Kinh Thánh là Lời Đức Chúa Trời và sẽ có người không tin. Tôi xin lượm lặc những điều tôi đã nhận được trong những mục khác và post vài bài vào diễn đàn nầy.
Có hai loại hay hình thức mạc khải căn bản. Một là mạc khải phổ quát hay tổng quát (universal or general revelation) trong đó Ðức Chúa Trời bày tỏ chính Ngài ra cho mọi người bất cứ ở thời đại nào và bất cứ ở chỗ nào; và hai là mạc khải đặc biệt (particular revelation) trong đó, Ðức Chúa Trời phải tìm cách giao tiếp với loài người và bày tỏ Ngài ra cho một số người đặc biệt nào đó trong những thời điểm đặc biệt nào đó, và hình thức mạc khải nầy chỉ giới hạn trong một số sách vỡ thiêng liêng (sacred writings) nào đó mà thôi.
Mạc khải phổ quát hay phổ thông là phương cách Ðức Chúa Trời tự bày tỏ chính Ngài ra qua thiên nhiên (nature), lịch sử (history), và trong tiềm thức của con người (inner being of the human person). Chúng ta gọi mạc khải nầy là phổ quát hay tổng quát vì tính chất rộng rãi dành cho tất cả mọi người, và trọng tâm của sứ điệp mạc khải dễ hiểu cho mọi người.
Một trong những đặc điểm của loài người là con người lúc nào cũng băn khoăn trước những vật thể vô cùng nhỏ và vô cùng lớn trong vũ trụ. Vì là tạo sinh (creature) của Chúa và biết suy tư nên con người lúc nào cũng tò mò muốn biết chính mình và nguồn gốc của loài người. Nhưng vì loài người là những tạo sinh hữu hạn (finite creature) còn Ðức Chúa Trời là Ðấng Tạo Hóa Vô Hạn (infinite Creator), nên chúng ta không thể biết Ðức Chúa Trời nếu Chúa không mạc khải chính Ngài cho chúng ta. Ngay cả khi mạc khải cho loài người, Ðức Chúa Trời cũng phải mạc khải cách nào mà loài người có thể biết Ngài và giao tiếp với Ngài.
Theo các nhà thần học thì có ba phương thức trong mạc khải phổ quát: qua thiên nhiên, qua lịch sử, và qua sự cấu tạo của con người.
1) Phương thức thứ nhất của sự mạc khải phổ quát là qua thiên nhiên. Kinh Thánh nhận định rằng người ta có thể biết về Ðức Chúa Trời qua trật tự của cõi vật lý thiên nhiên. Thi thiên 19:1 nói: “Các tầng trời rao truyền sự vinh hiển của Ðức Chúa Trời. Bầu trời giải tỏ công việc tay Ngài làm.” Phao-lô viết trong Rô-ma 1:19,20, “Vì điều chi có thể biết được về Ðức Chúa Trời thì đã trình bày ra cho ho. Ðức Chúa Trời đã tỏ điều đó ra cho họ rồi, bởi những sự trọn lành của Ngài mắt không thấy được, tức lá quyền phép đời đời và bản tánh Ngài, thì từ buổi sáng thế vẫn sờ sờ như mắt xem thấy, khi người ta xem xét công việc của Ngài.” Ngoài hai câu nầy, còn có nhiều chỗ khác trong Kinh Thánh xác nhận Ðức Chúa Trời đã để lại những bằng chứng về sự hiện hữu của chính Ngài trong vũ trụ mà Ngài đã tạo dựng. Từ một người ngắm xem mặt trời mọc và lặn cho đến một nhà khoa học giải phẫu các sinh vật trong phòng thí nghiệm, ai cũng đối diện với những dấu vết về công việc của Ðức Chúa Trời vĩ đại.
2) Phương thức thứ hai của sự mạc khải phổ quát là qua lịch sử. Nếu Ðức Chúa Trời đang làm việc trong vũ trụ do Ngài sáng tạo, và đang hành động hướng về một mục đích nào đó, thì nhất định chúng ta có thể “khám phá” ra những dấu vết của công việc Ðức Chúa Trời qua những biến cố xảy ra trong lịch sử. Một trong những “dấu vết của công việc” Ðức Chúa Trời là sự bảo tồn dân tộc Do Thái. Nước Do Thái tí hon nầy vẫn tồn tại qua nhiều thế kỷ dù phải đương đầu với một môi trường thường xuyên thù nghịch. Không người nào nghiên cứu lịch sử với tinh thần vô tư mà lại không thấy được “dấu vết” của Ðức Chúa Trời trong lịch sử của dân tộc Do Thái. Có thể nói lịch sử của dân tộc Do Thái là phần quan trọng trong phương cách đối xử của Ðức Chúa Trời đối với nhân loại. Không lịch sử của một dân tộc nào khác mà chúng ta có thể “thấy” được bàn tay kỳ diệu của Ðức Chúa Trời một cách rõ ràng bằng lịch sử của dân tộc Do Thái, vì dân tộc Do Thái là tuyển dân của Ngài.
3) Phương thức thứ ba của sự mạc khải phổ quát là qua sự tạo dựng loài người. Trong sự cấu tạo thể xác cũng như trí tuệ con người, chúng ta không thể nào chối cãi dấu vết của “bàn tay” Ðức Chúa Trời được. Khác với tất cả thú vật, con người biết phải trái, biết đưa ra những nhận định đúng sai về đạo đức. Mặt khác, ý thức tôn giáo trong con người cũng là bằng chứng phải có Ðức Chúa Trời tạo dựng loài người. Trong bất cứ văn hóa nào của con người, dù ở bất cứ thời đại nào, chỉ có con người mới có một niềm tin tưởng vào một đấng thiêng liêng mà con người muốn tôn thờ và chịu trách nhiệm với đấng thiêng liêng đó. Trong tất cả các loài thú vật không bao giờ có dấu vết nầy, tức là ý thức về tôn giáo và thờ phụng.
Mặc dù mạc khải phổ quát không đưa chúng ta đến chỗ hiểu biết rõ Ðức Chúa Trời và nhận ơn cứu rỗi của Ngài ban cho chúng ta trong Chúa Giêxu (là mạc khải đặc biệt nhất của Ðức Chúa Trời), nhưng mạc khải phổ quát rất có giá trị. Ðừng bao giờ quên mạc khải phổ quát là mạc khải của Ðức Chúa Trời.
Nhà thần học Jean Calvin nói rằng Ðức Chúa Trời đã ban cho chúng ta một mạc khải vô tư, có giá trị, và hữu lý về chính Ngài qua thiên nhiên, lịch sử, và cá thể con người (God has given us an objective, valid, rational revelation of himself in nature, history, and human personality). Mạc khải phổ quát nầy có sẵn ở đó cho những ai muốn quan sát và khám phá.
Nhưng như Phao-lô đã lý luận, con người không thể hiểu rõ hay thấu triệt Ðức Chúa Trời qua mạc khải phổ quát. Tội lỗi đã làm cho mạc khải phổ quát của Ðức Chúa Trời bị lu mờ đối với chúng ta. Trật tự thiên nhiên cũng đang ở dưới sự rủa sả (Sáng thế ký 3:17-19) và muôn vật đang mong “được giải cứu khỏi làm tôi sự hư nát” (Rô-ma 8:21). Mặc dù vũ trụ nầy vẫn tiếp tục làm chứng về Ðức Chúa Trời (xem Công vụ 14:16,17), nhưng vì vũ trụ nầy đã bị hư hỏng vì sự sa ngã của loài người nên lời chứng của Ðức Chúa Trời qua thiên nhiên đã bị lu mờ. Con người tội lỗi và hư hoại cần phải nhờ cậy vào sự mạc khải đặc biệt của Ðức Chúa Trời thì mới có thể hiểu biết đúng đắn về Ngài (dù hiểu biết không toàn vẹn. Xin xem thêm I Cô-rinh-tô 13: 9,10,12). Mạc khải phổ quát không đủ để dẫn chúng ta đến sự cứu rỗi, như Phao-lô đã lý luận: “Vì ai kêu cầu danh Chúa thì sẽ được cứu. Nhưng họ chưa tin Ngài thì kêu cầu sao được? Chưa nghe nói về Ngài thì làm thể nào mà tin? Nếu chẳng ai rao giảng thì làm sao mà nghe?” (Rô-ma 10: 13,14).
Chúng ta cũng cần chú ý để thấy rằng xét về phương diện thuần túy thần học, không có chỗ nào trong Kinh Thánh nói rằng chúng ta có thể dựa vào những bằng chứng (evidences) trong mạc khải phổ quát để xây dựng một giáo lý chính thức (formal) về sự thực hữu của Ðức Chúa Trời. Mạc khải phổ quát chỉ giúp chúng ta biết có bàn tay làm việc của Ðấng Tạo Hóa trong vũ trụ, nhưng không có bằng chứng về sự hiện hữu của Ðấng Tạo Hóa.
Nói tóm lại, mạc khải phổ quát có một chỗ đứng quan trọng và có giá trị trong thần học, nhưng con người không thể chỉ dựa vào mạc khải phổ biết để biết Ðức Chúa Trời và nhất là thấu triệt được ân sủng cứu rỗi của Ngài ban cho loài người, mà phải chấp nhận mạc khải đặc biệt của Ðức Chúa Trời qua thân vị Chúa Giêxu và qua Kinh Thánh là lời hằng sống của Ngài.
Mục đích của sự mạc khải đặc biệt do đó là tạo điều kiện cho con người bước vào một mối quan hệ đặc biệt với Ðức Chúa Trời đã bị cắt đứt sau khi loài người sa ngã. Mục đích chính của mạc khải đặc biệt không phải là để nới rộng tầm hiểu biết của con người về Ðức Chúa Trời hay về những vấn đề thuộc linh, nhưng là để nối lại mối quan hệ cần thiết giữa con người và Ðấng Tạo Hóa.
Khi tội lỗi xâm nhập loài người, thì sự hiện diện trực tiếp của Ðức Chúa Trời với A-đam trước khi sa ngã không còn nữa. Vì vậy, mạc khải đặc biệt của Chúa trước hết có mục đích giải quyết vấn đề tội lỗi, mặc cảm tội lỗi, và tình trạng bại hoại của con người để mở đường cho tội nhân nối lại mối quan hệ với Ngài. Qua sự chuộc tội (atonement), cứu chuộc (redemption), và hòa giải (reconciliation) trong mạc khải đặc biệt, con người chẳng những không còn bị ngăn cản khi đến với Ðức Chúa Trời, mà còn được Ngài phục hồi địa vị làm con của Ngài, được thừa hưởng cơ nghiệp quí báu đời đời của Ðức Chúa Trời (xem Ê-phê-sô 1:3-14).
Mạc khải đặc biệt cần thiết vì tội lỗi đã làm cho mạc khải phổ quát trở thành không hiệu nghiệm trong việc đưa tội nhân trở về với Ðức Chúa Trời. Tuy nhiên, đừng bao giờ quên rằng mạc khải đặc biệt cần mạc khải phổ quát. Không có mạc khải phổ quát, con người sẽ rất mù mờ trong quan niệm về Ðức Chúa Trời là những quan niệm giúp cho chúng ta tiến đến chỗ chấp nhận mạc khải đặc biệt của Ngài.
Động từ “mạc khải” trong tiếng Việt được chuyển ngữ từ động từ “galah” trong tiếng Hê-bơ-rơ và “apokalypto” trong tiếng Hi Lạp đều có nghĩa là mở ra cho thấy điều giấu kín. Do đó, nếu cần phải định nghĩa cho “mạc khải đặc biệt” thì “mạc khải đặc biệt” (particular revelation) là “sự thể hiện hay biểu lộ (manifestation) của Ðức Chúa Trời về chính Ngài qua một số người đặc biệt, trong một thời điểm và hoàn cảnh rõ ràng, để những người nầy có thể bước vào mối quan hệ cứu rỗi (redemptive relationship) với Ðức Chúa Trời.”
Trong bài trước, chúng ta thấy mạc khải phổ quát (general revelation) không đủ để dẫn chúng ta bước vào mối quan hệ cứu rỗi với Ðức Chúa Trời. Lý do là kể từ khi sa ngã, loài người đã đánh mất mối quan hệ với Ðức Chúa Trời rồi, nên bây giờ cần phải có một sự mạc khải đặc biệt của chính Ðức Chúa Trời thì con người mới có thể biết Ngài một cách rõ ràng và đầy đủ hơn. Con người không thể nào có một kiến thức rõ ràng và đầy đủ như vậy về Ðức Chúa Trời trong mạc khải phổ quát được. Ðó là chưa kể những hạn chế về diện đạo đức của con người để nhờ đó, con người có thể biết Chúa và nối lại mối quan hệ với Ngài. Sau khi sa ngã, cả dòng dõi loài người đã đi vào con đường phản nghịch Ðức Chúa Trời, nên khả năng của họ trong sự hiểu biết những điều thiêng liêng (hay thuộc linh -spiritual) bị ngăn cản. Với tình trạng bại hoại như vậy của loài người, chính Ðức Chúa Trời phải “gửi” đến họ những chỉ thị rõ rệt thì họ mới có thể biết Ngài như đáng phải biết.
Vì Thế cho Nên tôi tin Chắc Chắn rằng "Mặc khải Phổ Quát của Đức Chúa Trời đưa con người đến Mạc Khải Đặc Biệt qua Chúa Cứu Thế Giê-xu"
Bình An
Tôi không sợ tai hoạ nào vì Chúa ở cùng tôi!
|