Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Văn Hóa Thế Giới
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Văn Hóa Thế Giới Chia sẻ những nền văn hóa của các nước trên thế giới

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 30-10-2006   #19
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

Những lễ hội và tập tục kỳ lạ của người dân tộc thiểu số

Tục ngủ chung của người Gia Rai

Dân tộc Gia Rai sống lâu đời ở Gia Lai, chiếm tỷ lệ khá lớn. Con trai, con gái có lệ vào các buổi tối trǎng thanh lại tụ tập quanh bếp lửa hồng trò chuyện, uống rượu, ca hát rồi ôm nhau ngủ suốt đêm. Qua những đêm ấy, có những đôi mắt đã tìm đến nhau. Trời phú cho con trai Gia Rai đàn giỏi, con gái hát hay. Đàn hát mệt thì cùng nằm quanh bếp lửa ngủ. Ngủ như vậy nhưng giữa họ luôn giữ đúng giới hạn. Vượt qua giới hạn đó kể như phạm luật làng, bị phạt nặng, có khi bị đuổi khỏi làng. Cũng chính bởi tục ngủ chung này mà người Gia Rai quan niệm vợ chồng cưới xong phải một nǎm sau mới được động phòng, tránh việc người phụ nữ mang thai trước.

Vỗ mông kén chồng

Ở Hà Giang, người Mông cư trú khá đông. Họ thích sống trên núi cao và ở nhà đất. Những phiên chợ vùng cao ngày cuối năm bao giờ cũng là điểm hẹn lý tưởng cho trai gái tìm đến nhau. Ngoài tập tục chặn đường cướp cô dâu, ở đây còn có tập tục vỗ mông để chọn bạn đời. Sáng đầu năm, nam thanh nữ tú nhất loại về tụ tập ở khoảng sân diễn tục chơi "ú tim". Sau những chén rượu chúc tụng cho một nǎm mới tốt lành, họ đưa mắt tìm bạn đời. Khi đã có đối tượng, dùng ánh mắt làm hiệu đưa tình và nếu cô gái có ý chấp thuận thì cô bỏ chạy. Chỉ chờ có thế, chàng trai rượt đuổi theo ngay. Ai cũng gắng chạy hết khả nǎng. Khi chàng trai đuổi kịp cô gái và đưa bàn tay vỗ vào mông cô một cái, cô gái phải chịu khuất phục ngay. Họ chỉ chờ đến ngày cưới hỏi, để nên duyên vợ chồng.

Lễ hội "long tong" (Hội xuống đồng)

Một số địa phương vùng Bắc Việt, các dân tộc Tày, Nùng, H'mông... thường mở hội "long tong". Vào ngày hội, dân bản làng tụ tập ở mảnh đất rộng cạnh thửa ruộng chưa cày. Chủ tế là một lão nông cao tuổi, phúc hậu, khoẻ mạnh, có nhiều kinh nghiệm trong nghề nông. Sau nghi thức cúng vái trời đất cho mưa thuận gió hoà, trong tiếng cồng chiêng vang rền, người ta dắt con trâu đực ra đi những luống cày đầu tiên. Nếu đường cày thẳng như kẻ chỉ thì nǎm ấy sẽ gặp được nhiều may mắn.

Khi nghi lễ này kết thúc thì có trò chơi tung còn. Người con gái tung quả còn cho người con trai mình thích. Chàng trai cố bắt được và ném trả lại cô gái. Đôi khi, quả còn đã xe duyên cho họ nên vợ nên chồng.


Tục cưới hai lần của người Pacô

Ở miền núi tỉnh Quảng Trị và Thừa Thiên có dân tộc Pacô, xưa kia có tục cưới hai lần. Trai gái đến tuổi trưởng thành phải làm xong nhiệm vụ cà sáu chiếc răng cửa theo quy định thì mới được xem là đã trưởng thành và có thể xây dựng hạnh phúc gia đình. Lễ cưới lần thứ nhất, nhà trai đi các lễ vật quý như trâu bò, chóe, nếp rượu, nồi đồng... Khi về nhà chồng, thì đôi vợ chồng trẻ phải tổ chức lễ "đạp bếp", đưa nhau trở lại nhà gái, trình diện gia đình. Cũng từ đó, cô gái chính thức đoạn tuyệt hẳn với nhà cha mẹ đẻ, và gia nhập họ nhà trai. Thời gian sau ngày cưới, đôi vợ chồng lo làm lụng, vừa để trả nợ "thách cưới", vừa lo chạy vạy để làm lễ Pẩy Ploh (nghĩa là kết thúc trọn vẹn) hay còn gọi là lễ "mua cái đầu".

Tục "giỗ sống" của người Nguồn

Người Nguồn ở Quảng Bình là một dân tộc có khoảng 3,5 vạn người, hiện cư trú ở khắp các xã Minh Hoá, Tuyên Hoá. Con cái đã lập gia đình riêng thì mỗi lần Tết đến đều phải làm một mâm cỗ có đủ các thức ăn của ngày Tết, đem đến nhà cha mẹ mình (cả nội lẫn ngoại) và mời cha mẹ ăn Tết trước vào cuối tháng 11 (âm lịch), không quá ngày 25 tháng Chạp. Con cái trong gia đình phải thống nhất một cái lịch "giỗ sống" cho hợp lý, tránh tình trạng chồng chéo lên nhau.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #20
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up Đây Mới Là Xứ Quảng Nè

Quảng Nam trong lịch sử dân tộc


Kể từ lúc hưởng ứng lời kêu gọi Bình Chiêm mở nước của vua Lê Thánh Tông, rồi định cư tại vùng đất mới được nhà vua đặt tên "Quảng Nam Thừa Tuyên" (1471), xuất phát từ cái nôi văn hóa đất Bắc với truyền thống "nghìn năm văn vật", tiền nhân ta đã dần dần thích nghi, kết hợp với tú khí nơi đây mà phát huy công sức, và tài trí vào công cuộc bảo vệ , xây dựng địa phương từ thế hệ này sang thế hệ khác. Qua đó, con cháu càng được tôi luyện thành lớp người thông minh, bất khuất trước mọi khó khăn, gian khổ, trước bao hiểm họa thiên tai và chiến tranh.Qua hơn năm thế kỷ hình thành và phát triển, vùng đất Quảng Nam đã có nhiều đóng góp đáng kể trong lịch sử dân tộc :

- Học vấn : Tinh thần hiếu học ở mấy thập niên cuối thế kỷ XIX và thập niên đầu thế kỷ XX tại Quảng Nam, có những đột phá đặc biệt với những thành đạt gắn liền một số danh xưng tôn quý, được nhân dân trong tỉnh vinh danh là : Ngũ Phụng Tề phi, Tứ hùng, Tứ kiệt, Tứ hổ... gồm 13 vị là : Đình nguyên Hoàng giáp Phạm Như Xương, các song nguyên Phạm Phú Thứ, Huỳnh Thúc Kháng, các tiến sĩ Phạm Liệu, Trần Quý Cáp, Phan Quang, Phạm Tuấn, các phó bảng Ngô Truân, Dương Hiển Tiến, Nguyễn Đình Hiến, Võ Vỹ, Nguyễn Mậu Hoán, Phan Châu Trinh.

- Lập thuyết : có Trần Cao Vân với triết thuyết "Trung thiên dịch - Trung thiên đạo", một triết thuyết hoàn toàn không vay mượn của bất cứ nước nào, của bất cứ triết gia nào, có khả năng lý giải những bí ẩn của vũ trụ và con người.

- Báo chí, nghiên cứu, phê bình, dịch thuật, văn thơ :

Người Quảng Nam đột phá ở các lĩnh vực này với nhiều tên tuổi nổi tiếng được cả nước một thời ngưỡng mộ :

a) Báo chí :

- Lương Khắc Ninh : Chủ bút "Nông cổ mín đàm" (những câu chuyện trà đàm về nông nghiệp và thương mại) tại Sài Gòn năm 1901. Sau đấy làm chủ bút báo "Lục tỉnh tân văn" (thay cho Trần Chánh Chiếu, bị mật thám Pháp bắt

- Bùi Thế Mỹ : Lần lượt làm chủ bút các báo : "Trung lập" , "Dân báo", "Tân thế giới", "Thần chung" tại Sài Gòn.

- Huỳnh Thúc Kháng : chủ bút báo "Tiếng Dân" - Tờ báo đầu tiên tại miền Trung, có tuổi thọ lâu nhất (1927-1943) tại Huế, từng là đại diện tiếng nói của dân, tranh đấu đòi quyền sống cho dân.

- Phan Khôi : Chủ bút báo "Sông Hương" tại Huế.

- Lưu Quý Kỳ : Thư ký toà soạn các báo cách mạng : "Dân tiến", "Dân muốn", "Tiến tới" (là những tờ báo công khai của Đảng Cộng sản Việt Nam).

b) Nghiên cứu, phê bình :

- Phan Khôi : khởi xướng phong trào tranh luận, phê bình một cách tích cực, đến nỗi có nhiều tờ báo thời ấy gọi là "Lý sự Phan Khôi".

- Sở Cuồng Lê Dư, Nguyễn Bá Trác, Trần Kim Bảng, Phan Khoang : có nhiều trước tác có giá trị cho nghiên cứu văn-sử-học.

- Nguyễn Đình : Nghiên cứu và phổ biến luật dấu hỏi (?), ngã (~) trong chữ viết quốc ngữ đầu tiên, với lời tựa của Phan Khôi.

c) Dịch thuật :

- Phan Khôi : Dịch trọn bộ Cựu ước và Tân ước - Thánh kinh của đạo Tin Lành - Đây là bộ sách được học giới quốc tế đánh giá là "Văn học thế giới". Mãi đến nay gần 100 năm, vẫn được đạo hữu Tin Lành trân trọng sử dụng hằng ngày mà không thích dùng bất cứ sách dịch nào khác ! (1).

- Lê Đình Thám : Dịch trọn bộ kinh "Thủ Lăng Nghiêm" của Phật giáo, một bộ sách kinh rất khó dịch.

- Phan Khoang : Dịch trọn bộ "Trung dung" của Nho giáo.

d) Văn :

Người Quảng Nam có những đóng góp đáng kể cho nền văn học nước nhà - nhất là ở buổi ban đầu - và thành quả gặt hái được, không phải chỉ có giá trị nhất thời, mà ảnh hưởng của nó - ảnh hưởng tốt - đến với thế hệ kế thừa, trong đó, nổi bật nhất là :

- Nhóm Tự lực văn đoàn, do ba anh em Nhất Linh, Hoàng Đạo, Thạch Lam, nguyên quê ở Cẩm Phô (ngay sát bên trên chùa Cầu - Hội An) sáng lập. Một số tác phẩm của nhóm này, đã được đưa vào chương trình giảng dạy tại các lớp Trung học phổ thông.- Ngoài Tự Lực Văn Đoàn, đồng thời cũng có một số sáng tác văn xuôi của một số cây bút được nhiều người chú ý đến như : Phan Du, Nguyễn Văn Bổng, Nguyễn Văn Xuân, ...

e) Thơ :

Cũng như bộ môn Văn, đây là bộ môn có nhiều người tham gia, và trong dó có vị khai sáng một thể loại Thơ Mới :

- Phan Khôi : Chủ súy phong trào "Thơ Mới", nổi tiếng với bài thơ "Tình già", gây nên một thời tranh luận trên nhiều tờ báo ở ba kỳ.

- Còn có một số tên tuổi khác : Nam Trân, Khương Hữu Dụng, Hằng Phương, Trịnh Quang Xuân, Phạm Đình Bách, Trần Học Giới, Xuân Tâm, Hồ Thấu và đến thập niên 40 còn có Huỳnh Lý, Lê Trí Viễn, Hoàng Châu Ký, Võ Quảng, Phạm Hầu, Vũ Hân, Phan Nhụy, Phạm Ký ...g) Tuồng, kịch : Quảng Nam có cụ Nguyễn Hiển Dĩnh nổi tiếng về tuồng hát bội, sau Đào Tấn người Bình Định. Có thể nói, Nguyễn Hiển Dĩnh là người đưa bộ môn hát Bội Quảng Nam vào vị trí xứng đáng của nó trong văn học thời ấy. Người học trò trung thành của Nguyễn Hiễn Dĩnh là Tống Phước Phổ cũng rất nối tiếng.

Bộ môn kịch Quảng Nam có được hai người : Lưu Quang Thuận (thân sinh của Lưu Quang Vũ) và Thái Trữ.

Có điều ít ai biết, người khai sáng hát Cải lương Nam Bộ lại cũng là người Quảng Nam : Lương Khắc Ninh. Thật vậy, ông là người đầu tiên đăng đàn diễn thuyết, hô hào lập "Hội hát cải lương" vào đêm 28.3.1917 tại Hội Khuyến học Tam Kỳ ở Sài Gòn và thành công đáng kể. Từ đó, hát cải lương ngày càng lan nhanh về lục tỉnh, và theo đường xuyên Việt, hát cải lương đến tận Bắc Hà, được bà con Hà thành ưa thích.Đến năm 1930, thêm một sự kiện Quảng Nam là một trong số rất ít tỉnh nhanh chóng : thành lập Đảng bộ Đảng Cộng sản tỉnh Quảng Nam ngày 28.3.1930 do Phan Văn Định làm bí thư đầu tiên của Đảng bộ này, chỉ sau ngày thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam (3/2/1930) chưa đầy hai tháng. Rồi từ ngày thành lập cho đến nay, Đảng bộ Quảng Nam liên tục phát triển trên khắp tỉnh với những hoạt động, những thành tích to lớn như chúng ta đã và đang thấy...

Lịch sử dân tộc cũng bắt đầu có những diễn biến tích cực, nhất là trên mặt trận văn hóa. Do tình thế thúc bách, bên cạnh dòng văn học công khai, có dòng văn học bán công khai và bí mật mà thập niên đầu thế kỷ XX chưa rõ nét bằng lúc có Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, nhằm hỗ trợ cho cuộc cách mạng. Trong trường hợp này, kế tục Huỳnh Thúc Kháng, Quảng Nam còn có Phan Thanh xuất hiện tại nghị trường dân biểu Trung Kỳ. Ông đắc cử với số phiếu áp đảo. Trong cương vị nghị viên, ông dám trực diện công kích chính sách cai trị tàn bạo, bóc lột vô lương tri của thực dân Pháp một cách thẳng thừng không khoan nhượng trong cuộc tranh luận tại Đại hội đồng kinh tế Đông Dương tại Sài Gòn, và được báo chí đương thời ghi lại trung thực, đầy đủ với nhận xét Dân biểu Phan Thanh phát biểu bằng tiếng Pháp lưu loát và hùng hồn, khiến tên thực dân Pháp chủ tọa sững sờ đến quên rung chuông cắt lời phát biểu của Phan Thanh, vì ông đã phát biểu quá thời gian cho phép những 30 phút !

Ngày nay địa giới Quảng Nam không còn rộng như xưa. Và qua bao lần vì nhu cầu hành chánh, địa giới Quảng Nam từ bên trong đèo Cù Mông (1471) đến nay chỉ còn lại, phía Bắc giáp Hoà Vang (không kể phần đất của thành phố Đà Nẵng trực thuộc Trung ương) đến cuối Núi Thành, và nó đang là một tỉnh khiêm nhường bên bờ Đông Hải. Nhưng tôi thấy rất rõ những công ơn to lớn của tiền nhân Quảng Nam khai sơn phá thạch, để lại cho chúng ta ngày nay - những cảnh huy hoàng trên bước đường khai phá và xây dưng một xứ Quảng Nam như bây giờ - xứng đáng "Quảng Nam trung dũng, kiên cường đi đầu diệt Mỹ" - xứng đáng được UNESCO công nhận Quảng Nam có hai di sản thế giới (phố cổ Hội An, di tích Mỹ Sơn) - một sự công nhận mang tính khẳng định "Quảng Nam là vùng có bản sắc văn hóa đặc thù".

Trên đường tiến tới tương lai, với những thành tựu khiêm tốn đă có, với bổn phận và trách nhiệm bảo tồn, phát huy sức mạnh nội tại, chúng ta phải tiếp tục khai phá, xây dựng Quảng Nam sao cho "Tầm vóc Quảng Nam" ngày càng rực rỡ không phụ lòng bao thế hệ tiền nhân.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #21
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

Nên chọn thời điểm lịch sử nào để kỷ niệm sự ra đời của vùng đất Quảng Nam ?

Trong lịch sử hình thành tỉnh Quảng Nam, về mặt địa giới và hành chính, có mấy mốc thời gian đáng chú ý sau :

- Năm 1307, nhà Trần chính thức thu được một món quà sính lễ về cho Đại Việt. Đó là hai châu Ô, Lý "vuông ngàn dặm" của nước Chiêm Thành do phò mã Chế Mân dâng nộp. Để tiếp nhận hai châu này, vua Trần Anh Tông cho đổi châu Ô làm châu Thuận, châu Lý làm châu Hóa và sai Hành khiển Đoàn Nhữ Hài đến vỗ yên dân chúng bằng cách chọn người tại chỗ trao cho quan tước, lại cấp ruộng đất và xá thuế 3 năm (1). Châu Thuận bao gồm vùng đất từ huyện Triệu Phong, tỉnh Quảng Trị vào đến huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên - Huế hiện nay, Châu Hóa là vùng đất phía nam tỉnh Thừa Thiên - Huế cho đến tận bờ bắc sông Thu Bồn, tỉnh Quảng Nam hiện nay.Nhưng sự bình ổn của vùng đất này kéo dài chẳng được bao lâu, vì hối tiếc một phần rộng lớn lãnh thổ phía bắc rơi vào tay Đại Việt lại bị người Đại Việt mưu giải thoát Huyền Trân nên sau khi Chế Mân chết, Chế Chí đem quân đánh lấn tìm cách chiếm lại vùng đất đã mất. Tháng 12 năm Tân Hợi (1311) vua Trần phải thân chinh đi đánh Chiêm Thành. Từ đây cho đến năm 1390 vùng đất hai châu Thuận, Hóa trở thành nơi tranh chấp quyết liệt giữa Đại Việt và Chiêm Thành. Đã nhiều lần quân Chiêm Thành đánh phá Thuận, Hóa và nhất là dưới thời Chế Bồng Nga quân Chiêm Thành còn đôi ba lần đánh ra tận Thăng Long. Quan quân nhà Trần phải nhiều lần chống trả rất vất vả. Tuy tháng 9 năm Mậu Thân 1368, quân Đại Việt dưới sự chỉ huy của Trần Thế Hưng và Đỗ Tử Bình có tiến đến Chiêm Động của Chiêm Thành (phía nam tỉnh Quảng Nam hiện nay), nhưng lại bị quân Chiêm Thành mai phục, Trần Thế Hưng bị giặc bắt, Đỗ Tử Bình phải đem quân về (2).

- Đến thời nhà Hồ, sau khi sửa đắp xong đường Thiên Lý từ Tây Đô (Thanh Hóa) đến Hóa Châu, tháng 7 năm Nhâm Ngọ 1402 Hồ Hán Thương thân chinh đánh Chiêm Thành. Quân Chiêm chống không nỗi, vua Chiêm là Ba Dích lại sợ phải dâng đất Chiêm Động rút quân nhưng Hồ Quý Ly ép Chiêm Thành phải dâng cả Cổ Lũy Động (3). Nhà Hồ chia Chiêm Động làm bốn châu : Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa. Châu Thăng và Châu Hoa bao gồm vùng đất Chiêm Động, tức là các huyện Thăng Bình, Tam Kỳ, Quế Sơn, Duy Xuyên hiện nay. Châu Tư và Châu Nghĩa bao gồm vùng đất Cổ Luỹ, tức là các huyện Bình Sơn, Sơn Tịnh, Tư Nghĩa, Mộ Đức, Đức Phổ của tỉnh Quảng Ngãi hiện nay. Vùng đầu nguồn Chiêm Động thì đặt trấn Tân Ninh bao gồm thượng nguồn các sông Thu Bồn, Vu Gia thuộc miền tây Quảng Nam hiện nay.Không phải chờ đến cuộc thân chinh của Lê Thánh Tông mới có đợt di dân "tòng chinh lập nghiệp" hay "bắc địa tùng vương" mà ngay vào lúc này Đại Việt sử ký toàn thư đã chép : tháng 12 năm Quý Mùi (1403) "Hán Thương đem những người không có ruộng mà có của dời đến Thăng Hoa, biên chế thành quân ngũ... đến năm sau đưa vợ con di theo", và "Hán Thương mộ dân nộp trâu để cấp cho dân mới dời đến ở Thăng Hoa, người nộp được ban tước" (4).Như vậy, đến năm 1402 toàn bộ vùng đất thuộc Quảng Nam hiện nay đã thuộc về Đại Việt. Nhưng triều Hồ tồn tại không được bao lâu. Nhân lúc quân Minh sang xâm lược, nhà Hồ thất bại, từ tháng 5-1407 trở đi, Chiêm Thành đem quân chiếm lại Thăng Hoa rồi tiến ra cướp phá Hóa Châu. Phần lớn người Việt vừa mới di cư đến phải quay chạy ra Thuận Hóa. Vùng đất bốn châu : Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa lại bị Chiêm Thành chiếm giữ, phải mãi đến đầu năm 1446, dưới triều Lê Nhân Tông, quân Đại Việt do Lê Thụ chỉ huy mới đánh trở lại, tấn công vào tận Trà Bàn bắt vua Chiêm Thành là Bí Cai giải về Thăng Long. Tuy nhiên, trong buổi đầu của thời Lê sơ toàn bộ vùng đất từ đèo Hải Vân trở vào vẫn còn là đất ky mi chịu sự ràng buộc chứ chưa chịu sự quản lý trực tiếp của Đại Việt (5).

- Tháng 6 năm Tân Mão 1471, với cuộc nam chinh đại thắng, Lê Thánh Tông đánh chiếm vào tận núi Thạch Bi (Phú Yên) lập ra đạo thừa tuyên Quảng Nam và Thăng Hoa. Cái tên Quảng Nam xuất hiện từ đây, địa giới của nó bao gồm toàn bộ phía nam tỉnh Quảng Nam đến cuối tỉnh Bình Định ngày nay. Phần đất phía bắc tỉnh Quảng Nam hiện nay, lúc dó vẫn còn thuộc về Thừa tuyên Thuận Hóa. Đến năm 1490, vua Lê Thánh Tông tổ chức lại hệ thống hành chính chia cả nước ra làm 13 xứ Thừa Tuyên. Lúc này đạo Thừa tuyên Quảng Nam đổi thành xứ Thừa tuyên Quảng Nam (6).

- Năm 1602, Nguyễn Hoàng đặt tên gọi hành chính là dinh Quảng Nam bao gồm cả đất Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa và Hoài Nhơn (7). Ba năm sau (l605), Nguyễn Hoàng lại cho tách huyện Điện Bàn thuộc phủ và sáp nhập vào dinh Quảng Nam (8). Lúc này, dinh Quảng Nam đã bao gồm toàn bộ đất của Quảng Nam và Đà Nẵng hiện nay, vào đến tận huyện Hoài Nhơn của Bình Định.

- Ngay sau khi chiếm dược Phú Xuân (1801), Nguyễn Ánh cắt riêng hai phủ Thăng Hoa và Điện Bàn đặt làm dinh Quảng Nam (9). Đây là lần đầu tiên toàn bộ vùng đất của Quảng Nam và Đà Nẵng hiện nay trùng khớp với địa giới hành chính (dinh). Có thể xem sự cắt dặt này từ chỗ chưa chính thống đến chính thống vì chưa đầy một năm sau nhà Tây Sơn mất, Nguyễn ánh lên ngôi lập ra triều Nguyễn thì tên gọi hành chính và địa giới của Quảng Nam vẫn dược giữ nguyên. Đến năm 1806, Quảng Nam dược xếp vào một trong bốn dinh của Kinh sư, gọi là Trực Lệ Quảng Nam dinh (10).

- Năm 1827 Minh Mệnh đổi thành trấn dinh, bỏ hai chữ "trực lệ". Đến năm 1831 Minh Mệnh bắt đầu thực hiện cải cách hành chính ở các địa phương miền Bắc, chia 11 trấn Bắc thành ra làm 18 tỉnh. Tháng 10 năm 1832 Minh Mệnh tiếp tục chia đặt tỉnh ở phía Nam. Từ đây, trấn Quảng Nam trở thành tỉnh Quảng Nam (11). Nhưng khác với một số tỉnh khác, địa giới tỉnh Quảng Nam vẫn giữ nguyên như thời Gia Long. Đến năm 1834 Minh Mệnh chia cả nước thành 7 khu : Kinh Sư, Tả Trực, Hữu Trực, Tả Kỳ, Hữu Kỳ, Nam Kỳ, Bắc Kỳ, Quảng Nam (và Quảng Ngãi) là hai trực tỉnh phía tả kinh sử nên còn gọi là các tỉnh Nam trực (12).

- Sau khi Pháp và triều đình Huế ký hiệp ước Patenôtre (6-6-1884), Toàn quyền Đông Dương Richaud dựa vào bản hiệp ước đó ép vua Đồng Khánh phải nhượng đất chủ quyền cho Pháp các thành phố : Hà Nội, Hải Phòng và Đà Nẵng. Ngày 27-8 năm Mậu Tý, tức ngày 3-10-1888 Đồng Khánh ký đạo dụ cắt Đà nẵng ra khỏi Quảng Nam làm thành phố nhượng dịa cho Pháp. Toàn bộ phần đất này bao gồm 5 xã tả ngạn sông Hàn : Hải Châu, Phước Ninh, thạch thang, Nam Dương và Nại Hiên Tây với tổng diện tích 10.000 ha (20.00 mẫu ta), 13 năm sau, thực dân Pháp lại gây sức ép buộc vua Thành thái phải ký một Đạo dụ vào ngày 25 -2 năm Canh Tý, tức 15-1-1901 nới rộng nhượng địa Đà nẵng ra các xã thôn Xuân Đán, Thạc Gián, Liên Trì, Bình Thuận, Xuân Hòa, Chính Khê, Đông Hà Khê, Yên Khê thuộc huyện Hòa Vang và Mỹ Khê, An Hải, Mân Thái, Nại Hiên Đông, Mân Quang, Vĩnh Yên thuộc huyện Diên Phước. Như vậy, qua hai lần cắt nhượng của triều đình Huế, Quảng Nam đã mất tất cả 19 xã, gồm 13 xã tả ngạn và 6 xã hữu ngạn sông Hàn (13)

- Ngày 6-9-1952 Thủ tướng Chính phủ nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra Nghị định số 129/TTg sáp nhập thành phố Đà Nẫng vào tỉnh Quảng Nam, thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (14).

- Ngày 31-7-1962 chính quyền Ngô Đình Diệm ra sắc lệnh số 162/NV thành lập trọng địa hạt tỉnh Quảng Nam một tỉnh mới lấy tên là tỉnh Quảng Tín (15). Địa giới tỉnh Quảng Nam chỉ còn từ huyện Hòa Vang vào đến huyện Quế Sơn, địa giới tỉnh Quảng Tín từ huyện Thăng Bình trở vào giáp tỉnh Quảng Ngãi. Thành phố Đà Nẫng vẫn là một đơn vị hành chính trực thuộc chính quyền trung ương. Về phía ta, cuối năm 1962, Khu ủy V quyết định chia tỉnh uảng Nam - Đà Nẵng thành hai tỉnh : tỉnh Quảng Nam từ huyện Quế Sơn trở vào Tam Kỳ, tỉnh Quảng Đà từ huyện Duy Xuyên trở ra tới Hòa Vang, bao gồm cả Đà Nẫng (16).

Sau ngày thống nhất đất nước, thực hiện Nghị quyết số 245-NQ/TW ngày 20-9-1975 của Bộ Chính trị về việc bỏ khu, hợp tỉnh và Nghị quyết số 19/NQ ngày 20-12-1975 của Bộ Chính trị về việc điều chỉnh, hợp nhất một số tỉnh ở miền Nam, tháng 2-1976 Chính phủ Cách mạng lâm thời Cộng hòa miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định về việc giải thể khu, hợp nhất tỉnh ở miền Nam. Theo Nghị định này, tỉnh Quảng Nam và tỉnh uảng Đà hợp lại thành tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng (17).

- Ngày 6-11-l996 trong kỳ họp thứ 10 Quốc hội khóa IX đã phê chuẩn việc tách tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng ra thành hai đơn vị hành chính : Thành phố Đà Nẵng trực thuộc trung ương bao gồm ba đơn vị hành chính là thành phố Đà Nẵng (cũ), hai huyện Hòa Vang và Hoàng Sa. Còn lại 14 đơn vị hành chính cấp huyện, thị xã thuộc tỉnh Quảng Nam (18).

Từ quá trình hình thành và thay đổi địa danh, địa giới hành chính như trên, chúng ta cần nhắc mấy thời điểm sau : Thời điểm đánh dấu toàn bộ vùng đất Quảng Nam hiện nay thuộc về Đại Việt thời điểm xuất hiện tên gọi Quảng Nam. Thời điểm đánh dấu toàn bộ vùng đất Quảng Nam và Đà Nẵng hiện nay cùng nằm trong một đơn vị hành chính. Thời điểm đánh dấu toàn bộ vùng đất Quảng Nam và Đà Nẵng hiện nay giữ vững một đơn vị hành chính độc lập.

Là người nghiên cứu chúng tôi cho rằng, khi xét chọn thời điểm kỷ niệm một đơn vị hành chính chúng ta không nhất thiết phải căn cứ vào toàn bộ địa giới hành chính như hiện nay, bởi như thế hóa ra chúng ta lấy ngày tách tỉnh Quảng Nam Đà Nẵng (11- 1- 1996) làm ngày kỷ niệm sự ra đời của tỉnh Quảng Nam mà bỏ đi cả một quá trình hình thành trước đó, chúng ta cũng không nên căn cứ vào tên gọi "tỉnh" mà phải kết hợp cả tên gọi dịa phương gắn với cấp hành chính ngang cấp hành chính hiện nay để xét. Với cách chọn như vậy, trong các thời điểm kể trên, chúng ta nên lấy năm 1471 làm thời điểm đánh dấu sự ra đời của Quảng Nam bởi vì tên gọi Quảng Nam ngay từ lúc dó không phải của một châu, phủ, mà là của một đơn vị hành chính cao nhất cấp địa phương là thừa tuyên, cùng cấp với cấp tỉnh hiện nay. Hơn nữa, so với thời điểm 1402 tuy đánh dấu toàn bộ vùng đất Quảng Nam hiện nay thuộc về Đại Việt nhưng lúc dó vùng đất mới này chỉ chịu sự quản lý của Đại Việt trong vòng 5 năm. 66 năm tiếp theo nó lại nằm trong vòng kiểm soát của Chiêm Thành. Do đó, Đại Việt chưa ghi được dấu ấn sâu đậm trên vùng đất mới này. Chỉ đến năm 1471 mới thực sự mở ra thời kỳ ổn định lâu dài, tạo nên sự phát triển bền vững của vùng đất Quảng Nam. Và dù cho trong hơn 500 năm qua, địa giới Quảng Nam tuy có cắt bớt để thành lập các đơn vị hành chính khác như Quảng Ngãi, Bình Định, Đà Nẵng và có thêm vào (huyện Điện Bàn thuộc phủ Triệu Phong nhập vào Quảng Nam 392 năm) nhưng tên gọi Quảng Nam gắn với cấp hành chính địa phương cao nhất vẫn không hề thay đổi. Nếu chấp nhận cách chọn trên, chúng ta sẽ có thể long trọng tổ chức kỷ niệm "Quảng Nam - 530 năm hình thành và phát triển" vào năm đầu thế kỷ 21 - năm 2001. Căn cứ vào các tư liệu lịch sử đã có, chúng tôi muốn nêu lên cách chọn thời điểm kỷ niệm ngày ra dời của vùng đất Quảng Nam là vào năm 1471. Rất mong các nhà sử học, các nhà nghiên cứu và địa phương có những cuộc tọa đàm hội thảo khoa học để thống nhất ngày ra đời Quảng Nam.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #22
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

Các ngày Lễ - Hội ở Quảng Nam

Lễ hội Long Chu

Ngày mở hội : 15-01 (âm lịch)

* Thời gian tổ chức : 1 ngày

* Địa điểm tổ chức : Đình - Đền, Thị xã Hội An, Quảng Nam

* Người được thờ cúng : Long Chu

* Truyền thuyết : Long Chu là vị thần có sức mạnh diệt trừ ma quái mà hình tượng là chiếc thuyền rồng, lễ hội cúng trừ tà ma.

* Nội dung : Kiệu Long Chu được thanh niên khiêng chạy trong tiếng trống thúc tới tất cả các ngõ trong làng. Tại các gia đình người ta cũng đuổi tà ma bằng roi dâu. Khi kiệu Long Chu đến mọi người vứt roi vào kiệu sau đó dân làng đốt Long Chu.

** Ghi chú : Còn tổ chức vào ngày 15 tháng 7 Âm lịch tại đình làng.

Cầu ngư

* Ngày mở hội : 17-01 (âm lịch)

* Thời gian tổ chức : 2 ngày

* Địa điểm tổ chức : Bình Thạnh, Bình Sơn, Quảng Nam

* Người được thờ cúng : Thần Nam Hải

* Nội dung : Thờ Thần Nam Hải với mục đích cầu mùa, cầu cho ngư dân đánh bắt được nhiều tôm cá, không gặp hiểm nguy nơi biển cả. Trong Hội ngoài các nghi thức tế, lễ, có nhiều trò vui như : Múa gím, hát bả trạo, kéo co, thi bơi, đua thuyền thúng ...

** Ghi chú : Lễ Cầu Ngư được mở vào ngày 17 và 18 tháng giêng (âm lịch)

Cúng Cá Ông

* Địa điểm tổ chức : Miếu bà - Cẩm An, Hội An, Quảng Nam

* Người được thờ cúng : Cá Ông Voi

* Truyền thuyết : Cá Ông giúp đỡ người, thuyền khi gặp nạn trên biển.

* Nội dung : Có sự kết hợp cúng Cá Ông với Lễ cầu mùa, cầu an mang tính chất tạ ơn Thần Thánh và cầu mong mùa màng bội thu. Ngoài các nghi thức tế, lễ tại đình ( đền ) là các trò vui như hát bá trạo, bả trạo, hát bội.

** Ghi chú : Tổ chức vào tháng 3 Âm lịch

Nghi lễ phổ biến của các làng chài ven biển nước ta. Hát bả trạo còn được bảo lưu tốt nhất ở Hội An. Vừa hát vừa chèo thuyền


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #23
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

TỔNG QUAN VĂN HỌC DÂN GIAN QUẢNG NAM ĐÀ NẴNG

1 - Văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng là một nền văn học trẻ, mới ra đời chừng sáu trăm năm nay, tính từ thế kỷ XV - đời nhà Hồ, khi lãnh thổ Amaravati của Chăm-pa đã thuộc về quyền lực nhà nước Đại Việt. Nhưng văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng không bắt đầu từ số không tay trắng. Chuyển cư vào lập nghiệp nơi đất Quảng xa xăm, mỗi lưu dân Quảng Nam đều mang trong mình chút lưng vốn văn học dân gian cả dân tộc, bởi họ xa rời nguyên quán gốc rễ nhưng không hề đoạn tuyệt với quá khứ cội nguồn, không hề xem quá khứ là dĩ vãng. Với họ, đây là giang sơn Đại Việt vừa thành quê hương mới, đồng thời là xứ Amaravati từng thuộc sở hữu một lân bang - dẫu sao cũng đất khách quê người. Tình cảnh ấy càng làm cho họ ngày đêm khôn nguôi nỗi nhớ về quê cha đất tổ.

Và có lẽ câu hát đầu tiên của người xa xứ vẫn là câu hát ngày xưa bên dòng sông Mã, sông Hồng: "Đêm qua ra đứng bờ ao - Trông cá cá lặn trông sao sao mờ - Buồn trông con nhện giăng tơ - Nhện ơi nhện hỡi nhện chờ mối ai...", "Trên trời có đám mây xanh - Ở giữa mây trắng chung quanh mây vàng - Ước gì anh lấy được nàng - Để anh mua gạch Bát Tràng về xây - Xây dọc rồi lại xây ngang - Xây hồ bán nguyệt cho nàng chao chân", "Núi cao chi lắm núi ơi - Che bóng mặt trời khuất mặt người thương", hay "Trèo lên cây bưởi hái hoa - Bước xuống vườn cà hái nụ tầm xuân - Nụ tầm xuân nở ra xanh biếc - Em có chồng anh tiếc lắm thay - Ba đồng một mớ trầu cay - Sao anh chẳng hỏi những ngày còn không - Bây giờ em đã có chồng - Như chim vào lồng như cá cắn câu - Cá cắn câu biết đâu mà gỡ - Chim vào lồng biết thuở nào ra"... Rồi khi vật lộn với gian nan để khẩn đất lập làng khai sơn phá thạch, những tiên dân Quảng Nam lại kể cho nhau nghe truyền thuyết Sơn Tinh - Thuỷ Tinh, câu chuyện cổ tích về Mai An Tiêm trên hoang đảo, hoặc thiên tình sử của những Tiên Dung - Chử Đồng Tử, Mỵ Châu - Trọng Thuỷ, Giáng Hương - Từ Thức, Mỵ Nương - Trương Chi...

Và chắc rằng họ vẫn cứ hát, cứ kể bằng chất giọng đàng ngoài quen thuộc - chứ chưa phải chất giọng đặc sệt Quảng Nam sau này. Dần dà để phù hợp hơn với cảnh ngộ mới, họ có nhu cầu thay lời đổi chữ, thêm mắm dặm muối vào câu hát, câu chuyện, câu nói hôm qua, và đến một ngày kia, cuộc sống vừa bám-trụ-giữ-đất vừa quảng-nam-mở-cõi có quá nhiều điều khiến họ phải suy ngẫm sâu xa, phải tìm cách bộc lộ giãi bày, đòi hỏi họ phải tự mình sáng tác những câu chuyện, câu hát, câu nói của chính hôm nay. Đó là con đường hình thành và phát triển của văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng suốt sáu thế kỷ qua.

2 - Về sáu trăm năm hình thành và phát triển của văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng, đã có nhiều người để tâm sưu tầm, nghiên cứu. Chỉ tính riêng một phần tư thế kỷ vừa qua, có thể kể đến Lâm Quang Thự với công trình Đất Quảng trong thơ ca do Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc tỉnh Thanh Hoá xuất bản năm 1976; Nguyễn Văn Bổn với tiểu luận Đất nước và con người Quảng Nam - Đà Nẵng qua văn học nghệ thuật dân gian, Tôn Thất Bình với bài viết Hát bả trạo tại Quảng Nam, Trần Hoàng với bài viết Suy nghĩ về thơ ca dân gian của hai cuộc kháng chiến chống đế quốc Pháp và Mỹ ở Quảng Nam - Đà Nẵng; hay tiểu luận Truyện cổ của một vùng đất mới của nhóm Nguyễn Văn Bổn, Trần Hoàng, Võ Văn Thắng và bài viết Thủ Thiệm : tiếng cười dân gian độc đáo của đất Quảng của nhóm Nguyễn Văn Bổn, Tôn Thất Bình, Trương Giảng - tất cả đều được in trong công trình Văn nghệ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng do Sở Văn hoá - thông tin Quảng Nam - Đà Nẵng chủ trì sưu tầm biên soạn (tập I xuất bản năm 1983, tập II xuất bản năm 1985). Có thể kể đến Huỳnh Ngọc Trảng và Vu Gia với phần biên khảo về văn học dân gian huyện Đại Lộc trong Địa chí Đại Lộc (NXB. Đà Nẵng - 1992). Rồi Thạch Phương trong tiểu luận Ca dao của một vùng đất (Ca dao Nam Trung Bộ - NXB. Khoa học xã hội - 1994) cũng chủ yếu bàn về ca dao và những thể loại có liên quan đến thơ ca dân gian của Quảng Nam - Đà Nẵng. Ngoài ra còn không ít lời bình về từng tác phẩm văn học dân gian đất Quảng đã được đăng rải rác trên báo chí.

3 - Ý thức về cội nguồn Đại Việt thể hiện rất rõ trong truyền thuyết Ngũ Hành Sơn. Mô-típ rồng đẻ ra trứng, trứng nở thành một nàng tiên xinh đẹp rõ ràng là có quan hệ với mô-típ mẹ Âu Cơ sinh một bọc trăm trứng, trứng nở thành trăm con trong truyền thuyết Con Rồng cháu Tiên. Và trên vùng đất chưa hề có bóng dáng con người, hình ảnh ông lão ngư dân bị đắm thuyền từ phương Bắc trôi dạt tới được thần Kim Quy dạy cách bảo vệ quả trứng rồng cho đến ngày khai nở đã nói lên gốc gác Thanh - Nghệ của những lưu dân đất Quảng. Rồi cảnh thần Kim Quy tháo móng chân trao cho ông lão cũng gợi nhớ cảnh Rùa Vàng từng tháo móng chân trao cho vua Thục làm lẫy nỏ trong truyền thuyết An Dương Vương ngày nào. Như vậy với truyền thuyết Ngũ Hành Sơn, người Quảng đã biết dựa vào cha ông để sáng tạo cho riêng mình một truyện cổ dân gian rất quen mà rất lạ. ở đây ông lão ngư dân là lạ, mà vỏ trứng rồng lớn mãi, lớn mãi thành năm ngọn núi Kim, Mộc, Thuỷ, Hoả, Thổ kia cũng là lạ. Những cái lạ ấy là đóng góp riêng của người Quảng vào văn học nước nhà.

Càng ý thức về cội nguồn Đại Việt, người Quảng xưa càng ý thức rõ hơn tình cảnh đất khách quê người. Họ hiểu rằng để có thể sinh tồn nơi đầu sóng ngọn gió này, họ vừa phải dám dũng cảm đương đầu - thậm chí dám mạo hiểm dấn thân, lại vừa phải biết điều tế nhị trong quá trình giao lưu hội nhập với cư dân bản địa. Tục cúng đất - hay là cúng tá thổ độc đáo, mỗi năm một lần, lễ vật dâng cúng gồm toàn các món ăn đặc trưng Chiêm Thành, thể hiện cách ứng xử khôn ngoan nhạy cảm của người Quảng xưa. Qua việc làm đậm đà màu sắc tâm linh thành kính và thấm đẫm chất chính trị, tiên dân Quảng Nam như muốn bày tỏ cùng cộng đồng người Chăm rằng do chẳng đặng đừng mà phải đứng chân lâu dài trên lãnh thổ Amaravati, đồng thời khiêm nhường tự nhận chỉ là người tá thổ - mượn đất, nghĩa là vẫn không hề quên đây là đất Chăm-pa. Mặt khác qua truyện cổ dân gian, họ tìm cách lý giải thêm sự có mặt của mình.

Nhiều thần thoại, truyền thuyết dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng khẳng định công lao khai sơn phá thạch của người Quảng xưa ở những vùng đất vốn còn rất đỗi hoang sơ. Thần thoại Sự tích núi Thạch Bồ kể về một vị thần thân hình cao lớn lạ thường - và hẳn là có gốc gác thần linh Đại Việt - nhổ tre vặn thừng đan sọt, lấy cả cây tre làm đòn gánh, gánh đất đắp sông xây núi. Thần thoại Sự tích Lò Thung cũng kể chuyện một ông khổng lồ gánh đất đắp sông, đánh nhau với rái cá, chẳng may té ngã, hai tảng đá lớn ở hai đầu gánh văng ra xa, làm thành hai quả núi, một chân ông chống vào vách đá khiến nơi này lún sâu thành hang, còn chân kia ông giẫm mạnh lên bờ đá ven sông, in dấu bàn chân ngoại cỡ vào mặt đá.

Đáng chú ý nhất trong chủ đề khai phá giang sơn là truyền thuyết Sự tích đất Gò Nổi kể về một lưu dân xứ Quảng tên Lê Văn Đạo. Ông Lê Văn Đạo vào Thăng Hoa làm nghề chài lưới, có lần đánh cá trên sông Thu Bồn thì trời nổi cơn giông, sóng gió đẩy thuyền ông càng lúc càng xa bờ. Giữa cơn khốn khó, ông bỗng thấy một đốm sáng hiện ra trước mũi thuyền. Và trong khi cố sức chèo thuyền theo đốm sáng kia, nhờ tia chớp ông nhận ra đó chính là con chim màu đỏ như huyết đang bay dẫn đường đưa ông đến một nơi đất đai tươi tốt chưa hề có ai sinh sống. Khi chuyển gia đình tới đây định cư khẩn đất lập làng, thấy dãi đất này bốn bên sông nước bao bọc, ông Lê Văn Đạo bèn đặt tên là Gò Nổi.

Ở Đại Quang huyện Đại Lộc, dân gian còn lưu truyền Sự tích Gò Đùi kể chuyện một nàng công chúa mải mê ngoạn cảnh nên lạc lối vào sâu trong vùng gò Đùi - ngày ấy vẫn đương còn là khu rừng hoang vắng đầy thú dữ - và chẳng may bị cọp vồ. Khi đoàn quân của vua cha đến cứu nàng thì đã quá muộn: công chúa bị cọp ăn thịt, chỉ còn trơ lại khúc đùi, bên cạnh có con bò rừng nằm canh giữ, và dường như nếu không có con bò trọng nghĩa, hẳn là công chúa hoàn toàn mất xác. Thương tiếc con gái, nhà vua cho tạc bức tượng có hình khúc đùi người- di thể của công chúa - và con bò rừng kia để thờ cúng. Thật ra, bức tượng tạc khúc đùi người cạnh con bò rừng này là một mảnh vỡ của tấm phù điêu bằng đá chạm nổi phần đùi thần Xi-va bên con bò thiêng - vật cưỡi quen thuộc của thần. Rõ ràng qua truyện cổ dân gian, đôi khi người Quảng xưa cố tình Việt hoá thần tích Chăm-pa nhằm suy nguyên một sự vật, hiện tượng nào đó theo nhãn quan riêng của dân tộc mình. Đấy cũng là cách khẳng định công lao phá thạch khai sơn của người Quảng ở những vùng "tá thổ" hoang vu.

Đúng như các tác giả tiểu luận Truyện cổ của một vùng đất mới dẫn trên đã nhận xét, "thần thoại, truyền thuyết vùng đất Quảng ít có yếu tố thần kỳ, hoang đường, mà trái lại mang nhiều nét hiện thực", và ở trường hợp truyện cổ tích Quảng Nam - Đà Nẵng, "tính chất hiện thực, một lần nữa, cũng giống ở trường hợp các thần thoại, truyền thuyết, đã lấn át hẳn tính chất hoang đường, kỳ ảo". Tuy nhiên, đọc kỹ truyện cổ dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng, vẫn có thể bắt gặp một vài chi tiết thần kỳ thấm đẫm chất thơ thuần phác. Chẳng hạn chi tiết tấm da ngựa si tình bất thần quấn chặt lấy cô tiểu thư xinh đẹp bay bổng lên ngọn cây cao trong Sự tích con tằm có thể sánh ngang với những chi tiết nghệ thuật đặc sắc nhất của truyện cổ dân gian Việt Nam.

4 - Người Quảng thích biện luận, "Quảng Nam hay cãi", hay cãi đến mức đã sáng tác cả một câu chuyện về ông Vua Cãi, vì thế truyện cười dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng thường xuất hiện những chàng trai được vợ nhờ giỏi biện luận, chẳng hạn chàng trai trong truyện Giỏ đựng chày. Truyện này kể về một người được xem là bậc thầy trong nghề đan lát, luôn tự hào rằng cái gì ông ta cũng đan được, rằng ai đan cái gì ông ta cũng biết được, tuyên bố sẵn lòng gả con gái cho người nào đan cái mà ông ta không biết, và cuối cùng đành phải thực hiện lời hứa vì ông chịu thua không thể đoán ra cái có hình thù gần giống như cái rọ nhưng hai đầu bằng nhau còn ở giữa lại hẹp là... cái giỏ đựng chày. Khi nghe ông cật vấn: "Giã gạo xong thì đem chày dựng vào xó nhà, cần gì đựng trong giỏ?", chàng trai đan giỏ đựng chày đã biện luận: "Chuyện ấy không thành vấn đề, con chỉ biết ông không đan được cái này, và quan trọng hơn, con đan xong mà ông vẫn chưa biết là cái gì".

Một số truyện cười dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng còn có nhân vật ông mai - người môi giới cho các cuộc hôn nhân. "Cửa em cao hàng rào em chắn - Buồng the em đóng chín mười tầng - Con ong chui không lọt biểu con bướm đừng lao xao - Biểu chàng về sắm lễ cho cao - Cậy ông mai cho giỏi mới bước chân vào ngõ em". Cái giỏi của ông mai ở đây không gì khác là giỏi biện luận. Thác lời vào nhân vật ông mai, người Quảng từng trổ tài biện luận: nào là tôi sẽ làm mai cho ông một chàng rể giỏi giang, chỉ có điều là cậu ta con người không được ngay thẳng; nào là tôi sẽ làm mai cho bà một cô dâu hiền thục, chỉ có điều cô ấy mồm miệng không được chỉn chu. Tới khi cưới hỏi xong xuôi, hai họ rõ ra là chàng rể thì gù lưng - chứ không phải tính nết so đo như nhà gái nhầm tưởng, cô dâu thì môi sứt - chứ không phải ăn nói vụng về như nhà trai hình dung, ông mai liền biện luận rằng mình đã báo trước con người chàng rể không được ngay thẳng, mồm miệng cô dâu không được chỉn chu rồi, song hai bên gia đình vẫn đồng lòng chấp nhận đấy thôi...

Đặc biệt yếu tố gây cười bắt nguồn từ sự biện luận của nhân vật trung tâm khá phổ biến ở nhiều truyện cười Thủ Thiệm. Có lần Thủ Thiệm bị quan huyện sai lính lệ bắt giam: "Lệ đâu! Đưa thằng này xuống buồng giam, giam đầu nó lại ! ". Thế là Thủ Thiệm chỉ đứng ở cửa buồng giam đưa đầu vào thôi, lấy lý quan huyện chỉ bảo giam đầu chứ không bảo giam đít, buộc lòng quan huyện phải tha Thủ Thiệm cho yên chuyện. Hoặc một hôm Thủ Thiệm mời cơm ông thông gia nhưng chỉ dọn toàn mắm nục. Chờ khách ngồi vào mâm, Thủ Thiệm vồn vã thưa: "Không mấy khi anh sang chơi mà nhà lại không có gì, chỉ có cá nục, anh vui lòng dùng tạm ! ". Nghe ông thông gia thẳng thắn nhận xét: "Mắm nục chứ làm chi có cá nục ! ", Thủ Thiệm liền giải thích: "Thì trước lúc thành mắm, nó cũng từng là cá nục đó chứ!". Nào ngờ ông thông gia là tay giỏi biện luận không kém, chờ dịp Thủ Thiệm sang chơi nhà mình để trả đũa: đến bữa cơm chỉ dọn một bát gốc tre chặt nhỏ mời Thủ Thiệm và bảo đấy là món măng luộc. Khi Thủ Thiệm phàn nàn: "Gốc tre chứ làm chi có măng!", ông thông gia bèn giở ngay luận điệu của Thủ Thiệm hôm nào: "Thì trước lúc thành gốc tre, chẳng phải nó đã là măng hay sao ?".

5 - Truyện cổ chưa phải là mặt mạnh nhất của văn học dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng. Xem ra người Quảng có nhiều đóng góp hơn trên lĩnh vực thơ ca, trước hết là ở ca dao - dân ca. Ca dao - dân ca Quảng Nam - Đà Nẵng cũng mang đậm dấu ấn tâm lý của những người mới xa quê, buổi đầu mọi thứ đều thấy lạ. "Tới đây sông nước lạ lùng - Con chim kêu phải sợ con cá vùng phải kiêng", hoặc "Tới đây lạ cảnh lạ quê - Anh em cũng lạ bốn bề người dưng - Người thương không thấy người thương - Quanh đi quẩn lại nhớ cố hương thêm sầu".

Nghĩa là buổi đầu mọi thứ đều gợi nhớ, gợi thương. Nhớ thương đến mức không thể chỉ bộc bạch chung chung như khi còn ở quê nhà, kiểu lý chiều chiều: "Chiều chiều ra ngõ ngó mong - Ngõ thì thấy ngõ người không thấy người", "Chiều chiều ra đứng ngõ sau - Thấy cây khế ngọt mà đau đớn lòng", "Chiều chiều ra ngắm sông sâu - Thấy dòng nước chảy dạ đau từng hồi"... Cũng là lý chiều chiều nhưng giờ đây thương nhớ phải được giãi bày cụ thể hơn, khắc sâu hơn cái khoảng không nghìn trùng cách trở giữa hai phương trời: "Chiều chiều mây phủ Sơn Chà - Lòng ta nhớ bạn nước mắt và lộn cơm - Vẫy vùng như cá trong nơm - Sớm mai Nam ta trông bạn buổi chiều Nồm bạn trông ta".

Có điều cuộc sống đương thời luôn đặt ra cho tiên dân xứ Quảng nhiều câu hỏi lớn, chẳng hạn cam chịu nhớ thương mà chấp nhận ở lại với cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-hình, hay tìm sự bằng an để giũ bỏ quay về với cái-quen-xưa-bao-đời-vẫn-vậy. Và câu trả lời của người Quảng là:"Ngó lên Hòn Kẽm Đá Dừng - Thương cha nhớ mẹ quá chừng bậu ơi - Thương cha nhớ mẹ thời về - Nhược bằng thương kiểng nhớ quê thời đừng". Không phải đừng về mà đừng quay về, đừng hồi hương, bởi giờ đây đã có thêm một quê hương !

Chính nhờ sống trong thế giới những cái-lạ-nay-chưa-kịp-định-hình, người Quảng xưa có nhu cầu và điều kiện đổi mới cách nhìn, cách nghĩ. Câu ca dân gian: "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say" cực tả sự khát khao cái mới, nhạy cảm với cái mới của người Quảng. "Ra đi mẹ có dặn dò - Sông sâu chớ lội đò đầy đừng qua", kinh nghiệm sống khôn ngoan ấy giờ đây cơ hồ không còn thích hợp nữa. Cuộc sống giờ đây đòi hỏi con người phải biết tư duy kiểu khác: "Sông sâu không lội thì trưa - Đò đầy không xuống ai đưa một mình"...

Và nhờ biết tư duy kiểu khác mà thái độ ứng xử với cái lạ ở người Quảng lúc này không giống khi vừa mới đến: "Tay ta cầm cần câu trúc ống câu trắc lưỡi câu thau - Muốn câu con cá biển chứ cá bàu thiếu chi", hay "Lên non tìm con chim lạ - Ở dưới phố phường chim chạ thiếu chi". Từ chỗ sợ cái lạ - "con chim kêu phải sợ con cá vùng phải kiêng" - tới chỗ chủ động đi tìm cái lạ, đó là cả một bước tiến dài trong tư duy người Quảng xưa.

Không hiểu sao chủ thể trữ tình trong ca dao - dân ca Quảng Nam - Đà Nẵng nói về tình yêu lứa đôi đa phần là phụ nữ. Có lẽ trên tình trường họ hứng chịu khổ đau nhiều hơn nam giới, do vậy mà nhu cầu bộc lộ giãi bày bằng tiếng hát lời ca ở họ cũng lớn hơn chăng. Quả là khi yêu, người phụ nữ phải đối mặt với bao nhiêu bất trắc: "Thương chàng thiếp phải đi đêm - Té xuống bờ ruộng đất mềm không đau - Không đau ơi hỡi không đau - Té xuống năm trước năm sau chưa lành", hoặc "Ba với ba là sáu - Sáu với bảy mười ba - Bạn nói với ta không thiệt không thà - Như cây đủng đỉnh trên già dưới non - Khi xưa bạn nói với ta chưa vợ chưa con - Bây giờ ai đứng đầu non đó bạn tề - Bạn nói với ta bạn chưa có hiền thê - Bây chừ hiền thê mô đứng đó bạn trả lại lời thề cho ta", hoặc "Một nong tằm là năm nong kén - Một nong kén là chín nén tơ - Bạn phỉnh ta chín đợi mười chờ - Lênh đênh quán sấm dật dờ quán sen"...

Cả khi hai người cùng chung cảnh ngộ, thì phụ nữ thường cũng thiệt thòi hơn: "Thiếp thương chàng đừng cho ai biết - Chàng thương thiếp đừng lộ tiếng ai hay - Miệng thế gian nhiều kẻ thày lay - Cực chàng chín rưỡi khổ thiếp đây mười phần", hay "Anh buồn có chốn thở than - Em buồn như ngọn nhang tàn thắp khuya"... Thế nhưng vượt lên tất cả, người phụ nữ đất Quảng vẫn thể hiện rõ bản lĩnh của mình trong tình yêu: "Thiếp không thương chàng thì ra chỗ dở - Cho nên thiếp phải thương đỡ vài ngày - Thiếp có chồng rồi thiên hạ đều hay - Sợ nước lui về đông hải càng ngày càng xa", "Liệu bề thương được thì thương - Đừng trao gánh nặng giữa đường cho em", "Xa xôi chi đó mà lầm - Phải hương hương bén phải trầm trầm thơm"...

Cũng không ai khác ngoài họ đã chủ động dung hoà kiểu hôn nhân theo sắp đặt với kiểu hôn nhân có tình yêu - một mô hình hôn nhân đến nay và trong nhiều thập niên tới xem ra vẫn còn phù hợp. Hôn nhân theo sắp đặt là kiểu hôn nhân mà cô dâu và chú rể thường do cha mẹ hay người thân trong gia đình đôi bên lựa chọn (thậm chí cả hai chỉ được biết mặt nhau trong ngày cưới) với mục đích tìm cho cô dâu chú rể người bạn đời môn đương hộ đối. Còn hôn nhân có tình yêu bắt nguồn từ tình yêu của những chàng trai, cô gái tự đến với nhau, đặt khả năng tương thích và những cảm nhận về nhau lên hàng chính yếu. Đương nhiên người phụ nữ đất Quảng không đồng tình với kiểu hôn nhân sắp đặt: "Đôi ta tuổi lứa đang vừa - Trách cho cha mẹ kén lừa nơi mô", cũng không muốn bị làng xóm cười chê rằng: "Gái đâu gái hỗn gái hào - Trai chưa vô làm rể gái đã vào làm dâu". Họ tự đến với nhau, yêu nhau và cùng nhau thề non hẹn biển, sau đó tranh thủ sự đồng thuận của hai bên gia đình: "Trai mười bảy gặp gái mười ba - Trai anh hăm sáu gái em đà hăm hai - Lời nguyền với bạn không sai - Bữa mô có rảnh cậy ông mai đến nhà", "Con gà trống tía cái lông cũng tía - Ngọn khoai lang giâm ngọn mía cũng giâm - Thương nhau không dễ thương thầm - Thương thời rượu cỗ trầu mâm đến nhà - Em còn thừa lệnh mẹ cha - Còn có cô chú bác chứ không phải mình ta với chàng"..

Ngôn ngữ ca dao - dân ca đất Quảng nói chung thô mộc song không phải không có những nét đặc sắc. Khi cần "chữ nghĩa", người Quảng cũng rất chi là "chữ nghĩa", chẳng hạn như trong lời ca bài Lý Thương nhau: "Thương nhau trường đoạn đoạn trường - Luỵ lưu lưu luỵ dạ dường kim châm". Một câu lục bát mười bốn chữ mà đa phần là từ Hán-Việt, trong đó đáng chú ý là cách đảo từ "trường đoạn" thành "đoạn trường", "luỵ lưu" thành "lưu luỵ" nhằm khai thác sức mạnh biểu cảm của những từ đồng âm dị nghĩa. Có thể dẫn chứng thêm nhiều trường hợp chơi chữ tương tự, như câu "Anh từ trong Quảng ra thi - Leo lên đèo ải chữ chi mập mờ", hoặc câu "Chiều chiều lại nhớ chiều chiều - Nhớ người quân tử khăn điều vắt vai - áo vắt vai quần hai ống ướt - Chữ nghĩa chi chàng mà lấn lướt vô thi - Tiền năm quan ngủ quán mất đi - Trai nam nhơn mô đối đặng - Gái nữ nhi xin kết nguyền"...

Hay câu "Con gái La Qua - Qua đường qua chọc - Qua biểu em rằng - Đừng có la qua". Cái tên "La Qua" vốn chỉ là một địa danh trong câu "Dù xa cửa ngõ cũng xa - Dù gần Bến Điện, La Qua cũng gần", đến đây bỗng trở thành ngữ động từ "la qua" - tức "mắng anh" (vì anh đã trêu chọc em). Ngay chữ "qua" cũng rất đa nghĩa: vừa là thành tố của địa danh La Qua, vừa là anh (qua chọc, qua bảo, la qua), lại vừa là bước sang (qua đường). Rõ ràng nghệ thuật chơi chữ của người Quảng trong câu ca dân gian này khá là độc đáo.

Hình thức tách từ được người Quảng dùng khá thuần thục trong ca dao - dân ca: "Nhìn xem nam bắc tây đông - Thấy thiên thấy hạ mà không thấy chàng - Về nhà đứng thở ngồi than - Cơm ta ăn không đặng nhớ đến nghĩa chàng đó chàng ơi", hay "Xa làm chi mà xa quanh xa quất - Xa làm chi mà xa tức xa tối xa vội xa vàng - Không cho thiếp thở chàng than đôi lời". Đến chữ nghĩa cũng chia rời, xa cách, huống chi đôi lứa đang yêu! Sở trường nói lái thường được tận dụng: "Một chữ anh cũng thi - Hai chữ anh cũng thi - May thời đậu trạng dẫu rớt đi cũng ông nghè hồi". Ông "nghè hồi" ở đây không phải là ông tiến sĩ vinh quy (nghè: tiến sĩ; hồi: trở về), mà là ông "ngồi hè" - vì đã thi hỏng tức vẫn còn là anh học trò nghèo kiết xác, không ngồi ngoài hè thì ngồi vào đâu được !

Tuy đất Quảng không phải là chiếc nôi của nghệ thuật tuồng, song người Quảng rất thích tuồng, bởi tuồng truyền thống có nhiều đặc trưng nghệ thuật khá phù hợp với chất chính trị mạnh mẽ quyết liệt của dân Quảng: tích tuồng nào cũng xoay quanh những cuộc tranh giành quyền lực chính trị, đầy ắp những thoán đoạt, phản loạn, mưu mô, xung đột giữa chốn triều đình và bao giờ cũng có ít nhất một vai anh hùng nghĩa hiệp; đạo cụ trên sân khấu tuồng chủ yếu là gươm đao, côn kiếm; giọng hát tuồng cơ hồ lúc nào cũng quyết liệt thét gào. Chính vì người Quảng nhạy cảm với chính trị như thế cho nên bên cạnh những câu ca dao - dân ca có nội dung chính trị hẳn hoi, chẳng hạn câu ca dao "Ai lên chín ngã sông Con - Hỏi thăm ông Hường Hiệu có còn hay không", hay câu hát "Đứng bên ni Hàn ngó qua bên tê Hà Thân nước xanh như tàu lá - Đứng bên tê Hà Thân ngó về Hàn phố xá nghênh ngang - Kể từ ngày Tây lại đất Hàn - Đào sông Câu Nhí bòn vàng Bông Miêu - Dặn lòng ai dỗ đừng xiêu - ở nuôi phụ mẫu sớm chiều có nhau" (hai chữ "nghênh ngang" đã công khai bày tỏ thái độ chính trị của nhân dân Đà Nẵng đang phải chung sống với kẻ thù), còn khá phổ biến trong thơ ca dân gian Quảng Nam - Đà Nẵng hiện tượng chính trị hoá ca dao - dân ca trữ tình.

Câu ca dao trữ tình quen thuộc "Trời mưa ướt bụi ướt bờ - Ướt cây ướt lá ai ngờ ướt em" được người Quảng chính trị hoá trở thành những câu trữ tình - chính trị: "Trời mưa ướt ngõ ướt đàng - Ướt em em chịu ướt Vệ quốc đoàn em thương", "Trời mưa ướt bụi mía mưng - Ướt em em chịu ướt anh dân quân em buồn", "Trời mưa ướt lá trầu vàng - Mưa ơi đừng ướt anh Vệ quốc đoàn nghe mưa"... Và có lẽ trong ca dao - dân ca Việt Nam, hiếm có câu ca dân gian nào có nhiều dị bản như là câu: "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say...". Có thể ban đầu đây là một khúc hát trữ tình, với hai dòng sau được thay đổi cho phù hợp với cảnh ngộ riêng của từng chủ thể: "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Em thương anh cha mẹ không hay - Như ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Kể từ ngày đó đã xa đây - Sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Lòng ta như chén rượu đầy - Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi". Đáng chú ý nhất là các dị bản: "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Thương nhau chưa đặng mấy ngày - Đã mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Hai đứa ta ơn trọng nghĩa dày - Chưa nên câu duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ thương", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về nằm nghĩ gác tay - Coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về đừng ngủ gác tay - Nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo"...

Xuyên suốt các dị bản này là tính khẳng định của sự lựa chọn, trước hết là lựa chọn trong tình yêu. Khi cô gái Quảng dám tự chọn lựa hạnh phúc "thương anh cha mẹ không hay" thì dẫu có "nghi binh" sánh mình với "ngọn đèn giữa gió biết xoay phương nào", thực chất cô cũng đã khẳng định cái hướng mà đời cô nhằm đến. Tính khẳng định của sự lựa chọn càng hai năm rõ mười hơn ở những cách nói: "kể từ ngày đó đã xa đây - sầu đêm quên ngủ sầu ngày quên ăn", hay "lòng ta như chén rượu đầy - lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi", hay "thương nhau chưa đặng mấy ngày - đã mang câu ơn trọng nghĩa dày bạn ơi", rồi "hai đứa ta ơn trọng nghĩa dày - chưa nên câu duyên nợ đã mấy trăm ngày nhớ thương". Song có lẽ tính khẳng định của sự lựa chọn đạt đến đỉnh điểm khi chủ thể trữ tình - dường như vẫn chính là cô gái Quảng - tự đặt bản thân trong quan hệ với người thứ ba: "ai", "nơi mô", từ đó mở ra cho người mình yêu khả năng lựa chọn:"coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em", "nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo".

Vì thế ngoài các dị bản trực tiếp được chính trị hoá như "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Anh hùng thước lụa trao tay - Nước non một gánh vơi đầy ai hay" có liên quan đến cái chết của cụ Hoàng Diệu, hoặc "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Tình non nghĩa nước bao ngày - Con trăng cõi Bắc đã đầy nhớ thương" ra đời vào thời gian đất nước bị chia cắt sau Hiệp định Genève 1954, thì với tính khẳng định của sự lựa chọn vừa nêu, các dị bản "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về nằm nghĩ gác tay - Coi ai ơn trọng nghĩa dày cho bằng em", "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Bạn về đừng ngủ gác tay - Nơi mô ơn trọng nghĩa dày bạn theo", thậm chí "Đất Quảng Nam chưa mưa đà thấm - Rượu hồng đào chưa nhấm đà say - Lòng ta như chén rượu đầy - Lời thề nhớ chén rượu này bạn ơi" cũng rất dễ dàng được chính trị hoá để trong những cảnh ngộ không thể nói thẳng được điều cần nói, người Quảng vẫn có thể kín đáo vận động chính trị đồng thời gián tiếp tự bộc lộ sự lựa chọn chính trị của mình.

Còn có thể kể thêm những câu ca dao - dân ca tưởng chỉ để nói về sự thuỷ chung chờ đợi của đôi lứa xa nhau có khả năng được chính trị hoá như bài Lý Đò ngang: "Ngó lại quê mình - Bởi em chèo thuyền - Trên sông cái - Em ngó lại quê mình - Chim trên cành còn đủ cặp huống chi mình lẻ đôi - Vì đâu đây với đó đã hai nơi - Chiếc đò ngang bằng chiếc đũa không lời nhắn đưa - Cây đa bến cũ đò xưa - Người thương có nghĩa nắng mưa ta vẫn chờ", hay câu hò khoan: "Sớm mai chàng hoá con chim trống đứng dựa bìa núi - Chiều lại thiếp hoá con chim mái đứng dựa bìa rừng - Nỉ non ba tiếng cho có chừng - Dầu xa muôn dặm biểu bạn đừng có xa"...

6 - Câu đố Quảng thường đậm đà màu sắc chính trị. Câu "Năm ông ngồi lại một bàn - Ông lo việc nước ông toan việc nhà - Bốn ông chịu tuổi lên ba - Còn một ông già chịu tuổi lên hai" vừa miêu tả năm ngón tay trên một bàn tay vừa thể hiện ý thức gánh vác - nói theo cách nói của các tác giả Đại Nam nhất thống chí là tinh thần"sốt sắng việc công" - của dân Quảng. Các câu đố về cây ngô: "Ba tháng cuốn cờ bồng con đỏ - Một phen cởi giáp cứu dân đen" hay về cái máng nước: "Trên vì nước dưới vì nhà - Lòng người ai rõ cho ta hỡi lòng" cũng mang ý nghĩa tương tự. Đương nhiên câu đố Quảng còn thể hiện rõ đặc tính ưa nói lái của người Quảng: "Hít vào, hít ra, hít một" - hít một là hột mít, "Cà vô, cà ra, cà nhột" - cà nhột là cột nhà, "Cúng trên núi, cúng mê, cúng mải" - cúng mải là cái mủng, "Cú trong nhà cú ra, cú hãi" - cú hãi là cái hũ, hoặc "May không chút nữa thì lầm - Cau dày không bẻ bẻ nhầm cau ranh" - cau ranh là canh rau...

7 - Vè Quảng chủ yếu cũng là vè chính trị, được người Quảng sử dụng làm vũ khí đắc lực để tuyên truyền cách mạng. Mỗi bài vè Quảng thường gắn với một biến cố chính trị hoặc với một nhiệm vụ chính trị nhất định. Vè Khâm sai - còn gọi là vè Sai đạo - ghi lại sự kiện Nguyễn Thân đem quân triều đình vào đàn áp Nghĩa hội Quảng Nam năm 1886: "Lẳng lặng mà nghe - Cái vè Sai đạo...". Cuộc biểu tình kháng thuế cự sưu - hay theo cách gọi của Phan Châu Trinh là Trung Kỳ dân biến - bắt đầu từ huyện Đại Lộc tỉnh Quảng Nam vào ngày 11 tháng 3 năm 1908 và sau đó nhanh chóng lan rộng khắp các tỉnh miền Trung. Với sự kiện 11 tháng 3, lần đầu tiên Quảng Nam trở thành nơi khởi phát một hình thức đấu tranh chính trị chưa từng có ở nước ta, một cuộc biểu dương lực lượng chính trị hùng hậu của nhân dân - xin nhấn mạnh là của nhân dân - một vùng đất nửa thế kỷ trước từng gánh vác sứ mệnh đánh thắng trận đầu, cầm chân giặc Pháp. Bài vè Xin xâu chống thuế: "Lẳng lặng mà nghe - Cái vè xin thuế..." đã phản ánh sinh động diễn biến và hào khí của sự kiện chính trị này. Hay như bài vè Tổng tuyển cử ra đời nhằm cổ động cho các ứng viên do Việt Minh giới thiệu trong cuộc bầu cử Quốc hội khoá đầu tiên của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà năm 1946: "Tống, Bôi, Hiến, Nhĩ, Diêu, Thao, Huệ - Viện, Xuyến, Sạ, Bằng, Thự cử tri"...

8 - Người Quảng thường xuyên phải đối diện với một thiên nhiên cực kỳ khắc nghiệt, nhất là vào khoảng tháng bảy gió nam thổi ròng hàng tuần lễ, đất cát khô rang, nông thôn cơ cực, dân cày đói vàng con mắt. Điều đó giải thích vì sao ngoài việc khái quát những kinh nghiệm nghề nông, tục ngữ Quảng Nam - Đà Nẵng còn hay nhắc đến cái ăn - đúng hơn là hay cảnh giác với cái ăn: "ăn không lo của kho cũng hết", "Ngày làm tháng ăn - Tháng làm năm ăn", "Ăn như tằm ăn lên", "Quần lãnh áo lương ăn lường gạo chợ", "Thấy họ ăn khoai mài vác mai chạy quấy", "Ăn bánh đúc đục mặt", "Ăn bữa giỗ lỗ bữa cày", "Ăn xưa chừa nay", "Liệu cơm gắp mắm", "Ăn ít no lâu ăn nhiều tức bụng", "Đời cha ăn mặn đời con khát nước", "Miếng ăn là miếng tồi tàn - Mất ăn một miếng lộn gan lên đầu", "Ăn một miếng tiếng một đời", "Ham ăn thì lú ham ngủ thì mê"... Rõ ràng những câu nói dân gian vừa nêu chứng tỏ người Quảng sợ mất nhân phẩm hơn là sợ thiếu miếng ăn!

*

* *

Thật khó lòng tách bạch trong tâm hồn người Quảng bây giờ đâu là phần lưng vốn văn học dân gian cả dân tộc ông cha xưa mang theo làm hành trang trên đường nam tiến và đâu là phần văn học dân gian bản địa mới được phóng tác hoặc sáng tác tại chỗ qua sáu trăm năm. Có điều người Quảng hôm nay có thể tự hào rằng mỗi câu hát, câu chuyện, câu nói dân gian mới được phóng tác, sáng tác suốt sáu thế kỷ vừa bám-trụ-giữ-đất vừa quảng-nam-mở-cõi đều in đậm dấu vân tay của tổ tiên mình, và đó chính là cách các thế hệ người Quảng đóng góp vào kho tàng văn học dân gian chung của đất nước.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #24
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

Rượu hồng đào chưa nhắm đã say

Trên đất Quảng Nam xuất hiện từ năm Hồng Đức thứ 2 (tháng 6-1471, do vua Lê Thánh Tôn đặt cho dải đất vừa chinh phục được, dài đến cuối huyện Tuy Phước - Phú Yên ngày nay). "Quảng Nam Thừa tuyên" có nghĩa là đất mở rộng về phía Nam, vâng lệnh vua để tuyên dương đúc hóa"(1) . Năm 1605, Nguyễn Hoàng tách vùng đất từ phía Nam đèo Hải Vân đến Bắc sông Thu Bồn (gồm các huyện Hòa Vang, Điện Bàn, Đại Lộc bây giờ) ra khỏi trấn Thuận Hóa để nhập vào trấn Quảng Nam đã có từ thời vua Lê. Đây là một quan niệm quy hoạch lãnh thổ rất hợp lý của chúa Tiên, bởi vì đèo Hải Vân - mà Lê Thánh Tôn đã hào sảng mệnh danh là "thiên hạ đệ nhất hùng quan" là một thực thể địa lý - lịch sử kỳ lạ của đất nước.

Đi từ phía Bắc vào, vượt qua khỏi dải đất hẹp phía Nam đèo Ngang, lên tới đỉnh đèo Hải Vân nhìn xuống, tôi thấy cái ý niệm "đất mở rộng về Phương Nam" chợt hiển hiện thành không gian bát ngát trải ra trước mắt đến tận chân trời, chân trời này mở tới một chân trời khác; và cứ thế tâm hồn tôi cứ rạo rực muốn theo chân tổ tiên rong ruổi về tận mũi Cà Mau. Từ đỉnh đèo đổ về phía Nam, Trường Sơn chĩa thành những mũi đá kề cận nhau, giống như một đoàn người khổng lồ xô ra biển, nghịch ngợm choãi chân đá sóng; sóng vỡ sôi réo nơi ghềnh đá như tiếng cười từ cuộc chơi miên trường của núi và biển. Cuối đám bụi nước mịt mùng kia, thành phố Đà Nẵng và những xóm làng Quảng Nam lượn mình trên một vịnh biển xanh thẳm uốn những nét cong hình cánh cung, tưởng chừng thấy được Đất Nước hình chữ S. Thảo nào từ cuối thế kỷ 17, thiền sư Trung Hoa Thích Đại Sán qua đây, đã nhận xét rằng " Nước Đại Việt kiến thiết đô ấp trên hình vòng cầu" vậy.

Trong một cuốn sách về đất Quảng, tác giả Lâm Quang Thự đã nêu một nhận xét mạnh mẽ một cách bất ngờ, rằng đèo Hải Vân là một cương giới địa chất của đất nước, giữa cấu trúc của thủy thành nham và phún xuất thạch. Bắc đèo Hải Vân trở ra là giang sơn kỳ tú tạo thành bởi chất liệu đá vôi, với những hang động, suối nước và hoa dại ( Vịnh Hạ Long, ải Chi Lăng, chùa Hương, động Phong Nha.. ); từ hòn Củ Hành dưới chân đèo Hải Vân về Nam là xứ sở hùng tráng dựng nên bởi hình khối chồng chất của đá gan gà trần trụi, rắn rỏi và thách thức (Ghềnh Ráng, Hòn Chồng, Định quán...)(2) . Hang động đá vôi là những công trình điêu khắc hoành tráng của sóng biển, còn quần thể đá gan gà là điểm dừng chân của những hòn đá lang thang qua cuộc hành trình dài dằng dặc của những kỷ nguyên địa chất. Đó là vẻ đẹp khác nhau giữa trí tuệ và nghị lực; giữa trực giác với lý trí; giữa huyền nhiệm và thực lại. Chia tay Huế trên đỉnh đèo Hải Vân, Thu Bồn có một giọng thơ ngậm ngùi thật lạ :

Tạm biệt Huế, với chiếc hôn thầm lặng
Anh trở về hoá đá ở bên kia

Sao hình tượng "hóa đá ở bên kia", trong câu thơ Thu Bồn cứ khiến tôi nghĩ đến đá gan gà. Không phải sao, từ diện mạo đến tâm hồn, từ chất mãnh liệt của người tính đến khí phách chiến sĩ, con người Thu Bồn là một khối đá vạm vỡ, dầu dãi và gan lì, thích phong trần hơn mọi thứ hoa văn chạm trổ nào khác.

Hải Vân đèo lớn vượt qua
Mùa xuân ai bỗng đổi ra nắng hè

Dọc đường giang hồ Bắc - Nam, Tản Đà đã một lần ngạc nhiên như vậy, khi từ Huế đi vào đất Quảng. Và tôi cũng ngạc nhiên. Mỗi năm tôi qua lại giữa Huế - Quảng bao nhiêu lần, lần nào cũng thấy lạ. Không hiểu sao, chỉ cách một ngọn đèo, mà chuyện giữa đất và đá, nắng và mưa, giọng Huế và giọng Quảng lại khác nhau đến như vậy.

Nhưng điều này cũng lạ, là nếu trên đời này có hai con người cốt cách tinh thần giống như in, thì đấy chính là hai nhà thơ bạn tôi, Thu Bồn và Phùng Quán .

Tôi trở lại "cái ngưỡng" của đất nước là đèo Hải Vân. Mỗi lần xe dừng lại trên đỉnh đèo trong lúc mọi người mải tíu tít chụp ảnh, tôi vẫn thích đứng riêng một mình, lặng lẽ nhìn con đường cũ nằm khuất trong cỏ dưới chân ải, trí óc cứ hun hút trong một ý tưởng, rằng vết đá rêu kia chính là di tích xa xưa của con đường sinh lộ đã đưa dân tộc đi vạn dặm về phương Nam, và nếu không có nó, thì số phận người Việt chắc đã khác. Đèo Hải Vân như một bí ẩn lịch sử hấp dẫn trí tò mò của tôi trước hết bởi vì nó tồn tại ngay chính trên mảnh đất sinh thành của tôi. Tôi lục lại tài liệu ngốn ngấu hết thượng vàng hạ cám như một sinh viên khoa Sử, về mọi thứ liên quan đến ngọn đèo này, và cuối cùng tạm thời đi tới một giải đáp cho chính mình.

Vậy thì, từ khi bộ tộc Kalinga nổi dậy tách ra khỏi quân Nhật Nam (thuộc lãnh thổ nước Văn Lang từ thời đại các vua Hùng) để thành lập một vương quốc riêng (năm 192, thời nhà Hán), cho đến đám cưới công chúa Huyền Trân (1306), trong hơn một nghìn năm dằng dặc ấy, biên giới phía bắc của Chiêm Thành di chuyển xuống nhiều lần, xa nhất là phía nam đèo Ngang (Bắc Quảng Bình, theo R.A. Stein), lúc thì ở Mũi Chu Mây (năm 359, Nam Thừa Thiên, theo G,Mapero), và lúc lùi về sâu nhất là ở Bắc chân đèo Hải Vân (năm 270, theo Dohamide). Thế nghĩa là, biên giới kia dù lúc dù lúc tiến lúc lùi tùy theo vận nước nhưng các triều đại vương quốc Chiêm chưa bao giờ chịu trao đèo Hải Vân vào tay người Việt. Dễ hiểu thôi, Hải Vân là một biên ải thiên nhiên không thể nào vượt qua nổi, và là cửa ngõ mở sâu vào lãnh địa của người Chàm. Đèo Hải Vân hiểm trở đến nỗi mãi cuối thế kỷ 17, theo Thích Đại Sán, "đi ngựa không được phải đổi sang võng. Dân ở dưới đèo rất khổ, quan dịch đi đông, bắt phu không đủ, người ta phải vào lùng bắt từng nhà"(1). Trong chiến tranh thời cổ, việc dùng bộ binh để đánh chiếm đèo Hải Vân hiển nhiên là một phương án liều lĩnh, khó thực hiện nổi. Và nhà Trần đã dùng một sức mạnh nghiêng thành khác để đạt được mục tiêu của mình, chính là Huyền Trân công chúa.

Vua Chàm Chế Mân đã đổi hai châu Ô - Lý để cưới cho được người đẹp thiên kim của Đại Việt mang về cung Chiêm. Thế nhưng tại sao cái đám cưới mở mang bờ cõi ấy lại bị trở ngại từ phía nhà Trần, dùng dằng kéo dài mãi 5 năm (l301-1306)? Sử sách giải thích rằng do trong triều ngoài nội phản về chuyện "tiếc thay cây quế giữa rừng"...Tôi rất lấy làm nghi ngờ về điều này. Nhưng cuộc hôn nhân chính trị vì lợi ích dân tộc vẫn là kế sách thường dùng của các vương triều Đại Việt thời đó; như Lý Huệ Tôn đã gả công chúa Ngạn Thiềm cho một tên giặc cỏ là Nguyễn Ngôn để làm " thế phên giậu" ở phía Bắc; và vua Trần Nhân Tôn cũng từng đưa Công Chúa An Tư (Cô của Huyền Trân) làm quà tặng cho tên tướng giặc Thoát Hoan, để "thư nạn nước". Thế thì để cho Huyền Trân về làm hoàng hậu của Chế Mân (vốn là hoàng tử Aritit anh hùng đã cùng cha đánh thắng Toa Đô) để tạo một liên minh làm phên giậu phía Nam cho Đại Việt (như trong cuộc chiến chống quân Nguyên vừa qua), lại được thêm " hai châu Ô - Lý vuông ngàn dặm" (1) – một đám cưới vàng như vậy, cớ sao cả trong triều ngoài nội cứ khăng khăng chống lại, để cho "cây quế" Huyền Trân cứ già đi trong cung Trần đến năm năm? Những suy nghĩ cố chấp kiểu ấy chỉ là cách suy nghĩ vụn vặt, không bao giờ đủ sức ngăn cản vận động tự thân của lịch sử, vốn luôn luôn đi tới bằng sức mạnh của những dòng sông lớn. Tôi tin rằng hai châu Ô - Lý là món quà sính lễ đã được ngã giá từ đầu cuộc hôn nhân chính trị, ngay trong cuộc Nam du của thượng hoàng Nhân Tôn; nhưng vấn đề còn lại chính là: " Biên giới phía nam châu Lý mở tới đâu?"Trong nhiều trường hợp, vì một lý do đặc biệt nào đó, lịch sử chỉ cho ta biết một nửa sự thật. Thí dụ, nhà báo W.Burchett (đã tham dự hội nghị Génève - 1 954) cho biết sự giằng co quyết liệt giữa hai bên để định ranh giới quân sự tạm thời giữa hai miền Nam - Bắc: Việt Nam đòi vĩ tuyến 13, pháp đòi vĩ tuyến l8; và cuối cùng là vĩ tuyến 17. Vấn đề vĩ tuyến 16 hoặc 17 là một vấn đề có tầm quan trọng mấu chốt. Quốc lộ số 9 chạy giữa hai tuyến này, nối liền Lào với bờ biển Việt Nam... .Có lẽ trong lịch sử đã từng diễn ra một kiểu " hội nghị Géneve thời nhà Trần" kéo dài, trong đó, giống như trường hợp đường 9, yếu tố quyết liệt được đặt lên bàn thương lượng giữa hai bên chính là đèo Hải Vân, ngọn đèo có vai trò chiến lược quyết định mà sau này, Dương Văn An trong sách Ô Châu cận lục đã đánh giá là "bền vững như chiếc khóa vàng, chính là nơi đầu não của miền Thuận Quảng"(2)

Hiển nhiên, không có chỉ dẫn sử học nào cho biết về một kiểu hội nghị nào như trên cả và tôi cũng không phải là nhà sử học.Đây là câu chuyện cao đàm khoát luận giũa Phùng Quán và tôi trong một buổi sáng mây bay ngồi uống rượu trên đèo Hải Vân; Quán mải say sưa về "tầm nhìn chiến lược" của nhà Trần; còn tôi thì cảm khái về cái giá sự hy sinh của Công Chúa Huyền Trân, " vì lợi cho dân- tình đem lại mà cân" truyền tụng trong câu ca Huế.

Dân ca Huế còn có bài "Lý Qua Đèo" rất nổi tiếng. Sao đang trên sông nước êm đềm giữa kinh thành, người ta lại nghĩ chuyện "qua đèo"? Đèo nào vậy? Và ngay dưới chân đèo mở vào đất Quảng là Nam Ô tức là phía nam "Châu ô"'?(1). Nếu vậy rõ ràng đây là lời thề khẳng định biên giới nhằm vào mốc chiến lược Hải Vân của người Việt thời Trần, giống như núi Thạch Bi (Phú Yên) thời Lê Thánh Tôn với dòng chữ "Chiêm Thành quá thử, binh bại quốc vong"(2) khắc trên bia đá.

Nhà Hồ mở rộng thêm đất Chiêm Động (Quảng Ngãi), lập thành bốn châu mới là: Thăng, Hoa, Tư, Nghĩa - di dân từ Thuận Hóa vào đất mới; ai đến châu nào phải khắc tên ở châu ấy vào cánh tay, hàm ý phải giữ đất tới cùng. Để bám trụ trên mảnh đất từ nay sẽ giữ chức năng bàn đạp cho cuộc hành trình Nam tiến lâu dài, Nhà Hồ có chính sách cấp trâu cho di dân và ban phẩm tước cho người nào có trâu đêm nộp cho nhà nước (tôi liên tưởng đến tiểu thuyết Con trâu của nhà văn Nguyễn Văn Bổng). Cuộc chiến đấu sống còn của người Việt trên vùng đất phía Nam đèo Hải Vân đã diễn ra quyết liệt trong nhiều thế kỷ sau đó, sử sách đã ghi chép.

Vùng đất nước phía nam đèo Hải Vân tên gọi là Quảng Nam; đã từ xưa nổi tiếng về sản vật quý lạ. Đảo Đại Chiêm có tổ yến, nguồn Thu Bồn có quế, nguồn Chiên Đàn có mật ong, núi Thiết Khoáng có mỏ sắt, núi Bồng Miêu có mỏ vàng, núi Đức Bố có mỏ đồng, Nông Sơn co mỏ than, núi Ngũ Hành có cẩm thạch, núi Sơn Trà tương truyền có ngọc,"đêm đến thường chiếu sáng xuống biển " ( Đại Nam nhất thống chí ). Tất nhiên có sa khoáng, loại đá rắn người Chàm dùng tạc tượng, khắc bia, nghìn năm không mòn. Đặc biệt là vàng, sông suối núi non nào cũng sản sinh, làm nên sức giàu có kỳ lạ của vương quốc Chiêm Thành và vương triều của các chúa Nguyễn ở Đàng Trong ngày xưa. "Trà tế cũng như Trà Nô là những ngọn núi có kim khí rất vượng, thường có một đường từ trong đất đi xiên xéo ra, khí vàng bốc lên trên, cũng có đường đi thẳng, đường đi qua núi khác" ( Lê Quý Đôn – Phủ Biên tạp lục).Sách Ô châu cận lục nói về mối liên hệ giữa sản vật và con người, nhắc lại bài viết của Hàn Dũ, rằng "kể cả thứ bạch kim, đan sa, thủy ngân và thạch anh, rồi có những bậc trung tín, tài đức sản sinh ở địa phương, đều không đáng lấy làm lạ". Sách nói trên của Dương Văn An bàn thêm rằng "các khí linh chu lưu khắp vũ trụ, nhỏ thì phát tiết ra vạn vật, lớn thì hun đúc thành nhân tài. Sản vật đá quý nhân thì tài tất phải hay".

Nghĩ về thuyết "địa linh nhân kiệt" của người xưa, bảo rằng đúng thì tôi không dám tin, nhưng bảo rằng không đúng tôi quả cũng không dám tin. Thế nhưng mối tương quan giữa nết - đất và tính người, giữa mảnh đất và con người, là một thực tế thể hiện rất rõ ở nhiều vùng đất nước.

Trên những gềnh đá sát biển phía Nam đèo Hải Vân lên tận núi Ngũ Hành, mọc tràn một loại cây lạ, thấy nói là thủy tổ của loài xương rồng lá dài đan võng. Cây thuộc họ Lô hội, tên khoa học là Aloedichotoma vì thân và cành cứ chia đi, gốc thành hai thân, thân hai cành, cành hai nhánh, mỗi nhánh lại tiếp tục chia đôi. Tôi lên Ngũ Hành Sơn, sửng sốt nhìn cây, như nhìn thấy dáng một con người buộc phải lựa chọn " hoặc là... hoặc là...". Vâng, một dáng người rất Sếch-xpia, vững, cao, thẳng tấp, luôn luôn bị đẩy và thế chọn lựa "tồn tại hay không tồn tại " ( to be or not to be ), và không còn cách nào khác.

Nhìn lại lịch sử giữ nước thời cận đại đến nay, với cuộc kháng chiến oanh liệt của Nguyễn Duy Hiệu, Trần Cao Vân, Thái Phiên..., "Quảng Nam đã trở thành một trong những ngọn cờ của cả nước đấu tranh chống xâm lược"(1). Và nếu có thể truy tặng cho " Quá khứ", tôi nghĩ rằng Quảng Nam thêm một lần nữa, nhận tám chữ vàng quang vinh cho thế kỷ trước: "Trung Dũng Kiên Cường - Đi Đầu Diệt Pháp".

Tôi nhớ câu thơ chất ngất hào khí của Thu Bồn, đã trở thành khẩu hiệu xuống đường của sinh viên thời chống Mỹ.

Cho con biển rộng sông dài
Cho con lưỡi kiếm đã mài ngàn năm.

Đúng thế, Tổ quốc đã trao cho Quảng Nam một cửa biển và một thanh kiếm. Cầm lưỡi gươm thân phụ truyền, sáu bảy trăm năm đứng tấn nơi hải khẩu chiến lược, người Quảng Nam chưa bao giờ thiếu sót trong bản lĩnh bảo vệ Tổ quốc. Trên từng dòng quốc sử, đấy là điều khẳng định.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #25
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

TƯỢNG ĐÀI CHỮ QUỐC NGỮ


Đầu thế kỷ XVII các giáo sĩ người Âu bắt đầu chính thức đến truyền đạo ở Việt Nam. Địa điểm họ muốn đặt chân đến đầu tiên là Hội An lúc bấy giờ họ thường biết dưới cái tên Hoài phố, Hải phố hay Hai phố mà họ đọc theo nhiều giọng Haifo, Haito, nhưng thông dụng nhất là Faifo. Họ chọn Hội An vì đây là thương cảng nổi tiếng ở Đàng trong, tàu bè ngoại quốc đi lại buôn bán tấp nập, thuyền Bồ Đào Nha thường xuyên đến giao dịch mà giáo đoàn Bồ Đào Nha chủ quản vùng truyền đạo Đông á thì đương đóng ở Macao đi lại rất thuận tiện, hơn nữa ở Hội An đã có sẵn một số người Nhật theo ki tô giáo có thể giúp họ làm đầu cầu tiến về các miền khác. Nhưng chiếc tàu buôn Bồ Đào Nha từ Macao đến Đàng Trong chở theo phái độ đầu tiên gồm ba tu sĩ Dòng Tên do linh mục Francesco Buzomi dẫn đầu lại ghé cửa Hàn ngày 18-1-1615. Thế là các giáo sĩ lại đặt chân đầu tiên lên đất Đà Nẵng mãi mấy tháng sau họ mới đến Hội An. Đàng trong lúc bấy giờ dưới quyền cai trị của chúa Nguyễn Phước Nguyên mà Dinh Trấn Quảng Nam cai quản 3 tỉnh Quảng Nam, Quảng Ngãi, Qui Nhơn, thì do con cả Chúa là thế tử Nguyễn Phước Kỳ trấn thủ. Dinh Trấn đóng tại Thanh Chiêm (nay thuộc xã Diên Phương, huyện Điện Bàn tỉnh Quảng Nam) nên thường gọi là Dinh Chiêm hay Dinh Chàm. Đây là cơ quan đầu não hành chính, mọi phép xuất nhập phải được ban bố ở đây. Vì thế các Giáo sĩ phải đến Dinh Chiêm để liên hệ, để cho được việc họ đặt ở đây một cơ sở giao cho linh mục Francisco de Pina cai quản. F. de Pina đến Quảng Nam năm 1967, ông này rất thạo tiếng Việt, là người đầu tiên để tâm nghiên cứu dấu giọng tiếng Việt và ngữ pháp Việt Nam. Chúng ta thường đánh giá cao công tập đại thành chữ Quốc ngữ của Alexandre de Rhodes, nhưng người có công tiên khởi ghi âm tiếng Việt bằng mẫu tự La tinh lại là F.de Pina. Pina là thầy dạy tiếng Việt của Alexandre de Rhodes và nhiều linh mục khác ở tại Thanh Chiêm. Thế nên ta có xem Thanh Chiêm như có một trường dạy chữ Quốc Ngữ đầu tiên ở Việt Nam, và Hội An - Đà Nẵng - Thanh Chiêm đã có vinh dự là miền đất khai sinh chữ quốc Ngữ.

Nói đúng ra các Giáo sĩ tạo lập chữ Quốc ngữ theo mẫu tự a.b.c không phải người Việt Nam, cũng chẳng phải là công cụ để họ truyền giáo. Công cụ truyền giáo chính là tiếng Việt, tiếng bản xứ, chữ Quốc ngữ chẳng qua là lối ký âm để giúp họ học tiếng Việt cho mau chóng. Muốn cứu vớt linh hồn của một dân tộc làm cho họ trở lại Đạo như cách nói của các Giáo sĩ thì họ buộc phải nói được tiếng bản xứ. Điều này hơn ai hết Alexandre de Rhodes biết rất rõ hiệu quả của cách làm này : "Tôi cả quyết rằng hiệu quả của việc trình bày các màu nhiệm trong ngôn ngữ của họ thì vô cùng lớn lao hơn khi giảng bằng thông ngôn: thông ngôn chỉ nói điều mình dịch chứ không sao nói với hiệu lực của lời nói từ miệng nhà truyền đạo có thánh thần ban sinh khí" (Hành trình và truyền giáo - UBĐKCG thành phố Hồ chí Minh, 1994, tr. 56). Như vậy chữ Quốc ngữ được họ tạo ra chỉ là một phương tiện để họ nhanh chóng tiếp cận công cụ là tiếng Việt. Phương chi lúc bấy giờ văn tự được dùng chính thức là chữ Hán, thứ đến là chữ Nôm, muốn truyền Giáo, muốn phổ biến kinh sách cho giới trí thức thì phương tiện nhanh chóng nhất là chữ Nôm hoặc ít ra cũng là chữ Hán, chữ quốc ngữ đã ai biết mà dùng, muốn dùng được cũng phải đợi một thời gian dài. Đó là con đường Maionca đã chọn với gần 40 tác phẩm bằng chữ Nôm. Thế nên có thể nói rằng chữ Quốc ngữ ở buổi sơ khai chỉ là phương tiện, mà phương tiện thì tùy theo tính cách, mục đích người sử dụng mà tốt hoặc xấu. Vì vậy mà ngày nay chữ Quốc ngữ có thể đi cùng dân tộc trở thành văn tự chính thức của nước nhà đem lại nhiều ơn ích cho dân ta, điều đó khiến ta không tưởng nhớ đến công lao những người đã tạo ra nó và không thể không kỷ niệm nơi họ đã sống để khai sinh chữ Quốc ngữ cụ thể là, theo thiển nghĩ của chúng tôi, nên có một tượng đài kỷ niệm chữ Quốc ngữ đặt ở nơi đã có vinh hạnh đón nó chào đời.

Nơi đó thiết tưởng không đâu có ý nghĩa và thuận tiên hơn Thanh Chiêm. Vì sao vậy?

Về mặt địa lý, Thanh Chiêm đã từng Dinh trấn của các tỉnh phía nam Đàng trong, cũng từng là tỉnh thành của Quảng Nam từ 1803 đến 1833, từng là phủ trị của huyện Điện Bàn. Thanh Chiêm là cửa ngõ của Hội An, Đà Nẵng kể từ phía Nam ra.

Về mặt văn hóa, Thanh Chiêm đã là nơi đặt Văn Miếu (1825) biểu tượng cho sự sùng bái học vấn của cả tỉnh, nơi lập đàn Tiên Nông, nơi làm Lễ Tịch điền để cổ xúy cho nền nông nghiệp tỉnh nhà. Vinh danh hơn nữa Thanh Chiêm đã từng là nơi thiết lập nhà Tỉnh học với những Đốc Học lừng danh như Nguyễn Dục từng làm Quốc Tử Giám Tế tửu, lễ bộ Hữu Tham tri sung Dục Đức Đường Giáo thọ, Nguyễn Đình Tựu lãnh Quốc Tử giám tế tửu, thăng Hồng Lô Tự Khanh, hai lần làm Đốc học Quảng Nam, Trần Đình Phong bậc thầy của Ngũ Phụng Tề Phi đồng khoa Mậu Tuất 1898.

Về mặt du lịch, Thanh Chiêm là điểm tham quan nối dài của Hội An. Thanh Chiêm sẽ là thị trấn vệ tinh của Hội An. Với số lượng du khách càng ngày càng đông Hội An cần phải mở rộng vành đai của mình. Một tượng đài chữ Quốc ngữ nằm ở Thanh Chiêm cùng một bảo tàng thời chữ quốc ngữ sơ khai sẽ khiến du khách thích thú dừng chân theo kiểu vừa du ngoạn vừa mở mang kiến thức, thêm vào đó nếu những di tích đã nêu ở trên được trùng tu, cùng với sự triển khai những lễ hội như lễ cày Tịch điền... có thể tăng thêm phần hấp dẫn đối với du khách.

Về mặt kinh tế, Tượng đài chữ quốc ngữ Thanh chiêm sẽ là tiền đề sự phát triển kinh tế vùng Điện Phương, mì Phú Triêm một thời vang bóng với những quán mì liền nhau, sầm uất đến cả cột kèo cũng vàng ánh lên theo sắc mì chắc có cơ hưng thịnh trở lại và biết đâu chẳng có một phố mì từ Phú Triêm kéo lên quốc lộ l, bởi ngày nay du khách từ Hội An đi tiếp Mỹ Sơn thích đi băng hương lộ Điện Phương hơn là ngược dòng Vĩnh Điện. Bê thui Cầu Mống, dưa hấu Đông Khương, đồ đồng Phước Kiệu đã được du khách chiếu cố từ lâu nay lai càng khởi sắc hơn.

Mong rằng một ngày nào đó tượng Đài chữ Quốc ngữ Thanh Chiêm sẽ mở rộng vòng tay đón chào du khách cùng với nụ cười rạng rỡ của người dân miền đất khai sinh chữ Quốc Ngữ.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #26
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

Cái dễ thương của đồng dao Quảng Nam

Trên đường vào Nam, tổ tiên chúng ta đã mang theo bài hát trò chơi, trò diễn..., cùng lúc, có những sáng tạo mới về đời sống tinh thần, về công việc lao động ở vùng đất mới này.

Đi theo ông bà, cha mẹ, trí nhớ của con nít - ở những lứa tuổi từ 6 - 7 tuổi đến 11-12 tuổi, vẫn gắn bó với Chào con rắn, Ma gia đuổi bắt, Đánh nẻ, Đập chuồn chuồn, Gọi nghé, Cù cưa cút kít.

Dừng chân ở đất Quảng Nam, người lớn sáng tác cho con nít. Con nít thay đổi, thêm bớt vốn liếng đồng dao và sáng tác, làm giàu có thêm cái kho tàng chơi hát-học-vui của mình.

Đồng dao là thể loại ca hát hồn nhiên, bình dị, mà em bé nào cũng biết và yêu thích. Con nít yêu đồng dao như yêu cảnh thiên nhiên của đồng quê, yêu ánh nắng chan hòa làm rực rỡ thêm cảnh sắc thiên nhiên. Đồng dao làm cho tâm hồn các em thêm đẹp, thêm tươi.

Mỗi người chúng ta khi nhớ lại tuổi thơ của mình với bao kỷ niệm êm đẹp, chắc hẳn không ai quên được kỷ niệm về những câu hát ấy. Ngày ấy, ta thường mượn câu hát, câu vè để diễn đạt suy nghĩ của mình.Tại sao lại như vậy nhỉ ? Có lẽ vì những câu hát ấy thật dễ hiểu, thật ngộ nghĩnh đối với tuổi thơ.

Có hai cô bé rủ nhau đi học cùng đường, ai cũng muốn cho là đi đường mình thì thích hơn. Thế là có câu hát để dọa nhau :

Tau đi ngõ ni có hương có hoa
Mi đi ngõ nớ có ma đón đường!

Cô bạn kia chẳng chịu thua kém, khi trả lời lại :

Tau đi ngõ ni có bụi tùm hum
Mi đi ngõ nớ có hùm chụp mi!

Hai đứa đi hai ngả. Chẳng đứa nào gặp ma, gặp hùm. Nhưng, nếu lần sau có diễn lại cảnh này, thì những câu hát trên vẫn được lặp lại một cách hào hứng như chưa từng hát bao giờ. Có lẽ đây cũng chính là một đặc điểm của thể loại. Các em có thể hát đi hát lại hàng trăm lần chỉ một câu đó mà không thấy nhàm chán. Cách ví von, lối nói có vần điệu đã gây được hứng thú khi các em hát những câu ấy.

Các em đứng vòng quanh, chơi - hát Phủi tóc bạn, hát nói :

Đầu đứa mô có rơm có rác
Kêu tau bằng bác, tau phủi đầu cho
Kêu tau bằng o, tau cho cái này.

Vừa vỗ tay vừa nhảy tưng tưng theo câu hát, hát đi hát lại nhiều lần. Và, "tau cho cái này", có nghĩa là cho một quả thụi đáng yêu vào mạng sườn hoặc lưng bạn. Đôi khi, muốn hát - chơi bài này, một em nào đó đã cố ý kín đáo cho một cộng rơm hoặc một chiếc lá lên đầu tóc bạn mình, để cả nhóm nhảy vòng quanh bạn vô ý đó như một trò chơi thú vị.

Mùa hè, ở rừng, nhận ra khu nào lắm ve ve, tối đến, các em rủ nhau đi bắt ve ve, rang ăn. Đợi thiệt tối, các em nhóm một đống lá khô, châm lửa, xúm xít ngồi chồm hổm quây hình vòng tròn, vỗ tay vào miệng thành tiếng oa oa òa òa, rồi hát nói từng âm.

Các em dùng vòm miệng như một hộp cộng hưởng. Những tiếng oa oa òa òa, tiếng hát rung lên dập dồn, lung linh - âm điệu và màu âm là lạ, mơ hồ. ánh sáng lôi cuốn, hấp dẫn.

Oa oa òa òa
Oa oa òa òa
Hu hu ve ve
Xuống đây mà nghe
Ăn xôi, ăn chè
Ăn mít, ăn me
Không xuống không nghe
Tau đánh mi què
Tau ví chạy re
Oa oa òa òa, oa oa òa òa

Từng đôi em một, ngồi bệt trên đất. Tay nắm tay, bàn chân chỏi vào nhau, hát - chơi :

Cù cưa kút kít
Con nít rúc ra
Ông già rúc vô
Cù cưa kút kít
Con nít may ra
Bà già may vô
Cù cưa kít kít
Ăn ít no lâu
Ăn nhiều tức bụng
Cù cưa kút kít
Con nít nhà ai
Thì về nhà nấy.

Nhưng, chưa ai vội về nhà nấy được. Có bạn nào đó, do bụng bị ép vào đẩy ra đã té tủm. Một em vừa hát vừa chỉ vào từng bạn :

Xù xì xụt xịt
ốc mít lùi tro
Ăn no té tủm
Ba ông quan chánh
Xúm đánh phèn la
Biểu phải chỉ ra
Đứa mô té tủm ?
Đứa mô té tủm ?

Đồng dao thế giới không có câu hát này.

ở nhà quê, trẻ em yêu thương con nghé. Từ Bắc vào Nam, nhiều câu hát gọi nghé. Con nít Quảng Nam gọi nghé :

Huê...huê...
Huê con nghé nhỏ
Lạc đàn theo chó
Lạc ngõ theo trâu
Nghe mẹ rống đâu
Đâm đầu mà nhảy
Huê...huê...
Huê...huê...
Huê con nghé nhỏ
Ham cỏ bỏ bầy
Huê con nghé nhỏ
Ham chơi xa đàn lạc mẹ
Huê...huê...

Có thể nghe thấy ở đồng dao chất liệu hò khoan trộn chút ít vè hơi oán, hô thai và cái chất của lý tươi sáng, hóm hỉnh ở sắc bùa.

Con nít ở nhà quê chơi- hát-học-vui nhiều.

Còn gì thú vị bằng một buổi sáng đẹp trời, các em vắt vẻo trên lưng trâu, dong chúng ra đồng. Đàn trâu được thả trên một bãi cỏ xanh mượt, mải mê gặm cỏ. Còn các em, lúc này hoàn toàn thảnh thơi, tụ tập nhau lại một góc bãi cỏ, chơi trò chưng cộ.

Trò chơi-hát này như sau : một lớp ngồi dưới cầm tay nhau xếp thành vòng tròn, rối nhiều lớp nữa cũng cầm tay nhau, ngồi chồng lên vai lớp dưới, cùng hô "dố dậy", tất cả đều đứng lên thành trụ cao, vừa đi vòng tròn, vừa hát.

Đồng dao này có hai khúc : một khúc thiết thực nói về trẻ chăn trâu với mùa màng, một khúc kể những vật thường thức ở nông thôn.

Khúc I :

Dố dậy, dố dậy
Cây gậy bốn phương
Ra đường mạnh mẽ
Bầy trẻ chăn trâu
Bay lâu thẳng cánh
Nó mạnh như sên
Đi trên mặt nước
Đi trước đón rồng
ông đi có cồng
Bà đi có mõ
Trên trời nghe rõ
Làm gió làm mưa
Làm mùa bát ngoạt
Dố dậy, dố dậy!

Khúc II :

Trời mưa lâm dâm
Cây trâm có trái
Con gái có duyên
Đồng tiền có lỗ
Bánh tổ thì ngon
Bánh hòn thì béo
Cái kéo thợ may
Cái cày làm ruộng
Cái xuồng đắp bờ
Cái lờ thả cá
Cái ná bắn chim
Cây kim may áo
Cái giáo đi săn
Cái khăn bịt đầu.

Hát hết khúc này, trở lại đoạn đầu, bắt vào câu "bầy trẻ chăn trâu...". Cứ như thế mà hát mà quay tít vòng tròn cho đến khi nào cộ đổ

Đồng dao "hỏi tuổi" về 12 con giáp diễn ra như một hoạt cảnh. Các em ngồi vòng tròn, mỗi em sẽ là một con vật trong đồng dao, khi được hỏi đến, phải bắt chước động tác của con vật ấy, đi, bò, hoặc nhảy vòng quanh về chỗ cũ của mình.

Một em chỉ vào một bạn, hỏi : - Tuổi Tí con chi?

Trả lời : - Tuổi Tí cho chuột.

Các em hỏi : - Con chuột nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu chút chít

(đóng vai con chuột, vừa bò vừa kêu chút chít).

Các em nói :

- Chút chít chi mày
Tau chặt khúc đầu
Tau thầu khúc giữa
Tau bửa lấy xương
Làm rường làm cột
Tau lột lấy da
Bỏ sông Ngân Hà
Còn chi chút chít !

Các em hỏi một bạn khác : - Tuổi Sửu con chi ?

Trả lời : - Tuổi Sửu con trâu.

Các em hỏi : - Con trâu nó kêu làm sao?

Trả lời : - Nó kêu ngá ngạ.

(đóng vai con trâu, khệnh khạng đi, dương đôi sừng).

Các em nói : - Ngá ngạ chi mày...

Cứ như thế, hát-nói hỏi, trả lời đóng vai con vật, cho đến con heo, mỗi con phải có tiếng kêu riêng. Con rồng kêu "rống rộng" con rắn kêu "rắn rặn" thì thật lạ và rõ là con nít !

Câu hát đố nói đúng, phát âm đúng, cho dẻo miệng :

- Ông ống nồi lội qua sông
Đóng cáí gông vào mông đít
Tròng trà tròng trành
Trâu trèo trâu trợt
Thậm thà thậm thụt
Trò trụt trò trìa
Trâu tra làm trúc bụi tre
Trách trời trơn trợt, xa trò mấy trăng
Ăn ngày ba bữa
Tắm rửa ba lần
Sạch sẽ toàn thân
mà răng ngứa xót, ngứa xót

-Nhà bà Đỏ có nuôi con gà mái đen nhảy ổ
Bà Đỏ sao không lót ổ cho con gà mái đen bà Đó đẻ.

- Cầm cây rựa quéo trèo lên hòn núi quẹo
đốn cây củi queo
đem vềnấu cám heo.

Sinh hoạt vui chơi là môi trường của trẻ em. Trong dạng sinh hoạt chơi-hát-học-vui, đồng dao luôn gắn với các trò chơi, các lối chơi. Chỉ thông qua trò chơi, đồng dao mới có điều kiện phổ biến và lưu truyền.

Nhưng, ngay trong sinh hoạt vui chơi ấy của các em, chúng ta vẫn thấy hiện lên cái bản chất xã hội của nó. Nói một cách khác, mỗi đồng dao "bài hát-trò chơi" của các em đều nhằm mục đích rèn luyện và giáo dục các em trở thành những thành viên xã hội thật sự trong tương lai.

Chọn ngõ, Phủi tóc bạn, Xù xì xụt xịt thể hiện tình bạn, Hu hu ve ve, Họa bù rầy đùng là trò chơi có ích, ông trùm Dé ơi, Đố tuổi rèn luyện trí thông minh, Cù cưa kút kít, Dố dậy, dố dậy rèn luyện thể lực tính nhanh nhẹn, Tau đố bay ăn, ăn cháo quỵt phê phán chế nhạo cái chướng tai gai mắt; Hò nghé ngơ, Người và trâu ở đợ, Dỗ sáo ăn mồi giáo dục lòng thương yêu con vật gắn bó với cuộc sống của thế giới trẻ thơ : con sáo, con gà, con mèo...,những gia súc gần gũi: con nghé, con trâu..., lòng bác ái trong con người Việt Nam.

Qua cái dễ thương của đồng dao đất Quảng Nam, chúng ta nhận ra, trong chơi-hát-học-vui cho con nít, cha ông ta đã dành một khoảng lớn cho sự tự sáng tạo của con nít, sáng tạo theo suy nghĩ, nhận thức và phương pháp của chúng. Chúng ta thấy con nít thích thú những bài, câu, đoạn, mà theo lôgíc của chúng là linh tinh, hay chí ít, cũng chẳng có ý nghĩa gì. Nhưng, chính những bài ta có khi theo lôgíc "nhảy cóc" như vậy lại đáp ứng yêu cầu tập cho dẻo miệng như kiểu "tròng trà tròng trành trâu trèo trâu trụt", đáp ứng yêu cầu "đặt vè bẻ vần" , "bẻ làn nắn điệu" của các em.

Đồng dao cổ truyền bao giờ cũng mang tải một cơ chế nhạc đậm đà màu sắc và tính chất dân tộc. Con nít tiếp nhận và hát-múa-chơi-học đồng dao như một bộ mã di truyền của dân tộc.

Cơ chế âm nhạc này lại được đưa vào một kết cấu phức tạp với các yếu tố cũng mang bản sắc dân tộc, như trò chơi, điệu nhảy, trò vui, đố học, khiến con nít rất thích thú, và lại còn dành cơ hội cho trẻ em, kích thích chúng sáng tạo thêm.

Trong xã hội xưa, đồng dao là bài học vỡ lòng về âm nhạc, vỡ lòng với ý nghĩa là những bài học đầu tiên trong cuộc đời, nhưng cũng là những bài tập sáng tạo âm nhạc dân tộc đầu tiên. Từ tuổi sơ sinh tới lúc lên ba, lên năm, con nít chỉ được tiếp thụ âm nhạc dân tộc một cách thụ động qua hát ru của người lớn. Chỉ với đồng dao, trẻ em mới bắt đầu tự mình ca hát, nhảy múa, chơi, học và sáng tạo. Nên hiểu rằng, khái niệm "âm nhạc cho trẻ em" bao gồm cả hai thể loại bài hát là hát ru và hát tré em.

Một nhà nghiên cứu lịch sử văn hóa cho rằng : "Mỗi dân tộc mang vào trò chơi những đặc tính trong cách suy nghĩ mà dân tộc đó vốn có. Có biết bao nhiêu trò chơi mà con người đã nghĩ ra, đếm không xuể. Cũng như dân ca, truyện cổ tích, chúng rất nhiều, rất nhiều. Các trò chơi, cũng như con người, sống, yêu và chết. Rồi chúng tái sinh".

Dạy đồng dao cho trẻ là dạy các em chơi-hát-múa-học, dạy tiếng Việt cho trẻ. Riêng vốn từ, trẻ em có dịp nắm vững những từ thuần Việt, nghĩa là những từ làm nên bộ phận nòng cốt của tiếng Việt, chúng vốn có từ lâu đời, và có sức sống mãnh liệt. Cho nên, dù đời sống hôm nay đổi mới thế nào, con cháu chúng ta cũng cần biết để góp phần xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc như NQ TW5 (khóa VIII) đã xác định rõ.





HÁT SẮC BÙA NGÀY XUÂN



Đời sống mới việc gì cũng mới
Ngày tân xuân công việc thêm xuân
Theo lệ xưa phép điệu có chừng
Tam tiết nhựt vui xuân đều khắp"
(Bài chúc xuân)

Mỗi khi tết đến, xuân về, mai vàng nở rộ, đội hát sắc bùa làng Lệ Trạch, nay gọi là Lệ Bắc, thuộc xã Duy Châu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam lại cất tiếng hát, giữa tiếng trống vỗ, hòa cùng âm điệu rộn ràng từ các bộ sinh tiền, bộ phách tre... đem lại không khí sôi nổi, đông vui. Còn trẻ em thì cứ bu quanh, kéo thành rồng, thành rắn, lố nhố giữa đêm xuân đèn đuốc sáng trưng khắp mọi nẻo đường. Đó là hình ảnh quen thuộc ở làng Lệ Trạch hơn hai mươi năm nay kể từ sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng.

Hát sắc bùa là loại hình sinh hoạt văn nghệ dân gian có tính chất lễ nghi nông nghiệp pha tạp với pháp thuật đạo giáo chủ yếu diễn ra vào dịp Tết Nguyên đán hàng năm ở hầu hết các tỉnh từ Bắc vào Nam. Riêng ở làng Lệ Trạch, một làng quê nghèo khó nằm ven sông Thu Bồn, theo ước tính, hát sắc bùa hình thành muộn nhất cũng vào đầu thế kỷ XIX. Một nghệ sĩ chân đất hát sắc bùa có tiếng của làng, ông Trương Tích, năm nay đã 74 tuổi, cho biết đời ông cố của ông, tức ông Trương Văn Hiếu đă hát rồi. Thời ấy, dàn nhạc của đội hát sắc bùa ngoài trống cơm còn có trống sấm, đờn cò, kèn tiểu và bộ phách tre. Do nhạc cụ khá cồng kềnh nên hễ đội vào nhà nào nhà nấy đều đem chiếc chiếu đã chuẩn bị sẵn trải ra ngay giữa nhà để mọi người ngồi quanh vừa chơi nhạc vừa hát. Những bài hát sắc bùa xưa thường có nhiều từ cổ, từ Hán việt, Hán Nôm không phải dễ hiểu đối với mọi người. Thế nhưng chuyện ấy chẳng quan trọng. Chủ yếu người hát có hay hay không mới thành vấn đề. Hát sắc bùa thường phải tuân theo hệ thống các tiết mục, làn điệu. Đầu tiên đến ngõ hát bài mở ngõ :

" ...Nhứt khai thiên môn thiên môn lộ
Nhì khai địa lộ địa lộ thường
Tam trấc quỷ /ộ quỷ lộ khứ
Tứ độ tứ độ nhơn dân an..."

Ngày xưa, ở vùng nông thôn Quảng Nam, nhà cửa hầu hết đều tranh tre sơ sài. Nhà xây, nhà ngói là... của hiếm, cả làng giỏi lắm được một, hai nhà. Là nhà tranh tre, cửa trước thường là cửa chống, mở cửa người ta dùng đoạn tre để sẵn bên hông cửa chống lên. Lúc đóng, một tay giữ cửa, một tay rút cây, từ từ hạ xuống là xong. Nhiều nhà tết thấy đội hát sắc bùa ghé nhà mình liền chơi..."cắc cớ" là đóng chặt cửa dù cả đội đã đứng đầy trước sân, đèn đuốc sáng trưng. Không phải họ không muốn đội đến hát giúp vui mà kỳ thực là thử đội có tài hát bài chống cửa hay không. Tất nhiên trong những tình huống này, đội sắc bùa đã chuẩn bị sẵn :

"Mở ngõ đà đặng chân bước vào đây
Giả ơn trước chủ sau thầy
Có ham vui thì chống cửa này
Khai môn mở cửa
Chống cửa chống cửa
Nhà mở có lửa
Mở thắp đèn ra
Chúng tôí ở xa
Đi chơi năm mới..."

Một trong những nội dung không thể thiếu được đối với việc hát sắc bùa thời trước là dán bùa hay còn gọi là trấn bùa cho gia chủ. Bùa thực ra chỉ là mảnh giấy nhỏ do đội sắc bùa chuẩn bị sẵn, trên đó họ vẽ ngoằn ngoèo sao cho càng "bí hiểm" càng tốt. Còn bài hát dán bùa cũng không kém phần huyễn hoặc, phi thực tế.

"Đầu độí giáp ất, chân đạp bính đinh
Đứng giữa tiền đình hét một tiếng
Tà ma yêu quái tiêu tán.
Ta rèn hiệu khí vâng lệnh Ngọc Hoàng
Gầm một tiếng đã vang
Hét một tiếng nghiêng trời chuyển đất..."

Sau bài dán bùa và dán bùa, đội hát sắc bùa hát chúc mừng năm mới cho gia chủ. Tùy theo nghề nghiệp của gia chủ, đội sẽ chọn bài hát về nghề nông, dệt vải hay chài lưới trên sông... Điều không nói ra nhưng ai cũng biết là nội dung bài hát toàn những chuyện tốt đẹp, đáng ước mơ : Người làm nông thì được mùa, nhà cửa lúc nào cũng đầy ắp lúa khoai; Thợ dệt vải, vải đắt hàng, tiền vào rủng rẻng trong túi; Dân chài đánh cá ngày nào cũng được nhiều...Ngoài ra, theo yêu cầu của gia chủ, đội hát sắc bùa có thể hát thêm một số bài góp vui như bài đá gà, bài dạy con...Và, giàu nghèo cũng ba ngày tết nên đến nhà nào, đội không những được tiếp đón tử tế, niềm nở mà còn được mời trà rượu đầu xuân kèm theo thủ tục biếu ít tiền gọi là trả tí công sức. Số tiền này không nhất định, tùy vào lòng hảo tâm của gia chủ. Tuy nhiên, những nhà khá giả có thể cho "nằng nặng" một chút. Nhà nghèo, thôi thì... của ít lòng nhiều. Thật ra, đội sắc bùa hát tết là hát cho vui xóm, vui làng. Còn tiền nong không đặt nặng. Rồi, khi đi ra, sang nhà khác, đội hát bài đi ra, nội dung chúc gia chủ một năm mới an khang, thịnh vượng hơn năm... cũ !

Từ năm 1945 đến năm 1975, cuộc kháng chiến chống Pháp rồi chống Mỹ diễn ra ác liệt. Đội hát sắc bùa làng Lệ Trạch không còn hoạt động nữa. Mãi đến năm 1978, đúng 33 năm bị gián đoạn, ông Trương Tích và một số nghệ sĩ chân đất mê hát sắc bùa ở làng mới lập lại đội hát sắc bùa để hát góp vui trong ba ngày tết cổ truyền. Bây giờ, nhạc cụ chỉ có trống cơm, sinh tiền và phách. Các bài hát sắc bùa cũng được đổi mới, phù hợp với tình hình thực tế. Như bài "chúc xuân" chẳng hạn :

"...Ngày xuân đến tiết xuân thời
Cảnh người sắc đẹp vui vầy vẻ vang
Nhìn xem phong cảnh mỹ quan
Vườn lê phụng múa song lan hạc chầu
Cửa nhà trang bị oai nghi
Đường thời tráng lệ kịp thời phong thơ..."

Việc dán bùa trong hát sắc bùa xưa được thay vào đó là tiết mục dán cờ. Nói là vậy nhưng trong ba ngày tết ai không treo cờ sẵn. Cho nên, cũng hiếm người yêu cầu tiết mục này. Nhưng, xét cho cùng, những chuyện ấy chẳng quan trọng khi đội còn nhiều bài hát hay hơn, hấp dẫn hơn sẵn sàng phục vụ bà con trong những ngày đầu năm mới thiêng liêng, trang trọng.


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 30-10-2006   #27
Ảnh thế thân của LSB_Lãng Tử
LSB_Lãng Tử
-=[ Lương Sơn Ẩn Sĩ ]=-
Vô Tình Lãng Tử
Gia nhập: 27-10-2006
Bài viết: 2.983
Điểm: 245
L$B: 1.108.827
Tâm trạng:
LSB_Lãng Tử đang offline
 
Thumbs up

LỄ HỘI BÀ THU BỒN


Làng Thu Bồn thuộc xã Duy Thu, huyện Duy Xuyên, tỉnh Quảng Nam có lăng thờ một nữ thần phù hộ cho những người sống nghề sông nước, gọi là Lăng Bà Thu Bồn.

Thu Bồn là một trong những dòng sông lớn của miền Trung Việt Nam. Cách đây hai ngàn năm, người Sa Huỳnh và sau đó là các Vương triều Champa đã dể lại những dấu vết đặc sắc của một nền văn minh rực rỡ, dọc theo hai bên bờ sông, từ Cửa Đại cho đến thượng nguồn.

Ngày 12 tháng 2 âm lịch hằng năm là ngày lễ Bà Thu Bồn. Trước đây, các làng chài từ Thừa Thiên - Huế đến Quảng Ngãi, Bình Định đều cử những đội đua ghe về tham gia lễ hội. Lễ hội kéo dài 3 ngày đêm với nhiều nghi thức phong phú, sôi động.

Lăng Bà tuy đã mang nhiều nét hoang phế bởi thời gian, nhưng dân làng Thu Bồn vẫn một lòng thành kính trước uy linh của Bà. Người già kể rằng : "Hồi xưa, Bà thiêng lắm ! ". Có người làng đến xin Bà cứu một người đẻ khó, Bà nhập vào xác đồng rồi cầm cây đèn cầy chạy băng qua cánh đồng rộng mà đèn vẫn không tắt, đến nơi bà đưa tay vuốt một cái, thai sổ ngay. Lần khác, năm Mậu Thìn (1928), làng Thu Bồn mất mùa, mọi người bàn nhau lễ hội Bà năm ấy làm đơn giản thôi. Đang bàn thì có một con bò đi vào giữa sân rồi nằm xuống, trên sừng có treo một xâu ba ngàn quan tiền. Mọi người biết là Bà cho tiền và lấy tiền tổ chức hội, còn bò thì thả vào rừng. Có người theo dõi thấy bò đi vào khu tháp Mỹ Sơn rồi nằm xuống và hoa thành đá.

Lần sắc phong đầu tiên dưới triều Minh Mạng, Bà Thu Bồn không có tên. Bà nhập đồng ở giữa kinh thành Huế để chất vấn. Quan phụ trách hỏi rằng làm thế nào để tin bà thiêng ? Bà bảo : Sẽ làm cháy chợ Đông Ba ! Một lúc sau có người chạy vào báo chợ đang cháy. Quan xin đừng cháy nữa, lập tức có một trận mưa như trút nước. Tờ sắc phong của triều đình nhà Nguyễn cho Bà Thu Bồn ghi : "Thiên Y A Na diễn phi chu ngọc tôn thần, hộ quốc túy dân, hiển hữu công đức tiết mộng ban cấp tôn thần".

Như vậy, Bà Thu Bồn chính là một nữ thần bảo hộ của người Chàm, và người Việt đã tiếp nhận sự linh thiêng của vị nữ thần này với một niềm tin mạnh mẽ và được duy trì qua các lễ hội thành kính hàng năm.



NÓI LÝ VÀ HÁT LÝ CỦA ĐỒNG BÀO CƠ TU Ở QUẢNG NAM






Tiếng Cơ-tu gọi là paprăbhma, không rõ ai đã dịch ra là nói lý. Theo một số cán bộ Kinh sống lâu năm biết sâu tiếng Cơ-tu thì cho rằng dịch như vậy chưa chính xác, nhưng chúng ta dùng quen miệng, quen tai, ngầm hiểu rằng nói lý không phải là nói lý lẽ, là biện luận dài dòng, bắt bẻ kẻ đối thoại với mình buộc họ phải chấp nhận quan điểm của mình là đúng. Nói lý chỉ là nêu lên một hình ảnh thể hiện được toàn diện và bao quát nhận thức của mình đối với sự việc, không kèm theo lý lẽ, không có phân tích, nhưng lại làm cho người nghe cảm thấy ý kiến của mình là đúng và chấp nhận.

Sau các cuộc họp hội lớn, cuộc họp giải quyết nợ nần, giải quyết tranh chấp đất đai, rừng, suối, thường có giết heo, giết bò, trâu; hoặc sau đám cúng quan trọng, khi rượu đã ngấm ngà ngà, các bên đối thoại thường cất tiếng hát qua lại để bày tỏ bụng gan của mình, nhắn nhau làm đúng lời hứa hẹn. Các đêm có trăng, khi trời trong mát, các chàng trai, cô gái chưa vợ, chưa chồng thường rủ nhau ra chòi rẫy chuyện trò, tìm hiểu nhau, hẹn hò xe tơ kết tóc, hứa giữ tình chung thủy, xây đắp mộng vàng. Họ nói chuyện thủ thỉ tâm tình, và hát những câu hát trữ tình qua tiếng trầm bổng của "đàn môi" (một loại nhạc cụ đồng dài độ 8-10cm, có lưỡi gà mỏng như lá lúa), người hát để đàn môi trên môi, dùng một ngón tay gảy nhẹ, làm cho lưỡi gà rung lên và khéo léo hát vào tiếng rung đó. Không có câu hát sẵn, phải ứng khẩu hát nên vần, nên điệu, phải nêu cho được cái hình ảnh đẹp đẽ nhất, sâu sắc nhất, bộc lộ một cách kín đáo nỗi lòng của mình. Hát như vậy gọi là hát tình ý với nhau của đôi nam nữ (theo tiếng Cơ-tu Bhnooch hoặc Bh'bh'ooch mà ai đó đã dịch ra là hát lý).

Mới nghe qua, chúng ta có thể lầm tưởng rằng nói lý, hát lý của đồng bào Cơ-tu là nói ví dụ, là hát hò khoan theo điệu và kiểu của dân tộc, không đơn giản như vậy. Hình ảnh nêu ra nghe gần gần, xa xa, có nhiều ẩn ý, có chiều sâu về tâm lý và nhận thức, hình ảnh đó quen thuộc với mọi người nhưng lại buộc người nghe phải suy nghĩ để thấy hết mọi khía cạnh của hình ảnh đó. Thật là độc đáo, muốn nói lý, hát lý hay, sâu sắc, trước hết phải hiểu vấn đề nêu ra một cách tường tận. Phải chọn hình ảnh thật chính xác, thật "chết lý" làm cho người nghe không thể vin vào những sơ hở để bắt bẻ hoặc hiểu lầm. Nói một cách khác, người nói lý và hát lý hay, ngoài việc ăn nói lưu loát, nhanh trí tìm ra vần, biết lên bổng xuống trầm đúng lúc, đúng điệu, thì điều cơ bản là phải hiểu cho rành rọt đất nước, tài nguyên, hiểu xã hội, con người đang sống ở vùng đất đó. Nói tên một con suối phải biết đó là con suối cát hay đá, nước trong hay đục, sâu hay cạn, bốn mùa có nước hay chỉ có trong mùa mưa. Biết tường tận như vậy thì khi nghe người hát nêu tên con suối là biết ngay họ nói đến cái tốt, cái trong sạch, cái bền bỉ thủy chung, hay là cái xấu, cái dơ bẩn, cái tạm thời không ổn định. Cây lan biểu hiện sự yêu mến, cây kiền kiền, cây lim biểu hiện tính kiên cường vững chắc. Nêu tên con khỉ là con vật phá hoại mùa màng, phá hoại cuộc sống, phá táo tợn hơn con heo rừng, là kẻ thù của sản xuất, ngoan cố nhất, khó trừng trị nhất.

Nêu lên con người nhịp tạ (một cách đánh thanh la bằng đồng) là nêu lên hình ảnh kẻ nhát gan, run sợ, vì người nhịp tạ giỏi, điêu luyện, có hồn nghệ sĩ, là vừa nhịp tạ, vừa nhớm chân, cúi xuống, ngẩng lên, toàn thân rung lên như tiếng tạ, đó là một hình ảnh kẻ quá sợ hãi, tay run bần bật. Cùng một hình ảnh, nhưng từng vùng, từng lúc ý nghĩa có khác nhau; người có uy tín, ăn nói vững vàng nhưng lại nói, lại hát những điều mới nghe như ngớ ngẩn, vậy phải hiểu sau cái ngớ ngẩn là cái gì, ý đồ của người nói là thế nào. Không tính toán sâu sắc, thì có thể người nói, người hát muốn nói đen ta lại hiểu lầm là trắng, muốn nói phải ta hiểu lầm là trái, họ phản đối ta tưởng họ tán thành. Đó là điều hết sức phức tạp, hết sức khó khăn trong nói lý, hát lý.

Nói chung đồng bào đều biết nói lý, hát lý, biết từ lúc nhỏ, từ lúc gùi được nước uống, biết cầm cán rựa, con dao tham gia làm rẫy. Nhưng nói lý, hát lý sâu xa, nhiều tầng, nhiều lớp, pha lẫn tiếng Cơ-tu và tiếng Kinh, nói lý và hát lý để đả thông tư tưởng, giải quyết được công việc thì mỗi bản, mỗi thôn, mỗi vùng chỉ có một vài người. Nói lý, hát lý xem ra rất khó, nhưng hiểu được nói lý, hát lý càng khó hơn. Người hát lúc cất cao giọng ngân nga, lúc hạ giọng, hát lầm thầm trong cổ họng, có lúc nói chậm từng câu, từng tiếng, có lúc dồn dập, đúng điệu, đúng phong cách.

Hát là phải hát có vần, phải xuôi vần, thuận tai, cho nên người hát có lúc dặm thêm nhiều tiếng đệm không có lời có nội dung, với lời chỉ để lấy vần, thì không nắm được ý nghĩa câu hát hoặc hiểu sai lệch. Trước đây, trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, phần đông anh chị em cán bộ Kinh đều biết tiếng dân tộc, nhưng biết đủ để nói chuyện, để giải thích chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước cho đồng bào nghe. Trong lúc công tác, anh em thường dùng một số hình ảnh tương đối đơn giản để kết luận các buổi thảo luận học tập để giúp cho cán bộ cơ sở và đồng bào dễ hiểu, dễ nhớ nội dung các bài đă học. Cũng có thể gọi là một cách nói lý. Nhưng trình độ hiểu tiếng nói của anh chị em chưa đến mức để hát lý và hiểu hát lý, trừ một số rất ít anh chị em có khả năng hơn.

Thường sau các cuộc họp giữa thôn này, thôn khác, xã này, xã khác, hay các cuộc gặp để giải quyết cưới xin, nợ nần, giải quyết một số vụ mất đoàn kết, những vụ tranh chấp đất rừng, khe suối, nhất định có kết thúc bằng hát lý. Cả ngày, cả buổi gặp nhau, hai bên trình bày ý kiến, lý lẽ của mình,bàn qua cãi lại nhất trí một số điểm. Có thể còn có một số ý kiến khác nhau, cả hai bên đều chờ ý kiến của người có uy tín nhất của mỗi bên, tất nhiên người đó thường không kết luận ngay, mà chờ đợi đến tối uống rượu, hát lý. Qua câu hát, ý kiến sẽ được trình bày rõ ràng, cụ thể, kết thúc luôn cuộc họp mà hai bên đã thảo luận và làm theo. Cơm nước xong, người chủ thôn bản chế trà mời khách. Câu chuyện xoay quanh việc làm rẫy, bắt cá, bắt chim, săn thú rừng, việc về miền xuôi buôn bán, đổi chác. Khoảng 20 hay 21 giờ đêm, chủ nhà cho dọn thịt ngon, cá ngon để làm mồi nhấm rượu, rượu sắn, rượu bắp hoặc có khi rượi tà đìn, tà vạc (là rượi được lấy nước trong buồng non cây đoát, và thân cây tà đìn có ngâm vỏ cây chuồn).

Ở vùng thấp, việc mua bán với tư thương người Kinh thuận lợi hơn thì chủ thôn bản cho mua thêm rượu chai, rượu trắng đựng trong canh nhựa. Người chủ tiệc tự rót rượu, ly đầu tiên tự uống để ra hiệu rằng là rượu này không có vấn đề gì nghi vấn, rồi sau đó rót rượu mời từng vị khách, mà trước hết là người cao tuổi, người có uy tín; nếu là rượu cần, thì những vị khách đặc biệt được mời cầm cần trước, rồi sau đó mời các đại biểu khác. Không khí trong đình bắt đầu ồn ào, náo nhiệt. Mời qua, mời lại, một vòng, hai vòng, ba vòng. Câu chuyện bắt đầu, rượu càng vào, lời càng ra, lại nói chuyện làm ăn trau đổi, buôn bán xen kẽ với một vài ý kiến về cách giải quyết vấn đề đã thỏa thuận ban ngày. Tuy nhiên, nhiều ý kiến rất dè dặt, chạy quanh lề, dò ra ý tứ nhau. Người chủ tiệc cho dọn thêm thức nhấm, thêm rượu, rồi chọn cơ hội thuận lợi nhất để cất tiếng hát "hát khai mạc" : " ô,ô, ô, adô... cáeer...".

Câu hát của người chủ tiệc không gì quan trọng, nói một cách chính xác, đó là một công thức, mà người chủ tiệc nào cũng phải hát như vậy. Nói theo kiểu hát Tuồng, thì câu hát của người chủ tiệc là câu "giáo Tuồng". Trước hết, là lời chào mừng các vị khách, sau khiêm tốn xin lỗi vì thôn bản mình còn nghèo, nhà không đủ rộng, việc tiếp khách còn vụng về, đàn bà nấu cơm không dẻo, thịt không béo, rượu không ngọt, thuốc xắt không nhỏ, tội nghiệp cho thôn bản, chỉ có tấm lòng mến khách, có bụng dạ đoàn kết, muốn làm anh em như con cháu trong một nhà,... Hát xong, người chủ tiệc xin lỗi vì hát không thạo,lời lẽ thô thiển, giọng hát ồm ồm. Câu hát "khai mạc" như một hồi chuông nhắc mọi người bớt nói chuyện. Các gia đình trong thôn bản vội vã dọn dẹp rồi kéo nhau rủ ra đình làng nghe hát, nghe cách giải quyết công việc và kết luận của người lớn. Cả ngày họ không dự họp, bây giờ họ được phép vào đình làng để nghe. Số thính giả này phần lớn là đàn bà và trẻ em, trình độ hiểu biết về hát lý còn non kém, họ xúm quanh các đại biểu, vừa nghe vừa học tập, có chỗ nào khó hiểu là hỏi nhau, nhất là hỏi các cụ già, rồi trao đổi nội dung, tìm hiểu "cái ý" của câu hát.

Điều thú vị ở chỗ, cuộc hát lý vừa là cuộc so tài về văn nghệ giữa hai bên, vừa là cuộc đấu khẩu lý lẽ, để giải quyết công việc, vì vậy hai bên đều âm thầm sắp xếp lực lượng, ai hát trước, ai hát sau, ai kết thúc. Bên này hát một câu, bên kia hát đáp laị một câu, thính giả cùng nhau bàn luận, trao đổi ý nghĩa câu hát. Từng cặp trổ tài, tuy hát cỡ nhỏ, cỡ vừa đều lên tiếng. Khi trời đã về khuya, rượu cốt trong các ché đã bày ra, thì "chủ soái" của hai bên phải lên tiếng để kết thúc cuộc hát lý, kết luận cuộc họp cả ngày. Đó là điều mà mọi người đang chờ đợi. Các tay hát cự phách này, mỗi người chỉ hát một câu, nhưng lời hát điêu luyện, hình vừa đẹp, vừa mới, ý tứ sâu xa, tóm tắt được ý kiến của mọi người. Có thể nói cả đình làng đều im lặng, mở rộng tai để thu nhận lời hát. Người sáng ý nắm được cái lý, thấy được cách giải quyết vấn đề, thấm thía cái hay, cái tinh túy của hình ảnh nêu ra. Ai chưa hiểu hết thì về nhà suy nghĩ thêm, hoặc trao đổi nhau để thống nhất. Sau câu hát cuối cùng chấm dứt, bà con trong thôn bản ra về. Trong đình làng lúc này, bếp lửa được thổi cao hơn, chiếu mới, đẹp được trải thêm ra mời khách nghỉ lưng sau một ngày thảo luận.

Tập quán nói lý, hát lý trong đồng bào Cơ-tu đã có từ lâu đời, trở thành một phong cách thể hiện tình cảm, lý trí của đồng bào, thành một nghệ thuật dân gian mà mọi người đều ưa chuộng. Nghệ thuật ấy điêu luyện đến mức nói ra, hát ra đồng bào hiểu nhau, thông cảm nhau rất dễ dàng, sâu sắc, nhưng kẻ địch lại không hiểu hoặc hiểu sai lệch. Trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, đồng bào Cơ-tu dùng kiểu nói lý, hát lý để qua mắt, qua tai địch, trao đổi ý kiến với nhau, thông báo tin tức cho nhau, cam kết với nhau mà kẻ địch có tai như điếc, có mắt như mù, nghe họ chửi mà tưởng họ hoan hô tán thướng. Còn cán bộ Kinh công tác ở vùng đồng bào Cơ-tu lại biết vận dụng kiểu nói lý, hát lý để giáo dục, thuyết phục quần chúng nghe theo lời Đảng, lời Bác Hồ để làm cách mạng, mở rộng và củng cố khối đoàn kết, đề cao cảnh giác đối với địch, phân biệt rõ thù, bạn, ta để có hướng và biện pháp hành động đúng đắn.

Ngày nay, trong hòa bình xây dựng quê hương, đất nước, cán bộ dùng hát lý để tuyên truyền, giáo dục đồng bào nhận thức sâu sắc các chủ trương, chính sách, pháp luật của Đảng và Nhà nước để xây dựng cuộc sống mới ở vùng đồng bào dân tôc Cơ-Tu


Chữ ký của LSB_Lãng Tử

Tài sản của LSB_Lãng Tử
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 00:51
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,26642 seconds with 15 queries