Ông Đỗ Huy Uyển là một người hay chữ nổi tiếng ở đất Nam Thành (Nam Định). Sau khi đỗ cữ nhân năm Canh Tý (1840), sĩ tử đều tin là Uyển sẽ đỗ đầu khoa thi hội năm sau (1841). Gia đình ông cũng nghĩ như thế, thân sinh ông là cữ nhân Đỗ Huy Cảnh làm tuần phủ ở Trung Việt, nhân trong lúc về hầu vua Thiệu Trị đúng vào dịp Kinh đô đang chuẩn bị mở thi Hội, gặp nhân viên hội đồng sắp đi chấm thi, Huy Cảnh mau miệng nói:
- Năm nay tôi có thằng con lớn sắp đi thi Hội, các bác phải về xem lại sách mới chấm nổi văn nó, cú đừng có hồ đồ mà cháu nó cười cho đấy!
Câu nói trong lúc cao hứng đã đến tai những người sẽ đọc quyển khoa thi hội năm ấy (hai người giữ vai trò quan trọng là Trương Đăng Quế và Phan Thanh Giản) mấy ông đều lấy làm phật ý.
Khi vào thi Hội, các quyển thi đều rọc phách, việc chấm bài rất chu đáo. Đến khi hồi phách quyển của Đỗ Huy Uyển bốn kỳ cộng lại được 17 phân đáng đỗ đầu. Nhưng hội đồng sực nhớ lời nói của Huy Cảnh lonh chưa hết giận nên dù không thể đánh hỏng được nhưng nhất quyết không cho Huy Uyển đỗ cao. Họ cố ý tìm trong quyển của Huy Uyển những chữ sơ sót để chỉ trích. Tìm mãi trong bài kim văn bỗng thấy có ba chữ "đáp thiên khiển" nghĩa là: "Vua phải sửa mình để tạ lỗi với trời". Các quan dâng sớ bẻ ba chữ ấy là [khiếm trang] và chỉ cho Huy Uyển đỗ gần cuối bảng (chỉ hơn được Phạm Xuân Quế ở Quảng Binh).
Thấy tên mình suýt nữa đội bảng, Đỗ Huy Uyển lấy làm nhục, toan trả lại sắc Phó bảng để kho sau thi lại đỗ cao hơn, lúc ấy bạn bè mới cho ông hay vì thân sinh ông đã cao hứng lở lời xúc phạm đến quan trường nên ông phải nhận lấy cái hậu quả ấy. Huy Uyển vở lẽ nên không trả nữa.
Sau đó Đỗ Huy Uyển làm quan đến chức biện lý bộ hình. Con ông là Huy Liệu có thực tài, thận trọng trong mọi việc ứng xử, đỗ Hoàng giáp. Huy Liêu nổi tiếng là người giỏi văn chương và có khí tiết. Huy Liêu từng làm phụ đạo cho vua Hàm Nghi. Hằng ngày ông vào Nội đọc sách và dẫn nghĩa cho vua nghe, khi về thì ông lại ở trong nhà Tôn Thất Thuyết dạy cho Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp học. Khí tiết của Huy Liêu có một phần ảnh hưởng đến vua Hàm Nghi, Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp.
Truyện 20
Nước nhớp phải lấy máu mà rửa
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Năm 1916, vua Duy Tân cùng các nhà yêu nước Thái Phiên và Trần Cao Vân tổ chức khởi nghĩa chống thực dân Pháp. Việc tuy không thành, vua bị đày sang đảo Rê-Uy-ni- Ông, Thái Phiên và Trần Cao Vân bị tử hình, nhưng tinh thần yêu nước của nhà vua và hai ông Thái, Trần vẫn sống mãi. Trong dân gian vẫn truyền tụng nhiều mẫu chuyện nói lên nổi ưu tư mất nước của ông vua trẻ và quyết tâm chống giặc ngoại xâm của ông.
Năm 1907 vua Thành Thái yêu nước nên bị giặc Pháp truất phế đày vào Vũng Tàu. Hoàng tử Vĩnh San lúc ấy mới 8 tuổi, giặc Pháp tôn ông lên làm vua, lấy niên hiệu là Duy Tân, để chúng nhân danh ông đè đầu cưỡi cổ bóc lột người Việt Nam. Chúng tưởng rằng nhà vua nhỏ tuổi, giặc nói gì ông cũng nghe. Nhưng không ngờ mới một ngày ngồi trên ngai vàng, bộ mặt của cậu bé 8 tuổi hoàn toàn thay đổi. Cậu bé Việt Nam 8 tuổi này tỏ ra không muốn làm một ông vua bù nhìn. Chẳng bao lâu sau, giặc phải làm một nhà thừa lương ở Cửa Tùng xa Kinh đô hàng trăm cây số để cho Duy Tân ra đó chơi đùa, sao nhãng bớt chuyện làm vua.
Ở Cửa Tùng, giữa cảnh trời cao bể rộng, vua Duy Tân không thể quên được lý do vì sao vua cha bị đày, ông lại càng không quên trách nhiệm làm vua của ông đối với nổi khổ cực lầm than của dân. của nước. Một hôm ông ngồi vốc cát biển lên chơi, hai tay bẩn. Một ông quan thị vệ bưng nước đến cho ông rửa tay. Vừa thò tay vào nước rửa lỏm bỏm, ông vừa nhìn ông quan thị vệ hỏi rằng:
- "Tay nhớp lấy nước mà rửa. Nước nhớp lấy chi mà rửa?"
Ông quan sợ quá, nhìn ông hai môi mấp máy mà không nói được nên lời. Nhà vua thông cảm cho người quản gia tội nghiệp, ông tự trả lời:
- "Máu!"
Một lần khác, một ông quan đại thần ra thăm vua, thấy nhà vua có vẻ buồn bực, ông liền bày cần câu đưa vua đi ghe ra biển câu.
Ra đến biển, vua mới buông câu thì lưỡi câu đã bị mắc. Nhà vua vừa lần gỡ câu vừa hỏi dò ý ông quan đại thần được nhà vua rất tin cậy, bằng một câu đối:
"Ngồi trên nước không ngăn được nước,
Buông câu ra đã lỡ phải lần!"
Biết ý nhà vua muốn hoạt động cứu nước, ông quan đại thần sợ nguy hiểm cho vua bèn đối lại, khuyên vua không nên có ý nghĩ táo bạo ấy:
Sống ở đời mà ngán cho đời,
Nhắm mắt lại đến đâu hay đó!"
Biết được tinh thần cầu an của ông quan đại thần, từ đó vua Duy Tân không bao giờ thổ lộ tâm tình với ông này một lần àno nữa. Nhưng ý muốn cứu nước của nhà vua lại được nhân dân địa phương biết đến rất nhanh. Lúc ấy có ông Khóa Bảo - một người hoạt động yêu nước ở Quảng Trị - đã tìm mọi cách để được đến gặp nhà vuạ.. Gặp nhau vua tôi rất mừng. Ông Khóa đã kể hết những chuyện tai nghe mắt thấy về tội ác của giặc Pháp bóc lột dân ta và nổi lầm than khổ ải của dân mình, nhà vua nghe chuyện và đã khóc.
Nhờ Ông Khóa Bảo mà đảng bí mật của Thái Phiên và Trần Cao Vân biết được vua Duy Tân đang muốn hoạt động cứu nước. Hai Ông đã rất công phu, giả người đi câu hẹn gặp nhà vua và bàn với nhà vua kế hoạch cứu nước. Vua Duy Tân chấp nhận mọi ý kiến của hai nhà yêu nước và hối thúc hãy hành động nhanh lên để giàng được cơ hội tốt.
Vua Duy Tân cũng như hai nhàyêu nước Thái, Trần, tinh thần yêu nước, căm thù giặc có thừa, nhưng thiếu một đường lối cứu nước tiên tiến, thiếu một phương pháp tổ chức thích hợp nên cuộc khởi nghĩa hồi tháng 5 năm 1916 đã thất bại, những người cầm đầu bị dìm trong biển máu.
Lúc giặc vây bắt nhà vua tại một căn nhà gần núi Thiên Thai, nhà vua vẫn bình tĩnh, saÜn sàng nhận mọi sự đối xử tàn bạo của kẻ thù. Bọn giặc thấy một vật gì cồm cộm bên hông giắt trong áo nhà vua, chúng loay hoay muốn soát. Nhà vua hiểu ý, chỉ cái vật ấy và nói với tên Khâm sứ và tên chánh mật thám người Pháp rằng:
- "Mấy Ông tưởng cái ni là súng lục hả? Không phải mô. Tui mà có súng thì tui bắn mấy Ông chết hết rồi, đây là cục lương khô thôi!"
Bọn giặc bị hạ nhục nhưng chúng cũng được yên tâm. Tên Khâm sứ đưa vua Duy Tân về giam trong đồn Mang Cá của chúng. Trên đường đi, chúng hỏi nhà vua:
- "Nhà vua có ân hận gì về cuộc phiêu lưu vừa rồi không?"
Vua Duy Tân đáp một cách thản nhiên:
- "Có chớ!"
Tên Khâm sứ mừng rỡ hỏi tiếp như hỏi một cậu học trò:
- "Ân hận như thế nào?"
Vua Duy Tân đáp không một chút ngại ngùng:
- "Vì ta chưa đánh được người Pháp mà đã bị bắt!"
Không khuất phục được ý chí của vua Duy Tân, chúng bắt đem nhà vua về giam. Giặc Pháp làm áp lực, bắt triều đình và gia đình vào nhà giam thuyết phục nhà vua hãy bỏ ý chí cứu nước để chúng sẽ đưa nhà vua trở lại ngai vàng. Vua Duy Tân nói rõ ý muốn của mình:
- "Ta saÜn sàng trở lại ngai vàng, nhưng muốn ta trở lại, nước Pháp phải thi hành những điều khoản tự chủ của Việt Nam trong hòa ước 1884, nước Pháp bảo trợ cho nước Việt Nam chứ không phải bảo hộ nước Việt Nam. Phải coi ta là một ông vua trưởng thành, trên ta không có hội đồng Phụ chánh. Pháp không được nhân danh ta làm những điều thuộc quyền của ta!"
Điều kiện của vua Duy Tân đưa ra quá cao đối với bọn thực dân, vì thế chúng đã quyết định đày ông đến một nơi xa xứ là đảo Réunion tận bên trời châu Phi. Đến lúc Ông sắp lên đường, bọn Pháp lại cho người đến ban một ân huệ cuối cùng. Tên tay sai Pháp thưa:
- "Thưa ngài, chúng tôi biết trong nội khố, ngài còn một số tiền lớn, ngài lại có một tủ sách tiếng Pháp rất nhiều. Ngài có cần lấy một ít tiền cầm tay và số sách để đọc dọc đường không?"
Vua Duy Tân đáp:
- "Ta làm gì có tiền, Tiền trong nội khố là tiền của dân. Ta là người tù của Pháp, Pháp không nuôi được một người tù sao mà cần phải cầm tiền theo. Còn nếu người Pháp biết điều, muốn để cho tù nhân đọc sách thì người hãy lấy cho ta bộ sách cách mạng Pháp 1783 của Michelet và phải lấy cho đủ bộ!"
Tên tay sai đi gặp vua Duy Tân về trình bày lại với Pháp, bọn Pháp ngao ngán thở ra:
- "Không thể nào thỏa hiệp được với con người này".
Sau đó nhà vua vào Nam xuống tàu đi đày cùng một chuyến với vua cha sang đảo Réunion.
Ba mươi năm sau, vua Duy Tân đã bị giết một cách bất ngờ.
Hôm khánh thành chín cái đỉnh trước Thế Miếu, vua Minh Mạng nói với hoàng tử thứ mười là Miên Thẩm rằng:
- Chín chữ Hán ghi trên chín cái đỉnh này là miêu hiệu của chín vị vua. Cái đỉnh chữ Cao để ngay gian giữa, còn tám cái kia (tức Nhơn, Chương Anh, Nghị, Thuần, Duyên, Dụ, Huyền) để tả hữu tám gian. Vị vua nào ở ngôi mà băng (chết), nhà nước thờ vào một gian (trong Thế Miếu), ngày ấy đời của vua mới được hoàn toàn kết liễu.
Miên Thẩm thưa rằng:
- Tâu, còn làm tôi hy sinh với vua với nước, con thấy bên Tàu, có họa hình vào Kỳ - lân - các; sao Việt Nam chỉ làm miếu để thờ vua?
Minh Mạng giảng giải với con:
- Nhà nước ta không họa hình, chỉ tạm tên những người có công, nhà nước vẫn có bài vị để tại tả hữu tùng tự:
Miên Thẩm lại thưa:
- Tâu, nhân dân bách tính ngoài dân cũng hy sinh cho vua, cho nước thì thế nào? Nhà nước nên lập đài kỷ công để cho còn sự tích.
Minh Mạng lại giải thích:
- Sự tích đã biên vào liệt truyện, dầu là một người đàn bà có tiết hạnh, nhà nước cũng không quên tên, huống hồ là những người đã vì vua, vì nước mà quyên sinh thì nhà nước thờ vào Trung nghĩa tử hoặc cho bảng vàng để nêu tên trong cả xứ.
Miên Thẩm vẫn không vui:
- Tâu như thế vẫn còn chưa thỏa!
- Con còn muốn chi nữa kia?
- Tâu, nhà nước còn nên nuôi cả quả phụ, cô nhi của những người này nữa kia.
- Lấy của ở đâu cho đủ?
- Tâu, lấy của nước của dân:
Vua Minh Mạng cười:
- Ta tưởng lấy của con kia, còn như lấy của nước của dân, thì quả phụ cô nhi vẫn có khẩu phần, những làng có công điền, đã có quân cấp cho các hạng ấy!
Nhân ngày khánh thành Cữu Đỉnh, phủ Thừa Thiên dâng lúa thổ sản của làng An Cựu, vua Minh Mạng cắn một hột rồi khen:
- Nhờ trời lúa đã chắc lại ngọt!
Vua ban cho các quan mỗi người một hạt. Ai cũng chép miệng lựa lời khen cho vừa ý vua. Có người khúm núm tâu:
- Nhờ ơn Hoàng đế năm nay được mùa hơn cả mấy năm!
Miên Thẩm lúc ấy mới mười bảy tuổi tính tình cương trực đã biết ghét bọn nịnh thần, cho nên ông dám tâu những điều là cho niềm vui của vua cha tiêu tan:
- Tâu. Người ta nói năm nay được mùa, mà ngoài dân chúng con thấy có người không áo, có kẻ không cơm? Hay là họ không có khẩu phần chăng?
Vua Minh Mạng châu mày không them nhìn lại Tùng Thiện (lúc đó còn là một hoàng tử chưa xuất phủ) vùa cười gằn,bảo:
- "Mày tưởng có ruộng đất là có cơm áo hay sao? Cơm áo là ở nơi hai tay, có phải ở đâu ruộng đất?
Lời quở mắng ấy của Minh Mạng đã ảnh hưởng nhiều đến Tùng Thiện, dù chỉ là cách nói áp đảo của ông vua cha. Sau khi xuất phủ, Tùng Thiện đến là nhà bên bờ sông Lợi Nông. Bản thân ông đã rất trọng nghề nông. Thơ Tùng Thiện mấy ngàn bài đều chan chứa tình yêu đồng ruộng và nỗi thông cảm sâu sắc với số phận khổ ải của nhân dân lao động.
Truyện 22
Quận chúa A Mô (hay tiếng nói và sắc đẹp của đàn bà)
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Để sống yên ở phương Nam, Nguyễn Phúc Nguyên (tức chúa Sải) đã tích cực đắp thành lũy, trang bị vũ khí mới cho quân đội để khi cần thì có thể đương đầu với quân Trịnh ở phía bắc. Một trong những trở ngangười, khó vượt qua của chúa Nguyễn là vấn đề mua sắt, đồng, diêm tiêu để đúc súng. Chúa Sải nhờ bọn thương gia Hoà Lan, Bồ Đào Nha, Tàu, Nhật... nhưng bọn này không thật lòng nên chúa không yên tâm. Cuối cùng chúa đã biết phát huy truyền thống của phụ nữ Việt Nam, gả một người con gái cho thương gia Nhật tên là Araki Sôtarô (Hoàng mộc tôn Thái lang). Thương gia này vừa làm chủ một cửa hàng lớn ở Hội An vừa có tàu viễn dương đi mua bán với hải ngoại. Từ đó bà Quận chúa xứ Đàng Trong ngày đêm tỉ tê với chồng. Araki Sôtarô không thể từ chối được người đẹp nên ông đã thoa? mãn mọi yêu cầu của chúa Sải. Chúa Sải cần gì thì tàu của Araki đi Aùo Môn, Quảng Đông và Trường Kỳ chở về ngay. Nhờ thế mà quân đội của chúa Nguyễn được trang bị rất đầy đủ, mọi cuộc tấn công của quân Trịnh ở phía bắc vào đều bị chặn đứng.
Theo nhà Đông phương học Đuy Mu Chi ê (Pháp) thì bà quận chúa xứ Đàng Trong này tên là Amô. Trong một chuyến về thăm quê chồng, quận chúa bị giữ lại ở Nhật bởi nghiệm lệnh của Mạc phủ Đức xuyên cấm những người Nhật đi thông thương hải ngoại. Vì thế mà đôi vợ chồng Việt Nhật này không trở lại được đất Thuận Quảng. Năm 1845 bà mất ở Trường Kỳ và mai táng tại chùa Dainonji. Con cháu của bà còn giữ một cái gương soi của bà đem ở nước Nam qua, bề ngang tấm gương đo được ba tấc rưỡi, bề cao ngót bốn tấc, chung quanh chạm trỗ và mạ vàng y như của người Tây phương.
Vua Thiệu Trị (1841-1847) thăng hà, để di chiếu truyền ngôi cho con trưởng là Hồng Bảo. Nhưng triều đình do Trương Đăng Quế cầm đầu, thấy Hồng Bảo ham chơi cờ bạc nên không tôn mà lập em là Hồng Nhậm(con bà Từ Dũ) lên ngôi hoàng đế lấy niên hiệu là Tự Đức.
Bất bằng vì sự phế lập trái di chiếu ấy, Hồng Bảo tụ nghĩa cùng một số quan lại, hoàng thân có mâu thuẫn với Tự Đức lập mưu đảo chánh. Chẳng may trong nội bộ có người chưa chi đã rắp tâm làm phản vào tố giác với Tự Đức. Hồng Bảo bị hạ ngục và kết án tử hình(1854). Để chứng tỏ mình là một ông vua có lòng nhân, nặng tình cốt nhục, Tự Đức tha chết cho anh và Hồng Bảo chỉ bị giam. Nhưng một ngày nọ người ta khám phá thấy Hồng Bảo chết thắt cổ ở trong ngục (1854). Dư luận đương thời cho rằng đó là một cái chết rất khả nghi, họ thông tin Hồng Bảo có thể tự sát mà chết vì lệnh ám sát của Tự Đức. Điều đó làm cho Tự Đức ăn ngủ không yên.
Một hôm trong một buổi dạ yến ở Đại Nội, đang nhai vua Tự Đức bổng nhăn mặt đau đớn. Quan khách lấy làm lạ quay về phía nhà vua. Để đỡ thẹn vua ra ngay một cái đề thơ "Răng cắn lưỡi".
Trong hàng các quan dợ tiệc có ông Nguyễn Hàm Ninh (1808-1867) người Quảng Bình ứng khẩu đọc ngay bốn câu thơ sau đây:
"Sinh ngã chi sơ, nhữ vị sinh,
Nhữ sinh chi hậu, ngã vi huynh.
Bất tư cộng hưởng chân cam vị,
Hà nhẫn tương vong cốt nhục tình?"
Nghĩa là:
"Thuở bác sinh ra chú chữa sinh,
Từ sinh ra chú bác làm anh.
Ngọt bùi chẳng dể cung chia sẻ,
Cốt nhục đang tâm nghiến đứt tình?".
Nghe qua vua vỗ tay khen hay, nhưng nghĩ một lúc, ông chau mày mà phán rằng:
- "Văn chương của khanh thật lưu loát. Trẩm thưởng mỗi câu một lạng vàng. Song ý thơ sâu sắc và bí ẩn, Trẩm phạt mỗi chữ một roi".
Sở dĩ phải phạt Hàm Ninh vì vua nghĩ rằng tác giả mượn bốn câu thơ trên để ám chỉ việc nhà vua đã đang tâm sát hại anh mình là Hồng Bảo, giống như răng cắn lưỡi.
Năm 1812, Lê Duy Thanh (con trai Lê Qúy Đôn) tìm được một cuộc đất tốt để xây lăng cho Hoàng hậu Hiếu Khương. Khi khai huyệt, thấy xuất hiện đất ngũ sắc được coi là một điềm lành. Đình thần ai cũng trầm trồ chúc mừng vua, chỉ có Nguyễn Văn Thành đứng im lặng. Gia Long hỏi:
- Vì sao nhà ngươi lại im lặng?
Thành đáp:
- Việc nay không có gì lạ lắm. Trong huyệt mẹ tôi cũng có đất ngũ sắc mà màu còn tươi thắm hơn!
Gia Long hơi ngượng, mặt đanh lại. Thành không hiểu điều đó lại nói tiếp: - Tại Châu Ê có một chỗ đất rất tốt.
Phạm Văn Nhơn và các quan khác hỏi:
- Tại sao biết thế mà không tâu lên.
Thành đáp:
- Cuộc đất thì tốt nhưng không nên táng vào đó e bị sét đánh!
Gia Long lộ vẽ buồn, Hoàng Tử Đảm (sau này là vua Minh Mạng) mới lên tiếng rằng:
Chỉ có mộ Tây Sơn mới bị sét đánh vì đó là quân triều nguỵ còn như nay là đời thánh minh được trời thương. Trước mặt đấng quân thượng sao ông lại dám thốt ra những lời nói ấy?
(Hoàng Tử muốn nhắc đến mộ của Nguyễn Nhạc đã bị sét đánh ở Bình Định), Thành biết mình lỡ lời nên lui gót.
Bốn năm sau Thành bị tội. Nguyên do một phần cũng vì câu chuyện cũ này.
Truyện 25
Sự tích chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam
Nguồn: thuyhu
Thu gọn nội dung
Thuở xưa phụ nữ Việt Nam từ Bắc xuống Nam đều mặc váy. Đến ngày nay chiếc váy đó chỉ còn rải rác ở một số vùng quê đồng bằng sông Hồng và vùng Thanh Nghệ. Chiếc áo dài đã trở thành biểu tượng của phụ nữ Việt Nam. Thế thì nó đã có tự bao giờ?
Như lịch sử còn ghi, cuộc Trịnh, Nguyễn phân tranh kéo dài gần hai trăm năm. Ở miền Bắc vua Lê chúa Trịnh trị vì. Ở miền Nam các chúa Nguyễn miệng vẫn nói thần phục nhà Lê song thực chất họ đã lấy Phú Xuân làm thủ phủ của Đàng Trong để cũng cố địa vị cho sự nghiệp "vạn đại dung thân". Năm 1744, trong dân gian miền Nam bỗng lưu truyền một câu sấm (có lẽ từ miền Bắc truyền vào):
"Bát đại thời hoàn trung đô".
Công nghĩa là "tám đời phải trở lại Trung đô" (tức là trở lại Kinh đô Thăng Long). Câu sấm ấy là cho Nguyễn Phúc Khoát giật mình, Nếu kể từ chúa Tiên (tức Nguyễn Hoàng) truyền đến đời Khoát thì đúng tám đời. Khoát lo lắng: "Gần hai trăm năm đánh nhau với quân Trịnh, chịu đựng biết bao nhiêu gian khổ ác liệt để mở mang bờ cỏi xuống tận Cà Mau mà giờ này phải trở lại Trung đô nạp mình cho quân Trịnh quar là một đại hoạ!". Suốt nhiều ngày đêm Khoát ăn không ngon ngủ không yên. Cuối cùng ông đã triệu quần thần lại bàn phương cách thoát nạn. Khoác nói giọng buồn rầu:
- "Các tiên chúa đã đổ máu xương gây dựng cho chúa tôi ta một cơ nghiệp vinh quang như thế này, bây giờ trời bắt ta phải trở lại Trung đô thần phục bọn Trịnh, phải chăng chúa tôi ta không những sẽ đắc tội với các tiên Chúa mà còn tự hủy diệt mình...Các người có kế sách chi tiến lên để cứu nạn không?"
Triều thần của Nguyễn Phúc Khoát khẩn khoản xin Chúa được nghiên cứu một thời gian. Độ nữa tháng sau họ đến trình bày với Chúa rằng:
- "Muôn tâu Chúa thượng, muốn khỏi "hoàn" Trung đô, Chúa phải xưng vương và dựng một tân đô".
Phúc Khoác nói:
- "Ta cũng đã suy nghĩ điều đó nhưng từ lâu ông cha ta tuy chưa xưng Vương nhưng đã làm Chúa tể đất trời Nam và đất Phú Xuân đã là Kinh đô Đàng Trong!"
- "Nhưng chưa chính thức!" - Một quan đại phu đáp,
Phúc Khoát vẫn phân vân:
- "Việc làm lễ để chính thức chẳng khó khăn gì. Song dù có chính thức đi nữa cũng không cải được mệnh trời!""
Quan đại phu đáp:
- "Muốn thực sự có một vương quốc mới để đổi mạng trời thì phải thay đổi lễ nhạc, thay đổi văn hoá!"
Phúc Khoát hỏi:
- "Việc quan trọng nhất phải thay đổi văn hóa là cái gì?"
- "Muôn tâu chúa thượng - quan đại phu đáp - là thay đổi trang phục!"
Phúc Khoát gật đầu mừng rỡ:
- "Thế thì ta giao cho nhà ngươi thực hiện việc đó!"
Từ đó Phúc Khoát lên ngôi với niên hiệu là Võ Vương, lấy Phú Xuân làm Đô thành. Trong triều đổi lễ nhạc, ngoài dân gian thay đổi phong tục.
Để phân biệt với phụ nữ miền Bắc mặc váy, phụ nữ miền Nam phải mặc quần có đáy (hai ống) giống như đàn ông. Chủ trương của Võ Vương đã gây ra một cuộc "khủng hoảng" về trang phục ở Phú Xuân. Quần chúng phụ nữ không tán thành và đã tỏ ý phản đối quyết liệt:
"Không đi thì chợ không đông,
Đi thì phải mượn quần chồng sao đang."
Phản đối nhưng không thay đổi được "ýVương", từ đó phụ nữ miền Nam phải mặc quần hai ống. Với con mắt phong kiến, Võ Vương thấy phụ nữ mặc quần hai ống trông "khêu gợi" quá, ông bèn giao cho triều thần nghiên cứu tham khảo cái áo dài của người Chàm (giống như áo dài phụ nữ Việt Nam ngày nay, nhưng không xẻ nách) và áo dài của phụ nữ Thượng Hải (xẻ đến đầu gối) để "chế" ra cái áo dài của phụ nữ Việt Nam. Chiếc áo dài đầu tiên giống như áo dài người Chàm và có xẻ nách. Cũng như văn hóa Việt Nam phát triển ở Huế. Chiếc áo dài của phụ nữ Việt Nam có đủ cả hai yếu tố của phương Bắc và phương Nam.
Vua chúa ngày xưa vì quyền lợi giai cấp và huyết thống, họ đã có những chủ trương phản truyền thống, phản dân tộc và đã bị quần chúng đấu tranh loại bỏ. "Quần hai ống" và "áo dài" của phụ nữ Việt Nam tuy xuất phát cùng ở trong mục đích ấy, nhưng may thay, nó đã thừa kế được cái đẹp của phụ nữ phương bắc cũng như phương Nam, phù hợp với dáng người Việt Nam, nên nó đã được chấp nhận và trở nên một tài sản văn hóa của người phụ nữ Việt Nam.
Dưới con mắt của thế giới hễ thấy phụ nữ mặc áo dài, dù đứng trên diễn đàn nào, không cần giới thiệu, họ cũng đều biết đó là phụ nữ Việt Nam.
Mầm mống phân tranh giữa hai họ Trịnh Nguyễn đời Lê Trung Hưng đã có từ ngày Nguyễn Hoàng vào trấn giữ Thuận Quảng (1558), nhưng cho mãi đến khi con của Nguyễn Hoàng là Nguyễn Phúc Nguyên tổ chức xong việc phòng thủ ở Phương Nam, họ Nguyễn mới ra mặt chống nhau thật sự với Trịnh. Để có thể diệt trừ âm mưu chống đối của họ Nguyễn, họ Trịnh bày mưu ép vua Lê sắc phong cho Nguyễn Phúc Nguyên chức Thái Phó, tước Thụy quận công lãnh Thuận Quảng Tiết Độ Sứ và sau đó sẽ triệu Nguyên về Thăng Long chuẩn bị đi đánh Mạc. Nếu Nguyên về thì nhân đó bắt giết đi, nếu không về là mắc tội phản nghịch họ Trịnh sẽ có cớ đưa đại binh vào đánh Nguyễn.
Nhận được sắc phong, chúa Nguyễn rất bối rối bèn họp triều thần hỏi mưu kế đối phó với Trịnh. Đào Duy Từ đã dâng kế và được chúa Nguyễn chuẩn y.
Từ cho làm một cái mâm đồng hai đáy, khoãng giữa để sắc thư đã nhận lần trước, trên mâm sắp phẩm vật đem ra Thăng long tạ Ơn họ Trịnh. Lại Văn Khuông được cử làm chánh sứ chuyến này. Để giúp cho Khuông hoàn thành nhiệm vụ, Từ nghĩ saÜn mười điều vấn đáp để dặn sứ giả phòng khi ứng đối.
Đến Kinh, Văn Khuông vào yết kiến dâng lễ vật làm ra vẻ rất cung kính. Trịnh Tráng hỏi câu gì Văn Khuông đều đáp trôi chảy minh bạch, các bộ hạ nhà Chúa ai cũng phải khâm phục. Chúa hậu đãi Khuông lắm, truyền báo đến dịch xá nghỉ ngơi. Văn Khuông đi thăm Kinh thành chờ xem Chúa Trịnh có dạy bảo thêm điều gì nữa không. Khuông bỗng nhớ đến một cái cẩm nang mà Đào Duy Từ trao cho liền mở ra xem và sau đó cả đoàn tùy tùng cùng với Văn Khuông lẻn trốn về Nam bằng đường thủy. Thấy sứ đoàn Đàng Trong đột ngột trốn về, Chúa Trịnh hết sức nghi hoặc. Chúa sai soạn phẩm vật, thấy mâm hai đáy liền cho tách mâm thì thấy tờ sắc trước kèm theo một cánh thiếp trên có viết bốn hàng chữ đen, nét bút già giặn, đẹp đẽ:
"Mâu nhi vô dịch
Mịch phi kiến tích
Ái lạc tâm trường
Lực lai tương địch".
Nghĩa là:
"Cái xà mâu không có mấu,
Tìm không thấy dấu.
Yêu rơi cả lòng ruột,
Sức đến thì cùng đánh".
Chúa Trịnh Tráng đọc không hiểu và cả Triều thần cũng không biết ra sao. Sau Trịnh Tráng phải nhờ đến quan Trạng Phùng Khắc Khoan. Khắc Khoan đọc xong tờ thiếp trợn mắt nói ngay:
- "Đây là kiểu chơi chữ nếu không phải Đào Duy Từ thì không ai ở Thuận Quảng có thể làm được như thế này".
Trịnh Tráng nóng ruột giục Phùng giải thích. Phùng cầm tờ thiếp giơ ra trước mặt nói:
- "Chữ mâu không có nách tức là cái phẩy thì thành chữ dư (ta); chữ mịch mà không có chữ kiến thì còn chữ bất (không); chữ átmà rơi mất lòng ruột (tức là chữ lâm) thì còn là chữ thụ (nhận) chữ lực với chữ lai địch nhau thành chữ sắc. Cái thiếp này có nghĩa là "Ta không nhận sắc".
Nghe xong Trịnh Tráng biết mình bị lừa, đùng đùng nổi cơn thịnh nộ ra lịnh cho người tìm bắt Văn Khuông, nhưng may thay Văn Khuông đã theo lời dặn của Đào Duy Từ xa chạy cao bay rồi. Để trừng phạt họ Nguyễn. Trịnh Tráng định đưa đại quân vào đánh Thuận Quảng. Không ngờ lúc ấy ở Cao Bằng và Hải Dương có loạn, Trịnh Tráng đành ngậm đắng nuốt cay hủy bỏ cuộc nam chinh này.
Đoàn sứ giả hoàn thành nhiệm vụ và về Thuận Hoá an toàn được Chúa Nguyễn trọng thưởng, "mưu sĩ" Đào Duy Từ được thăng chức làm Cái Hạp. Từ đó; họ Nguyễn ở Đàng Trong không chịu sắc phong của triều đình Lê Trịnh nữa. Cuộc nội chiến bắt đầu.
Đầu năm Mậu thìn (1868) sĩ tử ba miền Trung Nam Bắc tập trung về Kinh đô Huế dự thi Hội. Họ họp mặt ở khu vực nhà trọ gần Trường Thi ở phương Ninh Bắc (thuộc địa phận Phú Xuân) đoán xem đầu bài văn sách sẽ ra về vấn đề gì. Nhiều người đoán già đoán non phát biểu huyên thuyên nhưng thiếu cơ sở không được các sĩ tử nghe theo. Cuối cung có ông Vũ Duy Tuân (sinh năm 1840) có hiểu biết về tinh hình trong nước phát biểu ý kiến:
- Theo ngụ ý, năm nay quân Pháp, ngoài những hành động khiêu khích ra, họ còn xây thành đắp lũy ở các nơi, xây soái phủ ở Gia Định, đặt binh trại rãi rác chung quanh Kinh Thành, có ý dòm ngó Triều đình ta, tôi chắc kỳ văn sách khoa nầy thế nào Đức Kim thượng cũng hỏi về công thủ chi sách (Kế sách đánh hay hòa), anh em nghĩ sao?
Các sĩ tử nghe có lý vỗ tay tán đồng. Họ bàn nhau nếu đầu bài ra đúng như thế thì sẽ nhất tề luận theo thế công, nhất quyết xin vua Tự Đức nhất quyết đánh để tỏ lòng bất khuất của sĩ phu.
Hôm vào thi văn sách, quả như lời họ Vũ đã dự đóan, đề ra: "Quân xâm lăng hiện nay càng ngày càng thêm gây hấn, đồn lũy dựng lên khắp dân gian, vậy nay mình đánh hay nên hoà?" sĩ tử mừng rỡ, khâm phục sự đoán của họ Vũ, họ cùng làm bài xin Triều đình khởi thế công.
Trong quyển văn của Vũ Duy Tuân có câu:
- "Triều đình ủng bách vạn chi tinh binh, khiến nghĩa bất vi vô dũng dã" (Triều đình hiện có hàng trăm vạn lính tinh nhuệ, theo việc nghĩa thì nên đánh quân xâm lăng, thế mà không đánh thật là không dũng cảm chút nào?).
Đọc bài ấy quan duyệt quyển là Phan Đình Bình đệ lên cho vua Tự Đức đọc. Nhà vua buồn rầu châu phê bên cạnh câu văn trên rằng:
- "Kim nhật thỉnh chiến, minh nhật thỉnh chiến, chiến nhi bất thắng, tương trí trẩm ư hà địa?" (Hôm nay xin đánh, ngày mai xin đánh, nếu đánh mà thua, thì đặt trẫm ngồi ở nơi nào?).
Các khảo quan căn cứ lời châu phê như thế mà chấm bài. Những người đề nghị đánh phần lớn hỏng. Riêng Vũ Duy Tuân là một bậc tài trí không thể hỏng nhưng chỉ đỗ được cái Phó bảng. Trong đám sĩ tử có cử nhân Dương Khuê, khi họp bàn thì dạ dạ vâng vâng một lòng xin đánh, nhưng đến lúc vào trường lại viết xin hòa. Làm bài trúng ý quan trường nên họ Dương đỗ Tiến sĩ. Điều đó đã làm cho các sĩ tử phẫn nộ, họ kết án họ Dương là bội ước. Đến hôm sau họ Dương vinh quy, các sĩ tử đón đường đánh. May sao họ Dương biết trước ôm áo mão vua ban trốn ra khỏi Kinh thành trong đêm nên tránh được một cuộc làm nhục.
Mặc dầu chỉ đỗ Phó bảng, trong con mắt các sĩ tử họ Vũ vẫn là người chiến thắng về sĩ khí, danh dự hơn họ Dương đỗ Tiến sĩ nhiều. Kỳ thi xong, các sĩ tử họp nhau cổ vũ họ Vũ nhiệt liệt. Họ tặng Vũ Duy Tuân câu đối:
Minh đình sách vấn kim tam đối,
Giáp đệ thâu nhân chỉ nhất hòa.
(Triều đình hỏi về kế sách thì ông đối đáp được mọi điều; thế mà giáp đệ chỉ đỗ Phó bảng thua người khác chỉ tại một chữ hòa (Vì ông cứ xin đánh).
Vũ Duy Tuân quả cảm, cương trực: Ông làm quan đến chức Ngự sử Đô sát viện. Ông được các quan, triều thần kính phục, nể vì.