Lương Sơn Bạc  
Trang chủ Lương Sơn Bạc  Lương Sơn Diễn Đàn  Nơi Lưu Trữ: Truyện Ngắn, Truyện Dài, Bài Viết, Nhân Vật, Sách Lịch Sử, Sách Dạy Võ Thuật...   Xem hình thành viên và hình các buổi giao lưu LSB   Nơi Lưu Trữ: Cổ Thi VN, Cổ Thi TQ, Thơ Mới & Các Tuyển Tập Thơ
Quay Lại   Lương Sơn Bạc > Kim Ngư Thành > Quảng Kiến Đài > Văn Hóa Thế Giới
Thành viên
Mật khẩu
Những câu hỏi thường gặp Danh sách các thành viên LSB  Lương Sơn Thương Quán
Văn Hóa Thế Giới Chia sẻ những nền văn hóa của các nước trên thế giới

Trả lời
 
Tiện ích Chế độ hiển thị
Cũ 31-12-2009   #10
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.206
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Tứ đại Thiên vương

Tứ đại Thiên vương Còn một bộ tượng mặc võ phục nữa là tượng Tứ đại Thiên vương. Bộ này không phải chùa nào cũng có.

Đọc truyện Tây Du Ký, gặp các vị : Tăng Trường thiên vương, Đa Văn thiên vương, Trì Quốc thiên, Quảng Mục thiên vương vương canh giữ các cửa Nam thiên, Bắc thiên, Đông thiên, Tây thiên môn, tưởng đây là các thần Trung Quốc. Té ra không phải.

Các thiên vương (devaraja) vốn là sản phẩm của Phật giáo, là các vị thuộc hàng Chư Thiên canh giữ bốn phía núi Tu Di, cõi Dục giới và Sắc giới. Sang TQ mới thành ra các Thiên môn. Như vậy Thiên vương vẫn thấp hơn các vị Kim Cương vốn thuộc hàng bồ tát. Các thiên vương cũng bảo vệ Phật pháp, mỗi vị mang một pháp khí tượng trưng cho thức tỉnh. Nhưng khi sang TQ thì các pháp khí lại trở thành các Vũ khí.

Tăng Trường thiên vương cầm gươm, để chặt đứt Vô minh; Trì Quốc thiên vương cầm đàn, để thức tỉnh chúng sinh; Đa Văn thiên vương cầm cờ (hay lọng) tượng trưng chiến thắng; Quảng Mục thiên vương cầm con rắn bảo vệ ngọc như ý.

Nhưng nếu đọc truyện Phong thần, thì 4 Thiên vương này vốn là 4 anh em họ Ma (Ma gia tứ tướng) giúp Trụ vương: Ma Lễ Thanh cầm gươm Thanh Vân; Ma Lễ Hồng cầm lọng Hỗn Nguyên tán; Ma Lễ Hải cầm Ngọc tì bà; Ma Lễ Thọ cầm Hoa hồ điêu. Sau khi bị giết chết, được Phong thần thành 4 thiên vương giữ 4 cửa trời.

Truyện Ma gia tứ tướng là do người TQ muốn Hán hóa các Thiên vương xuất xứ Ấn Độ nên mới bịa ra để ôm về cho mình.

Tượng của Tứ đại thiên vương thường đứng ở đâu?

Đúng nhất thì bốn tượng này đứng ở bốn góc tháp lớn. Tháp lớn của chùa là đại diện cho Vũ trụ, cho núi Tu Di, mà Tứ thiên vương trấn giữ thế giới ở bốn phía của núi Tu Di, nên tượng đặt ở bốn phía của tháp.

Một số tháp cổ đã bị phá như tháp Báo Thiên, tháp Chương Sơn, tháp Long Đọi, tháp Phật Tích đều có tượng Thiên vương ở các góc tháp.

Những chùa không có tháp lớn, nếu có tượng Thiên vương, thì bốn tượng này có thể đứng ở trong điện, trước Chính điện, sau chính điện, hoặc quanh bàn thờ chính của tòa Cửu Long; như có thể thấy ở chùa Thầy, chùa Bối Khê...

Di vật tượng Thiên vương bằng đá đời Lý ở tháp chùa Phật Tích (nay tháp bị phá hủy hoàn toàn)



Tượng thiên vương trong góc tháp Hòa Phong chùa Dâu. Bốn góc tháp có 4 tượng.



Một số chùa còn có tượng một vị tướng võ, mặc khôi giáp uy nghi, nhưng khuôn mặt rất hiền từ. Vị tướng ấy được gọi là Thái tử.

Thái tử tên là Kỳ Đà hay Vi Đà (Jeta), vương tử con vua Ba Tư Nặc, người sở hữu khu vườn đẹp nhất thành Xá Vệ. Trưởng giả Cấp Cô Độc vì muốn có nơi đất đẹp để mời Phật đến thuyết pháp, hỏi mua khu vườn đó. Kỳ Đà đòi số vàng trải kín vườn, và Cấp Cô Độc đã thực hiện đúng giao kèo, mua được khu vườn mời Phật về. Kỳ Đà từ ngạc nhiên đã chuyển sang quy phục Phật, trở thành bậc Hộ pháp.

Khu vườn đó rất nổi tiếng, được gọi là Kỳ Viên Tịnh Xá (Tịnh xá vườn của Kỳ Đà). Kỳ Đà được gọi là Tam Châu Thái tử, tức là vị Hộ pháp trong cả ba cõi.

Tượng Thái tử Kỳ Đà chùa Tây Phương, chắp tay là Khuyến thiện, thanh gươm để ngang là Trừng Ác.
Pho tượng gợi lên cảm giác : Buông đao thành Phật



Tam châu Thái tử chùa Dâu. Tượng này có đôi chân rất giống Charlie Charlin.



Những hình tượng giận dữ, phẫn nộ của các vị thần tướng này có tác dụng ngăn chặn sự sa đọa của con người. Nhìn vào đó, người ta có thể biết kính sợ mà giảm tội lỗi của chính mình.

Trong các chùa Nhật Bản thường có tượng Minh Vương, có hình tướng giận dữ còn ghê hơn thế này nhiều, cũng với mục đích tương tự. Còn ở Việt Nam, nhìn chung các tượng đều có vẻ hiền từ hơn.


So sánh với Hộ pháp của bạn Tàu, thì hình tượng Hộ pháp của bạn í mặc dù đội mũ có Phật, nhưng trông vẫn giống hệt một giống yêu quái man rợ trong truyện Tây Du Ký.
(Hộ pháp cửa chùa Đông Hoa - Tây Sơn - Côn Minh)





Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #11
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.206
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Chính điện

Chính điện Chính điện là nơi quan trọng nhất của một ngôi chùa, nơi bày tượng thờ Phật và các Bồ tát quan trọng. Lễ chùa thì chắc chắn phải lễ ở Chính điện rồi đi đâu thì đi.

Nhìn vào chính điện, có thể biết được khá nhiều về ngôi chùa, có thể biết về tông phái, hệ phái của chùa đó. Sâu hơn nữa thì có thể đoán biết được niên đại của chùa, tất nhiên không phải lúc nào cũng dễ dàng.


Chưa nói đến chùa Khơ Me theo Phật giáo Nguyên thủy, chùa người Việt theo Đại thừa cũng có sự khác nhau rất nhiều giữa các miền, có thể thấy rõ ràng ở chính điện chùa.

Chùa miền trung trở vào không tạo cảm giác sâu, mà thường là áp sát vào tường cuối cùng của, với số lượng ít tượng Phật. Chùa miền Nam hoàn toàn là chùa xi măng, lấy to rộng, trang trí màu sắc làm quan trọng, là chính yếu, chịu ảnh hưởng người Hoa rất rõ. Chùa Huế thâm trầm, tĩnh lặng như con người xứ Huế, đôi lúc đơn giản thanh tĩnh.


Chính điện chùa Báo Quốc, một danh lam của xứ Huế. Bên trên là bức hoành với 5 chữ : "Sắc tứ Báo quốc tự" - chùa Báo Quốc do vua sắc phong.

Chính điện cũng không rộng, với ba pho tượng Tam Thế ngồi ngang hàng ở trên. Bên dưới là tượng Phật và hai bồ tát ở hai bên, để trong khung kính. Tất cả chỉ có vậy. Bao lam, cửa võng cũng khá đơn giản. Có thể thấy đây cũng là đặc trưng của chính điện chùa Huế. Chùa Thiên Mụ thì ba pho Tam thế to hơn, chính điện rộng hơn, nhưng cũng không nhiều tượng hơn.

Chính điện chùa Thiên Mụ - Huế.




Chùa miền Bắc tạo cảm giác sâu hút, thiêng liêng, với rất nhiều tượng. Đó là tích lũy văn hóa của nhiều triều đại dồn lại, nên phong phú đa dạng. Trên thực tế, những ngôi chùa, tượng Phật cổ nhất, đẹp nhất và giá trị nhất hầu như đều nằm ở miền Bắc, với nền văn hiến ngàn năm.
Chùa Từ Đàm, một Tổ đình linh thiêng và quan trọng ở Huế còn bày biện đơn giản hơn nữa. Ở giữa chỉ bày một tượng phật Thích Ca Mâu Ni trong thế Thuyết pháp, tay phải giơ lên, tay trái để ngửa trong lòng. Bàn thờ có một vài đồ tế khí. Chỉ có thế thôi.


Hiện nay (đầu 2008), chùa Từ Đàm được xây dựng lại. Không biết sau đó thì chính điện bài trí thế nào.
Đối với ngôi chùa miền Bắc, do yếu tố văn hóa tích lũy qua nhiều thời kì lịch sử, nên chính điện bày rất nhiều tượng.

Nếu các chùa miền Trung, miền Nam chỉ sử dụng phần cuối cùng của toàn bộ tòa chùa làm nơi bày tượng, thì chùa miền Bắc phải sử dụng toàn bộ phần Chuôi vồ, hay gian Thiêu hương, và cả Thượng điện làm nơi đặt tượng. Không gian cho người làm lễ chỉ giới hạn trong phần tiền đường và một phần thiêu hương.

Cũng chính vì thế, chính điện chùa Bắc sâu thăm thẳm, và vì phải bày nhiều lớp tượng Phât, nên các tượng được đặt cao dần lên, đứng chính giữa chỉ nhìn thấy một phần các vị Phật ngồi lớp trên lớp dưới, sâu và cao dần, càng xa càng tối và huyền ảo. Các gương mặt, các dáng vẻ trầm mặc, lặng lẽ nhưng đông đúc, cảm giác như "Tam thiên chư Phật" đang cùng nhìn xuống. Trong điện đó có cả các vị Phật, Bồ tát, Thiên vương... từ những thế giới khác nhau, của những thời kì lịch sử khác nhau cùng tụ hội.

Cũng vì có nhiều lớp bày sâu vào trong, nên chiếm một số hàng cột, với nhiều cửa võng (miền nam gọi là bao lam), và nhiều bức hoành, câu đối.
Chính điện chùa Quán Sứ, chiếm không gian của 6 hàng cột ngang, với 6 tấm cửa võng, 6 câu đối. Chính điện này bày 12 pho tượng đều khá lớn, chia làm bốn hàng.

Lớn nhất là pho A Di Đà chính giữa hàng thứ hai từ trên xuống vì ở quá xa nên trông chỉ be bé thôi, nhưng thực tế pho tượng đó cao gần 3m. Ba pho Tam Thế ở trên cùng, sát mái cũng cao đến mét rưỡi.

Các bức cửa võng là những tác phẩm điêu khắc rất đẹp, hình rồng phượng, hoa sen, hoa dây....


Chính điện chùa Bà Đá (Linh Quang tự), chính điện chiếm 4 hàng cột sâu hút, với rất nhiều hoành phi câu đối.

Hai chiếc bình sứ để trên kệ nên cao ngang đầu người, hai pho tượng Bồ tát đứng hai bên cao cũng gần 3m. Pho A Di Đà ở giữa là lớn nhất.




Chính điện chùa miền Bắc được bày cao dần, do đó những pho tượng cuối cùng có thể chạm mái chùa, những pho ở ngoài thấp dần, để đến những pho ngoài cùng thì ngang bàn thờ. Các pho tượng để trên các bệ cao thấp khác nhau, tượng đứng, tượng ngồi trong thế liên hoa tọa, tượng ngồi trên ngai, tượng ngồi trên thần thú...

Và ánh sáng rọi từ ngoài vào qua những ô cửa trên sát mái có thể tạo ra một không gian huyền ảo linh thiêng...

Chụp trong chùa Vĩnh Khánh ở Hải Dương (dân gian cũng gọi là chùa Trăm Gian). Pho tượng Thích Ca Niêm Hoa.




Chùa chữ tam thì không phải chỉ có một chính điện, mà ngoài chính điện chùa Trung, còn thượng điện chùa Thượng. Và Thượng điện hoặc Hậu điện ngoài thờ Phật còn có thể thờ Thánh tổ, tức là các Thiền sư được tôn lên hàng Thánh.

Thượng điện chùa Thầy, phía trước tượng phật A Di Đà là tượng Thánh tổ Thiền sư Từ Đạo Hạnh, Sư tổ của chùa.

Đây là tòa thượng điện quý giá bậc nhất ở Việt Nam, nơi duy nhất còn giữ đủ bộ các di vật của tất cả các triều đại: Lý - Trần - Lê sơ - Mạc - Lê trung hưng - Tây Sơn - Nguyễn.



Một bóng áo vàng hành lễ trước Chính điện.






Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #12
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.206
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Chùa thời hiện đại, sợ thập phương nhầm lẫn, nên trước bàn thờ cũng thường có chú thích đầy đủ. Trước bàn thờ chính đều ghi là "ban Tam Bảo". Tam Bảo tức là Phật - Pháp - Tăng. Nhưng ban Tam Bảo thực ra là thờ những tượng nào?

Chùa miền Bắc, do quá trình tích lũy qua các triều đại, nên ban thờ Phật rất phong phú. Tùy quy mô của chùa, mà Chính điện có nhiều hay ít tượng, chia thành nhiều hay ít tầng. Chùa ít cũng phải 4 tầng tượng, chùa nhiều đến 7 - 8 tầng tượng, gồm các loại:

Tượng Phật: Phật Tam Thế; Phật Tam Thân, Phật A Di Đà; Phật Thích Ca (sơ sinh, tu khổ hạnh, thành đạo, thuyết pháp, nhập Niết Bàn); Phật Di Lặc, Phật Dược Sư, Phật Chuẩn Đề.

Tượng Bồ tát: Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, Văn Thù, Phổ Hiền, Pháp Hoa Lâm, Đại Diệu Tường, Nhật Quang, Nguyệt Quang, Kim cương Bồ tát.

Tượng Tôn giả: Ca Diếp và A Nan

Tượng chư thần: Phạm Thiên, Đế Thích, Ngọc Hoàng, Nam Tào, Bắc Đẩu, Thiên vương, Kim đồng, Ngọc nữ, Tứ Pháp.

Có điều là không chính điện chùa nào có đầy đủ tất cả các tượng trên. Chùa nhiều tượng nhất trong Chính điện mà tớ đã gặp cũng chỉ có một số vị nhất định.


Tam Thế Phật Theo Phật, thì nơi ta đang ở là một thế giới. Một ngàn thế giới này hợp thành một Tiểu thiên thế giới; Một ngàn tiểu thiên thế giới hợp thành một Trung thiên thế giới; Một ngày trung thiên thế giới hợp thành một Đại thiên thế giới. Con số một ngàn mang tính ước lệ, có thể hiểu là rất nhiều. Tập hợp tất cả gọi là Tam thiên Đại thiên thế giới, tức là vô cùng vô tận thế giới.

Gần như tất cả các chùa ở miền Bắc đều có tượng Phật Tam Thế, và để ở vị trí cao nhất, tầng trên cùng của bàn thờ. Chùa Huế có tượng Tam thế, nhưng miền Nam thì hiếm gặp.

Tam Thế Phật gồm ba pho, tượng trưng cho tất cả các vị Phật trong Tam thiên đại thiên thế giới, của ba thời Quá Khứ - Hiện Tại - Vị Lai. Ba pho có kích thước bằng nhau, thường được để cao ngang nhau, nhưng cũng có trường hợp pho giữa (Hiện Tại) để cao nhất.

Vì là bậc Phật nên Tam Thế đều ngồi tòa sen. Có chùa thì ba pho giống hệt nhau, nhưng cũng có chùa ba pho khác nhau ở cách bắt ấn tay.


Phật Tam Thế chùa Bút Tháp, tác phẩm đời Lê, thế kỉ 17.




Chính điện chùa Hàm Long trong một ngày đại lễ, hoa quả bày kín cả bàn thờ, chả còn thấy tượng nào, ngoại trừ ba pho Tam Thế ở cao nhất. Ba chữ trên bức hoành là "Tam giới đại sư" : bậc Thầy của ba cõi (dục giới, sắc giới, vô sắc giới)

(Chụp ảnh các pho Tam thế thường rất khó, vì ở vị trí quá cao, không dám trèo lên tận nơi, nếu đứng xa zoom vào thì lại khuất vào sau các tượng khác).






Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #13
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.206
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Phật A Di Đà Trong Phật giáo Đại thừa, Phật A Di Đà có vị trí rất quan trọng, là đức Phật tiếp dẫn chúng sinh đến với Giác ngộ. Phật A Di Đà là giáo chủ cõi Tịnh độ, tức là cõi Tây phương Cực lạc, tuy nơi đó chưa phải là cõi giác ngộ (Niết Bàn), nhưng tại đó con đường đến giác ngộ rất gần.

Câu tụng "Nam mô A Di Đà phật" được coi là một thần chú hiệu nghiệm nhất của Tịnh Độ tông, khi tụng câu này tức là đã kêu cầu đến sự cứu độ của Phật A Di Đà. Ở Việt Nam thì dù chả biết mình có theo tông nào hay không, cứ vào chùa là tụng câu này hết, và tương đương với câu "Giê su ma lạy chúa tôi" trong đạo Thiên Chúa, dù bản chất là khác nhau.

Phật A Di Đà có hai tùy giá là Bồ tát Quán Thế Âm đứng bên tay trái và Đại Thế Chí đứng bên tay phải. Bộ ba vị được gọi là Di Đà Tam tôn, hay Tây phương Tam thánh, được tôn sùng rất mực.

Quán Thế Âm nghĩa là thấu được âm thanh của thế gian, Đại Thế Chí nghĩa là hiểu được chí nguyện của thế gian. Nói chung các vị Phật và Bồ tát tại nguyên thủy là phi giới tính, nhưng trong những ứng thân, thì Quán Thế Âm có trường hợp là nữ.


Trong các ngôi chùa miền Bắc, tượng Phật A Di Đà là pho tượng lớn nhất, ngồi uy nghi trên tòa sen. Hai pho Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng (hoặc ngồi) ở hai bên, ba pho tượng được xếp phía trước, thấp hơn tượng Tam Thế.

A Di Đà là Phật, nên trên đầu có tóc xoắn ốc, ngồi theo thế liên hoa bán kiết hoặc kiết già, hai tay để trong lòng; còn hai Bồ tát đội mũ, hai tay bắt các thủ ấn hoặc nâng pháp khí.

Di Đà Tam tôn chùa Quán Sứ, Hà Nội, tượng Di Đà ở chính giữa đại điện rất lớn, Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng ở hai bên, nhỏ hơn rất nhiều. Phía sau, cao hơn là tượng Tam Thế.




Tượng Tam Thế ở bên trên và A Di Đà bên dưới tại chùa Tây Phương. Ở đây A Di Đà không có hai Bồ tát tùy giá hai bên, vì bên chùa ngoài đã có tượng rồi. Như vậy chùa này có đến 2 pho A Di Đà, một pho ngồi và một pho đứng.

Bộ ba Tam Thế chùa Tây Phương do chúa Trịnh Giang cho tạc, là một bộ Tam thế rất đẹp.



Hôm nay mùng 1 tháng 3 Âm lịch. Buổi chiều đi làm, nhưng buổi sáng đi đền chùa, và chiều muộn cũng vẫn đi chùa.

Tớ đi chùa không phải để lễ bái cầu khấn, thế nên chẳng hề biết một bài khấn khứa nào, mặc dù biết tên các vị Phật, Bồ tát, thần thánh hiểu ý nghĩa của các bức tượng, các thủ ấn, pháp khí trên điện còn hơn nhiều người đang khấn như cháo chảy.

Tớ nhằm ngày rằm, mùng 1 lên đền chùa, không phải để lễ, mà đơn giản là vào ngày này thì chắc chắn đền chùa mở cửa, và lại còn thắp đèn sáng khắp nữa, rất dễ để nhìn ngắm toàn thể, xem có những di vật, di tích nào cổ kính đáng để chiêm ngưỡng, và... chụp ảnh.

Tất nhiên là vào đền chùa, tớ cũng rất kính cẩn, bao giờ cũng chắp tay đàng hoàng, đến trước bàn thờ chính, lầm rầm xin với chư phật chư thánh rằng: xin phép mạo phạm các vị vì sẽ chụp ảnh ạ, rồi bao giờ cũng bỏ tiền công đức.

Sau đó, nếu thuận tiện (không có ai xung quanh hoặc có vẻ tự do) thì sẽ lần mò chụp khắp nơi, flash cũng có. Còn nếu có vẻ không tiện thì chụp không đèn, xấu đành chịu, lấy tư liệu mà. Có nơi như chùa Bối Khê, thì vì vụ sửa chùa kiện nhau ầm ĩ, nên cấm tiệt chụp ảnh, đành ngậm ngùi đứng nhìn thôi vậy.
Hôm rồi đi Hải Dương, vào thăm được mấy nơi có tên có tuổi.

Thứ nhất là chùa Đồng Ngọ, hay còn gọi là chùa Cập Nhất, vì nằm ở thôn Cập Nhất, xã Tiền Tiến, huyện Thanh Hà. Nhưng dân gian toàn gọi là chùa Cửu Phẩm, bởi chùa có một tháp gỗ Cửu Phẩm liên hoa cổ, tuổi trên 300 năm. Tháp gỗ có 9 tầng, sáu cạnh. Mỗi cạnh của một tầng có để 3 pho tượng gồm 1 tượng Phật và hai tượng Bồ tát, tổng cộng là 3 x 6 x 9 = 162 pho tượng lớn nhỏ.

Ngoài ra chùa còn có một pho tượng Quan Âm nhiều tay cổ nhất Việt Nam, 5 trăm năm tuổi, và cả trăm trục đá dùng để làm lúa thời trước.

Sau đó lên chùa Cao trên đỉnh núi An Phụ, nơi xưa kia là thái ấp của An Sinh vương Trần Liễu. Trên đỉnh núi cũng có đền thờ ông. Từ đó có thể nhìn ra toàn bộ cả vùng Kinh Môn. Tượng đá Trần Hưng Đạo ở thấp hơn đền, cũng khá đẹp, và là tượng được dựng đầu tiên trong hệ thống các tượng lớn về Thánh Trần.

Cùng xã đó có ngôi đình Huề Trì, với kiến trúc hình vuông, duy nhất và độc đáo nhất đồng bằng Bắc bộ. Bên huyện khác có ngôi chùa Gạo với tòa tháp Cửu phẩm bằng đá khối, chạm trổ rất đẹp, là công trình đầu đời Nguyễn, hơn 200 năm trước. Tháp này cũng là di vật quý giá của điêu khắc đá cổ Việt Nam.

Từ Hải Dương về có ghé chùa Giám, là nơi xưa kia Thánh Y Thiền sư Tuệ Tĩnh tu và chữa bệnh giúp người. Nơi đây cũng có tòa tháp gỗ Cửu phẩm Liên hoa. Trên toàn quốc chỉ còn 3 tòa tháp cổ ở chùa Đồng Ngọ, chùa Giám, và chùa Bút Tháp mà thôi.

Và ghé qua làng Nôm, ngôi làng cổ tỉnh Hưng Yên..

A Di Đà Tượng phật A Di Đà thường là pho tượng lớn nhất trong chùa. Một số chùa tượng A Di Đà to chiếm toàn bộ chính điện, không còn bày thêm tượng nào nữa.

Pho tượng A Di Đà bằng gỗ lớn nhất ở Hà Nội (và có lẽ là pho tượng gỗ lớn nhất toàn quốc? - ở Hải Phòng, chùa Đỏ cũng có pho tượng cực to bằng gỗ quý). Pho tượng ở chùa Hưng Ký, cao gần 4m, đường kính tòa sen cũng khoảng hơn 3m, chiếm trọn gian chính điện. Sự vĩ đại của tượng thể hiện tầm bao trùm của phật A Di Đà với toàn cõi Sa bà, theo pháp môn niệm phật của Tịnh Độ tông.




Pho tượng chùa Hưng Ký có độ lớn hiếm có đối với một pho tượng gỗ. Còn bằng các chất liệu khác thì tượng to ngày càng nhiều. Trong miền Nam, các pho tượng Phật to làm bằng gạch đắp ximăng cao hàng chục mét xuất hiện khắp nơi, từ Nha Trang, Đà Lạt, Vũng Tàu... chỗ nào cũng có.

Ở miền bắc, việc "xây" tượng Phật gần đây cũng bắt đầu xuất hiện. Tiêu biểu là trên núi Phật Tích sắp xây pho tượng A Di Đà theo mẫu của pho tượng đá đời Lý còn ở trong chùa, nhưng to gấp mười mấy lần, cao đến 30 mét.

Chùa Non Nước thì đúc tượng Phật bằng đồng nặng hàng chục tấn, chùa Bái Đính đang làm thì một pho nặng 100 tấn, 3 pho nặng 50 tấn. Khiếp quá !!!

Tượng A Di Đà chùa Phật Tích Trong các pho tượng phật A Di Đà của tất cả các chùa, pho tượng quý giá nhất là pho tượng đá chùa Phật Tích.

Đây là pho tượng đời Lý còn nguyên vẹn nhất, hoàn thiện nhất còn lại đến nay. Tượng được tạc năm 1057 và dát vàng, còn ghi lại trong Đại Việt Sử ký. Chùa Phật Tích xưa là ngôi chùa lớn nhất thời Lý. Xưa tượng để trong một tháp đá cao, sau tháp bị đổ, mới lộ ra tượng. Triều Lê dựng chùa rất lớn cả một vùng, rồi cũng bị hủy hoại.

Khi Pháp chiếm Việt Nam, chùa đã bị đổ hoàn toàn, tượng phật đá lộ ra giữa trời, quân Pháp lấy làm bia tập bắn, cho nên đến nay trên thân tượng còn vô số vết hỏng, vết nứt phải trám lại. Chùa mới dựng sau này quy mô nhỏ.

Hầu hết các tài liệu đều cho rằng đây là tượng phật A Di Đà, nhưng Trần Trọng Kim cho rằng đây là tượng Thế Tôn, tức phật Thích Ca, còn sư trụ trì hiện nay thì lại cho rằng đây là tượng phật Tỳ Lư Xá Na (Vairocana), tức Đại Nhật Như Lai phật.





Tượng A Di Đà thường là tượng ngồi, tuy nhiên một số trường hợp cũng có tượng đứng, như chùa Tây Phương.

Hai bên phật A Di Đà, hai vị Quán Thế Âm và Đại Thế Chí tùy giá thường là tượng đứng, và khá giống nhau, chỉ khác nhau ở việc đổi vị trí tay. Trong chùa có thể có nhiều tượng Quán Thế Âm, đây cũng là điều đáng chú ý ở các chùa Đại thừa.

Ba pho Di Đà Tam tôn chùa Tây Phương, ba pho đứng cao quá, chụp phải ngước lên mỏi cổ





Tượng Quán Thế Âm ngồi bên trái A Di Đà thì có lẽ đẹp và độc đáo bậc nhất là pho tượng này của chùa Thầy. Pho tượng khoảng hơn 400 năm tuổi, xưa kia cầm một pháp khí gì đó của Phật giáo, nhưng chắc bị mất nên mới được thay bằng một cái phất trần, vốn là đồ của Đạo giáo.

Tượng này ngồi rất tự nhiên, trong tư thế vương giả ung dung. Tớ chưa gặp ở đâu pho tượng Quán Thế Âm tương tự cả. Đây cũng là pho Quán Thế Âm bồ tát bằng gỗ thuộc loại cổ nhất còn lại.




(Gần đây đọc tài liệu khác thì nói đây là tượng Đại Thế Chí, cũng không dám chắc nên tôi ghi ra đây)


Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #14
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.206
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Trong chùa Đại thừa, tượng phật Thích Ca là không thể thiếu. Tuy vậy, tượng Thích Ca cũng có nhiều trạng thái:

- Thích Ca sơ sinh, đó là mô tả khi Phật ra đời, kết hợp thành tòa Cửu long

- Thích Ca tu khổ hạnh, hay gọi là tượng Tuyết Sơn, mô tả quá trình đi tìm đạo, tu hành xác trong dãy Himalaya

- Thích Ca thành đạo, Phật ngồi xếp bằng tròn, trong thế thiền định dưới gốc Bồ đề, đắc đạo chứng quả.

- Thích Ca thuyết pháp, thường có một bông hoa sen trong tay, gọi là Phật niêm hoa, hoặc không có hoa sen thì giơ hai ngón tay

- Thích Ca nhập Niết Bàn, tức lúc viên tịch, rời bỏ Dư ý Niết Bàn để vào Vô dư ý Niết Bàn. Tượng trong tư thế nằm nghiêng về bên phải.

Trong các chùa miền Bắc, tượng Thích Ca thành đạo hay Thuyết pháp được đặt dưới tượng A Di Đà, đứng giữa hai pho tượng khác.

- Nếu tượng Thích Ca ở giữa Ca Diếp và A Nan, hai đại đệ tử, hai vị Sơ tổ và Nhị tổ (Tổ tiếp nối Phật), thì gọi là tượng "Nhất Phật nhị Tôn giả".
- Nếu tượng Thích Ca ở giữa hai Bồ tát Văn Thù và Phổ Hiền, thì gọi là Hoa Nghiêm Tam thánh, bởi hai vị đại Bồ tát này được viết đến trong kinh Hoa Nghiêm.

Phật Niêm Hoa "Niêm hoa vi tiếu" là một giai thoại Phật giáo, đặc biệt trong Thiền tông, coi truyền pháp vô ngôn, lấy tâm truyền tâm.

Theo truyền thuyết, khi ấy tại núi Linh Thứu, khi Phật Thích Ca giảng pháp trước các đệ tử, Phật không nói gì. Đó là bởi pháp vốn Vô ngôn, không nói thành lời, cũng không lập văn tự, tự người ta phải tìm hiểu.

Do đó Phật cầm một cành hoa - hoa gì không rõ - đưa lên (niêm hoa). Các đệ tử không ai hiểu, chỉ có mình Ca Diếp mỉm cười (vi tiếu). Phật thấy Ca Diếp thấu được, nên truyền Chính pháp cho Ca Diếp, về sau khi Phật viên tịch thì Ca Diếp tiếp nối, trở thành Sơ tổ của các phái. Truyền thuyết này gọi là Thế tôn niêm hoa, Ca Diếp vi tiếu.

Tại chùa Việt Nam, hình ảnh Thích Ca cầm cành hoa sen bằng tay phải đưa lên trở thành quen thuộc, thể hiện sự thuyết pháp tâm truyền tâm thuộc Thiền tông. Do đó bên cạnh Tịnh độ Tông (tôn thờ A Di Đà), Thiền tông cũng có mặt trên bàn thờ.




Tượng A Di Đà to nhất, to quá nên phải ngồi sau cùng, đến tượng Tam thế, rồi tượng Thích Ca thuyết pháp.
(Chùa Vĩnh Khánh, Hải Dương)



Trong bộ Nhất Phật nhị Tôn giả, Phật Thích Ca ngồi giữa Ca Diếp và A Nan, là hai đại đệ tử của ngài; thì hai Tôn giả bao giờ cũng đứng hai bên, trong tư thế thị giả (hầu cận).

Ca Diếp hay Ma Ha Ca Diếp được tôn là Đầu đà đệ nhất, lớn tuổi hơn A Nan, có thể có râu, ria, tóc mai. Theo truyền thuyết, trong quá khứ Ca Diếp đã từng có lần thếp vàng lên một tượng Phật, nên thân mình luôn có ánh vàng, và bản thân ông trước khi xuất gia cũng từng là một thợ kim hoàn. Do đó tượng ông thường có châu ngọc đeo trên mình, để nhắc về xuất thân trước khi thế phát.


Tượng Sơ tổ Ca Diếp chùa Tây Phương



A Nan

A Nan, hay A-Nan-Đà, là em họ của Phật, theo hầu suốt nhiều năm, nghe nhiều nhớ nhiều, nên gọi là Đa văn đệ nhất. Ông nghe và nhớ tất cả những lời Phật nói, thế nhưng chính mình lại không chứng quả đắc đạo, có lẽ vì chuyên tâm phục thị Phật quá.

Khi Phật đã Nhập Niết Bàn rồi, các đồ đệ muốn tổng hợp những lời Phật dạy, thì chỉ có thể là A Nan mới nhớ đủ, thế nhưng ông lại chưa đắc đạo nên ông thấy không thể ngồi cùng hàng ngũ những đồng môn đã đắc đạo. Trong một đêm quyết tâm, ông chứng quả A la hán, dứt hết các lậu hoặc. Và ông tự tin gặp các đồng đạo trong cuộc họp 500 La hán, kết tập Kinh phật lần đầu tiên.

Theo truyền thống, toàn bộ kinh Phật đều là lời của A Nan nói ra, những người khác nghe rồi nếu không có phản đối, thêm bớt nữa, thì trở thành Chính thống. Do đó đoạn đầu của tất cả các bài kinh đều là "Như thị ngã văn" - Tôi nghe như thế này - thể hiện đây là lời A Nan nói lại lời của Phật.

Tượng A Nan trẻ hơn Ca Diếp, thường ôm chồng sách đại diện cho kinh sách mà ông là người đọc lại.


Tượng chùa Tây Phương




Tuyết Sơn Trong nhiều chùa, trên bàn thờ có thể gặp một pho tượng một người cực kì gầy gò, chỉ còn da bọc xương ngồi trong một tư thế khắc khổ. Đó là tượng Tuyết Sơn.

Theo Phật giáo, thì khi thái tử Tất Đạt Đa Cồ Đàm lìa bỏ gia đình đi tìm con đường giải thoát, đã trải qua việc tu học với nhiều vị thầy. Sau đó ông đã tự mình tu tập khổ hạnh trong núi tuyết (Tuyết sơn), mỗi ngày chỉ ăn một hạt vừng, khiến cho thân thể suy kiệt. Tu khổ hạnh là một trong các phương thức tu tập của Bàlamôn nhằm đạt chứng ngộ chân lý thượng đế.

Khi đó Tất Đạt Đa suy kiệt đến mức cùng cực, đúng lúc đó có một thôn nữ mang một bình sữa đi qua, thấy ông đã kiệt sức nên dâng tặng một bát sữa. Tất Đạt Đa nhận ra rằng phương thức tu ép xác khổ hạnh không phải là con đường đúng để đạt tới chính đẳng chính giác.

Ông lập tức từ bỏ phương pháp tu đó, nhẹ nhàng không vương vấn, sau đó thành đạo dưới gốc Bồ Đề, khi đó thành Phật.

Tượng Tuyết Sơn do đó mô tả Tất Đạt Đa khi đang tu khổ hạnh, tức là khi chưa chứng quả, khi còn đang "sai lầm". Do khi đó chưa đạt quả vị Phật, nên tượng Tuyết Sơn không ngồi trên tòa sen.




Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #15
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.206
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian, một trong những pho tượng Tuyết Sơn đẹp nhất, và cũng là pho tượng đẹp nhất chùa Trăm Gian. Chụp bị ngược sáng nên khó nhìn quá, nhưng từ phía này mới thấy được tài năng điêu khắc của các nghệ sĩ dân gian xưa. Các khớp xương, mạch máu nổi lên dưới da, móng tay dài, xương chân tay hiện rõ. Hốc mắt sâu, má hóp... rất đúng giải phẫu.

(Hay thời đó cũng nhiều người gầy thế này quá, chỉ cần túm một ông già ra làm mẫu là đủ ???)




Phật Di Lặc Đối lập với tượng Tuyết Sơn gầy gò da bọc xương, tượng Di Lặc béo tốt hả hê tạo thành một cặp đôi thú vị.

Dân gian, để miêu tả hai pho tượng này đã có câu : "Ông Tu Lo nhịn ăn để mặc, ông Di Lặc nhịn mặc để ăn". Người dân cho rằng tượng Tuyết Sơn là Phật tu nhưng vì lo lắng quá, nên gọi là Tu Lo.

Di Lặc là vị Phật tương lai, gọi là Đương Lai Hạ Sinh Di Lặc Phật. Hiện tại, ngài vẫn là một vị bồ tát, tên là Từ Thị bồ tát. Trong tương lai, vào thời mạt pháp, ngài sẽ thành Phật hiển thị để giáo hóa, cũng như Thích Ca Mâu Ni đã giáo hóa hơn hai nghìn năm trăm năm trước.

Người TQ, VN hình tượng hóa Di Lặc là một vị Phật béo tốt hả hê, an lạc sung sướng. Có trường hợp là quanh Di Lặc có 6 đứa trẻ níu kéo, tượng trưng cho 6 giặc, tức Lục căn (mắt mũi tai lưỡi thân ý), những thứ làm người ta không tĩnh.

Biến thể hơn nữa thì Di Lặc biến thành ông thần béo ị nồi trên đống vàng bạc châu báu, mấy đứa trẻ như lũ con, biến thành vị thần ban của cải và con cái.

Tượng Di Lặc chùa Tây Phương, một pho tượng Di Lặc cổ. Các tượng Di Lặc thường được tạc gần đây, ít pho tượng cổ lắm. Như cái lưng trắng trắng ngồi trước tượng Tuyết Sơn chùa Trăm Gian trong ảnh trên cũng là tượng Di Lặc.




Di Lặc tam tôn Nhiều chùa hiện nay hay bày tượng Tuyết Sơn và Di Lặc ở hai bên một pho tượng khác (tượng Quan Âm Chuẩn Đề), một bên béo một bên gầy.

Thực ra bày như thế là không phù hợp, vì hai vị Phật lại ngồi hai bên Bồ tát là không hợp lý. Phật Di Lặc phải ngồi ở giữa, hai bên có hai bồ tát thì mới đúng.

Khi Di Lặc ngồi giữa, thì có hai bồ tát là Pháp Hoa Lâm và Đại Diệu Tường đứng hai bên, tạo thành bộ Di Lặc tam tôn.

Pháp Hoa Lâm chính là bồ tát Phổ Hiền, bậc Đại trí, tượng trưng cho Trí - Tuệ - Chứng; Đại Diệu Tường chính là bồ tát Văn Thù, bậc Đại định, tượng trưng cho Lý - Định - Hành. (Nhiều tài liệu trên mạng copy lại nhau, Đại Diệu Tường sau một hồi thì thành Đại Diện Tướng, hic).



.
Tượng chùa Tây Phương:
Bên trái là bồ tát Đại Diệu Tường, tượng trưng cho Định, Hành nên hai tay nắm chặt, bắt ấn mật phùng.
Bên phải là bồ tát Pháp Hoa Lâm, hai tay chắp lại theo ấn Hiệp chưởng, tượng trưng cho Tuệ, Chứng.

(Trong chùa Tây Phương bị đảo vị trí một số tượng, nên hai pho này hiện giờ chỉ có Pháp Hoa Lâm đứng đúng chỗ, Đại Diệu Tường bị đảo chỗ gây nhầm lẫn).




Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #16
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.206
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Phổ Hiền - Văn Thù bồ tát Phổ Hiền và Văn Thù là hai Đại bồ tát, được nói đến nhiều trong kinh Hoa Nghiêm. Nếu như Quán Thế Âm và Đại Thế Chí là hai bậc Đại Bi, Đại Dũng; thì Phổ Hiền là Đại Trí và Văn Thù là Đại Định.

Tượng Phổ Hiền và Văn Thù có hai dạng đứng và ngồi. Tượng hầu hai bên Phật Thích Ca thường là tượng đứng, đầu đội mũ Tỳ Lư, tay bắt ấn hoặc cầm các pháp khí, tương đối giống nhau, cũng như tượng Quán Thế Âm và Đại Thế Chí đứng hai bên phật A Di Đà vậy.

Còn khi tượng ngồi, thì Bồ tát Phổ Hiền cưỡi trên voi trắng sáu ngà, tượng trưng cho việc chế ngự được chướng ngại của Trí tuệ để đến chỗ Đại Chứng, sáu ngà là thắng lục căn. Bồ tát Văn Thù cưỡi trên sư tử xanh, tượng trưng cho việc thắng trở ngại để hành đại định.

Vào các chùa miền bắc, hình tượng hai vị Bồ tát cưỡi trên lưng thú thì chắc chắn là Phổ Hiền và Văn Thù.


Tượng chùa Bút Tháp: Phổ Hiền cưỡi voi trắng và Văn Thù cưỡi sư tử (sơn màu gụ chứ không phải màu xanh như truyền thống).



Tượng Bồ tát Phổ Hiền và Văn Thù đứng ở chùa Bà Đá



Thích Ca Sơ Sinh Một trong những pho tượng quan trọng nhất mà chùa nào cũng có, đó là tượng Thích Ca Sơ Sinh.

Về truyền thống lịch sử, thì có bốn thời điểm quan trọng nhất của cuộc đời vị Phật Lịch sử: Đản Sinh - Thành Đạo - Chuyển Pháp Luân - Nhập Niết Bàn;

Đản Sinh: Bà hoàng Ma Gia sinh thái tử Tất Đạt Đa tại vườn Lâm Tỳ Ni cách đây 2552 năm. Nơi đó thuộc Nepal ngày nay, là coi là thánh địa Phật giáo quốc tế.

Thành Đạo: Thái tử Tất Đạt Đa giác ngộ Chính đẳng chính giác dưới cội bồ đề khi 35 tuổi, trở thành Phật. Nơi đó ngày nay là Bồ Đề Đạo Tràng, cũng là thánh địa Phật giáo quốc tế.

Chuyển Pháp Luân: Phật Thích Ca lần đầu thuyết pháp, bánh xe pháp từ đó được vận hành. Nơi đó là Lộc Uyển (vườn nai).

Nhập Niết Bàn: Sau 45 năm du hành thuyết pháp, năm 80 tuổi Phật Thích Ca qua đời tại rừng Bà La Song Thọ. Theo niềm tin Phật giáo, Thích Ca đã dời Dư ý Niết bàn để vào cõi Vô dư ý Niết Bàn, nên gọi là Nhập Niết Bàn.

Ngày lễ Vesak, gọi là lễ Tam hợp gồm Đản Sinh, Thành Đạo, Nhập Niết Bàn được cho là cùng vào tháng 4 lịch mặt trăng (tháng này tên là Vesak theo lịch Ấn Độ). Lễ Quốc tế này năm nay được tổ chức tại Việt Nam, ngày mai (14/5) sẽ chính thức khai mạc.

Bốn thánh địa Phật giáo đó search trên Google Earth, tớ đã đưa trong topic Du lịch bằng Google Earth

Tòa Cửu Long Theo truyền thuyết, khi mới sinh ra, Tất Đạt Đa Cồ Đàm đi 7 bước, dưới chân nở ra 7 đóa hoa sen đỡ chân, một tay chỉ lên trời, một tay chỉ xuống đất, nói rằng : "Thượng thiên hạ địa, duy ngã độc tôn" (trên trời dưới đất, ta là tôn quý nhất). Câu này là theo truyền thống người ta ghi thế, chứ chả có kinh sách nào nói vậy. Tôi cũng tin rằng chẳng khi nào Phật lại nói một câu như thế, mà do người đời sau tôn sùng quá nên gán cho Phật.

Lại theo niềm tin tôn giáo, khi đó có 9 con rồng phun nước tắm cho Phật sơ sinh, các tầng trời mở ra và chư thiên cùng mừng rỡ, các cõi Phật trong quá khứ hoan hỉ. Phạm Thiên (Brahma) và Đế Thích (Indra) phát tâm nguyện hỗ trợ cho ngài.

Ở Việt Nam, hình tượng này được tạo thành một tòa gọi là Cửu Long, có 9 đầu rồng hiện ra xung quanh tượng Thích Ca Sơ Sinh. Tùy chùa mà tòa Cửu Long to hay nhỏ, cầu kì hay không. Tòa lớn thì đủ 9 rồng, vô số thần thánh, chư phật ở xung quanh. Chùa nhỏ thì sơ sài đơn giản. Tòa Cửu Long thường đặt ngay sau hương án chính, ở tầng thấp nhất, bên dưới các bộ Tam tôn.


Tòa Cửu Long chùa Bà Đá



Như viết ở phần đầu, Chính điện chùa miền Trung và miền Nam - theo tôi biết - không bày hệ thống tượng như chùa miền Bắc, thường là ít tượng hơn rất nhiều, chỉ có một vài pho tượng rất lớn thôi. Một số tượng khác có thể bày rải rác ở các nơi, nhưng không để tại chính điện.

Chùa Vĩnh Nghiêm là một ngôi chùa mang tên tòa Tổ đình miền Bắc - chùa Vĩnh Nghiêm ở Bắc Giang. Tổ khai sơn của chùa là HT Thích Thanh Kiểm, đệ tử của HT Thích Thanh Hanh, Thiền gia Pháp chủ đầu tiên của Phật giáo Miền Bắc. Chùa Vĩnh Nghiêm đầu tiên là dựng cho những người miền Bắc vào Nam, do đó để vọng về Bắc. Câu đối ở ngay cổng chùa nói rõ điều đó, bàn thờ phía trước của chùa cũng có 4 cảnh đặc trưng của Hà Nội: Văn Miếu, chùa Một Cột, cầu Thê Húc, tháp Rùa.

Chính điện chùa Vĩnh Nghiêm - Sài Gòn


Tuy vậy, chính điện chùa không giống các chùa truyền thống miền Bắc, mà là phong cách miền Nam. Trong chính điện có Di Đà Tam tôn rất lớn, phía trước có tòa Cửu Long nho nhỏ. Pho tượng đá trắng theo phong cách Miến điện mới được thêm vào sau này. Các hệ thống Tam thế, Niêm hoa, Hoa nghiêm tam thánh, Di lặc tam tôn, Dược sư tam tôn, Quan Âm nghìn tay, Đức ông, Thánh hiền, Kim cương... đều không có. Bên ngoài có đắp nổi hai tượng Hộ pháp, chứ cũng không làm tượng.

Nói chung các chùa miền Nam thường làm một số ít tượng lớn, hơn là nhiều pho tượng bày thành nhiều tầng llớp cao và sâu như chùa miền Bắc.

Phạm Thiên - Đế Thích Theo truyền thuyết Phật giáo, khi Thích Ca Đản sinh, các tầng trời hào quang chiếu sáng, Phạm Thiên và Đế Thích đều xuống hộ pháp.

Phạm Thiên tức là Brahma, đấng đầu tiên trong Thượng đế Tam thể hợp nhất (Trimuty) của Ấn Độ giáo, gồm Brahma, Vishnu, Shiva. Brahma là đấng Sáng Tạo ra thế giới, bản thân Thế giới cũng chính là Đại ngã Brahma. Như thế Brahma là Tối cao vô thượng, là Khởi thủy nguồn cội, là bản thể của thế giới.

Nhưng Phật giáo lại cho rằng Thế giới vận động theo luật nhân quả, không phải do đấng nào sáng tạo ra cả. Brahma chỉ là vị Đại thiên thần được sinh ra trước hết trong 1 chu kì thế giới này, nên tưởng rằng mình là Sáng tạo thế giới, là chủ thế giới, nhưng thực ra cũng chỉ là một trong số chúng sinh, dù cao quý hơn hẳn nhưng cũng không phải vĩnh cửu, không phải Thượng đế, Brahma cũng nằm trong vòng sinh tử luân hồi, cũng chịu luật Nhân quả, có sinh và cũng có diệt. Vũ trụ này có sinh rồi cũng có diệt, và Brahma cũng thế.

Đế Thích tức là thần Indra, Vua của các thần linh Ấn Độ giáo, vị thần làm ra mưa và sấm sét. Theo Phật giáo thì Indra cũng chỉ là một vị Thiên, vua cõi trời Đao Lợi, cũng nằm trong cõi Ta Bà.

Phạm Thiên và Đế Thích, như vậy là hai vị Thiên cao nhất, phát tâm phù hộ Phật, bảo vệ cho giáo pháp, chứ không phải là Phật, và cũng không phải là tối cao vô thượng, thường hằng vĩnh viễn.

Trong chùa, tượng Phạm Thiên và Đế Thích có thể được đặt hai bên tòa Cửu Long. Hai vị này là vua của cõi Dục giới, và cõi trời, là cao nhất trong bậc Chư Thiên, nên được tạc dưới hình thức các vị vua, và là vua rất Việt Nam !!!

Tượng Phạm Thiên và Đế Thích hai bên tòa Cửu Long, chùa Vĩnh Khánh





Hai vị Thiên có râu ria, đi hia, mặc áo long bào, đội mũ bình thiên như y phục của các tượng vua, tay chắp lại, cầm hốt hoặc dấu vào trong áo, ngồi trên ngai. Đây là hình tượng chung của các tượng thần tượng thánh trong đình, đền, miếu,...

Một số chùa khác thì hai bên tòa Cửu Long không phải Phạm Thiên, Đế Thích, mà là Văn Thù, Phổ Hiền. Văn Thù và Phổ Hiền có thể là ngồi hoặc đứng.

Tượng Văn Thù và Phổ Hiền ngồi trên tòa sen hai bên tòa Cửu Long, chùa Liên Phái, một trong những chùa Tịnh Độ Tông đầu tiên.



Còn chùa Bà Đá thì hai pho Văn Thù, Phổ Hiền đứng hai bên Cửu Long rất lớn.
(Đằng sau là Thích Ca Niêm hoa, phật A Di Đà, đứng hai bên còn Quán Thế Âm, Đại Thế Chí, và trên tít cao là Tam Thế)








Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #17
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.206
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Thành đạo

Thành đạo

Xuất gia năm 29 tuổi, sau 6 năm tu khổ hạnh trong Tuyết Sơn rồi rời bỏ lối tu đó, vào rằm tháng 4, dưới cội Bồ đề, Tất Đạt Đa Cồ Đàm chứng quả, thành Phật.

Hình ảnh Phật thành đạo thường gắn với cội bồ đề, khi đó tượng ngồi xếp bằng, hai tay để trên chân trước bụng, giống tượng A Di Đà. Bức tranh vẽ Thích Ca thành đạo dưới gốc Bồ đề rất phổ biến, được in và treo khắp nơi. Truyền thống Nguyên Thủy như ở Lào, Thái, Cam, Miến, thì tượng Phật thành đạo lại có con rắn Naga 7 đầu che bên trên.

Chùa cổ miền Bắc không chùa nào có tượng Phật thành đạo ngồi dưới gốc cây bồ đề cả, dưới rắn Naga thì càng không, vì như thế sẽ không còn chỗ cho các tượng khác bày phía sau. Chùa miền Trung, miền Nam thì nhiều chùa lấy hình tượng này làm chủ yếu trong chùa.


Tượng Thích Ca Thành đạo, con rắn che trên đầu tại Thiền viện Vạn Hạnh ở Đà Lạt, dù không phải theo phái Nguyên Thủy Khmer.



Tuy vậy, ở một ngôi chùa cổ miền Bắc truyền thống cũng có thể đặt tượng Thích Ca Thành đạo, nếu tượng đó không phải để ở chính điện. Tượng Thích Ca thành đạo thường là khoác một tấm áo vắt từ vai phải sang vai trái. Theo đúng thì phải là để trần tay phải và vai phải, thế nhưng có lẽ do để dễ làm và tạo hình đơn giản hơn, nên tấm vải phủ cả hai vai.

Như pho tượng đồng nặng vài tấn này, đặt ở dưới một gốc cây cổ thụ. Giá như được cây Bồ đề thì tốt, nhưng ở đây không có sẵn bồ đề cổ thụ, nên cây muỗm này cũng đẹp vậy.

(chùa Vạn Niên ở Tây Hồ).




Bồ đề

Cây Bồ đề có tên là gì trước khi đạo Phật ra đời, có lẽ cũng không cần nhớ. Chỉ biết rằng khi Tất Đạt Đa Cồ Đàm thành đạo dưới gốc cây này, đạt được trạng thái Giác ngộ, thì loài cây ấy cũng được gọi là cây Giác ngộ, Bodhi trong tiếng Phạn, phiên âm thành Bồ đề. Nơi đó cũng gọi là Bồ đề đạo tràng, và cây đó thành cây thiêng liêng.

Cây bồ đề cội nguồn thiêng liêng nơi Phật thành đạo đã bị chết vài lần, cả tự nhiên lẫn bị đốn hạ. Tuy vậy trước khi chết thì con cháu của cây tổ đã được nhân giống khắp nơi, trong đó lần nhân giống được ghi nhận quan trọng nhất là truyền sang Srilanka, thế kỉ 2 TCN, để rồi từ đó lại đem nhánh về trồng tại cây tổ khi cây tổ bị chết do người Ấn giáo triệt hạ.

Năm 1959, khi sang thăm Việt Nam, tổng thống Ấn Độ Prasat có tặng hai gốc Bồ đề được chiết từ cây tại Bồ đề Đạo tràng. Một cây trồng tại chùa Trấn Quốc, một cây tại chùa Một Cột. Sau 50 năm, hai cây đều khá to.

Cây tại chùa Trấn Quốc.




Nhập Niết Bàn Cùng với Đản Sinh, Thành Đạo, thì sự kiện Nhập Niết Bàn của Phật Thích Ca cũng được cho là xảy ra đúng rằm tháng Tư, nên mới là Tam hợp. Sau 45 năm du thuyết khắp phía bắc Ấn Độ, Thích Ca đã 80 tuổi, nhưng vẫn đi và khất thực, nhận thức ăn từ những người cúng dường. Theo suy đoán của một số tài liệu mang tính lịch sử, thì bữa ăn cuối của Phật không được lành, món nấm bị hỏng nên làm độc nên Phật - khi đó thân thể đã quá già yếu - đã không qua được giai đoạn cuối đối với thể xác đó là Tử (Sinh - Lão - Bệnh - Tử).

Theo Phật giáo, thì khi Thành đạo thì Phật đã đạt Niết Bàn rồi, nhưng đó là Dư ý Niết Bàn, vẫn còn thể xác ở lại cõi Sa Bà (Ta Bà) để giáo hóa. Khi trút bỏ thể xác, thì Phật vào Vô dư ý Niết Bàn. Khi đó Phật nằm nghiêng về bên phải, những đệ tử đi theo vây xung quanh, nơi đó nằm giữa 8 cái cây, mỗi phía 2 cây.

Các đệ tử đã hỏa táng di thể theo đúng truyền thống thời đó. Hỏa táng xong thì xuất hiện các Xá Lị, là những thứ cứng rắn hơn tất thảy, không thể bị hủy hoại. Xá lị Phật do đó là vật quý hơn tất thảy các vật thể trên thế gian. Các Xá lị này đã được các vị vua phía Bắc Ấn thời đó chia nhau đưa về các nơi để lập tháp (Stupa) thờ cúng. Cho đến tận ngày nay vẫn còn nhiều nơi được cho là đang giữ Xá lị Phật thực sự, như Đại tháp Sanchi ở Ấn, That Luang ở Lào, Swedagone ở Miến, chùa Nhạn Tháp ở TQ...

Sự thật và bản chất Xá lị của các vị sư về sau cũng còn là điều chưa giải thích được, nằm trong tấm màn huyền bí tôn giáo.
Tượng Phật nhập Niết Bàn xuất hiện ở rất nhiều chùa, là pho tượng nằm nghiêng về bên phải, tay phải đỡ đầu, tay trái xuôi theo thân. Dù thực tế lúc này Phật đã là một ông già 80 tuổi, nhưng các tượng đều mang một dáng vẻ chung của một bậc Phật: không tuổi tác, thậm chí là phi giới tính (vì vào cõi Vô sắc giới đã không còn giới tính nữa rồi).

Tượng Niết Bàn chùa Mía là một trong những pho tượng cổ đẹp nhất, phiên bản trong Bảo tàng Mỹ thuật.








Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Cũ 31-12-2009   #18
Ảnh thế thân của Anhhungxalo
Anhhungxalo
-=[ Lâu La ]=-
Gia nhập: 07-10-2003
Bài viết: 67
Điểm: 11
L$B: 8.206
Tâm trạng:
Anhhungxalo đang offline
 
Phật Dược Sư

Phật Dược Sư

Phật Dược Sư được nhắc đến nhiều, và có cả bộ kinh Dược Sư. Tuy vậy, tượng Dược Sư rất hiếm xuất hiện trên chính điện. Trong những nơi tôi đến, mới thấy duy nhất có 1 chùa có tượng Dược Sư trên bàn thờ chính, được xếp cùng với A Di Đà, Thích Ca.

Phật Dược Sư, hay Dược Sư Lưu Ly Quang Vương Phật, Dược Sư Lưu Ly Quang Như Lai, Đại Y Vương Thiện Thệ Phật là vị phật Giáo chủ của cõi Đông phương Lưu Ly Tĩnh thổ, có vai trò giống như cõi Tây phương Cực Lạc Tịnh độ của phật A Di Đà, tuy vậy có lẽ ít nổi tiếng hơn phật A Di Đà.

Phật Dược Sư có hình tượng như một Thầy Thuốc, chữa bệnh không phải cho thể xác, mà cho tinh thần con người. Thuốc của phật Dược Sư là để chữa vô minh, tham sân si... Hai bên Phật Dược Sư có hai vị bồ tát là Nhật Quang Biến chiếu và Nguyệt Quang Biến chiếu bồ tát. Nhật Quang thể hiện sự cứu độ vào ban ngày, cũng là tượng trưng cho Căn bản trí; Nguyệt Quang cứu độ vào ban đêm, cũng là Hậu đắc trí. Hai vị thể hiện sự cứu độ mọi lúc mọi nơi của phật Dược Sư.

Bộ ba này vì thế gọi là Dược Sư tam tôn, Đông phương Tam thánh (tương ứng với Di Đà tam tôn là Tây phương Tam thánh, nhưng Di Đà tam tôn được biết đến nhiều hơn).
Pho tượng phật Dược Sư trên chính điện chùa Hòe Nhai (Hồng Phúc tự) ở Hà Nội. Vì chùa có pho tượng phật Dược Sư cổ, nên được coi là chùa thờ phật Dược Sư linh ứng, và các khóa kinh Dược Sư cũng thường được cử hành ở đây.


Chùa Hòe Nhai, tòa Cửu Long với Thích Ca sơ sinh ở giữa. Bồ tát Phổ Hiền cưỡi voi, Văn Thù cưỡi sư tử ở hai bên. Phía sau là phật Dược Sư.



Điều khá đặc biệt của những pho tượng chùa Hòe Nhai là một số tượng Bồ tát và cả tượng Phật đều đầu trọc, giống các Tôn giả. Thường tượng Phật có tóc xoắn trên đầu, bồ tát đội mũ, nhưng ở đây đầu trọc cả.

Ngoài ra chùa cũng có bộ tượng kép "Vua đội Phật" nổi tiếng, mà sẽ nói sau.


Chữ ký của Anhhungxalo

Tài sản của Anhhungxalo
Trả lời kèm theo trích dẫn
Trả lời

Tags
chùa đất việt


Quyền sử dụng
Huynh đệ không được phép tạo chủ đề mới
Huynh đệ không có quyền gửi bài trả lời
Huynh đệ không được phép gửi file-gửi-kèm
Huynh đệ không được phép sửa bài của mình

BB code is Mở
Smilies đang Mở
[IMG] đang Mở
HTML đang Tắt
Chuyển nhanh đến:

 
Copyright © 2002 - 2010 Luongsonbac.club
Thiết kế bởi LSB-TongGiang & LSB-NgoDung
Loading

Múi giờ tính theo GMT +7. Hiện giờ là 21:14
vBCredits v1.4 Copyright ©2007 - 2008, PixelFX Studios
Liên hệ - Lương Sơn Bạc - Lưu trữ  
Page generated in 0,14631 seconds with 15 queries