Hitler và những sứ mạng bí mật của Skorzeny Chương VIII Lại bắt đầu từ số không Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Trung tá Schulz, Tư lệnh đội khinh tốc đỉnh được cung cấp cho tôi là một người sôi nổi. Từ lâu, ông ta mơ ước một cuộc hành quân kiểu này. Chúng tôi chuẩn bị cho cuộc đột kích một cách tỷ mỉ, cẩn thận không để sót một chi tiết nào, tiên liệu tất thảy mọi chuyện có thể xảy đến. Sau cùng kế hoạch của tôi hoàn thành.
Trước ngày J một hôm, đội khinh tốc đỉnh sẽ tổ chức một cuộc thăm viếng chính thức hải cảng Santa Maddalena, hải đội sẽ xuyên qua quân cảng và bỏ neo cạnh một con đập ngay dưới thành phố. Cũng ngày hôm đó, đoàn tàu vớt min, dưới quyền chỉ huy của Trung úy Radl, chở đầy các toán cảm tử từ đảo Corse, sẽ tiến qua eo biển và bỏ neo cạnh con đê Palau đối diện với Santa Maddalena. Lẽ tất nhiên các cảm tử quân phải ẩn kín. Vào những giờ đầu tiên của ngày J, cả hai hải đội sẽ điều động như lần lượt sắp rời hải cảng. Bất chợt, các tàu vớt mìn sẽ cho đổ bộ quân cảm tử mà một thành phần sẽ che chở cho đồng bạn tiến từ thành phố đến. Các khinh tốc đỉnh sẵn sàng sử dụng hỏa lực để can thiệp bảo vệ chúng tôi.
Tiếp theo đó, tôi cùng với lực lượng chủ yếu, sẽ theo đội hình xiết chặt, tiến tới biệt thự. Trong trí tôi, sự xuất hiện bất ngờ của một đơn vị đi đều bước trong trật tự sẽ tăng thêm yếu tố bất ngờ. Chúng tôi sẽ cố tránh không để xảy ra biến cố, nhất là nổ súng trong khi đi ngang qua thành phố. Và rồi chúng tôi sẽ tấn công vào biệt thự - tôi sẽ quyết định tại chỗ các chi tiết của cuộc tấn kích, tùy theo tình hình lúc đó. Để đề phòng quân cảnh giữ báo động ngay khi chúng tôi đổ bộ, tôi chỉ định một vài khu vực phải cắt đứt hết dây điện thoại.
Ngay sau khi vô hiệu hóa chừng 150 quân trú phòng canh giữ biệt thự, tôi và ông Duce sẽ lên một chiếc khinh tốc đỉnh. Trong khi đó một toán quân SS sẽ chiếm các ổ súng canh chừng lối ra vào hải cảng. Riêng phần các dàn cao xạ phòng không D.C.A. của Ý đặt trên các ngọn đồi chung quanh thành phố thì thuộc phần các dàn đại bác của chúng tôi thiết lập tại mũi cực bắc Sardaigne lo liệu.
Với một chút may mắn, mọi sự sẽ trôi chảy. Chỉ có một điều còn làm tôi lo ngại thật sự: bên trên biệt thự Weber, gần bến tàu, có nhiều doanh trại, nơi đó 200 sinh viên sĩ quan Hải Quân Ý đang đồn trú để được huấn luyện. Tôi cần có lực lượng che chở thật mạnh để được bảo đảm không bị phản công cạnh sườn. Mặt khác hai thủy phi cơ của Ý và một thủy phi cơ dùng làm bịnh viện lại đang bỏ neo cạnh bờ. Tôi chỉ định hai toán phụ trách làm cho chúng trở nên bất khiển dụng để ngăn không cho quân Ý đuổi theo chiến thuyền chở ông Duce.
Đúng vào ngày trước ngày J, từ rạng đông, các khinh tốc đỉnh từ hải cảng Anzio tiến ra và sau một khoảng đường biển náo nhiệt, đến được Santa Maddalena. Lập tức, Radl rời khỏi tôi, lên một tàu vớt mìn tại Corse, xem xét quân sĩ lên tàu và theo kế hoạch, đoàn tàu vớt mìn phải đến Santa Maddalena vào chập tối. Trong khi chờ đợi, tôi nghiên cứu lại một lần nữa bản đồ biệt thự Weber và vùng kế cận. Cậu bé Warger đã làm việc chu đáo, tất cả đều được ghi chú với mức độ chính xác hoàn toàn, những khoảng cách, những vị trí đặt cửa ra vào, vị trí canh gác v.v… Tuy nhiên, tôi không thể tự ngăn một cảm giác nghi ngờ tính cách chắc chắn, thường xảy ra mỗi khi nhờ kẻ khác thực hiện một công tác quan trọng ngoài vòng kiểm soát của ta. Vậy nên tôi quyết định đích thân đi kiểm soát một lần cuối. Warger đi theo tôi. Ngay khi đến gần biệt thự, tôi thấy một đường dây điện thoại mà Warger không ghi vào bản đồ. Một cơn giận giữ dội làm tôi nhức buốt, bởi vì theo ý tôi, chính những chi tiết vụn vặt này có thể làm hỏng cả chiến dịch như cỡ chúng tôi đang thực hiện.
Thật tình mà nói, ngoài điểm này, các chi tiết tỉ mỉ khác đều đúng cả. Hai tiểu đội phòng vệ đang dạo chơi trên đường, một tiểu đội khác canh cửa ra vào với súng liên thanh. Khốn thay, một bức tường thật cao đã chắn các cặp mắt tò mò nhìn vào vườn. Nhờ cẩn thận ăn mặc như hai thủy thủ, lại cùng khiêng một giỏ quần áo dơ to tướng, chẳng ai chú ý đến chúng tôi. Mục tiêu là một ngôi nhà kế cận và cao hơn biệt thự một chút nhờ đó có thể quan sát bên trong. Trong khi Warger đưa quần áo cho tiệm giặt, tôi lấy cớ là tiệm giặt còn thiếu một vài điều kiện vệ sinh để trèo lên cao hơn và ẩn sau một tảng đá lớn, từ đó có thể nhìn sâu vào biệt thự. Tất cả đều có vẻ yên tĩnh, tôi khắc trong trí những lối đi trong vườn và các điểm chuẩn, rồi quay trở lại, tỏ ra hài lòng về tiệm giặt ủi. Chính nơi đây sự tình cờ trời định đã xảy đến mà trước đây tôi có ám chỉ. Trong khi tôi vắng mặt một lính phòng vệ canh gác ông Duce đã đến viếng tiệm giặt. Tôi tìm cách chuyện gẫu với anh ta bằng kỹ thuật mà Warger đã áp dụng. Tôi cẩn thận hướng câu chuyện qua đề tài sự sụp đổ của Mussolini. Thoạt tiên, anh ta không mấy chú ý đến và chỉ quan tâm khi tôi cho rằng mình biết ông Duce vừa chết. Với thái độ sôi nổi của dân Địa Trung Hải, anh ta đoan quyết với tôi đó chỉ là tin đồn nhảm. Lẽ tất nhiên tôi kích thích thêm anh ta bằng cách nói rằng tôi chắc chắn biết rõ như vậy bởi vì một vài hôm trước đây một bác sĩ bạn tôi đã kể cho tôi nghe rất nhiều chi tiết liên quan đến phút cuối cùng của nhà lãnh tụ Phát-xít.
Đến đây, người lính phòng vệ thân mến của chúng tôi đã không kiềm giữ được nữa:
- No, no, signore, không thể được, - anh ta nói với vẻ tức giận. - Tôi còn thấy ông Duce sáng nay. Tôi đã tham dự vào toán hộ tống ông ấy đến chiếc phi cơ trắng, phi cơ đã chở ông ta đi rồi.
Thật là chua chát! Thật là một điều kinh ngạc tột độ! Người binh sĩ kia đã nói với giọng quả quyết, câu chuyện của anh ta chắc đúng sự thật. Vả chăng lúc đó tôi mới sực nhớ chiếc thủy phi cơ bịnh viện mới ngày hôm qua, sáng nay đã biến mất. Tôi đã thấy nó cất cánh nhưng lúc bấy giờ tôi cho là không có gì quan trọng cả. Mặt khác, tôi đã từng ngạc nhiên khi quan sát biệt thự và thấy nhiều lính phòng vệ nằm nghỉ mệt trên sân thượng. Vậy thì lời giải thích tác phong ít có vẻ quân sự đó là: trong nhà giam này không còn tù nhân nữa!
May mắn là chúng tôi khám phá ra điều này thật kịp thời. Thật là đẹp mặt nếu chúng tôi phát động cuộc tấn công hải lục qui mô mà chúng tôi đã đạo diễn!
Hiện tại, điều phải làm trước hết là hủy bỏ lập tức các cuộc điều quân chuẩn bị của chúng tôi. Tôi gọi điện thoại cho Radl và bắt kịp hắn ít phút trước khi hắn ta lên đường đi Corse. Riêng về phần các quân cảm tử, họ đã xuống tàu sẵn rồi.
- Tất cả gài số de! - Đây là mệnh lệnh của chúng tôi.
Để được cẩn thận, chúng tôi duy trì công cuộc chuẩn bị thêm vài ngày nữa hầu sẵn sàng hành động trong trường hợp ông Duce được mang trở lại Santa Maddalena. Thật kỳ lạ, quân Ý cũng duy trì lực lượng canh giữ trong và ngoài biệt thự. Theo tôi, cơ quan tình báo Ý làm như thế là để xóa bỏ dấu vết và đánh lạc hướng chúng tôi. Rõ rệt, tù nhân của họ rất quan trọng đến nỗi họ không lui bước trước công việc khó khăn phức tạp mênh mông, nhưng cần thiết để thay đổi liên tục nơi giam giữ. Lúc này đây, họ đang thành công – một lần nữa chúng tôi lại bị mất dấu.
Hiện tại, chúng tôi lại trở lại điểm khởi đầu, từ số không. Phải bắt đầu lại tất cả. Trong nhiều ngày liền, chúng tôi chới với. Tin đồn thì không thiếu, nhưng khi chúng tôi mở cuộc điều tra, dầu là đại khái, những tin tức loại này tiêu tan ra mây khói.
Hitler và những sứ mạng bí mật của Skorzeny Chương IX Tìm được mục tiêu Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Một lần nữa, sự tình cờ, chủ nhân ông của những người mạo hiểm đã đến giúp chúng tôi. Chính nhân một cuộc thanh tra thường lệ trong vùng hồ Bracciano, sau cùng, tôi mới khám phá ra những dấu vết chính xác. Một vài sĩ quan của chúng tôi đã trông thấy chiếc thủy phi cơ bệnh viện hạ cánh! Dần dần các tin tức khác sưu tầm được đã hậu thuẫn cho giả thuyết về một giam giữ ông Duce trong chính bán đảo này. Nhiều lần, chúng tôi theo những dấu vết để rồi sau cùng thấy sai lạc, chẳng hạn như hồ Trasimène. Nhưng một hôm, tin tức về một vụ tai nạn xe hơi làm thiệt mạng hai sĩ quan cao cấp Ý đã khiến chúng tôi có ý tưởng tìm kiếm trong vùng núi Abruzzes trùng điệp. Cũng tại đấy, những tin đồn mơ hồ đã dẫn chúng tôi lạc lối, theo ngỏ phía đông của dãy núi.
Dần dần, chúng tôi bắt đầu tin rằng đây là các đường lối do địch vẽ ra để đánh lạc hướng chúng tôi. Cơ quan tình báo Ý quả nhiên không phải là một đối thủ tầm thường. Mặt khác, các cơ quan tình báo của Đức như Bộ Tham Mưu của Thống Chế Kesselring, hoặc các nhân viên của Ausland-Abwehr chẳng hạn, cũng ra sức để được xem là cơ quan đầu tiên khám phá ra chỗ giam nhà độc tài Ý. Trong tháng tám, chỉ huy cơ quan Quân báo Đức, Đô Đốc Canaris, gặp tại Venise đồng nghiệp Ý của ông, Tướng Amé. Cuộc tiếp xúc không kết quả. Có phải quyết tâm giữ bí mật bằng mọi giá của Ý rõ rệt là đã mạnh hơn ý muốn đưa vụ mất tích bí mật này ra ánh sáng của Fuhrer? Chắc như vậy. Liệu có phải Canaris đã nhiệt tâm hành động theo lệnh của Bộ Tư Lệnh tối cao Đức Quốc? Nhiều khi tôi tự hỏi…
Bên cạnh đó, Thống chế Kesselring đã nhân cơ hội sinh nhật thứ 60 của Mussolini – ngày 29 tháng 7 năm 1943 – để thử dò la chính ngay nơi ông già Thống Chế Badoglio. Để làm quà sinh nhật, Hitler gởi sang Ý một ấn bản quí, in giới hạn, toàn bộ tác phẩm của Nietzsche. Sách được đặt trong một hộp gỗ chạm trổ đẹp tuyệt vời. Kesselring bảo rằng Fuhrer muốn ông trao tận tay Mussolini món quà sinh nhật. Đáng tiếc, chiến thuật này thất bại, bởi vì Badoglio từ chối, bằng những lý lẽ lờ mờ.
Trong khoảng thời gian đó, tình hình ở La-mã càng ngày càng trở nên tệ hơn. Lần lượt nhiều Sư đoàn Ý từ mặt trận rút về và kỳ lạ hơn nữa là các đơn vị đó đã đóng chung quanh thành phố - Về phương diện chính thức, mục đích là để ngăn chặn mối đe dọa một cuộc đổ bộ của địch – Thật ra, chúng tôi không tin như vậy. Nếu nhất thời mọi chuyện giữa người Ý và chúng tôi hỏng cả, thì Sư đoàn duy nhất của Đức – Sư đoàn dù của Đại tướng Student – và một vài đơn vị chỉ huy liên lạc của Bộ Tham mưu của Thống Chế Kesselring sẽ bị đặt trước một lực lượng tập trung có ưu thế tuyệt đối gồm 7 Sư đoàn. Chúng tôi nhận thức rằng đó là sự thật khi quân Ý vẫn kéo về tập trung không ngừng.
Trong khi đó bộ phận tình báo của riêng tôi đã xác nhận chắc chắn rằng Mussolini hiện đang ở trong một khách sạn dưới chân núi Gran Sasso, lẽ tất nhiên là được canh kỹ. Trong nhiều ngày liền, chúng tôi thất bại trong việc thử tìm một bản đồ chi tiết về khu vực đó. Vì lẽ khách sạn chỉ được cất xong ít lâu thì chiến tranh bùng nổ, tòa nhà đó không hề được ghi trên bất cứ bản đồ nào. Chúng tôi chỉ tìm được hai tin tức mơ hồ: Câu chuyện của một người Đức ngụ tại Ý đã từng đến nghỉ mát tại khách sạn này vào mùa đông 1938, và một tập quảng cáo của một hãng du lịch, tán dương thiên đường của những tay trượt tuyết nằm ngay trong lòng dãy Abruzzes này.
Những yếu tố đó còn quá mỏng manh so với công cuộc chuẩn bị cho một cuộc đột kích tối quan trọng. Chúng tôi quyết định kiếm thật gấp vài không ảnh. Đại tướng Student cấp cho tôi một phi cơ trang bị máy hình tự động, và sáng ngày 8 tháng 9 tôi bay từ phi trường Pratica di Mare cùng với Radl và một sĩ quan tình báo của Bộ Tư lệnh Sư đoàn, trong kế hoạch của tôi, ông này sẽ đóng vai trò cực kỳ quan trọng.
Vì cần phải dấu kỹ bằng mọi giá mục đích của chuyến bay đối với người Ý, chúng tôi vượt qua dãy Abruzzes với cao độ 5.000 thước. Ngay cả viên phi công cũng không được biết mục đích của chuyến bay, anh ta được cho biết rằng chúng tôi sẽ chụp hình các hải cảng vùng Adriatique.
Khi còn cách Gran Sasso chừng 30 cây số, tôi nghĩ là phải chụp thử vài tấm hình với chiếc máy khổng lồ gắn cứng vào bụng phi cơ. Chúng tôi thấy đường phim trượt của máy bị kẹt vì tuyết đóng. Như vậy máy chụp hình trở nên bất khiển dụng. May thay chúng tôi lại có mang theo máy chụp hình xách tay, dù tốt dù xấu chúng tôi phải xử dụng nó. Chúng tôi cũng bị rét cóng bởi vì trên người chỉ mang bộ quân phục viễn chinh miền Phi Châu. Vì không thể mở hết nắp kính của cánh cửa sau, khi phi cơ đang bay, chúng tôi bắt buộc phải đẩy lui một phần nắp kính để tạo một thị trường cho máy hình. Kế này không mấy thuận tiện, bởi vì người chụp hình bắt buộc phải nhô đầu, vai và tay ra khỏi lỗ hổng.
Tôi thử liều trước. Chưa bao giờ tôi cảm thấy không khí giá buốt như vậy, gió mạnh cắt da. Tôi nhọc nhằn nhô nửa người ra lỗ hổng trong khi Radl nắm chân tôi. Vài phút sau, chúng tôi bay trên Campo Imperatore, một cánh đồng hoang vu quay cuồng nằm trên cao độ 2.000 thước. Những thành núi dựng thẳng đứng của mũi Gran Sasso vạch từng nét một lên cao cho đến 2.900 thước. Những tảng đá xám và nâu, những vách núi trơ trụi và rồi chúng tôi bay qua trên mục tiêu, khách sạn: một kiến trúc vĩ đại, ngay cả khi được nhìn với khoảng cách hiện tại. Tôi chụp tấm hình đầu tiên, rồi chuyển máy hình qua tay trái tôi quay cần lên phim, lúc đó tôi mới biết chỉ trong giây lát mấy ngón tay bị tê cóng đến mức nào. Ngay sau khách sạn tôi thấy một cánh đồng lờ mờ hình tam giác. Tôi tự bảo ngay: đây rồi, bãi đáp của chúng tôi. Một tấm hình thứ ba nữa, rồi tôi lấy chân ra hiệu cho Radl kéo tôi vào.
Phải mất nhiều phút người tôi mới nóng trở lại được. Khi Radl, vẫn luôn luôn "cù không cười" hỏi: Chắc trên mặt trời cũng lạnh như vậy? Tôi quyết định để chuyến về cho hắn nếm thử mùi đau khổ.
Từ bụng phi cơ trèo trở lên vị trí, tôi đã phân biệt được một dãy màu xanh ở xa xa: biển Adriatique. Tôi ra lệnh bay thấp xuống 2500 thước và hướng mũi về phía bắc cho đến khi tới bờ biển. Rồi để đánh lừa viên phi công, tôi mang bản đồ ra nghiên cứu kỹ và bảo Radl chuẩn bị chụp hình cơ sở hải cảng Ancône.
Nhờ thời tiết thật tốt chúng tôi tiến đến các bãi biển tuyệt đẹp Rimini và Riccione rất nhanh. Vượt qua một khoảng nữa, tôi ra lệnh quay trở lại và lên cao 5500 thước để bay ngay trên đỉnh Gran Sasso.
Lần này đến phiên Radl. Chúng tôi lại trở lại vị trí đàng sau phi cơ, nơi đây nhiệt độ đã hạ xuống đáng kể, từ 2 đến 3 độ dưới không độ. Lúc này, chúng tôi đều nguyền rủa bộ quân phục bản xứ mà chúng tôi vẫn ưa thích khi đi dạo dưới ánh mặt trời tại La-mã. Tôi đưa máy hình xách tay cho Radl và giải thích thật lâu cho hắn biết cách xử dụng – phải giải thích thật lâu bởi vì có vẻ là một nghệ sĩ, hắn chẳng biết gì ráo về chi tiết kỹ thuật. Rồi hắn luồn ra cửa, hai tay thẳng về phía trước, trong khi đó tôi quì xuống để giữ chặt lấy chân hắn. Khi thoáng thấy đỉnh núi, tôi véo chân hắn để ra hiệu sẵn sàng. Cùng lúc đó tôi hét lớn – chắc hắn chẳng nghe được gì vì tiếng động cơ quá ầm ĩ – “Mau lên, chụp càng nhiều hình càng tốt”. Tôi cảm thấy qua các cử động co quắp của cặp giò, hắn đang cựa quậy điên cuồng. Có lẽ chúng tôi không bay ngang đúng trên đỉnh núi cho nên Radl cố vươn người để chụp các ảnh nghiêng. Điều này chắc rất có ích vì các hình chụp đó sẽ giúp chúng tôi hiểu thêm thế đất hơn là các hình chụp thẳng đứng, Radl ra hiệu cho tôi kéo vào. Mặt hắn xanh lè vì lạnh.
- Tên nào còn ca tụng với tôi mặt trời tuyệt đẹp ở Ý, tôi sẽ bóp cổ nó, - hắn lầm bầm trong khi hàm răng đánh lập cập.
Trở lại phòng lái, chúng tôi lấy phao cấp cứu mặc vào và phủ lên người cả mấy tờ giấy dầu vứt trong xó. Tiếp theo đó, tôi ra lệnh chi tiết cho phi công: xuống thấp 1500 thước, và trở về nhưng phải theo hướng Bắc cho đến Địa Trung Hải, trên La-mã một chút. Sau đó bay là là hướng về phi trường.
Mười lăm phút sau chúng tôi được biết có lẽ sự thận trọng này đã cứu sống chúng tôi. Vừa tiến đến bờ biển, mặt trời chiếu tràn ngập trong phòng lái bao phủ toàn kiếng, ngồi bên phi công, tôi lơ đãng nhìn phong cảnh. Khi nhìn qua phía trái một cách hết sức tình cờ, về hướng dãy núi Sabins, tôi tưởng không tin ở mắt mình: vô số phi cơ địch với đội hình chặt chẽ đã từ phía Nam tiến về Frascati. Nắm chặt lấy kính đeo mắt, tôi thấy chúng trút bom xuống thành phố đúng bên trên Bộ Tham Mưu của chúng tôi. Đợt thứ nhất vừa rời xa, hai đợt khác xuất hiện trút sức nặng chết người xuống. Đến lúc đó tôi mới biết lệnh bay vòng phía bắc của tôi đã giúp chúng tôi tránh khỏi bị lọt ngay vào chính giữa phi đội địch, mà phi cơ trinh sát của chúng tôi thường không được võ trang chút nào! Lại cũng nhờ bay là là, phi cơ săn giặc hộ tống của địch không khám phá ra chúng tôi.
Vài phút sau chúng tôi đáp an toàn. Về đến Frascati, chúng tôi rơi vào một nơi hỗn độn. Tòa nhà dùng làm Bộ Tham Mưu của Đại tướng Student còn nguyên, nhưng trại của chúng tôi bị đổ nát. Khi chúng tôi muốn tiến vào, một sĩ quan báo động rằng có hai quả bom nổ chậm đang nằm trong hầm, có thể nổ bất tử. Thế nhưng chúng tôi đã để trong hầm những tài liệu quan trọng chứa đựng tất cả kết quả của cuộc điều tra. Mặc kệ - chúng tôi leo lên một đống gạch vụn, đặt chân lên bao lơn và tìm được tài liệu, mặc dầu trong phòng đồ đạc tung tóe hỗn độn. Sau đó, chúng tôi lại đặt chân được xuống đường.
Tổn thất về phía thường dân chắc là cao. Trái lại hầu hết cơ sở quân đội Đức thoát khỏi bị tàn phá. Binh sĩ của chúng tôi đang sửa chữa các đường dây điện thoại bị hư hại nặng. Phần tôi, không để mất giây phút nào, thật vậy tôi phải đến La-mã thật gấp để gặp một số sĩ quan Ý mà tôi được biết có dự định giải thoát ông Duce. Tôi cần biết kế hoạch của họ để tránh dẫm chân lên nhau.
Sau vài phút chuyện trò, tôi nhận thấy các sĩ quan trẻ tuổi này có niềm hăng hái đáng khen và một quyết tâm rất vững chắc, tuy nhiên công cuộc chuẩn bị của họ còn thua xa chúng tôi. Khi tôi giã từ các “bạn đồng mưu” này, trời đã tối hẳn, tôi còn phải băng qua thành phố La-mã để về gặp Radl tại một căn cứ Đức. Xe tôi tiến chầm chậm bởi vì đường phố tự nhiên có vẻ náo nhiệt một cách bất thường. Người ta tập hợp quanh các loa phóng thanh và khi tôi đến đầu đường Via Veneto, tôi phải chạy rề rề. Tiếng hoan hô vang dậy tiếp theo sau một tin tức được loan truyền bằng loa phóng thanh, tôi nghe vài tiếng la hét “Viva il Re!”, đàn bà ôm lấy nhau, người người bàn luận sôi nổi. Càng lúc càng lo ngại, tôi phải dừng xe lại để hỏi một người đi đường và tôi được báo một tin khủng khiếp: Nước Ý đã buông khí giới.
Tôi biết rõ ràng tình trạng các đơn vị của chúng tôi tại bán đảo rất khó khăn. Thật ra chúng tôi chờ đợi sự đầu hàng này, nhưng không ai nghĩ rằng nó xảy ra sớm như vậy. Dầu sao, biến cố này cũng sẽ làm chậm trễ sứ mạng của tôi – chậm trễ hay vô phương thực hiện không biết chừng.
Vài ngày sau, tôi được biết Tướng Eishenhower đã đi trước bằng cách tuyên bố trên đài phát thanh Alger cùng ngày đó nhưng lúc 18 giờ 30, sự đầu hàng của Ý Quốc đặt chính quyền Badoglio trước một sự đã rồi, ít ra cũng là về phương diện ngày giờ chấm dứt sự thù nghịch, vả lại phe Đồng Minh đã ấn định một cuộc đổ bộ lên Salerne vào đêm 8 và 9 tháng 9, và họ không thể thay đổi ngày giờ của chiến dịch. Cuộc hành quân này đã làm cho nhiệm vụ của một “đồng minh” mới dễ dàng hơn: cầm chân đa phần lực lượng Đức chung quanh Salerne. Theo báo cáo của các cơ sở tình báo, chúng tôi tiên liệu ngay cả một cuộc nhảy dù của Đồng Minh trong vùng Rome, nếu vậy, lực lượng yếu kém của chúng tôi sẽ bị đặt vào một tình thế không mấy sáng sủa, cũng như vậy, cuộc không tập ào ạt nhằm vào Frascati đã được quyết định trong cuộc tiếp xúc giữa chánh quyền Badoglio và đại diện của Bộ Tư Lệnh Tối Cao Đồng Minh nhằm mục đích giải tán Bộ Tham Mưu quân lực Đức tại Ý. Phần chót của kế hoạch này đã thất bại. Chúng tôi vẫn giữ được liên lạc với tất cả các đơn vị và lẽ tất nhiên tất cả đều được đặt trong tình trạng báo động.
Đêm 8 và 9 tháng 9 trôi qua trong yên tĩnh ngoại trừ vài chuyện lộn xộn nhỏ giữa quân Đức và quân Ý phía Nam thành phố La-mã. Trong ngày 9 tháng 9, trái lại, chung quanh Frascati, nơi tập trung các cơ sở Đức đã xảy ra đụng độ nghiêm trọng. Nhưng đến tối, chúng tôi giữ chắc được toàn thể vùng Monts Sabins. Dần dần các đơn vị Đức tiến gần đến La-mã hiện đang được nhiều Sư đoàn Ý bao quanh bảo vệ.
Trong khoảng thời gian xảy ra các biến cố kể trên, trong khi nhìn nhận là cần phải hoãn việc giải thoát ông Duce lại vài ngày, tôi vẫn luôn luôn tìm cách kiểm chứng bằng các chi tiết chính xác tối đa, sự có mặt của ông Duce trong khách sạn tại Gran Sasso. Những chỉ dẫn đầu tiền đã do hai người Ý vô tình cung cấp cho chúng tôi, tuy nhiên tôi thích được xác nhận bởi một người Đức. Rõ ràng là không thể nghĩ đến việc gởi một thám tử đến khách sạn bởi vì nơi đây chỉ được nối liền với thế giới bên ngoài bằng một đường xe treo khởi đi từ thung lũng. Tâm trí tôi bị dằn vặt rất nhiều trong việc tìm cách đến gần một cách tự nhiên, cho đến lúc trước khi Ý đầu hàng một ngày, tôi đã thành công vì kiếm được một người như ý. Tại La-mã, tôi có quen với một Bác sĩ Thiếu tá Đức, một người có nhiều tham vọng và từ lâu mong ước được gắn một huy chương. Tôi quyết định khai thác ước vọng vinh quang này và ngay tối ngày 7 tháng 9, tôi giải thích cho ông ta nghe phương cách làm cho thượng cấp ban cho đặc ân đó.
Cho đến nay, tất cả những binh sĩ Đức bị bệnh sốt rét – rất nhiều người bị - đều được gởi đến Tyrol để điều trị. Tôi đề nghị với ông Thiếu tá Bác sĩ thân mến của chúng tôi là “tự ý” tìm cách đến khách sạn trên núi Gran Sasso mà tôi cho là mình biết rất rõ – để xem thử cơ sở này, nằm trên cao độ 2.000 thước, có thể dùng làm nơi dưỡng bệnh hay không. Tôi nhấn mạnh là phải thảo luận thật kỹ tại chỗ với viên giám đốc, ghi nhận số giường còn trống, thanh sát cơ sở vệ sinh v.v… và tổ chức cuộc thương lượng ngay lập tức. Điều gợi ý của tôi không phải rơi vào tai kẻ điếc: sáng ngày 8 tháng 9, ông Bác sĩ đảm đang của tôi lên đường bằng xe hơi và tôi xác nhận rằng bây giờ tôi mới lo. Liệu ông ta có trở về được không, liệu tôi còn gặp lại ông ta an toàn không?
Ngày hôm sau, người điệp viên bất đắc dĩ của tôi trở về, tỏ vẻ thất vọng vì nghĩ rằng cuộc đầu hàng của Ý có thể làm cho dự tính của ông ta thất bại. Với các chi tiết thật tỉ mỉ, ông ta kể lại bằng cách nào, sau khi đến Aquila, ông đến được thung lũng khởi điểm của hệ thống xe treo. Tuy nhiên, bao nhiêu cố gắng của ông để tiếp tục con đường đều vô ích. Đường xe treo bị một rào cản chắn ngang, thêm vào đó, có vô số lính phòng vệ canh gác. Sau một hồi cãi cọ với quân canh, ông được phép gọi điện thoại cho khách sạn. Tuy nhiên không phải viên Giám Đốc trả lời, bên kia đầu dây, một sĩ quan cho ông rõ là vùng Campo Imperatore đã được coi như khu vực huấn luyện quân sự và do đó mọi sự vận dụng đất đai cũng như cơ sở tại đây đều bị cấm chỉ. Chiếu theo những gì mà ông Thiếu Tá quan sát được, hiện đang có các cuộc điều động quan trọng, trong thung lũng ông ta thấy một xe truyền tin và các xe treo không còn thất nghiệp nữa. Trong một làng kế cận, dân chúng kể với ông nhiều chuyện khó tin: hình như khách sạn vừa mới bị trưng dụng, người ta đuổi lập tức các công nhân dân sự và sửa chữa lại tòa nhà để chứa khoảng 200 binh sĩ. Các sĩ quan cao cấp đã đến thung lũng nhiều lần, một vài người – những người rành tin tức nhất – còn giả định là Mussolini bị giam trên ấy. Nhưng đó chỉ là tin đồn, không nên tin, ông Thiếu tá nhận xét.
Tôi đã lừa được ông ta.
Hitler và những sứ mạng bí mật của Skorzeny Chương X Công tác chuẩn bị sau cùng Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Ngày hôm sau, nghĩa là ngày 10 tháng 9 năm 1943, quân lực Đức tái chiếm La-mã và vùng phụ cận. Như vậy, tôi có thể bắt đầu thi hành dự án hay đúng hơn, bắt đầu công tác chuẩn bị cuối cùng, đặc biệt là thiết lập kế hoạch chi tiết.
Trước hết tôi cùng Radl nghiên cứu các điều kiện khả hữu mà chúng tôi phải chọn lựa (giả thuyết rằng cuộc đột kích có thể thực hiện được). Một điểm chắc chắn, chúng tôi không thể để mất thì giờ nữa. Mỗi ngày và có lẽ mỗi giờ chậm trễ sẽ làm gia tăng mối hiểm nguy do sự thay đổi chỗ giam ông Duce, đó là chưa kể đến điều mà chúng tôi sợ nhất: sự chuyển giao ông Duce cho Đồng Minh mà chắc phía họ đã đòi hỏi rồi. Sau đó ít lâu tôi được biết Tướng Eishenhower đã đưa yêu sách này vào trong điều kiện ngưng bắn.
Một cuộc hành quân trên bộ chắc chắn sẽ đưa chúng tôi đến chỗ thất bại không cứu chữa được. Một cuộc tấn công từ các vách thẳng đứng sẽ đưa tới nhiều tổn thất quan trọng và chắc chắn quân phòng vệ có đủ thời giờ dấu ông Duce hoặc mang ông ta đi nơi khác. Để ngăn không cho họ thoát đi với ông Duce, chúng tôi cần cả Sư đoàn để bao vây toàn dãy núi, do đó hành động trên bộ phải được coi là không thực hiện được.
Lợi điểm tối hảo của chúng tôi phải là sự bất ngờ toàn diện, bởi ngoài các lý do chiến lược, chúng tôi còn sợ rằng quân trú phòng đã nhận được lệnh giết ông Duce hơn là để cho ông thoát. Chỉ có sự can thiệp sấm sét của chúng tôi mới giúp cho ông Duce tránh được cái chết chắc chắn.
Như vậy chúng tôi thấy chỉ còn hai cách: một cuộc đột kích nhảy dù hoặc một cuộc đổ bộ gần khách sạn bằng máy lượn. Sau khi cân nhắc thật lâu ưu và khuyết điểm của hai giải pháp, chúng tôi chọn giải pháp thứ hai. Trong một không khí loãng ở cao độ này, để tránh cho khỏi rơi xuống quá nhanh, cần phải có loại dù đặc biệt mà chúng tôi không có sẵn. Hơn thế nữa, tôi tiên liệu quân nhảy dù sẽ đáp rải rác xuống một địa thế quá gập ghềnh, như thế sẽ không thể nào siết chặt đội hình để hành động thật nhanh được. Chỉ còn lại vấn đề đổ bộ cùng một lúc nhiều máy lượn. Nhưng chung quanh khách sạn lại chẳng có một khu đất trống là gì ?
Chiều ngày 8 tháng 9, khi tôi muốn in một số không ảnh thì phòng tối của đơn vị tại Frascali đã bị cuộc oanh tạc phá hủy. Một sĩ quan của tôi bèn mang đến nhờ một phòng tối dự bị, tiếc thay người ta không thể in cho chúng tôi ảnh cỡ lớn, nhờ đó có thể sử dụng máy quang phổ giúp nhìn nổi địa hình một cách rõ rệt. Tôi phải bằng lòng với ảnh cỡ nhỏ khổ 14 x 14 phân, nhưng trên đó tôi cũng thấy rõ hoàn toàn cánh đồng tam giác đã làm tôi chú ý khi bay trên khách sạn. Chính trên cánh đồng được chọn làm bãi đáp này, tôi xây dựng kế hoạch đột kích.
Cũng còn phải nghĩ tới việc che chở phía sau và lúc rút lui khi sứ mạng hoàn tất. Trong kế hoạch của tôi, hai mục tiêu này phải đạt được bằng cách sử dụng một Tiểu đoàn Dù đổ bộ ban đêm bằng máy lượn, xuống thung lũng và đến giờ H, chiếm trạm xe treo.
Sau khi xem xét tại những nét chính của kế hoạch như thế, tôi đến gặp Đại tướng Student. Tôi biết rằng từ 3 hôm nay, ông không hề được nghỉ ngơi một chút nào – vả lại, cả tôi cũng vậy – tuy nhiên đây là lúc phải quyết định. Tôi trình bày kế hoạch và cố thuyết phục ông. Thật ra, Đại Tướng tỏ ra không mấy phấn khởi, ông không dấu tôi niềm thông cảm, nhưng ông cũng hiểu rằng, trừ phi chối bỏ sứ mạng được giao phó, chúng tôi phải thử dịp may duy nhất cuối cùng của chúng tôi. Mặc dù vậy, trước khi chấp thuận, ông tham khảo vị Tham mưu trưởng và một sĩ quan tham mưu khác của ông. Thế nhưng hai ông chuyên viên về hàng không này lại có lập trường hoàn toàn chống lại kế hoạch của tôi. Theo họ, chưa bao giờ người ta thực hiện một cuộc đổ bộ ở cao độ như vậy và trên một bãi đáp không được sửa soạn. Vì lý do vững chắc là về mặt kỹ thuật đó là điều không thể làm được. Theo quan điểm của họ, cuộc đổ bộ do tôi dự liệu sẽ làm thiệt mất đến 80% quân số. Phần còn lại sẽ quá yếu, không thể có may mắn nào để hoàn thành sứ mạng.
Để chống lại các luận cứ đó, tôi trình bày rằng tôi cũng ý thức được mối hiểm nguy mà chúng tôi có thể gặp, tuy nhiên đằng nào cũng phải chấp nhận rủi ro khi muốn thử một phương pháp mới. Tôi ước lượng rằng một cuộc đáp bằng bụng thận trọng theo suốt chiều dài của cánh đồng tam giác mà độ nghiêng rất nhẹ, sẽ phải làm giảm được tốc độ rơi của các máy lượn – tốc độ rất đáng kể trong một bầu không khí loãng – và như vậy tránh được các tổn thất quá cao. Lẽ tất nhiên, tôi tuyên bố, nếu các ông ấy có thể đưa ra giải pháp tốt đẹp hơn, tôi sẽ theo khuyến cáo của họ ngay.
Sau khi suy nghĩ thật lâu, Đại tướng Student đứng hẳn về phía tôi và lập tức ra lệnh:
- Hãy gọi ngay 12 chiếc máy lượn hiện ở Pháp. Ngày J được ấn định là ngày 12 tháng 9, giờ H là 7 giờ sáng. Nghĩa là đúng 7 giờ ngày 12 tháng 9 các máy lượn phải đáp trên cao nguyên và cùng lúc đó, trong thung lũng một tiểu đoàn phải chiếm trạm xe treo. Tôi sẽ đích thân cho các phi công các chỉ dẫn và sẽ dặn họ cẩn thận tối đa khi đáp xuống. Tôi nghĩ rằng, Đại úy Skorzeny, ông có lý: cuộc đột kích phải được thi hành như ông nói, và không thể làm gì khác hơn được.
Như vậy là đã lấy được quyết định, tôi cùng vời Radl xem xét lại các chi tiết cuối cùng của chiến dịch, gồm có việc tính lại cho thật chính xác các khoảng cách, xác định dụng cụ mọi người phải mang theo và nhất là tiên liệu trên một tờ giấy lớn, các điểm hạ cánh của mỗi một trong 12 chiếc máy lượn. Một chiếc máy lượn có thể mang theo, ngoài phi công, 9 người, nghĩa là một toán. Tôi chỉ định cho mỗi toán một nhiệm vụ chính xác, phần tôi, tôi sẽ đi trên chiếc thứ ba để lợi dụng được sự che chở của hai toán đầu, khi tấn công chớp nhoáng vào khách sạn.
Mặc dù đã xem xét lại tất cả, chúng tôi vẫn còn phải nhờ thần may mắn giúp đỡ. Chúng tôi biết rằng đó chỉ là các may mắn nhỏ thôi. Trước hết, không ai có thể bảo đảm được rằng Mussolini còn ở trong khách sạn cho đến ngày J. Rồi thì không có gì chắc chắn cho thấy chúng tôi sẽ khống chế được toán lính Ý có nhiệm vụ hành quyết ông Duce. Sau cùng, lại còn phải theo dõi các sĩ quan tham mưu đã tiên liệu sự thất bại không cứu chữa được của cuộc đột kích.
Dầu cho mối bi quan của họ có quá đáng hay không, chúng tôi phải tiên liệu là có tổn thất trong lúc đáp. Chưa hết: ngay trong trường hợp không có tổn thất, chúng tôi chỉ có 108 người, và còn nữa, chưa chắc các toán đã có thể hành động đồng loạt được. Chúng tôi phải đương đầu với ít nhất là 250 quân Ý hoàn toàn quen thuộc địa hình và chiến đấu trong hầm khách sạn như là một pháo đài. Riêng về vũ khí, chúng tôi phải được trang bị bằng địch. Có lẽ, vũ khí tự động sẽ đảm bảo ưu thế của chúng tôi đối với ưu thế quân số của địch, với điều kiện là tổn thất ban đầu của chúng tôi không quá lớn.
Radl cắt ngang bảng kết toán không mấy vui vẻ của tôi:
- Đại úy, tôi xin ông đừng lấy bảng lô-ga-rit để tính tỷ lệ bách phân chính xác về sự may mắn thành công của chúng ta. Chúng ta đã biết rõ tỷ lệ thành công ấy rất thấp nhưng chúng ta cũng biết rõ là phải thực hiện chiến dịch bằng mọi giá.
Một điểm làm tôi băn khoăn nữa: có cách gì gia tăng yếu tố bất ngờ vốn là lợi điểm chính yếu của chúng tôi không? Trong hơn một giờ, chúng tôi nghĩ mãi không ra, đột nhiên Radl có một ý tưởng thần sầu: chúng tôi sẽ mang theo một sĩ quan cao cấp Ý, mà sự xuất hiện sẽ gieo hoang mang phần nào cho quân phòng vệ - sự do dự sẽ ngăn họ trả đũa lập tức hoặc hạ ông Duce. Lúc đó, chính chúng tôi hành động trước khi họ lấy lại bình tĩnh.
Đại tướng Student chấp thuận ngay đề nghị khôn lanh này và chúng tôi chỉ còn tìm phương thế tốt nhất để thi hành. Đại tướng phải được gặp viên sĩ quan này một ngày trước ngày J và sẽ thuyết phục – tôi không biết bằng cách nào – ông ta tham dự vào chiến dịch. Và rồi để loại hẳn trường hợp có sự bép xép hay sự phản bội, viên sĩ quan này sẽ ở lại với chúng tôi cho đến sáng hôm sau.
Một viên chức cấp cao của chúng tôi ở tòa Đại Sứ vốn có quen biết rất nhiều trong giới quân nhân, chỉ cho tôi một sĩ quan cao cấp, thành phần cũ trong Bộ Tham Mưu của chính phủ La-mã. Người ta thấy ông này đã giữ thái độ dửng dưng rõ rệt khi quân Đức tấn công chiếm lại thành phố. Do tôi yêu cầu, Đại Tướng Student cho triệu dụng ông ta vào đêm 11 tháng 9, đến Bộ Tổng Tham Mưu tại Frascati để thảo luận về "một vài vấn đề".
*
Hiện tại chúng tôi cũng đã dự phòng về phía này rồi, nhưng một chuyện lo lắng nữa lại xuất hiện. Những tin tức nhận được trong ngày 11 tháng 9 về cuộc hành trình của các máy lượn không làm cho tôi được yên tâm. Hoạt động ngày càng tăng cường của không lực Đồng minh đã bắt buộc phi đội của chúng tôi thực hiện nhiều chuyến bay vòng rất mất thì giờ, mặt khác, thời tiết đáng ghét đã cản trở đáng kể các chuyến bay. Đến phút chót chúng tôi hy vọng rồi ra thế nào chúng cũng đến kịp thời, nhưng vô ích.
Chúng tôi phải triển hạn tất cả các giai đoạn của chiến dịch. Ngày J vẫn được ấn định là chủ nhật 12 tháng 9 – trong tất cả mọi trường hợp, chúng tôi không thể mất nguyên một ngày tròn – nhưng giờ H được lùi lại 14 tiếng. Chúng tôi phải xin lỗi mãi và giải thích với viên sĩ quan Ý đến rất đúng giờ rằng Đại Tướng Student bị bận bất ngờ và yêu cầu ông ta sáng mai đúng 8 giờ có mặt tại phi trường Pratica di Mare. Điều trầm trọng hơn cả là sự chậm trễ làm giảm thiểu cơ hội may mắn thành công của chúng tôi. Một mặt những luồng gió bốc cao mãnh liệt vào những giờ nóng bức nhất sẽ làm cho cuộc đáp xuống thêm phần nguy hiểm, mặt khác, bộ phận tấn công trạm xe treo sẽ thi hành nhiệm vụ một cách khó khăn hơn vì bị bắt buộc phải hành động ngay giữa ban ngày. Mặc kệ, chúng tôi vẫn phải thử tìm cách thành tựu sứ mạng.
Chiều ngày 11 tháng 9, tôi đến vườn ô liu của một tu viện gần Frascati, nơi đơn vị của tôi đặt doanh trại. Tôi đã quyết định chỉ đem theo những người tình nguyện, nhưng tôi muốn báo trước một cách thẳng thắn rằng họ sắp dấn thân vào chốn vô cùng hiểm nguy. Tôi cho lệnh tập họp và nói mấy lời vắn tắt:
- Thời gian bất động khá lâu của các anh nay đã chấm dứt. Ngày mai chúng ta sẽ chu toàn một chiến dịch tối quan trọng mà chính Adolf Hitler đã giao phó cho tôi. Chúng ta phải đón chờ các tổn thất nặng nề mà bất hạnh thay, chúng ta không thể tránh được. Tôi sẽ đích thân chỉ huy đoàn cảm tử và tôi đoan chắc với các anh là tôi sẽ cố hết sức mình. Nếu các anh cũng làm như vậy, nếu chúng ta chiến đấu sát cánh nhau, với tất cả năng lực, sứ mạng chúng ta sẽ thành công. Các quân nhân tình nguyện hãy rời khỏi hàng!
Tôi tràn ngập niềm vui sướng khi thấy tất cả, không trừ một ai, tiến về phía trước một bước. Các sĩ quan của tôi đã không thuyết phục được một vài người chịu ở lại, vì tôi chỉ có thể mang theo 18 người thôi. Chín mươi người khác, theo lệnh Đại Tướng Student, phải được chọn trong số quân nhân thuộc Đại đội 2, Tiểu đoàn khóa sinh nhảy dù. Sau đó tôi đến gặp Chỉ Huy Trưởng Tiểu đoàn này để thảo luận các giai đoạn tấn công. Theo lệnh Đại Tướng Student, viên sĩ quan này sẽ chỉ huy bộ phận có trách nhiệm chiếm giữ trạm xe treo bên dưới. Ngay đêm đó, tiểu đoàn khóa sinh dù lên đường hướng về phía thung lũng. Hiện tại ngọn lao đã ném đi.
Vào đầu hôm, một đài phát thanh Đồng minh đã loan đi một bản tin làm chúng tôi phải một phen sợ hãi. Thật vậy, xướng ngôn viên loan báo rằng ông Duce vừa đến Bắc Phi trên một chiếc thuyền Ý từ hải cảng La Spezia. Cơn kích xúc đã qua – liệu lần này chúng tôi còn đến quá trễ nữa không? – tôi lấy một bản đồ hải quân ngồi tính toán. Vì tôi biết được một phần của hạm đội Ý đã rời La Spezia đúng vào lúc nào, tôi thấy một cách dễ dàng rằng ngay cả loại chiến thuyền chạy nhanh nhất cũng không thể nào đến bờ biển Phi Châu vào giờ giấc mà đài phát thanh loan báo. Như thế, bản tin này chỉ là một “con vịt cồ” tầm thường, nhằm mục tiêu làm cho Bộ Tư lệnh Đức suy đoán sai lầm. Vậy chúng tôi không thay đổi ý định gì cả. Tuy nhiên, từ hôm đó, tôi đón nhận nguồn tin của Đồng minh với tất cả dè dặt, thận trọng.
Hitler và những sứ mạng bí mật của Skorzeny Chương XI Đột kích Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Sáng hôm sau - tức là chúa nhật ngày 12 tháng 9 năm 1943 - chúng tôi ra phi trường lúc 5 giờ sáng, tại đây tôi được biết có lẽ các máy lượn sẽ đến lúc 10 giờ. Tôi lợi dụng thì giờ để kiểm soát lại dụng cụ trang bị của mọi người. Mọi quân nhân được “lương khô để nhảy dù trong năm ngày”. Khi biết tôi có cho mang theo vài thùng trái cây tươi, vẻ xôn xao, vui sướng thể hiện rõ rệt trong bóng tối của doanh trại. Ai cũng có thể cảm thấy được tình trạng căng thẳng xâm chiếm mọi người, ngay cả các quân nhân can đảm nhất, trước khi nhảy vào nơi vô định, nhưng chúng tôi cố gắng dập tắt các lo ngại và bối rối ngay khi mới chớm hiện.
Trong khi đó, đến 8 giờ 30 mà viên sĩ quan Ý cũng chưa đến. Tôi phái trung úy Radl về La Mã và ra lệnh đưa ông ta đến bằng mọi giá và càng nhanh càng tốt. - ”Anh phải dàn xếp cách nào tùy ý, nhưng phải mang ông ta đến đây đúng lúc, chúng ta chỉ cần có bấy nhiêu đó”. Thật vậy, Radl thành công sau đủ mọi thứ phiền toái khó khăn, để đi tìm và đưa ông ta lên xe. Ngay khi đến phi trường, Đại tướng Student tiếp ông ta liền và tôi có dự cuộc tiếp xúc. Chúng tôi cho ông ta biết rằng chính Fuhrer yêu cầu ông giúp đỡ để tránh đổ máu bằng cách tham dự vào việc giải thoát ông Duce. Lòng tự ái rõ ràng được thỏa mãn khi biết chính Hitler yêu cầu sự hợp tác, ông ta khó thể từ chối. Ông ta hứa sẽ làm hết sức mình. Tôi hy vọng điều này sẽ cho chúng tôi một lợi điểm vô giá.
Vào khoảng 11 giờ, chiếc máy lượn đầu tiên đáp xuống phi trường. Lập tức chúng tôi cho đổ đầy xăng cho các phi cơ dùng để kéo máy lượn và rồi mỗi phi cơ, với chiếc máy lượn đằng sau, được đặt vào vị trí trên phi đạo theo thứ tự dự liệu lúc đáp.
Trong khi chờ đợi, Đại Tướng Student tập hợp các phi công điều khiển máy lượn để nhắc lại lệnh cấm đáp theo kiểu cắm đầu xuống. Chỉ được phép đáp là là. Tiếp đó, tôi vẽ trên bảng đen bản đồ bãi đáp và vị trí định trước cho mỗi chiếc máy lượn. Sau cùng tôi còn soát xét lại, cùng với viên sĩ quan tình báo từng tham dự chuyến bay thám sát với tôi trước đây, các chi tiết chủ yếu: tính giờ bay, cao độ, hướng bay, v.v. Vì lẽ, ngoài Radl và chính tôi, viên sĩ quan này là người duy nhất biết rõ không phận vùng cao nguyên. Ông ta sẽ lên chiếc đầu tiên và hướng dẫn toàn phi đội của chúng tôi. Theo như ước tính thì chúng tôi sẽ bay qua 100 cây số trong 1 giờ bay. Do đó chúng tôi cất cánh đúng 13 giờ.
Thình lình lúc 12 giờ 30, báo động! Oanh tạc cơ của địch đã xuất hiện và chúng tôi bắt đầu nghe tiếng bom nổ ven phi trường. Trong khi chúng tôi chạy tán loạn để tìm một chỗ núp, tôi thấy mọi người nằm rạp xuống đất. Xui thật - một vố vào phút chót. Vài phút trước 13 giờ, còi báo hiệu chấm dứt báo động. Tôi nhào ra phi đạo chính: nền xi măng đã hứng trọn nhiều trái bom nhưng phi đội của chúng tôi thì vô sự. Chúng tôi có thể khởi hành được. Tôi ra lệnh lên phi cơ. Phần ông sĩ quan Ý, tôi đưa ông lên chiếc thứ ba, kẹp ông giữa hai chân và ngồi chồm hổm trên một cây đà, người này sau người kia, ép chặt như cá mòi. Vừa mới tìm cách xếp xong vũ khí, viên sĩ quan Ý dường như ân hận vì lời hứa, ông ta theo tôi lên phi cơ một cách miễn cưỡng. Mặc kệ, tôi không còn nghĩ đến việc săn sóc ông ta nữa - hiện tại tôi không còn có thể để mất một giây nào nữa.
Mắt nhìn vào đồng hồ, tôi đưa cao cánh tay: 13 giờ. Động cơ bắt đầu nổ, chúng tôi chạy trên phi đạo, rồi tôi cảm thấy chúng tôi cất cánh. Chậm chạp, lượn thành vòng tròn, chúng tôi lên cao, đoàn lữ hành xếp thành đội hình và hướng mũi về phía Đông Bắc. Thời tiết thật là lý tưởng cho công việc của chúng tôi: những đám mây dồn dày đặc nhiều lớp mênh mông trôi lững lờ trên cao độ 3000 thước. Không có cơn gió nào thổi tan được các đám mây này, như vậy chúng tôi sẽ đến đích mà không bị khám phá và chúng tôi có thể nhào xuống mục tiêu một cách bất chợt.
Một cơn nóng khủng khiếp tràn ngập trong lòng chiếc máy lượn vận tải này. Chen lấn như chúng tôi cùng với dụng cụ và vũ khí, muốn nhúc nhích cũng không thể được. Mặt ông tướng Ý tái xanh thấy rõ, rồi dần dần chuyển sang màu xám xanh như màu bộ quân phục ông đang mặc. Tôi có cảm tưởng rõ rệt rằng ông ta không thành công mấy đối với loại du hành không vận, ít ra là ông không thấy thích loại di chuyển này.
Viên phi công luôn luôn báo cho tôi vị trí hiện tại và tôi kiểm soát ngay trên một bản đồ. Chúng tôi vừa bay trên Trivoli. Từ trong lòng máy lượn, tôi không thể thấy phong cảnh bên ngoài. Các cửa sổ bên hông đã bị bịt kín bằng giấy bóng, không thể nhìn thấu qua được. Riêng các khe hở thì quá nhỏ, không cho phép tôi trông thấy gì. Nhất định chiếc máy lượn vận tải này là một loại máy cổ lỗ. Một vài ống thép làm thành khung sườn, một lớp vải bọc ngoài, chiếc phi cơ là thế đó!
Chúng tôi chui vào một đám mây lớn để đạt cao độ 3500 thước. Khi chúng tôi ra khỏi đám mây, viên phi công báo cho tôi bằng điện thoại:
-Chiếc số 1 và số hai mất tích! Ai chỉ huy đây?
Thật là một vố nặng. Cái gì đã xảy ra? Mãi đến lúc đó tôi cũng không biết là sau tôi chỉ còn lại 7 thay vì 9 chiếc. Trong khi cất cánh, hai máy lượn đã chạm phải hố bom và bị lật úp. Tôi nói với viên phi công: “Coi tôi là chỉ huy cho đến lúc đến mục tiêu”. Và bằng một con dao nhỏ, tôi khoét nhiều lỗ nhỏ bên trái, bên mặt, dưới chân để phân biệt ít nhất là các nét chính của quang cảnh dưới mặt đất. Dầu sao lối kiến trúc đơn sơ của loại máy lượn này cũng có lợi đó chứ! Nhờ một vài chi tiết địa hình rõ ràng - một cây cầu, một ngã tư đường - tôi bắt đầu định hướng được. Tôi hít một hơi dài - không phải luôn luôn sự trục trặc làm cho công việc của tôi thất bại. Rõ ràng là lúc đáp, tôi không còn được che chở bởi hai toán đi trong hai chiếc đầu nữa - nhưng tôi không nghĩ đến chuyện này nữa.
Vài phút trước giờ H, chúng tôi bay trên thung lũng Aquila. Trên đường tôi thấy rõ rệt đội tiền phong của Tiểu đoàn dù, và các xe cam nhông đang leo thật nhanh lên phía trạm xe treo. Như vậy là họ đã thành công trong việc vượt qua được hết trở ngại và sẽ có thể tấn công đúng vào lúc thích hợp. Một triệu chứng tốt - chúng tôi cũng vậy, chúng tôi sẽ thành công.
Bên dưới chúng tôi, mục tiêu đã xuất hiện, khách sạn Gran Sasso. Theo lệnh tôi, mọi người thắt chặt dây quàng cổ, và tôi ra lệnh:
- Hãy thả rờ moọc ra!
Ngay sau đó, một sự im lặng đột ngột bao bọc chúng tôi, ai nấy chỉ còn nghe tiếng gió đập hai bên mạn sườn máy lượn. Viên phi công lượn một vòng lớn để hãm tốc độ và tìm kiếm một cách lo âu cũng như tôi, địa điểm đáp trên cánh đồng hơi nghiêng. Thật là chó má - chúng tôi tiêu rồi. Tôi khám phá ra, ngay trong cái liếc nhìn đầu tiên, cánh đồng tam giác, duy chỉ có điều là nó không có “hơi nghiêng” - nó dốc tuột, rất dốc gần giống như đoạn đường khởi hành của các tay trượt tuyết đua nhảy xa.
Trong chuyến bay thám sát, chúng tôi bay rất gần khu bình nguyên, ngoài ra cách bay vòng xoắn ốc cho chúng tôi thấy bề nổi của mặt đất một cách hết sức co giãn. Tôi ý thức ngay lập tức là không thể đáp xuống một thế đất dốc đứng như thế này được. Viên phi công cũng hiểu như vậy và quay lại nhìn tôi. Nghiến chặt răng, tôi bị dằn vặt bởi một tranh chấp dữ dội với lương tâm. Liệu tôi có bắt buộc tuân mệnh lệnh hình thức của Đại tướng? Trong trường hợp này, tôi phải hủy bỏ chiến dịch và tìm cách hạ là là xuống thung lũng. Nếu trái lại, tôi không thể từ bỏ kế hoạch, tôi bắt buộc phải mạo hiểm, bằng mọi giá, đáp theo kiểu bị cấm, đáp nhào xuống. Tôi quyết định thật nhanh:
- Đáp nhào xuống! Càng gần khách sạn càng tốt!
Không ngần ngừ, viên phi công khép chặt vòng lượn, trượt ngang về cánh trái và nhào xuống một cách kinh hoàng. Trong chớp nhoáng, cổ họng tôi thắt lại: không biết chiếc máy lượn có chịu nổi tốc độ này không? Rồi lập tức tôi đẩy lui cơn sợ hãi, đây không phải là lúc đặt các vấn đề như vậy. Tiếng gió rít mạnh hơn, trở thành tiếng hú trong khi mặt đất tiến gần hơn thấy rõ. Tôi thấy trung úy Meier thả dù hãm tốc độ - một chấn động cực mạnh, có cái gì đó đụng chạm và gãy lìa - do bản năng, tôi nhắm mắt lại - một chấn động nữa mạnh hơn - thế là xong, chúng tôi đã chạm mặt đất - chiếc máy lượn sau khi lồng lên một lần chót, nằm bất động.
Lập tức những binh sĩ đầu tiên nhảy ra khỏi cửa và tôi cũng lướt ra, vũ khí cầm tay. Chúng tôi đáp cách khách sạn 15 thước. Chung quanh, vô số đá tảng, chính những tảng đá này đã thắng lại một cách dữ dội và đặt chiếc máy lượn vào một tình trạng thật tốt. Chúng tôi đã trượt trên đá chừng 20 thước trước khi đứng lại.
Tên lính canh đầu tiên tôi thấy đứng gần một ụ đất nhỏ, ngay góc khách sạn. Rõ ràng là anh ta bị choáng váng ngẩn ngơ, người cứng đơ như khúc gỗ. Chắc anh ta đang tự hỏi làm sao chúng tôi có thể từ trên trời rớt xuống được. Tôi không còn thì giờ săn sóc ông bạn sĩ quan Ý nữa, ông ta tự để rơi ra khỏi phi cơ, vẻ kinh hoàng. Tôi lao về phía khách sạn, vừa chạy tôi vừa tự khen mình là đã ra lệnh rõ ràng cho binh sĩ không được nổ súng trước khi tôi bắn phát đầu tiên. Nhờ đó sự ngạc nhiên của địch sẽ là toàn diện. Bên cạnh tôi, các cộng sự viên đang thở hổn hển, tôi biết họ đang theo tôi và tôi có thể tin ở họ.
Chúng tôi ào ạt vượt qua tên lính canh vẫn còn sửng sốt, và thét vào anh ta một lệnh ngắn “mani in alto” (đưa tay lên), rồi vào tới khách sạn, nhào vào một cửa phòng mở sẵn. Vừa ra khỏi ngưỡng cửa, tôi thấy một máy truyền tin và một binh sĩ Ý đang chuyển các điện văn. Tôi đá dữ dội làm bay luôn chiếc ghế, và quật báng súng phá tan luôn chiếc máy phát tuyến. Nhưng chúng tôi thấy trong phòng này không có cửa thông vào khách sạn. Vậy phải quay lui, một lần nữa chúng tôi lại trở ra ngoài trời. Chúng tôi vừa chạy, vừa nhào vào tòa nhà, vòng quanh các góc và đến trước một sân thượng có lẽ cao đến 3 thước. Một binh sĩ đã dùng làm thang để tôi leo lên vai và đặt chân lên mặt sân. Những người khác cũng theo chân tôi.
Tôi đưa mắt tìm kiếm nơi mặt tiền khách sạn. Từ nơi một cửa sổ của tầng thứ nhất, tôi thấy một cái đầu vĩ đại, đặc biệt: ông Duce. Lúc đó, tôi biết rằng chiến dịch sẽ thành công. Tôi hét bảo ông lui vào, rồi chúng tôi hấp tấp tiến vào cửa chính và gặp nhiều quân phòng vệ tìm cách chạy thoát ra. Hai khẩu tiểu liên định nổ, chúng tôi đốn ngã họ tức khắc. Tôi vạch lối vượt qua đống thây bất động trong khi người của tôi hò hét không ngừng :Mani in alto! Cho đến lúc đó chưa ai bắn một phát nào.
Tôi tiến qua phòng khách, lúc đó chỉ một mình, vả lại tôi hoàn toàn không biết chuyện gì đang xảy ra đằng sau, tôi thật sự không có thì giờ để nhìn trở lại sau nữa. Bên trái tôi là một cầu thang, tôi nhảy lên từng ba bậc một. Tới tầng thứ nhất, tôi tiến sâu vào một hành lang và mở đại một cánh cửa - đúng rồi! Trong phòng có Benito Mussolini và hai sĩ quan Ý bị tôi dồn vào tường. Trong khi đó, trung úy Schwerdt bám sát tôi, anh ta nắm vững tình hình ngay và đưa hai sĩ quan Ý ra ngoài. Họ ngạc nhiên quá đỗi, đến nỗi không nghĩ đến cách chống cự. Ngay khi họ ra khỏi phòng, tôi nhẹ nhàng khép cửa lại.
Phần đầu tiên của cuộc đột kích đã thành công. Ít ra là trong lúc này, ông Duce đang ở trong tay chúng tôi. Từ khi đáp xuống, ba hay tối đa là bốn phút đã trôi qua. Bên ngoài cửa sổ, bóng hai quân nhân của tôi nhô đầu lên. Không thể chạy vào cửa chính, họ trèo lên tường, bám vào cột thu lôi và đưa tay để tôi kéo vào. Tôi đặt họ canh chừng hành lang để che chở chúng tôi mặt này.
Tử cửa sổ trông ra, tôi thấy toán 4 đang tiến tới nhanh như các lực sĩ do người sĩ quan cận vệ trung thành của tôi, Trung úy Radl chỉ huy, có cả trung úy Menzel nữa. Anh này tiến theo toán của mình bằng cách trườn bằng bụng. Chấn động quá mạnh lúc đáp đã hất văng anh ta ra khỏi phi cơ và làm gãy một chân của anh.
- Tất cả đều tốt đẹp, - tôi bảo cho họ biết. - Canh giữ tầng dưới!
Tôi cũng còn thấy các chiếc số 5, 6 và 7 đáp xuống khá bình thường. Bỗng nhiên, tôi chứng kiến một cảnh kinh hoàng: chiếc số 8 bị một cơn lốc cuốn đi, lướt ngang và rơi như một hòn đá xuống một sườn núi dốc ngược, bể tan.
Xa xa, tôi nghe một vài tiếng súng lẻ tẻ, chắc do các trạm gác rải rác trên khu vực cao nguyên bắn đi. Tôi bước ra hành lang và lớn tiếng gọi viên chỉ huy khách sạn. Ông này là một đại tá, đến ngay. Tôi giải thích rằng mọi sự chống đối nay đã trở thành vô ích và tôi bắt buộc họ phải đầu hàng tức khắc. Ông ta xin một thời gian ngắn để suy nghĩ, tôi cho một phút. Bây giờ Radl đây rồi, hắn đã tiến được qua cửa, nhưng tôi có cảm giác là quân Ý vẫn còn ngăn cản lối đi vì tôi chưa nhận được thêm lực lượng tăng cường.
Viên đại tá Ý xuất hiện, hai tay bưng một bình pha lê chứa đầy rượu chát đỏ, ông ta hơi nghiêng mình đưa cho tôi.
- Cho người thắng trận! - ông ta bảo.
Một tấm trải giường được treo ngoài cửa sổ để thay cờ hàng màu trắng. Tôi hét lớn vài mệnh lệnh cho đám quân nhân của tôi đang tập trung trước khách sạn, rồi tôi quay về phía Mussolini hiện đang được khối lưng đồ sộ của Trung úy Schwerdt bảo vệ trong góc phòng. Tôi tự giới thiệu:
- Thưa Duce, Fuhrer sai tôi đến đây để giải thoát ngài.
Rất cảm động, ông ôm choàng lấy tôi.
- Tôi biết rằng ông bạn Adolf Hitler của tôi không bỏ rơi tôi, - ông nói.
Thủ tục đầu hàng được qui định nhanh chóng. Các binh sĩ Ý phải bỏ vũ khí trong phòng ăn, phần các sĩ quan, họ được phép giữ lại súng lục. Ngoài ra, tôi còn được biết viên Đại tá chỉ huy bị bắt chính thật là một sĩ quan cấp Tướng.
Bên ngoài khách sạn, người của tôi đã chiếm được trạm xe treo. Đường dây không bị hư hại gì. Trạm phía dưới thung lũng cũng báo cáo tương tự bằng điện thoại cho tôi. Dầu vậy, dưới đó cũng đã có một cuộc đụng độ ngắn. Nhưng vì lẽ thì giờ được ấn định quá sát đúng, yếu tố bất ngờ đã đóng trọn vai trò một cách hoàn toàn, lúc này, phần thứ nhất của sứ mạng chúng tôi đã chấm dứt.
Hitler và những sứ mạng bí mật của Skorzeny Chương XII Một cuộc rút lui tế nhị Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Trung úy Berlepsch, chỉ huy toán quân nhảy dù đi theo tôi, đang siết lại ốc của mắt kính một tròng, anh ta đứng bất động nghe tôi chỉ thị qua cửa sổ. Trước hết tôi cho xe treo đưa lên một lực lượng tăng cường. Chúng tôi càng đông càng vững, và tôi muốn chứng tỏ cho viên Đại tá Ý thấy dưới thung lũng tôi có lực lượng hùng hậu. Tiếp theo đó, phải nghĩ cách trở về. Một cuộc hành trình dài 150 cây số đường bộ, đi qua một vùng không còn đơn vị nào của Đức, đối với tôi là quá mạo hiểm. Nếu chỉ có một mình, tôi dám đi ngay, nhưng tôi không quên rằng phải chịu trách nhiệm với Fuhrer về sự an toàn của ông Duce. Trong giai đoạn chuẩn bị trước đây, tôi đã dự liệu ba phương cách khả dĩ có thể đưa Mussolini về La Mã: kế hoạch A, cùng thảo luận với Đại tướng Student, tiên liệu một cuộc tấn công chớp nhoáng phi trường Aquila di Abruzzi nằm ngay đầu thung lũng. Tôi sẽ ở đó chờ ba chiếc phi cơ vận tải sẽ hạ cánh vài phút sau cuộc tấn công. Lẽ tất nhiên tôi phải báo cho Đại tướng giờ H, để các phi cơ này có thể rời phi trường tại La Mã đúng lúc. Tôi sẽ cùng ông Duce lên chiếc đầu tiên, trong khi hai chiếc kia bay theo để che chở hoặc khi cần, đánh lạc hướng các phi cơ săn đuổi.
Kế hoạch B tiên liệu việc hạ cánh của một "con cò"(1) trong cánh đồng gần trạm xe treo dưới thung lũng. Sau cùng trong kế hoạch chót, chúng tôi sẽ cho Đại úy Gerlach, phi công riêng của Đại tướng Student, thử đáp một "con cò" trên khu vực cao nguyên.
Trước hết, nhờ một máy truyền tin được toán quân nhảy dù mang theo bằng đường bộ, tôi cho chuyển đến La Mã tin tức về cuộc đột kích thành công của chúng tôi. Và rồi tôi cho một thời biểu chính xác để thực hiện kế hoạch A. Nhưng khi tôi muốn thông báo với La Mã giờ H, giờ tấn công phi trường Aquila, nhân viên của tôi không thể nào bắt liên lạc được - chỉ có trời mới hiểu tại sao. Như vậy là kế hoạch A tan như bọt nước.
Nhờ ống dòm, tôi có thể quan sát thấy chiếc phi cơ tí hon đáp xuống thung lũng. Qua điện thoại tại trạm xe treo, tôi ra lệnh ngay cho phi công chuẩn bị cất cánh. Nhưng viên phi công trả lời tôi là phi cơ bị hư hỏng trong khi đáp, và chỉ có thể cất cánh trở lại sau một thời gian lâu để sửa chữa. Vậy để đưa ông Duce về La Mã, tôi chỉ còn kế hoạch C, kế hoạch nguy hiểm nhất.
Trong lúc đó, quân phòng vệ Ý, sau khi bị giải giới đã chứng tỏ là hết sức muốn giúp chúng tôi. Một vài người đã tự động nhập vào toán quân nhân do tôi chỉ định đi kiếm xác các người trong chiếc máy lượn bị ngộ nạn. Qua ống dòm, tôi thấy một vài nạn nhân còn cử động, tôi hy vọng rằng chiếc bị rơi không tạo hậu quả bi thảm quá cho chúng tôi. Hiện tại các binh sĩ Ý đang giúp chúng tôi dọn dẹp một dãy đất hẹp. Vội vã, chúng tôi dẹp bỏ những tảng đá nằm trên một góc miếng đất khá bằng phẳng, trong khi trên đầu chúng tôi Đại úy Gerlach trong chiếc phi cơ nhỏ bé đã bay vòng để chờ dấu hiệu cho đáp xuống.
Sau cùng mọi chuyện đều sẵn sàng, và Gerlach hết sức khéo léo đã thành công trong việc hạ cánh xuống "phi đạo" do chúng tôi sửa soạn gần khách sạn. Ông ta không mấy hài lòng khi biết tôi có ý định cùng bay về với ông. Nhưng khi tôi nói thêm là phi hành đoàn sẽ có ba người - ông Duce, Gerlach và tôi - thì ông từ chối phắt và nói rằng dự tính của tôi hoàn toàn không thực hiện được.
Tôi nghiêm nét mặt, trình bày ngắn, nhưng với tất cả sức mạnh thuyết phục, các lý do bắt buộc phải thực hiện kế hoạch của tôi. Tôi đã cân nhắc rất lâu điểm lợi và hại của ý định này, tôi hoàn toàn ý thức được trách nhiệm nặng nề khi ra lệnh cho chiếc phi cơ nhỏ bé này chịu thêm sức nặng của chính cá nhân tôi (quá nặng là đằng khác vì tôi cao 1 thước 95, do đó vóc dáng kềnh càng). Nhưng làm sao tôi có thể chịu đựng được trách nhiệm còn nặng nề hơn nếu để cho ông Duce đi một mình với Gerlach. Vì nếu phi cơ không cất cánh được và tai nạn xảy ra, tôi chỉ còn mỗi một giải pháp tối hậu là tự bắn vào đầu một viên đạn. Không bao giờ tôi có thể đến trình diện trước Fuhrer để báo tin rằng chiến dịch đã thành công nhưng Mussolini bị thiệt mạng sau khi được giải thoát. Và khi không còn phương cách nào để đưa ông Duce về La Mã một cách an toàn, tôi thích chia xẻ những nguy hiểm của chuyến bay, mặc dù sự có mặt của tôi trên phi cơ chỉ có thể làm tăng thêm nguy hiểm. Như vậy cả ba chúng tôi được đặt trong tay của định mệnh - tôi sẽ thoát hoặc sẽ tiêu tùng cùng hai người đồng hành.
Sau nhiều ngần ngại, Gerlach đầu hàng trước các lý lẽ của tôi. Khoan khoái, tôi ra lệnh cho Radl. Chỉ có viên tướng bị bắt và người đi theo tôi sẽ bị đưa về như tù binh chiến tranh, về phần các sĩ quan khác và binh sĩ Ý, chúng tôi để họ ở lại khách sạn sau khi giải giới. Vì lẽ ông Duce bảo rằng đã được đối xử tử tế, tôi không có lý do nào không chứng tỏ quảng đại một chút. Để ngăn ngừa cuộc phá hoại có thể xảy đến cho các xe treo, tôi ra lệnh cứ mỗi xe phải có hai sĩ quan Ý đi theo. Khi người của tôi đã xuống thung lũng hết, họ sẽ phá hủy máy móc tại trạm dưới bằng cách nào để ngăn quân Ý không thể sửa chữa ngay được.
Tiếp theo đó, trong khi Gerlach chỉ huy binh sĩ của tôi sửa soạn một phi đạo để cất cánh, tôi mới quay trở về ngắm ông Duce. Thành thật mà nói, con người đang đứng trước mặt tôi đây, với một bộ thường phục quá rộng và chẳng có gì sang trọng, trông không giống mấy với các hình ảnh mà tôi được thấy, trong đó ông luôn luôn mặc quân phục. Chỉ có các đường nét là không thay đổi mặc dầu vẻ mặt già đi trông thấy. Mới thoáng nhìn, ông có vẻ như đang đau nặng, cảm giác này càng gia tăng bởi một bộ râu nhiều ngày không cạo và nhất là bởi một lớp tóc ngắn phủ trên đầu mà trước kia thường được cạo trọc. Ngược lại cặp mắt đen và nồng nàn vẫn là cặp mắt cũ của nhà độc tài. Tôi có cảm giác cái nhìn của ông xoáy sâu vào mắt tôi, trong khi ông kể lại một cách thống khoái, cho tôi nghe chi tiết về vụ ông bị bắt.
Tôi sung sướng báo cho ông ta một tin vui:
- Chúng tôi đã thường trực chăm sóc số phận của gia đình ngài. Chính quyền Badoglio đã quản thúc vợ và hai con út của ngài tại trang trại riêng của ngài ở Rocca della Carminata. Nhiều tuần lễ trước đây, chúng tôi đã bắt được liên lạc với Donna Rachele. Ngay lúc chúng tôi đặt chân lên đây, một toán cảm tử khác thuộc đơn vị của tôi đã phát động chiến dịch giải thoát gia đình ngài. Tôi tin chắc giờ đây mọi chuyện đã xong.
Tỏ ra hết sức cảm động, ông Duce siết chặt tay tôi.
- Vậy thì mọi sự đều êm đẹp. Tôi thành thật cám ơn anh.
Chúng tôi rời khách sạn. "Con cò" đã sẵn sàng cất cánh, tôi lách một cách khó nhọc vào khoảng trống nhỏ bé đằng sau chiếc ghế thứ hai nơi ông Duce ngồi. Lúc bước lên phi cơ, ông thoáng ngần ngại, là một phi công lão luyện, chắc ông đã ý thức những nguy hiểm mà chúng tôi sắp trải qua. Tôi có vẻ bối rối, lí nhí vài câu như: Fuhrer đã yêu cầu - ông ấy rõ ràng đã quyết định... và rồi tiếng động cơ nổ vang dội giúp tôi khỏi phải tìm lời xin lỗi. Hai tay bám chặt vào ống thép dùng làm khung sườn của phi cơ, tôi cố thử truyền cho con chim nhỏ bé của chúng tôi một chút thăng bằng để được nhẹ hơn. Với một dấu hiệu của phi công, các binh sĩ đang giữ cánh và đuôi của phi cơ buông tay và ngay tức khắc, chong chóng kéo phi cơ về phía trước. Phi cơ chạy càng lúc càng mau về phía cuối phi đạo, nhưng vẫn còn dính chặt xuống mặt đất. Tôi lấy thăng bằng một cách điên cuồng, bằng tất cả sức lực của tôi. Phi cơ nhảy trên một vài tảng đá nhỏ mà chúng tôi không dọn hết được. Và lúc đó tôi thoáng thấy qua khung kiếng phía trước, một hố sâu thẳm cắt ngang đường bay của chúng tôi. Tôi còn kịp suy nghĩ: "Lạy chúa! nếu chúng con rơi xuống đó thì sao?" - rồi thì "con cò" rứt khỏi mặt đất, cách miệng hố vài phân, thế cũng đủ rồi. Bánh xe bên trái còn chạm dữ dội vào mặt đất, phi cơ hơi chúi mũi xuống và bây giờ đây chúng tôi đang ở bên bờ vực thẳm. Trượt qua bên trái, phi cơ chòng chành trong khoảng không. Tôi nhắm mắt lại - lúc này mọi cố gắng của tôi đều vô ích - nín thở, chờ đợi sự gãy đổ tan tành không tránh được.
Tiếng gió rít chung quanh cánh máy tăng dần và trở thành tiếng hú mạnh. Lúc tôi mở mắt trở lại - tất cả chuyện đó chỉ kéo dài vài giây - Gerlach kéo phi cơ trở lại được rồi và đưa chầm chậm vào thế ngang bằng. Hiện tại phi cơ đã đạt được một tốc độ đủ để còn bay được mặc dù bầu không khí còn rất loãng. Phi cơ bay là là chừng 30 thước cách mặt đất và tiến tới lằn ranh mà bên kia là vực thẳm Arrézano. Lần này thế là chúng tôi thoát.
Cả ba chúng tôi có phần tái mặt vì sợ, nhưng không ai nói đến những giây phút lo âu vừa qua. Bất chấp nghi lễ truyền thống, tôi thân mật đặt tay lên vai ông Duce, người mà lúc này mới thật sự được cứu sống. Mussolini lại trở về với tư thế chuyện trò dễ dàng của dân miền Địa Trung Hải, bắt đầu gợi lại các kỷ niệm liên quan đến các địa danh mà chúng tôi bay ngang qua trên một cao độ vào khoảng 100 thước - một sự cẩn thận đề phòng máy bay địch trông thấy - ông Duce nói tiếng Đức thật trôi chảy, gần như không có lỗi - đây là sự kiện mà vì thần kinh quá căng thẳng trong những giây phút đầu tiên, tôi không hề chú ý - Cẩn thận, chúng tôi bay vòng quanh các mỏm núi cuối cùng và rồi bay trên La Mã, hướng về phía phi trường Pratica di Mare.
- Coi chừng, - Gerlach lưu ý chúng tôi - bám chặt - đáp 2 lần.
Thật vậy, tôi quên mất rằng phi đạo đã bị trúng bom. Hết sức nhẹ nhàng, phi cơ chạm mặt phi đạo nhiều lần, phi công giữ thăng bằng trên bánh xe bên phải và đằng sau, phi cơ chạy đều rồi đứng hẳn. Mọi sự diễn ra tuyệt vời - chúng tôi gặp nhiều may mắn quá từ đầu cho đến cuối cuộc mạo hiểm.
Sĩ quan tùy viên của Đại tướng Student ra đón chúng tôi, rạng rỡ vì vui sướng. Ba chiếc Henkel 111 sẵn sàng cất cánh. Chúng tôi không thể để mất một giây phút nào nếu muốn đến Vienne trước khi trời tối.
(1) loại phi cơ có thể bay thật chậm, được xử dụng trong các phi vụ thám sát mặt trận thật lâu (ghi chú của người dịch)
Hitler và những sứ mạng bí mật của Skorzeny Chương XIII Những bí ẩn của chính phủ Vichy Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Tôi không đề cập đến các bài diễn văn chào đón, các cuộc lễ gắn huy chương Đức và Huy chương Ý mà tôi được thưởng sau vụ đột kích, lời cám ơn chân thành của ông Duce và lời khen nồng nhiệt mà chính Adolf Hiler công khai bày tỏ tại Tổng hành dinh trước các nhân vật thượng đỉnh của chế độ. Sau một thời gian nghỉ phép ngắn xả hơi, tôi trở lại "căn cứ" Friedenthal để lại tiếp tục tổ chức "đơn vị đặc biệt"(1). Nhưng tôi chỉ có thể làm việc yên ổn có năm tuần lễ. Vào cuối tháng 11 năm 1943, tôi bất chợt nhận được lệnh, từ Tổng hành dinh của Fuhrer, phải lên đường đi Ba-lê lập tức, cùng với một Đại đội, và khi đến nơi, trình diện Tướng Oberg, chỉ huy trưởng SS và cảnh sát Đức tại Pháp để nhận các chỉ thị chi tiết.
Tôi không thích loại mệnh lệnh cụt ngủn và mơ hồ này; kinh nghiệm lâu ngày cho tôi biết thường thường là chúng báo trước một sứ mạng khó khăn tế nhị. Nhưng đã là quân nhân thì chỉ biết có tuân lệnh, tôi nhảy lên chuyến tàu đầu tiên, trong khi Đại đội được chỉ định sửa soạn để lên đường vào sáng hôm sau.
Trong thâm tâm, tôi rất hài lòng được trở lại Ba-lê nơi tôi đã được thăm viếng - thoáng qua thôi - vào những năm 1940 và 1942. Vẻ đẹp duyên dáng của thủ đô Pháp, đã làm cho tôi ngay từ lúc mới đến, ngạc nhiên đến nỗi tôi công khai tuyên bố là "Thành phố đẹp nhất châu Âu", thêm vào đó, theo ý tôi thành phố đẹp thứ hai là Vienne, thứ ba là Budapest. Bảng xếp hạng này luôn làm cho người Đức nổi giận, nhất là khi, trong tư cách một dân Áo chính cống, tôi xác định rằng, đối với tôi, Bá linh chỉ là một đống đồ sộ đủ thứ đá xếp chồng lên nhau. Nhiều lần tôi được dịp cười thật đã, khi thấy họ lồng lên vì sự xúc phạm vô hại này......
Sau khi tuân theo mệnh lệnh được dán đầy ở sân "gare du Nord" bảo rằng tôi phải trình diện tức khắc cơ quan Kommandantur tại công trường Opéra, tôi đến khách sạn Continental đường Rivoli. Sau một lúc tìm kiếm thật lâu trong một tổ ong vĩ đại - hàng trăm phòng ngủ được sửa đổi lại thành văn phòng cho sĩ quan tham mưu - tôi gặp được người cần tìm, đó là một Đại tá, cũng mặc quân phục sĩ quan tham mưu với hai nẹp đỏ dọc hai bên hông quần. Ông này đang chờ đợi để báo cho tôi biết rằng ông ta nhận được lệnh đặt dưới quyền chỉ huy của tôi một số binh sĩ - bao nhiêu binh sĩ và nhằm mục đích gì thì ông không biết. Ông ta gọi một cộng sự viên thân tín của vị chỉ huy "Đại Ba lê" để hỏi, nhưng ông này cũng không biết gì hơn để thông báo cho tôi. Ông ta chỉ biết rằng sự việc có liên quan đến các mối liên lạc, vốn đã rất là rắc rối, giữa chúng tôi và chính quyền Vichy. Cả hai ông bèn dấn thân vào một hội nghị thật sự để duyệt xét tình hình nước Pháp. Vì lẽ từ nhiều tuần trước, tôi không đủ thời giờ để chỉ đọc nhật báo, tôi không hiểu được gì nhiều; ngoài các tên tuổi như Thống chế Pétain, Đô đốc Darlan, các tướng lĩnh De Gaulle và Giraud, tôi tuyệt đối không biết những mưu mô ngoắt ngoéo của chính quyền Pháp quốc.
Căn cứ vào lời giải thích của hai sĩ quan, tình hình nước Pháp có thể được trình bày như sau: Các cộng sự viên thân tín của Thống chế Pétain, và nói một cách tổng quát, các nhân vật trong chính phủ Vichy, tỏ ra rất giận dữ nhất là vì các cuộc thảo luận Pháp Đức không bao giờ vượt qua được giai đoạn đánh dấu bằng hiệp ước đình chiến 1940. Từ ba năm qua, người ta đã không tiến được bước nào trong việc soạn thảo một Hiệp ước Hòa bình như đã hứa hẹn đã lâu rồi, và một khi được ký kết, chắc chắn tình trạng khó khăn của chính quyền Pháp sẽ được khắc phục và củng cố mạnh hơn. Về phần thống chế Pétain, (những người đang đối thoại với tôi xem ông ta như một nhà ái quốc nồng nàn, mặc dù có phần cứng đầu), ông ta đang cố hết sức cứu vãn tình thế - ý muốn rất hợp tình hợp lý - Khốn thay, Đức quốc, bị thúc đẩy bởi sự nghi ngờ cũng rất chính đáng, vẫn còn ngần ngại không muốn nhượng bộ quá nhiều cho nhà ái quốc Pháp.
Thật vậy, gần như chắc chắn rằng Vichy và phong trào giải phóng nước Pháp vẫn duy trì các mối liên lạc chặt chẽ không ngờ. Khẳng quyết này đối với tôi có thể tin được. Hiện tại, Bắc Phi cũng như các nơi khác thuộc đế quốc Pháp đã bị Đồng minh chiếm đóng, nghĩa là ở trong tay phong trào giải phóng nước Pháp. Thêm vào đó, ảnh hưởng tinh thần tiếp theo sau các chiến thắng ban đầu của các đại cường thuộc khối Trục, bắt đầu suy giảm. Từ đầu năm 1943, các biến chuyển của tình hình đã đi vào một khúc quanh rõ ràng bất lợi cho Đức quốc - một sự đổi thay đã xẩy ra mà có lẽ chúng tôi chưa nhận thức được rõ rệt, trong khi đó phía thù nghịch lại có các chỉ dẫn thật chính xác.
Và giới lãnh đạo Đức vừa nhận được một báo cáo mật, phát xuất từ nơi mà mọi người thường gọi là "các nguồn tin chính xác đáng tin", theo đó, người ta đang chờ đợi một biến chuyển ngoạn mục: mối liên lạc vẫn có giữa Vichy và phong trào giải phóng hình như chặt chẽ đến nỗi chính quyền Pétain có ý định trốn qua bắc Phi. Các báo cáo khác, phát xuất từ các nguồn tin cũng rất chắc chắn, gán cho giới thân cận tướng De Gaulle, có ý định đảo chính cướp chính quyền của ông già Thống chế và các Tổng trưởng của ông. Bộ chỉ huy Đức tại Pháp lập tức thông báo cho Tổng hành dinh của Fuhrer hay hai giả thuyết trái ngược nhưng cũng rất khẩn trương này.
Về phần vai trò của tôi, họ chẳng biết gì ráo; chắc chắn bộ chỉ huy sẽ sớm nhận được các mệnh lệnh chính xác. Lúc này tôi chỉ phải đến trình diện gấp tướng Oberg.
Tôi cáo từ, đi bộ ngược trở lại Champs - Elysées và đến một con đường gần đại lộ Foch, nơi đạt văn phòng của ông Tướng SS. Tôi được một sĩ quan cảnh sát tiếp đón, ông này cũng không hơn gì hai ông ở khách sạn Continental, chẳng biết gì về sứ mạng mà người ta sắp giao phó cho tôi. Ông ta cũng tự cho có bổn phận thuyết trình cho tôi nghe tình hình nước Pháp, ông ta cũng làm như đang tham dự vào một hội nghị thật sự mà nội dung hoàn toàn giống với những điều mà tôi vừa mới được nghe, chỉ có một điểm khác biệt duy nhất là ít chính xác hơn, ít phong phú hơn, nhưng lại kéo dài hơn nửa giờ liền. Khi tôi khiêm tốn hỏi dò các mệnh lệnh của tướng Oberg, ông ta trả lời rằng có hy vọng sẽ nhận được các chỉ thị chi tiết trong vòng 24 giờ sắp đến. Ông ta khuyên tôi nên sẵn sàng - để làm gì, tôi tự hỏi - và nhất là phải tạt ngang qua văn phòng mỗi ngày hai lần. Về phần một Đại đội của tôi sắp đến sáng mai, đơn vị sẽ đóng tại một doanh trại gần Saint-Germain-en-Large.
Sáng hôm sau tôi lại đến, nhưng vô ích, Tổng hành dinh G.Q.G vẫn chưa có một mệnh lệnh nào cho tôi. Vào buổi chiều, tôi đến Gare du Nord để đón Đại đội binh sĩ của tôi sau khi vật lộn với không biết bao nhiêu Phòng, Sở để xin sáu chiếc cam-nhông cần thiết để chở người và vật liệu. Trước các câu hỏi tò mò của các sĩ quan thuộc đơn vị, tôi chỉ biết trả lời là phải chờ đợi mệnh lệnh.
Buổi tối, khi tôi ghé qua công sở của Tướng Oberg, tôi được yêu cầu trở lại sau nửa đêm vì lẽ lúc đó người ta mới hy vọng nhận được chỉ thị của G.Q.G. Biết rằng Fuhrer ưa làm việc ban đêm, tôi không ngạc nhiên mấy.
Thật vậy, vào lúc 2 giờ sáng, máy viễn ký chuyển cho chúng tôi các chỉ thị chờ đợi.
"Phải bao vây thành phố Vichy, một cách bí mật, bằng một vòng đai quân Đức. Các phân đội chia nhau trấn giữ các vị trí thích hợp để, ngay khi có hiệu lệnh đầu tiên, vây kín thành phố không cho một ai thoát ra ngoài bằng cách đi bộ hoặc đi xe. Ngoài ra, phải có một đơn vị chiến đấu trừ bị đủ mạnh, để có thể, ngay khi có hiệu lệnh thứ nhì, bao vây hoặc chiếm luôn trụ sở của chính phủ Pháp. Các toán quân tham dự chiến dịch này sẽ được đặt dưới quyền thiếu tá Skorzeny, Tư lệnh quân đội Đức tại Pháp và Chỉ huy trưởng Công an, Cảnh sát, trong phạm vi thẩm quyền, cung cấp mọi phương tiện mà Thiếu tá Skorzeny xét cần thiết. Ngay khi các toán quân được đặt vào vị trí, Thiếu tá Skorzeny báo cáo về Tổng hành dinh bằng máy viễn ký".
Von Foelkersam, tùy tùng của tôi, ném cho tôi một cái nhìn hùng biện. Một lần nữa, chúng tôi lại phải làm việc suốt đêm. Luôn luôn tiên liệu trước, Foelkersam đã kiếm được một bản đồ tham mưu vùng Vichy. Nhớ lại các đợt tiến quân chớp nhoáng của quân đội Đức trong cuộc viễn chinh tại Pháp và các khó khăn gặp phải lúc đó, tôi bảo một sĩ quan mang đến một bản đồ Michelin mà tôi cho là rất chính xác. Vì khu vực cần được cô lập quá rộng lớn,chúng tôi ước tính phải cần đến hai tiểu đoàn, ngoài ra lại phải có một tiểu đoàn thứ ba làm lực lượng dự bị. Vì chúng tôi phải hành động bí mật, chúng tôi quyết định sử dụng các lực lượng cảnh sát để lập vòng đai, mà sự điều động sẽ không quá rầm rộ. Ngược lại, đối với cuộc đột kích vào các cơ sở chính phủ, ngoài đại đội của tôi, lẽ tất nhiên các toán quân thiện chiến phải được đặt dưới quyền sử dụng của tôi.
Tham mưu trưởng của tướng Oberg chứng tỏ rất cừ vì đã chuyển đến Vichy hai Tiểu đoàn cảnh sát trong vòng 48 giờ đồng hồ. Tôi tuyên bố rất hài lòng, thế nhưng sáng hôm sau, tôi được biết hai Tiểu đoàn ấy lại do một Tướng lãnh cảnh sát chỉ huy! Theo các huấn thị rất rõ rệt của G.Q.G, vị tướng lãnh này sẽ phải đặt dưới quyền chỉ huy của tôi - một Thiếu tá trừ bị tầm thường! - Tôi thấy trước là sẽ gặp rắc rối vô cùng; may thay, mối lo ngại của tôi không còn đúng nữa. Ngay từ lúc đến Vichy, ông Tướng đã đến ở tại một quán trọ trong vùng phụ cận, và bị cám dỗ bởi phẩm chất đặc biệt ngon lành của các món ăn Pháp, ông ta không còn nghĩ gì đến binh sĩ thuộc quyền nữa, một lần nữa, sự thỏa mãn khẩu vị đã chiến thắng các ưu tư quân sự.
Tuy nhiên đấy mới chỉ là một sự dự liệu. Trong thực tế, chúng tôi chưa thấy sự dự liệu đó được thể hiện - chúng tôi còn dự liệu một cách quá đáng không ngờ là đằng khác. Ngay hôm sau, tôi cố gắng xin vị chỉ huy trưởng Lục quân (Wehrmacht) sẵn sàng cho một toán quân ưu tú. Và chuyện đã không xẩy ra đơn giản. Những địa phương quân già nua không làm tôi ưng ý, một Tiểu đoàn được đề nghị thay thế cũng không giúp được gì hơn cho công việc của tôi. Bởi vì như vậy tôi sẽ bị bắt buộc phóng ra cuộc tấn công sau một thời gian vội vã và với các toán quân mà tôi chưa quen thuộc. Tôi muốn có thể trông cậy vào tinh thần chiến đấu và kinh nghiệm của binh sĩ thuộc quyền. Sau nhiều cuộc thương thảo nhọc nhằn với nhiều sĩ quan Tham mưu, tôi đạt được kết quả như thế này: thay vào chỗ một Tiểu đoàn được yêu cầu, tôi chỉ được cung cấp hai Đại đội, nhưng đó là các đơn vị Thiết kỵ của sư đoàn tân lập Waffen SS Hohenstaufen. Tình cờ, ngay hôm đó, tôi làm quen được với vị tư lệnh Sư đoàn. Tôi thuyết phục được ông ta về tính cách quan trọng đặc biệt của sứ mạng được giao cho tôi, ông ta hứa sẽ gửi cho tôi các quân nhân chọn lọc và luôn cả hai Đại úy xuất sắc nhất của Sư đoàn. Tôi phải nói rằng, ông ta đã giữ lời hứa. Chỉ một vài ngày sau khi các toán quân này đến một phi trường nhỏ phía Bắc Vichy, nơi tôi chỉ định làm chỗ đóng quân cho lực lượng trù bị, tôi mới tin tưởng rằng với các quân nhân cỡ đó, tôi sẽ có thể yên tâm chu toàn sứ mạng.
Sau khi giải quyết một vài chi tiết liên quan đến việc chuyên chở binh sĩ, ngày hôm sau, tôi cùng Von Foelkersam đi Vichy. Nhờ cẩn thận mặc thường phục, hai chúng tôi có thể ở trong thành phố mà không bị để ý, để ẩn thân tìm hiểu địa hình của nơi này.
Hôm sau nữa chúng tôi "thăm viếng" thành phố cùng với một ông khách, một sĩ quan cảnh sát cũng bận thường phục. Lẽ tất nhiên chúng tôi chú trọng đặc biệt đến các con đường, các công ốc của khu vực làm việc của chính phủ. Các công sở chính phủ được đặt tại trung tâm thành phố, tại một trong các khách sạn được nối liền với một số kiến trúc khác bằng một lối đi có mái cao ngang tầng lầu thứ nhất. Hành lang này sẽ đóng một vai trò quan trọng trong kế hoạch của tôi. Một trong các mặt tiền của toàn bộ các cơ sở này hướng ra một công viên, mặt kia, hướng ra một công trường lớn.
Khu vực rộng rãi này chắc chắn sẽ làm cho việc điều động mau lẹ lực lượng của tôi được dễ dàng hơn. Trong khi đó, chúng tôi lưu ý đến các kiến trúc nhỏ mới được xây cất trên công trường, mà người ta bảo rằng do các đội phòng vệ Pháp chiếm giữ và đặt dưới quyền chỉ huy trực tiếp của chính phủ. Các quân nhân Pháp mà chúng tôi thấy xuất hiện đây đó, có vẻ có kỷ luật, được trang bị đầy đủ và nhất là được huấn luyện chu đáo. Chúng tôi phải chờ đợi một sức đề kháng mạnh mẽ từ phía này - ngoại trừ trường hợp hoàn toàn bị bất ngờ đến nỗi các sĩ quan của họ không kịp ban một mệnh lệnh nào.
Khi chúng tôi thong thả trở về chỗ trọ, bỗng nhiên tôi trở nên lầm lì và cáu kỉnh. Thật vậy, tôi vừa có một nhận xét xấu hổ: Tôi đã hết sức ngu xuẩn - ngu xuẩn không chê vào đâu được. Bởi vì sáng nay chúng tôi đã có tư thế của những tên ngu ngốc chứ không phải là các sĩ quan tình báo Đức, vả lại càng không phải là Chỉ huy trưởng cảm tử đang hành động trên đất địch. Làm sao chúng tôi lại có thể đi theo viên sĩ quan cảnh sát kia, người mà dân chúng chắc đã biết nhẵn mặt? Đó là chưa kể đến trường hợp sau khi giải thoát Mussolini, báo chí địa phương có in một tấm hình quen thuộc của tôi! Tóm lại, tôi không có gì hãnh diện về mình cả, và một lần nữa, tôi thấy còn cần phải học hỏi nhiều.
Vào buổi chiều, tôi tiếp xúc với nhiều viên chức và sĩ quan tại các cơ sở Đức ở Vichy để thử tìm hiểu, ít ra là khái quát, về tình hình. Trước hết một tùy viên trẻ của sứ quán – lúc đó chính Abetz thì lại không có mặt – trình bày với tôi hai giả thuyết đối chọi nhau ngay trong giới ngoại giao. Theo một số người thì người Pháp sẽ chẳng làm gì cả, do đó chúng tôi không có lý do gì để can thiệp. Đối với một số khác, chúng ta phải di chuyển trụ sở chính phủ Pháp bằng cách để họ tự ý hay bằng sức mạnh bó buộc, về vùng Ba-lê. Làm như thế, ông già Thống chế trước hết sẽ tránh khỏi hành động của nhóm thân De Gaulle, sau đó, chịu ảnh hưởng của Đức nhiều hơn, nhờ đó, tương quan Pháp Đức sẽ được cải thiện. Nhóm thứ hai này hình như lại còn sửa soạn sẵn một lâu đài phía Bắc Ba-lê để đưa ông Thống chế về đó.
Người thứ hai tôi được tiếp chuyện là một sĩ quan tình báo của quân đội – vậy là một thuộc viên của Đô đốc Canaris – ông ta muốn trình bày với tôi tất cả các tin tức mà ông ta có được. Đó là một bộ sưu tập thật kỳ dị các chuyện vẩn vơ, mách lẻo, những báo cáo khách quan, phần lớn phát xuất từ các nhân viên ở Bắc phi, và các giả thuyết tưởng tượng, tin này thì được một cô thư ký làm việc trong một Bộ nào đó của Chính phủ Pháp vô tình cung cấp, nhân một cuộc tán dóc trong quán rượu, tin kia thì được cung cấp bởi một cô bạn của một sĩ quan hải quân thân cận với Đô đốc Darlan – một cô sẵn sàng chấp nhận ban ân huệ cho bất cứ chàng trai trẻ nào miễn là có uy tín được choàng bộ đồng phục hải quân có sọc ngang. Tất cả tạo thành một hình ảnh rối mù mà tôi tự hỏi không biết Đô đốc Canaris làm sao có thể rút ra các suy đoán rõ rệt.
Chỉ huy trưởng cảnh sát của chúng tôi cũng không biết được gì nhiều hơn. Ông ta chỉ có thể nói với tôi là tình hình không mấy sáng sủa – điểm này chẳng giúp tôi hiểu thêm được gì mới lạ cả. Ông ta cũng cho tôi xem một số lượng đáng kể các báo cáo trái ngược nhau. Trong mọi trường hợp, ông ta không tin ở cung từ của các nhân viên thân De Gaulle bị bắt, đã hai lần ông được báo cho biết là sẽ có các hoạt động của nhóm thân De Gaulle chống lại chính phủ Vichy – và rồi chẳng có gì xảy ra cả. Ông ta đòi hỏi phải di chuyển mau lẹ Chính phủ Pháp về một khu vực bị chiếm đóng. Lúc đó tôi biết rằng trong tâm trí ông ta, giải pháp này có lợi điểm là chấm dứt các xúc động và lo lắng vẫn gây phiền liên tục ở đây. Tóm lại ông này chỉ có một ham muốn: ông muốn người ta để ông yên.
Sau cùng tôi còn đến gặp một Đại Tá không quân, thành phần của ủy ban đình chiến phía chúng tôi. Viên sĩ quan này tuyên bố ngay là ông ta không biết gì cả, và từ chối không tin vào bất cứ tin đồn nào hiện đang đầu độc không khí của thành phố.
- Tốt hơn hết là ta nên ký kết ngay hiệp định hòa bình với Pháp và nếu có thể, với Anh quốc luôn thể. Đó là cách hay nhất để giải quyết một lúc tất cả mọi vấn đề, - ông ta khẳng quyết như vậy và tỏ vẻ hài lòng rõ rệt là đã tìm được một giải pháp đơn giản và căn bản như thế.
Tiếc thay, đề nghị nầy không ích lợi gì cho tôi cả. Trên đường về, tôi không thể ngăn cản được cơn phiền muộn sâu xa khi nghĩ đến sự tồi tệ khó tin do các báo cáo của những đại diện nước Đức ở khắp nơi tạo lập, trong văn khố thuộc Tổng Hành Dinh G.Q.G. Làm thế nào để Fuhrer và các cố vấn của ông có thể đạt đến các kết luận chính xác hay ít ra là sự lượng định tình hình đúng mức? Vậy mà, chính vì đã dựa vào các báo cáo nầy – nếu không nói là các tin đồn nầy – Tổng Hành dinh đã ra lệnh cho tôi phát động một chiến dịch đã được hoạch định: và nếu vạn nhất quyết định nầy đã dựa trên các tin tức sai lầm hay cố ý giả mạo, hậu quả thê thảm sẽ là sự rắc rối kinh khủng trong những mối bang giao hiện tại và tương lai giữa Pháp và Đức.
Nhưng tôi tự an ủi bằng cách nhủ thầm rằng chuyến đi này dù rất chán nản nhưng không phải là hoàn toàn vô ích: nhân khi đi lang thang trong thành phố, tôi nghiệm ra rằng ở đây người ta vẫn giữ thói quen kéo dài giấc ngủ trưa của dân vùng Địa Trung Hải! Thật vậy! đã 2 giờ chiều rồi mà đường phố còn vắng ngắt. Do đó, nếu các mệnh lệnh còn để cho tôi khả năng chọn lựa, tôi sẽ chọn lúc này, thời gian đặc biệt yên tĩnh trong ngày để làm giờ H. Làm như vậy tôi sẽ có may mắn cùng với tiểu đoàn xung kích của tôi lọt vào được trung tâm thành phố mà không gây sự chú ý nào. Từ phi trường cho đến khu vực đặt chính phủ, khoảng cách đó chừng 5 cây số tương ứng với 7 phút di chuyển bằng thiết vận xa. Lẽ tất nhiên trong kế hoạch, tôi phải lưu ý đến các thám sát viên của chính phủ Vichy và có lẽ của phe giải phóng nữa, những người đang rình xem chuyện gì xảy ra trong các doanh trại dùng làm nơi đồn trú của binh sĩ tôi. Để chống lại sự rình rập này, chỉ có hai cách: đánh đổi vai trò với địch quân bằng các cuộc thao diễn khéo léo, và khi cơ hội đến, hành động mau lẹ như sấm sét.
Được Von Foelkersam phụ lực, tôi cẩn thận và tỉ mỉ hoạch định tất cả các chi tiết của phương cách báo động nhất là đối với đơn vị xung kích của tôi. Chúng tôi dự liệu một hệ thống báo động gồm hai giai đoạn và ra lệnh cho binh sĩ thực tập hằng ngày – thao diễn cơ bản ngày và đêm, đi bộ đều bước hoặc đi bằng thiết vận xa. Tuy nhiên tôi giữ không cho tổ chức các cuộc thực tập vào buổi trưa để khỏi làm rộn giấc ngủ của các thám sát viên địch. Dầu sao, chúng tôi cũng biết rằng vào giờ đó, họ đều đã tập trung chung quanh chỗ ngủ, và lúc nào họ cũng bị tôi bắt gặp như vậy.
Về phần các Bộ chỉ huy của hai Tiểu đoàn Cảnh sát, một Bộ chỉ huy đồn trú tại Cognat, phía tây Vichy, và Bộ chỉ huy kia đóng tại Bost, phía Đông thành phố. Tôi chạy lui tới gần như suốt ngày trong vùng để kiểm soát các cuộc tuần tiễu. Cô lập một thành phố không phải là một chuyện dễ. Từ trung tâm Vichy, không có dưới 15 con đường tỏa ra các hướng. Các con đường này xe cộ đông đúc, lại được nối với nhau bằng cả hệ thống dày đặc và rất khó kiểm soát các con đường phụ. Vậy mà chúng tôi bắt buộc phải tiên liệu việc kiểm soát di chuyển trên cả các loại hương lộ.
Trong tám Đại đội của hai Tiểu đoàn Cảnh sát, hai Đại đội vẫn tiếp tục đóng vai trò trừ bị. Nhiệm vụ của chúng là khi giờ hành động đến, phải chiếm lập tức các ngõ ra vào chính yếu ở ven thành phố. Các Đại đội khác phải kết thành một vòng đai chặt chẽ quanh Vichy và tiến tới cho đến khi cách trung tâm thành phố chừng sáu cây số. Như vậy, nhờ hai vòng đai bao vây, chúng tôi mới có thể cấm tất cả mọi sinh vật không cánh ra khỏi Vichy hay tiến vào đấy.
Kế hoạch hành động của tôi để thực hiện đích (?) chiến dịch có thể được mô tả như sau: ngay khi Tổng Hành Dinh ra hiệu lệnh thích nghi cho tôi – hiệu lệnh được ngụy trang rất lạ bắt chước tiếng chó sủa – Tiểu đoàn xung kích sẽ được báo động trước tiên. Nhờ các cuộc thao dượt liên tiếp, chắc mọi người mất không đến 10 phút là có thể sẵn sàng, được trang bị đầy đủ và lên xe. Tôi hy vọng thời cơ sẽ cho phép tôi ra lệnh khởi hành lúc 13 giờ 45. Tôi không dự liệu sẽ gặp một cản trở nào, càng không có các cuộc chống cự bằng quân đội, trên suốt lộ trình cho đến các cơ quan chính phủ trong khoảng thời gian từ 8 đến 10 phút. Như thế, phân đội tiền phong, Đại đội đầu tiên thuộc Tiểu đoàn khinh binh Friedenthal của tôi sẽ có mặt tại khu vực hành quân vài phút trước 14 giờ. Một Tiểu đội sẽ tách khỏi đơn vị, tiến chiếm một chiếc cầu nhỏ nằm trên nhánh sông Allier và đảm bảo bằng mọi giá đường rút lui của chúng tôi về phi trường. Hai tiểu đoàn thiết kỵ sẽ chiếm công trường trước tòa nhà chính phủ, công viên và các con đường kế cận, trấn thủ các nơi đó chống lại các cuộc phản công có thể xảy ra và che chở cho đại đội khinh binh do chính tôi chỉ huy, tấn công vào hai tòa nhà. Nhớ lại sự thành công nhờ tấn công bất ngờ không làm đổ máu nhiều, nhân khi giải thoát Mussolini, tôi ra lệnh bằng mọi giá, để cho đối phương khai hỏa trước. Huấn lệnh "bắn tự do" sẽ chỉ có thể do tôi ban ra, hoặc do Đại úy Foelkersam, hoặc sĩ quan Đại đội trưởng thâm niên cấp bậc cao nhất thuộc tiểu đoàn thiết kỵ.
Hai toán chiến lược đầu thuộc Đại đội do tôi chỉ huy tìm cách chiếm các lối chính đi vào tòa nhà mà không cần sử dụng đến vũ khí, và trấn giữ các cầu thang và đầu các hành lang cho đến tầng thứ nhất. Phần tối, chỉ huy toán thứ ba, tôi sẽ cố xuyên qua tòa nhà kế cận theo lối đi có mái lợp và chiếm giữ hành lang trước các văn phòng chính phủ.
Phần còn lại của kế hoạch thì tôi đành phải chờ các mệnh lệnh chính xác của G.Q.G. Tôi chưa biết liệu có nên trù tính cho phong trào giải phóng một vố chăng, bằng cách loại các Tổng Trưởng bị nghi ngờ thân De Gaulle, hay là đưa toàn vẹn chính phủ Pháp về khu vực chiếm đóng.
Ngày lại ngày trôi qua mà không mang lại cho chúng tôi điều gì khác hơn là các mệnh lệnh “báo động lớn” để rồi bị hủy bỏ đều đều vài giờ sau đó. Vào giữa tháng 12, người ta đánh thức tôi vào lúc nửa đêm và triệu dụng tôi về Ba-lê gấp. Tại Bộ Chỉ huy Lục quân ở đường Rivoli, một viên chức cơ quan tình báo quân đội chờ tôi và liên lạc cho tôi nói điện thoại với Tổng Hành Dinh của Fuhrer. Tôi đoán rằng người ta sẽ ra lệnh hành động. Sai lầm trầm trọng: một tùy viên của Fuhrer nói với tôi, bằng giọng khô khan rằng chưa có quyết định gì cả, nhưng nội trong ngày sẽ có tin. Đến 4 giờ chiều tôi gọi về G.Q.G. vẫn không có tin tức gì.
May thay, từ lâu tôi đã học cách thực hiện một đức tính căn bản của quân nhân: kiên nhẫn. Vậy thì tôi đợi cho đến lúc quý ông trong G.Q.G. thỏa hiệp được với nhau. Đến 10 giờ đêm, “Hang sói” (Tổng Hành Dinh) cho gọi tôi. Tôi nhảy bổ đến điện thoại, tin chắc sẽ nhận được lệnh dứt khoát sau cùng. Thế mà, thay vì quyết định được chờ đợi, người ta chỉ chuyển cho tôi chỉ thị sau đây:
“Thiếu tá Skorzeny quay trở lại Vichy lập tức. Phải duy trì tình trạng báo động đối với các đơn vị thuộc quyền cho đến khi có lệnh mới”.
Và tôi lại lên đường trở về thủ đô tạm thời của Pháp. Trong khi lái xe qua các vùng quê trong đêm tối, tôi cố tìm lý do làm cho G.Q.G ngần ngại. Linh cảm báo cho tôi biết rằng rồi ra Fuhrer phải đi tới quyết định hủy bỏ chiến dịch.
Trong khoảng thời gian vài ngày sau đó, chúng tôi nhiều lần được các chỉ thị, khi thì ra lệnh chấm dứt báo động, khi thì tái lập tình trạng báo động. Chúng tôi bắt đầu quá quen thuộc với các mệnh lệnh này. Khi tôi tuyên bố với các sĩ quan của Tiểu đoàn xung kích là theo ý tôi, chiến dịch sẽ không có, mối thất vọng sâu xa xuất hiện trên mọi nét mặt, rõ ràng là các quân nhân này mơ ước một chiến tích tương tự như vụ Gran Sasso.
Và thật thế, vào ngày 20 tháng 12 năm 1943, tôi nhận được lệnh bỏ cuộc và cho binh sĩ trở về. Lẽ dĩ nhiên, tất cả chúng tôi cùng có một ý nghĩ: nếu làm nhanh, thật nhanh, chúng tôi có thể còn thì giờ kiếm một giấy nghỉ phép Giáng sinh ngắn. 24 tiếng đồng hồ sau, tôi cùng với Đại đội về đến Paris và vừa đúng lúc đáp được chuyến tốc hành đi Bá-linh.
1- Xem "Những trận đánh lịch sử của Hitler", sách đã phát hành.
Hitler và những sứ mạng bí mật của Skorzeny Chương XIV Vũ khí bí mật Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Khi trở lại Friedenthal tôi thấy các sĩ quan của tôi đã dấn thân vào các xô xát đầu tiên của một trận chiến tranh thật sự chống lại hệ thống thư lại tại cơ quan trung ương Waffen SS. Chiến tranh đã bùng nổ nhân khi thiết lập các hồ sơ “cấp số” và “vũ khí” – hồ sơ bắt buộc phải có đối với mỗi đơn vị - trong đó chúng tôi đã liệt kê tỉ mỉ nhu cầu. Với trí óc u mê của các chiến binh thuần túy chúng tôi tin là các yêu cầu sẽ được thỏa mãn hết. Cơ quan Trung ương báo cho chúng tôi biết là đề nghị được chấp thuận. Tràn trề hy vọng, chúng tôi nghiên cứu bản văn huấn lệnh chung cuộc, để thiết lập Tiểu đoàn khinh binh thứ 502 đặt dưới quyền chỉ huy của “chỉ huy trưởng các toán xung kích” Otto Skorzeny. Nhưng đến hàng chót của huấn lệnh chúng tôi giật nảy mình khi đọc: Tuy nhiên, cơ quan Trung ương Waffen SS đã minh xác rằng đơn vị sắp được tổ chức sẽ không thể đòi hỏi cung cấp vật liệu lẫn biệt phái nhân viên.
Thoạt tiên, chúng tôi không biết nên khóc hay cười. Sau đó một lúc, chúng tôi quyết định nhìn vụ này dưới khía cạnh thuần túy khôi hài, và tìm mọi cách để xoay ngược lối xếp đặt tai hại này: vét sạch các cơ xưởng mà không hề biết xấu hổ, và tuyển mộ người từ khắp các đơn vị của Lục quân. Cứ như thế, chúng tôi tập họp dần dần binh sĩ xuất thân từ đủ loại binh chủng: bộ binh, không quân, hải quân và Waffen SS, điều này, tuy vậy không ngăn cản được chúng tôi đào tạo một đơn vị hoàn toàn thuần nhất.
Đến tháng 2 năm 1944, lãnh vực thực sự của chúng tôi - các cuộc hành quân cảm tử - trở nên rộng lớn hơn vì có sự sáp nhập của một đơn vị mà công chúng vẫn gán cho một cái tên chế diễu "quân đội bí mật". Thoạt tiên tôi được lệnh phụ trách một khía cạnh đặc biệt của cuộc chiến đấu trên biển. Từ khi Bắc Ý, dưới sự lãnh đạo của ông Duce, chiến đấu trở lại cạnh chúng tôi, dây liên lạc giữa quân đội Đức và Ý lại được thắt chặt. Nhờ sự hợp tác chặt chẽ đó, tôi được dịp nghiên cứu tại chỗ nỗ lực đáng kể của một trong những đơn vị ưu tú của Ý: Hải đội Mas Flottila thứ 10, lúc đó đặt dưới quyền chỉ huy của hoàng tử Borghese.
Đơn vị này đã hoàn thành nhiều "vũ khí thứ cấp" nhằm vào các cuộc đột kích chống hạm đội Đồng minh. Trong số các chiến cụ được mang ra trình bày với tôi, tôi đặc biệt chú trọng đến một loại khinh tốc đỉnh được nhồi đầy thuốc nổ, chỉ do một người duy nhất điều khiển; khi đến gần mục tiêu, tài công sẽ nhẩy xuống nước. Cũng trong cùng mục đích đó, người Ý còn xử dụng một loại thủy lôi kiểu đặc biệt do quân nhân mặc áo lặn điều khiển và như vậy, có thể mang theo các đầu đạn khổng lồ cho đến chiến hạm địch. Với các vũ khí này, cảm tử Ý, nhờ lòng can đảm vô biên, đã thực hiện thành công hai cuộc đột kích hấp dẫn nhắm vào các chiến hạm Đồng minh. Lần thứ nhất, trong cảng Alexandria, lần thứ hai trong vũng tàu đậu chính tại Gibraltar. Mặt khác, hải đội "Mas Flottila thứ 10" còn gồm một đơn vị người nhái, đó là những tay bơi lội kỳ lạ, họ lặn xuống nước bơi gần đến tầu địch, gắn các khối chất nổ vào hông tầu; họ mang các chân vịt bằng cao su, nhờ đó, có thể đạt được, trên cũng như dưới mặt nước, những tốc độ đáng kể bằng một sức cố gắng tối thiểu. Mang chân vịt loại này, một Đại úy Đức đã một mình đánh đắm được một thương thuyền 50.000 tấn của Đồng minh.
Một hôm, tôi nhận được lệnh tiếp xúc với phó Đô đốc Heye, Tư lệnh các đơn vị đặc biệt mà Hải quân Đức vừa thành lập. Do ý muốn của Himmler, những quân nhân ưu tú nhất của tiểu đoàn tôi phải tham dự khóa huấn luyện "cảm tử quân" này.
Những ý tưởng căn bản mà phó Đô đốc trình bầy đã làm tôi kinh ngạc. Ngoại trừ tiềm thủy đỉnh, tàu vớt mìn và khinh tốc đỉnh, hải quân Đức chưa đủ sức xuất hiện và chiến đấu với hạm đội Đồng minh trong những trận chiến có đội hình. Như vậy, hạm đội đã phải giữ tình trạng thụ động nếu không nói là hoàn toàn bất lực. Trong khi đó nhiều quân nhân hải quân đầy nhiệt tâm và ưa chiến đấu đã đòi hỏi sứ mạng mới. Để xử dụng các động năng quí giá này, phó Đô đốc Heye và cộng sự viên của ông đã làm việc cật lực để cung cấp cho những người này các vũ khí bí mật, đặc biệt hữu hiệu. Lẽ dĩ nhiên, họ lợi dụng được kinh nghiệm của người Ý trong cùng một lĩnh vực. Trước hết chúng tôi thử dùng tất cả những gì có sẵn. Tất cả chúng tôi đều biết là không nên phí thì giờ. Chiến tranh sắp chấm dứt. Do đó, các kỹ sư của Hải quân đề nghị dùng thủy lôi thường: người ta lấy chất nổ ra, gắn phía trước một nắp tròn bằng kính, trang bị một hệ thống định hướng, và kèm dưới bụng một thủy lôi thứ hai có chất nổ. Như vậy, loại thủy lôi do người điều khiển đã sẵn sàng để sử dụng với một tầm hoạt động thực hành vào khoảng 10 hải lý.
Chúng tôi ý thức được tính cách đơn sơ vả thiếu sót của những "tên mọi đen", danh hiệu mật mã để gọi thứ khí cụ này. Nhưng chúng tôi nhận thấy ngay là một lần nữa, có thể trông đợi vào yếu tố bất ngờ. Lần thử đầu tiên loại khí giới mới này đã mang lại cho chúng tôi thành công hoàn toàn. Vào lúc hừng đông của một ngày đẹp trời mùa hạ, 20 người thuộc "Đơn vị hải quân đặc biệt" đã hạ thủy các "tên mọi đen" nhắm về phía Bắc đầu cầu hải quân Đồng minh tại hải cảng Anzio. Trong vài phút, họ đến nơi, không bị phát giác và trông thấy mục tiêu, đó là một khu tập trung vô số chiến thuyền và thương thuyền. Bằng cần điều khiển, họ phóng ra các thủy lôi bên dưới, vài phút sau nhiều tiếng nổ kinh hồn vang lên ngay hạm đội địch: một tuần dương hạm bị thiệt hại nặng nề, một tàu phóng ngư lôi bị chìm, hơn 30.000 tấn thương thuyền bị chìm hoặc thiệt hại - đó là bảng kết toán của hành động do một số ít chiến sĩ gan dạ thực hiện. Bảy chiến sĩ trở về được ngay, mang theo khí cụ chuyên chở thủy lôi, sáu người khác lần được vào bờ bên trong đầu cầu Đồng minh, vượt qua khu vực địch quân suốt đêm và trở lại vị trí xuất phát. Bảy người còn lại đã hy sinh trong những lớp sóng dồn. Tiếp theo đó, các cuộc đột kích trong vùng biển Địa trung hải và biển Manche, cũng đem lại nhiều thành tích khác, mặc dù kém quan trọng hơn. Lẽ tất nhiên, địch quân nhận biết ngay các nắp kính của loại "thủy lôi biến chế", họ ý thức được rằng sự xuất hiện của chúng có nghĩa là mối nguy hiểm chết người. Ngay khi thám sát viên thấy một thủy lôi biến chế của chúng tôi, tất cả chiến thuyền địch đồng loạt khai hỏa các vũ khí phụ. Nhiều lần chúng tôi lừa được quân Anh, Mỹ: lúc gần sáng - phải cần gió thuận và thủy lưu thích hợp - chúng tôi thả các thủy lôi biến chế không mang theo gì cả để chúng nổi trên mặt nước. Mỗi lần như vậy, đối phương bắn ào ạt vào các mục tiêu vô hại đó. Nhờ kế "nghi binh" này, nhiều "tên mọi đen" thật, từ các hướng khác, có thể tiến gần mục tiêu và phóng các thủy lôi mang dưới bụng mà không bị phát giác.
Mặt khác, chúng tôi cũng sử dụng càng ngày càng nhiều loại ca-nô chứa đầy chất nổ - tên mật mã lả "thấu kính" - được điều khiển từ xa theo các nguyên tắc đã áp dụng cho loại chiến xa tí hon nổi tiếng "Goliath", chứa đầy chất nổ. Một sự sắp xếp khéo léo đã làm gia tăng rất đáng kể hiệu năng của các "thấu kính": đúng lúc chiếc ca nô chạm mục tiêu, khối chất nổ được thả ra, chìm xuống nước dọc theo hông tàu và chỉ phát nổ dưới một chiều sâu nào đó, lỗ hổng bị phá vỡ bên sườn luôn làm thiệt hại lớn lao cho chiến thuyền địch. Nhờ các "thấu kính", chúng tôi tổ chức được nhiều cuộc đột kích thành công tại Địa trung hải và nhất là để chống lại các cuộc tập trung hải lực của Đồng minh ở bờ biển Normandie. Về phần các tiềm thủy đỉnh bỏ túi, được người Nhật sử dụng lần đầu tiên, và người Anh sử dụng một lần duy nhất tại Thụy Điển, chúng tôi có nhiểu kiểu và xử dụng trong nhiều cuộc đột kích tốn kém. Cho đến khi chiến tranh chấm dứt, cơ sở kỹ thuật của hải quân còn cố gắng hoàn thiện loại khí giới này, tuy nhiên kết quả là không làm cho hữu hiệu hơn và đặc thù hơn (được?).
Ngay từ mùa xuân 1944, chúng tôi đã tự hỏi cuộc đổ bộ sắp đến của Đồng minh lên phía Tây Âu châu sẽ xẩy ra tại địa điểm nào. Chúng tôi biết sẽ có cuộc đổ bộ và chúng tôi cảm thấy nó gần kề rồi. Vào tháng năm, tôi có dịp xem các không ảnh những hải cảng phía Tây nam Anh quốc, và cũng giống như mọi người, tôi điên đầu đoán không ra ý nghĩa của những khối mầu xám hình chữ nhật, neo suốt dọc các bến tầu. Mãi về sau, chúng tôi mới biết đó là các bộ phận tiền chế của một hải cảng nhân tạo dành cho cuộc đổ bộ sắp đến.
Cũng vào thời kỳ đó, chúng tôi cũng đã bắt đầu tự hỏi làm thế nào để đóng góp vào sự khuấy phá các đợt đổ quân tăng cường và các sự sắp xếp vị trí lực lượng của Đồng minh, vài ngày sau cuộc đổ bộ: Trước hết tôi được Bộ tư lệnh Hải quân thông báo mật các địa điểm mà hải quân suy đoán là có thể mở cuộc đổ bộ. Trên một danh sách gồm 10 địa điểm chạy từ bán đảo Contentin, Cherbourg được ghi hàng đầu như là địa điểm có thể có cuộc đổ bộ; tôi cũng khám phá thấy ở đó có những chỉ dẫn về bờ biển, bãi cát, có thể cho phép một cuộc đổ bộ của Đồng minh. Căn cứ trên danh sách này, chúng tôi hoạch định một kế hoạch đặc biệt, thích ứng với điều kiện đặc thù của 10 địa điểm ấy. Chúng tôi đã đề nghị di chuyển ngay vài "Đơn vị hải quân đặc biệt" đến dãy bờ biển này để chuẩn bị các cuộc hành quân chống các trung tâm truyển tin và chỉ huy của địch. Chúng tôi dự liệu chôn trước các khối chất nổ và khi cần, điều khiển cho nổ từ xa bằng máy vô tuyến, một kiểu mới vẫn được gắn trên phi cơ của chúng tôi.
Lẽ tất nhiên chúng tôi phải trình kế hoạch và phải được sự chấp thuận của Bộ tư lệnh quân đội Đức tại chiến trường miền Tây. Sau nhiều lần yêu cầu trả lời, chúng tôi được các công sở bị công việc tràn ngập hoàn toàn, trả lời như sau: Trên nguyên tắc, kế hoạch do các chuyên viên của đơn vị cảm tử thuộc quyền Thiếu tá Skorzeny thiết lập, đã dựa trên các ước tính tình hình rất đúng và kế hoạch đó có thể thực hiện được. Thế nhưng - cũng giống như mọi khi, bao giờ cũng có chữ nhưng - chúng tôi không thể cấp các phương tiện cần thiết vì như thế sẽ làm cho các đơn vị quân đội Đức đồn trú dọc theo bờ biển chú ý. Tất cả các biện pháp loại này, nếu được thi hành, sẽ gây hậu quả làm mất niềm tin của quân sĩ và làm cho bức tường Đại tây dương trở nên tuyệt đối tầm thường. Vì lý do đó, chúng tôi buộc lòng phải bác bỏ toàn bộ kế hoạch nói trên. Ký tên không rõ (như thường lệ) - Không còn bình luận gì được nữa.....
Lẽ tự nhiên, chúng tôi cũng đã thử sáng tạo các loại vũ khí mới trong lĩnh vực hàng không. Từ ít lâu nay, phi đoàn chiến đấu thứ 200 đã có nhiều kinh nghiệm. Một vài phi công cũng đã nghĩ đến các cuộc hành quân tự sát, nghĩa là đề nghị tình nguyện lao cùng phi cơ chứa đầy bom và chất nổ xuống mục tiêu chỉ định, thông thường là các chiến hạm. Nhưng hình như Fuhrer đã bác bỏ vì các lý do triết lý: thật vậy, theo ông sự hy sinh đó không tương ứng, vừa với tính cách dân da trắng, vừa với tâm tính của dân tộc Đức. Theo ý ông, chúng tôi không nên bắt chước các quân nhân tình nguyện đi tìm cái chết của Nhật bản.
Một vài tuần trước cuộc đổ bộ của Đồng minh, tôi có dịp làm quen với nữ phi công Hanna Reitsch và cuộc tiếp xúc đầu tiên này đã mở cho tôi những chân trời mới lạ. Với một vẻ điềm tĩnh kỳ lạ nơi một phụ nữ mảnh mai, trước hết cô bảo với tôi rằng một người yêu nước thật sự không nên đánh giá quá cao mạng sống của mình khi số phận đất nước bị đe dọa, tiếp theo đó cô giải thích những ý nghĩ thầm kín của cô, có lẽ những biến chuyển sẽ dồn dập xảy đến một cách bi thảm khiến chúng ta bắt buộc phải kêu gọi những người "tình nguyện đi tìm cái chết". Nhưng trong viễn cảnh đó, bổn phận của chúng ta là tìm cách tối thiểu giúp các phi công thoát thân. Về điểm này có lẽ Hanna Reitsch có lý: tôi có thể nhận thấy sau đó niềm phấn khởi và tinh thần hăng hái của các quân nhân tình nguyện gia tăng gấp đôi ngay sau khi người ta thông báo một cơ may, dù rất nhỏ, có thể trở về bình an vô sự.
Vài ngày sau cuộc tiếp xúc đó, tôi được phép viếng thăm một địa điểm thí nghiệm các vũ khí bí mật "V" tại Peenemunde trên đảo Usedom, trong biển Batique. Hiện tại, tôi nghĩ rằng viên kỹ sư hướng dẫn tôi lúc đó chưa chỉ cho tôi xem tất cả, bởi vì vào thời kỳ này, người ta đang thí nghiệm "một vũ khí trả đũa". Ngược lại, tôi được phép nghiên cứu thật kỹ một chiếc V1 và tham dự cuộc phóng một trong những hỏa tiễn này. Đúng lúc đó tôi có ý tưởng làm thử, với trái bom bay này, những gì chúng tôi đã thực hiện với loại thủy lôi của hải quân: nghĩa là dùng một người lái hỏa tiễn.
Sau nhiều cuộc thảo luận dằng dai với các cấp chỉ huy và chuyên viên bộ Không lực, tôi thành công bằng cách nhấn mạnh rằng Fuhrer muốn bắt đầu ngay các cuộc thí nghiệm và phải thông báo cho ông kết quả cuộc thí nghiệm ngay lập tức. Thật ra, cái được gọi là ý muốn của Fuhrer chỉ là chuyện do tôi bịa đặt. Tuy nhiên, mưu kế của tôi đã quét sạch các chống đối của những ông này - lạ hơn nữa là trước đó mấy tháng, Hanna Reitsch cũng có ý tưởng như tôi, nhưng đã thất bại hoàn toàn trước sức đề kháng mãnh liệt của đám thư lại. Người ta cung cấp cho tôi địa điểm, máy móc, kỹ sư, cơ khí viên mà tôi cần. Và 15 ngày sau - một thời gian kỷ lục - các cuộc thí nghiệm đầu tiên khởi sự.
Một chiếc V1, do một phi công lái, được móc vào bụng một chiếc Henkel 111 như một cọng rơm. Đến độ cao chừng 1000 thước, chiếc V1 tách rời ra và bằng tốc độ 600 cây số một giờ đã bỏ chiếc Henkel to lớn với tốc độ 300km/giờ lại đằng sau như đứng yên trên không. Viên phi công lượn vài vòng lớn, rồi giảm tốc độ và tìm cách đáp xuống. Lần đầu tiên, anh ta bay ngược gió dọc theo chiều dài của phi đạo, và cách mặt đất 50 thước.
- Lạy trời, - chúng tôi thầm thì. - Hắn ta chưa giảm đủ tốc độ - miễn sao cho mọi sự êm xuôi.
Viên phi công lượn vòng và đáp xuống lần thứ nhì. Lần này, hình như anh ta muốn đáp thật, chiếc V1 gần như chạm mặt đất, chỉ cách hai hay ba thước. Nhưng không - có lẽ anh ta thay đổi ý định vào phút chót. Đáng lẽ đáp xuống, anh ta bay lên lại, từ từ và lượn một vòng thứ ba, trở lại trên phi đạo và rồi biến cố đã xẩy đến: anh ta vẫn chưa đáp được xuống mặt đất, cố thử, tiến đến đầu phi đạo, nhảy lên một ngọn đồi - chúng tôi còn thấy bụng của nó chạm ngọn cây, trước khi nó biến mất sau đỉnh đồi. Một lúc sau, hai cột bụi mù bốc cao báo hiệu tai nạn đã xẩy ra.
Cùng với hai y tá, tôi nhẩy lên một thiết vận xa và đi sâu vào cánh đồng hướng về phía chiếc V1 bị rơi. Từ xa chúng tôi đã thấy các mảnh vụn của chiếc V1, nơi này một cánh, nơi kia một cánh, ở giữa là động cơ, may thay không bị cháy. Cách đó mười thước, viên phi công nằm co quắp - anh ta cử động cánh tay một cách yếu ớt. Trước khi bị bể tan, anh ta đã đẩy được nắp kính và bắn ra ngoài. Lúc đó anh ta không thể nói gì và được chúng tôi đưa về bệnh viện. Chúng tôi thử tìm cách giải thích tai nạn bằng cách nghiên cứu luống đất bị cày thật sâu. Theo chỗ chúng tôi biết, viên phi công có ý định đáp trong cánh đồng. Nhưng tại sao?
Các chuyên viên kỹ thuật mất công mò mẫm, dò xét từng mảnh kim khí, họ không khám phá được điều gì có thể giúp chúng tôi vén màn bí mật. Hôm sau chúng tôi thử lại với một phi công khác. Mọi chuyện đều giống y như chuyến bay thử đầu tiên: chiếc V1 tách khỏi phi cơ mẹ, lần này viên phi công lượn thêm vài vòng và tìm cách đáp, nhưng không chạm được phi đạo và bị bể tan gần như cùng một chỗ cũ. Phi công lại bị thương nặng và cũng không nói được. Hanna Reitsch tỏ ra rất rầu rĩ. Chúng tôi biết sau hai lần thất bại vừa qua, cơ sở kỹ thuật sẽ cấm, dù là tạm thời, theo đuổi cuộc thí nghiệm. Hôm sau nữa, các phi công đã khá hơn và có thể nói chuyện được. Họ nói lờ mờ về sự rung chuyển cần lái, nhưng họ không cho chúng tôi các lời giải thích nào có giá trị về nguyên nhân của hai tai nạn giống nhau.
Nhưng vài ngày sau, Hanna Reitsch đến thăm tôi cùng với viên kỹ sư phụ trách chế tạo chiếc V1 biến cải và một kỹ sư của Bộ Không quân. Trước vẻ ngạc nhiên của tôi – tôi chờ được báo tin là ý định của mình bị vĩnh viễn xếp vào loại “ đề nghị lố lăng” – Hanna tuyên bố đã tìm được nguyên nhân của các tai nạn. Tại văn phòng nhân viên trung ương, cô đã tham khảo các phiếu lý lịch cá nhân của hai viên phi công bay thử, và khám phá ra rằng cả hai chưa hề có cơ hội lái loại phi cơ bay mau như thế. Chắc chắn phải có một số kinh nghiệm nào đó mới chế ngự được một loại máy bay nhỏ với tốc độ lớn như vậy. Hiện tại, Hanna Reitsch và hai viên kỹ sư đều cho rằng Bộ Không quân đã sai lầm khi kết luận nguyên nhân của hai tai nạn trên là sự sơ sót trong khi chế tạo. Để chứng minh lòng tin tuyệt đối của họ vào chiếc V1 có thể lái được của tôi, cả ba người đề nghị sẵn sàng bay thử trên những chiếc sắp được chế tạo xong. Đề nghị thật quyến rũ – tuy nhiên còn có vấn đề nan giải: lệnh cấm tiếp tục các cuộc thí nghiệm. Tôi biết rằng Bộ Không quân sẽ không nhượng bộ. Nhưng Hanna Reitsch và hai viên kỹ sư đã bị dự án của tôi quyến rũ rõ rệt, lệnh cấm đối với họ không quan trọng mấy; họ bất cần, miễn là được tôi chấp nhận. Tôi bối rối, làm sao đây?
- Cô hãy nghe tôi, Hanna, - tôi bảo, - nếu có chuyện gì xảy ra cho cô, chính Fuhrer sẽ cắt đầu tôi.
Nhưng họ vẫn nài nỉ, với tất cả nhiệt tình, và tôi bắt đầu thấy mềm lòng. Hanna biết cách khéo léo tìm chỗ yếu của tôi, nhất là bằng cách kêu gọi ý thức bổn phận của tôi, và gợi câu thành ngữ cổ điển: một quân nhân chân chính có lúc phải nhận trách nhiệm trái lệnh thượng cấp. Cuối cùng tôi đành nhượng bộ, miễn cưỡng. Chúng tôi hy vọng “nắm” được viên chỉ huy phi trường bằng cách bảo rằng Bộ Không quân đã cho phép miệng tiếp tục các cuộc thí nghiệm.
Hôm sau, khi Hanna Reitsch khép chặt nắp kính trên chiếc V1, tim tôi đập dữ. Tuy nhiên, mọi chuyện xảy ra rất tốt đẹp: ngay khi chiếc V1 tách khỏi phi cơ mẹ, Hanna biểu diễn vài vòng lượn bay bướm, và rồi cô tiến gần phi đạo với một tốc độ điên cuồng. Mồ hôi lạnh chảy dọc sống lưng tôi – chiếc V1 chạm đất, một đám bụi bốc cao, và chạy cho đến cuối phi đạo. Chúng tôi chạy nhào đến và vui sướng giúp đưa ra khỏi phi cơ một phụ nữ rạng rỡ vì hài lòng.
- Quả thật cừ khôi, - cô nói, vẻ hân hoan rõ rệt.
Tiếp theo đó, đến phiên hai kỹ sư thử loại máy bay của tôi. Bộ ba đã thực hiện tất cả 20 chuyến bay thử và cả 20 lần đáp đều thành công. Không còn nghi ngờ gì nữa – kỹ thuật chế tạo rất hoàn hảo.
Buổi chiều, khi tôi báo cáo lên Thống chế không quân Milch, ông ta tái mặt.
- Hành động điên cuồng này đáng đưa anh ra pháp trường, - ông tuyên bố giọng bi thảm mà không ý thức rằng điều tiên tri đen tối này đã đến hơi chậm.
Tuy nhiên tôi cũng xin được ông cho phép tiếp tục các cuộc thí nghiệm và bắt đầu đào tạo phi công. Ngày hôm sau, cơ xưởng của chúng tôi bắt đầu chế tạo máy bay hàng loạt, một vài chiếc đầu được dùng để thí nghiệm và hoàn thiện thêm, sau cùng, phi cơ sẵn sàng để chiến đấu. Trong khi chờ đợi, tôi chọn lựa 30 cựu phi công trong số người thuộc “đơn vị đặc biệt” của tôi, bên cạnh đó, Không quân phái cho tôi 60 phi công tình nguyện và họ mới vừa đến Friedenthal – chúng tôi có thể bắt tay vào việc được rồi.
Tôi đã yêu cầu cơ quan phụ trách nhiên liệu của Bộ Không quân cung cấp 5 thước khối xăng cho mỗi chiếc phi cơ của tôi. Thế mà không ngờ rằng chúng tôi đã không đủ lý lẽ để vượt qua trở ngại này. Nhiều tuần lễ trôi qua, một lần chúng tôi nhận được 10 rồi 15 thước khối. Nhưng đợt cung cấp qui mô như đã được hứa thì vẫn chưa thấy đến. Tôi chạy từ văn phòng này đến văn phòng kia mòn gót giày, khắp nơi tôi chỉ nhận được các lời hứa hẹn mơ hồ hoặc là các lời từ chối vì bất lực. Mùa thu năm 1944, tôi bỏ rơi dự án. Như thế công trình kỹ thuật và ngay cả công cuộc chuẩn bị chiến thuật của chúng tôi đã trở thành vô ích. Chúng tôi còn dự trù phóng một chiếc V1 gắn vào giữa một chùm phi đạn không người lái, làm cho chiếc V1 này như chìm trong một khối. Hiện tại, không nên nghĩ đến điều đó nữa. Tôi chỉ còn giữ lại các phi công Không quân biệt phái, và tôi có thể nói rằng, dù bị coi như là “thấp hèn”, họ vẫn thi hành phận sự cho đến phút cuối cùng.
Vào đầu mùa đông năm 1944, tôi lại có cơ hội, nếu không phải là để phụ trách khai thác khả năng của V1 thì ít ra cũng là để bàn luận đến nó. Được gọi đến bản doanh của Himmler để minh xác một vài chi tiết liên quan đến vai trò của tôi trong cuộc phản công tại vùng Ardennes, và do lời yêu cầu của ông ta, tôi cũng đã trình bày tình trạng nghiên cứu khoa học của các chuyên gia kỹ thuật thuộc Không và Hải quân trong việc phát triển các vũ khí bí mật. Khi tôi trình bày rằng hiện người ta đang nghiên cứu khả năng phóng một hỏa tiễn V1 từ một tiềm thủy đỉnh, Himmler đứng bật ngay dậy, tiến về phía một bản đồ thế giới vĩ đại đặt gần bàn giấy và ngắm nghía thật lâu.
- Vậy thì ta có thể tiên liệu một cuộc oanh kích vào New York bằng V1? - Ông hỏi.
- Chắc chắn như vậy, ít ra là về lý thuyết. Nếu các kỹ sư có thể chế tạo một giàn phòng ráp nối dễ dàng và mau lẹ trên sân một tiềm thủy đỉnh lớn, loại tiếp liệu…
Himmler, luôn luôn là người có các quyết định đột ngột, ngắt lời tôi:
- Tôi sẽ nói ngay việc này với Fuhrer và Thủy sư Đô Đốc Doenitz. Trong một tương lai gần, New York phải bị V1 của ta oanh kích. Phần anh, Skorzeny, tôi yêu cầu anh tích cực đẩy mạnh hoạt động của các cơ sở kỹ thuật để cho sự phối hợp V1 và tiềm thủy đỉnh được hoàn tất sớm chừng nào tốt chừng đó.
Thành thật mà nói, tôi không bao giờ chờ đợi một niềm phấn khởi tức thời như vậy, vì nhiều lý do, tôi tính rằng ông Reichsfuhrer SS đã có một quan niệm sai lầm về vấn đề này. Mặt khác, tôi tò mò muốn biết quan niệm của hai người khác có mặt trong cuộc tiếp xúc – Bộ trưởng Kaltenbrunner và vị chỉ huy cũ của tôi, Schellenberg, nay đã trở thành người lãnh đạo tất cả các cơ sở an ninh tình báo của Đức, từ khi Canaris bị thất sủng. Thế nhưng ông thứ nhứt giữ hoàn toàn im lặng, ông thứ hai chỉ gật gật đầu tán đồng, không những lúc Himmler nhìn ông mà cả khi ông Reichsfuhrer SS quay lưng lại. Tôi biết rằng ông ta luôn luôn lo âu tránh né một sự phát biểu quan điểm rõ rệt trước khi được biết rõ lập trường của cấp chỉ huy. Ông ta gọi thái độ thiếu can đảm này là “sự tế nhị ngoại giao”. Trong thực tế, bằng cách hành động như vậy, không bao giờ ông ta bị lầm lỗi. Mặc kệ - nếu các ông này sợ liên minh, tôi liều:
- Thưa Reichsfuhrer, tôi bắt buộc xin ông lưu ý đến mức độ chính xác chưa đầy đủ của loại V1. Như ông đã biết, bộ phận định hướng gắn ở đầu mũi phi đạn phải được điều chỉnh mỗi lần trước khi phóng – trong khi bay, ta chưa có thể sửa hướng đi của phi đạn. Lúc này mức độ chính xác của V1 chỉ được thể hiện trong vòng 8km, nghĩa là phi đạn sẽ rơi vào một nơi nào đó trong một vòng bán kính 8km chung quanh mục tiêu. Tầm sai lạc còn lớn hơn nếu phi đạn được phi cơ phóng đi, chẳng hạn do một chiếc Henkel 111 – chúng ta hiện phóng các bom bay qua Anh quốc trong những điều kiện như thế; phi cơ của chúng ta cất cánh tại các căn cứ của ta ở Hòa-Lan.
Có lẽ sự lạc hướng sẽ còn lớn hơn nếu V1 được phóng từ một tiềm thủy đỉnh. Ngoài việc không thể định hướng trên mặt biển phẳng lặng, vào ban đêm, sức nhắm rất ít, còn phải kể thêm sự tròng trành lắc lư của tiềm thủy đỉnh: nếu chú ý rằng gia tốc không đáng kể của phi đạn trong khi trượt trên giàn phóng, một động tác nhỏ của tiềm thủy đỉnh sẽ đóng vai trò kinh khủng. Tóm lại, cũng không chắc là phi đạn có rơi được vào thành phố hay không dù là thành phố rất lớn.
Được khích lệ bởi sự im lặng của Himmler, tôi trình bày tiếp:
- Và chưa phải là hết: không lực không dám bảo đảm cho các tiềm thủy đỉnh tham dự chiến dịch, một sự che chở trên không phận địa điểm phóng phi đạn. Theo tin tình báo, bờ biển phía đông Hoa Kỳ được canh phòng quá chặt chẽ bằng các đợt tuần tiễu trên không phận và bằng một hệ thống trạm ra đa cực kỳ chặt chẽ.
Tôi có cảm tưởng Himmler không hề chú ý đến lời tôi nói, có vẻ như đang theo đuổi ý nghĩ riêng, bởi vì, thình lình ông dừng lại trước mặt tôi.
- Tôi tin rằng, - ông tuyên bố, - đây là một khả năng mới, hơn thế nữa, là cơ hội tuyệt diệu để tạo ảnh hưởng quyết định trong chiều hướng của cuộc chiến. Đây là lúc đến phiên dân Mỹ trực tiếp cảm thức hậu quả của các cuộc oanh tạc ngay trên đất nhà của họ. Cho đến nay dân Mỹ tin rằng họ tránh được tất cả mọi cuộc tấn công – Xứ sở của họ ở quá xa chiến trường. Theo ý tôi sự xúc động do một cuộc oanh kích New York tạo ra sẽ làm giảm lập tức tinh thần dân Mỹ. Đám dân đó không bao giờ chịu đựng nổi thử thách căng thằng thần kinh do bom bay tạo ra. Vả chăng tôi luôn luôn tin rằng dân Mỹ không có khả năng chống đỡ các đòn trực tiếp nhất là khi họ không chờ đợi điều đó.
Tôi thật không rõ ý nghĩ của người khác đối với lời khẳng quyết này, nhưng phần tôi, tôi vẫn hoài nghi. Chắc chắn tôi không có gì chống đối một cuộc không tập các thành phố Mỹ - Sự triệt hạ càng ngày càng dữ dội các thành phố của chúng tôi, số lượng nhà cửa sụp đổ điêu tàn, số người thương vong càng ngày càng lớn đủ biện minh cho ý muốn trả đũa của chúng tôi rồi. Nhưng tôi sợ rằng hiệu quả tâm lý mà V1 tạo ra trong dân chúng Mỹ sẽ hoàn toàn trái ngược với ước đoán của Himmler, và vì những người khác vẫn giữ thái độ câm nín, tôi liều một lần nữa:
- Thưa Reichsfuhrer, tôi tin rằng một chiến dịch như vậy e sẽ mang lại hậu quả trái ngược. Chính quyền Mỹ đã đặt nền tảng của hệ thống tuyên truyền trên khẩu hiệu: Đức quốc đe dọa an ninh của chúng ta. Đến nay nếu New York bị V1 oanh kích, dân Mỹ sẽ thấy rằng mối đe dọa đó là có thật. Mà trong tập thể dân chúng Mỹ, thành phần gốc Anh chiếm đa số. Và dân Anh đã cho chúng ta thấy, đến lúc tổ quốc lâm nguy, khả năng đề kháng của họ lên cao không ngờ.
Thấy Himmler tỏ vẻ chăm chú nghe, tôi bạo dạn hơn:
- Nhờ phi đạn V1, ta có thể giáng một đòn khủng khiếp vào tâm lý dân Mỹ, nhưng với điều kiện là phóng thật trúng vài đầu đạn vào một vài đích định trước. Theo ý tôi, mục tiêu phải đạt được sẽ như sau: Đài phát thanh Đức sẽ loan báo một ngày và nếu có thể, một giờ trước rằng một tòa nhà nào đó phải được xác định rõ, nằm trong trung tâm New York sẽ bị V1 phá hủy. Đó mới là một đòn chí tử - hiểu theo cả hai nghĩa: vật chất và nhất là tinh thần.
Vì Himmler có vẻ thích thú, tôi trình bày vắn tắt tình hình nghiên cứu của các nhà bác học nhằm gia tăng độ chính xác của V1. Vào thời đó, công việc được tổ chức theo hai chiều hướng: một mặt, người ta tìm cách hoàn thiện một bộ phận đính hướng bằng làn sóng Hertz – bộ phận này sẽ cho phép thay đổi hướng bay lúc phi đạn đang bay. Các máy phát sóng điều khiển sẽ được đặt gần địa điểm phóng phi đạn. Mặt khác, người ta thí nghiệm biến cải nguyên tắc đó: bộ phận định hướng sẽ được điều khiển bởi máy phát sóng đặt gần mục tiêu và chỉ tác động trong vài phút. Mặc dù sự biến cải này có vẻ dễ thực hiện, chúng tôi vẫn vấp phải hai khó khăn, một, có tánh cách kỹ thuật – vấn đề sức mạnh của máy phát sóng – và một có tánh cách thực hành: làm sao chúng tôi có thể đặt máy vào chỗ thích hợp cho đúng lúc? Nhiệm vụ này chỉ có thể giao cho các điệp viên; thế nhưng cho đến nay chúng tôi không đánh lừa nổi màn lưới phản gián của Mỹ. Mới đây, vài nhân viên của tôi đã đổ bộ bằng tiềm thủy đỉnh lên bờ Đại Tây Dương của Hoa Kỳ, họ bị bắt tức khắc.
Vẻ ưu tư, Himmler lắng nghe tôi, mắt vẫn không rời khối lục địa Bắc Mỹ nặng nề trên bản đồ thế giới. Sau cùng ông thừa nhận, với vẻ tiếc rẻ rõ ràng, lúc này một cuộc oanh tạc New York bằng phi đạn V1 còn khó khăn quá và mạo hiểm quá. Dầu vậy, không muốn rút lại lệnh đẩy mạnh công cuộc chuẩn bị, ông chỉ yêu cầu tôi thông báo các kết quả đạt được và nhất là các khám phá mới mà các nhà bác học có thể thực hiện trong lãnh vực đang bàn luận. Rồi câu chuyện xoay qua một đề tài khác.
Hitler và những sứ mạng bí mật của Skorzeny Chương XV Quá nhiều dự án tốt đẹp Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Tại căn cứ Friedenthal, chúng tôi làm việc cực lực. Chắc chắn chúng tôi phải sử dụng đến một nửa thì giờ và năng lực để lâm chiến không ngừng chống lại các bàn giấy tràn ngập giấy tờ và các công sở vẫn so đo nhỏ giọt vật liệu và nhân viên của chúng tôi. Tuy nhiên chúng tôi vẫn có đủ thì giờ để suy tưởng và thiết lập các kế hoạch vĩ đại. Chúng tôi bị kích thích nhiều nhất khi nghiên cứu hồ sơ khổng lồ chứa đựng tất cả các chi tiết về chiến dịch của các cảm tử quân trứ danh dưới quyền Lord Mountbatten. Đây là một cuộc nghiên cứu bổ ích mặc dù có vẻ nản chí. Chúng tôi tái mặt ghen tức khi thấy các cấp chỉ huy cảm tử quân Anh được sử dụng những phương tiện vô giới hạn. Họ có thể tự ý ghi vào các kế hoạch sự yểm trợ bằng tuần dương hạm, tàu phóng ngư lôi, tiềm thủy đỉnh, đó là không nói đến sự hợp tác cố định của nhiều phi đoàn không quân với đủ loại phi cơ tân tiến. Ngược lại, chúng tôi quá nghèo nàn, nghèo dễ sợ và không tưởng tượng được. Chưa bao giờ chúng tôi nhận được “sự sẵn sàng” một chiến hạm nào đó của Hải quân, và phi đoàn 200 chiến đấu phải vật lộn để có từng chiếc phi cơ. Tôi có thể kể một thí dụ: Phi đoàn chỉ có vỏn vẹn 3 chiếc Junker 290, loại phi cơ có tầm hoạt động xa.
Vả chăng, phải thẳng thắn mà nói rằng ưu thế của quân cảm tử Anh không phải chỉ có tính cách vật chất: Mountbatten biết cách chọn mục tiêu, và mỗi lần ra tay, ông đều đạt tới đích. Khi thì tấn công và phá huỷ một xưởng lọc dầu cá nằm trên một hòn đảo thuộc Thụy Điển, lúc khác, một chiến dịch được quan niệm tuyệt vời, dựa vào đó, quân Anh tiến chiếm một đài Ra đa do Đức vừa thiết lập trên bờ biển nước Pháp gần Dieppe; hoặc giả là một cuộc đột kích nhắm vào bản doanh của tướng Rommel tại Phi châu - hoạt động này đã thất bại, nhưng chỉ vì một sự tình cờ, có lẽ do một tin tình báo thiếu chính xác, quân Anh đã tấn công vào các cơ sở quân nhu.
Tuy nhiên phía Đồng minh cũng có nhiều điểm tầm thường nhất là trong một khu vực rộng lớn do họ kiểm soát tại Trung Đông. Chúng tôi quyết định khai thác và tấn công vào các chỗ yếu đó. Mặc dù tình hình đã trở nên nguy ngập đối với quân đội Đức, chúng tôi vẫn khích động bởi niềm phấn khởi - nếu không nói là niềm lạc quan - đến nỗi nhiều khi dành tuần này qua tuần khác để thiết lập kế hoạch, chuẩn bị cho chiến dịch nhưng sau cùng lại chịu thất bại, mà luôn luôn vì mỗi một lý do: vấn đề chuyên chở.
Vì không thể tìm đủ số phi cơ Junker 290, loại phi cơ Đức độc nhất có tầm hoạt động xa và chắc - loại Henkel 117, theo các chuyên gia, chỉ là một sản phẩm hư hỏng – chúng tôi phải xoay trở khắc phục khó khăn. Tại sao chúng tôi không sử dụng một lần nữa dụng cụ mà quân địch đã cung cấp cho chúng tôi? Chúng tôi nghĩ là có thể sửa chữa lại một vài chiếc phi cơ 4 máy của Hoa Kỳ mà trước đây đã bị bắt buộc đáp xuống Đức hay các khu vực do Đức kiểm soát. Dự định của tôi đã làm cho Bộ Tham Mưu Không quân thích thú. Nha vật liệu hứa sẽ thành lập ngay toán chuyên viên có nhiệm vụ thu hồi và sửa chữa các “pháo đài bay” đó. Tiếc thay công việc này tiến hành quá chậm. Mãi đến cuối mùa thu 1944, tôi mới được thông báo rằng 6 chiếc đã sẵn sàng. Vài ngày sau, một tin tức khác đã dập tắt hoàn toàn nguồn hy vọng của chúng tôi: trong một trận oanh tạc nặng nề, cả 6 chiếc đều bị tiêu huỷ. Tất cả lại trở về với số không.
Trong khi chờ đợi - một cách vô ích - sửa chữa phi cơ, chúng tôi phải giải quyết hai vấn đề khác do kế hoạch hành động đặt ra. Trước hết là vấn đề đáp gần mục tiêu. Vì gần như chắc chắn rằng không thể tìm đâu ra chỗ có thể chịu đựng được sức nặng của các con khủng long đó, chúng tôi dự tính dùng một phương cách khác: chiếc phi cơ 4 máy sẽ kéo một số máy lượn, loại này đáp ở đâu cũng được. Khốn thay, các máy lượn của chúng tôi chỉ chịu đựng được tốc độ tối đa 250 cây số/ giờ, trong khi đó tốc độ của phi cơ Mỹ trung bình là từ 350 đến 450 cây số/ giờ. Chính nhờ giáo sư Georgi, bạn thân của Hanna Reitsch, chúng tôi mới vượt qua được trở ngại này. Giáo sư đã chế tạo một loại máy lượn chịu được tốc độ đó và chở được 12 người với đầy đủ trang bị.
Vấn đề thứ hai, trầm trọng hơn, đó là việc đưa người của chúng tôi trở về. Thoạt nhìn, các cảm tử quân sau khi hoàn thành sứ mạng, chỉ có hai cách: hoặc là họ đầu hàng quân địch và chờ chiến tranh chấm dứt trong một trại tù binh, hoặc là tìm cách trở về phòng tuyến bạn, điều này có nghĩa là phải vượt hàng trăm cây số - ý định táo bạo quá nếu không nói là tuyệt vọng quá. Thế mà tôi vẫn tin rằng muốn cho họ hăng hái hơn, chiến đấu say sưa hơn, phải đảm bảo một sự may mắn được trở về. Làm sao cho họ sự may mắn đó? Lẽ tự nhiên ý tưởng của tôi là sẽ dùng phi cơ kéo các chiếc máy lượn mang theo quân cảm tử trở về.
Các kỹ sư hàng không bèn tìm cách giải quyết khó khăn này. Tại phi trường Ainring, họ đang thử nhiều cách giúp một phi cơ kéo một chiếc máy lượn chở nặng mà không cần đáp xuống đất. Sau nhiều lần thí nghiệm có cả tôi chứng kiến, chúng tôi thấy chỉ có một cách xếp đặt có thể áp dụng được: dây cáp của máy lượn sẽ trải dưới đất nhờ các cột sắp xếp theo hình bình hành, ở một đầu, dây sẽ treo trên một cột cao chừng ba thước. Một chiếc móc đặc biệt, do phi cơ bay là là và thả xuống, sẽ móc vào điểm này và kéo chiếc máy lượn lên cao.
Lần thí nghiệm đầu tiên, với loại máy lượn nhẹ, có kết quả khích lệ. Nhưng để áp dụng kỹ thuật đó với loại máy lượn to lớn nặng nề hơn, chúng tôi cần điều chỉnh lại. Nghĩa là cần thì giờ và xăng nhớt thêm, mà cả hai thứ, chúng tôi đều hoàn toàn thiếu hụt. Tình trạng này càng ngày càng nghiêm trọng đưa đến đổ vỡ hoàn toàn.
Tôi thường tự hỏi tại sao tại Đức, các cuộc thí nghiệm kiểu này chỉ được thực hiện vào phút chót, vào lúc nguy kịch nhất, khiến cho chúng tôi không còn đủ thì giờ hoàn thiện các sáng kiến và phương pháp mới được nữa. Hiện tại tôi vẫn chưa tìm được câu trả lời thoả đáng cho cái “quá chậm” tai hại mà tôi thường phải đương đầu trong những năm cuối cùng của cuộc chiến.
Bên cạnh đó, phe Đồng minh cũng thực hiện các cuộc thí nghiệm tương tự, tuy nhiên điểm khác biệt là luôn luôn họ đạt tới các kết quả thực dụng. Họ lại còn chứng tỏ hiệu năng của các phương pháp áp dụng trong vụ đưa nguyên cả một phi đoàn máy lượn hạ cánh sau phòng tuyến của chúng tôi tại Arnhem ngày 17 tháng 9 năm 1944 (1). Từ cuộc hành quân vĩ đại đó, tôi luôn luôn run sợ trước ý nghĩ Đồng minh có thể không vận hàng Sư đoàn cho đến ven thành phố Bá linh là nơi vẫn tập trung tất cả cơ quan lãnh đạo kể cả Tổng Hành Dinh của Fuhrer. Với một cuộc tấn công chớp nhoáng, các đơn vị này chắc chắn có thể chiếm toàn bộ cơ sở đầu não của quân lực Đức. Có lẽ chỉ vì các lý do chính trị mà Anh Mỹ chưa thực hiện một cuộc đổ bộ bằng đường hàng không như thế. Dầu sao, đối với quân cảm tử Anh và đối với cơ quan hành quân chiến lược của Thiếu tướng nổi danh William T. Donovan thuộc quân lực Mỹ, một chiến công như thế không phải là không thực hiện nổi. Một cuộc hành quân loại này dám đã có sẵn trong hồ sơ của Bá tước Mounbatten và ông “Wild Bill” cũng không chừng.
*
Như tôi đã nói trên đây, mặc dù tất cả các đề án to lớn của chúng tôi cuối cùng đều bị bỏ dở hết, tôi muốn trình bày vắn tắt vài đề án:
Từ lâu, chúng tôi mơ ước một chiến dịch phá hoại các ống dẫn dầu: khởi đi từ các giếng dầu ở Irak, hai đường ống dẫn chất lỏng quí báu đến các nhà máy lọc ở Haiffa và Tripoli nằm trên bờ biển Địa Trung Hải. Chúng tôi biết rằng các đồng chí Ả Rập của chúng tôi, đã đặt chất nổ liên tục phá các ống dẫn dầu này. Tuy nhiên việc tuyển mộ cảm tử quân Ả Rập quá mắc, mà năng suất lại không được bảo đảm. Một mặt các chỗ bị phá hoại được sửa chữa ngay, mặt khác, chúng tôi không kiểm soát nổi kết quả mà người Ả Rập cho là đã thực hiện được. Trái lại nếu phá hoại được nhiều địa điểm bơm dầu, chúng tôi mới hy vọng một sự ngưng trệ toàn diện việc cung cấp dầu nguyên chất trong vài tháng.
Từ hơn một năm nay, cơ sở kỹ thuật của tôi cố moi óc tìm cách giải quyết vấn đề này. Ngay từ năm 1943, các kỹ sư của chúng tôi nghĩ ra một loại mìn nổi được, có tỷ trọng bằng dầu hoả. Trái mìn này được thả vào ống dẫn dầu bằng một lỗ hình quả trám do một chất nổ đặc biệt khoét thủng, và ống dẫn dầu được vá lại ngay. Theo ý tôi, các quả mìn loại đó có kích thước nhỏ bé quá, chỉ có thể phá hư một vài nắp an toàn là cùng, do đó tôi bác bỏ ý kiến này. Các chuyên viên khác lại đề nghị dùng bom phát nhiệt lượng để nung chảy một vài đoạn ống dẫn dầu đúng vào chỗ đất lõm sâu. Khốn thay, các cuộc thử đã không mang lại kết quả. Sau cùng, Không quân đề nghị dùng bom từ tính để phá huỷ nhiều đoạn ống dẫn dầu thật dài. Tuy nhiên kinh nghiệm của chúng tôi không bao giờ vượt quá giai đoạn nghiên cứu chuẩn bị.
Sau nhiều thất bại liên tiếp, chúng tôi chỉ còn một cách: chiến dịch cảm tử tấn công trạm bơm dầu. Các không ảnh cho thấy cạnh mỗi địa điểm có một phi trường nhỏ, dành cho máy bay của Đồng minh tuần tiễu không ngừng dọc theo các đường ống dẫn dầu, có chỗ đáp khi khẩn cấp. Bên cạnh đó một pháo đài nhỏ được dùng làm nơi trú ẩn cho nhân viên kỹ thuật khi bị một bộ lạc địa phương tấn công. Trạm bơm dầu đích danh, với các máy móc và động cơ Diesel thì ở cách đó hàng trăm thước. Nhờ các không ảnh, chúng tôi lập được kế hoạch khá chính xác:
Sáu phi cơ 4 máy đáp xuống phi trường. Hoả lực của đại bác và liên thanh trên phi cơ sẽ bắn che cho quân cảm tử cố vô hiệu hoá tiểu pháo đài, giúp cho tiểu đội phá hoại chạy nhanh đến phá huỷ trạm bơm dầu. Tất cả mọi chi tiết đều được dự trù trước. Chúng tôi còn nghĩ đến việc trang bị cho phi cơ một bộ phận đặc biệt, nhờ đó, khi đến gần phi đạo, có thể nhổ cả dây trời ngăn không cho quân canh giữ kêu cứu bằng các máy vô tuyến. Làm như vậy, chúng tôi tin rằng địch sẽ bị bất ngờ hoàn toàn. Dầu sao vẫn còn một yếu tố mà chúng tôi chưa biết: liệu các phi trường có đủ lớn để loại phi cơ bốn máy có thể đáp được? Các không ảnh chụp từ năm 1941 chỉ cho thấy một phi đạo ngắn, nhưng theo tin tình báo mới đây, chúng đều đã được nới rộng. Đằng nào chúng tôi cũng sẵn sàng chấp nhận rủi ro này. Than ôi! - Mặc dù hết sức nỗ lực chuẩn bị, chúng tôi không có đủ máy bay có tầm hoạt động xa!
Một điểm yếu khác của phe Đồng minh là kinh Suez hay nói đúng hơn, một vài lối đi trên con kinh. Nếu kinh Suez bị phá hoại, các đoàn tàu đi Viễn Đông phải chạy vòng quanh mũi Hảo Vọng, mất thì giờ hơn. Chúng tôi đã huấn luyện các chiến sĩ bơi lội hay nói theo người Anh, các người nhái để sử dụng trong sứ mạng này. Thế nhưng, chúng tôi đã ở vào cuối năm 1944, ưu thế Không quân của Đồng minh trên biển Địa Trung Hải mạnh đến nỗi chúng tôi phải bỏ rơi kế hoạch dù chết điếng trong lòng. Một lần nữa, quá chậm mất rồi!
Một kế hoạch khác, cũng được soạn thảo tỉ mỉ, dự trù một cuộc tấn công vào khu vực dầu hỏa Bakou. Lẽ tất nhiên là không thể nào tấn công được các giếng dầu hay các nhà máy lọc dầu với một nhóm người nhỏ nhoi. Tuy nhiên, khi nghiên cứu kỹ cả khu vực, chúng tôi thấy có một vài điểm then chốt – vì các lý do dễ hiểu, tôi không nói rõ chi tiết được – mà nếu bị phá hủy, sẽ kéo theo sự giảm thiểu khổng lồ, gần như đình chỉ hoàn toàn công cuộc sản xuất. Lại một lần nữa, và luôn luôn cùng một lý do, chúng tôi phải bỏ dở kế hoạch.
Trái lại, một chiến dịch khác bị thất bại vào phút chót chỉ vì lòng ganh tị của một trong các tướng lãnh của chúng tôi. Từ năm 1943, các đảng viên Cộng Sản Nam Tư đã quấy phá chúng tôi dữ dội đến nỗi Bộ Chỉ huy khu vực Ba Nhĩ Cán của chúng tôi hết sức lo ngại. Trong một vùng mà địa hình hoàn toàn thuận lợi cho hoạt động du kích qui mô, quân kháng chiến Nam Tư đã cầm chân nhiều đơn vị Đức và trong vô số các cuộc giao tranh, đã gây cho quân đội Đức những thiệt hại nặng nề. Nếu khám phá được Bản doanh của Tito, và nếu chiếm được nơi này, chúng tôi hy vọng có thể giảm thiểu đáng kể áp lực đè nặng trên quân đội Đức. Đó là đại khái nội dung sứ mạng mà Bộ Tư Lệnh tối cao Quân lực Đức giao phó cho tôi vào đầu năm 1944.
Rõ ràng là phía chúng tôi đã ước lượng sai giá trị của các toán quân mà Tito cho tập trung chung quanh Bản doanh của ông ta. Chúng tôi cũng hoàn toàn không biết gì về nơi ẩn náu và tất nhiên là người lãnh tụ kháng chiến phải ngụy trang để đánh lạc hướng Bộ Tư Lệnh tối cao Quân lực Đức. Vậy thì thoạt tiên chúng tôi phải tổ chức một thứ cơ quan tình báo với mục đích là tìm các chỉ dẫn chính xác về hai điểm nêu trên. Để được chắc ăn, mỗi khi một nhân viên điểm chỉ một vùng nào đó có thể là nơi đặt G. Q. G. của Tito, tôi ra lệnh tổ chức nhiều đường dây khác nhau để kiểm chứng lại nguồn tin. Chỉ khi nào có ba nguồn tin cùng báo cáo như nhau, chúng tôi mới mở cuộc hành quân thực sự. Chúng tôi không được phép bất cẩn: nếu vạn nhất bị thất bại, Tito sẽ được canh gác kỹ hơn và chúng tôi không thể nào bắt được ông ta nữa.
Để có thể tiếp xúc với các giới chức quân sự và Cảnh sát của chúng tôi tại Nam Tư, tháng 4 năm 1944 tôi mang theo một sĩ quan của đơn vị đi Belgrade. Sau hai ngày thảo luận kịch liệt, tôi dùng xe đi Agram. Tất cả mọi người đều khuyên tôi huỷ bỏ chuyến đi này vì xe sẽ chạy ngang qua một vùng bị quân du kích xâm nhập. Tuy nhiên trong ngày không có chuyến phi cơ nào mà tôi thì lại được người ta chờ ở Agram sáng hôm sau. Mặc kệ - tôi cứ thử đi, tin tưởng vào tốc độ của chiếc xe Mercedès và ngôi sao bổn mạng thật tốt. Mặc dù vậy, để gọi là có hộ tống, tôi đem theo hai hạ sĩ quan do một tướng lãnh cho mượn.
Chúng tôi khởi hành lúc rạng đông. Đến trưa, chúng tôi dừng lại trong vùng núi Fruska Gora, nơi đây có một đơn vị của Đức đồn trú với nhiệm vụ giữ an ninh trong vùng. Trong khi ăn, viên sĩ quan trưởng đồn cho tôi biết vài tin tức thích thú:
- “Không có tuần nào là không đụng độ với quân du kích. Vả lại, không bao giờ có thể kết thúc các cuộc giao tranh được, bởi vì giữa hai cuộc chạm súng, quân du kích lại bình yên trở về làng và nông trại, dấu vũ khí vào một đống rơm và đóng vai trò một nông dân thường, trong nhiều ngày liên tiếp. Chuyện vui nhất liên quan đến nhu cầu cứu thương. Cho đến nay, chúng tôi không thể xin quý ông ở Belgrade một y sĩ. Chúng tôi đành phải gọi ông lang tây trong làng, mặc dù biết ông này cũng săn sóc cho cả quân du kích. Ông ta cũng không dấu điều đó, nếu từ chối, quân cộng sản sẽ bắt toàn gia đình ông ta ngay - điều này chẳng liên hệ gì đến chúng tôi. Phải nói ngay rằng chúng tôi rất bằng lòng về ông ta”.
Chúng tôi lại lên đường, ngang qua một vùng trù mật, rải rác nhiều nông trại thật đẹp. Mỗi lần thấy một nông dân cày bừa, tôi tự hỏi hắn dấu súng ở đâu. Nhưng cuộc hành trình của tôi rất bình thường, chẳng ai bắn vào chúng tôi cả, con đường thật an ninh. Đến tối chúng tôi dừng lại trong một làng để hỏi một dân quê mua vài quả trứng. Lúc lên xe, chúng tôi thoáng thấy một vài người ăn mặc rách rưới có võ trang, lảng vảng trong chợ. Tôi đã sẵn sàng đặt tay lên súng lục, nhưng khi xe tiến ngang qua họ, họ nhăn răng cười và còn làm một vài cử chỉ như chào chúng tôi nữa! Một lát sau, Chỉ Huy trưởng đồn binh ở Brcka cho tôi biết là quân du kích đã chiếm trọn vùng và vì thế, rất nguy hiểm cho các xe Đức không được hộ tống. Tại Agram, không ai tin rằng chúng tôi đã đến bằng xe trên con đường này. Hình như từ nhiều tháng qua, chúng tôi là những người đầu tiên đã đến nơi một cách an toàn. Khi nghe kể lại vô số các cuộc tấn công vào các đoàn xe và khi xem bản đồ ghi chú các chỗ tập trung quân của các chiến khu Nam Tư, tôi mới sợ cho cuộc hành trình vừa qua. Cuối cùng, tôi không còn nghĩ ngợi đến điều đó nữa, bởi vì mọi chuyện đều êm xuôi. Có một điều chắc chắn là tôi đã thoát nạn, trong đường tơ kẽ tóc.
Một tháng sau, tất cả đều sẵn sàng. Những tin tức được phối kiểm và tái phối kiểm thận trọng, cho chúng tôi biết rằng Bản doanh lưu động của Tito sẽ đóng gần Dvar, tại miền tây Bosnie, trong vài tuần. Hiện nay, cần kết thúc công cuộc chuẩn bị để có thể tung ra cuộc hành quân mà chính tôi sẽ chỉ huy. Tôi cho Tham mưu trưởng là Đại uý Foelkersam đến Banka Luka, thủ phủ của vùng trên, để đặt liên lạc với vị Tướng lãnh Chỉ huy quân đội Đức tại Bosnie. Lúc trở về, Von Foelkersam kể lại rằng ông Tướng và các cộng sự viên thân cận của ông đã dành cho anh ta một cuộc tiếp xúc hờ hững xa cách, nếu không nói là lạnh lùng. Ngay lúc đó, tôi không chú ý đến sự kiện này; vả chăng, tôi cóc cần thiện cảm hay ác cảm mà quý ông đó dành cho tôi. Đối với tôi, chỉ có sứ mạng là quan trọng.
Ấy thế mà vài ngày sau – lúc đó là cuối tháng 5 năm 1944 – trung tâm tình báo của tôi tại Agram gửi cho tôi một tin kinh ngạc: “Quân đoàn X sửa soạn một cuộc hành quân đánh Tổng Hành Dinh của Tito. Ngày J được ấn định là 2 tháng 6”. Sự kiện này đã giải thích thái độ câm nín của các sĩ quan. Họ chỉ nhìn tôi như là kẻ cạnh tranh đáng ghét và vì thế, họ dấu kín ý định. Trước hết, cung cách thiếu điệu nghệ này đã làm tôi nổi giận, nhất là khi nó quá lố bịch: Tôi đã tình nguyện hợp tác với họ và sẵn sàng đặt dưới quyền chỉ huy của vị tướng lãnh. Nhưng tôi nuốt giận và cố gắng cứu vãn tình thế thật nhanh. Nếu nhân viên của tôi ở Agram mà biết được kế hoạch hành quân thì gần như chắc chắn rằng người của Tito cũng biết được kế hoạch ấy. Tôi gửi ngay một mật điện truyền thanh để lưu ý quý ông ở Bosnie. Lúc trở về Friedenthal, tôi còn nhận được thêm nhiều tin tức xác nhận quan điểm của tôi: chắc chắn cuộc hành quân dự liệu sẽ gặp thất bại. Tôi nhắc lại lời báo động, nhưng không có gì (đáng?) tiếc hơn là kẻ không muốn nghe. Tướng X đã không chịu huỷ bỏ cuộc hành quân của ông.
Đến ngày ấn định, một Tiểu đoàn dù thuộc đơn vị Waffen SS nhảy xuống một thung lũng thuộc vùng bị quân du kích kiểm soát hoàn toàn. Nhiều máy lượn đưa lực lượng tăng cường đến tham gia trận chiến. Sau một cuộc chiến đấu cam go và đẫm máu, quân du kích rút lui, bỏ lại ngôi làng và thung lũng. Khốn thay, những điều tiên liệu bi quan của tôi đã thể hiện: Tổ chim trống rỗng, con chim đã bay đi. Để xác nhận đúng là Tổng Hành Dinh, binh sĩ của chúng tôi chỉ tìm thấy hai sĩ quan liên lạc Anh mà Tito bỏ lại, có lẽ để rứt khỏi họ. Trông một ngôi nhà, chúng tôi còn khám phá được một bộ quân phục Thống chế còn mới. Chắc Tito mới rời khỏi làng vài giờ trước để đến một địa điểm khác. Và thế cũng chưa hết – còn phải gởi các đơn vị bộ binh, bằng một cuộc điều quân khó khăn, đến giải tỏa quân nhảy dù bị vây trong thung lũng.
Như vậy, vì lòng ganh tị đê hèn của một sĩ quan khao khát được thăng thưởng mà một kế hoạch lớn, nếu thành công, sẽ có tầm ảnh hưởng đáng kể, phải chịu thảm bại – điều đáng tiếc hơn nữa là sự thất bại này đã làm giảm thiểu gần như hoàn toàn hy vọng bắt được Tito của chúng tôi. Sau đó, chúng tôi theo dõi được dấu vết Tổng Hành Dinh của Tito, di chuyển dọc theo bờ biển Adriatique và từ đó, đến đảo Vis, nơi mà ông ta thiết lập hẳn cơ sở chính quyền. Chúng tôi cũng có dự tính một cuộc tấn công chớp nhoáng đảo này – nhưng, một lần nữa các biến chuyển dồn dập đã vượt qua chúng tôi.
Hitler và những sứ mạng bí mật của Skorzeny Chương XVI Cuộc chính biến Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Trong khoảng thời gian này, cuộc đổ bộ của Đồng minh – tại Đức chúng tôi gọi là cuộc xâm lăng – đã bắt đầu. Vào rạng đông ngày 6 tháng 6 năm 1944, những đơn vị Anh Mỹ đầu tiên đặt chân được lên Normandie. Trong nhiều tuần lễ liền, tình hình không được rõ rệt, nhưng khi phòng tuyến Avranches bị chọc thủng, cán cân lực lượng nghiêng về phía Đồng minh. Ngày hôm đó, hầu hết dân Đức có lẽ nghĩ rằng chúng tôi sẽ bại trận. Về phần tôi, tôi chưa có cảm tưởng nào về kết quả chung cuộc, và nếu trước các thuộc viên tôi còn giữ tư thế chỉ huy trang trọng, tôi không tìm cách dấu niềm bi quan khi thảo luận với một vài người thân tín như Radl hay Đại úy Foelkersam.
Liệu tôi có cần rút ra từ sự linh cảm này, nếu không nói là sự chắc thật, các kết luận thực hành không? Thường thường tôi tự đặt vấn đề như vậy và luôn luôn đi đến cùng một kết quả: theo ý tôi, không phải tôi, không phải binh sĩ, mà cũng chẳng phải các sĩ quan – kể cả các tướng lãnh – là những người quyết định tiếp tục hay chấm dứt sự thù nghịch. Quyết định này phải được dành cho các Đại lãnh tụ chính trị và quân sự có cái nhìn toàn diện và có khả năng ảnh hưởng vào chiều hướng các biến cố lịch sử. Nếu các người ấy ra lịnh cho chúng tôi tiếp tục chiến đấu, chúng tôi chỉ còn biết phải tuân hành.
Tôi lại còn biết rằng Tổng Hành Dinh của Fuhrer vẫn còn hy vọng, một mặt vào diễn biến thuận lợi của tình hình chính trị, và mặt khác vào sự hoàn thiện mau chóng các loại vũ khí bí mật – theo các tin tức mà tôi có được, các hy vọng đó không phải là không có căn cứ.
Tuy nhiên từ tháng 7 năm 1944, tình hình trở nên khẩn trương. Trong tuần lễ đầu tiên của tháng 6, một đợt tấn công kinh hồn của quân Nga đã làm cho gần như toàn diện phòng tuyến phía Đông bị tan rã. Có thể coi Lộ quân trung ương như không còn nữa. Hơn ba mươi Sư đoàn Đức bị bắt cầm tù. Tại hậu tuyến không ai hiểu làm sao mà một cuộc đầu hàng vĩ đại như thế lại có thể xảy ra được. Phải quy trách nhiệm vào Bộ Tư Lệnh tối cao hay là vào sự mệt mỏi chán nản của các đơn vị ở đây? Ở phía Tây, quân Đồng minh nhờ ưu thế vật chất tuyệt đối tiến như gió hướng về biên giới Đức. Chúng tôi chỉ còn cách nghiến chặt đôi hàm răng và chiến đấu đến cùng. Thành thật mà nói, chúng tôi chưa nghĩ rằng đó là điểm khởi đầu của sự bại trận chung cuộc.
Ngày 20 tháng 7 năm 1944, tôi sửa soạn đi Vienne để xem xét lại một vài chi tiết của kế hoạch bắt Tito. Và tin tức về một cuộc đảo chánh lật đổ Hitler bùng nổ như sấm động, may thay âm mưu đã thất bại. Tôi và các sĩ quan hết sức kinh hoàng.[1] Một chuyện như thế có thể xảy ra được sao? Phải chăng địch quân đã len lỏi vào được trong lòng Tổng Hành Dinh của Fuhrer rồi? Không bao giờ chúng tôi lại có ý nghĩ là chính một người Đức đã đặt quả bom đó. Dầu sao, vì Hitler vẫn còn sống nên tôi không thấy có lý do gì để trì hoãn cuộc hành trình.
Lúc 18 giờ, Radl và tôi đến nhà ga Anhalt. Chúng tôi lên toa xe dành riêng và chuẩn bị đi ngủ. Nhưng đến ga Lichterfelde, trạm dừng cuối cùng nằm bên trong khu vực Bá-linh, tôi nghe có ai gọi tên tôi: Thiếu tá Skorzeny! Thiếu tá Skorzeny! Trên sân ga, một sĩ quan chạy dọc theo con tàu và kêu réo luôn miệng. Tôi mở cửa sổ và ra hiệu, anh ta nhào tới, thở hổn hển.
- Thưa thiếu tá, ông phải trở lại lập tức. Lệnh thượng cấp… Cuộc mưu sát Fuhrer là khởi đầu cho một cuộc chính biến.
Tỏ vẻ không tin, tôi nhún vai:
- Coi, chuyện đó làm sao có được. Một số quí ông ấy điên mất rồi. Thật là điên rồ, nhưng mặc kệ… để tôi trở lại với anh. Radl cứ tiếp tục đến Vienne và bắt đầu các cuộc thương thảo. Ngày mai tôi cố đi theo.
Trong khi xe hơi đưa chúng tôi về trụ sở trung ương của Waffen SS, viên sĩ quan thông báo cho tôi những tin tức hết sức lờ mờ mà anh ta lượm lặt được. Quả nhiên là có âm mưu phiến loạn do một nhóm sĩ quan cao cấp và tướng lãnh chủ xướng. Hình như một vài đơn vị thiết giáp đang tiến về Bá-linh; không ai biết rõ ý định của các cấp chỉ huy đơn vị. Tôi thì luôn luôn không tin vào những chuyện mà tôi cho là những tin đồn đại vô căn cứ. Các vị chỉ huy quân sự của chúng tôi lúc này còn có nhiều việc phải làm hơn là đi thông mưu đảo chánh.
Schellenberg, nay đã trở thành chỉ huy trưởng Lữ đoàn SS, tiếp tôi và thông báo cho tôi biết vài chi tiết. Theo ông, trung tâm lãnh đạo cuộc đảo chánh hình như đặt tại Bendlerstrasse nghĩa là trụ sở văn phòng Tư lệnh Quân đội Nội địa.[2] Schellenberg mặt mày tái mét và có vẻ lo sợ thấy rõ. Trên bàn giấy tôi thấy một khẩu súng lục đặt trong tầm tay ông ta.
- Tình hình rất rối rắm và cực kỳ nguy hiểm, - ông giải thích. - Dầu sao, nếu họ đến được đây, tôi sẽ tự vệ. Tôi đã phân phối vũ khí cho thuộc viên rồi. Anh có thể gọi thật nhanh một đại đội của anh đến bảo vệ cơ sở được không?
Trong cơn kích động, tôi quên mất cả việc gọi cho đơn vị. May thay, liên lạc điện thoại vẫn còn hoàn toàn tốt. Tôi nói chuyện với Friedenthal được ngay và cho gọi Đại úy Foelkersam.
- Đặt tiểu đoàn trong tình trạng báo động ngay lập tức. Đại úy Fuc.ker nắm quyền chỉ huy và chờ các mệnh lệnh do chính tôi ban hành. Đưa ngay một Đại đội đến trụ sở SS trung ương, tôi đang ở đó. Chính anh và Chuẩn úy Ostafel tạm thời là tùy viên của tôi, lên xe ngay và chạy hết tốc lực đến đây trước.
Tôi gác máy và lại quay về phía Schellenberg:
- Theo ý tôi, ông nên giải giới các viên chức ở đây: Tôi cảm thấy sợ khi thấy các đấng thư lại của ông khoa chân múa tay với súng lục vừa được phát. Lúc mới đến tôi đã khó chịu với một chú thư ký rồi. Tôi đã cho nhốt hắn trong hầm, như vậy hắn hết đường gây rắc rối với món đồ chơi nguy hiểm. Dầu sao, nếu vạn nhất “họ” đến đây trước Đại đội của tôi, tốt hơn hết là ông nên thoát thân, bởi vì ông đâu có thể bắt họ tuân phục được bằng khẩu súng lục này?
Tôi để ông ta ở lại với các tư tưởng hắc ám, và bước ra đường. Tôi nóng nảy chờ Von Foelkersam và Ostafel, nữa giờ sau, họ xuất hiện giữa đám bụi mù mịt. Chắc họ phải chạy như bị ma đuổi. Vì vẫn chưa nhận được lệnh lạc gì cả, tôi quyết định đi một vòng xem chuyện gì đã xảy ra ở Bá-linh. Foelkersam ở lại trụ sở trung ương SS, tôi hứa thỉnh thoảng sẽ liên lạc bằng điện thoại để cho anh ta biết tin tức. Khốn khổ thay cho chúng tôi, vì vẫn chưa được trang bị loại máy liên lạc vô tuyến cầm tay gọi là “walkie-talkie” mà quân đội Mỹ đang sử dụng!
Nhảy lên một chiếc xe, trước hết hỏi tôi đến khu vực đặt trụ sở các Bộ, nơi đây có vẻ hoàn toàn yên tĩnh. Sau đó tôi đến công trường Fehrbellin, nơi đặt Bộ Tư Lệnh thiết giáp của Tướng Bolbrinker, người mà tôi có quen biết. Khu vực này ít có vẻ yên lành hơn, trên một đại lộ dẫn đến công trường, hai chiếc xe tăng khổng lồ đang án ngữ. Tôi chỉ cần nhô đầu ra khỏi xe là được đi qua liền. Chắc chắn cuộc hỗn loạn không có gì trầm trọng quá như Schellenberg tưởng. Tướng Bolbrinker tiếp tôi lập tức. Ông chẳng biết gì nhiều và hỏi ý kiến tôi nên làm gì. Do mệnh lệnh của Tư lệnh Quân đội Nội địa, ông ta mang các Đơn vị thiết giáp từ Wunsdorf về Bá-linh và tập trung quanh công trường Fehrbellin để có thể nắm vững lực lượng. Hiện tại ông ta đang chờ diễn biến.
- Vả chăng, - ông giải thích, - tôi quyết định từ đây chỉ thi hành lệnh của Thanh tra các Đơn vị thiết giáp, nghĩa là của chính Tướng Guderian. Không biết ông này có biết tin tức gì về cuộc âm mưu không. Anh xem, chẳng hạn người ta bắt tôi đưa các bộ phận thám sát đến tấn công vào doanh trại của Đơn vị Waffen SS. Anh nghĩ sao? Skorzeny?
- Coi, - tôi choáng váng trả lời, - chúng ta chưa ở trong tình trạng nội chiến mà. Tôi cho rằng nếu tuân theo một mệnh lệnh mơ hồ là thiếu thận trọng. Thưa đại tướng, nếu ông muốn, tôi sẽ đi một vòng cho đến doanh trại Lichterfelde để xem chuyện gì đã xảy ra. Từ đó tôi sẽ gọi điện thoại cho ông. Theo ý tôi, chúng ta phải có bổn phận giữ bình tĩnh.
Như trút được lo âu, Đại Tướng chấp thuận đề nghị của tôi và tôi lại lên đường. Tại Lichterfelde, trong doanh trại cũ của tôi, tất cả đều có vẻ yên tĩnh, mặc dù Tiểu đoàn trừ bị và các đơn vị khác đều được đặt trong tình trạng báo động. Tôi tiếp xúc một lát với viên Trung tá Chỉ huy các đơn vị đó và không ngớt yêu cầu ông tỏ ra khôn ngoan, nghĩa là chớ nên làm một hành động gì dù cho tình thế biến chuyển ra sao. Sau đó, tôi gọi Foelkersam và được biết Đại đội của tôi đã đến. Tôi ra lệnh giữ Đại đội lại trong sân cơ sở Trung ương SS.
Lúc đó tôi mới thử lượng định tình hình. Thật ra, tôi cũng chẳng hiểu thêm gì được nhiều. Rất có thể là Tướng Tư lệnh Quân đội Nội địa đã ra lệnh báo động vào buổi trưa. Nhưng sau đó, khắp nơi đều có sự do dự, nơi thì tuân lệnh, nơi khác lại phản lệnh, rõ rệt tình hình đã không ăn khớp với một kế hoạch toàn bộ nào đó. Dầu sao, theo tôi vụ này hình như không có vẻ trầm trọng lắm, chắc chắn tôi sẽ bị hố to nếu coi sự việc quá quan trọng, bởi vì các đơn vị thiết giáp vẫn án binh bất động, và các đơn vị Waffen SS thì lại chưa nhận được mệnh lệnh nào. Tóm lại, mọi người đang tự hỏi ai đã nổi dậy và để chống lại ai. Tuy nhiên ngoài tính cách ấu trĩ, âm mưu này còn là một trọng tội, bởi vì lúc này đây ở phía Đông cũng như ở phía Tây, binh sĩ đang can đảm chiến đấu trong tuyệt vọng. Trong khi đang trầm ngâm với các ý tưởng không mấy vui vẻ đó, tôi chợt nhớ rằng Đại tướng Student hiện cũng đang ở Bá-linh. Tôi chạy nhanh đến Wannsee, một trong rất nhiều hồ bao quanh thành phố, Bộ Tư Lẹnh đơn vị không vận đóng bên bờ hồ. Các sĩ quan chẳng biết gì cả, họ cũng không nhận được mệnh lệnh nào. Tôi chỉ biết Đại Tướng đã về nhà, tại Lichterfelde. Tôi lại lên xe, mang theo sĩ quan tùy viên của Đại Tướng để lâm thời, nhận lệnh từ Đại Tướng.
Lúc đó trời đã tối, đến 2 giờ đêm, chúng tôi đến biệt thự và trông thấy một khung cảnh thật thanh bình. Trên sân thượng, Đại Tướng khoác một chiếc áo ngủ dài, đang ngồi đọc cả núi hồ sơ dưới ánh đèn. Cạnh đó, phu nhân đang ngồi thêu. Tôi không ngăn được ý nghĩ là tình thế thật khôi hài: Nơi đây, một trong các lãnh tụ quân sự quan trọng của Bá-linh đang nghỉ ngơi yên lành trong một ghế mây thoải mái, trong khi những tướng lãnh khác âm mưu đảo chánh.
Mặc dù rất ngạc nhiên khi thấy tôi đến thăm vào giờ quá trễ, Đại Tướng cũng tiếp tôi một cách thân ái: chắc chắn dây liên lạc được thiết lập giữa chúng tôi trong chiến dịch giải thoát Mussolini năm ngoái vẫn còn. Khi trình bày rằng đến vì “công vụ”, vợ ông kín đáo tránh đi nơi khác. Nhưng khi tôi bắt đầu thông báo những gì tôi thấy và biết, ông ngắt ngang lời tôi:
- Coi, Skorzeny, anh nói cái gì vậy! Đảo chánh – không, không thể có được.
Tôi khổ sở thuyết phục ông ta tin rằng tình thế nghiêm trọng. Sau cùng ông ta bằng lòng gởi cho tất cả các cấp Chỉ huy đơn vị nhảy dù một mệnh lệnh đại khái như sau: Báo động. Chỉ nhận lệnh của chính Đại Tướng Student mà thôi.
Đúng lúc đó, chuông điện thoại reo vang. Thống chế Goering gọi. Sau khi xác nhận báo cáo của tôi, Thống chế còn thêm vài chi tiết mới: có lẽ cuộc mưu sát Fuhrer là do một sĩ quan thuộc Bộ Tham Mưu Quân đội Nội địa thực hiện. Bendlerstrasse – nơi đặt Bộ Tham mưu đó – đã vội vàng loan báo cái chết của Fuhrer và cho áp dụng vài biện pháp khẩn trương. Goering xác định rằng lúc này chỉ có Bộ Tư Lệnh Tối cao của Lục quân mới có tư cách ra lệnh. Tôi nghe Đại Tướng nhắc lại các chỉ thị của Thống chế Goering: Bình tĩnh, yên tâm, bằng mọi giá cố tránh các biến chuyển có thể đưa đến nội chiến. Tôi đã hiểu, thưa Thống chế.
Hiện tại, ông Tướng không còn nghi ngờ các điểm tôi thuật lại nữa. Sau khi hứa giữ liên lạc với tôi và Đại Tướng Bolbrinker, ông lần lượt gọi các Tiểu đoàn và ra chỉ thị. Tôi xin phép cáo từ và trở về trụ sở SS Trung ương thật nhanh.
Trong cơ sở rộng mênh mông, tất cả yên tĩnh. Schellenberg chờ tôi trong văn phòng và yêu cầu cung cấp một đoàn hộ tống gồm một sĩ quan và mười binh sĩ. Ông vừa nhận được lệnh bắt ngay Đô đốc Canaris và lẽ tất nhiên, ông không thể đơn độc một mình thi hành một mệnh lệnh tế nhị như vậy. Vì chỉ có vỏn vẹn 1 Đại đội nên tôi chỉ cho ông “mượn” một sĩ quan. Một giờ sau, Schellenberg trở về, cuộc bắt bớ đã không gây ra một biến cố nào. Qua điện thoại, tôi biết rằng các khu vực do đơn vị thiết giáp của Tướng Bolkrinker và do quân nhảy dù của Tướng Student chiếm đóng, vẫn được yên tĩnh – Thật ra, trên đường trở lại Friedenthal, tôi thấy cả Bá-linh đều yên tĩnh. Đột nhiên, Tổng Hành Dinh của Fuhrer cho gọi tôi.
- Lệnh cho Thiếu tá Skorzeny mang toàn lực lượng hiện có, đến Bendlerstrasse để hậu thuẫn cho hành động của Thiếu tá Remer, Đại đội trưởng Đại đội phòng vệ “Đại Đức Quốc” hiện đang bao vây Bộ này.
Vội vã, tôi tập họp đại đội – đáng tiếc là tôi không cho gọi cả tiểu đoàn – và lên đường. Vào lúc gần nửa đêm, chúng tôi đến cửa chính của trụ sở. Hai xe lớn chận đường chúng tôi: lúc xuống xe và một mình đi bộ đến, tôi thấy ngay giữa một toán quân xôn xao, viên chỉ huy SS Kaltenbrunner đang nói chuyện với một Tướng lãnh lục quân – Tướng Fromm, Tư lệnh Quân đội Nội địa. Tôi nghe ông nầy nói với Kaltenbrunner: “Tôi đi về nhà, các anh có thể kiếm tôi ở đấy suốt đêm”, rồi ông lên xe chạy đi, vạch một lối cho đơn vị tôi đi qua. Tôi ngẩn ngơ, khi thấy vị Tư lệnh Quân đội Nội địa lại bỏ về nhà trong giờ phút nghiêm trọng này. Tuy nhiên điều đó không dính dáng gì đến tôi.
Trước cổng vào Bộ, tôi gặp thiếu tá Remer. Tôi trình diện và được biết ông ta được lệnh cô lập hóa kín mít toàn thể khu công ốc. Sau khi đưa cả đại đội vào sân, tôi mang theo Đại úy Foelkersam và Chuẩn úy Ostafel, theo cầu thang tiến lên lầu. Trong hành lang tầng thứ nhứt, tôi gặp nhiều sĩ quan tay cầm súng lục. Người ta có cảm tưởng là đang ở trong một pháo đài ngay tiền tuyến. Trong văn phòng của Tướng Olbricht, tôi gặp một vài sĩ quan tham mưu quen biết từ lâu, họ cũng tự võ trang và có vẻ rất khích động. Họ kể nhanh cho tôi nghe chuyện gì đã xảy ra: vào buổi chiều, họ thấy có một cái gì sai lạc trong lệnh báo động phát xuất từ một vài Sở. Tướng Fromm gần như hội họp liên miên, nhưng chỉ có một vài sĩ quan thân tín được dự họp. Vì quá sức ngạc nhiên và lo âu, phần lớn các sĩ quan tự võ trang và đột nhập vào văn phòng của Tướng Fromm, đòi hỏi giải thích. Bị đặt vào trong tình thế khó xử, ông Tướng đành phải thú nhận một cuộc nổi dậy của quân đội đã bùng nổ, và nói thêm rằng ông đã được lệnh mở các cuộc điều tra sơ khởi các kẻ chịu trách nhiệm. Vài phút sau, Tướng Beck tự tử, trong khi đó, ba sĩ quan, trong đó có Đại tá Stauffenberg, Tham mưu trưởng của Tướng Fromm, bị Tòa án quân sự do một Tướng lãnh chủ tọa xử tử hình. Cả ba đã bị một Tiểu đội Hạ sĩ quan xử bắn ngay trong sân cách đây nửa giờ. Mặt khác, trong hành lang tầng lầu thứ nhất, đã có vài loạt súng, nhưng không có gì quan trọng.
Những tin tức này đã đóng khung khá rõ rệt những gì tôi đã biết, nhưng vẫn không soi sáng thêm được tình hình. Những cố gắng liên lạc bằng điện thoại của tôi với Tổng Hành Dinh của Fuhrer đều vô ích, vậy tôi phải hành động theo sáng kiến. Trước hết tôi tìm cách lập lại yên tĩnh và trật tự trong tòa nhà khổng lồ này, nơi mà mọi người rõ ràng bị bối rối cực độ. Để đạt đ ược mục tiêu đầu tiên đó, tôi cho triệu tập các sĩ quan quen biết và đề nghị với họ là hãy tiếp tục các công việc bỏ dở dang từ hồi chiều. Tôi nhắc nhở họ là chiến tranh đang tiếp diễn và tất cả mọi mặt trận đều cần lực lượng tăng cường, tiếp tế, tiếp liệu. Mọi người đồng ý với tôi và trở lại làm việc. Lát sau, một Đại Tá chợt nhớ ra rằng có vài quyết định liên quan đến việc tăng cường lực lượng phải do chính Tham mưu trưởng ký, mà Đại tá Stauffenberg lại vừa bị hành quyết. Tôi tuyên bố tạm gánh thêm trách nhiệm phụ đới này. Tuy nhiên có một điều làm tôi ngạc nhiên: phần lớn các lệnh báo động cho những người dự mưu ban hành đã bị hủy bỏ từ hồi nào.
Trước văn phòng Tướng Olbricht, tôi gặp hai nhân viên mật thám Gestapo. Vài giờ trước đó, Chỉ Huy trưởng cảnh sát đặc biệt đã phái họ đến bắt Bá tước Stauffenberg. Chưa kịp thi hành mệnh lệnh, họ đã bị các sĩ quan của Stauffenberg vừa từ Tổng Hành Dinh về, bắt nhốt vào trong một văn phòng. Càng ngày tôi càng không hiểu: hoặc giả cơ quan Gestapo vốn biết tin rất nhanh, đã bị vụ đảo chánh làm kinh ngạc quá, hoặc giả cơ quan này cho rằng nội vụ chẳng có gì là quan trọng. Nếu không phải như thế thì tại sao họ lại chỉ phái có hai trự đến bắt tay đầu não của cả một cuộc âm mưu quân sự?
Hiện tại, tôi có thì giờ để bắt đầu lục soát bàn giấy của Bá tước Stauffenberg. Tất cả các hộc bàn đều đã bị mở tung, hình như có kẻ nào vừa vào lục soát vội vã. Trên bàn giấy tôi tìm thấy hồ sơ kế hoạch “Walkyrie” nghĩa là các chi tiết sắp xếp cuộc báo động. Tôi nhận thấy Stauffenberg đã ngụy trang ý định chính – chiếm thật nhanh các trung tâm đầu não tại Bá-linh và các cơ quan chỉ huy quân đội – dưới danh hiệu “Các biện pháp phản công trong trường hợp quân Đồng minh tấn công bằng quân nhảy dù”. Trong một hộc bàn, tôi giật nảy mình vì khám phá được một bàn cờ, các quân cờ xê dịch tùy theo số điểm của các hột xúc xắc mà người chơi đổ được. Trên một bản đồ khu vực Đông Âu thật lớn, một đường vạch đậm, mà theo lời chú thích bên lề, biểu hiện cho trục tiền quân của một quân đoàn, thuộc lộ quân phía Nam, trong cuộc tiến đánh Nga sô – quân đoàn mà chính Stauffenberg làm Tham mưu trưởng. Nếu sự sử dụng vô vàn khổ đau và sự chiến đấu của hàng ngàn binh sĩ vào một trò chơi bẩn thỉu, tự nó đã có vẻ nông nổi, chướng mắt rồi, thì các lời phẩm bình tô điểm cho sự giải thích nguyên nhân, lại còn chứng tỏ một sự vô liêm sỉ, khiến cho tôi tự hỏi, với một tâm tánh như vậy, làm sao một sĩ quan cao cấp có thể phục vụ tổ quốc trong thời chiến được.
Một vài giờ sau, tất cả các bánh xe của guồng máy phức tạp đã hoạt động điều hòa trở lại. Tuy nhiên, một lần nữa, tôi điên đầu trước các quyết định mà tôi buộc phải lấy thay cho ba sĩ quan, quan trọng nhất của cơ quan này: Tướng Fromm, Olbricht và Đại tá Stauffenberg. Tôi xin nói chuyện với Tổng Hành Dinh không ngừng. Cuối cùng, cũng liên lạc được, tôi vội yêu cầu bổ nhiệm một vị tướng lãnh có thẩm quyền vào chức vụ Tham mưu trưởng Quân đội Nội địa. Tôi mong được giải nhiệm càng sớm càng tốt, nhưng lẽ tất nhiên người ta trả lời một cách mơ hồ, bảo đợi và tiếp tục đảm nhiệm công việc cho đến khi Fuhrer đề cử một người có khả năng. Cứ cách hai hay ba giờ, tôi lại gọi xin được thay thế, và lần nào cũng vậy, nhận được một câu trả lời tránh né. Rốt cuộc, đến sáng 22 tháng 7, nghĩa là sau 36 giờ, đích thân Himmler đến, có Tướng Juttner thuộc đơn vị Waffen SS tháp tùng. Trước sự ngạc nhiên của tôi, ông ta tuyên bố được bổ nhiệm làm Tư lệnh Quân đội Nội địa. Chắc chắn Himmler là một trong những người thân tín của Fuhrer, nhưng ông ta không phải là quân nhân. Làm thế nào mà ông ta có thể chu toàn được nhiệm vụ trong khi cùng một lúc ông giữ nhiều chức vụ quan trọng hàng đầu? Lúc đó tôi mới chú ý đến Tướng Juttner, tư lệnh phó, ông này chắc hẳn rất bằng lòng với sự bổ nhiệm vì trong thực tế chính ông mới là người lãnh đạo thường trực của cơ quan. Nhưng tôi không có thì giờ để suy tư vẩn vơ. Sau khi cho tập họp các sĩ quan, Himmer làm một bài diễn thuyết bất ngờ, ông tuyên bố là âm mưu đảo chánh chỉ do một nhóm nhỏ hành động đơn độc. Liếc nhìn cử tọa im lặng, tôi nhận thấy tất cả có phản ứng như nhau: Sự đồng ý rõ rệt và sự khoan khoái thấy cơn bão tố đi qua mau. Có lẽ phần đông những người này, được đào tạo theo các truyền thống cứng rắn của tập thể sĩ quan nhà nghề, không còn muốn nghĩ đến âm mưu nổi loạn này nữa – hành động tội lỗi và tự dập tắt trong trứng nước.
Cuối cùng, tôi có thể nghĩ đến chuyện xả hơi một lúc, trở về Friedenthal, tôi vùi mình trong chăn. Sau sáu tiếng đồng hồ, tôi thức dậy, tươi mát và khỏe khoắn, và tôi tìm cách tính sổ các biến chuyển. Đây là lần đầu tiên tôi thấy, trong quân lực và có lẽ trong lòng dân tộc Đức nữa, có những luồng tư tưởng mâu thuẫn, có tình trạng căng thẳng giữa các phe nhóm – cho đến nay, tôi không hề nghĩ đến sự kiện này. Đối với tôi, sự ngạc nhiên trở nên khó nhọc nếu không nói là đau đớn. Niềm an ủi duy nhất đối với tôi là thấy âm mưu đảo chính bị tan rã mau lẹ, một phần vì căn bản của nó yếu quá, phần khác nhờ hành động sấm sét của các lực lượng quân đội khác. Về phần tôi, tôi sung sướng được biết rằng, nhờ thuộc về binh chủng thứ IV,[3] các đơn vị Waffen SS, tôi đã không can dự trực tiếp vào nội vụ.
Độc giả cho phép tôi mở một dấu ngoặc tại đây: sau 3 hay 4 năm, hôm nay khi nói đến “sự dẹp tan âm mưu đảo chánh ngày 20 tháng 7 năm 1944” rất có thể là các diễn biến không được mô tả trung thực. Tất cả những người tham dự trực tiếp vào tấn thảm kịch này đều xác nhận rằng những người chủ mưu, ngoại trừ Bá-tước Stauffenberg, đều tự động bỏ cuộc ngay khi cuộc mưu sát thất bại. Hay nói cho đúng hơn, từ lúc đó, họ không còn có thể tìm đâu ra lực lượng hành động, đến nỗi chỉ cần một nhóm nhỏ sĩ quan trung thành với chế độ, cũng đủ lật nhào toàn bộ lâu đài xây trên cát ấy. Có lẽ theo sự ước tính của các người dự mưu, cái chết của Adolf Hitler là yếu tố quyết định; vậy thì ngay lúc Fuhrer thoát chết một cách kỳ diệu, họ phải tính rằng chương trình của họ không còn thực hiện được nữa.
Suốt đời tôi, tôi sẽ nhớ mãi cơn cuồng nộ xâm chiếm tâm hồn tôi lúc vừa thức giấc sáng ngày 23 tháng 7: tôi phẫn nộ đối với những kẻ muốn đâm sau lưng dân tộc Đức và họ làm như thế đúng vào lúc dân tộc chiến đấu để sống còn sau bao nhiêu thử thách. Rồi khi tâm tư sáng suốt trở lại, tôi nhớ đến vài câu chuyện với các sĩ quan làm việc tại nhiều cơ sở khác nhau thuộc Bộ chiến tranh. Nhiều lần người đối thoại tuyên bố, với tất cả sự thẳng thắng tin được, rằng họ chống Hitler và chế độ Quốc xã. Tuy nhiên, tất cả những đối thủ của chế độ này không trừ một ai, đều là những người yêu nước, và trong khi tình hình đất nước lâm nguy, chắc chắn họ chỉ nghĩ tới Tổ quốc. Ngay lúc bấy giờ tôi đã tin rằng – và niềm tin đó vẫn không thay đổi – trong số những người dự mưu, chắc có một vài người công dân Đức tốt. Đáng tiếc thay, những người này lại chỉ đồng ý với nhau có một điểm: sự cần thiết phải tách rời Hitler khỏi guồng máy lãnh đạo quốc gia dù bằng cách làm cho ông tự nguyện hay bằng cách dùng sức mạnh bó buộc ông. Ngược lại, quan điểm của họ về chính sách phải theo sau khi chiếm quyền thì lại khác nhau, nhất là vấn đề tìm cách đạt được mau chóng một cuộc ngưng bắn vì tình hình quân sự đã trở nên tuyệt vọng. Một nhóm do Stauffenberg lãnh đạo chủ trương thương thuyết hòa bình riêng rẽ với Nga sô, nhóm kia muốn tìm cách thỏa hiệp với các cường quốc Tây phương. Thế mà nếu căn cứ vào một tin tức được Đài phát thanh của Anh loan đi ngày 25 tháng 7, thì cả hai nhóm đều đã không thăm dò trước chiều hướng lập trường phía đối nghịch, thật vậy, đài BBC tuyên bố rằng ngay cả một chính phủ mới của Đức – người Anh tin rằng Hitler đã chết – nếu muốn chấm dứt sự thù nghịch lập tức thì phải ngưng bắn cả với Anh-Mỹ lẫn Nga sô, và chỉ sau khi chấp nhận nguyên tắc ấn định tại Casablanca, nguyên tắc “đầu hàng vô điều kiện”. Ngày nay ta có thể tự hỏi các người âm mưu đảo chánh sau khi chiếm quyền, làm sao xoay sở trong một tình hình như thế.
Tóm lại, cuộc nổi loạn thất bại ngày 20 tháng 7 năm 1944 đã mang lại hậu quả: thứ nhất, cuộc mưu sát đã làm cho Hitler, lãnh tụ tối cao của Đức quốc, Tư Lệnh tối cao của Quân lực, trở nên tàn tạ cả về phương diện vật thể lẫn về phương diện tinh thần. Đành rằng các vết thương nơi ông không có gì nguy hiểm, tuy nhiên một người phải gánh trách nhiệm quá nặng, chịu đựng thương tích, dù là nhẹ, dở hơn người thường. Về phương diện tinh thần, không bao giờ ông có thể vượt qua được cơn kích xúc do sự khám phá đau đớn còn hơn là các vết thương trên da thịt nữa: Trong lòng quân đội, vậy là đã có một vài sĩ quan – biết đâu là vài nhóm nữa – có thể phản bội lãnh tụ và chính nghĩa. Mối nghi ngờ do linh tính hơn là do lý trí của ông, càng ngày càng bành trướng và trở thành một ám ảnh thật sự. Càng lúc, ông càng bị lôi cuốn vào các suy tư quá lạm, và những hành động bất công đối với cả những người không đáng bị đối với cả những người không đáng bị đối xử như vậy. Tôi lại còn biết rằng từ đó ông mắc luôn căn bệnh sợ hãi.
Hậu quả thứ hai của cuộc mưu sát cũng tiêu cực như trên: Từ đó, tất cả mọi thỏa hiệp với Đồng minh để đạt được một nền hòa bình mà không tiêu diệt chế độ, không còn có cơ hội thực hiện nữa. Lẽ dĩ nhiên, thái độ cứng rắn của đối phương nay lại cứng rắn thêm bởi vì họ có thể trông đợi vào sự chia rẽ làm suy yếu Đức quốc. Không nên quên rằng sự từ chối thỏa hiệp của Đồng minh không những chỉ áp dụng cho một nước Đức quốc xã và thuộc về Hitler, mà ngay cả những người kế tục Fuhrer nữa. Trong những điều kiện đó, Đức quốc không còn cách nào để tìm kiếm một nền hòa bình bình thường cả. Tất cả các ý định biểu hiện theo chiều hướng này đều bị Đồng minh gạt ngang với thái độ khinh miệt. Và điều này chắc chắn đã làm cho Hitler quyết định giữ vững lập trường và tỏ ra cứng rắn cho đến phút cuối cùng.
[1] Xem “Những trận đánh lịch sử của Hitler”, sách đã phát hành – Sông Kiên xuất bản.
[2] Quân đội có nhiệm vụ duy trì trật tự tại Đức quốc và tại các vùng bị sáp nhập – Tiệp Khắc, Ba Lan, Alsace, v.v.
[3] Ba binh chủng khác là: Lục quân (Wehrmacht), Hải quân (Kriegsmarine), Không quân (Luftwaffe) – Ghi chú của người dịch.