Vị trí: Thuộc thành phố Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Đặc điểm: Ngã sáu Buôn Ma Thuột khá thân quen với tên gọi "Ngã sáu Ban Mê" đầy chất thơ, nhạc, không ngừng biến đổi qua thời gian, ghi nhận những thăng trầm của lịch sử khai phá vùng đất cao nguyên Buôn Ma Thuột.
Người Buôn Ma Thuột những năm đầu thế kỷ 20 đã chọn cho mình một địa thế khá bằng phẳng để khai khẩn và lập nghiệp. Ngã sáu Buôn Ma Thuột, nơi giao lộ của những con đường đi lại giữa khu dân cư người Kinh với các buôn làng Ê Đê bản địa và đường về miền trung châu. Con đường xưa đất đỏ, quanh năm lầy lội vào mùa mưa và bụi đỏ về mùa khô, rồi đường được lát đá, bây giờ là đường rải nhựa phẳng lỳ thênh thang. Ngã sáu Buôn Ma Thuột đã có một bộ mặt bề thế mang dáng dấp của một phố thị trẻ, tựa như gương mặt một côgái ở độ tuổi mới lớn, với quần thể kiến trúc bao quanh như đài tưởng niệm, khách sạn, trung tâm văn hóa, những cơ sở dịch vụ tổng hợp, Công ty Du lịch Đắk Lắk, Đài phát thanh truyền hình...
Vị trí: Nhà đày Buôn Ma Thuột nằm ở Tp. Buôn Ma Thuột, tỉnh Đắk Lắk.
Đặc điểm: Nhà đày Buôn Ma Thuột không những là chứng tích về tội ác của bọn Đế quốc - thực dân mà nó còn là trường học lớn đào tạo và rèn luyện nên những chiến sĩ cách mạng kiên cường của cách mạng Việt Nam.
Chắc có lẽ nhiều bạn trẻ ngạc nhiên khi được nghe kể lại rằng thành phố Buôn Ma Thuột sôi động hôm nay, cách đây hơn 50 năm là những cánh rừng hoang vu, mênh mông phủ kín, dân cư thưa thớt, nơi đây xưa kia được coi là chốn rừng thiêng nước độc, người đồng bằng ít dám mơ tưởng đặt chân lên chốn này.
Thế nhưng cũng cùng thời gian ấy, ở đây đã có một nhà đày (một trong những khu biệt giam tù chính trị) với chế độ tàn bạo nhất của bọn thực dân Pháp ở nước ta. Đến Buôn Ma Thuột tìm hiểu về mảnh đất - con người, không thể không đến thăm khu di tích lịch sử cách mạng đã được Nhà nước xếp hạng này.
Tại đây, các bạn sẽ được thấy, được nghe, được biết thêm nhiều điều mới lạ về truyền thống đấu tranh oanh liệt của những chiến sĩ cộng sản thuở trước như: Hồ Tùng Mậu, Phan Đăng Lưu, Nguyễn Chí Thanh, Tố Hữu, Hồng Chương, Bùi San, Trần Văn Quang, Ngô Đức Đệ, Nguyễn Duy Trinh, Nguyễn Phụng Tân, Huỳnh Thanh... và biết bao nhiều người con ưu tú của mọi miền Tổ quốc.
Nhà đày Buôn Ma Thuột có vai trò đặc biệt quan trọng trong cuộc vận động cách mạng Tháng Tám ở Đắk Lắk. Những chiến sĩ cộng sản bị địch giam cầm ở đây đã trở thành những người gieo hạt mầm cách mạng vào mảnh đất cao nguyên đất đỏ này.
Được mở rộng và xây dựng kiên cố thêm trên cơ sở của một Prison (nhà lao) có từ năm 1900 đến năm 1930, nhà lao Buôn Ma Thuột trở thành nơi đày ải những chiến sĩyêu nước Việt Nam. Giờ đây, đến thăm nhà lao Buôn Ma Thuột, các bạn sẽ nhìn thấy những chứng tích tội ác của bọn thực dân Pháp. Qua đó, bạn có thể hình dung lại toàn bộ nhà đày Buôn Ma Thuột với chế độ cai trị khắc nghiệt và tàn bạo chẳng khác nào địa ngục của bọn thực dân Pháp.
Năm tháng đã qua đi, nhưng những dấu ấn ấy như còn in rõ vào tâm trí của mỗi người. Khi đặt chân đến đây, nhìn lại những chiếc cùm các bạn cũng sẽ thấy đau lòng, bồi hồi xúc động và càng khâm phục những chiến sĩ cộng sản kiên cường không sợ hy sinh, quyết tâm chiến đấu và đã chiến thắng kẻ thù góp phần giải phóng dân tộc thoát khỏi đêm mờ nô lệ. Những ai đã qua khỏi nhà đày Buôn Ma Thuột còn sống sau này đều trở thành hạt nhân của cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 và đóng góp nhiều công sức suốt hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Nhà đày Buôn Ma Thuột được công nhận là di tích lịch sử vào năm 1980.
Điện Biên - Khu di tích chiến thắng Điện Biên Phủ
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Vị trí: Chiến trường Điện Biên Phủ thuộc tỉnh Điện Biên, cách Tp. Hà Nội khoảng 500km về phía tây.
Đặc điểm: Chiến trường Ðiện Biên là một di tích lịch sử ghi lại chiến công oanh liệt của quân và dân Việt Nam trong cuộc kháng chiến anh dũng chống thực dân Pháp.
Từ Hà Nội theo quốc lộ 6 qua Sơn La, Thuận Châu, vượt đèo Pha Ðin sang Tuần Giáo rồi rẽ theo quốc lộ 279 vào Ðiện Biên. Thung lũng Ðiện Biên bốn bề là núi bao bọc với nhiều ngọn đồi ở phía đông và cánh đồng Mường Thanh dài 20km, rộng 6km, có sông Nậm Rốn chảy qua nên vùng đất Ðiện Biên này rất màu mỡ. Từ cuối năm 1953 thực dân Pháp đã đổ quân chiếm đóng Ðiện Biên và thành lập ở đây một tập đoàn cứ điểm quân sự mạnh được trang bị nhiều vũ khí hiện đại.
Tại thung lũng Ðiện Biên đã diễn ra cuộc chiến đấu cực kỳ anh dũng của quân dân Việt Nam suốt 55 ngày đêm với đội quân viễn chinh xâm lược của thực dân Pháp (13/3/1954 - 7/5/1954), bắt sống tướng Ðờ Catri (De Castries) và toàn bộ ban chỉ huy, loại khỏi vòng chiến đấu 16.000 quân địch. Chiến thắng Ðiện Biên Phủ đã gây một tiếng vang lớn chấn động địa cầu, khắp năm châu đều biết đến Ðiện Biên Phủ - Việt Nam.
Các di tích nổi bật của chiến trường Ðiện Biên năm xưa là đồi A1, C1, C2, D1, cứ điểm Hồng Cúm, Him Lam, đồi Ðộc Lập, cầu và sân bay Mường Thanh, hầm chỉ huy của tướng Ðờ Catri.
Quần thể di tích Sở chỉ huy Chiến dịch ở xã Mường Phăng, cách Tp. Ðiện Biên Phủ gần 30km, bên cạnh khu du lịch hồ Pá Khoang cảnh đẹp như trong thần thoại. Nối hai lán làm việc của Đại tướng Võ Nguyên Giáp và Tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái là một đường hầm dài 96m, đào xuyên qua đồi để tránh bom và đạn đại pháo. Những bậc cấp dẫn lên miệng hầm (cũng là lán của Đại tướng) nay đã phủ rêu phong của thời gian.
Ðiện Biên Phủ từ xưa vừa là nơi giao lưu văn hóa và kinh tế của các dân tộc vùng biên ải Việt - Lào - Hoa và vừa là vùng tranh chấp thế lực giữa các lãnh chúa phong kiến. Trong nhiều thế kỷ, chiến tranh đã bao lần diễn ra trên cánh đồng Mường Thanh. Mãi đến năm 1777, phủ Ðiện Biên mới chính thức được thành lập, cuộc sống yên bình trở lại, dân cư bắt đầu tụ tập, ổn định và xây dựng cuộc sống. Do vị trí địa lý độc đáo, nơi "một tiếng gà gáy ba nước đều nghe thấy", trong vùng lòng chảo khá phồn thịnh, nơi buôn bán, trao đổi hàng hóa giữa bản địa, người Lào, người Myanmar và cả các dân tộc miền nam tỉnh Vân Nam, Trung Quốc. Từ Ðiện Biên, hàng hoá -chủ yếu là hàng nông thổ sản của vùng Tây Bắc, được vận chuyển qua cửa khẩu Tây Trang, cách thành phố 30km về phía Tây, để sang Lào, Thái Lan và Myanmar, đổi lấy hàng tiêu dùng.Bên dưới vẻ phù hoa của Phố Cũ, đằng sau nét tráng lệ của những con đường và biệt thự nơi phố mới, có một nét đẹp riêng của phủ Ðiện Biên dễ làm say lòng khách phương xa: người Kinh, người Thái, người H' Mông... mỗi dân tộc có lối sống riêng, có nền văn hoá riêng, trang phục riêng thật thuần khiết và rất mến khách. Ta có thể gặp họ bất cứ ở đâu, trong buổi chợ sớm bên cầu Mường Thanh, ven lối mòn về bản, trong phòng đợi của sân bay Ðiện Biên... Những con người ấy, cùng với thiên nhiên nguyên sơ tươi đẹp in đậm dấu ấn lịch sử, là thứ tài nguyên vô giá có sức hấp dẫn riêng đối với du khách mà không thể có ở nơi khác.
Đồng Nai - Khu di tích lịch sử chiến khu Đ là điểm Du lịch của Đồng Nai
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Một tour du lịch nối kết nhiều điểm đến của Đồng Nai gồm làng bưởi Tân Triều - di tích lịch sử chiến khu Đ - làng dân tộc Phú Lý đang được Sở Thương mại - du lịch xúc tiến xây dựng. Trong đó, di tích lịch sử Chiến khu Đ được xem là một điểm nhấn quan trọng cho toàn tuyến.
Khi bắt tay xây dựng tuyến du lịch này, Sở Thương mại - du lịch đã xác định đây sẽ là một tour du lịch về nguồn kết hợp với du lịch sinh thái, dã ngoại. Khu di tích lịch sử Chiến khu Đ không chỉ có ý nghĩa quan trọng trong việc giáo dục thế hệ trẻ mà còn mang trong mình tiềm năng rất lớn cho khai thác và phát triển du lịch. Hơn nữa, việc đưa Chiến khu Đ thành điểm du lịch quen thuộc cũng nhằm phục vụ cho công tác tuyên truyền, giáo dục thế hệ trẻ và thu hút khách đến tham quan, học tập, nghiên cứu, qua đó hiểu rõ hơn về ý nghĩa lịch sử, tinh thầnyêu nước và đấu tranh của quân và dân miền Đông Nam bộ.
Để di tích lịch sử Chiến khu Đ thành điểm đến du lịch hấp dẫn, ngành du lịch đã dự kiến tổ chức một số hoạt động như: tái hiện lại cuộc sống của người chiến sĩ giải phóng năm xưa trong chiến khu (du khách ngủ võng giữa rừng, thổi cơm bằng bếp Hoàng Cầm); thăm làng dân tộc của đồng bào Chơ Ro bản địa (du khách được ăn cơm lam, uống rượu cần và múa hát cùng đồng bào); tham quan Khu bảo tồn thiên nhiên Vĩnh Cửu; các trò chơi tập thể, trò chơi dân gian; tổ chức ăn nghỉ cho du khách, bán hàng lưu niệm đặc trưng (khăn rằn, nón tai bèo)... Việc đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá cho tour du lịch về nguồn với Chiến khu Đ lịch sử trong năm 2006 cũng đã được ngành du lịch dự thảo kế hoạch trình UBND tỉnh. Trước mắt, ngành sẽ lập một website với nhiều nội dung tuyên truyền, quảng bá; phối hợp cùng các phương tiện thông tin đại chúng trong và ngoài tỉnh thực hiện những chương trình giới thiệu về du lịch Chiến khu Đ... Công ty du lịch Đồng Nai chịu trách nhiệm khai thác tuyến du lịch này cũng như thiết kế các tour có nối với điểm di tích Chiến khu Đ.
Kế hoạch là vậy, nhưng để tuyến du lịch này đi vào hiện thực thì vẫn còn rất nhiều những khó khăn đối với ngành du lịch tỉnh lẫn Ban quản lý khu di tích lịch sử Chiến khu Đ. Các đoàn và khách tham quan tự do trước nay chỉ đến tìm hiểu di tích, được hướng dẫn, thuyết minh rồi...về, tất cả chỉ trong nửa ngày. Dù khách đã vất vả đường xa đến đây nhưng khu di tích vẫn chưa có hoạt động nào để "giữ chân" du khách giống như Khu di tích địa đạo Củ Chi (TP. Hồ Chí Minh). Hiện tại, khu di tích gần như chưa có cơ sở phục vụ lưu trú, ăn nghỉ, vui chơi nào cho du khách. Hệ thống các biển định danh cho các loài cây thuộc Khu dự trữ thiên nhiên Vĩnh Cửu đến nay vẫn chưa làm. Vì vậy, nếu được đưa vào khai thác du lịch, khu di tích hiện mới chỉ có thể là một điểm dừng chân trong tour về Đồng Nai của du khách. Để Chiến khu Đ thành điểm du lịch về nguồn kết hợp du lịch sinh thái có sức giữ chân du khách ở lại vài ngày có lẽ còn phải chờ vào tiến độ quy hoạch và thực hiện quy hoạch của một dự án lớn hơn: dự án Trung tâm văn hóa - lịch sử Chiến khu Đ. Thế nhưng, việc từng bước đưa vào thêm một số sản phẩm du lịch để khu di tích vốn đã hấp dẫn khách du lịch lại càng hấp dẫn hơn vẫn là một việc làm hoàn toàn khả thi đối với ngành du lịch mà không phải nằm chờ vào quy hoạch.
Đồng Nai - Đền thờ Nguyễn Tri Phương
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Tọa lạc tại phường Bửu Hòa, Biên Hòa, đền được xây dựng vào khoảng đầu thế kỷ 19 để thờ Trần Thành Hoàng của dân địa phương. Đến năm 1873, khi Nguyễn Tri Phương mất được nhân dân tạc tượng thờ tại đây. Đền có kiến trúc theo kiểu chữ "Công" nằm bên hửu ngạn sông Đồng Nai. Đền được Bộ Văn Hóa công nhận là di tích lịch sử văn hóa năm 1991.
Đền Thờ Nguyễn Hửu Cảnh
Đền được xây dựng cách đây khoảng 300 năm, là công trình kiến trúc cổ để tưởng niệm ông Nguyễn Hửu Cảnh, người đầu tiên có công khai phá đất Đồng Nai. Đền thờ được dựng bên sông Đồng Nai, mặt tiền soi bóng xuống dòng sông thơ mộng. Đền được trùng tu nhiều lần. Triều Nguyễn trùng tu hai lần, Gia Long năm thứ nhất và năm 1851. Năm 1960 đền được trùng tu lại.
Đình Tân Lân
Thuộc phường Hòa Bình, thành phố Biên Hòa. Đền được xây dựng thời vua Minh Mạng (1820 -1840), nơi thờ Trần Biên đô đốc tổng quân trần Thượng Xuyên, là người có công mở mang nông Đại Phố (phố Nông Nại ở thành phố Biên Hòa). Đình Tân Lân là công trình tiêu biểu cho nghệ thuật kiến trúc thời Nguyễn Hòa với nghệ thuật kiến trúc đặc trưng của vùng Hoa Nam (Trung Quốc) với các tác phẩm điêu khắc đá, chạm khắc gỗ, phù điêu ghép sành, cẩn xà cừ, tượng sành Hoa Nam... trong đó ẩn chứa những triết lý nhân sinh sâu sắc.
Đình An Hòa
Được xây dựng khoảng năm 1788, 1792, và đã được trùng tu 3 lần vào các năm 1944, 1953, 1994. Đình An Hòa là di tích kiến trúc nghệ thuật của xã An Hòa, huyện Long Thành. Đình có kiến trúc chữ "Công". Trong đình còn lưu giữ sắc phong của vua Tự Đức, và nhiều Hoành Phi, câu đối từ các đời Gia Long, Minh Mạng, Tự Đức.
Là một di tích văn hóa đã được xếp hạng tiêu biểu cho nền văn hóa cổ đại xuất hiện cách đây khoảng hơn 2.500 năm. Mộ cổ Hàng Gòn do ông Bouchtj một kỹ sư cầu đường người Pháp phát hiện vào năm 1927 khi mở đường liên tỉnh số 2 nối Long Khánh và Bà Rịa. Mộ cổ Hàng Gòn nằm ở độ cao 250m về phía tây tỉnh lộ 2 (Long Khánh đi Bà Rịa), cách thành phố Biên Hoà 80km, thuộc xã Xuân Tâm, huyện Xuân Lộc, tỉnh Đồng Nai.
Mộ có kiến trúc gồm hai hàng trụ đá bao quanh hầm mộ. Có 10 trụ đá cao từ 2,5 đến 3 m (7.5 đến 9 ft). Hầm mộ có dạng hình hộp kích thước 4,2 x 2,7 và cao 1,6 m (4.8 ft). Nét đặc biệt của ngôi mộ cổ là được ghép bởi những tấm đá hoa cương nặng hàng tấn, riêng nắp mộ ước tính khoảng 10 tấn. Có nhiều phiến đá bằng phẳng, xếp cân đối, tinh vi, khoa học, biểu trưng cho nền văn minh của người xưa. Ngôi mộ này là một trong những di tích tiêu biểu cho loại hình "DolMen" ở Đông Nam Á.
Từ năm 1992, mộ cổ Hàng Gòn được trùng tu và xây tường bảo vệ, lát gạch quanh hầm mộ để chống xói mòn và trồng nhiều cây cảnh xung quanh. Đây là ngôi mộ cổ nhất và quy mô nhất tại Việt Nam còn được bảo tồn đến ngày nay. Mộ cổ Hàng Gòn nằm ở xã Xuân Tân, huyện Long Khánh, trên độ cao 250 m (750 ft) về phía tây tỉnh lộ 2 (Long Khánh đi Bà Rịa), cách thành phố Biên Hòa khoảng 80 km (50 miles).
Chùa tọa lạc ở số K2/3B Tân Bình, phường Bửu Hòa, thành phố Biên Hòa, tỉnh Đồng Nai. Được xây dựng vào năm 1664 là một trong ba ngôi chùa có niên đại sớm nhất ở Đồng Nai, và được trùng tu nhiều lần vào các năm: 1748, 1842, 1952 và đầu thập niên 1990.
Chùa là công trình kiến trúc tôn giáo theo kiểu chữ "Tam", chạm trổ công phu, ở điện Phật có nhiều pho tượng cổ bằng đất nung và bằng đồng. Chùa Long Thiền là nơi truyền bá Phật giáo đầu tiên ở miền Nam. Hiện nay là trụ sở giáo hội Phật Giáo tỉnh Đồng Nai.Chùa được dựng vào cuối thế kỷ XVIII và đã được trùng tu nhiều lần. Ở điện Phật, có nhiều pho tượng Phật cổ bằng đất nung và bằng đồng.
Trụ trì chùa hiện nay là Hòa thượng Thích Huệ Thành, nguyên Tăng Thống Phật giáo Cổ truyền Việt Nam, hiện là phó Pháp chủ Giáo hội Phật giáo Việt Nam, đã trùng kiến ngôi chùa vào năm 1956 và những năm gần đây. Chùa đặt văn phòng Ban Trị sự Phật giáo tỉnh Đồng Nai. Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
Chùa tọa lạc ở xã Hiệp Hòa, thành phố Biên hòa, tỉnh Đồng Nai, trong vùng đất cổ cù lao Phố. Chùa được dựng từ cuối thế kỷ XVII. Công chúa Ngọc Anh, con thứ ba của Nguyễn Vương đã xin xuất gia thọ giới với Thiền sư Mật Hoằng.
Đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Vương cho trùng kiến ngôi chùa, xây lầu chuông, lầu trống, tạc pho tượng Di-đà cao 2,25m. Chùa còn bảo tồn nhiều tượng cổ và tấm hoành phi sơn son thếp vàng ghi "Đại Giác Tự" do Công chúa Ngọc Anh cúng vào năm 1820. Chùa được đại trùng tu vào năm 1959.
Chùa đã được Bộ Văn hóa công nhận là Di tích lịch sử - văn hóa quốc gia.
Đồng Tháp - Khu di tích Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc
Nguồn: Maxreading
Thu gọn nội dung
Vị trí: Khu di tích Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc nằm ở thị xã Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp.
Đặc điểm: Ðây là công trình ghi ơn cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, nhà nho yêu nước và là thân phụ Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Khu di tích cụ Nguyễn Sinh Sắc là một quần thể kiến trúc văn hoá hấp dẫn ở tỉnh Đồng Tháp, được Bộ Văn hoá -Thông tin xếp hạng ngày 09/4/1992.
Toàn bộ khu di tích rộng 3,6ha, chia làm hai cụm kiến trúc: mộ và nhà lưu niệm cụ Phó bảng; nhà sàn và ao cá Bác Hồ, mô phỏng nơi ở và làm việc của Bác ở Hà Nội. Đối diện với cổng vào là lăng mộ cụ Phó bảng, mái hình bàn tay úp, phía trên mái là chín con rồng - biểu tượng của các tỉnh đồng bằng sông Cửu Long. tại khu di tích có rất nhiều cây cảnh, hoa quý được nhân dân hiến tặng hoặc đưa về từ nhiều miền của đất nước, trong đó đặc biệt là cây khế gần 300 tuổi (nằm bên trái mộ) và cây sộp hơn 300 tuổi (nằm bên phải mộ). Trong nhà lưu niệm trưng bày nhiều hiện vật, tư liệu liên quan đến những năm tháng cụ Sắc sống và làm việc, nhất là thời gian ở Cao Lãnh và vùng đất Nam Bộ.
Hàng năm, cứ vào ngày 27/10 âm lịch, bà con nhiều nơi hội tụ về đây tổ chức lễ giỗ cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc trong không khí trang nghiêm và đông vui như một ngày hội lớn ở địa phương.Hàng triệu du khách trong và ngoài nước đã đến Đồng Tháp tham quan và viếng mộ Cụ Phó bảng Nguyễn Sinh Sắc, thể hiện lòng biết ơn đối với Người đã có công sinh thành Bác Hồ muôn vàn kính yêu