Phật A Di Đà Trong Phật giáo Đại thừa,
Phật A Di Đà có vị trí rất quan trọng, là đức Phật tiếp dẫn chúng sinh đến với Giác ngộ. Phật A Di Đà là giáo chủ cõi
Tịnh độ, tức là cõi
Tây phương Cực lạc, tuy nơi đó chưa phải là cõi giác ngộ (Niết Bàn), nhưng tại đó con đường đến giác ngộ rất gần.
Câu tụng "
Nam mô A Di Đà phật" được coi là một thần chú hiệu nghiệm nhất của Tịnh Độ tông, khi tụng câu này tức là đã kêu cầu đến sự cứu độ của Phật A Di Đà. Ở Việt Nam thì dù chả biết mình có theo tông nào hay không, cứ vào chùa là tụng câu này hết, và tương đương với câu "Giê su ma lạy chúa tôi" trong đạo Thiên Chúa, dù bản chất là khác nhau.
Phật A Di Đà có hai tùy giá là Bồ tát
Quán Thế Âm đứng bên tay trái và
Đại Thế Chí đứng bên tay phải. Bộ ba vị được gọi là
Di Đà Tam tôn, hay
Tây phương Tam thánh, được tôn sùng rất mực.
Quán Thế Âm nghĩa là thấu được âm thanh của thế gian, Đại Thế Chí nghĩa là hiểu được chí nguyện của thế gian. Nói chung các vị Phật và Bồ tát tại nguyên thủy là phi giới tính, nhưng trong những ứng thân, thì Quán Thế Âm có trường hợp là nữ.
Trong các ngôi chùa miền Bắc, tượng Phật A Di Đà là pho tượng lớn nhất, ngồi uy nghi trên tòa sen. Hai pho Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng (hoặc ngồi) ở hai bên, ba pho tượng được xếp phía trước, thấp hơn tượng Tam Thế.
A Di Đà là Phật, nên trên đầu có tóc xoắn ốc, ngồi theo thế liên hoa bán kiết hoặc kiết già, hai tay để trong lòng; còn hai Bồ tát đội mũ, hai tay bắt các thủ ấn hoặc nâng pháp khí.
Di Đà Tam tôn chùa Quán Sứ, Hà Nội, tượng Di Đà ở chính giữa đại điện rất lớn, Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng ở hai bên, nhỏ hơn rất nhiều. Phía sau, cao hơn là tượng Tam Thế.
Tượng Tam Thế ở bên trên và A Di Đà bên dưới tại chùa Tây Phương. Ở đây A Di Đà không có hai Bồ tát tùy giá hai bên, vì bên chùa ngoài đã có tượng rồi. Như vậy chùa này có đến 2 pho A Di Đà, một pho ngồi và một pho đứng.
Bộ ba Tam Thế chùa Tây Phương do chúa Trịnh Giang cho tạc, là một bộ Tam thế rất đẹp.
Hôm nay mùng 1 tháng 3 Âm lịch. Buổi chiều đi làm, nhưng buổi sáng đi đền chùa, và chiều muộn cũng vẫn đi chùa.
Tớ đi chùa không phải để lễ bái cầu khấn, thế nên chẳng hề biết một bài khấn khứa nào, mặc dù biết tên các vị Phật, Bồ tát, thần thánh hiểu ý nghĩa của các bức tượng, các thủ ấn, pháp khí trên điện còn hơn nhiều người đang khấn như cháo chảy.
Tớ nhằm ngày rằm, mùng 1 lên đền chùa, không phải để lễ, mà đơn giản là vào ngày này thì chắc chắn đền chùa mở cửa, và lại còn thắp đèn sáng khắp nữa, rất dễ để nhìn ngắm toàn thể, xem có những di vật, di tích nào cổ kính đáng để chiêm ngưỡng, và... chụp ảnh.
Tất nhiên là vào đền chùa, tớ cũng rất kính cẩn, bao giờ cũng chắp tay đàng hoàng, đến trước bàn thờ chính, lầm rầm xin với chư phật chư thánh rằng: xin phép mạo phạm các vị vì sẽ chụp ảnh ạ, rồi bao giờ cũng bỏ tiền công đức.
Sau đó, nếu thuận tiện (không có ai xung quanh hoặc có vẻ tự do) thì sẽ lần mò chụp khắp nơi, flash cũng có. Còn nếu có vẻ không tiện thì chụp không đèn, xấu đành chịu, lấy tư liệu mà. Có nơi như chùa Bối Khê, thì vì vụ sửa chùa kiện nhau ầm ĩ, nên cấm tiệt chụp ảnh, đành ngậm ngùi đứng nhìn thôi vậy.
Hôm rồi đi Hải Dương, vào thăm được mấy nơi có tên có tuổi.
Thứ nhất là chùa Đồng Ngọ, hay còn gọi là chùa Cập Nhất, vì nằm ở thôn Cập Nhất, xã Tiền Tiến, huyện Thanh Hà. Nhưng dân gian toàn gọi là chùa Cửu Phẩm, bởi chùa có một tháp gỗ Cửu Phẩm liên hoa cổ, tuổi trên 300 năm. Tháp gỗ có 9 tầng, sáu cạnh. Mỗi cạnh của một tầng có để 3 pho tượng gồm 1 tượng Phật và hai tượng Bồ tát, tổng cộng là 3 x 6 x 9 = 162 pho tượng lớn nhỏ.
Ngoài ra chùa còn có một pho tượng Quan Âm nhiều tay cổ nhất Việt Nam, 5 trăm năm tuổi, và cả trăm trục đá dùng để làm lúa thời trước.
Sau đó lên chùa Cao trên đỉnh núi An Phụ, nơi xưa kia là thái ấp của An Sinh vương Trần Liễu. Trên đỉnh núi cũng có đền thờ ông. Từ đó có thể nhìn ra toàn bộ cả vùng Kinh Môn. Tượng đá Trần Hưng Đạo ở thấp hơn đền, cũng khá đẹp, và là tượng được dựng đầu tiên trong hệ thống các tượng lớn về Thánh Trần.
Cùng xã đó có ngôi đình Huề Trì, với kiến trúc hình vuông, duy nhất và độc đáo nhất đồng bằng Bắc bộ. Bên huyện khác có ngôi chùa Gạo với tòa tháp Cửu phẩm bằng đá khối, chạm trổ rất đẹp, là công trình đầu đời Nguyễn, hơn 200 năm trước. Tháp này cũng là di vật quý giá của điêu khắc đá cổ Việt Nam.
Từ Hải Dương về có ghé chùa Giám, là nơi xưa kia Thánh Y Thiền sư Tuệ Tĩnh tu và chữa bệnh giúp người. Nơi đây cũng có tòa tháp gỗ Cửu phẩm Liên hoa. Trên toàn quốc chỉ còn 3 tòa tháp cổ ở chùa Đồng Ngọ, chùa Giám, và chùa Bút Tháp mà thôi.
Và ghé qua làng Nôm, ngôi làng cổ tỉnh Hưng Yên..
A Di Đà Tượng phật A Di Đà thường là pho tượng lớn nhất trong chùa. Một số chùa tượng A Di Đà to chiếm toàn bộ chính điện, không còn bày thêm tượng nào nữa.
Pho tượng A Di Đà bằng gỗ lớn nhất ở Hà Nội (và có lẽ là pho tượng gỗ lớn nhất toàn quốc? - ở Hải Phòng, chùa Đỏ cũng có pho tượng cực to bằng gỗ quý). Pho tượng ở chùa Hưng Ký, cao gần 4m, đường kính tòa sen cũng khoảng hơn 3m, chiếm trọn gian chính điện. Sự vĩ đại của tượng thể hiện tầm bao trùm của phật A Di Đà với toàn cõi Sa bà, theo pháp môn niệm phật của Tịnh Độ tông.
Pho tượng chùa Hưng Ký có độ lớn hiếm có đối với một pho tượng gỗ. Còn bằng các chất liệu khác thì tượng to ngày càng nhiều. Trong miền Nam, các pho tượng Phật to làm bằng gạch đắp ximăng cao hàng chục mét xuất hiện khắp nơi, từ Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu... chỗ nào cũng có.
Ở miền bắc, việc "xây" tượng Phật gần đây cũng bắt đầu xuất hiện. Tiêu biểu là trên núi Phật Tích sắp xây pho tượng A Di Đà theo mẫu của pho tượng đá đời Lý còn ở trong chùa, nhưng to gấp mười mấy lần, cao đến 30 mét.
Chùa Non Nước thì đúc tượng Phật bằng đồng nặng hàng chục tấn, chùa Bái Đính đang làm thì một pho nặng 100 tấn, 3 pho nặng 50 tấn. Khiếp quá !!!
Tượng A Di Đà chùa Phật Tích Trong các pho tượng phật A Di Đà của tất cả các chùa, pho tượng quý giá nhất là pho tượng đá chùa Phật Tích.
Đây là pho tượng đời Lý còn nguyên vẹn nhất, hoàn thiện nhất còn lại đến nay. Tượng được tạc năm 1057 và dát vàng, còn ghi lại trong Đại Việt Sử ký. Chùa Phật Tích xưa là ngôi chùa lớn nhất thời Lý. Xưa tượng để trong một tháp đá cao, sau tháp bị đổ, mới lộ ra tượng. Triều Lê dựng chùa rất lớn cả một vùng, rồi cũng bị hủy hoại.
Khi Pháp chiếm Việt Nam, chùa đã bị đổ hoàn toàn, tượng phật đá lộ ra giữa trời, quân Pháp lấy làm bia tập bắn, cho nên đến nay trên thân tượng còn vô số vết hỏng, vết nứt phải trám lại. Chùa mới dựng sau này quy mô nhỏ.
Hầu hết các tài liệu đều cho rằng đây là tượng phật A Di Đà, nhưng Trần Trọng Kim cho rằng đây là tượng Thế Tôn, tức phật Thích Ca, còn sư trụ trì hiện nay thì lại cho rằng đây là tượng phật Tỳ Lư Xá Na (Vairocana), tức Đại Nhật Như Lai phật.
Tượng A Di Đà thường là tượng ngồi, tuy nhiên một số trường hợp cũng có tượng đứng, như chùa Tây Phương.
Hai bên phật A Di Đà, hai vị Quán Thế Âm và Đại Thế Chí tùy giá thường là tượng đứng, và khá giống nhau, chỉ khác nhau ở việc đổi vị trí tay. Trong chùa có thể có nhiều tượng Quán Thế Âm, đây cũng là điều đáng chú ý ở các chùa Đại thừa.
Ba pho Di Đà Tam tôn chùa Tây Phương, ba pho đứng cao quá, chụp phải ngước lên mỏi cổ
Tượng Quán Thế Âm ngồi bên trái A Di Đà thì có lẽ đẹp và độc đáo bậc nhất là pho tượng này của chùa Thầy. Pho tượng khoảng hơn 400 năm tuổi, xưa kia cầm một pháp khí gì đó của Phật giáo, nhưng chắc bị mất nên mới được thay bằng một cái phất trần, vốn là đồ của Đạo giáo.
Tượng này ngồi rất tự nhiên, trong tư thế vương giả ung dung. Tớ chưa gặp ở đâu pho tượng Quán Thế Âm tương tự cả. Đây cũng là pho Quán Thế Âm bồ tát bằng gỗ thuộc loại cổ nhất còn lại.
(Gần đây đọc tài liệu khác thì nói đây là tượng Đại Thế Chí, cũng không dám chắc nên tôi ghi ra đây)