[center:b0e35eacc8]TRIỀU TRẦN (1225-1400)[/center:b0e35eacc8]
Trần Thái Tông (1225-1258)
Niên hiệu:
- Kiến Trung (1225-1231)
- Thiên ứng chính Bình (1232-1250)
- Nguyên Phong (1251-1258)
Vị vua đầu tiên của nhà Trần, sinh ngày 16 tháng 6 năm Mậu Dần (1218) tại hương Tức Mặc Phủ Thiên Trường, nay là thôn Tức Mặc xã Lộc Vượng ngoại thành Nam Định. Ông có tên thật là Trần Cảnh con trai Trần Thừa, cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú. Việc lên ngôi của Ông do tài sắp đặt của Trần Thủ Độ mà nên, lúc ấy ông mới tròn 8 tuổi. Trần Thủ Độ đã thu xếp cho Trần Cảnh được làm chức chánh hậu, có tên gọi là chức Chánh thủ. Ban đầu chỉ được hầu hạ bên ngoài, sau vài lần được vào trong để bưng nước rửa cho vua. Vua lúc bấy giờ là Lý Chiêu Hoàng (Con gái vua Lý Huệ Tông, cô là vị vua sau cùng của nhà Lý). Sau nhờ Trần Thủ Độ thu xếp Lý Chiêu Hoàng đã nhường ngôi cho Trần Cảnh tức là vua Trần Thái Tông.
Trần Cảnh lên ngôi nhưng việc quân sự thì do Trần Thủ Độ nắm việc chính trị thì do cha làm Thượng hoàng giúp đỡ, song những người này trình độ văn hoá cũng còn nhiều hạn chế. Các quan nhà Lý ở lại phục vụ nhiều, song không thấy nói có một ai được chính thức giúp vua làm phụ chính. Vậy mà trong suốt những năm đầu ở tuổi thiếu nhi, Trần Cảnh đã được sử sách ghi chép đúng như một ông vua có tài.
Để giữ vững an ninh đất nước, Trần Thủ Độ đã giúp nhà vua dần ổn định được tình hình, lợi dụng các mâu thuẫn giữa các tay quân phiệt và dần dần dẹp yên được nội loạn.
Khi bước sang tuổi thành niên, Ông đã phát huy rõ rệt tài năng xuất sắc của mình. Nhưng trước khi thực sự nắm chắc quyền hành của mình, Ông đã phải chịu một nỗi đau, khiến Ông phải xót xa ân hận mà không biết phải xử trí ra sao, nguyên nhân là Chiêu Thánh Hoàng hậu lấy Ông đã được 12 năm mà vẫn chưa có con, trong khi triều Trần cần kíp phải có Hoàng tử. Trần Thủ Độ đã nhất quyết buộc Ông phải bỏ Chiêu Thánh lập Hoàng hậu mới là Thuận Thiên chị ruột của Chiêu Thánh, hiện là vợ của Trần Liễu (anh của Trần Cảnh) đang có mang khiến Trần Cảnh đau khổ bỏ trốn ra khỏi kinh thành lên núi Yên Tử trú ngụ (1236). Trần Thủ Độ phải trổ hết mưu mẹo mới rước được Ông về kinh.
Trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông đầu năm Đinh Tý (1-1258) vua Trần Thái Tông đã biết dựa vào Trần Thủ Độ, Trần Quốc Tuấn (tức Hưng Đạo vương, con của Trần Liễu) để lãnh đạo nhân dân Đại Việt quyết chống giặc.
Tháng 12 năm Đinh Tý (1258), vua Thái Tông đã cùng Thái Tử Hoảng chỉ huy quân Tần phá tan quân Nguyên ở Đông Bộ Đầu, giải phóng Thăng Long.
Trần Thái Tông được sử sách lưu truyền bởi ông là một nhà Thiền học, một triết gia có những tư tưởng sâu sắc, một cốt cách độc đáo. Lúc làm vua ông đã thân chinh đi đánh giặc, xông vào mũi tên hòn đạn, làm vua thì xem thường vinh hoa phú quý, có thể từ bỏ ngai vàng không chút luyến tiếc.
Mùa Xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái Tông nhường ngôi cho Thái Tử Trần Hoảng, triều đình tôn Thái Tông lên làm Thái Thượng Hoàng để cùng coi việc nước. Thái Tông làm vua được 33 năm, làm Thái Thượng Hoàng 19 năm thì mất, thọ 60 tuổi.
Trần Thánh Tông (1258-1278)
Niên hiệu:
- Thiện Long (1258-1272)
- Bảo Phù (1273-1278)
Vua Trần Thái Tông có 6 người con: Trần Quốc Khang (thực là con của Trần Liễu với Thuận Thiên), Trần Hoảng, Trần Quang Khải, Trần Nhật Duật và các công chúa Thiều Dương, Thuỵ Bảo.
Mùa xuân năm Mậu Ngọ (1258), Thái tử Hoảng sinh năm 1240 lên nối ngôi lấy hiệu là Thánh Tông.
Vua Thánh Tông sống hoà hợp thân ái với các hoàng thân, vua dốc lòng xây dựng đất nước thái bình, thịnh trị. Vua quan tâm đến việc giáo hoá dân, khuyến khích việc học hành, mở những khoa thi chọn người tài và trọng dụng họ. Dưới thời ông Bộ Đại Việt ký sử, bộ quốc sử đầu tiên của nước ta, được Lê Văn Hưu hoàn thành năm Nhân Thân (1272).
Vua còn quan tâm đến dân nghèo bằng việc ra lệnh cho các vương hầu, phò mã chiêu tập những người nghèo đói lưu lạc để khai khẩn ruộng hoang, lập trang hộ. Trang điền có từ đấy. Vì vậy, trong suốt 21 năm làm vua đất nước không có giặc giã. Nơi nơi dân chúng yên ổn làm ăn.
Vua Thánh Tông thực hiện chính sách ngoại giao mềm dẻo, nhưng rất kiên quyết, nhằm bảo vệ danh dự cho tổ quốc, ngǎn chặn từ xa mọi sự dòm ngó, tạo cớ xâm lược của nhà Nguyên.
Năm Đinh Sửu (1277) Thái thượng hoàng Trần Thái Tông mất ở phủ Thiên Trường (Tức Mạc. Năm sau đó vua Trần Thánh Tông nhường ngôi cho con là Thái tử Khâm rồi về phủ Thiên Trường làm Thái thượng hoàng.
Vua Trần Thánh Tông trị vì được 21 năm, làm Thái thượng hoàng được 13 năm thì mất, thọ 51 tuổi.
Trần Nhân Tông (1279-1293)
Niên hiệu:
- Thiệu Bảo (1279-1284)
- Trùng Hưng (1258-1293)
Vua Trần Thánh Tông có 3 người con: Thiên Thuỵ công chúa, Thái Tử Khâm và Tả thiên Vương Đức Việp. Năm Kỷ Mão (1279), Thái tử Khâm Sinh năm Mậu Ngọ (1258) kế vị ngôi vua lấy hiệu là Nhân Tông.
Trần Nhân Tông là vị vua anh minh, quyết đoán được sử sách ca ngợi là vị anh hùng cứu nước. Thời gian Trần Nhân Tông trị vì, nước Đại Việt đã trải qua những thử thách ghê gớm, nhưng Triều đại nhà Trần dưới quyền ông quả là một thời thịnh trị.
Những năm đầu cầm quyền, Trần Nhân Tông đã phải trực tiếp chỉ đạo cuộc kháng chiến chống giặc Nguyên Mông. Ông đã cùng vua cha Trần Thánh Tông, mở hội nghị quân sự Bình Than, phân công các tướng lĩnh đi đóng giữ những nơi hiểm yếu để chuẩn bị đỡ các mũi tiến công của địch (1282). Ông lại cùng với cha tổ chức hội nghị Diên Hồng (1284) để nhất trí trẻ già một lòng quyết đánh. Chưa bao giờ tinh thần đánh giặc ở nước ta lại phát triển mạnh như thế. Quân ta đã đại thắng tại trận Bạch Đằng (9-4-1288), đè bẹp ý đồ bành trướng của đế quốc Nguyên Mông. Chiến công này là của toàn dân, của những vị nguyên soái, đại tướng tài giỏi như Trần Hưng Đạo, Trần Quang Khải, Phạm Ngũ Lão...
Sau 14 năm làm vua Trần Nhân Tông truyền ngôi cho con là Anh Tông về làm Thái thượng hoàng và đi tu trở thành thuỷ tổ phái Thiền Trúc Lâm Yên Tử, để lại dấu ấn sâu sắc trong lịch sử Việt nam. Trần Nhân Tông qua đời năm 1308 tại am Ngoạ Vân núi Yên Tử.
Trần Anh Tông (1293-1314)
Niên hiệu: Hưng Long
Vua Trần Anh Tông có tên thật là Trần Thuyên được vua cha là Trần Nhân Tông truyền ngôi năm 1293 khi Ông 17 tuổi. Tuổi trẻ ham chơi nên ông không để ý đến việc triều chính chỉ lo lang thang các phố chè chén múa hát. Sau khi bị cha phát hiện và trách phạt Ông đã thay đổi tính tình trở thành con người mẫn cán, chăm chỉ, rất chú trọng việc trị nước an dân. Ông chú ý giữ gìn bờ cõi, dùng sức mạnh thị uy để những nước láng giềng không được gây hấn. Ông rất trọng dụng người hiền tài, nghiêm khắc với những thói bê tha chơi bời quá mức. Dưới triều đại của ông các quan lại đều rất xứng với chức sắc của mình, đã hoàn thành được công việc mà lại còn được lưu tiếng tốt: cương trực, thanh liêm.
Anh Tông trị vì 21 năm. Ngay 18 tháng 3 năm Giáp Dần (1314) nhường ngôi cho con là Minh Tông, để trở thành thượng hoàng, lúc đó ông 38 tuổi. Năm Canh Thân (1320) Anh Tông mất, thọ 54 tuổi.
Trần Minh Tông (1314-1329)
Niên hiệu:
- Đại Khánh (1314-1323)
- Khai Thái (1324-1329)
Vua Trần Minh Tông sinh năm 1300 có tên là Trần Mạnh con vua Trần Anh Tông và bà Chiêu Hiến (con gái của Trần Bình Trọng). Vua Minh Tông có lòng nhân hậu , hay thương người nhưng xét việc chưa minh. Năm Â't Mão (1315) vua định lệ cấm người trong họ không được kiện cáo nhau. Năm Quý Hợi (1323) mở khoa thi Thái học sinh chọn người tài ra giúp nước. Nhờ biết tôn trọng kẻ sĩ nên vua Trần Minh Tông đã có dưới trướng mình những hiền thần như Đoàn Nhữ Hài, Phạm Ngũ Lão, Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn, Chu Văn An giúp rập. Tuy nhiên do quá tin vào bọn nịnh thần, vua đã giết oan Huệ Võ Vương Trần Quốc Chẩn, một người có công, là chú ruột đồng thời là bố vợ mình. Minh Tông làm vua đến năm Kỷ tị (1329) thì nhường ngôi cho Thái tử Vượng về làm Thái thượng hoàng.
Trần Hiến Tông (1329-1341)
Niên hiệu: Khai Hưu
Thái tử Vượng con vua Minh Tông sinh năm Kỷ Mùi (1319), mới 10 tuổi lên nối ngôi, hiệu là Hiến Tông. Hiến Tông trị vì nhưng việc điều khiển triều chính, kể cả việc dẹp loạn Ngưu Hống ở Đà Giang, đánh quân Ai Lao xâm phạm bờ cõi đều do Thượng hoàng Minh Tông đảm nhận.
Hiến Tông làm vua đến năm Tân Tị (1341) thì mất, ở ngôi được 13 năm thọ 23 tuổi.
Trần Dụ Tông (1341-1369)
Niên hiệu:
- Thiệu Phong (1341-1357)
- Đại Trị (1358-1369)
Vua Hiến Tông không có con nên việc truyền ngôi báu do Thượng hoàng xếp đặt. Thượng hoàng Minh Tông có 7 con trai: Hiến Tông Vượng, Cung Túc vương Dục, Cung Định vương Trạch, Dụ Tông Hạo, Cung Tĩnh vương Nguyên Trạch, Nghệ Tông Phủ, Duệ Tông Kính.
Hiến Tông mất, Thượng hoàng lập người con tên Hạo, sinh năm Bính Ngọ (1336) lên làm vua hiệu là Dụ Tông. Những năm đầu những quyền bính đều do Thượng hoàng Minh Tông điều khiển. Bởi thế, dù có mất mùa dân đói nhưng việc chính trị vẫn còn nền nếp. Từ năm 1358 trở đi, Thượng Hoàng mất, các cựu thần như Trương Hán Siêu, Nguyễn Trung Ngạn cũng không còn, triều đình bắt đầu rối loạn. Bọn gian thần kéo bè kết đảng lũng đoạn triều chính. Chu Văn An dâng "thất trảm sớ", xin chém 7 gian thần nhưng vua không nghe, ông liền bỏ quan về dạy học. Vua Dụ Tông ham chơi bời rượu chè khiến triều đình rối nát loạn nổi lên như ong. Nhân dân cực khổ trăm bề. Vua Chiêm là Chế Bồng Nga mấy lần đem quân đánh phá thành Thắng Long khiến triều Trần nhiều phen khốn đốn.
Năm Kỷ Dậu (1369) vua Dụ Tông mất thì bão táp đã nổi lên ở cung đình. Nguyên do, Dụ Tông không có con nên triều đình lập Cung Định vương là anh Dụ Tông lên làm vua nhưng bà Hoàng thái hậu nhất định đòi lập người con nuôi của Cung Túc vương là Dương Nhật Lễ lên ngôi. Nguyên mẹ Nhật Lễ là một đào hát, lấy một kép hát boịo là Dương Khương có thai rồi mới bỏ Dương Khương mà lấy Cung Túc vương sinh ra Nhật Lễ. Nay lên làm vua, Nhật Lễ muốn cải họ Dương để dứt ngôi nhà Trần rồi giết bà Hoàng thái hậu cùng Cung Định Vương. Cung Tĩnh vương vốn nhu nhược thấy thể bỏ trốn lên mạn Đà Giang.
Trước tình hình nội chính rối ren, các tôn thất nhà Trần hội nhau khởi binh về bắt giết Nhật Lễ rồi rước Cung Tĩnh vương về làm vua, tức vua Trần Nghệ Tông.
Trần Nghệ Tông (1370-1372)
Niên hiệu: Thiệu Khánh
Cung Tĩnh vương sinh năm Â't Sửu (1324) do các tôn thất nhà Trần phò giúp, lên ngôi năm Canh Tuất (1370).
Nghệ Tông lên làm vua chưa được bao lâu đã phải lao đao chạy giặc. Nguyên do, khi Nhật Lễ bị giết, mẹ Nhật Lễ chạy vào Chiêm Thành cầu cứu vua Chế Bồng Nga đem quân đánh Đại Việt. Quân Chiêm vượt bể vào cửa Đại An tiến đánh Thăng Long. Quân Trần không chống nổi, phải bỏ kinh thành. Vua Nghệ Tông chạy sang Đông Ngàn (Đình Bảng, Bắc Ninh).
Vua nhu nhước, bất lực không điều khiển nổi triều chính phải trao cho Hồ Quý Ly nhiều quyền hành. Hồ Quý Ly có hai người cô lấy vua Minh Tông. Một người là M inh Từ hoàng hậu sinh ra vua Duệ Tông, một người là Minh Tử hoàng hậu sinh ra vua Duệ Tông.
Năm Nhâm Tý (1372) Nghệ Tông truyền gôi cho em là Kính rồi về phủ Thiên Trường làm Thái thượng hoàng.
Trần Duệ Tông (1372-1377)
Niên hiệu: Long Khánh
Trần Kính sinh năm Đinh Mùi (1337) lên ngôi lấy hiệu là Duệ Tông, lập em họ Hồ Quý Ly là Lê Thị làm Hoàng hậu. Duệ Tông quyết đoán hơn nhưng không thể làm được gì vì quyền bính vẫn do Thượng hoàng Nghệ Tông nắm giữ.
Năm Bính Thìn (1376), quân Chiên sang đánh Hoá Châu (Nghệ An). Thấy Chiêm Thành luôn xâm phạm bờ cõi Đại Việt, vua Duệ Tông quyết thân chinh đem quân đi trừng phạt.
Tháng Giêng năm Đinh Tỵ (1377) Duệ Tông tiến quân vào cửa Thị Nại (Quy Nhơn) đánh lấy đồn Thạch Kiều và động Kỳ Mang rồi tiến vào Đồ Bàn, kinh đô vua Chiêm. Chế Bồng Nga lập đồn giữ ở ngoài thành, cho người trá hàng nói Chế Bồng Nga đã bỏ thành chạy trốn, xin tiến binh ngay. Duệ Tông tưởng thật, truyền lệnh tiến binh vào thành. Đại tướng Đại Việt là Đỗ Lễ can mãi vua không nghe. Khi quân Việt đến chân thành Đồ Bàn, quân Chiêm từ 4 phía đổ ra đánh. Quan quân thua to. Vua Duệ Tông chết trong đám loạn quân.
Trần Phế Đế (1377-1388)
Niêu hiệu: Xương Phù
Thượng hoàng Nghệ Tông được tin vua Duệ Tông chết trận bèn lập con Duệ Tông là Hiền, sinh năm Tân Sửu (1361) lên nối ngôi, hiệu là Phế Đế. Nhưng mọi quyền bính vẫn do Thượng hoàng nắm giữ.
Ngay sau khi giết được vua Duệ Tông, Chế Bồng Nga huy động quân Chiêm tiến đánh và cướp phá Thăng Long.
Năm Mậu Ngọ (1378), quân Chiêm lại sang đánh Nghệ An, rồi theo sông Đại Hoàng cướp bóc Thăng Long lần nữa.
Năm Canh Thân (1380) rồi năm Nhâm Tuất (1382) quân Chiêm lại xâm phạm bờ cõi Đại Việt. Nhưng hai lần này chúng bị đánh bại.
Tháng Sáu năm Quý Hợi (1383), vua Chiêm Thành Chế Bồng Nga lại đem quan tiến đánh Đại Việt. Thượng hoàng Nghệ Tông sai tướng Mật Ôn ra giữ ở châu Tam Kỳ (Quốc Oai), nhưng Mật Ôn thua trận bị bắt sống. Thượng hoàng sợ hãi sai Nguyễn Đa Phương ở lại giữ kinh thành còn mình và vua Phế Đế chạy sang Đông Ngàn. Có người thấy vậy níu thuyền lại xin Thượng hoàng cứ ở lại kinh sư mà chống giặc. Nhưng Thượng hoàng không nghe. Lần nữa quân Chiêm lại tàn phá Thăng Long.
Trước tình hình quốc chính rã rời, nhiều tôn thất nhà Trần chỉ lo cho cá nhân mình, xin về trí sĩ. Trần Nguyên Đán biét trước Hồ Quý Ly sẽ cướp ngôi nhà Trần bèn kết làm thông gia với họ Hồ, mong cho con cháu được phú quý và toàn tính mạng. Thượng hoàng Nghệ Tông vẫn hết lòng tin Hồ Quý Ly trung thành với triều Trần, đã trao cho Quý Ly gươm và cờ đề: "Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức". Nhưng vua Phế Đế đã thấy rõ âm mưu thoán đoạt của Hồ Quý Ly. Vua bàn với các quan tâm phúc tìm cách trừ khử để tránh hậu hoạ. Hồ Quý Ly biết mưu ấy đến kêu van với Thượng hoàng:
- Cổ lai chỉ bỏ cháu nuôi con, chứ chưa thấy ai bỏ con nuôi cháu bao giờ.
Thượng hoàng nghe lời Quý Ly xuống chiếu trách vua Phế Đế trẻ con, lại có ý làm hại kẻ công thần, làm nguy xã tắc nên giáng xuống làm Minh Đức đại vương và lập Chiêu Định Vương là con Nghệ Tông lên nối ngôi.
Thấy Thượng hoàng mê muội, một số tướng toan đưa quân vào điện cứu vua Phế Đế. Nhưng vua viết hai chữ "Giải Giáp", ý không muốn trái lệnh Thượng hoàng. Sau đó vua Phế Đế bị thắt cổ chết, các tướng đồng mưu giết Quý Ly đều bị sát hại.
Trần Thuận Tông (1388-1398)
Niên hiệu: Quang Thái
Nghệ Tông Thượng hoàng nghe Quý Ly, giết Phế Đế rồi lập con út của mình là Chiêu Định vương sinh năm Đinh Tỵ (1377) lên làm vua, tức là vua Thuận Tông.
Năm Kỷ Tỵ (1389) Chế Bồng Nga lại đem quân tiến đánh Đại Việt. Vua sai Hồ Quý Ly đem quân cự chiế. Nhưng Quý Ly thua trận phải rút chạy. Cuối năm ấy Chế Bồng Nga lại tiến vào sông Hoàng Giang để đánh chiếm Thăng Long. Thượng hoàng sai đô tướng là Trần Khát Chân đem binh đi chặn giặc. Trần Khát Chân khóc và lạy rồi ra đi. Thượng hoàng cũng khóc. Xem thế đủ thấy vua tôi nhà Trần đã khiếp nhược đến cùng cực. Trần Khát Chân đem binh đóng ở Hải Triều (vùng Hưng Nhân, Thái Bình và Tiên Lữ, Hải Dương).
Tháng Giêng năm Canh Ngọ (1390), Chế Bồng Nga đi thị sát trận địa của Trần Khát Chân. Trần Khát Chân hạ lệnh tập trung mọi loại vũ khí bắt vào chiếc thuyền có chở Chế Bồng Nga. Chế Bồng Nga trúng tên chết.
Trừ xong giặc Chiêm Thành, Hồ Quý Ly càng thao túng triều đình, những ai không ăn cánh với mình, trừ con cái Trần Nguyên Đán, Quý Ly đều xui Thượng hoàng giết hết.
Tháng Chạp năm Giáp Tuất (1394) Thượng hoàng Nghệ Tông mất, trị vì được 3 năm, làm Thái thượng hoàng 27 năm, thọ 74 tuổi. Người đương thời cho Nghệ Tông là ông vua "chí khí đã không có, trí tuệ cũng hèn kém, để cho gian thần lửa đảo, giết hại cả con cháu họ hàng, xa bỏ những trung thần nghĩa sĩ, cứ tin dùng một Quý Ly cho được quyền thế đến nỗi làm xiêu đổ cơ nghiệp nhà Trần".
Năm 1397, Quý Ly bắt vua Thuận Tông phải dời kinh về Tây Đô. Tháng ba năm sau, Quý Ly ép vua nhường ngôi để đi tu. Thuận Tông buộc phải nhường ngôi cho con rồi đi tu. Thuận Tông buộc phải nhường ngôi cho con rồi đi tu ở cung Bảo Thanh tại núi Đại Lại (Thanh Hoá).
Trần Thiếu Đế (1398-1400)
Niên hiệu: Kiến Tân
Hồ Quý Ly bắt vua Thuận tông nhường ngôi cho Thái tử A'n lúc đó mới có 3 tuổi lên kế nghiệp tức là vua Thiếu Đế. Hồ Quý Ly tự xưng là Khâm Đức Hưng Liệt đại vương rồi sai người giết Thuận Tông, con rể mình.
Triều Trần lúc đó có Thái Bảo Trần Nguyên Hãn, Thượng tướng quân Trần Khát Chân lập hội tế mưu trừ Quý Ly. Việc bại lộ Hồ Quý Ly cho giết tất cả 370 người. Sau đấy, Hồ Quý Ly lại xưng là Quốc Tế Thượng hoàng ở cùng Nhân Thọ, ra vào dùng nghi vệ Thiên Tử. Đến tháng hai năm Canh Thìn (1400) Hồ Quý Ly bỏ Thiếu Đế rồi tự xưng làm vua, lật đổ nhà Trần lập nên nhà Hồ.
Như vậy, triều Trần kể từ Thái Tông Trần Cảnh đến Trần Thiếu Đế, là 12 ông vua, trị vì được 175 năm.
Cơ nghiệp nhà Trần bắt đầu suy vì từ vua Dụ Tông và Nghệ Tông. Dụ Tông thì hoang chơi, không lo đến chính sự, làm loạn cả kỷ cương phép nước làm dân nghèo nước yếu. Nghệ Tông thì bạc nhược không phân biệt hiền gian để kẻ quyền thần được thể làm loạn, tự mình nối giáo cho giặc khiến cơ nghiệp nhà Trần tan vỡ.
|