Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Văn Hóa Thế Giới
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Văn Hóa Thế Giới Chia sẻ những nền văn hóa của các nước trên thế giới

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 31-12-2009   #19
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.205
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Bia công đức trong chùa

Vừa đi công tác 1 tuần, mới về nên giờ mới vào đọc bài bạn Greenline. Tớ có sở thích là viết cho đến ngọn nguồn, nên để hiểu sâu về cái bia công đức trong chùa, có lẽ phải tìm hiểu sâu xa về nguồn gốc của cái chùa.

Các tôn giáo lớn khác khác (Thiên Chúa, Hồi, Hindu...) tôn thờ 1 đấng Thần thánh (Chúa, Allah, Brahma - Vishnu - Shiva), nên lễ nghi thờ cúng vị Thần đó, cùng với nơi thờ tự là rất quan trọng, và đền thờ đi cùng với sự hình thành tôn giáo. Ngược lại, thuở sơ khai Phật giáo chưa phải là Tôn giáo như thấy ngày nay, không tôn thờ đấng nào, do đó cũng không có nơi thờ tự, hương khói gì hết. Chùa chưa có khi Phật giáo ra đời.

Phật chỉ đơn giản là vị Thầy giảng dạy một triết thuyết, lối sống mới, chứ không thờ phụng ai, và cũng không có phép thuật, thần thông gì cả. Các đệ tử và người tin theo sẽ nghe vị thầy đó giảng giải, nói chuyện. Và để tiện lợi cho người giảng cũng như người nghe, người theo, người tu tập, thì cần phải dựng những khu nhà để ngồi và nghỉ đêm. Những "tịnh xá" đầu tiên chỉ là những dãy lán nghỉ trong các khu vườn, dưới các gốc cây để tránh mưa rất đơn sơ (không được ở trong các tòa nhà lớn, sang trọng).

Cho đến khi Phật qua đời, các vua chia Xá Lị làm các phần đưa về các nước, và dựng lên các Stupa (Tháp) để gìn giữ Xá Lị đó, thì hình thức thờ cúng mới xuất hiện. Nhưng các Stupa vẫn chỉ là Stupa, không phải là Chùa.

Những đệ tử của Phật vẫn tiếp tục đi giảng đạo, và ở trong các lán trại. Nhưng sự thiếu vắng vị Thầy chung có lẽ gây hụt hẫng khá nhiều, và khiến nảy sinh nhu cầu lưu giữ hình ảnh vị Thầy đó, để khi nhìn vào người ta có thể tập trung tâm trí hướng vào con đường vị Thầy đó đã chỉ. Và do đó những hình ảnh Phật xuất hiện trong tranh vẽ, điêu khắc. Từ việc hướng tâm trí theo hình ảnh Phật đến việc thờ phụng hình ảnh đó không xa, nhất là với vùng đất vốn rất thịnh hành việc thờ cúng như Ấn Độ.

Thế là từ việc vốn không tôn thờ, phụng thờ cái gì hết, chỉ chú trọng việc hướng tâm, dần dà người ta đã biến Phật thành một kiểu Thần Tượng để thờ cúng. Và các ảnh tượng đó được để trang trọng trong những tòa nhà to lớn đẹp đẽ, mà xưa kia Phật không bao giờ bước chân vào.

Cái chùa theo nghĩa thờ cúng hình thành và ngày càng phát triển.

Lúc đầu, các Stupa thờ Phật và các tịnh xá dành cho các sư tu hành không ở cùng chỗ. Stupa ở trong kinh thành, còn tịnh xá phải ở chỗ vắng vẻ xa cách thành thị. Nhưng về sau thì quanh Stupa cũng thành các tu viện lớn. Chùa ngày nay bao gồm cả hai chức năng đó: Nơi thờ cúng Phật và nơi tu hành của các sư.

Để có các tịnh xá cho các sư tu hành, phải có đất. Mà Phật thì đồ ăn phải là đồ xin, đồ mặc phải là vải thừa người ta vứt đi (nguyên thủy là vải liệm người chết vứt đi), không được sở hữu tài sản. Thế thì lấy đâu ra đất làm tịnh xá? Cái sự Cho - Nhận đất đai bắt đầu từ đây.

Theo Phật giáo, thì người đầu tiên dâng cúng đất là vua của thành Vương Xá. Vị vua này đã tặng Phật và các đệ tử một mảnh đất rộng ngoài thành để làm nơi trú chân. Tiếp đó là một trưởng giả (Cấp Cô Độc) dâng tặng một khu vườn rất đẹp.

Cả hai khu vườn đó (và về sau nhiều khu đất khác), quyền sử dụng đều thuộc về Phật và đệ tử vĩnh viễn, nhưng quyền sở hữu vẫn trong tay vua và trưởng giả. Như thế là Phật vẫn không sở hữu của cải, chỉ nhận thiện nghiệp thông qua việc sử dụng chỗ đó làm nơi nghỉ thôi.

Còn tất nhiên về sau, để đảm bảo quyền sử dụng, nó dần phải gắn với quyền sở hữu. Và các sư cũng không còn du hành nữa, mà định cư tại các mảnh đất, dựng chùa làm nhà, có trong tay quyền sở hữu.

Ở Việt Nam xưa kia và cả bây giờ, đất chùa là đất Hương Hỏa, một khi còn có người thờ cúng thì không được xâm phạm.

Công đức ở chùa Đọc trong sử Việt Nam, thường thấy Vua quan dâng đất làm chùa. Triều Lý là dựng chùa nhiều nhất, riêng bà Ỷ Lan dựng mới 100 ngôi chùa. Dân chúng không thể dựng mới chùa được, thường là đóng góp vào chùa dưới các hình thức.

Một trong những hình thức đóng góp vào chùa nhiều nhất dưới đời Lê - Nguyễn là đóng "Hậu". Những người giàu có tin Phật, nhưng không có con nối dõi, khi qua đời thường hiến tất cả đất đai, của cải cho chùa. Chùa sẽ làm tượng người đó (thường bằng đá) để ở đằng sau, trước chùa, hoặc ngay bên tường cạnh chùa, để hương khói thờ cúng, gọi là tượng Hậu.

Xưa kia nhà có con cháu thì chỉ đưa lên chùa làm lễ, chứ không để thờ trên chùa (vì thờ trên chùa chỉ dành cho người không có ai thờ cúng). Nhưng ngày nay thì hình thức đưa lên chùa, gọi là Ký Kị, hay thờ Vong lại rất thịnh hành.

Bên cạnh các tượng Hậu để thờ, thì những người có đóng góp công đức cũng được ghi tên vào các tấm bia Công đức. Về lý sâu xa thì khi công đức cho chùa, nhà chùa không phải "cảm ơn" gì hết, vì như thế là làm tiêu hết thiện nghiệp của người đóng góp. Thế nhưng đã vào cuộc sống thì không thể cứng nhắc thế được, phải ghi công đức thì người ta mới đóng góp tiếp chứ !!!


Một số bia ghi tên người đóng góp công đức, và ở giữa là một pho tượng Hậu. Hình thức tượng Hậu hình như chỉ có ở chùa miền Bắc. Miền trung và miền Nam bàn thờ Vong có nhiều, nhưng tượng hậu thì ít.


Về "Công đức" hiện nay ở các chùa, có hai hình thức:
- Đóng góp bằng tiền, được ghi lại trong các sổ công đức, và có thể là các bia công đức.
- Đóng góp bằng hiện vật: tượng, chuông, hoành phi câu đối, pháp khí...

Việc đóng góp bằng hiện vật có từ lâu rồi. Tuy nhiên những dòng chữ ghi tên người công đức viết bằng tiếng Hán trên các hoành phi câu đối, mọi người không biết nên cũng không quan tâm. Còn bây giờ thì phải viết bằng Quốc ngữ, nên thấy phản cảm; một câu đối chữ hán rõ to lại có mấy dòng: Gia đình bà X, ông Y, ở địa chỉ ABC cung tiến ngày DEF...

Thậm chí nơi làm cũng quảng cáo ngay trên đó. Như vừa rồi tớ vào chùa Vĩnh Nghiêm, thấy cái lư hương đồng cực to trước chùa, quanh miệng khắc tên cơ sở đúc, tên người bỏ tiền, nhưng địa chỉ ghi sai chính tả là "Xương Nguyệt Ánh" thay vì "Sương".

Bia hậu có khắc tượng hậu chùa La Phù



Ngày nay khi đạo Phật không còn trong giai đoạn cực thịnh xưa kia nữa thì khu vườn Kỳ Đà Cấp Cô Độc vẫn được giữ và sử dụng như một công viên







Các di tích còn lại: Kỳ Viên Tịnh Xá




Các giáo đoàn quốc tế vẫn thường xuyên tổ chức hành hương và truyền dạy giáo lý về việc làm phúc cúng dường tại vườn của ngài Cấp Cô Độc






Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #20
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.205
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Quán Thế Âm Bồ tát

Có nhiều người nói Phật giáo bản thân gốc gác không phải là Tôn giáo, theo nghĩa hiểu của Tôn giáo là có hệ thống thờ cúng, đền đài cơ sở vật chất, thờ phụng bất cứ đấng nào như tất cả các Tôn giáo khác. Chỉ sau này trong quá trình phát triển, để tiếp cận với nhiều đối tượng, mới hình thành nên các hệ thống chùa chiền, lễ nghi, tranh tượng, thờ cúng mà ta thấy ngày nay.

Vốn gốc Phật giáo không và không thể truyền bằng hình thức lễ nghi, nên các hình thức đó chỉ là cái phương tiện rất bên ngoài cho nội dung sâu xa mà không phải ai cũng có thể hiểu được. Người vô minh thì còn phân biệt nơi này là chùa, nơi kia không phải chùa; nơi này đẹp nơi kia xấu; chỗ này tượng tróc sơn, nơi kia tượng thếp vàng; lời này là cầu lợi, lời kia không... Hết vô minh thì ở đâu cũng là chùa, đâu cũng là Phật, lời nào cũng là nguyện.

Nhưng còn phải vượt lên cả Vô minh và Hết vô minh, khi đó đâu cũng là chùa và cũng không là chùa, vì chùa là không mà không cũng là chùa; đâu cũng là Phật mà cũng chả có Phật...

Vì thế, mới có những pháp thoại kì lạ mà có lẽ không tôn giáo nào dám nói đến:

Hỏi: Phật là gì
Đáp: Là cám ở đáy cối (Trần Nhân Tông)

Hỏi: Phật là gì
Đáp: Là que *** khô (Thiền sư Vân Môn)

"Phùng Phật sát Phật, phùng Tổ sát Tổ" - Gặp Phật giết Phật, gặp Tổ giết Tổ (Thiền sư Vô Môn)

Quán Thế Âm Bồ tát

Hình tượng được tôn sùng bậc nhất trong Phật giáo Đại thừa là Quán Thế Âm bồ tát. Theo Tịnh Độ tông thì Quán Thế Âm chỉ là một bồ tát thị giả bên phật A Di Đà, nhưng sau đó thì được mở rộng hơn rất nhiều.

Quán Thế Âm (đến đời Đường vì kiêng tên vua Đường Thái tông Lý Thế Dân và niên hiệu Trinh Quán của ông nên đổi thành Quan Thế Âm, rồi bớt chữ Thế thành ra Quan Âm) tức là thấu được hết âm thanh của thế gian, để cứu độ cho thế gian. Các bậc Bồ tát đã đạt chứng quả, nhưng phát nguyện vẫn ở lại thế gian để cứu giúp chúng sinh, chứ không lên thành Phật. Bậc cứu độ được biết đến nhất là Quán Thế Âm.

Quán Thế Âm trong hình tượng gốc là nam, nhưng để cứu độ cho chúng sinh thì có rất nhiều hóa thân, trong đó có hóa thân là nữ. Trước kia tranh tượng Quán Thế Âm đều là nam, nhưng từ đời Đường ở TQ, do một số nguyên nhân mà chuyển sang tôn thờ hình tượng nữ. Do đó các nước theo Phật giáo Nguyên thủy thì hình tượng vẫn là nam (như các mặt Vua phật Bayon ở Angkor là hình ảnh Quán Thế Âm), trong khi đó ở TQ, VN, Hàn, Nhật thì tôn thờ hình ảnh nữ.

Quán Thế Âm bồ tát dần trở thành hình tượng gần gũi nhất, thân quen nhất của Phật giáo, được gọi là Phật Bà,
và cũng có rất nhiều hình tượng khác nhau trong chùa : Quan Âm Chuẩn đề, Thiên thủ thiên nhãn, Tống tử, Nam hải, Bạch Y...

Thiên thủ thiên nhãn Quan Âm Hình tượng Quan Âm nhiều tay, nhiều mặt bắt nguồn từ các hình tượng Ấn Độ giáo cổ xưa với các vị thần: Brahma 4 mặt, Vishnu 8 tay, Shiva 4 tay, 6 tay, Yama trăm tay trăm đầu...

Sang TQ, hình tượng này được bản địa hóa trong câu truyện cổ tích Chúa Ba Diệu Thiện. Để cứu cha mình, công chúa thứ ba Diệu Thiện (hóa thân của Quan Âm) đã chặt một tay, móc một mắt làm thuốc, dù trước đó cha đã đối xử tàn tệ với bà khi bà muốn đi tu. Từ đó hình tượng Quan Âm với nghìn cánh tay, nghìn con mắt thể hiện cho sự cứu độ vô hạn của Quan Âm. Người Việt Nam dưới đời Lê còn đi xa hơn nữa khi cho rằng nơi Chúa Ba tu hành chính là chùa Hương ở Hà Tây !.

Những tượng Quan Âm nhiều tay cổ nhất ở VN cũng chỉ có mười mấy tay, rồi tăng lên 42 tay, một trăm tay, rồi mấy trăm tay, và đạt đỉnh điểm là 1113 tay ở chùa Mễ Sở, trong mỗi bàn tay có 1 con mắt. Kèm theo đó là từ một đầu thành 3 đầu, rồi 11 đầu.

Tượng Quan Âm nhiều tay có thể được bày trên chính điện, hoặc bên cạnh, thậm chí là một tòa điện riêng.

Quan Âm Thiên thủ thiên nhãn (thực ra có 18 tay) ở chính điện chùa Cao (An Phụ).
Pho tượng này còn được gọi là Quan Âm Chuẩn đề, vì hai bàn tay ở giữa bắt ấn Chuẩn đề, một loại ấn tối cao trong Phật giáo đại thừa.



Quan Âm 42 tay chùa Hội Hạ Pho tượng Quan Âm có 42 tay được xác định là cổ nhất, được làm đời Mạc, cách đây gần 500 năm. Pho này rất to, to nhất trong các pho tượng thể loại hàng chục tay này, cao hơn 3m. Phong cách đời Mạc nên tượng to khỏe, chắc chắn và nặng nề. Nay tượng để trong bảo tàng Mỹ thuật.

Tượng này cũng gọi là Quan Âm Nam hải, vì ngồi trên tòa sen, đội trên đầu một con quỷ nổi trên mặt biển Nam hải. Hai bên có tượng Thiện tài đồng tử và Long nữ đứng hầu.





Thiên thủ thiên nhãn Quan Âm chùa Bút Tháp Do tính chất nổi tiếng "Đại từ đại bi, Cứu khổ cứu nạn", hình tượng Quán Thế Âm được tôn sùng và tạo tác nhiều nhất, với rất nhiều bức tượng đẹp.

Nổi tiếng nhất có lẽ là bức tượng Quan Âm Thiên thủ Thiên nhãn chùa Bút Tháp tạc vào thế kỉ 17, được coi là tuyệt tác, một "tập đại thành" của nền điêu khắc Việt Nam. Bức tượng chứa đựng trong đó nhân sinh, thế giới quan Phật giáo đầy đủ. Từ dưới lên, có thể thấy cả cảnh âm phủ thông qua 4 quỷ sứ, mặt biển nam hải với con rồng đội đài sen, ánh mặt trăng từ giữa lòng phật bà, những cánh tay nuột nà, 11 đầu Phật với A Di Đà trên cùng, và gần một nghìn cánh tay nhỏ tỏa ra như hào quang rực rỡ.






Tượng Quan Âm Thiên thủ thiên nhãn loại có mười mấy tay đến vài chục tay còn khá nhiều; nhưng loại có đến khoảng nghìn tay thì mà tượng cổ thì rất hiếm, theo tớ biết và đã đến tận nơi thì chỉ có 4 pho trên toàn miền bắc thôi. Gần đây nhiều chùa có điều kiện cũng làm tượng đủ nghìn tay, và thường lấy mẫu theo tượng chùa Bút Tháp.

Tượng cổ loại nghìn tay mà tớ đã đến thăm chụp ảnh nằm ở các chùa:
- Chùa Thánh Ân: là pho cổ nhất
- Chùa Bút Tháp: là pho đẹp nhất
- Chùa Tam Sơn
- Chùa Mễ Sở: là pho có nhiều tay nhất

Tượng loại nghìn tay thường đồ sộ nên đặt ở tòa riêng, không để trên bàn thờ chính. Tuy vậy tại chùa Thánh Ân, pho tượng cổ này được để chính giữa. Những cánh tay của tượng có phong cách rất đặc biệt. Pho tượng tuổi khoảng 400 năm.





Quan Âm tống tử Trong các ngôi chùa miền Bắc còn có một bộ tượng mà tôi chưa thấy ở ngôi chùa nào miền Trung, miền Nam, đó là bộ Quan Âm tống tử (tiễn con).

Bộ tượng mô tả Quan Âm trong kiếp Thị Kính, rất nổi tiếng ở miền Bắc với vở chèo Quan Âm Thị Kính. Quan Âm khuôn mặt hiền từ trong tư thế ôm con (thực ra là con của Thị Màu), giã biệt con trước khi qua đời - về cõi Phật. Pho tượng thể hiện lòng thương yêu của Bồ tát Quán Thế Âm với chúng sinh như mẹ thương con, và thể hiện tình mẫu tử mà dân gian hằng kính ngưỡng.

Bộ tượng Quan Âm tống tử có nét rất gần gũi với hình tượng Đức Mẹ bế Chúa hài đồng trong Thiên Chúa giáo.

Bộ tượng Quan Âm tống tử chùa Tây Phương. Tượng người con đã bị mất, người ta thay vào bởi một tượng khác, không đúng cỡ nên trông buồn cười. Hai bên là Thiện tài Đồng tử và Long nữ đứng hầu. Ở khối đá bên cạnh là một con vẹt, chính là Thiện Sỹ - chồng của Thị Kính hóa thành.





Chuẩn đề Trong các hóa thân của Quán Thế Âm, có hóa thân được tôn sùng là Phật, thậm chí là Phật Mẫu, đó là Chuẩn Đề.

Chuẩn Đề có nghĩa là Tối thượng bồ đề, tức trí tuệ từ bì tối thượng, là cốt lõi của Phật pháp. Vì thế vị Chuẩn Đề được gọi là Phật Mẫu. Là Phật nhưng không vào Vô dư ý Niết bàn, mà vẫn ở lại thế gian để độ chúng sinh, nên cũng lại là Bồ tát. Và Chuẩn Đề lại cũng chính là một hóa thân của Quán Thế Âm. Nghĩa là hình tượng Quán Thế Âm rất nhiều hình trạng, rất phong phú đa dạng.

Tượng Chuẩn Đề Bồ tát khác với tượng Quan Âm nhiều tay thông thường ở chỗ:
- Tượng Chuẩn Đề có 3 con mắt, một con mắt nằm giữa trán.
- Chuẩn Đề có đúng 18 tay. Nhiều hơn hay ít hơn thì không phải là hóa thân Chuẩn Đề
- Hai tay chính chắp vào giữa bắt ấn Vô thượng. Đây là một loại ấn rất riêng, nhìn thấy là nhận ra.
- 16 tay còn lại cầm các loại pháp khí: phướn, lọng, quạt, tràng hạt, chử, chuông, hoa sen...

Chùa miền Bắc xưa thường không có tượng Chuẩn Đề. Thời gian gần đây mới xuất hiện. Do đó thường không để ở chính điện, mà phía trước, hoặc phía sau, hoặc một bên.

Tượng Phật Mẫu Chuẩn Đề chùa Pháp Vân.



Bạch Y Đại sỹ Quán Thế Âm có nhiều hình tượng, một hình tượng rất phổ biến nữa là Quan Âm áo trắng, cầm tịnh bình và cành dương, gọi là Quan Âm Đại sỹ. Hình ảnh này cả trong tranh lẫn điêu khắc đều nhiều.

Tượng Quan Âm cầm bình đứng ngoài trời hiện giờ rất phổ biến ở nhiều chùa, đầu tiên là từ miền Nam, miền Trung rồi dần ra miền Bắc.

Trước kia chùa miền Bắc không bao giờ có tượng Quan Âm đứng ngoài trời, nhưng giờ được dựng ở nhiều chùa. Một số chùa cổ truyền thống thì vẫn không dựng, nếu có dựng Quan Âm các thì cũng là tượng Quan Âm ngồi đài sen trong một tòa các, chứ không đứng ngòai trời.

Hình tượng này xuất hiện từ miền nam, và theo tớ, thì do người Minh hương từ Phúc Kiến mang sang. Người TQ vượt biển rất tôn sùng hình ảnh Quan Âm Nam hải, tin rằng bà hiện ra trên mặt biển để bảo hộ các đoàn thuyền vượt qua sóng gió biển khơi. Hình ảnh này rất giống bà Thiên Hậu. Sang VN, họ mang niềm tin đó vào hình tượng Quan Âm đứng ngoài trời.

Đó là giả thiết của tớ, vì truyền thống chùa cổ VN từ miền Bắc, và cả miền Trung đều không có. Chỉ thời gian gần đây mới xuất hiện, và là từ miền Nam ra.

Như vậy trong một ngôi chùa, có thể có đến 4 tượng Quan Thế Âm dưới các hóa thân khác nhau: Thiên thủ thiên nhãn, Tống tử, Nam hải, trong Di Đà tam tôn. Điều này cũng không có gì là quá, bởi vị Bồ tát này có nhiều hóa thân khắp thế gian.

Tượng Bạch Y Quan Âm ở núi Đá Dựng - Hà Tiên.




Ngọc Hoàng Thượng đế Khi truyền sang phía đông, Phật giáo của Ấn Độ gặp Đạo giáo của TQ vốn tôn thờ những hình tượng thần thánh khác. Hai bên đã có sự hòa nhập nhất định với nhau. Sang đến Việt Nam, gặp tín ngưỡng bản địa, thì lại tiếp tục hòa vào dòng của tín ngưỡng đó, tạo thêm những hình tượng mới.

Đời Lê Trung hưng ở VN là thời mà tư tưởng Tam giáo Đồng nguyên (Ba tôn giáo Phật Lão Nho cùng một gốc) phát triển. Đầu tiên là một số hình tượng Đạo giáo được đưa vào chùa. Tiếp theo là sự hội nhập với Bản địa bằng việc đưa tín ngưỡng thờ Mẫu vào trong chùa. Thậm chí những người có công với triều đình, quốc gia cũng được thờ trong chùa, tạo nên một thế giới tâm linh chung, không còn tách biệt, mà trong đó Phật là trung tâm và cao nhất.

Hình tượng tiêu biểu của Đạo giáo trong chùa là tượng Ngọc Hoàng Thượng đế và Nam Tào, Bắc Đẩu. Ngọc Hoàng Thượng đế là vua trời, có vai trò như Thiên chủ Indra (Đế Thích) của Ấn Độ, cai quản bầu trời. Ngọc Hoàng là hậu thân, biến thân của Nguyên Thủy Thiên Tôn, thay cho Tam Thanh tối cao cai trị thế giới thần và người. Bắc Đẩu chuyên ghi sổ sinh, Nam Tào ghi sổ tử.

Như vậy đối với dân gian, Ngọc Hoàng là ông Trời cần tôn kính, nhưng với Phật giáo, Ngọc Hoàng chỉ là đứng đầu bậc Thiên, vẫn có sinh ra (và sẽ có chết đi), chưa thoát Luân hồi. Nhưng Phật giáo cũng chấp nhận hình tượng đó vào chùa, mà không chống đối. Vì thế trong chùa có thể thấy cả tượng Ngọc Hoàng.

Đối với dân gian thì "cầu Trời, khấn Phật", như nhau cả, hầu như tất cả đều coi Phật giống như một bậc thần thánh có quyền phép, cũng như Ngọc Hoàng cả. Thậm chí trong SG còn có một cái chùa mang tên : Chùa Ngọc Hoàng.

Tượng của ông Bắc Đẩu trong chùa Cầu Đông. Tay ông cầm cuốn sổ sinh. Bên kia là ông Nam Tào, cầm sổ tử. Có thể thấy thấp thoáng bên trái là Ngọc Hoàng ngồi trên ngai.

Tớ thích pho tượng này, vì nghệ nhân đã chạm hoa văn trên áo cầu kì mà mềm mại sinh động.

(Viết về Nam Tào, Bắc Đẩu cũng rất chi là dài dòng lắm chuyện, nên thôi).



Trên đây, tôi đã mô tả những pho tượng trên chính điện của một ngôi chùa cổ miền bắc thông thường. Những pho tượng ấy có những đặc trưng riêng của mỗi vùng làng, mỗi thời đại, nhưng cũng không ra ngoài các bộ Tam tôn và tượng Pháp. Các pho tượng được bày trong chính điện theo vị trí cao dần lên đến tận nóc chùa, nhìn vào như một thế giới sâu thẳm, tầng tầng lớp lớp chư phật, chư thánh, chư thiên, đem lại một cảm giác uyên nguyên nguồn cội. Đây là đặc trưng riêng có của các ngôi chùa Việt, mà cụ thể hơn là chùa miền bắc, mà không nơi nào có trên thế giới.

Chính điện chùa Phúc Khánh, ngôi tổ đình linh thiêng bậc nhất ở Hà Nội. Lễ chùa Phúc Khánh luôn luôn thu hút đông phật tử nhất.


Bên cạnh tượng trên chính điện, tại gian bên, tiền đường, hậu điện của chùa còn nhiều pho tượng khác nữa...









Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #21
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.205
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Thập điện Diêm Vương Diêm Vương nguyên là sản phẩm của thần thoại Ấn Độ giáo, chứ chả phải của TQ. Đó là tên của quỷ thần Yama là vua của các quỷ thần cõi địa ngục, là vị quan tòa xét xử tội những người chết. Yama có nhiều tay cầm nhiều vũ khí, đôi khi đánh nhau với cả các vị thần. Trên bức phù điêu lớn của Angkor Wat có đến 3 lần Yama xuất hiện.

Phật giáo mượn Yama để mô tả địa ngục là một trong Lục đạo luân hồi. Những ác nghiệp nặng tạo ra trong cuộc sống sẽ phải nhận quả báo sa địa ngục, và Yama cũng là chủ của địa ngục đó.

Sang đến TQ, thì phiên âm Yama thành Diêm Ma, và vì là vua địa ngục nên gọi là Diêm vương. TQ tăng từ một Diêm Ma lên đến mười vị, gọi là Thập điện Diêm vương. TQ gọi thêm một tên nữa là các vị Minh vương. Ở đây chữ Minh có nghĩa là U tối (giống như rừng U Minh) chứ không phải nghĩa là sáng như quang minh, minh bạch.

Thật quái là từ Minh lại mang 2 nghĩa trái nhau như thế. Hiện nay thì chùa miền Nam thường dùng Thập điện Minh vương, còn miền Bắc dùng Diêm vương.
Tượng Thập điện Diêm vương ngồi hai bên, mỗi bên năm vị.

Vào chùa cứ thấy một loạt tượng trông na ná nhau, cùng đội mũ mặc áo thụng, ngồi cầm hốt hai bên tường chùa, mỗi bên 5 vị thì đó là Thập điện Diêm vương.

Có vị thì tóc trắng, tóc đen, râu dài, râu ngắn,... là tùy vào trí tưởng tượng của người tạc tượng, không có chuẩn nào hết.



Địa Tạng Vương Bồ tát được tạc tượng với đặc trưng là đội mũ hoa sen, khoác áo cà sa, tay cầm một cây gậy tích trượng, rất giống hình tượng của Đường Tăng - Huyền Trang đã rất quen thuộc trong Tây Du Ký. Trong truyện Tây Du Ký có viết là sau khi Pháp sư Huyền Trang khoác áo cà sa, cầm gậy tích trượng, đội mũ Tỳ lư, thì trông giống hệt Địa Tạng bồ tát. Do đó có thể nói hình tượng của Đường Tăng là lấy từ Địa Tang ra.

Trang phục này là trang phục chạy đàn của Pháp sư trong Phật giáo Trung Quốc, dùng để cúng siêu sinh cho người đã mất. Địa Tạng có thể ngồi hoặc đứng, cây gậy vẫn trong tay phải.




Liên quan đến Địa ngục, Âm phủ, Mật Tông có lẽ là phái tìm hiểu sâu về sự Chết nhất.

Một số chùa miền Bắc có chịu ảnh hưởng của Mật Tông còn làm hình tượng của Địa Ngục. Như chùa Trăm Gian có bộ phù điêu gỗ mô tả Thập điện Diêm vương với 10 cảnh khổ hình ở địa ngục như cưa người, bỏ vạc dầu, đốt lửa, bẻ chân tay, núi đao, biển máu... trông rất ghê rợn.

Một số chùa thì tạo "Cảnh thập điện" dưới dạng các hang núi dưới âm phủ. Dưới cùng là các quỷ đầu trâu mặt ngựa với các hình phạt, cảnh leo cầu vồng; trên đó một chút là các phán quan của Địa ngục, các vị thần tướng canh giữ; trên nữa là các Diêm Vương cai quản; trên cùng là các Bồ tát, Phật đang đứng ngồi... Những chiếc hang giả này mô tả sự đối lập giữa địa ngục thảm khốc và cõi Phật an lành. Ngay bên dưới cũng có những hình người chắp tay đứng, mô tả những người dù ở dưới Địa ngục, nhưng có lòng hướng về Phật thì cũng được an lành không phải chịu cảnh khổ sở.

Những cái này mang màu sắc TQ và Mật Tông nhiều hơn Phật giáo gốc từ Ấn Độ.
Chiếc hang Địa ngục ở chùa Láng, ngôi chùa mang sắc thái Mật Tông nổi tiếng do Từ Đạo Hạnh tạo dựng.







Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #22
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.205
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Cấp Cô Độc trưởng giả

Ông Cấp Cô Độc không chỉ được tôn kính vì hành động cúng dường khu vườn quý cho Phật, mà còn vì lòng tốt rất mực, sự mộ đạo rộng lớn và sự bảo hộ chư tăng của ông. Ông là một trưởng giả giàu có, nhưng dùng tiền bạc của mình để chu cấp cho những người nghèo khó, cô nhi quả phụ, nên mới mang tên là Cấp Cô Độc, tức là chu cấp cho người cô độc.

Với công đức đó của ông, người ta tôn ông là vị thần chủ gìn giữ cho các ngôi chùa. Vì thế chùa cổ bao giờ cũng có tượng thờ ông, mang tên gọi là Đức Ông, hay Đức Chúa Ông.

Tượng Đức Ông chùa Tây Phương



Đức Ông Tuy nhiên, dần dà trong dân gian ít người còn để ý đến nguồn gốc ngài trưởng giả Cấp Cô Độc, mà tượng Đức Ông còn có lúc được coi là Long Thần, hay đơn giản tức là vị thần canh giữ chùa.

Tượng Đức Ông, với vai trò là một vị thần chủ, do đó được thêm vào các hầu cận văn võ hai bên. Trong dân gian có phong tục khi đứa trẻ khó nuôi thì làm lễ "bán con lên chùa", tức là bán cho Đức Ông. Như thế là bán cho một vị thần, chứ không phải bán cho Phật, vì Phật thì làm sao mua bán được.

Việc bán con lên chùa cho Đức Ông cũng có liên quan đến lịch sử trưởng giả Cấp Cô Độc, vì ông cũng cứu giúp cho rất nhiều trẻ nhỏ, nuôi dậy chúng. Bán con cho Đức Ông cũng là nhờ phúc đức của ngài che chở.






Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời

Tags
chùa đất việt


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 20:58
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,09252 seconds with 15 queries