch sử của các triều đại. Đó chính là lịch sử của Trung Hoa cổ đại từ Bàn Cổ khai thiên lập địa, Thần Nông dậy dân trồng ngũ cốc, Đại Vũ trị thủy đến Cơ Phát lập nhà Chu, Tần Thủy Hoàng thống nhất Trung Hoa, Lưu Bang chém xà khởi nghĩa đều là sử Việt cả. Hán sử chỉ bắt đầu khi bọn giặc cỏ núi Lục Lâm tôn Lưu Huyền làm Cánh Thủy Đế, chính là triều Tây Hãn đầu tiên. Hán sử nhập nhằng đánh lẫn Tây Hãn quốc của Lưu Huyền vào triều Hiếu của Lưu Bang, để chuyển sang Đông Hán của Lưu Tú một cách êm xuôi. Và từ đó bắt đầu trang sử mất nước của Hùng tộc.


Chữ ký của Bách Việt 18
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài
http://báchviệt18.vn/

Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 12-05-2010   #25
Ảnh thế thân của Bách Việt 18
Bách Việt 18
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 26-03-2010
Bài viết: 182
Điểm: 196
L$B: 8.285
Bách Việt 18 đang offline
 
Theo cổ sử Việt thì Kinh Dương Vương là cha của Lạc Long Quân. Lạc Long Quân lấy Âu Cơ sinh ra 100 trứng, con cả lên ngôi xưng Hùng vương. Nhưng trong Ngọc phả cũng chép Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân đều là Hùng Vương cả, thành ra có lúc thành 20 đời vua Hùng.
Chuyện này cũng tương tự như "An Dương Vương thế Hùng Vương", An Dương Vương hoàn toàn có thể là một trong những vua Hùng. Hùng vương 18 như đã giải nghĩa không phải là Hùng Vương thứ 18 mà chỉ là "Vua Hùng vạn tuế". Vì thế An Dương Vương diệt Hùng Vương 18 không có nghĩa là thời Hùng kết thúc. Khảo cổ cho thấy bước chuyển này không hề có dấu tích thay đổi văn hóa xã hội nào, tức là An Dương Vương vẫn có thể là một triều Hùng.
Hùng tộc có 4 vị tổ phụ của bốn phương vào thời tiền lập quốc lấy theo Dịch lý:
1. Hùng Dương (sử Việt chép Kinh Dương Vương) là tổ phụ phương Đông nơi mặt trời mọc, tức là khi xã hội bắt đầu hình thành. Phương Đông là nơi có biển Đông, hay Lôi Trạch, Chấn Trạch trong hoa sử. Như vậy Hùng Dương ứng với Phục Hỵ, sinh ra ở Lôi Trạch. Phục Hy nghĩa là Y Phục, tức là vua của cái mặc.
2. Hùng Hiển (Hùng Hiền): khi mặt trời lên cao, phương nóng. Là Viêm Đế Thần Nông trong Hoa sử. Là người dậy dân trồng ngũ cốc, vua của cái ăn.
3. Hùng Nghị: Nghị là Ngụ, vua của nơi ở. Cương Nghị cũng là Khang, Hùng Nghị là Thái Khang, vua phương Tây với tính chất cứng (cương), tĩnh (khang).
4. Hùng Diệp, hay Tiết, vua của đi lại (Dịch). Cũng là vua phương Bắc, tượng là số 1, màu đen, chỉ sông nước (Vũ Tiên, Thái Tiết, Xuyên Húc).
Khi con người đã có mặc (Phục Hy), có ăn (Thần Nông), có ở (Thái Khang Hùng Nghị), biết đi lại (Hùng Diệp - Dịch) thì điều tất yếu xảy ra là sẽ hình thành quốc gia... vào thời Hùng Vũ (Hiền Đức Lang trong sử Việt hay Hiên Viên của Hoa sử). Hùng Vũ tức là Vua Hùng, tổ họ Cơ, vua nước Hữu Hùng (họ Hùng), là Ngọc Hoàng thượng đế (ông trời) của phương Đông...


Chữ ký của Bách Việt 18
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài
http://báchviệt18.vn/


Chỉnh sửa lần cuối bởi Bách Việt 18: 12-05-2010 lúc 15:30.
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 14-05-2010   #26
Ảnh thế thân của Bách Việt 18
Bách Việt 18
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 26-03-2010
Bài viết: 182
Điểm: 196
L$B: 8.285
Bách Việt 18 đang offline
 
Thần châu Xích huyện

Câu đối ở đền Thượng:

Quá cố quốc, miền Lô Thao, y nhiên bích lãng hồng đào, khâm đái song lưu hồi Bạch Hạc
Đăng tư đình, bái lăng tẩm, do thị Thần châu Xích huyện, sơn hà tứ diện khổng Chu Diên


Dịch nghĩa:
Qua nước cũ, ngắm Lô Thao, vẫn hồng đào bích lãng như xưa, sông nước hai dải bao quanh chầu Bạch Hạc
Lên đền này, vái lăng tẩm kià Xích huyện Thần châu còn đó, núi sông bốn bên quay lại giữ Chu Diên


Chỗ khó hiểu ở đây là từ Thần châu Xích huyện. Có thể hiểu theo nhiều nghĩa:
1. Thân châu xích huyện là nước Việt, bắt nguồn từ nước Xích Quỷ của Lạc Long Quân (Long là Thần).
- Trong tác phẩm Sơ kính tân trang của nhà thơ Phạm Thái (đầu thế kỷ 18) cũng có nói đến con gái sau của nhà họ Trương, nổi tiếng khắp "châu Thần huyện Xích":
Tiếng thơm lừng lẫy trong ngoài
Dậy vùng huyện Xích, nức nơi châu Thần

Câu này được các nhà nghiên cứu chú thích: Châu Thần là cửa biển Thần Phù, huyện Xích là Kiến Xương (hai địa danh ở quê của họ Trương). Chú thích như vậy quá gượng ép. Rõ ràng phải hiểu châu Thần huyện Xích đây là Việt Nam.
- Chuyện về Lê Quí Đôn gặp một ông lão đọc câu đối:
Chi chi tam thập niên dư, xích huyện hồng châu kim thượng tại.
Tại tại sổ thiên lý ngoại, đào hoa lưu thủy tử hà chi

Dịch nghĩa:
Thấm thoắt hơn ba chục năm, xích huyện, hồng châu nay vẫn đó.
Hỡi ôi xa ngoài vạn dặm, đào hoa, nước chảy, bác về đâu?.

2. Thần Châu Xích Huyện là Trung Quốc
- Sử ký Tư Mã Thiên trong Mạnh Tử, Tuấn Khanh liệt truyện: Trâu Diễn nói: "... Trung Quốc tên là Thần Châu Xích Huyện..."
- Theo Vương Hồng Sển, ở Nghĩa nhuận Hội quán, đường Gò Công, thành lập năm 1872, có câu đối nói về Quan Vũ:
Sanh Bồ Châu, sự Dự Châu, chiến Từ Châu, thủ Kinh Châu, vạn cổ Thần Châu hữu nhứt;
Huynh Huyền Đức, đệ Dực Đức, xá Bàng Đức, thích Mạnh Đức, thiên thu thánh đức vô song.

Tức là Thần Châu là đất nước của Quan Vũ (Trung Hoa).

3. Một số kinh phật cũng cho biết Thần Châu Xích Huyện là Trung Quốc.
- Sự tích Phật chép chuyện Bồ đề đạt ma đến Trung Quốc gặp Lương Vũ Đế. Sư nói: "Ta từ Nam Ấn sang đến phương Đông này, thấy Xích Huyện Thần Châu có đại thừa khí tượng, cho nên vượt qua nhiều nơi, vì pháp tìm người."
- Trong số Tứ đại bộ châu của Phật giáo có Đông thắng thần châu, nơi sinh của Tề Thiên Đại Thánh (Tôn Ngộ Không). Thần Châu ở phương Đông rõ ràng là chỉ Trung Hoa.

Vậy Thần châu Xích huyện trong câu đối trên đền Thượng là nói nước Việt Nam hay Trung Quốc? Chỉ có cách giải thích hợp lý nhất là ... Việt chính là Hoa trong cổ sử.


Chữ ký của Bách Việt 18
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài
http://báchviệt18.vn/


Chỉnh sửa lần cuối bởi Bách Việt 18: 14-05-2010 lúc 17:18.
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 28-05-2010   #27
Ảnh thế thân của Bách Việt 18
Bách Việt 18
-=[ Lương Sơn Hảo Hán ]=-
Gia nhập: 26-03-2010
Bài viết: 182
Điểm: 196
L$B: 8.285
Bách Việt 18 đang offline
 
Ngô, Đinh, Tiền Lê - những câu hỏi.

Theo sử Việt thời kỳ độc lập của Việt Nam bắt đầu từ năm 938 với chiến thắng quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng của Ngô Quyền, tiếp nối với các triều Đinh và Tiền Lê cho tới khi Lý Công Uẩn lên, dời đô về đất Thăng Long. Thời kỳ này tuy không đầy "huyền thoại" như thời Hùng, cũng không tù mù như thời 1000 năm "Bắc thuộc", nhưng các văn bản sử liệu cũng như khảo cổ lại rất mâu thuẫn nhau, gây ra nhiều câu hỏi về tính xác thực của các sự kiện được chính sử ghi chép:
- Làng Đường Lâm, nay cho là ở Sơn Tây, được chép là quê của 2 vua Ngô Quyền và Phùng Hưng. Nhưng đối chiếu với sử sách dư địa chí thì không hề có làng Đường Lâm mà chỉ có châu Đường Lâm.
- Trận thắng trên sông Bạch Đằng: Ngô Quyền thắng Nam Hán trên sông Bạch Đằng. Nhưng Lê Hoàn cũng thắng lại thắng Tống ở sông này bằng cách cắm cọc. Và đến Trần Hưng Đạo lại cũng thắng Nguyên Mông ở sông này và cũng cắm cọc. Khảo cổ trên khúc sông Bạch Đằng chỉ tìm thấy cọc với niên đại đời Trần, chứ không hề có cọc của Ngô Quyền. Vậy có thật có chuyện “một làng hai vua, một sông ba cọc” này không?
- Ngô Quyền được chép là "xưng vương, lập hoàng hậu, sắp định triều chế". Nhưng kỳ lạ là thời này không hề có quốc hiệu (nước Ngô?), niên hiệu mà lại dùng… niên hiệu của vua Nam Hán, là nước đã thua trận trước đó, để khắc chuông (chuông cổ Thanh Mai ở Từ Liêm). Đã lập hậu thì phải xưng đế chứ sao chỉ có xưng vương? Không có niên hiệu thì triều chế ghi chép ra sao?
- Cũng tương tự Lê Đại Hành thì không có thuỵ hiệu (tên sau khi chết). Và sử không hề nói gì đến chuyện Lê Long Đĩnh chết và chôn như thế nào, đến mức các sử thần phải giải thích lòng vòng… do nước còn “man di”, không biết cách chôn cất…
- Đinh Bộ Lĩnh và 12 sứ quân không hề được ghi chép gì trong Hoa sử cả.
- Nhà Đinh phát hành tiền “Thái Bình thiên bảo” nhưng khảo cổ chỉ tìm thấy loại tiền “Đại Bình thiên bảo” của thời gian này.
- Tương tự, chuyện Lý Công Uẩn lên ngôi đầy huyền bí. Không biết Lý Công Uẩn nguồn gốc ở đâu. Làm sao lại dễ dàng thay thế nhà Lê như vậy?
- Di tích Hoa Lư cũng như Hoàng thành Thăng Long ngoài loại gạch “Đại Việt quốc quân thành chuyên” lại có loại gạch “Giang Tây chuyên” trong cùng một lớp tường. Không hề có gạch “Đại Cồ Việt” là tên nước từ thời Đinh - Tiền Lê. Giang Tây chuyên được giải thích là gạch từ thời Đường, nhưng từ nhà Đường đến Lý hơn cả trăm năm, trải 3 triều đại (Ngô, Đinh, Tiền Lê), làm sao lại vẫn có chung với gạch Đại Việt được? Hoàng thành Thăng Long như vậy đã có từ lâu trước khi Lý Công Uẩn dời đô và tên Đại Việt trên gạch cũng vậy (phải mãi đến năm 1054 theo chính sử Lý Thánh Tông mới đổi quốc hiệu Đại Việt?).
Từng viên gạch, từng di tích được đào lên lại cho thấy những mâu thuẫn mới. Đã đến lúc phải viết lại lịch sử thời kỳ này chăng?


Chữ ký của Bách Việt 18
Trời thương Bách Việt sơn hà
Trong nơi thảo mãng nảy ra kỳ tài
http://báchviệt18.vn/

Trả lời kèm theo trích dẫn
2 thành viên đã gửi lời cám ơn đến Bách Việt 18 vì bài viết hữu ích này:
LSB-Sun (29-05-2010), sao_phu08 (28-05-2010)
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 11:29
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,11966 seconds with 15 queries