Người đời Hán có vợ là Bàng Thị, cả hai vợ chồng đều hiếu thảo. Mẹ chồng muốn uống nước sông, hàng ngày Bàng Thị phải đi thật xa, để gánh nước về. Trời rét, mẹ muốn ăn gỏi cá tươi, vợ chồng cố tìm cho đủ đem về. Lại sợ mẹ ở một mình buồn bực, nên thường mời các bà bên cạnh đến chơi. Về sau, tự nhiên ở bên cạnh nhà có suối nước ngọt chảy ra giống như vị nước sông, hàng ngày lại có hai con cá chép đủ làm gỏi cho mẹ dùng. Từ đó, Bàng Thị và chồng không phải đi quảy nước xa, và kiếm cá nữa.
Nguyên bản:
Xá trắc cam tuyền xuất,
Thất triêu song lý ngư.
Tử năng tri sự mẫu.
Phụ cánh hiếu ư cô
Có nghĩa là:
Bên nhà có suối nước ngọt chảy,
Mỗi ngày có hai con cá chép.
Con trai biết đạo thờ mẹ.
Con dậu hiếu để với mẹ chồng.
Diễn Quốc âm:
Hán Khương Thị nhà còn lão mẫu,
Vợ Họ Bàng vẹn đạo chữ tòng,
Mẹ thường muốn uống nước sông.
Vợ từng đi gánh thay chồng hầu cô,
Mẹ thường muốn ăn đồ gỏi ghém.
Vợ chồng đều tìm kiếm đủ mùi,
Lại mời lân ẩu sang chơi,
Để bồi cùng mẹ cho vui bạn già,
Bên nhà bỗng chảy ra suối ngọt.
Với nước sông in một mùi ngon.
Lý Ngư ngày nhảy hai con,
Đủ trong cung cấp thần hôn thường lề.
Rày thong thả bỏ khi lận đận.
Cam thỏa lòng dâu thuận, con hiền,
Cho hay gia đạo khi nên.
Đã con hiếu, lại được hiền cả dâu
Người đời nhà Hán, mồ côi cha từ thuở còn bé, nhà rất nghèo. Thái Thuận hết lòng thờ mẹ. Gặp năm mất mùa đói kém vì loạn lạc, Thái Thuận vào rừng tìm trái dâu về để ăn thay cơm. Được trái nào chín, Thuận để qua một bên, trái nào vừa đỏ để qua một bên khác. Gặp tướng Xích My đi ngang qua, trông thấy hỏi Thuận vì cớ nào lại phải lựa dâu để riêng ra như vậy. Thuận liền đáp: Trái nào chín ngọt dành phần cho mẹ tôi, trái nào đỏ còn chua, đó là phần của tôi. Tướng giặc khen Thuận là người con hiếu, liền truyền quân lính cho một thúng gạo và một đùi thịt trâu để khen thưởng.
Nguyên bản:
Hắc Thầm phụng huyên vy,
Đề cơ lệ mãn y,
Xích My tri hiếu thuận,
Đẫu mễ tặng quân quy
Có nghĩa là:
Quả dâu chín đen để biếu mẹ.
Bụng đói nước mắt chảy thấm áo,
Giặc Xích My biết là người hiếu.
Tặng cho thúng gạo mang về.
Diễn Quốc âm:
Người Thái Thuận ở sau Đời Hán.
Dạ thờ thân tiết loạn khôn lay,
Đường cơn khói lữa mây bay,
Liền năm hoang khiểm, ít ngày đủ no.
Nơi rừng rậm kiếm đồ nuôi mẹ,
Nhặt quả dâu chia để làm hai,
Tặc đồ trông thấy nực cười.
Hỏi: Sao bày đặt hai nơi cho phiền?.
Rằng Quả ấy sắc đen thì ngọt,
Dâng mẹ già gọi chút tình con.
Còn là sắc đỏ chẳng ngon,
Cái thân cay đắng dám còn sợ chua,
Giặc nghe nói khen cho hiếu kính.
Bước lưu ly mà gánh cương thường,
Truyền quân tiền của sẳng sàng.
Vó tr6au một chiếc, gạo lương một bầu,
Mừng trong dạ bước mau nhẹ gót,
Về tới nhà, miếng sốt dâng qua,
Cho hay người cũng người ta,
Biết đâu đạo tặc chẳng là lương tâm?
Người đời nhà Hán, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, khi trưởng thành, nhớ công ơn cha mẹ, thuê thợ tạc tượng cha mẹ bằng gỗ để thờ phượng. Ngày dâng hai bữa cơm, tối đến lại lo quạt màn, sửa soạn gối chăn, hầu hạ chăm nom in như hồi cha mẹ còn sống. Phụng thờ như vậy trong mấy mươi năm. Về sau, vợ Đinh Lan sinh chán nản, lại dùng kim châm vào kẻ tay trượng gỗ xem có gì lạ không. Không ngờ nơi ấy cứ nhỏ từng giọt máu tươi xuống mãi.
Đến bữa, Đinh Lan bưng cơm vào cúng, nhìn thấy tượng gỗ rươm nước mắt, kẻ tay lại chảy máu. Ông biết là vợ đã châm kim vào tay cha mẹ, liền đuổi bỏ người vợ ngay.
Nguyên bản:
Khắc một vi phụ mẫu,
Hình dung tại nhật thần,
Ký ngôn chư tứ diệt,
Các yếu hiếu song thân.
Có nghĩa là:
Tạc gỗ làm tượng thờ cha mẹ,
Thờ phượng giống như khi sống,
Nhắn bảo các con cháu,
Mọi người nên hiếu với cha mẹ
Diễn Quốc Âm:
Hán Đinh Lan thuở còn thơ ấu,
Bóng xuân huyên khuất dấu non xanh.
Đến nay tuổi đã trưởng thành,
Cám công sơn hải, thiệt tình trân cam.
Tưởng dung mạo khắc làm mộc tượng,
Cứ bữa thường phụng dưỡng như sinh,
Khi chăn gối, buổi cơm canh,
Mấy mươi năm, vẫn lòng thành trước sau,
Phải người vợ kính lâu nên trễ,
Thử lấy kim châm kẻ ngón tay
Bỗng đâu giọt máu chảy ngay,
Ai hay tượng gỗ lâu ngày thiêng sao?
Khi đến bữa chồng vào đặt lễ
Mắt tượng rơi hàng lệ chứa chan
Xét xem mới biết nguồn cơn,
Nỗi bừng lá giận, dứt tan dây tình.
Há phải nhẫn, mà đành phụ nghĩa,
Hiếu với tình nặng nhẹ phải cân,
Cho hai thành hẳn lên thần,
Há rằng u hiển, mà phân vân, tồn
Người đời Đông Hán, từ lúc mới lên 6 tuổi đã biết hiếu thảo. Một hôm Lục Tích theo cha sang quận Cửu Giang viếng Viên Thuật. Họ Viên làm việc thết đãi, Lục Tích thấy trong tiệc có quít ngon, bèn lấy hai trái bỏ vào túi áo dấu. Đến khi chào Viên Thuật ra về, Vô ý để quít lọt ra ngoài. Viên Thuật nói đùa: Sao lấy quýt giấu như thế?. Lục Tích đáp ngay: Mẹ tôi thích ăn quít lắm. Nhân tiện trong tiệc có quít ngon nên tôi giấu vài quả đem về biếu mẹ tôi. Viên Thuật khen Tích là người con chí hiếu.
Nguyên bản:
Hiếu để giai thiên tính,
Nhân gian lục tuế nhi,
Tụ trung hoài lục quất,
Dị mậu sự kham kỳ.
Có nghĩa là:
Lòng hiếu để là tính do trời phú,
Đứa trẻ lên sáu trên thế gian này,
Giấu quít vào trong tay áo,
Đem vè biếu mẹ cũng là điều lạ.
Diễn quốc âm:
Hán Lục Tích thươ còn sáu tuổi,
Quận Cửu Giang đến với họ Viên,
Trẻ thơ ai chẳng yêu khen,
Quít ngon đặt tiệc tiểu diên đãi cùng,
Cất hai quả vào trong tay áo,
Tiệc tan xong từ cáo lui chân,
Trước thềm khúm núp gởi thân,
Vô tình quả quít nẩy lăn ra ngoài,
Viên trông thấy cười cười hỏi hỏi,
Sao khách hiền mang thói trẻ thơ?
Thưa rằng: Mẹ vốn tính ưa,
Vật ngon dành lại để đưa mẹ thì.
Viên nghe nói trọng vì không xiết,
Bé con con mà biết hiếu thân,
Cho hay phú giữ thiên chân,
Sinh ra ai cũng sẵn phần thiện đoan.
Sinh vào đời nhà Hán, mồ côi cha từ lúc còn bé, Giang Cách chí hiếu. Trong lúc loạn lạc họ Giang cõng mẹ lánh nạn, giữa đường gặp giặc toan bắt đi. Ông kêu van khóc lóc thảm thiết và cho biết còn mẹ già phải phụng dưỡng, nay nếu ông bị bắt đi thì mẹ già không người nuôi nấng. Thấy tình cảnh của Giang Cách đáng thương, giặc tha cho về. Giang Cách liền cõng mẹ chạy về Hạ Bì, cố hết sức làm thuê làm mướn để nuôi mẹ qua cơn loạn lạc.
Nguyên bản:
Phụ mẫu đào nguy gian,
Trung đồ tặc phạm tần,
Ai cầu câu hoạch miễu,
Dung lực dĩ cung thân.
Có nghĩa là:
Cõng mẹ chạy lánh nạn,
Giữa đường gặp giặc bắt luôn,
Kêu van cùng được tha,
Cố làm thuê để nuôi mẹ.
Diễn Quốc âm:
Hán Cách Giang cô đơn từ bé,
Bước truân chuyên với mẹ đồng cư,
Đương cơn loạn lạc bơ vơ,
Một mình cõng mẹ vẫn vơ dọc đường.
Từng mấy độ chiến trường gặp giặc,
Giặc cố tình hiếp bắt đen đi,
Khóc rằng Thân mẹ lưu ly,
Tuổi gì bóng chếch biết thì cậy ai?
Giặc nghe nói thoắt thôi chẳng nỡ,
Rồi dần dà qua ở Hạ Bì,
Dấn mình gánh mướn làm thuê.
Miễn nuôi được mẹ quản gì là thân.
Áng xuân phong tươi nét từ nhan,
Cho hay những lúc gian nan,
Thật vàng, dẫu mấy lửa than cũng vàng
Người đời Đông Hán, mẹ mất vào lúc mới lên 9 tuổi. Hoàng Hương gào thét và kêu khóc thảm thiết, người trong làng cho là con có hiếu. Thờ cha rất mực cung kính, sớm khuya hầu hạ, không dám lãng xao. Mùa đông, Hoàng Hương nằm ủ vào chăn chiếu của cha để được truyền hơi nóng cho cha khỏi rét, đến mùa hè quạt màn gối của cha để cho mát mẻ luôn, nhờ đó mà cha được ăn ngon ngủ yên, quanh năm quanh năm vui vẻ không biết có mủa đông, mùa hè. Quan Thái thú ở quận ấy nhận thấy họ Hoàng là người con hiếu thảo, liền làm sớ tâu vua Hán. Hán đế ban cho Hoàng Hương tấm biển vàng đề chữ là người con hiếu để.
Nguyên bản:
Đông nhật ôn khâm noãn,
Viên thiên phiến chẩm lương.
Nhi đồng tri tử chức,
Thiên cổ nhất Hoàng Hương
Có nghĩa là:
Mùa đông thì ủ cho ấm chăn,
Mùa nực thì quạt cho mát gối.
Trẻ thơ đã biết đạo làm con,
Ngàn xưa chỉ có một Hoàng Hương.
Diễn Quốc Âm:
Đời Đông Hán Hoàng Hương chín tuổi,
Khuất bóng từ dòi dõi nhớ thương.
Hạt Châu khôn ráo hai hàng,
Tiếng đồn vang dậy trong làng đều khen.
Thờ nghiêm phụ cần chuyên khuya sớm,
Đạo làm con chẳng dám chút khuây,
Trời khi nắng hạ chầy chầy,
Quạt trong mán gối hơi bay mát rầm.
Trời đông buổi sương đầm tuyết thắm,
Ấp hơi mình cho ấm chiếu chăn.
Vì con cha được yên thân,
Bốn mùa không biết có phần Hạ, Đông,
Tiếng hiếu hạnh cảm lòng quận thú.
Biển nên treo chói đỏ vàng son.
Cho hay tuổi trẻ mà khôn,
Nghìn thu biết đạo làm con mấy người?
Người nước Ngụy đời Tam Quốc, cha làm quan nhà Ngụy. Sau nhà Tây Tấn diệt nước Ngụy nhất thống thiên hạ. Cha Vương Thôi bị nhà Tây Tấn giết hại, ông quá thương xót, phủ phục trước mộ khóc mãi. Tương truyền nước mắt ông chảy quá nhiều, làm cho cây trắc bên mồ kkhô héo được tươi lại. Suốt đời Vương Thôi không bao giờ ngồi day mặt về hướng Tây, (vì Tây Tấn ở phương Tây) để tỏ ý chí cương quyết không bao giờ làm tôi cho nhà Tây Tấn.
Mẹ ông lúc sinh thời hay sợ sấm, cho nên khi mất rồi, hễ khi nào trời mưa có sấm chớp, ông lại ra mồ mà khấn rằng Có con đây rồi cốt để cho mẹ khỏi sợ. Biết ông là người tài giỏi, nhà Tây Tấn nhiều lần mời ông ra làm quan, nhưng ông cương quyết khước từ, ở nhà mở trường dạy học. Mỗi khi ông giảng sách cho học trò đến thiên Lục Nga trong Kinh thi có câu: Phụ Hề sinh ngã ông nhớ đến cha rồi tự nhiên nước mắt tuôn rơi, học trò đều cảm động và bỏ thiên Lục Nga không dám đọc nữa.
Nguyên Bản:
Từ mẫu phạ văn lôi.
Băng hồn túc dạ đài,
Át hương thời nhất chấn.
Đáo mộ nhiễu thiên hồi.
Có nghĩa là:
Mẹ hiền sợ nghe tiếng sấm.
Hồn thơm đã nằm dưới suối vàng,
Khi nghe thấy tiếng sấm động,
Đến mồ mẹ đi quanh nghìn lần
Diễn Quốc âm:
Ngụy Vương Thôi gặp đời Tây Tấn,
Vì thù cha lánh ẩn cao bay.
Bên mồ khóc đã khô cây,
Trọn đời ngồi chẳng hướng Tây lúc nào,
Khi sấm sét tìm vào mồ mẹ.
Lạy khóc rằng Con trẻ ở đây,
Bởi vì tính mẹ xưa nay,
Vốn từng sợ sấm những ngày gió mưa.
Nên coi sóc chẳng từ sớm tối,
Thần phách yên, dạ mới được yên.
Trong khi đọc sách giảng truyền,
Tới câu sinh ngã lệ tràn như tuôn.
Ngập ngừng kẻ cấp môn cũng cảm,
Thơ Lục Nga chẳng dám còn ngâm,
Cho hay thử lý thử tâm.
Sư, sinh cũng thấm tình thâm khác gì.
Người đời nhà Tấn, lúc mới lên 8 tuổi đã biết thờ mẹ rất có hiếu, nhà nghèo, mùa hè nhiều muỗi, không có tiền mua màn, sợ cha mẹ bị muỗi đốt, Ngô Mãnh cởi trần nằm cho muỗi đốt mà chẳng dám xua đuổi, để cha mẹ được ngủ yên.
Nguyên bản:
Hạ dạ vô văn trướng,
Văn đa bất cảm huy,
Tứ cừ bảo cao huyết.
Miễn sử nhập thân vi.
Có nghĩa là:
Đêm mùa hè không có màn,
Muỗi nhiều không dám xua,
Cho muỗi đốt no máu mình.
Để khỏi đấn nơi cha mẹ nằm
Diễn Quốc âm:
Tấn Ngô Mãnh tuổi thì lên tám.
Lòng sự thân chẳng dám khi nhàn,
Cực về một nỗi bần hàn.
Có giường không đặt, không màn ngoài che.
Trời đương buổi đêm hè nóng nảy,
Tiếng muỗi kêu vang dậy dường mưa,
Xót thay hai đấng nghiêm từ,
Để người chịu muỗi bây giờ biết sao.
Nghĩ da thịt phương nào thay lấy,
Quyết nằm trần muỗi mấy chẳng xua.
Rầu lòng cho muỗi được no,
Để người êm ái giấc hòe cho an.
Tuổi tuy bé nhưng gan chẳng bé,
Dạ ái thân đến thế thời thôi.
Cho hay phú tính bởi trời,
Những đau trong ruột, dám nài ngoài da
Người đời nhà Tấn, mẹ mất sớm. Vương Tường ở với cha, nhưng bị bà mẹ ghẻ rất sâu cay thường kiếm lời nói ra nói vào, khiến cho cha ông ghét bỏ. Nhưng ông không oán ghét bà mẹ ghẻ mà ăn ở rất có hiếu. Mùa đông, nước đóng lại thành băng, bà mẹ ghẻ đòi ăn cá tươi, ông cởi trần trên băng giá để tìm cá. Bỗng nhiên băng nứt đôi ra, có hai con cá chép nhảy lên, ông bắt về làm món ăn cho kế mẫu. Trước lòng hiếu thảo chân thành của đứa con chồng, bà mẹ ghẻ hồi tâm và cha của Vương Tường cũng hết giận, từ đó hai người yêu mến đứa con như vàng.
Nguyên bản:
Kế mẫu nhân gian hữu,
Vương Tường thiên hạ vô,
Chí kim hà thượng thủy,
Nhất phiến ngọa băng vô,
Có nghĩa là:
Mẹ kế thế gian thường có.
Hiếu như Vương Tường người thiên hạ không ai.
Đến bây giờ ở trên sông,
Không một ai nằm trên băng giá cả.
Diễn Quốc Âm:
Người Vương Tường cũng là đời Tấn,
Tủi huyên đường sớm lẫn bóng xa,
Mẹ sau gặp cảnh chua ngoa.
Tiếng gièm thêu dệt với cha những điều,
Lòng cha chẳng còn yêu như trước.
Lòng con thường chẳng khác như xưa,
Mẹ thường muốn bữa sinh ngư,
Giá đông trời lạnh bây giờ tìm đâu.
Trên váng đóng, quyết cầu cho thấy.
Cởi áo nằm rét mấy cũng vui,
Bỗng đâu váng lở làm hai,
Lý Ngư may được một đôi đem về.
Bữa cung cấp một bề kính thuận,
Mẹ cha đều đổi giận làm lành,
Cho hay hiếu cảm tại mình,
Dẫu trăm giận, lúc hả tình cũng thôi.