Quyển 1
Chương 08
HOẰNG CHÂN, CHIÊU VĂN VÀ LÝ KẾ NGUYÊN
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Đầu năm 1076, ngay sau khi đại phá quân Tống ở Châu Ung, Châu Khâm và Châu Liêm trở về, Lý Thường Kiệt đã lập tức bố trí lực lượng quân đội ở những vị trí hiểm yếu nhất, sẵn sàng đón đánh quân Tống, nếu chúng dám liều lĩnh tràn sang. Toàn bộ lực lượng bộ binh do Lý Thường Kiệt trực tiếp chỉ huy, nhưng tất cả thủy binh đều do Hoằng Chân, Chiêu Văn và Lý Kế Nguyên cầm đầu(2). Bấy giờ, thủy binh được bố trí cụ thể như sau:
Đại bộ phận tập trung ở Vạn Xuân, tức là ở khu vực cực đông của chiến tuyến sông Cầu. “Vạn Xuân là một vị trí chiến lược trọng yếu ở vào đầu mối của tất cả các đường thủy vùng đông-bắc. Từ Vạn Xuân, thủy binh ta có thể vượt sông Lục Nam, sông Thương, sông Cầu tiến sâu vào địa bàn vùng đông-bắc, có thể xuôi sông Bạch Dằng, sông Thái Bình ra biển, có thể theo sông Đuống về Thăng Long”(3). Ở đây có khoảng 400 chiến thuyền và hơn 20.000 quân, tất cả đặt dưới sự chỉ huy của Hoằng Chân và Chiêu Văn.
- Một bộ phận thủy binh khác do Lý Kế Nguyên chỉ huy, tiến ra đóng giữ ở vùng duyên hải đông-bắc, sẵn sàng đánh trả đạo thủy binh của nhà Tống. Quân số và phương tiện chiến đấu của bộ phận này cụ thể ra sao, hiện chúng ta vẫn chưa rõ, chỉ biết là nhỏ hơn so với bộ phận thủy binh do Hoằng Chân và Chiêu Văn chỉ huy, nhưng lại đủ lớn để có thể chủ động tổ chức những trận đánh quyết liệt với đạo thủy binh của giặc.
Ngày 8-1-1077, bộ binh giặc vượt ải Nam Quan để tiến vào lãnh thổ nước ta. Ngày 18-1-1077, giặc đã áp sát vùng bờ bắc sông Cầu và tại đây, cuộc tấn công của chúng bị chặn đứng. Quân Tống không sao vượt nổi chiến tuyến sông Cầu. Mọi mưu toan và cố gắng của chúng đều bị đánh bại.
Ở bờ bắc sông Cầu, quân Tống đành phải chia làm hai khối lớn, lập trại đóng giữ để chờ thủy binh. Khối thứ nhất do phó tướng Triệu Tiết cầm đầu, đóng ở bờ bắc bến Như Nguyệt(4). Khối thứ hai do chánh tướng Quách Quỳ chỉ huy, đóng cách Triệu Tiết khoảng 15 cây số về phía đông. Chúng nôn nóng chờ đợi đạo thủy binh, vì chỉ khi nào có thêm thủy binh, chúng mới có thể tiến hành vượt sông Cầu một cách thuận lợi. Nhưng, thủy binh của chúng lại không sao có thể đến được.
Tại miền duyên hải đông bắc, tướng Lý Kế Nguyên đã lập công lớn. Ông đã chỉ huy thủy binh, chặn đứng giặc ở Vĩnh An, kế hoạch cấp tốc hành quân để hỗ trợ cho bộ binh của chúng bị thất bại. Từ Vĩnh An, giặc điên cuồng mở đường máu để tiến vào châu thổ nước ta, nhưng, cả mười trận liều lĩnh đều bị đánh bại cả mười. Toàn bộ thủy binh giặc buộc phải cụm lại ở cửa sông Đông Kênh. Khi bộ binh nóng lòng mong tin thủy binh thì thủy binh bị bao vây và cũng nóng lòng mong tin bộ binh.
Chiến công của Lý Kế Nguyên có ý nghĩa rất to lớn đối với thắng lợi chung của toàn bộ cuộc kháng chiến chống Tống. Việc chặn đứng và vô hiệu hóa lực lượng thủy binh giặc ở Vĩnh An đã khiến cho mưu đồ chung của Quách Quỳ và Triệu Tiết bị sụp đổ. Từ đây, đại binh của nhà Tống lâm vào thế bế tắc và khủng hoảng ngày càng nghiêm trọng. Kế hoạch vượt sông Cầu không sao thực hiện được. Những mục tiêu lớn đặt ra cho cuộc viễn chinh cũng không sao có thể thực hiện được. Trong lúc đó, lương ăn của giặc ngày một cạn, khí hậu nóng bức ngày một đến gần, bệnh dịch cũng bắt đầu xuất hiện. Đúng vào lúc quân Tống ở vào thế khủng hoảng, khốn quẫn như vậy thì Lý Thường Kiệt hạ lệnh phản công. Trận quyết chiến chiến lược Như Nguyệt bắt đầu.
Người mở đầu cho trận đánh lịch sử này chính là Hoằng Chân và Chiêu Văn. Từ Vạn Xuân: Hoằng Chân và Chiêu Văn đã bất ngờ cho quân ngược sông Cầu, ồ ạt tấn công vào doanh trại của Quách Quỳ. Thủy binh của ta vừa đánh vừa phô trương thanh thế, cốt tập trung sự chú ý của giặc. Sau cơn hốt hoảng, Quách Quỳ dốc toàn lực để đánh trả. Khối quân của Triệu Tiết cũng vội vã dồn về để trợ chiến. Giặc rất hí hửng, bởi chúng muốn vượt sông Cầu để tìm diệt quân chủ lực của ta, nhưng không sao vượt được thì giờ đây, chính quân chủ lực của ta đã xuất hiện ngay ở bờ bắc sông Cầu. Một trận ác chiến đã diễn ra. Và trong trận ác chiến này cả Hoằng Chân và Chiêu Văn đều anh dũng hi sinh. Hai vị Hoàng Tử không còn nữa, nhưng cuộc chiến đấu của họ đã tạo điều kiện cho đại binh của Lý Thường Kiệt dễ dàng vượt sông Cầu. Khi đại binh ta tiến sang bờ bắc một cách an toàn và đánh quyết liệt, Quách Quỳ và Triệu Tiết chỉ còn biết hốt hoảng tháo chạy. Quá nửa quân số của giặc bị giết.
Như Nguyệt là một trong những trận quyết chiến chiến lược lừng lẫy của lịch sử dân tộc ta. Thắng lợi của trận quyết chiến chiến lược này đã đập tan hoàn toàn mưu đồ xâm lược của nhà Tống, bảo vệ vững chắc độc lập và chủ quyền của nước nhà. Thắng lợi này gắn liền với tên tuổi kiệt xuất của Lý Thường Kiệt và của các vị danh tướng đương thời. Trong số các vị danh tướng ấy có Lý Kế Nguyên, Hoằng Chân và Chiêu Văn. Nếu Lý Kế Nguyên đã có công đập tan âm mưu phối hợp giữa thủy binh với bộ binh giặc, thì hai vị Hoàng Tử, cũng là hai vị danh tướng Hoằng Chân và Chiêu Văn vừa có công tiêu diệt một phần sinh lực giặc, vừa có công thu hút sự chú ý của giặc tạo điều kiện cho đại binh ta có thể vượt sông để đánh trận quyết định với kẻ thù. Phải là bậc dũng tướng mới có thể làm những việc như Hoằng Chân và Chiêu Văn đã làm. Phải là đấng giàu mưu lược mới có thể đủ khả năng đảm trách nhiệm vụ nặng nề như Hoằng Chân và Chiêu Văn đã đảm trách. Tên tuổi của họ xứng đáng vĩnh tồn với non sông.
________________________________
1. Xin tham khảo thêm Đại Việt sử lược, bản dịch của Nguyễn Gia Tường, Nguyễn Khắc Thuần hiệu dính và viết lời bạt. Nxb Tp. Hồ Chí Minh 1993.
2. Xin tham khảo thêm phần viết về Lý Thường Kiệt.
3. Phan Huy Lê (chủ biên): Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc. Nxb QĐND. Hà Nội. 1976, trang 46.
4. Nay là xã Mai Đình, huyện Hiệp Hòa, tỉnh Hà Bắc.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 21-12-2009 lúc 12:42.
Quyển 1
Chương 09
TRẦN THỦ ĐỘ (1194 - 1264)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
1. VÀI DÒNG VẮN TẮT VỀ CUỘC ĐỜI
Trần Thủ Độ tuy không phải là vua, nhưng, chính ông là người đã biết triệt để lợi dụng sự tàn tạ không cách gì có thế cứu vãn nổi của triều Lý để rồi khôn khéo chuẩn bị cả về dư luận và tổ chức, đưa họ Trần lên nắm giữ vũ đài chính trị kể từ năm 1226. Ông là người có công khai sinh ra triều Trần, có công củng cố địa vị và quyền lực của triều Trần, có công trong sự nghiệp giữ nước... nhưng, dẫu cẩn trọng sưu tầm tất cả những ghi chép tản mạn của sử cũ, chúng ta cũng chỉ có thể có được những dòng rất vắn tắt về lí lịch cuộc đời của ông mà thôi.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư cho hay, Trần Thủ Độ là chú họ của vua Trần Thái Tông. Trần Thái Tông là con của Trần Thừa. Trần Thừa là con Trần Lý. Và, Trần Lý là con của Trần Hấp. Sách trên cũng cho hay, về sau, Trần Thủ Độ lấy con gái của Trần Lý là Trần Thị Dung, lại nói Trần Thị Dung vốn là chi họ của Trần Thủ Độ, như vậy cũng có thể suy ra rằng, Trần Thủ Độ là con một người em nào đó của Trần Lý và là cháu nội của Trần Hấp. Nói khác hơn, tuy chỉ hơn vua Trần Thái Tông 24 tuổi nhưng Trần Thủ Độ là vai ông chú chứ không phải chỉ là vai chú của vua Trần Thái Tông.
Trần Thủ Độ sinh năm Giáp Dần (1194) tại làng Lưu Xá, phủ Ngự Thiên (nay là xã Canh Tân, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình), mất năm Giáp Tí (1264), hưởng thọ 70 tuổi. Thời trai trẻ, Trần Thủ Độ kiếm sống bằng nghề chài lưới. Ông lớn lên đúng vào lúc cơ đồ của họ Lý đổ nát ngày một nhanh chóng. Nội chiến xẩy ra triền miên, vua Lý không còn khả năng điều khiển đất nước, thậm chí, không còn cả khả năng điều khiển hoạt động của triều đình. Hoàng tộc hoang mang. Thái Tử của nhà Lý lúc bấy giờ là Lý Hạo Sảm phải bỏ cả hoàng thành mà chạy trốn. Năm Kỉ Tị (1209), Lý Hạo Sảm chạy đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp (nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình ).
“Hoàng Thái Tử (Lý Hạo Sảm) chạy đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp, nghe tiếng con gái của Trần Lý (là Trần Thị Dung - NKT) có nhan sắc đẹp, bèn lấy làm vợ”(1).
Năm ấy, Lý Hạo Sảm mới 15 tuổi. Bởi cuộc hôn nhân này, họ Trần giàu có ở Hải Ấp bắt đầu tham gia chính sự. Trần lý được phong làm Minh Tự Công, còn em vợ của Trần Lý là Tô Trung Từ được phong làm Điện Tiền Chỉ Huy Sứ. Tháng 3 năm Canh Ngọ (1210), khi Trần Lý bị chết trong loạn lạc con của Trần Lý là Trần Tự Khánh được phong làm Thuận Lưu Bá và chỉ hơn một năm sau thì được phong làm Chương Thành Hầu(2). Vào tháng chạp năm Bính Tí (1216), đến lượt anh trai của Trần Tự Khánh là Trần Thừa(3)được phong làm Nội Thị Phán Thủ. Khi Trần Tự Khánh mất, Trần Thừa được phong làm Phụ Quốc Thái Úy, được phép vào chầu vua Lý mà không phải xưng tên.
___________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 4, tờ 26-a)
2. Tháng chạp năm Quý Mùi, Trần Tự Khánh mất, được nhà Lý truy phong làm Kiến Quốc Đại Vương.
3. Trần Thừa là thân phụ của vua Trần Thái Tông. Sau, Trần Thừa được tôn làm Thượng Hoàng.
Hiện tại, chúng ta chưa biết Trần Thủ Độ thực sự ra làm quan kể từ lúc nào, nhưng, xét diễn biến chung của các sự kiện kể từ khi Lý Hạo Sảm chạy về Hải Ấp, thì có thể ước đoán rằng Trần Thủ Độ nhận chức tước của triều Lý gần như đồng thời với Trần Thừa (tức là khoảng năm 1216). Năm 1224, Trần Thủ Độ là quan Điện Tiền Chỉ Huy Sứ, cầm đầu tất cả quân Cấm Vệ của triều đình. Xét về trật tự thứ bậc, đó chưa phải là chức quan có hàm tước thuộc hàng cao nhất, nhưng trong thực tế của thời loạn lạc lúc bấy giờ, đó lại chính là chức có nhiều quyền uy mạnh mẽ hơn cả. Dựa vào quân đội, Trần Thủ Độ đã từng bước nâng cao vị trí của mình và khôn khéo loại dần các thế lực đối nghịch. Từ năm Tân Tị (1221) trở đi, khi mà Lý Hạo Sảm (tức vua Lý Huệ Tông (1211 – 1224) bắt đầu nhuốm bệnh điên, Trần Thủ Độ là người khuynh loát cả triều đình. Nếu các nhân vật khác của họ Trần như Trần Lý, Trần Tự Khánh, Trần Thừa... v.v đã đồng lòng hợp sức, đưa họ Trần lên vị trí của một dòng họ có thế lực mạnh trong triều đình nhà Lý, thì Trần Thủ Độ là người đã đặt nền tảng chắc chắn cho việc đưa họ Trần lên thay họ Lý trị vì thiên hạ. Trong hàng loạt những việc làm khác nhau của Trần Thủ Độ, chúng ta thấy có mấy việc nổi bật sau đây:
- Âm thầm tác động một cách mạnh mẽ và liên tục, khiến vua Lý Huệ Tông nhường ngôi cho thứ nữ là Chiêu Thánh Công Chúa(1) vào tháng 10 năm Giáp Thân (1224). Chiêu Thánh Công Chúa lên ngôi lúc mới được sáu tuổi. Đó là vua Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225).
- Sau khi Chiêu Thánh Công Chúa được tôn lên ngôi vua, lập tức Trần Thủ Độ ồ ạt đưa người của họ Trần vào chiếm giữ các chức vụ thân cận nhất. Sử cũ chép rằng:
“Quan Điện Tiền Chỉ Huy Sứ là Trần Thủ Độ coi giữ tất cả các việc quân cơ trong ngoài. Cháu gọi Trần Thủ Độ bằng chú là Trần Bất Cập được làm Cận Thị Thự Lục Cục Chi Hậu, Trần Thiêm làm Chi Ứng Cục, Trần Cảnh (người về sau làm vua, miếu hiệu là Trần Thái Tông) làm Chính Thủ”(2).
__________________________________
1. Vua Lý Huệ Tông chỉ có hai Công Chúa, đó là Thuận Thiên Công Chúa (sinh vào tháng 6 năm Bính Tí, 1216) và Chiêu Thánh Công Chúa (sinh vào tháng 9 năm Mậu Dần, 1218).
2. Đại việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 4, tờ 32-b và 33-a).
- Ngay sau khi Trần Cảnh được tôn lên ngôi vua, Trần Thủ Độ đã nhanh chóng tiến hành một loạt các biện pháp nhằm củng cố địa vị của họ Trần trên vũ đài chính trị. Thân phụ của Trần Cảnh là Trần Thừa được giao trọng trách điều khiển các việc trong triều còn Trần Thủ Độ thì đích thân đem quân đi đàn áp các thế lực chống đối.
Bấy giờ, tướng Đoàn Thượng chiếm cứ ở mạn Hồng Châu. Đoàn Thượng xưng vương và ngang nhiên chống lại triều Lý từ năm 1212. Đến đây, Đoàn Thượng vẫn tiếp tục chiếm cứ Hồng Châu và đối địch với họ Trần.
Năm 1219, đến lượt Nguyễn Nộn (một cư sĩ người ở Bắc Ninh tỉnh Hà Bắc ngày nay) nổi lên chống triều Lý. Cũng tương tự như Đoàn Thượng, về sau, khi triều Trần được dựng lên. Nguyễn Nộn quyết không chịu thần phục.
Ngoài hai thế lực nói trên, họ Trần còn vấp phải sự chống đối mạnh mẽ của nhiều thế lực khác, đặc biệt là sự chống đối của quý tộc họ Lý dưới nhiều dạng thức và mức độ khác nhau.
- Cũng ngay sau khi Trần Cảnh được tôn lên ngôi vua, Trần Thủ Độ đã áp dụng nhiều biện pháp rất kiên quyết, nhằm nâng quyền lực của họ Trần, triệt để chấm dứt mọi mầm mống của họa loạn và nhanh chóng ổn định tình hình chính trị của nước nhà. Để có cơ sở thực hiện những công việc phức tạp này, đầu năm Bính Ngọ (1226), Trần Thủ Độ tự phong cho mình hàm Thái Sư.
Ngay sau khi nhận hàm Thái Sư, Trần Thủ Độ đã buộc Lý Huệ Tông (lúc này đã đi tu) phải ra ở hẳn trong chùa Chân Giáo(1). Tháng 8 năm 1226, Trần Thủ Độ đã bức tử Lý Huệ Tông, đồng thời, truất ngôi Hoàng Hậu của bà Trần Thị Dung, giáng bà làm Thiên Cực Công Chúa và Trần Thủ Độ đã lấy bà Trần Thị Dung (cũng là chị họ của ông) làm vợ.
Tháng 10 năm 1226, Trần Thủ Độ đã đặt lễ, tôn Trần Thừa làm Thượng Hoàng và bà chính thất của Trần Thừa (người họ Lê, hiện chưa rõ tên ) làm Quốc Thánh Hoàng.
Phần lớn các quý tộc họ Lý có ý chống lại họ Trần đều lần lượt bị Trần Thủ Độ tìm cách thủ tiêu. Đợt thủ tiêu lớn nhất là mùa đông năm Nhâm Thìn (1232) tại thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm. Xã này nay thuộc Bắc Ninh, Hà Bắc(2).
Năm Đinh Dậu (1237), Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường vợ là Thuận Thiên Công Chúa của nhà Lý cũ cho em, cũng chính là vua Trần, dẫu lúc này Thuận Thiên Công Chúa đã có thai với Trần Liễu được ba tháng(3). Chiêu Thánh Công Chúa từ khi nhường ngôi cho Trần Cảnh, đã được Trần Cảnh lập làm Hoàng Hậu, nay bị giáng làm Công Chúa. Ngôi Hoàng Hậu từ đó thuộc về Thuận Thiên Công Chúa.
Trần Thủ Độ là người chủ trương cho con em trong họ Trần lấy nhau. Xét về xuất phát điểm, đây là chủ trương nhằm đề phòng người khác họ lợi dụng hôn nhân để cướp ngôi. Ở một chừng mực nào đó, sự cẩn trọng giữ ngôi là cần thiết, chỉ tiếc là Trần Thủ Độ cùng những người đương thời không thấy hết những tác hại to lớn và lâu dài của chủ trương này.
Ngoài ra, Trần Thủ Độ còn tổ chức lễ thề ở đền Đồng Cổ rất trọng thể. Lễ này vốn có từ thời Lý, được tổ chức lần đầu tiên dưới thời Trần vào tháng 4 năm Đinh Hợi (1227) và được duy trì thường xuyên trong một thời gian khá dài. Trần Thủ Độ muốn thông qua lễ thề để cố kết nhân tâm mà trước hết là trong đội ngũ những người cầm quyền
__________________________________
1. Chùa Chân Giáo ở ngay trong kinh thành Thăng Long, được xây dựng từ tháng 9 năm Giáp Tí (1024), đời vua Lý Thái Tổ (1010 - 1028).
2. Sự kiện này: sách Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 6, tờ 12) chép: “Trần Thủ Độ giết vua Lý Huệ Tông, cho nên, bọn tôn thất nhà Lý phần nhiều đều ấm ức thất vọng. Nhân họ làm lễ tế tổ tiên ở thôn Thái Đường, xã Hoa Lâm, (Trần) Thủ Độ sai người ngầm đào hố sâu, dựng nhà lên trên rồi giật dây cho đổ, chôn sống hết tôn thất nhà Lý”.
3. Đó chính là Trấn Quốc Khang sau này.
- Với tư cách là Thái Sư, Trần Thủ Độ vừa đánh dẹp các thế lực chống đối, vừa chăm lo ổn định tình hình chính trị của nước nhà, lại vừa gấp rút xây dựng guồng máy nhà nước, đủ sức để điều khiển vận mệnh quốc gia. Quá trình lớn này được bắt đầu từ triều đình và kết thúc ở cấp hành chánh cơ sở. Lịch sử trân trọng ghi nhận sự công minh và kiên quyết của Trần Thủ Độ trong hoạt động hết sức khó khăn này:
“Có lần, (Trần) Thủ Độ đi duyệt định hộ khẩu. Quốc Mẫu (chỉ vợ ông là bà Trần Thị Dung - NKT) xin riêng cho một người được làm chức Câu Đương (tên một chức dịch trong xã, chuyên lo việc kiện tụng, bắt và giải người lên quan trên - NKT). Ông gật đầu rồi ghi ngay họ tên, quê quán của người đó. Lúc xét đến xã ấy, (Trần Thủ Độ) hỏi là tên kia ở đâu? Hắn mừng rỡ chạy đến, (Trần) Thủ Độ bảo hắn:
- Ngươi vì có Công Chúa (cũng chỉ bà Trần Thị Dung – NKT) xin cho mới được làm Câu Đương, cho nên không thể ví với (chức Câu Đương) của kẻ khác được. Vậy, ta phải chặt một ngón chân của ngươi để phân biệt với họ.
Người đó kêu than, van xin mãi mới được (Trần Thủ Độ) tha cho. Từ ấy, không một ai dám đến thăm (Trần Thủ Độ) vì việc riêng được nữa.
Có lần, vua (Trần) Thái Tông muốn cho người anh của (Trần) Thủ Độ là An Quốc làm Tể Tướng, (Trần) Thủ Độ tâu:
- An Quốc là anh thần, nếu cho là (An Quốc) giỏi hơn thần thì thần xin trí sĩ, nếu cho thần giỏi hơn An Quốc thì không thể trao cho An Quốc chức ấy. Còn như nếu để cả hai anh em cùng làm Tể Tướng thì công việc của triều đình rồi sẽ ra sao.
Nhà vua nghe vậy bèn thôi”(1).
- Công lao xây dựng bộ luật thành văn cho triều Trần là của những người thuộc thế hệ sau của Trần Thủ Độ, nhưng sinh thời, Trần Thủ Độ đã có đóng góp không nhỏ cho việc ban hành những quy định mang tính pháp luật và ông là người nêu cao tấm gương tuân thủ những quy định mang tính pháp luật đó. Sử cũ đã trân trọng chép vài mẩu chuyện rất cảm động về sự ứng xử trong khuôn khổ phép nước của ông:
“Vua (Trần) Thái Tông lấy được thiên hạ, tất cả đều nhờ ở mưu mẹo và sức lực của ông, vì thế, ông được nhà nước tin cậy, quyền át cả vua. Bấy giờ, có kẻ muốn đàn hặc ông, bèn vào gặp vua (Trần) Thái Tông, vừa khóc vừa tâu rằng:
- Bệ hạ thì còn thơ ấu mà (Trần) Thủ Độ thì quyền át cả vua, xã tác rồi sẽ ra sao?
Vua (Trần) Thái Tông lập tức ra lệnh, lấy xe ngự đến dinh của (Trần) Thủ Độ, bắt cả người đàn hặc kia đi theo, nói lại những lời người ấy đã nói với vua cho (Trần) Thủ Độ nghe. (Trần) Thủ Độ trả lời:
- Quả đúng như lời hắn nói.
(Nói xong), lấy ngay tiền lụa thưởng cho người ấy.
Linh Từ Quốc Mẫu (chỉ vợ của Trần Thủ Độ là bà Trần Thị Dung - NKT) có lần ngồi kiệu đi qua thềm cấm, bị người quân hiệu ngăn lại. Bà về dinh, vừa khóc vừa nói với (Trần) Thủ Độ rằng:
- Mụ này là vợ ông mà bọn quân hiệu dám khinh nhờn đến thế hay sao?
(Trần) Thủ Độ tức giận, sai người đi bắt (tên quân hiệu kia). Người quân hiệu nghĩ là mình ắt phải chết, cho nên khi đến nơi, bị (Trần) Thủ Độ vặn hỏi trước mặt (Linh Từ Quốc Mẫu), hắn cứ tình thực mà trả lời. (Trần) Thủ Độ nghe xong liền nói:
- Ngươi ở chức thấp mà giữ được phép nước, ta còn trách vào đâu được nữa?
Nói xong, lấy vàng và lụa thưởng cho (người quân hiệu ấy) rồi thả cho về(2)
Ở một chừng mực nhất định nào đó, chúng ta cũng có thể nói rằng, Trần Thủ Độ chính là người đã có công khai sinh ra triều Trần, có công tạo ra bước tiến mới cho Đại Việt. Năm ông ngoài sáu chục tuổi, đất nước gặp họa xâm lăng và trong thử thách quyết liệt này, ông vẫn là chỗ dựa tin cậy của triều đình, của quân dân cả nước. Tiếng nói dày dạn kinh nghiệm của lão tướng Trần Thủ Độ là tiếng nói kết tinh khí phách quật cường của dân tộc.
Trần Thủ Độ mất vào tháng giêng năm Giáp Tí (1264), thọ 70 tuổi. Ở buổi đầu của triều Trần, ông là người duy nhất được chính vua Trần lập đền thờ ngay khi đang còn sống. Khi mất ông được triều đình truy tặng hàm Thượng Phụ Thái Sư, tước Trung Vũ Đại Vương.
Như trên đã nói, để tạo lập ngôi vị và bảo vệ quyền lực của họ Trần, sinh thời, Trần Thủ Độ đã thẳng tay trừng trị mọi thế lực chống đối, nhất là thế lực họ Lý. Tuy nhiên, nếu đặt trong cả một bình diện rộng lớn của lịch sử, phần lớn những việc mà Trần Thủ Độ đã làm, không có gì khó hiểu. Rồi cũng với mục đích này, Trần Thủ Độ đã tạo ra mối quan hệ hôn nhân rất xa lạ và do đó rất khó chấp nhận.
Điều không ai có thế nói khác, đó là Trần Thủ Độ đã thành công. Xưa cũng như nay, có người chê Trần Thủ Độ học vấn thấp. Đó chính là điều chưa công bằng. Thời ấy, đỗ đại khoa tuy nhiều nhưng đủ năng lực và ý chí để làm được những việc lớn như Trần Thủ Độ đã làm, nào đã có mấy ai.
_____________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5. tờ 29-a).
2. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 28-b).
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 21-12-2009 lúc 12:50.
Quyển 1
Chương 09
TRẦN THỦ ĐỘ (1194 - 1264) (tt)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
2. TRẦN THỦ ĐỘ - CHỖ DỰA TIN CẬY CỦA TRIỀU ĐÌNH VÀ XÃ TẮC
Năm 1257, sau khi trịnh trọng làm lễ tế cờ, Đại Hãn của Mông Cổ lúc bấy giờ là Mông-kha, lập tức chia quân làm bốn đạo ồ ạt tấn công, quyết chí thôn tính bằng được đất Trung Quốc:
- Đạo thứ nhất do đích thân Mông-kha chỉ huy, đánh vào vùng Tứ Xuyên ngày nay.
- Đạo thứ hai do Hốt-tất-liệt (người về sau được lên nối ngôi Đại Hãn) cầm đầu, đánh vào vùng Hồ Bắc ngày nay.
- Đạo thứ ba do tướng Tô-ga-tra(1) chỉ huy, đánh vào khu vực hạ lưu sông Trường Giang ngày nay.
- Đạo thứ tư do tướng U-ri-ang-kha-đai chỉ huy, từ nước Đại Lý(2) đánh thẳng xuống nước ta, rồi từ nước ta, đánh ngược lên vùng Quảng Tây của Trung Quốc.
Như vậy, cuộc tấn công xâm lược nước ta, ngay từ đầu, đã là một bộ phận trong kế hoạch chung của Mông-kha. Lực lượng của đạo quân thứ tư tuy không lớn như những đạo quân khác nhưng, đối với Đại Việt, đó quả thực là một thử thách lịch sử cam go. Thành bại của cuộc đối đầu này chẳng những tác động trực tiếp đến sự tồn vong của nhà Trần mà còn ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự an nguy của xã tắc.
Bấy giờ, vua Trần Thái Tông đã 40 tuổi, đã trải hơn ba chục năm làm vua, nghĩa là đang ở thời kì sung sức nhất, nhưng, chỗ dựa thực sự vững chắc và đáng tin cậy nhất của triều đình và của đất nước vẫn là Trần Thủ Độ - người chưa từng làm vua nhưng chính là người đã tạo lập và thiết kế nên bộ máy của triều Trần, người hoạch định những kế sánh lớn của triều Trần. Lúc này, Trần Thủ Độ đã ngoài sáu mươi tuổi, nhưng, cơ thể vẫn cường tráng, đầu óc minh mẫn và đặc biệt, chí khí vẫn mạnh mẽ hơn người. Triều đình tin cậy ông và ông cũng luôn luôn tỏ rõ là người xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao đó.
______________________________________
1. Tô-ga-tra là cháu gọi Thành-cát-tư Hãn là bác ruột. Sử cũ thường phiên âm là Tháp-sát-nhi.
2. Tên một vương quốc cổ, nằm ở vùng Vân Nam của Trung Quốc ngày nay. Tướng U-ri-ang-kha-đai thường được sử cũ phiên âm là Ngột-lương-hợp-thai, Ngột-đãi-hợp-thai hay Cốt-đãi-hợp-thai... v.v.
Trước khi cho quân tràn xuống nước ta, U-ri-ang-kha-đai đã nhiều lần phái sứ giả đến Đại Việt, dùng lời lẽ xấc xược và thô bạo, hòng hù dọa để cướp nước ta mà không cần đến binh đao. Nhà Trần chẳng những không chút nao núng mà còn hạ lệnh tống giam sứ giả của giặc, đồng thời, lập tức điều động quân sĩ đến đóng giữ ở những vị trí hiểm yếu nhất.
Chờ mãi không thấy sứ giả trở về, U-ri-ang-kha-đai buộc phải tự mình tìm đường đem quân tiến xuống nước ta(1). Lực lượng của U-ri-ang-kha-đai gồm khoảng ba vạn kị binh và bộ binh, tất cả cùng men theo sông Hồng mà vào nước ta. Cuộc đọ sức lịch sử giữa Đại Việt với quân Mông Cổ bắt đầu.
Ngày 17 tháng 1 năm 1258, một cuộc ác chiến đã diễn ra tại khu vực Bình Lệ Nguyên(2). Vua Trần Thái Tông đích thân chỉ huy trận này.
Vừa tiến vào đã gặp ngay chủ lực của ta, bởi vậy, tướng giặc là U-ri-ang-kha-đai rất hí hửng. Hắn vội chia quân làm ba mũi, quyết bao vây và tiêu diệt lực lượng ta, quyết bắt sống vua Trần. Đây là đất trung du, địa hình rất thuận tiện đối với kị binh Mông Cổ. Bởi lẽ đó, tình thế trở nên rất nguy hiểm cho ta. Vua Trần có ý định dốc toàn lực để đánh trận sống mái với U-ri-ang- kha-đai ở Bình Lệ Nguyên. Ý định đó thể hiện một khí phách rất hiên ngang, một quyết tâm rất cao độ, nhưng, đó cũng là ý định thiếu sự cân nhắc, rất dễ dẫn đến đại bại. Đúng lúc đó, Lê Tần(3) đã kịp thời can ngăn. Theo Lê Tần, trước thế mạnh của giặc, ta phải tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, quyết không cho giặc có thể phát huy được nhuệ khí cũng như sở trường chiến đấu ở vùng trung du. Vua Trần Thái Tông đã đánh giá rất cao ý kiến xuất sắc này của Lê Tần. Và, người ủng hộ một cách mạnh mẽ nhất, kiên quyết nhất đối với ý kiến xuất sắc này chính là Trần Thủ Độ.
Từ Bình Lệ Nguyên, quân đội Đại Việt rút về khu vực Thăng Long. Cuộc vồ hụt ở Bình Lệ Nguyên này khiến cho U-ri-ang-kha-đai rất tức giận. Hắn đổ hết tội lỗi cho viên tướng tiên phong là Triệt-triệt-đô. Vì quá sợ hãi, viên tướng này đã phải uống thuốc độc tự tử.
__________________________________
1. Trước đó, vua nước Đại Lý là Đoàn Hưng Trí đã đầu hàng U-ri-ang-kha dai và nhận dẫn đường cho quân Mông Cổ đánh xuống nước ta. Nhưng, Đoàn Hưng Trí đã bị bệnh mà mất vào cuối năm 1257.
2. Nay là vùng Châu Phong, tỉnh Vĩnh Phú.
3. Tức Lê Phụ Trần. Xin xem thêm LÊ TẦN.
Giặc điên cuồng đuổi theo, quyết tiêu diệt chủ lực của ta ở ngay Thăng Long. Một lần nữa, ta lại chủ trương tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng. So với cuộc rút lui khỏi Bình Lệ Nguyên, cuộc rút lui khỏi Thăng Long khó khăn gấp nhiều lần. Ngoài triều đình và quân đội, tất cả hoàng tộc và kho tàng cũng phải nhanh chóng được ra khỏi Thăng Long. Công việc khó khăn và nặng nề này do bà Trần Thị Dung(1)trực tiếp chỉ huy. Hẳn nhiên là trong thử thách cam go, không phải ai ai cũng đủ bản lĩnh và sáng suốt để nhận ra ý kiến xuất sắc của Lê Tần. Sự hốt hoảng của Thái Úy Trần Nhật Hiệu có thể coi là một ví dụ tiêu biểu(2). Nhưng, điều đáng nói là những người tương tự như thế không nhiều. Khí phách của quân dân ta thời Trần thể hiện một cách tập trung và sâu sắc ở quyết tâm cao độ của đông đảo tướng sĩ và đặc biệt là ở lão tướng Trần Thủ Độ. Sử cũ chép rằng:
“Vua ngự thuyền nhẹ đến thuyền của Thái Úy (Trần) Nhật Hiệu để hỏi về kế sách (chống giữ). Khi ấy Nhật Hiệu đang dựa ở mạn thuyền, chỉ ngồi mà không sao đứng dậy nổi, lấy ngón tay nhúng nước rối viết lên mạn thuyền hai chữ nhập Tống (nghĩa là chạy vào đất của nhà Tống, tức là đất Trung Quốc – NKT) mà thôi. Vua hỏi quân Tinh Cương ở đâu (Tinh Cương là đội quân do Nhật Hiệu chỉ huy) thì Nhật Hiệu trả lời:
- Không gọi chúng đến được.
Vua lập tức quay thuyền đến hỏi Thái Sư Trần Thủ Độ. Thủ Độ trả lời:
- Đầu thần chưa rơi xuống đất thì xin bệ hạ chớ có lo”(3)
Cuộc rút lui khỏi Thăng Long đã khiến cho tướng giặc là U-ri-ang-kha-dai rất tức tối. Kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh của chúng hoàn toàn bị phá vỡ, trong lúc đó, chủ lực của ta vẫn được bảo toàn và đang gấp rút tạo cơ hội để đánh trận quyết định với giặc. Sử cũ không ghi rõ nội dung cuộc vấn kế của vua Trần Thái Tông đối với Thái Sư Trần Thủ Độ, nhưng rõ ràng, lời nói trên đã có ảnh hưởng rất to lớn đến quyết tâm của nhà vua. Kế hoạch phản công táo bạo và thông minh sau đó của nhà Trần ắt hẳn phải gắn liến với những ý kiến đầy mưu lược của lão tướng Trần Thủ Độ
__________________________________
1. Nguyên là Hoàng Hậu của Lý Huệ Tông. Năm 1226, sau khi Lý Huệ Tông bị giết, bà được đem gả cho Trần Thủ Độ. Nhờ có nhiều công lao, cho nên, sau khi mất, bà được truy phong là Linh Từ Quốc Mẫu. Xem thêm TRẦN THỊ DUNG.
2. Trần Nhật Hiệu là con thứ ba của Trần Thừa, em của An Sinh Vương Trần Liễu và vua Trần Thái Tông.
3. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 22-b).
U-ri-ang-kha-đai tiến vào được trong kinh thành Thăng Long, nhưng, kinh thành Thăng Long bấy giờ đã hoàn toàn trống rỗng, không một bóng người, không một chút lương thực và thực phẩm nào có thể lọt vào tay chúng. Giặc bị đẩy vào một tình thế hết sức gay go, đó là vừa thiếu lương thực và thực phẩm, lại vừa bị ta bao vây. Đúng lúc đó, vua Trần hạ lệnh phản công. Một trận đánh ác liệt đã diễn ra tại khu vực Đông Bộ Đầu(1) vào ngày 29-1-1258. Với trận đánh này, gần ba vạn quân Mông Cổ bị đánh bật ra khỏi Thăng Long và sau đó là bị đánh bật ra khỏi những vị trí then chốt nhất. U-ri-ang-kha-đai, viên dũng tướng của giặc, kẻ từng gây kinh hoàng khắp Ba Lan, Đức và Trung Quốc đến đây đã buộc phải tháo chạy trước cuộc phản công của quân dân Đại Việt. Dọc đường tháo chạy, giặc vấp phải những trận phục kích rất nguy hiểm của các đội dân binh, đặc biệt là các đội dân binh của đồng bào các dân tộc ít người(2). U-ri-ang-kha-đai khiếp đảm đến nỗi không dám nghĩ đến chuyện cướp lương ăn, vì vậy người đương thời đã mỉa mai gọi những là “giặc Phật”.
Cuộc kháng chiến của quân dân ta kết thúc toàn thắng. Ngày mồng một Tết năm Mậu Ngọ (5-2-1258) , vua Trần cùng toàn thể bá quan văn võ của triều Trần đã có mặt tại kinh thành Thăng Long và long trọng tổ chức lễ triều yết đầu tiên sau một thời gian tạm vắng.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến này là thắng lợi chung của quân dân cả nước, thắng lợi của khí phách ngoan cường và của tài thao lược kiệt xuất mà dân tộc ta đã tích lũy được trong lịch sử giữ nước lâu dài. Trong số những ngươi góp phần to lớn nhất cho thắng lợi chung, có Thái Sư Trần Thủ Độ. Tài năng của Trần Thủ Độ trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau. Về quân sự, cống hiến của Trần Thủ Độ có thể tạm chia làm ba dạng thức với ba mức độ khác nhau như sau:
- Thứ nhất, với tư cách là quan Điện Tiền Chỉ Huy Sứ thời Lý Huệ Tông, Trần Thủ Độ đã tỏ rõ tài cầm quân, điều khiển một cách có hiệu quả mọi hoạt động của đội quân đặc biệt này. Đây chính là cơ sở thực tế quan trọng để Trần Thủ Độ có thể tự tin mãnh liệt khi ông quyết định một loạt các biện pháp làm thay đổi hoàn toàn cục diện chính trị đương thời.
- Thứ hai, ngay sau khi triều Trần được dựng lên, Trần Thủ Độ là tướng trực tiếp cầm quân đánh dẹp các thế lực chống đối, đặc biệt là thế lực của Đoàn Thượng và thế lực của Nguyễn Nộn. Trần Thủ Độ vừa là người vạch kế hoạch, đồng thời cũng là người trực tiếp chỉ huy. Khi vạch kế hoạch, Trần Thủ Độ đã tỏ rõ là người giàu mưu lược. Khi trực tiếp chỉ huy, Trần Thủ Độ đã tỏ rõ sự sắc sảo và kiên quyết lạ thường. Đây chính là lúc tài năng quân sự của Trần Thủ Độ phát triển mạnh mẽ nhất.
- Thứ ba, trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lăng năm 1258, Trần Thủ Độ là vị lão tướng dày dạn kinh nghiệm. Ông đã trực tiếp cầm quân, sát cánh chiến đấu bên cạnh vua Trần. Ông là người ủng hộ một cách kiên quyết nhất đối với ý kiến xuất sắc của Lê Tần. Ông là người tả xung hữu đột nơi trận mạc, xứng đáng là bậc đại diện tiêu biểu của khí phách quật cường. Ông là chỗ dựa tin cậy của triều đình và xã tắc.
Như trên đã nói, vua Trần Thái Tông đã lập đền thờ để thờ ông ngay khi ông còn sống. Đó là việc làm tỏ rõ vua Trần đánh giá rất cao lòng trung nghĩa và công lao phò tá của ông, đánh giá rất cao tài năng và cống hiến của ông trong sự nghiệp giữ nước.
__________________________________
1. Nay là khu vực dốc Hàng Than, đầu cầu Long Biên (Hà Nội).
2. Một trong những thủ lĩnh xuất sắc của các đội dân binh được sử cũ ghi chép lại là Hà Bổng (chủ trại Quy Hóa).
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 21-12-2009 lúc 12:53.
“Thế mới biết trời sinh ra bà Linh Từ là để mở mang cơ nghiệp cho nhà Trần vậy”
Đại Việt sử kí toàn thư
Bà Linh Từ mà Đại Việt sử kí toàn thư nói đến ở trên chính là bà Trần Thị Dung. Bà là con gái của Trần Lý, người thôn Lưu Gia, Hải Ấp (nay là xã Lưu Xá, huyện Hưng Hà, tỉnh Thái Bình). Sử cũ không chép rõ thế thứ, tuy nhiên, cứ theo lẽ thường mà suy thì bà là em gái kế của Trần Thừa, tức là cô ruột của vua đầu triều Trần là Trần Thái Tông (1226 – 1258).
Trần Thị Dung chào đời đúng vào lúc triều Lý đang bị suy sụp một cách thảm hại. Bấy giờ, vua Lý là Lý Cao Tông (1175 - 1210) thì hoang chơi vô độ, triều thần chia bè kết cánh và không ngừng tìm cách hãm hại lẫn nhau, loạn lạc xẩy ra ngay trong kinh thành Thăng Long, ngay trong cả hoàng tộc họ Lý. Năm 1209, Thái Tử của nhà Lý là Lý Hạo Sảm bỏ cả kinh thành chạy về vùng giáp giới giữa Nam Hà với Thái Binh ngày nay. Sử cũ chép rằng:
“Hoàng Thái Tử (Lý Hạo Sảm) chạy đến thôn Lưu Gia ở Hải Ấp, nghe tiếng con gái của Trần Lý có nhan sắc, bèn lấy làm vợ. Nhà Trần Lý nhờ nghề đánh cá mà trở nên giàu, người khắp vùng đều theo về, nhân có bọn tay chân, bèn nổi loạn. Thái Tử đã lấy con gái của (Trần) Lý, liền trao cho (Trần) Lý tước Minh Tự và phong cho người cậu của con gái Trần Lý là Tô Trung Từ làm Điện Tiền Chỉ Huy Sứ”(1).
Thái Tử Lý Hạo Sảm là con trưởng của vua Lý Cao Tông, thân mẫu người họ Đàm, sinh vào tháng 7 năm Giáp Dần (1194), nghĩa là lúc cưới bà Trần Thị Dung, Lý Hạo Sảm mới được tuổi 15 tuổi. Sử cũ không cho biết năm sinh của bà Trần Thị Dung, nhưng cứ theo phép tác hợp vợ chồng phố biến mà xét, thì có thể ước đoán rằng, bà sinh vào khoảng những năm cuối cùng của thế kỉ XII.
Ngày 28 tháng 10 năm Canh Ngọ (1210), vua Lý Cao Tông mất. Thái Tử Lý Hạo Sảm được tôn lên ngôi, đó là vua Lý Huệ Tông (1210 - 1224 ) - vua thứ 8 và cũng là vua đàn ông cuối cùng của triều Lý(2)
Từ ngày vào hoàng cung, cuộc đời của bà Trần Thị Dung trải không ít phen ba chìm bẩy nổi. Thoạt đầu, bà được sách phong làm Nguyên Phi (bậc cao nhất trong hàng thứ hai của vợ vua sau Hoàng Hậu ). Năm 1213, vì có chút nghi ngờ đối với người anh của bà là Trần Tự Khánh vua Lý Huệ Tông đã giáng bà xuống hàng Ngự Nữ (thấp nhất trong các thứ bậc của vợ vua). Đầu năm 1216, bà được sách phong làm Thuận Trinh Phu Nhân và cuối năm 1216 thí được vua Lý Huệ Tông sách phong làm Hoàng Hậu. Rất tiếc là khi bà được nhà vua sủng ái thì lại bị Thái Hậu ghét bỏ.
Năm Bính Tí (1216), bà sinh hạ Công Chúa Thuận Thiên. Về sau, Công Chúa Thuận Thiên được đem gả cho Trần Liễu (thân sinh của Trần Quốc Tuấn và là anh ruột của vua Trần Thái Tông). Đến năm Mậu Dần (1218), bà lại sinh hạ Công Chúa Chiêu Thánh.
Nhưng, chẳng bao lâu sau khi Công Chúa Chiêu Thánh chào đời; vua Lý Huệ Tông đã mắc phải bệnh điên. Bởi không có Hoàng Tử nào nối dõi, vua Lý Huệ Tông đành lập Công Chúa Chiêu Thánh làm Hoàng Thái Tử. Sự kiện này xẩy ra vào tháng 10 năm Giáp Thân (1224). Cũng ngay trong tháng 10 ấy, Lý Huệ Tông nhường ngôi cho Lý Chiêu Thánh để xuất gia tu hành ở chùa Chân Giáo(3). Lý Chiêu Thánh lên ngôi, quần thần dâng tôn hiệu là Lý Chiêu Hoàng, đặt niên hiệu mới là Thiên Chương Hữu Đạo. Bấy giờ, Nhà vua mới được 6 tuổi.
Bởi sự sắp đặt khôn khéo của Trần Thủ Độ, Lý Chiêu Hoàng đã kết hôn với Trần Cảnh (lúc này cũng mới 6 tuổi) vào tháng chạp năm Ất Dậu (1225) và ngay sau đó là nhường ngôi cho Trần Cảnh.
___________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 4, tờ 26-a)
2. Triều Lý trước sau kéo dài tất cả 215 năm và có 9 vị vua nối nhau trị vì. Đó là: Lý Thái Tổ (1010 - 1028), Lý Thái Tông (1028 - 1054), Lý Thánh Tông (1054 - 1072), Lý Nhân Tông (1072 - 1127), Lý Thần Tông (1127 - 1138), Lý Anh Tông (1138 - 1175), Lý Cao Tông (1175 - 1210), Lý Huệ Tông (1210 - 1224) và Lý Chiêu Hoàng (1224 - 1225). Lý Chiêu Hoàng là Nữ Hoàng.
3. Chùa này năm ngay trong kinh thành Thăng Long.
Sau khi giành được ngôi báu, họ Trần tìm cách thủ tiêu dần các thế lực chống đối, đặc biệt là thế lực của các quý tộc họ Lý. Năm Bính Tuất (1226), Lý Huệ Tông bị bức tử, bà Trần Thị Dung được đem gả cho Trần Thủ Độ. Như vậy, bà đã kết hôn với chính em con nhà chú của mình(1). Tuy nhiên xét về tuổi tác thì có lẽ hai người cũng không hơn kém nhau bao nhiêu. Từ đây bà một lòng giúp rập nhà Trần, được vua Trần Thái Tông đặc cách cho hưởng các chế độ và nghi trượng không khác gì Hoàng Hậu.
Trần Thủ Độ là người có công đầu trong việc đưa họ Trần lên nắm giữ vũ đài chính trị của nước nhà. Nhưng, công bằng mà xét nếu không có sự giúp sức đầy nhiệt thành và có hiệu quả của bà Trần Thị Dung, chắc chắn Trần Thủ Độ sẽ không thể làm được nhiều việc lớn như ông đã làm.
Tháng giêng năm Kỉ Mùi (1259), bà Trần Thị Dung qua đời, hưởng thọ khoảng gần bảy chục tuổi. Bà được nhà Trần ban hiệu là Linh Từ Quốc Mẫu. Đây là một biệt đãi đối với bà, bởi vì vinh hiệu Quốc Mẫu thời Trần chỉ dùng để ban cho Hoàng Hậu của vua Trần mà thôi. Sử cũ lí giải việc này như sau:
“Mùa xuân, tháng giêng (năm 1259 - NKT), phu nhân của Trần Thủ Độ là Linh Từ Quốc Mẫu, người họ Trần, qua đời. Phu nhân người họ Trần này sở dĩ được gọi là Quốc Mẫu vì đó vốn là hiệu cũ của phu nhân, khi phu nhân còn là Hoàng Hậu (của Lý Huệ Tông).
(Vua Trần) Thái Tông thấy Linh Từ đã từng là Hoàng Hậu của Lý Huệ Tông, cho nên không nỡ gọi là Công Chúa, mà còn dùng biệt hiệu của Hoàng Hậu là Quốc Mẫu để ban cho. Mọi nghi trượng như xe kiệu, mũ áo và quân hầu của bà đều ngang với Hoàng Hậu”(2)
Ngoài công lao hợp lực đầy nhiệt thành với chồng trong sự nghiệp tạo lập cơ đồ cho họ Trần, sinh thời, bà Trần Thị Dung còn có hai cống hiến lớn sau đây:
Một là, bà đã góp phần rất quan trọng vào việc hàn gắn những vết rạn nứt trong nội bộ đội ngũ quý tộc họ Trần, tạo ra cơ sở sức mạnh từ bên trong cho chính triều đại này. Sử thần Ngô Sĩ Liên đánh giá rất cao cống hiến này của bà:
“Linh Từ trước lấy Lý Huệ Tông là bất chính(3), sau lấy Trần Thủ Độ là thất tiết. Thế nhưng, con gái bà là (Lý) Chiêu Hoàng nhường ngôi cho nhà Trần và (người con gái khác là) Thuận Thiên lại là Hoàng Hậu của (vua Trần) Thái Tông, thân mẫu của (vua Trần ) Thánh Tông. An Sinh Vương có hiềm khích với (Trần ) Thái Tông. Linh Từ đã ra sức hòa giải, nhờ đó mà anh em lại tiết nghĩa như xưa”(4).
Hai là, bà đã lập công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Mông Cổ xâm lăng vào năm 1258. Đây chính là cống hiến nổi bật nhất, khiến cho tên tuổi của bà trở nên bất diệt với non sông. Bà thực sự là một nữ tướng giàu dũng khí và thực sự có tài.
Bấy giờ, khi nghe tin tướng giặc là U-ri-ang-kha-đai đã hùng hổ cho quân men theo sông Hồng đế tràn xuống nước ta, vua Trần lập tức bố trí quân sĩ sẵn sàng ở vùng Bình Lệ Nguyên, quyết đánh một trận sống chết với kẻ thù. Nhưng, ở cuộc đọ sức không cân xứng này, quân ta bị thất lợi, thậm chí là có nguy cơ bị bại trận hoàn toàn. May mắn thay, đúng vào lúc nguy nan đó, tướng Lê Tần đã đề nghị vua Trần hãy tạm thời rút quân để bảo toàn lực lượng, chờ cơ hội thuận tiện sẽ đánh trận quyết định với U-ri-ang-kha-đai. Ý kiến xuất sắc đó được vua Trần và các tướng lĩnh đương thời đồng ý. Đại quân của ta từ Bình Lệ Nguyên đã rút về Thăng Long. U-ri-ang-kha-đai tức tối cho quân đuổi theo. Đại quân nhà Trần lại rút lui khỏi Thăng Long.
Khác với việc rút lui khỏi Bình Lệ Nguyên, việc rút lui khỏi Thăng Long khó khăn và phức tạp hơn nhiều. Nơi đây, ngoài lực lượng quân đội, còn có hoàng tộc, thân nhân của quan lại, nhân dân và kho tàng. Quân đội thì đã có triều đình và các vị tướng lĩnh chỉ huy, còn tất cả các việc khác, nhà Trần đều tin cậy mà ủy thác hết cho bà Trần Thị Dung. Và, bà đã xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao đó. Tất cả hoàng tộc và thân nhân của quan lại cùng nhân dân kinh thành đều được tổ chức rút lui một cách trật tự và an toàn. Tất cả kho tàng của triều đình được nhanh chóng vận chuyển ra khỏi kinh thành một cách kịp thời. Tất cả lương thực và thực phẩm của nhân dân Thăng Long cũng được giấu kín, quyết không để lọt vào tay quân xâm lăng. Thứ duy nhất mà bà để lại là những tên sứ giả hống hách, đến nước ta trước đó, bị vua Trần hạ lệnh tống giam trong ngục! Thắng lợi của hoạt động này đã đẩy quân xâm lăng vào tình thế khốn quẫn, đó là buộc phải đóng quân ở nơi không một bóng người, không một chút lương thực và thực phẩm, buộc phải đánh theo cách đánh của ta.
Ngày 24 tháng chạp năm Mậu Ngọ (29-1-1258), cuộc phản công của nhà Trần bắt đầu. Đích thân vua Trần Thái Tông cùng Hoàng Thái Tử Trần Hoảng dẫn quân ngược sông Thiên Mạc, tấn công ồ ạt vào khu vực Đông Bộ Đầu. Các đơn vị chủ lực của nhà Trần cùng hàng loạt đòi dân binh cũng cùng nhất tê đánh mạnh vào những dinh trại của quân xâm lăng. Đang ở trong thế khốn quẩn lại bị đánh quá bất ngờ, U-ri-ang-kha-đai không sao chống đỡ nổi, đành phải tìm đường chạy trốn. Quân ta nhanh chóng thu phục Thăng Long và nhân đà thắng lợi, truy đuổi ráo riết, khiến cho giặc chỉ biết hốt hoảng chạy tháo thân mà không dám nghĩ đến việc cướp lương ăn. Cuộc kháng chiến chống quân Mông Cố xâm lăng kết thúc toàn thắng. Và, nữ tướng hậu cần xuất sắc của cuộc phản công này chính là bà Trần Thị Dung. Bà đã khẩn trương lo tích trữ và vận chuyển lương thực rất kịp thời cho các đơn vị chiến đấu của nhà Trần. Bà cũng là người đi thu tập binh khí từ các gia đình đi lánh nạn mau chóng chuyển đến để bổ sung và tăng cường cho quân đội nhà Trần. Hoạt động của bà đã góp phần rất to lớn vào thắng lợi chung của cuộc kháng chiến này. Sử cũ viết về công lao của bà như sau:
“Khi người Nguyên men theo đường tắt để vào cướp nước ta, kinh thành thất thủ, Linh Từ ở Hoàng Giang, lo giữ gìn các Hoàng Tử, Cung Phi và Công Chúa cùng vợ con các tướng soái, không để ai bị lọt vào tay giặc. (Linh Từ) lại còn khám xét thuyền các nhà (đi lánh nạn) có giấu binh khí, thu để đưa dùng vào việc quân. Công của bà giúp nội trị của nhà Trần nhiều hơn là báo đáp cho nhà Lý. Thế mới biết trời sinh ra bà Linh Từ là để mở mang cơ nghiệp cho nhà Trần vậv”(5)
__________________________________
1. Nhà Trần nhờ lợi dụng hôn nhân mà giành được ngôi báu, cho nên, rất sợ người khác họ cũng sẽ lợi dụng hôn nhân để giành ngôi của mình. Bởi vậy, nhà Trần quy định rằng người họ Trần chỉ lấy người họ Trần mà thôi. Cuối đời Trần, quy định này mới bị bãi bỏ.
2. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 5, tờ 25 a-b).
3. Lý Huệ Tông cưới bà khi đang đi chạy loạn, không có ai đứng ra chủ hôn nên bị coi là bất chính.
4. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 5, tờ 25-b)
5. Đại Việt sử kí toàn thư. (Bản kỉ, quyển 5, tờ 25-b và 26-a).
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 21-12-2009 lúc 12:56.
Quyển 1
Chương 11
LÊ TẦN (? -?)
Nguồn: quansuvn.net
Thu gọn nội dung
Trong sử cũ, Lê Tần thường được chép là Lê Phụ Trần. Tên gọi này do nhà Trần ban cho ông, cốt để biểu dương công lao phò tá của ông đối với nhà Trần(1). Về lai lịch hiện tại chúng ta chỉ mới biết rất vắn tắt, rằng ông người Ái Châu (nay thuộc Thanh Hóa) và là dòng dõi của Lê Hoàn. Tuy chưa rõ năm sinh và năm mất của ông, nhưng, qua ghi chép của sử cũ, chúng ta cũng có thể sơ bộ hình dung được những nét chính yếu nhất trong lí lịch làm quan của ông:
- Đầu năm Canh Tuất (1250) ông được vua Trần Thái Tông phong chức Ngự Sử Trung Tướng, Tri Tam Ti Viện Sự. Xét về thứ bậc, chức này không kém Thượng Thư bao nhiêu. Nói khác hơn, chắc chắn ông đã được bổ làm quan từ nhiều năm trước nên đến đây mới được phong tới chức này.
- Năm 1258, ông được phong làm Ngự Sử Đại Phu, được vua Trần Thái Tông đem bà Hoàng Hậu đã bị giáng là Lý Chiêu Thánh(2) gả cho.
- Tháng 6 năm Kỉ Mùi (1259), ông được vua Trần Thánh Tông phong chức Thủy quân Đại Tướng Quân.
- Tháng chạp năm Giáp Tuất (1274), ông được vua Trần Thánh Tông phong tới hàm Thiếu Sư(3) chức Trừ Cung Giáo Thụ(4).
Sau khi chép việc ông được phong tới hàm Thiếu Sư, không thấy sử cũ chép gì về ông nữa. Về gia đình riêng không rõ ông có tất cả mấy vợ, chỉ biết rằng bà Lý Chiêu Thánh đã sinh hạ cho ông hai người con, gồm một trai và một gái. Nhà Trần coi gia đình ông không khác gì thành viên của hoàng tộc. Khi mất, có lẽ ông cũng ở khoảng tuổi trên dưới bảy mươi.
Khi đất nước thái bình, Lê Tần là một đấng lương thần giàu lòng trung nghĩa và thực sự có tài. Ngoài những trọng trách mà triều đinh đã tin cậy trao phó, Lê Tần từng là chánh sứ của nước ta sang Mông Cổ ngay sau khi chúng vừa bị quân dân ta đánh cho đại bại. Tài biện bạch của ông đã khiến cho triều đình Mông Cổ phải nể phục. Và, như trên đã nói, ông từng là Trừ Cung Giáo Thụ, người trực tiếp dạy vua Trần Nhân Tông, khi nhà vua còn ở ngôi Hoàng Thái Tử. Công việc nặng nề và khó khăn này, phải là những người tài trí và dày dạn kinh nghiệm như ông mới có thể đảm đương nổi.
Khi đất nước chiến tranh, Lê Tần là một trong những vị danh tướng gồm đủ cả vũ dũng và mưu lược, có năng lực phân tích thực tiễn một cách nhạy bén và sâu sắc. Tên tuổi của Lê Tần gắn liền với trận Bình Lệ Nguyên và với thắng lợi trọn vẹn của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông Cổ năm 1258.
Đầu năm 1258, khi nghe tin giặc Mông Cổ, dưới sự chỉ huy của U-ri-ang-kha-đai, men theo sông Hồng để tràn xuống nước ta, vua Trần Thái Tông lập tức đem đại quân lên Bình Lệ Nguyên để ứng chiến. Đó là một quyết định thể hiện khí phách rất ngoan cường, nhưng đó cũng chính là một sai lầm nghiêm trọng trong nghệ thuật cầm quân. Bình Lệ Nguyên là vùng trung du, nơi mà kị binh Mông Cổ có thể phát huy hết sở trường chiến đấu, ngược lại bộ binh của ta sẽ rất dễ bị lúng túng, dễ bị giặc bao vây, chia cắt và nhanh chóng tiêu diệt. Diễn biến của những trận đánh đầu tiên đã thể hiện rất rõ điều này. Sử cũ chép:
“Vua tự mình ra đốc chiến, xông pha trong chốn tên đạn, nhưng quan quân thì hơi nao núng. Vua ngoảnh trông tả hữu, chỉ thấy có Lê Tần là một mình một ngựa, ra vào trận giặc mà mặt vẫn bình thản như không.
Bấy giờ, có người khuyên Vua nên bám lại (ở Bình Lệ Nguyên) để chỉ huy chiến đấu. Lê Tần cố sức can Vua, nói rằng:
- Bệ hạ nếu làm như vậy thì có khác gì dốc hết túi tiền cho một canh bạc mà chưa rõ được thua? (Thần nghĩ) là hãy nên tạm lánh chúng chớ tại sao lại có thể dễ dàng tin lời ngươi ta như vậy.
Vua nghe, bèn lui quân đóng ở sông Lô(5) Lê Tần đi phía sau. Giặc bắn loạn xạ. Lê Tần phải lấy ván thuyền để che cho vua khỏi trúng tên của giặc.
Thế giặc rất mạnh. Vua lại lui về giữ sông Thiên Mạc(6), Lê Tần đi theo bàn việc quân cơ, rất ít ai được biết rõ những việc này” (7).
Đoạn ghi chép ngắn ngủi nói trên, tự nó đã toát lên hai điều rất đáng suy nghĩ. Một là, Lê Tần quả đúng là bậc có dũng khí hơn người. Ông tả xung hữu đột nơi trận mạc, cái chết luôn cận kề mà sắc mặt vẫn bình tĩnh như không. Nhưng, đáng kính nhất vẫn là ở chỗ, ông dám can gián nhà vua, phê phán một cách quyết liệt đối với ý kiến sai lầm. Quân pháp xưa cho phép chủ tướng có thể chém đầu kẻ dám làm sai mệnh lệnh huống chi trong trận ác chiến này, chủ tướng cũng chính là nhà vua, người có quyền hành cực lớn ở trong tay. Lê Tần đã lấy tính mạng của chính mình để bảo đảm cho ý kiến của mình vậy. Nếu không phải là bậc có dũng khí phi thường, quyết không thể nói được lời quả cảm như vậy, cũng nếu không phải là bậc có dũng khí phi thường, quyết không thể có đủ bình tĩnh và sáng suốt để nghĩ được những ý nghĩ sâu sắc như vậy. Lê Tần chính là người đã đặt nền tảng đầu tiên cho kế sách tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng mà sau này, Trần Quốc Tuấn và các vị tướng lĩnh xuất sắc đã kế thừa và nâng lên thành một nghệ thuật rất độc đáo. Hai là, nếu Lê Tần dám nói, thì kính thay, vua Trần Thái Tông cũng là người dám nghe. Khi ở ngôi cao quyền cả, nhất lại là lúc tình thế hiểm nghèo, thói thường, người ta sẽ khó chấp nhận những ý kiến trái ngược với mình. Nhưng, may mắn thay, và cũng là cảm động thay, vua Trần Thái Tông đã kịp thời nhận ra và vui vẻ làm theo đề nghị của Lê Tần. Các vị tướng lĩnh cao cấp khác, trong đó có lão tướng Trần Thủ Độ, cũng nhiệt thành và kiên quyết ủng hộ Lê Tần. Chỗ vua tôi tương hợp chính là ở đây. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thắng lợi cũng chính là ở đây. Lê Tần thực sự xứng đáng với biệt danh Lê Phụ Trần mà nhà Trần đã ban tặng cho ông.
_________________________________
1. Tên gọi này nghĩa là: người đàn ông họ Lê đã có công phò tá nhà Trần.
2. Lý Chiêu Thánh bị giáng ngôi Hoàng Hậu năm 1237.
3. Thời này, chức hàm cao nhất trong quan lại là Tam Thái (Thái Sư, Thái Bảo, Thái Phó) và Tam Thiếu (gồm Thiếu Sư, Thiếu Bảo, Thiếu Phó).
4. Chức lo việc dạy cho Thái Tử, người sẽ được lên nối ngôi vua.
5. Đoạn sông Hồng từ Bạch Hạc trở xuống.
6. Đoạn sông Hồng chảy qua huyện Châu Giang, Hải Hưng.
7. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 22-a).
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 21-12-2009 lúc 12:57.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 1-a) cho hay, tiên tổ của họ Trần là Trần Kinh, người làng Tức Mặc, phủ Thiên Trường. Làng này nay là xã Tức Mạc, huyện Mỹ Lộc, tỉnh Nam Hà. Trần Kinh sinh ra Trần Hấp, Trần Hấp sinh ra Trần Lý, Trần Lý sinh ra Trần Thừa. Kể từ Trần Thừa trở về trước, người họ Trần ở làng Tức Mặc đời đời đều làm nghề chài lưới. Trần Thừa có sáu người con (bốn trai, hai gái). Con trai thứ của Trần Thừa là Trần Cảnh, về sau là vua đầu của triều Trần (Trần Thái Tông: 1226 – 1258), cho nên, Trần Thừa được tôn làm Thượng Hoàng và khi mất, miếu hiệu là Trần Thái Tổ, dẫu trong thực tế, Trần Thừa chẳng hề làm vua ngày nào.
Con trai trưởng của Trần Thừa là Trần Liễu. Khi em là Trần Cảnh làm vua, Trần Liễu được phong là An Sinh Vương. Hiện vẫn chưa rõ An Sinh Vương Trần Liễu có mấy người con, chỉ thấy sử cũ nhắc đến ba người. Con trai trưởng là Trần Doãn. Trần Doãn được phong là Vũ Thành Vương nhưng rất tiếc là vì những hiềm khích nội bộ, năm 1257, Vũ Thành Vương Trần Doãn đã đem cả gia quyến chạy sang Trung Quốc và bị viên Thổ Quan của Trung Quốc ở phủ Tư Minh bắt nạp lại cho triều Trần. Người con thứ năm của Trần Liễu là Trần Thị Thiều. Tháng 8 năm 1258, Trần Thị Thiều được gả cho vua Trần Thánh Tông (1258 - 1278), lúc đầu được phong là Thiên Cảm Phu Nhân và ít lâu sau thì phong là Thiên Cảm Hoàng Hậu. Bà chính là thân mẫu của vua Trần Nhân Tông (1278 – 1293).
Trong số những người con của An Sinh Vương Trần Liễu, nổi bật hơn cả vẫn là Trần Quốc Tuấn. Trần Quốc Tuấn về sau được phong là Hưng Đạo Vương, vì thế, người đời vẫn quen gọi ông là Trần Hưng Đạo.
Trần Hưng Đạo mất ngày 20 tháng 8 năm Canh Tí (1300) nhưng hiện tại, vẫn chưa xác định được năm sinh của ông, đại để chỉ biết ông thọ khoảng 70 tuổi, tức là sinh vào khoảng dăm năm sau khi triều Trần được dựng lên.
Sách Trần triều thế phả hành trạng nói Trần Hưng Đạo sinh vào ngày 10 tháng chạp năm 1251. Điều này không thể tin, vì các bộ chính sử đều chép rằng Trần Hưng Đạo cưới vợ vào tháng 1 năm 1251, tức là trước đó những ngót một năm.
Ông Lam Sơn trong sách Hưng Đạo Đại Vương (xuất bản năm 1946) nói rằng Trần Hưng Đạo sinh ngày 10 tháng chạp năm 1228, nhưng không cho biết là ông đã dựa vào cơ sở nào để viết như thế.
Ông Hoàng Thúc Trâm trong sách Trần Hưng Đạo (xuất bản năm 1950) viết: “Trần Quốc Tuấn sinh vào khoảng niên hiệu Kiến Trung hồi đầu Trần, lối năm Kiến Trung thứ tư (1228) đến thứ bảy (1231), và ngài thọ trên dưới bảy mươi tuổi, độ từ 69 đến 72”
Các dịch giả sách Binh thư yếu lược (Nhà Xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội, 1970) cũng viết tương tự rằng: “Ông sinh vào khoảng những năm 1226, 1227, 1228 hoặc 1229 gì đó”.
Chính sử không ghi chép, nhưng dựa vào nhiều tài liệu khác nhau, các nhà nghiên cứu về lịch sử Phật Giáo Việt Nam đánh giá rất cao vị trí của Trần Tung (tức Tuệ Trung Thượng Sĩ). Trần Tung là anh của Trần Hưng Đạo (hiện vẫn chưa rõ có phải là anh em cùng cha cùng mẹ hay không), mà Trần Tung sinh năm 1230, thì theo lẽ thường, Trần Hưng Đạo phải sinh sau năm 1230
Theo Trần triều thế phả hành trạng, thân mẫu của Trần Hưng Đạo là Trần Thị Nguyệt. Tuy nhiên, sách này cũng không hề cho biết thêm gì về bà. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 17-b) nói rằng, Trần Hưng Đạo là con nuôi của Thụy Bà Công Chúa, mà Thụy Bà Công Chúa là em gái của An Sinh Vương Trần Liễu, chị gái của vua Trần Thái Tông. Chúng tôi xét rằng:
- Thân sinh của Trần Hưng Đạo là An Sinh Vương Trần Liễu sinh năm 1211, mà Trần Hưng Đạo là con thứ, do người vợ thứ của An Sinh Vương Trần Liễu sinh hạ, thì Trần Hưng Đạo rất khó có thể được chào đời vào khoảng trước năm 1230.
- Thụy Bà Công Chúa nhận Trần Hưng Đạo làm con nuôi. Sử cũ không ghi rõ, nhưng An Sinh Vương Trần Liễu sinh năm 1211 và vua Trần Thái Tông sinh năm 1218, thì Thụy Bà Công Chúa ắt phải sinh vào khoảng các năm 1214, 1215 hay 1216 gì đó. Là con nuôi của Thụy Bà Công Chúa, một người ở độ tuổi như vừa kể, Trần Hưng Đạo lại càng khó có thể được sinh ra trước năm 1230.
Tóm lại, Trần Hưng Đạo chỉ có thể chào đời vào khoảng sớm nhất cũng không trước năm 1230 và muộn nhất cũng không sau năm 1232.
Vợ của Trần Hưng Đạo là Công Chúa Thiên Thành (con gái út của Trần Thừa, tức cũng là cô ruột của Trần Hưng Đạo. Triều Trần có lệ bắt người trong họ lấy nhau nên mới có cuộc hôn nhân lạ lùng này). Công Chúa Thiên Thành sinh hạ tất cả năm người con (gồm một trai và bốn gái), đó là:
- Trinh Công Chúa: Hoàng Hậu của vua Trần Nhân Tông, sau được con là vua Trần Anh Tông (1293 - 1314) tôn là Khâm Từ Bảo Thánh Hoàng Hậu.
- Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiển: Võ tướng có tài. Sau là Phò mã của vua Trần Thánh Tông (chồng của Thiên Thụy Công Chúa).
- Hưng Trí Vương Trần Quốc Nghiễn: Võ tướng có tài, lại cũng là người có công tổ chức khẩn hoang. Chính ông là người đã biến nhiều vùng đất hoang vu của khu vực Hải Dương (tỉnh Hải Hưng ngày nay) thành ruộng đồng tươi tốt, thành xóm làng trù mật.
- Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng: Võ tướng có tài. Ông có con gái là Hoàng Hậu của vua Trần Anh Tông (bà Thuận Thánh Hoàng Hậu).
- Hưng Hiến Vương Trần Quốc Uy: Võ tướng có tài.
Ngoài ra, Trần Hưng Đạo còn có một người con gái nuôi, đó là Nguyên Công Chúa. Nguyên Công Chúa là vợ của vị danh tướng Phạm Ngũ Lão, người có công lớn trong các cuộc chiến tranh vệ quốc chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai và lần thứ ba.
Sử cũ ghi rất rõ tên, tước hiệu và những cống hiến nổi bật của các con Trần Hưng Đạo, nhưng, ngoài việc khẳng định Trinh Công Chúa là con gái đầu lòng, những người con trai kế tiếp hiện vẫn chưa biết chức thứ bậc anh em trước sau cụ thể ra sao. Trên đây chỉ là sự sắp xếp tạm thời, dựa trên cơ sở chủ yếu là suy đoán trật tự thông thường của cách đặt tước hiệu mà thôi.
Trước khi qua đời, Trần Hưng Đạo có dặn các con của ông rằng: “Ta chết thì phải hỏa táng, lấy hũ tròn đựng xương, bí mật chôn trong vườn An Lạc rồi san đất và trồng cây như cũ để người đời không biết chỗ nào”. (Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 6, tờ 10-b). Có lẽ cũng vì thế mà ngày nay, đền thờ Trần Hưng Đạo được dựng lên ở rất nhiều nơi trên đất nước ta, nhưng ngôi mộ thực sự của Trần Hưng Đạo thì chưa rõ ở vị trí cụ thể nào
Cuộc đời của Trần Hưng Đạo là cuộc đời của một nhà đạo đức, của một người luôn luôn nêu cao và quyết tâm giữ vững tình đoàn kết keo sơn vì nghĩa cả. Ông là biểu tượng sáng ngời của tinh thần trung quân ái quốc. Sách Đại Việt sử kí toàn thư đã trân trọng chép những lời thật cảm động về đức độ của ông:
“Quốc Tuấn là con của An Sinh Vương. Khi mới chào đời, thầy tướng xem xong liền nói:
- Con người này về sau có thể giúp nước cứu đời.
Lớn lên, (Quốc Tuấn) khôi ngô và thông minh hơn người, đọc nhiều sách vở, tài trí gồm đủ cả văn lẫn võ. Trước đó, An Sinh Vương vốn có hiềm khích với Chiêu Lăng (chỉ vua Trần Thái Tông - NKT), để bụng căm ghét, cho nên, tìm người tài giỏi khắp bốn phương để dạy cho Quốc Tuấn. Khi sắp qua đời, An Sinh Vương cầm tay Quốc Tuấn và trối trăng lại rằng:
- Nếu con không vì cha mà lấy được thiên hạ thì ở nơi suối vàng cha không sao nhắm mắt được.
Quốc Tuấn ghi nhớ lời của cha, nhưng không cho đó là lời nói phải. Khi vận nước lung lay, chức lớn trong nước và quyền nắm quân đã sẵn ở trong tay, ông liền đem lời cha dặn nói với hai gia nô là Yết Kiêu và Dã Tượng. Hai gia nô can rằng:
- Kế ấy nếu thành thì được phú quý một đời nhưng lại để tiếng xấu đến ngàn năm. Nay Đại Vương phú quý như thế chưa đủ hay sao? Chúng tôi thà chết già với kiếp gia nô chứ không mong làm quan mà bỏ cả trung hiếu, trọn đời, xin được tôn người bán thịt dê tên là Duyệt làm thầy mà thôi(1).
Quốc Tuấn nghe lời ấy, cảm phục đến phát khóc, khen ngợi hai người mãi không thôi. Một hôm, Quốc Tuấn vờ hỏi con ông là Hưng Vũ Vương (tức Trần Quốc Hiển - NKT.):
- Xưa nay ai cũng muốn có thiên hạ để truyền cho con cháu. Con nghĩ sao về việc này?
Hưng Vũ Vương trả lời:
- Việc đó dẫu là đối với người khác họ cũng không nên làm, huống chi là đối với người trong cùng một họ.
Quốc Tuấn cho là phải. Lại một hôm, Quốc Tuấn đem chuyện này nói với người con thứ là Hưng Nhượng Vương Trần Quốc Tảng, Quốc Tảng liền tiến lên thưa:
- Như Tống Thái Tổ kia, vốn chỉ là một lão nông, vậy mà còn có thể thừa cơ dấy lên, lấy được cả thiên hạ, huống là...
Quốc Tuấn rút gươm kể tội:
- Loạn thần đều do tặc tử mà ra!
Nói rồi định giết Quốc Tảng. Hưng Vũ Vương hay tin, vội tới khóc van xin chịu tội thay, bấy giờ, quốc Tuấn mới tha. Ông dặn Hưng Vũ Vương rằng:
- Sau này, khi nào ta chết, phải đợi đến lúc đậy nắp quan tài lại rồi mới cho Quốc Tảng vào viếng”(2).
____________________________________
1. Tích lấy tứ Bắc sử. Xưa, vua nước Sở là Sở Chiêu Vương chạy loạn ra nước ngoài. Bấy giờ chỉ có một người làm nghề bán thịt dê tên là Duyệt đi theo phò tá. Hết loạn trở về, Sở Chiêu Vương ban thưởng cho Duyệt. Duyệt từ chối mà nói rằng:
- Nhà Vua mất nước khiến tôi không được đi bán thịt dê, nay vua lấy lại được nước, tôi lại được làm nghề bán thịt dê như cũ, tước lộc thế là đủ, còn mong thưởng thêm gì nữa?
2. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kí. quyển 6, tờ 9-b và tờ 10-a.
Đối với vua, Trần Hưng Đạo một lòng cung kính trung thành, đối với quý tộc và đồng liêu, Trần Hưng Đạo mực thước giữ đức hòa thuận, đối với quân sĩ và trăm họ, Trần Hưng Đạo nặng lòng thương yêu. Trần Hưng Đạo đã để lại cho muôn đời lời nói chứa chan tâm huyết của một bậc nặng lòng ưu thời mẫn thế: “Nới sức dân làm kế rễ sâu gốc vững, ấy là thượng sách giữ nước”(1).
Trần Hưng Đạo là một nhà văn hóa lớn của nước nhà. Cống hiến của ông trải rộng trên nhiều lĩnh vực khác nhau, to lớn và sâu sắc. Chỉ cần một Hịch tướng sĩ văn không thôi, tên tuổi của ông cũng đã đủ để bất diệt với lịch sử, huống chi, sự nghiệp của ông nào phải chỉ có bấy nhiêu.
Trần Hưng Đạo là người đã có công khai sinh ra nền khoa học quân sự nước ta. Trước Trần Hưng Đạo, bao thế hệ anh hùng hào kiệt đã chiến đấu và chiến thắng, góp phần đặc lực vào việc làm phong phú kho tàng kinh nghiệm chống xâm lăng. Nhiều bậc anh hùng hào kiệt đã thực sự tiến tới đỉnh cao của nghệ thuật cầm quân, thậm chí là đỉnh cao điêu luyện của loại hình nghệ thuật đặc biệt này. Nhưng, một nền khoa học thực sự với đầy đủ ý nghĩa của từ này, thì phải đợi đến Trần Hưng Đạo mới chính thức được khai sinh. Trước tác có giá trị đánh dấu sự kiện này chính là Binh thư yếu lược.
Sách Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 6, tờ 14-b) viết: “Quốc Tuấn lại sưu tầm binh pháp của các nhà, soạn thành phép Bát quái cửu cung đồ đặt cho tên gọi là Vạn Kiếp tông bí truyền thư, Nhân Huệ Vương (Trần) Khánh Dư viết bài đề tựa cho sách ấy”. Và Đại Việt sử kí toàn thư đã sao lục toàn văn lời đề tựa này. Đó là một lần khẳng định.
Trong Hịch tướng sĩ văn: Trần Hưng Đạo cũng nói rõ: “Nay ta đã chọn trong binh pháp các nhà (những chỗ hay) rồi soạn thành bộ Binh thư yếu lược…”. Đó là hai lần khẳng định.
Trong Lịch triều hiến chương loại chí (Nhân vật chí), Phan Huy Chú viết: “Lớn lên, ông (chỉ Trần Hưng Đạo - NKT) có dáng mạo hùng vĩ, thông minh học rộng hơn người, tài kiêm văn võ. Ông có soạn sách Binh gia diệu lý yếu lược, lại thu góp binh pháp của các nhà, soạn thành phép Bát quái cửu cung đồ, đặt cho tên gọi là Vạn Kiếp bí thư để dạy cho chư tướng”. Đó là ba lần khẳng định.
Các tác giả bộ Khâm định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 8, tờ 34 ) viết: “Khi quân Nguyên sang xâm lấn, Quốc Tuấn tự mình soạn ra sách Binh gia diệu lý yếu lược và làm bài hịch trao cho các tướng. Đó là bốn lần khẳng định...v.v
Nói khác hơn, thư tịch cổ đều khẳng định rằng Trần Hưng Đạo là người đã soạn ra bộ binh pháp. Tuy nhiên, tên gọi của bộ binh pháp này mỗi nơi chép một cách, và đó cũng là điều thường thấy trong thư tịch xưa. Theo chúng tôi, có lẽ nên theo lời của chính Trần Hưng Đạo trong Hịch tướng sĩ văn để gọi bộ binh pháp đó là Binh thư yếu lược. Và, các sách kể trên có lẽ cũng đã gọi Binh thư yếu lược bằng nhiều tên gọi khác nhau mà thôi.
Với việc biên soạn và phổ biến Binh thư yếu lược, Trần Hưng Đạo đã để lại cho đời sau bài học vô giá về kinh nghiệm chống xâm lăng, rằng, muốn đập tan những đội quân ăn cướp tàn bạo và thiện chiến, thì bên cạnh tinh thần chiến đấu, lí tưởng chiến đấu và trình độ võ nghệ cũng như thiết bị kĩ thuật, tướng sĩ còn phải được trang bị những tri thức về binh pháp. Với việc khai sinh Binh thư yếu lược(2), Trần Hưng Đạo thực sự trở thành nhà lí luận quân sự xuất sắc đầu tiên của nước ta. Tuy nhiên, Trần Hưng Đạo không phải chỉ là nhà lí luận xuất sắc mà còn là nhà chỉ huy thiên tài. Ông là linh hồn của những chiến công chống xâm lăng vang dội ở thế kỉ XIII.
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1257 - 1258. Trần Hưng Đạo tuy chỉ mới là một vị tướng trẻ nhưng đã được triều đình tin cậy trao trọng trách: “Tháng 9 (năm 1257 - NKT ), Vua xuống chiếu, hạ lệnh cho tướng sĩ thủy bộ ra ngăn giữ biên giới theo sự tiết chế của (Trần) Quốc Tuấn”(3).
Từ sau hội nghị quân sự Bình Than (năm 1282), Trần Hưng Đạo được trao quyển chỉ huy cao nhất của quân đội nhà Trần. “Tấn phong Hưng Đạo Vương Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết Chế, thống lĩnh quân đội cả nước, cho được chọn các tướng có tài cầm quân đi chỉ huy các đơn vị”(4).
Trong cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1285 và cuộc chiến tranh vệ quốc năm 1287 - 1288, Trần Hưng Đạo là người đã tổ chức nên những thắng lợi oanh liệt nhất của quân dân Đại Việt. Tên tuổi của Trần Hưng Đạo gắn liền với những võ công hiển hách nhất, mà nổi bật hơn cả là trận Bạch Đằng (9-4-1288).
______________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 6, tờ 9 a-b.
2. Muốn rõ hơn về tác phẩm này, xin đọc thêm hai cuốn sách. Một là bản dịch Binh thư yếu lược (phụ Hổ trướng khu cơ) của Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1970. Ở đây, phần Hổ trướng khu cơ là binh pháp của Đào Duy Từ (1572 - 1634). Hai là Trần Hưng Đạo - Tiểu sử, sự nghiệp, tác phẩm, Nguyễn Khắc Thuần chủ biên. Nhà Xuất bản Trẻ, 1987.
3. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 5, tờ 22-a.
4. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ. quyển 5, tờ 43-b.
Sinh thời, uy danh lừng lẫy của Trần Hưng Đạo đã vượt ra khỏi biên giới quốc gia, “tiếng vang đến cả giặc phương Bắc, khiến chúng thường gọi ông là An Nam Hưng Đạo Vương chứ không dám gọi tên”(1).
Bảy thế kỉ qua, tên tuổi và sự nghiệp của Trần Hưng Đao luôn tỏa sáng trong sử sách, luôn là nguồn cảm hứng vô tận của thơ văn và nhiều loại hình nghệ thuật khác ở nước ta. Vua Trần Minh Tông (1314 - 1329) viết:
Sơn hà kim cổ song khai nhãn,
Hồ Việt doanh thâu nhất ỷ lan.
(Núi sông xưa nay mở đôi mắt mà xem,
Chuyện được thua của Hồ - chỉ nhà Nguyên - và Việt tựa lan can mà ngẫm nghĩ).
Đặng Minh Khiêm (? - 1585) viết:
Sinh phùng gia hấn thệ thâu trung,
Mậu kiến Trùng Hưng đệ nhất công.
Một hậu uy do tồi Bắc lỗ,
Ỷ thiên trường kiến da minh phong.
(Sinh vào lúc gia đình có sự hiềm khích nhưng vẫn thề giữ đức trung thành,
Giúp nên cơ nghiệp Trùng Hưng2 công lao hàng bậc nhất.
Dẫu đã mất mà uy phong còn bẻ gãy giặc Bắc.
Thanh kiếm dài tựa ngoài trời thuở xưa, đêm đêm thường rít lên như gió).
Cao Bá Quát (1808 - 1855) ca ngợi:
Phổ xuất tiên nguyên cái thế hào,
Phấn thân tuẫn quốc bất từ lao.
Xanh phù nhật cốc khâm hoài nhuệ,
Tấn tảo biên trần thủ đoạn cao.
Công mãn Nam thiên thùy trúc bạch,
Uy dư Đông Hải thiếp ba đào.
Phần Dương khánh diễn hồn dư sự,
Trường sử Hồ nhi thức tuấn mao.
(Là đấng anh hào bậc nhất trong đời, vốn dòng dõi nhà tiên3,
Dấn mình vì nước chẳng nề khó nhọc.
Nâng đỡ xe mặt trời lòng những hăng hái,
Quét sạch bụi ngoài cõi, mưu lược thật cao siêu.
Công cao đầy cả trời Nam, lưu truyền sử sách,
Uy linh khắp biển Đông, sóng cả yên lặng.
Ân trạch ở Phần Dương4 có sánh cũng bằng thừa.
Mãi khiến giặc Hồ phải biết tay tài giỏi ).
Các cây đại bút thời Trần như Bùi Tông Quán, Phạm Sư Mạnh, Lý Tế Xuyên, Trương Hán Siêu...v.v. đều có những tuyệt tác về Trần Hưng Đạo và sự nghiệp của ông. Các nhà khoa bảng Nho học sau đó cũng thường dành cho Trần Hưng Đạo những lời đặc biệt kính trọng
Ngày nay, hình như hiếm có vị anh hùng dân tộc nào mà họ tên và tước hiệu được trang trọng đặt cho nhiều đường phố, công sở và trường học như Trần Hưng Đạo.
_________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư, bản kỉ, quyển 6, tờ11-a.
2. Niên hiệu của vua Trần Nhân Tông, dùng từ năm 1285 đến năm 1293.
3. Đây chỉ dòng dõi nhà vua. Với vua Trần Thái Tông, Trần Hưng Đạo 1à cháu ruột. Với vua Trần Thánh Tông, Trần Hưng Đạo là anh con nhà bác. Với vua Trần Nhân Tông, Trần Hưng Đạo là bác họ.
4. Tức Phần Dương Quận Vương, tước hiệu của Quách Tử Nghi, người Trung Quốc đời Đường, có công lớn, được vua Đường rất kính nể.
Bài thơ này, cũng có người nói là của Nguyễn Khuyến. Đây chúng tôi theo ý chung của nhiều người mà nói là của Cao Bá Quát.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 21-12-2009 lúc 13:03.
2. CUỘC ĐỐI ĐẦU CÓ MỘT KHÔNG HAI TRONG LỊCH SỬ ĐẠI VIỆT
Cuối thế kỉ thứ XII, đầu thế kỉ thứ XIII, trên vùng đất thuộc Mông Cổ ngày nay, một cuộc chiến tranh đẫm máu giữa các bộ tộc du mục người Thát-đát (Tartare) đã diễn ra. Nguyên triều bí sử đã ghi lại khúc hát ngắn của người Thát-đát lúc bấy giờ như sau:
Trời có sao,
Đang quay cuồng,
Người người đã nổi dậy,
Không về chỗ ngủ của mình nữa,
Mà cướp đoạt của cải lẫn nhau.
Đất có cỏ
Đang lật nhào,
Người người đã nổi dây,
Không nằm trong chăn của mình nữa,
Mà đánh lẫn nhau(1).
Trong khói lửa của cuộc chiến tranh ác liệt đó, một nhân vật đặc biệt đã xuất hiện, đó là Tê-mu-jin (Tämüĵin), tên phiên âm Hán Việt là Thiết-mộc-chân, Thắc-mộc-chân hoặc là Đặc-mục-tân. Năm 1205, lần lượt các bộ tộc Thát-đát đều phải quỳ gối đầu hàng Tê-mu-jin và năm sau (năm 1206), Tê-mu-jin đã được tôn làm Trin-ghit Khan (Cinggis-qan) nghĩa là vua mạnh nhất. Âm Hán Việt của Trin-ghit Khan là Thành-cát-tư Hãn.
Sự kiện trọng đại này có ý nghĩa sâu sắc và lâu dài đối với toàn bộ quá trình phát triển sau đó của lịch sử các bộ tộc Thát-đát. Từ đây xã hội nguyên thủy của họ đã cáo chung. Từ đây, quốc gia thống nhất của những người du mục đã ra đời.
Nhưng, điều đáng tiếc là sau khi được tôn lên ngôi Hãn, Tê-mu-jin đã lợi dụng tài bắn cung và cưỡi ngựa của các bộ tộc du mục để tiến hành một cuộc chiến tranh tàn bạo đối với một loạt các quốc gia đương thời. Quân Mông Cổ đi tới đâu là ở đó bị tàn phá và giết chóc. “Nghệ thuật, những thư viện phong phú, nền công nghiệp ưu việt, cung điện và giáo đường - tất cả sạch không”(2). Nhà thơ V.Frik viết:
Không còn một dòng suối, một con sông nào
không tràn đầy nước mắt chúng ta;
Không còn một ngọn núi, một cánh đồng nào
không bị quân Tác-ta giày xéo(3).
Sau đây là những sự kiện lớn, đánh dấu lịch sử cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo chưa từng thấy này:
- Năm 1211, quân Mông Cổ tiến vào khu vực miền Bắc Trung Quốc ngày nay. Bấy giờ, đây là vùng chiếm cứ của người Nữ Chân, và từ năm 1115, họ đã lập ra được một quốc gia riêng cho mình, đó là nước Kim. Năm 1215, quân Mông Cổ đã chiếm được kinh đô của nước Kim, nhưng họ chỉ cướp đoạt của cải và bắt thật nhiều tù binh rồi rút về.
- Năm 1218, quân Mông Cổ chiếm được vùng phía Đông của Turkestan ngày nay.
- Năm 1219, kị binh Mông Cổ hung hãn tiến về Trung Á. Tại đây, một loạt những thành phố nổi tiếng, lần lượt bị tấn công và bị triệt hạ.
- Năm 1221, các vương quốc như Azerbaijan, Grouzia và nhiều thành phố lớn của Nga bị quân Mông Cố bóp nát.
- Năm 1223, sau thất bại thảm hại của liên quân Nga, đến lượt cả nước Nga cũng bị quân Mông Cổ chiếm đóng. Quân Mông Cổ đã ăn mừng chiến thắng bằng cách bắt trói các tướng chỉ huy liên quân Nga, kê ván lên đầu họ để... mở tiệc!
_________________________________
1. Dẫn lại của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm trong Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên-Mông thế kỉ XIII. Bản in lần thứ tư. Nhà Xuất bản Khoa học Xã hội, Hà Nội 1975, trang 41 và 42.
2. Dẫn lại của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm. Sách đã dẫn, trang 43.
3. Dẫn lại của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm. Sách đã dẫn, trang 37.
- Năm 1225, Mông Cổ tấn công Tây Hạ(1). Tây Hạ thất thủ.
- Năm 1227, Thành-cát-tư Hãn qua đời nhưng cuộc chiến tranh xâm lược tàn bạo của quân Mông Cổ vẫn tiếp tục được đẩy mạnh. Đầu năm 1238, quân Mông Cổ đã chiếm được Mạc-tư-khoa và cuối năm 1240, thành Ki-ép cũng bị quân Mông Cổ tiêu diệt.
- Năm 1241, quân Mông Cổ đánh vào Hung-ga ri, đuổi vua của Hung-ga-ri đến tận biên giới nước Ý. Bấy giờ, cả châu Âu bị chấn động dữ dội bởi vó ngựa hung hãn của quân Mông Cổ. Nỗi lo sợ bao trùm lên mọi quốc gia.
Cuộc thông thương giữa nước Anh với lục địa châu Âu bị gián đoạn. Hoạt động buôn bán của nhiều quốc gia cũng bị đình trệ.
Sau thất bại của đội liên minh kị binh giữa người Ba Lan và người Đức (1241), dân Đức chỉ còn biết cầu nguyện. Xin Chúa hãy cứu vớt chúng con khỏi họa Tác-ta.
Bà Thái Hậu của vua nước Pháp lúc bấy giờ là Saint Louis hỏi Saint Louis rằng “Nếu quân Tác-ta đến đây thì con sẽ làm gì?”. Saint Louis trả lời: “Nếu chúng kéo đến, một là ta đuổi chúng về địa ngục, nơi mà chúng đã ngoi lên, hai là chúng ta phải về thiên đường hưởng hạnh phúc mà Chúa đã dành cho chúng ta”.
Ngay đến cả Giáo Hoàng La-mã lúc ấy là Grégoire thứ IX cũng phải thốt lên rằng: “Nhiều việc khiến cho ta lo lắng, như những việc đáng buồn ở đất Thánh, những mối lo âu của giáo hội hay tình hình đáng thương của đế quốc La-mã. Nhưng, ta nguyện quên hết những lo âu đó mà chú tâm đến tai họa Tác-ta, sợ rằng hiện nay uy danh của đạo Cơ Đốc sẽ bị bọn Tác-ta tiêu diệt mất. Nghĩ đến đó là ta xương nát tủy khô, thân gầy sức kiệt, đau xót vô cùng, khiến ta không biết làm gì đây”.
- Trong khoảng mười năm, kể từ sau năm 1241, đế quốc Mông Cổ tuy có bị khủng hoảng bởi sự lục đục trong nội bộ giai cấp thống trị nhưng nhìn chung, phần đất đai đã chiếm vẫn được giữ vững.
- Năm 1251, khi Möngkä (phiên âm Hán-Việt là Mông-kha) lên ngôi Hãn, cuộc khủng hoảng nội bộ của Mông Cổ chấm dứt, những cuộc viễn chinh lại được ráo riết tiến hành. Từ đây, quân Mông Cố đẩy mạnh bành trướng xuống phương Nam.
- Năm 1252, ngay khi cuộc thôn tính Trung Quốc còn đang dở dang, Mông-kha đã ra lệnh cho em của hắn là Qubilai (phiên âm Hán - Việt là Hốt-tất-liệt) đánh xuống Vân Nam. Cùng đi với Hốt-tất-liệt còn có tướng U-ri-ang-kha-đai (có nhiều cách phiên âm Hán - Việt khác nhau, nhưng phổ biến nhất là Ngột-lương-hợp-thai). Bấy giờ, đất Vân Nam thuộc lãnh thổ của nước Đại Lý và vua của Đại Lý lúc ấy là Đoàn Hưng Trí. Chỉ trong một thời gian ngắn, nước Đại Lý bị tiêu diệt. Hốt-tất-liệt trở về Mông Cổ, giao quyền quản lí đất này cho Ngột-lương-hợp-thai.
- Năm 1257, quân Mông Cổ do Ngột-lương-hợp-thai chỉ huy đã men theo sông Hồng, tràn xuống xâm lược nước ta và đó cũng là lần đầu tiên, quân Mông Cổ nếm mùi thất bại ở Đại Việt.
- Năm 1260, Hốt-Tất-Liệt lên ngôi Hãn. Sau một thời gian ngắn tập trung ổn định ngôi vị, Hốt-Tất-Liệt đã cho quân dồn dập tấn công nhà Tống. Năm 1278, nhà Tống bị diệt, Hốt-Tất-Liệt hoàn tất cuộc thôn tính Trung Quốc đã mở đầu trước đó bốn mươi năm.
- Cũng sau khi hoàn tất việc thôn tính đất đai Trung quốc Hốt-Tất-Liệt bắt đầu huy động những đạo quân thiện chiến và khổng lồ để đánh xuống nước ta. Đây quả thật là cuộc đối đầu có một không hai trong lịch sử Đại Việt.
Bấy giờ, đế quốc Mông Cố chẳng khác gì một con ác thú khổng lồ, mình phủ kín cả một vùng rộng lớn, kéo dài từ Hắc Hải đến Thái Bình Dương. Đất đai, dân số và tiềm lực kinh tế to lớn gấp hàng trăm lần so với Đại Việt.
Cũng bấy giờ, đất Đại Việt mới khoảng từ phía Bắc tỉnh Quảng Trị ngày nay trở ra, dân Đại Việt ước tính khoảng hơn ba triệu người. Đã thế, Đại Việt lại vừa thoát khỏi cuộc khủng hoảng trầm trọng. Quá trình phục hồi uy danh Đại Việt của nhà Trần cũng chỉ mới tiến hành được mấy chục năm.
Hốt-Tất-Liệt đã làm tất cả những gì mà quyền uy Hoàng Đế của đế quốc Mông Cổ có thể làm. Nhưng Đại Việt đã thắng bởi Đại Việt là Đại Việt và hẳn nhiên là cũng bởi một phần vì lúc bấy giờ, Đại Việt có Trần Hưng Đạo - một trong những vị danh tướng kiệt xuất nhất của lịch sử nhân loại.
3. BA MƯƠI NĂM, BA LẦN ĐẠI HỌA
Trong vòng ba mươi năm (từ năm 1257 đến năm 1288), đế quốc Mông Cổ khổng lồ đã ba lần ồ ạt cho quân tràn xuống xâm lược nước ta. Lần sau, lực lượng to lớn hơn, chuẩn bị công phu hơn và quyết tâm cũng cao độ hơn, khiến cho thử thách lịch sử đối với quân dân Đại Việt càng trở nên quyết liệt hơn.
Cuộc xâm lăng lần thứ nhất của quân Mông Cổ diễn ra vào cuối năm Đinh Tị (1257). Bấy giờ, quân Mông Cổ đã chiếm được nước Đại Lý và lập tức sử dụng Đại Lý như một bàn đạp lợi hại để đánh xuống nước ta. Tướng giặc là Ngột-lương-hợp-thai trực tiếp chỉ huy cuộc tấn công xâm lược này. Trước đó, chúng đã liên tiếp sai sứ giả sang hù dọa, nhưng triều đình nhà Trần không một chút mảy may lo sợ, ngược lại, còn ra lệnh bắt giam tất cả sứ giả của chúng. Thấy không thể dùng sứ giả để ép triều Trần đầu hàng, Ngột-lương-hợp-thai đã cho ba vạn quân, gồm chủ yếu là kị binh, bắt vua nước Đại Lý là Đoàn Hưng Trí dẫn đường để đi đánh nước ta, nhưng, Đoàn Hưng Trí đã chết khi chưa kịp đến Đại Việt. Đối với một số nước khác, ba vạn quân chưa phải là lực lượng lớn, nhưng đối với Đại Việt đương thời, đó thực sự là đối thủ rất hùng mạnh.
Cuộc xâm lăng lần thứ hai, diễn ra vào năm 1285. Bấy giờ, Hốt-Tất-Liệt đã lên ngôi Hãn được 25 năm và đã đổi quốc hiệu là nhà Nguyên được 14 năm. Cũng bấy giờ, cuộc thôn tính Trung quốc đã hoàn tất, đế quốc Nguyên đang ở vào thời sung mãn nhất. Con trai của Hốt-Tất-Liệt là Thoát Hoan được lệnh đem 500.000 quân tràn sang nước ta. Ngoài ra, đạo quân 100.000 tên do Toa-Đô chỉ huy, trước đó đã có mặt ở Chiêm Thành, cũng được lệnh rời Chiêm Thành để đánh vào mặt Nam của Đại Việt. Sát cánh với Thoát-Hoan và Toa-Đô còn có nhiều tướng lĩnh dày dạn trận mạc khác. Tính ra, cứ khoảng sáu người dân Đại Việt (bất kế già trẻ gái trai), phải đương đầu với một tên giặc Nguyên hung hăng, tàn bạo và thiện chiến. Lịch sử kim cổ đông tây, qua thật là cực kì hiếm có một cuộc đối đầu nào hoàn toàn không cân xứng như vậy.
Cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ ba diễn ra vào cuối năm 1287 đầu năm 1288. Để có thể tiến hành cuộc chiến tranh xâm lược này, Hốt-Tất-Liệt đã buộc phải ban bố hai quyết định rất quan trọng. Một là đình chỉ cuộc chiến tranh xâm lược Nhật Bản đã được chuẩn bị công phu trước đó, nhằm dốc toàn lực cho cuộc tấn công vào nước ta. Hai là tìm cho bằng được những nguyên nhân thất bại thảm hại của chúng ở nước ta trong các cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ nhất và lần thứ hai. Hốt-Tất-Liệt đã huy động năm mươi vạn quân, giao cho Thoát-Hoan làm tổng chỉ huy. Sát cánh với Thoát Hoan và một loạt những tướng lĩnh khét tiếng như Ô-Mã-Nhi, Áo-lỗ-xích, Phàn Tiếp, Tích Lệ Cơ, Trương Văn Hổ...v. v. Điều đáng nói là lần này, bên cạnh lực lượng kị binh và bộ binh hùng hậu, Hốt-Tất-Liệt còn thành lập một đạo thủy binh, giao cho Ô-Mã-Nhi cầm đầu. Thủy binh vừa là một lực lượng tác chiến nguy hiểm, lại vừa là lực lượng hỗ trợ đắc lực cho kị binh và bộ binh vượt sông. Ngoài ra, Hốt-Tất-Liệt còn lập thêm một đoàn thuyền lương, giao cho tướng Trương Văn Hổ chỉ huy. Đây là việc làm tỏ rõ quyết tâm khắc phục nạn thiếu lương thực và các vật dụng rất thiết yếu khác của quân xâm lăng. Cùng tiến vào nước ta lần này, ngoài năm chục vạn quân Nguyên còn có cả một lực lượng quý tộc và quan lại phản quốc do Trần Ích Tắc cầm đầu. Một lần nữa, vận nước lâm nguy. Xét về quy mô, cuộc đối đầu lần thứ ba không lớn hơn cuộc đối đầu lần thứ hai, nhưng xét về tính chất, đây là cuộc xâm lăng được chuẩn bị công phu và chặt chẽ nhất. Xét về quyết tâm, đây là lần tột độ nhất. Thành bại của cuộc đối đầu lần thứ ba này tác động trực tiếp và vô cùng mạnh mẽ đến sự tồn vong của Đại Việt và đến toàn bộ mưu đồ của nhà Nguyên trong cuộc bành trướng xuống phía Nam.
Ba mươi năm, ba trận đại cuồng phong bởi vó ngựa hung tàn của tổng cộng trên một triệu quân Mông-Nguyên! Đó thực sự là thử thách cam go nhất của lịch sử Đại Việt. Công lao đưa Đại Việt thoát khỏi những cơn binh lửa xâm lăng hiểm nghèo này, mãi mãi thuộc về các thế hệ quân dân kiên cường của thế kỉ XIII, thuộc về các nhà lãnh đạo chiến tranh kiệt xuất thời Trần mà nổi bật hơn cả vẫn là Trần Hưng Đạo
4. TÂM THÀNH SÁNG MÃI VỚI THIÊN THU
Trước và trong toàn bộ quá trình tiến hành ba cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại, vấn đề bức thiết đặt ra hàng đầu đối với triều Trần vẫn là không ngừng củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân. Đây vừa là cơ sở quyết định thành bại của sự nghiệp giữ nước, lại cũng vừa là nhân tố tác động thường xuyên và mãnh liệt đến sự tồn tại của chính bản thân triều Trần. Bấy giờ, trên Trần Hưng Đạo là cả một triều đình lớn với nhiều hệ thống cơ quan và tước vị khác nhau, trên triều đình còn có nhà vua và Thượng hoàng nữa. Nhưng cũng bấy giờ, mọi hành vi và cử chỉ của Trần Hưng Đạo lại có ảnh hưởng to lớn nhất đối với khối đoàn kết chung. Sự thật đặc biệt này có nguồn gốc sâu xa từ chính quá trình thành lập của triều Trần.
Tháng chạp năm Ất Dậu (1225), đê dọn đường cho họ Trần tiến nhanh vào vũ đài chính trị, Trần Thủ Độ đã khôn khéo dàn xếp, tạo ra cuộc tảo hôn giữa nữ hoàng của triều Lý là Lý Chiêu Hoàng (mới 7 tuổi) với cháu của mình là Trần Cảnh (mới 8 tuổi). Ngay sau đó, cũng chính Trần Thủ Độ đã bố trí để Lý Chiêu Hoàng nhường ngôi cho chồng là Trần Cảnh. Triều Trần được lập nên kể từ đấy.
Trần Cảnh về sau có miếu hiệu là Trần Thái Tông.
Trước đó, chị ruột của Lý Chiêu Hoàng là Công chúa Thuận Thiên cũng đã được gả cho anh ruột của Trần Cảnh là Trần Liễu. Tháng giêng năm Đinh Dậu (1237). Trần Thủ Độ ép Trần Liễu phải nhường Công chúa Thuận Thiên (lúc này đã có thai với Trần Liễu được ba tháng) cho Trần Cảnh. Bởi sự kiện này, hai anh em Trần Liễu và Trần Cảnh xung đột với nhau. Đã có lúc, họ từng đem quân dàn trận để đánh nhau quyết liệt. Trước lúc lâm chung (vào năm 1251), mối hận thù vẫn còn đè nặng Trần Liễu.
Là con của Trần Liễu, dầu muốn hay không thì Trần Hưng Đạo cũng phải chịu nhiều mối nghi ngờ khác nhau, từ phía chú ruột là vua Trần Thái Tông, từ các con của vua Trần mà nổi bật là Trần Quang Khải, từ các bậc quý tộc mà đặc biệt là Trần Khánh Dư, từ nhiều quan lại gồm đủ cả văn lẫn võ…v.v.
Chỉ cần một chút sơ suất trong ứng xử, Trần Hưng Đạo cũng có thể gây ra những ngộ nhận mà hậu quả thật khó lường.
Trong bối cảnh khắc nghiệt của lịch sử lúc ấy, vấn đề củng cố và tăng cường sức mạnh của khối đoàn kết không phải chỉ là vấn đề riêng của đội ngũ quý tộc và tướng lĩnh cao cấp, không phải chỉ là vấn đề riêng của nội bộ triều đình. Đây là vấn đề lớn lao chung của toàn dân, của đất nước. Trong chỗ đẩy đưa không ngờ, phần chủ yếu của gánh nặng giang sơn gần như đã đặt hết lên đôi vai của Trần Hưng Đạo. Với tất cả tâm thành và tài năng kiệt xuất, Trần Hưng Đạo đã có những đóng góp hết sức quan trọng vào sự nghiệp này. Ông đã để lại cho lịch sử một loạt những kinh nghiệm vô giá về nghệ thuật xây dựng khối đoàn kết vì nghĩa cả thiêng liêng là đánh giặc giữ nước, mà trên đại thể, chúng ta có thể ghi nhận qua năm bước tuần tự từ thấp lên cao như sau:
Bước thứ nhất: Khôn khéo hàn gắn những vết rạn nứt trong đội ngũ quý tộc và tướng lĩnh cao cấp.
Như trên đã nói, cuộc xung đột giữa Trần Liễu với vua Trần, mối hiềm nghi của vua Trần đối với Trần Hưng Đạo, cùng sự bất hòa giữa Trần Quang Khải và Trần Khánh Dư với Trần Hưng Đạo…v.v vừa là biểu hiện lo ngại của sự rạn vỡ tình anh em ruột thịt và nghĩa thân tộc họ hàng, đồng thời, lại cũng vừa là biểu hiện của sự chia rẽ rất nguy hiểm giữa những người chịu trách nhiệm điều khiển vận mệnh quốc gia. Sử cũ đã trân trọng ghi chép nhiều mẩu chuyện cảm động về Trần Hưng Đạo1. Ông luôn luôn bày tỏ lòng trung thành tuyệt đối của mình đối với nhà vua, xóa dần để rồi cuối cùng đã xóa sạch lòng ngờ vực của nhà vua và của bá quan văn võ. Chính Trần Hưng Đạo đã tự mình tắm rửa cho Trần Quang Khải, khiến cho quân sĩ ngạc nhiên và sung sướng reo hò rằng: Quốc Công tắm cho Thượng tướng, chúng ta không còn lo về nỗi chết chóc nữa! Và, cũng chính Trần Hưng Đạo là người đã có ảnh hưởng rất to lớn đối với nhà vua và triều đình trong việc khôi phục lại chức tước cho danh tướng Trần Khánh Dư, khiến lòng người bấy giờ rất cảm kích...v.v. Đó chưa phải là tất cả, nhưng đó thật sự là những gì tốt đẹp được truyền tụng mãi không thôi. Ngờ vực và xích mích mất dần, mối quan hệ thân thiện cũng dần dần được xác lập, quý tộc và tướng lĩnh cao cấp hoan hỉ với bầu không khí trong lành, đủ để có thể sát cánh cùng nhau bàn chuyện quốc gia đại sự.
Bước thứ hai: Tạo lập và ra sức bảo vệ cốt lõi bền vững của khối đoàn kết trong nội bộ quý tộc và tướng lĩnh cao cấp.
Thắng lợi của bước thứ nhất tuy rất to lớn, nhưng, thắng lợi đó chỉ mới tạo ra được một khối người không xích mích với nhau, chưa đủ sức để tạo được một khối đoàn kết thực sự theo đúng nghĩa của từ này. Bằng tất cả đức độ và uy tín chính trị đặc biệt của mình, Trần Hưng Đạo đã tác động một cách rất tích cực và có hiệu quả đến quyết định vô cùng quan trọng của triều Trần: triệu tập hội nghị Bình Than (năm 1282).
Đây là cuộc hội nghị của những người giữ trọng trách lãnh đạo sự nghiệp giữ nước. Sở dĩ gọi là hội nghị Bình Than vì cuộc hội nghị này được tổ chức tại bến Bình Than. Bến Bình Than là một trong những bến của sông Bình Than tức sông Lục Đầu. Từ Bình Than, binh thuyền có thể men theo những con sông lớn nhỏ đế tiến lên các địa phương vùng Đông Bắc, và cũng từ Bình Than, thủy quân có thể dễ dàng tiến ra sông Bạnh Đằng. Nói khác hơn, đây là một trong những vị trí rất quan trọng, nằm sát ngay miền duyên hải Đông Bắc nước ta1. Hội nghị Bình Than chỉ bàn đến hai vấn đề thiết yếu nhất. Diễn đạt theo cách nói hiện đại, thì hai vấn đề đó là xác định phương hướng chiến lược chống xâm lăng và tổ chức bộ máy chỉ huy chống xâm lăng. Cũng diễn đạt theo cách nói hiện đại, phương hướng chiến lược chống xâm lăng mà cuộc hội nghị này đã xác định là: phát động và lãnh đạo một cuộc chiến tranh vệ quốc mang tính nhân dân sâu sắc. Về bộ máy chỉ huy chống xâm lăng, hẳn nhiên là quyền quyết định tối hậu vẫn thuộc về vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, nhưng từ tháng 10 năm Quý Mùi (1283), tức là đúng một năm sau hội nghị Bình Than, Trần Hưng Đạo được trao quyền tổng chỉ huy quân đội:
“Tấn phong Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn làm Quốc Công Tiết chế thống lĩnh quân sĩ cả nước, cho được quyền chọn bọn quân hiệu có tài chỉ huy, sai đi chỉ huy các đơn vị”2.
Như vậy là kể từ đây, nói đoàn kết tức là đoàn kết chung quanh phương hướng chiến lược chống xâm lăng, đoàn kết chung quanh bộ máy chỉ huy chống xâm lăng. Hội nghị Bình Than thực sự có ý nghĩa cực kì quan trọng trong việc tạo ra cốt lõi bền vững cho khối đoàn kết của quý tộc và tướng lĩnh cao cấp, cho toàn bộ quá trình không ngừng mở rộng và củng cố khối đoàn kết của toàn dân. Thắng lợi của hội nghị Bình Than vừa có giá trị thực tiễn to lớn đối với cuộc kháng chiến chống xâm lăng thời Trần, vừa để lại cho hậu thế những bài học kinh nghiệm vô giá trên nhiều lĩnh vực khác nhau.
Bước thứ ba: Trên cơ sở khối đoàn kết của quý tộc và tướng lĩnh cao cấp, nhanh chóng mở rộng và củng cố khối đoàn kết của toàn dân, biến quyết tâm của triều đình thành quyết tâm chung của cả nước.
Sau hội nghị Bình Than, khối đoàn kết của quý tộc và tướng lĩnh cao cấp đã được thiết lập một cách vững vàng. Nhưng, cho dẫu khối đoàn kết ấy vững vàng đến bao nhiêu đi chăng nữa thì đó cũng chỉ mới là một bộ phận. Đúng như tinh thần của hội nghị Bình Than, vấn đề đặt ra hàng đầu vẫn là làm sao để có thể nhanh chóng mở rộng và củng cố khối đoàn kết của toàn dân. Một lần nữa, với tất cả uy tín chính trị to lớn của mình, Trần Hưng Đạo đã khôn khéo tác động, góp phần quan trọng vào việc tạo ra một quyết định hết sức độc đáo của triều Trần là triệu tập hội nghị Diên Hồng.
Sở dĩ gọi là hội nghị Diên Hồng vì cuộc hội nghị này được tổ chức ngay trong điện Diên Hồng - một trong những cung điện ở kinh thành Thăng Long. Hội nghị Diên Hồng được triệu tập vào cuối năm 1284 (tính theo âm lịch), đầu năm 1285 (tính theo dương lịch). Đây là hội nghị các bậc phụ lão, đại diện cho nhân dân các làng xã cả nước.
Trong xã hội nông nghiệp thời trung đại, tiếng nói của các bậc cao niên bao giờ cũng có ảnh hưởng rất mạnh mẽ. Triệu tập được các bậc cao niên cũng có nghĩa là triều Trần đã nắm được lực lượng đang giữ vị trí chi phối xã hội đương thời. Hội nghị Diên Hồng được tổ chức đúng vào lúc quân Nguyên đã áp sát biên giới phía Bắc, vận nước đang bị đe dọa một cách nghiêm trọng. Hội nghị Diên Hồng được khai mạc đúng vào lúc tết cổ truyền của dân tộc ta cũng sắp đến. Nói khác hơn, đây chính là thời điểm thuận tiện nhất để triều Trần có thể khơi dậy và cổ vũ ý chí độc lập của toàn dân.
Khác với hội nghị Bình Than, do đặc trưng riêng của thành phần tham dự, hội nghị Diên Hồng không bàn đến những vấn đề có ý nghĩa chiến lược và chiến thuật mà chỉ bàn xem nên đánh hay nên hòa với giặc. Ngoan cường chiến đấu thì mới mong giữ được tôn miếu cho xã tắc, giữ được cơ nghiệp cho mọi nhà. Hòa cũng có nghĩa là phải chấp nhận để mặc cho giặc ngoại xâm dày xéo, phải phịu cảnh nước mất nhà tan - Hòa cũng có nghĩa là đầu hàng. Sử cũ chép rằng “Các cụ phụ lão đều hô quyết đánh, vạn người như một, tiếng vang như cùng bật ra từ một cửa miệng vậy”(3).
Hội nghị Diên Hồng là một sự kiện rất độc đáo của lịch sử nước ta, là một trong những đỉnh cao của nghệ thuật tập hợp lực lượng. Từ hội nghị Diên Hồng, khối đoàn kết toàn dân đánh giặc đã được xác lập. Cũng từ hội nghị Diên Hồng, quyết tâm của triều đình nhà Trần đã nhanh chóng biến thành quyết tâm chung của cả nước. Nhận định về ý nghĩa của hội nghị Diên Hồng, sử gia lỗi lạc của nước nhà thế kỉ XV là Ngô Sĩ Liên viết rằng: “Giặc Hồ (chỉ giặc Nguyên - NKT) tràn vào cướp, ấy là nạn lớn của quốc gia. Hai vua (chỉ Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông - NKT) cùng hợp mưu, bề tôi cùng họp bàn, há không có kế sách gì hay sao mà phải ban yến để hỏi ý các bậc phụ lão? Ấy chẳng qua cũng vì (Thượng Hoàng Trần) Thánh Tông muốn nhân đó để xét lòng thành ủng hộ của dân và cũng để dân nghe lời dụ hỏi mà cảm kích để rồi hăng hái hơn đó thôi. Làm như vậy là giữ được cái đức của người xưa trọng người già để xin lời hay vậy”(4).
________________________________
1. Bến Bình Than nay thuộc xã Trần Xá, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Hưng.
2. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 43-b)
3. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 44a).
4. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 44a-b).
Bước thứ tư: khôn khéo tìm mọi biện pháp để kích động mạnh mẽ lòng yêu nước thiết tha, lòng căm thù giặc sâu sắc của tướng sĩ và của toàn dân, tạo ra khí thế quật cường bừng bừng khắp cả nước.
Để thực hiện bước thứ tư này, triều Trần đã thực hiện nhiều chủ trương sinh động khác nhau, tuy nhiên, hiệu quả phi thường hơn cả vẫn là việc Trần Hưng Đạo kịp thời biên soạn và phổ biến bài Hịch tướng sĩ văn.
Mở đầu áng hùng văn này, Trần Hưng Đạo chân thành bày to lòng cảm phục gương tiết tháo của
các bậc anh hùng hào kiệt, đồng thời, chân thành bày tỏ lòng yêu nước nồng nàn của chính mình.
Hịch tướng sĩ văn đã phân tích một cách sâu sắc về mối quan hệ mật thiết giữa quyền lợi của cá nhân, gia đình và dòng họ với quyền lợi của cộng đồng và quốc gia, để rồi kết luận một cách chắc chắn và đầy thuyết phục rằng: nước mất thì nhà tan, rằng muốn bảo vệ quyền lợi của cá nhân, của gia đình và dòng họ thì phải xả thân đánh giặc cứu nước.
Hịch tướng sĩ văn cũng chỉ rõ: muốn chiến thắng đội quân xâm lăng to lớn, khét tiếng tàn bạo và thiện chiến như quân Nguyên, thì ngoài tinh thần chiến đấu, lí tưởng chiến đấu và trình độ võ nghệ, quân sĩ còn phải được trang bị về lí luận quân sự, được huấn luyện về binh pháp. Lúc bấy giờ, bộ binh pháp duy nhất phù hợp với cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại mà nhân dân ta đang tiến hành cũng chính là Binh thư yếu lược của Trần Hưng Đạo(1).
Kết thúc Hịch tướng sĩ văn, Trần Hưng Đạo chỉ rõ, khi vận nước lâm nguy, lẽ sống thiêng liêng nhất của mọi thần dân chính là quả cảm đánh giặc để cứu nước.
Với Hịch tướng sĩ văn, Trần Hưng Đạo đã có công khơi dậy ngọn lửa quật cường trong lớp lớp binh sĩ và trong đông đảo nhân dân. Bấy giờ, cảm kích trước lời hịch đanh thép của Trần Hưng Đạo binh sĩ đã tự khắc vào cánh tay mình hai chữ sát Thát (nghĩa là giết giặc Thát-đát tức giặc Nguyên). Hịch tướng sĩ văn không chỉ là một văn kiện quân sự mà còn thực sự là một trong những áng thiên cổ hùng văn, có giá trị bất diệt trong lịch sử văn học của nước nhà.
Bước thứ năm: Biến nhiệm vụ đánh giặc cứu nước thành một nội dung của pháp luật, ai có công lao sẽ được khen thưởng, ai có tội sẽ bị trừng phạt.
Với tư cách là lực lượng chịu trách nhiệm điều khiển vận mệnh quốc gia, triều Trần đã tiến hành một loạt những biện pháp, tổ chức và động viên rất tích cực. Tuy nhiên, tất cả các biện pháp đó chỉ có ý nghĩa đối với những ai giàu thiện chí và nghĩa khí mà thôi. Với những kẻ bạc nhược, triều Trần sẵn sàng nghiêm trị. Một sắc lệnh rất kiên quyết đã kịp thời được ban hành: “Tất cả các quận huyện trong nước, nếu có giặc ngoài đến, phải liều chết mà đánh, nếu sức không địch nổi thì cho phép lẩn tránh vào rừng núi, không được đầu hàng”(2). Sắc lệnh này đã phát huy được tác dụng rất to lớn. Sau này, chỉ có hai làng là Bàng Hà và Ba Điểm (cả hai đều thuộc đất tỉnh Hải Hưng ngày nay) vi phạm sắc lệnh này. Một số quý tội và quan lại cũng bị trừng trị bởi tội danh này. Sử cũ chép rằng:
“Người nào đã đầu hàng giặc, thì giờ đây, dẫu đang ở trên đất giặc cũng bị kết án vắng mặt, hoặc khép tội lưu, hoặc khép tội xử tử và tịch thu gia sản xung công.
Bọn Trần Kiện và Trần Văn Lộng bắt phải đổi thành họ Mai, riêng Trần Ích Tắc vì là thân vương, không nỡ bắt đổi họ, chỉ bắt gọi là ả Trần tức là có ý mỉa mai sự nhu nhược như đàn bà con gái. Vì sự này, sử cũ thỉnh thoảng vẫn chép là ả Trần hoặc Mai Kiện. Đặng Long từng là bề tôi được hầu cận, trước đó, Nhà vua đã có ý định phong hắn làm Hàn Lâm Học Sĩ nhưng Thượng Hoàng ngăn đi, vì thế, Đặng Long oán giận rồi đi đầu hàng giặc, sau bị bắt và bị xử tử. Quân dân (nếu lỡ hàng) đều được miễn tội chết. Duy có hai làng Bàng Hà và Ba Điểm, giặc vừa vào đã hàng ngay, cho nên (triều đình) bắt hai làng ấy phải chịu tội đồ bắt làm sai sử hoành (tức chỉ được làm tôi tớ - NKT), không được làm quan”(3).
Năm bước tuần tự từ thấp lên cao, từ phạm vi triều đình đến quy mô cả nước, sắc thái tuy có khác nhau, song, tất cả đều thể hiện một cách sinh động và sâu sắc năng lực xây dựng khối đoàn kết, thể hiện tâm thành ngời sáng của tuyệt đại đa số quý tộc họ Trần mà nổi bật hơn cả là Trần Hưng Đạo. Nguyên nhân quyết định thắng lợi trọn vẹn của sự nghiệp giữ nước ở thế kỉ XIII đã xuất hiện rõ rệt trong từng bước của toàn bộ quá trình này.
__________________________________
1. Xin xem thêm mục 1 - Tóm lược về tiểu sử.
2. Dẫn lại của Hà Văn Tấn và Phạm Thị Tâm trong Cuộc kháng chiến chống xâm lược Nguyên - Mông thế kỉ XIII. Sách đã dẫn, trang 178.
3. Khám định Việt sử thông giám cương mục (chính biên, quyển 8, tờ 14).
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 21-12-2009 lúc 13:13.
5. TRẦN HƯNG ĐẠO - LINH HỒN CỦA NHỮNG CHIẾN CÔNG HIỂN HÁCH NHẤT THẾ KỈ THỨ XIII
a) Tổng chỉ huy lực lượng bảo vệ biên giới phía Bắc
Từ giữa năm Bính Thìn (1256), tình hình đã trở nên rất căng thẳng. Bấy giờ, nhà Tống liên tiếp thất bại trước những cuộc tấn công tàn bạo của quân Mông Cổ. Sự sụp đổ quá nhanh chóng của quốc gia Đại Lý và những thất bại thảm hại của quân đội “thiên triều” đã tác động không nhỏ đến nước ta. Những kẻ vừa yếu bóng vía, vừa nặng lòng tị hiềm đã bắt đầu tìm đường bỏ trốn khỏi đất nước. Một trong những người đầu tiên, tiếc thay, lại là con trai trưởng của Trần Liễu, anh của Trần Hưng Đạo.
“Mùa thu, tháng 7 (năm Bính Thìn, 1256 – NKT), Vũ Thành Vương là (Trần) Doãn đem cả nhà trốn sang nước Tống. Thổ quan (của nhà Tống) ở phủ Tư Minh là Hoàng Bính, bắt và đem nạp lại cho ta.
Trần Doãn là con của An Sinh Vương (tức Trần Liễu - NKT.) do bà Hiển Từ sinh hạ. An Sinh Vương vốn có hiềm khích với Nhà vua, rồi bà Hiển Từ cũng qua đời, cho nên (Trần Doãn) bị thất thế, chạy trốn sang nước Tống. Vua thưởng tiền lụa cho (Hoàng) Bính, đồng thời, hạ lệnh phòng giữ biên giới rất nghiêm ngặt”(1).
Dẫu có thân sinh là người từng xung đột, đem quân đánh lại Nhà vua, dẫu có anh ruột là người đang tâm bỏ trốn khỏi đất nước và dẫu chính bản thân mình cũng đang bị không ít triều thần nghi hoặc, Trần Hưng Đạo vẫn được vua Trần lúc đó là Trần Thái Tông (1226-1258) tin cậy mà trao phó trọng trách trấn giữ vùng biên cương phía Bắc của nước nhà:
“Tháng 8 (năm Đinh Tị, 1257 - NKT), chủ trại Quy Hóa(2) là Hà Khuất sai người chạy trạm về báo rằng có sứ giả của nhà Nguyên sang. Tháng 9, (Nhà vua) xuống chiếu, ra lệnh cho các tướng tả hữu đem quân thủy và quân bộ ra ngăn giữ ở biên giới. Tất cả đặt dưới sự chỉ huy của (Trần) Quốc Tuấn. Mùa đông, tháng 11, lệnh truyền cả nước sắm vũ khí”(3).
Khi nhận trọng trách này Trần Hưng Dạo chưa đầy ba mươi tuổi, nhưng, vị tướng quân còn rất trẻ ấy đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ của mình, xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao của triều đình và của các tướng sĩ đương thời. Toàn bộ dải biên cương trùng điệp núi rừng ở phía Bắc được kiểm soát chặt chẽ, mọi động tĩnh lớn nhỏ ở biên giới đều được thông báo về triều đình một cách kịp thời. Những thông tin phong phú và chính xác do Trần Hưng Đạo chuyển đạt về có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với việc hoạch định kế sách chung của triều đình. Thắng lợi của cuộc kháng chiến lần thứ nhất gắn liền với công lao trấn giữ biên cương của Trần Hưng Đạo.
Tháng 12 năm 1257, từ lãnh thổ nước Đại Lý mới chiếm được, tướng Mông Cổ là Ngột-lương-hợp-thai đem gần ba vạn quân, men theo sông Hồng để ồ ạt tiến xuống phương Nam, mở đầu cuộc chiến tranh xâm lược Đại Việt. Vua Trần lúc bấy giờ là Trần Thái Tông đã tự mình làm tướng, tổng chỉ huy quân sĩ cả nước, tiến lên vùng Bình Lệ Nguyên(4) để đón đánh giặc. Trần Hưng Đạo là một trong những vị dũng tướng đã sát cánh chiến đấu bên cạnh Nhà vua và đã có công gây cho đội quân của Ngột-lương-hợp-thai những thiệt hại không nhỏ. Đây chính là một trong những cơ sở quan trọng để sau này triều Trần trao quyền tổng chỉ huy quân đội cho Trần Hưng Đạo trong các cuộc chiến tranh lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288)
___________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 21-b).
2. Trại là đơn vị hành chính thời Trần. Trại Quy Hóa gồm vùng đất tương ứng với toàn bộ tỉnh Yên Bái cộng với phần lớn tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.
3. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 22-a).
4. Vùng Hương Canh, tỉnh Vĩnh Phú ngày nay.
b) Người đứng đầu lực lượng vũ trang cả nước, người trực liếp vạch kế hoạch chung, đồng thời cũng là tướng chỉ huy những trận quan trọng nhất trong cuộc kháng chiến lần thứ hai.
Nếu như trước và trong cuộc kháng chiến lần thứ nhất (1257), Trần Hưng Đạo chỉ mới là một vị dũng tướng, tổng chỉ huy lực lượng bảo vệ biên giới phía Bắc, thì trước và trong cuộc kháng chiến lần thứ hai (1285) cũng như lần thứ ba (1288), Trần Hưng Dạo là người được trao toàn quyền điều khiển mọi hoạt động của lực lượng vũ trang cả nước. Trọng trách này, Trần Hưng Đạo chính thức đảm nhận kể từ tháng 10 năm 1283. Kể từ đây, Trần Hưng Đạo ngày đêm chăm lo luyện tập tướng sĩ, không ngừng nâng cao khả năng chiến đấu của quân đội Đại Việt. Cũng kể từ đây, Trần Hưng Đạo dốc hết trí lực, cùng với Thượng Hoàng, Nhà vua và các tướng lĩnh cao cấp, quyết tìm cho bằng được kế sách đối phó hữu hiệu nhất với quân Mông-Nguyên xâm lăng. Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, chính Trần Hưng Đạo là người đã khai sinh ba quyết định có ý nghĩa chiến lược rất đúng đắn. Một là, đối với đạo quân 50 vạn tên do Thoát-Hoan chỉ huy, tấn công từ mặt Bắc xuống, ta tạm thời rút lui để bảo toàn lực lượng, tránh ngọn đòn mạnh nhất của kẻ thù đang lúc hung hăng. Hai là, đối với đạo quân gần một chục vạn tên do Toa-Đô chỉ huy, từ Chiêm Thành tiến lên, ta quyết tâm đánh trả, không để cho chúng có cơ hội nhanh chóng nhập cục với đại binh của Thoát-Hoan(1). Ba là, kiên trì tổ chức hàng loạt những cuộc nghi binh nhằm đánh lạc hướng của kẻ thù và nhằm bảo toàn lực lượng của ta, vững chí chờ thời cơ thuận tiện nhất để mở một loạt chiến dịch lớn quét sạch quân xâm lăng khỏi bờ cõi.
Trong thử thách cam go, hiển nhiên là cũng có những người không đủ khả năng và bản lĩnh để vượt qua. Họ tỏ ra hoang mang, dao động và mất dần niềm tin vào thắng lợi cuối cùng.
Tháng giêng năm Tân Tị (1281), chú họ của vua Trần là Trần Di Ái (cũng tức là Trần Ái) được sai sang chầu vua Nguyên. Cùng đi với Trần Di Ái còn có bọn Lê Mục và Lê Tuân. Nhưng phái bộ yếu bóng vía này đã đầu hàng và nhận chức tước của nhà Nguyên. Vua nhà Nguyên lập tức phong Trần Di Ái làm An Nam Quốc Vương, đồng thời cho 1000 quân sĩ hộ tống trở về. Tháng 6 năm Nhâm Ngọ (1282), Trần Di Ái và đồng bọn bị triều đình trị tội.
Ngay chính vua Trần cũng có lúc không tránh khỏi chút lưỡng lự băn khoăn. Phải sau khi nghe được câu nói bừng bừng ý chí và niềm tin sắt đá của Trần Hưng Đạo – “Bệ hạ muốn hàng xin trước hãy chém đầu thần đi đã”(2) thì tinh thần của Nhà vua mới thực sự được củng cố vững chắc.
Cũng trong thứ thách cam go, sự phân hóa để rồi cuối cùng là phân cực, thể hiện một cách rất sâu sắc. Tuyệt đại đa số quý tộc và tướng lĩnh cao cấp lúc bấy giờ đều xứng đáng là những người đại diện tiêu biểu cho khí phách hiên ngang của dân tộc, tuy nhiên, điều ấy không có nghĩa là không hề có những kẻ đã cam lòng đi đầu hàng và thậm chí là làm tay sai cho giặc.
Như đã nói ở trên, đi hàng giặc sớm hơn cả có lẽ là Vũ Thành Vương Trần Doãn (đầu hàng năm 1256)
và kế đến là Thương Vị Chương Hiến Hầu Trần Kiện cùng bọn liêu thuộc là Lê Trắc (đầu hàng năm 1285).
Tháng 3 năm 1285, đến lượt Thượng Vị Văn Chiêu Hầu Trần Lộng, Chiêu Quốc Vương Trần Ích Tắc (chú ruột của vua Trần Nhân Tông) cùng các quan lại khác như Phạm Cự Địa, Lê Diễn, Đặng Long…v.v chạy sang nhà Nguyên.
Chi li ra, danh sách những kẻ đầu hàng và phản bội không phải chỉ có bấy nhiêu, nhưng, thực tế lịch sử đã cho thấy rõ, tất cả họ bất quá chỉ là một nhóm nhỏ lạc loài. Muôn đời khinh ghét họ và cả chút lương tri nhỏ nhoi còn lại trong mỗi con người của họ cũng dày vò họ. Sử cũ cho hay: “Sau khi quân Nguyên thất bại, (Trần) Ích Tắc lòng những hỗ thẹn, chết ở đất Bắc”(3). Bấy giờ, chết vì hổ thẹn, nào phải chỉ có một mình Trần Ích Tắc đâu.
_____________________________________
1. Nhiệm vụ quan trọng này được trao phó cho Trần Kiện. Rất tiếc là chẳng bao lâu sau đó thì Trần Kiện đã đem cả gia quyến đi hàng giặc. Đi đến biên giới phía Bắc, Trần Kiện bị gia nô của Trần Hưng Đạo bắn chết.
2. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 6. tờ 11-a.)
3. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 48-a).
Đầu tháng 5 năm 1285, khi mà quân xâm lăng đã mệt mỏi sau hàng loạt thất bại của những cuộc hành quân truy lùng, khi mà nguồn hậu cần của chúng ngày một kiệt quệ và đặc biệt là khi mà khí hậu nóng bức của mùa hè ở nước ta bắt đầu gây tác hại đối với người và ngựa phương Bắc, Trần Hưng Đạo hạ lệnh phản công. Quyết định này được vua Trần và các tướng lĩnh cao cấp đương thời ủng hộ mạnh mẽ. Sử cũ ghi rõ: “Quân giặc nhiều năm đi xa, lương thực chuyên chở cách trở hàng vạn dặm, thế tất là phải mệt mỏi. Nay ta lấy quân nhàn rỗi để chống quân mệt mỏi, thì trước là ắt sẽ làm cho chúng nhụt khí, sau nhất định sẽ đánh bại được bọn chúng”(1).
Mục tiêu đầu tiên mà Trần Hưng Đạo đặt ra là ồ ạt tấn công vào các dinh trại của giặc đóng dọc theo khúc sông Hồng chảy qua vùng Hưng Yên (Hải Hưng) ngày nay. Đây là cuộc tấn công có ý nghĩa chia cắt lực lượng của Toa-Đô (lúc này đang ở Thanh Hóa) với đại binh của Thoát-Hoan. Kế hoạch của Trần Hưng Đạo cụ thể như sau:
- Trần Hưng Đạo vừa là tổng chỉ huy, vừa là người trực tiếp cầm đầu lực lượng đánh vào A Lỗ (tên một vị trí nằm gần khu vực ngã ba sông Hồng với sông Luộc)
- Chiêu Thành Vương (hiện chưa rõ tên), Hoài Văn Hầu Trần Quốc Toản và Nguyễn Khoái chỉ huy lực lượng đánh vào khu vực bến Tây Kết (Tên một xã nằm cạnh bãi Thiên Mạc hay còn gọi là Mạn Trù Châu, thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hải Hưng ngày nay).
- Chiêu Văn Vương Trần Nhật Quật đánh vào Hàm Tử (tên một xã, nay thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hải Hưng).
- Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải đánh vào Chương Dương (tên bến, cũng là tên xã, nay thuộc huyện Thường Tín, tỉnh Hà Tây) và Thăng Long. Nhiều đội dân binh, dưới sự chỉ huy của Trần Thông và hai anh em Nguyễn Khả Lạp, Nguyễn Truyền, cũng được lệnh phối hợp với Chiêu Minh Vương Trần Quang Khải trong trận đánh quan trọng này.
- Một bộ phận quân đội chủ lực do vua Trần trực tiếp cầm đầu, vẫn tiếp tục đóng ở Thanh Hóa, và từ Thanh Hóa, tổ chức các cuộc tấn công nhằm khống chế Toa-Đô, không cho chúng có thể dễ dàng hội quân với Thoát-Hoan ở vùng châu thổ sông Hồng.
Đối với nhà Trần, đây là cuộc phản công được chuẩn bị một cách tài tình và công phu từ nhiều tháng trước, nhưng đối với quân Nguyên xâm lược, đây là một bất ngờ lớn. Thoát-Hoan và các tướng trong bộ chỉ huy của giặc đã tỏ ra lúng túng và hoàn toàn bất lực trước sự xoay chuyển mau chóng của tình hình. Giặc bị tấn công đồng thời và dồn dập ở nhiều nơi, bị chia cắt và bị tiêu diệt, không cách gì có thể liên lạc và tiếp ứng cho nhau. Trong lúc đó, các tướng lĩnh và quân sĩ của ta lại liên tiếp lập công. Tuy mức độ có khác nhau nhưng tất cả các mũi tấn công đều giành được thắng lợi, đúng như kế hoạch mà Trần Hưng Đạo đã dự kiến từ đầu.
Tháng 5 năm 1285, ta thu phục Thăng Long, Thoát-Hoan cùng các tướng sĩ của hắn phải đem quân chạy sang vùng Gia Lâm (ngoại thành Hà Nội ngày nay) và Bắc Ninh (nay thuộc Hà Bắc). Đầu tháng 6 năm 1285, vua và Thượng Hoàng nhà Trần cũng đem quân từ Thanh Hóa đánh ra.
Tháng 6 năm 1285 là tháng đã diễn ra ba trận đối đầu trực tiếp và quyết liệt giữa một bên là tổng chỉ huy quân đội Đại Việt với một bên là tổng chỉ huy quân Nguyên xâm lăng. Trận thứ nhất là trận ở bờ bắc sông Hồng. Thoát-Hoan bị thảm bại, phải rút về bờ bắc sông Như Nguyệt (tức sông Cầu). Trận thứ hai, Thoát-Hoan buộc phải hốt hoảng bỏ vùng bờ bắc sông Như Nguyệt để chạy lên mạn sông Thương. Và trận thứ ba là trận quyết định. Thoát-Hoan chẳng những phải bỏ chạy khỏi khu vực sông Thương mà còn phải mở đường máu, chạy thẳng về Trung Quốc. Trận thứ ba là trận khiếp đảm nhất đối với quân Thoát-Hoan. Để có thể thoát thân, chúng vội vã bắc cầu phao vượt sông Thương, nhưng cũng vì vội vã mà chiếc cầu phao ấy không chịu đựng nổi cuộc tháo chạy hỗn loạn của giặc. Cầu phao bị đứt khiến cho không biết bao nhiêu quân sĩ của giặc bị chết đuối.
Thoát-Hoan chạy đến biên giới thì lập tức gặp phải trận mai phục của quân đội nhà Trần do con trai của Trần Hưng Đạo là tướng Hưng Vũ Vương Trần Quốc Hiển chỉ huy. Bộ tướng của Thoát-Hoan là Lý Hằng bị trúng tên thuốc độc mà chết. Thoát Hoan phải chui vào ống đồng mới tránh được trận mưa tên thuốc độc nguy hiểm này.
Thoát-Hoan bị đánh cho tả tơi nhưng Toa-Đô ở Thanh Hóa vẫn không hề hay biết gì. Cuối tháng 6 năm 1285, Toa-Đô cùng Ô Mã-Nhi tiến quân ra Bắc. Vừa đến khu vực Khoái Châu (Nay thuộc tỉnh Hải Hưng), đạo binh này của giặc đã bị vua Trần đem quân đánh cho tan tác. Toa-Đô buộc phải chạy về Tây Kết nhưng chưa kịp ổn định quân ngũ thì đã bị vây đánh quyết liệt. Với quân đội nhà Trần, đây là trận tấn công vào Tây Kết lần thứ hai, và trong trận Tây Kết lần thứ hai này, viên tướng khét tiếng của giặc là Toa-Đô đã bị chém đầu. Ô-Mã-Nhi và các bộ tướng khác của hắn may mắn thoát chết, theo đường thủy chạy ra vịnh Hạ Long rồi chạy thẳng về Trung Quốc.
Như vậy là sau hai tháng dồn dập tấn công với hàng loạt những chiến dịch, trải rộng trên nhiều địa bàn khác nhau, quân dân ta đã giành toàn thắng. Hơn nửa triệu quân Nguyên xâm lược đã buộc phải tháo chạy khỏi Đại Việt. Thắng lợi to lớn này gắn liền với tài thao lược xuất sắc của các tướng lĩnh nước nhà thời Trần, nhưng, nổi bật hơn cả, tuyệt vời hơn tất cả vẫn là tên tuổi của Trần Hưng Đạo. Triều Trần đã tin cậy mà trao trọng trách cho ông, và chính ông cũng đã thật sự xứng đáng với niềm tin cậy lớn lao đó.
Đầu tháng 7 năm 1285 nhân dân Thăng Long hân hoan chào đón triều đình trở về, hân hoan chào đón vị nguyên soái lỗi lạc của nước nhà: Quốc Công Tiết Chế Trần Hưng Đạo
____________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 48-a).
c) Nhà chiến lược xuất sắc, tướng tổng chỉ huy thiên tài của cuộc kháng chiến lần thứ ba
Ngay sau khi cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai bị đại bại, Hốt-Tất-Liệt đã định đánh báo thù ngay, nhưng cũng chính vì sự thất bại thảm hại của cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ hai này, Hốt-Tất-Liệt nói riêng và triều đình nhà Nguyên nói chung, không được phép chủ quan như trước nữa. Để thực hiện cuồng vọng bành trướng của mình xuống Đại Việt và xuống vùng Đông Nam Á, Hốt-Tất-Liệt đã ban hành hai quyết định quan trọng. Như trên đã nói, quyết định thứ nhất là: tạm thời đình chỉ cuộc tấn công xâm lược Nhật Bản đã được chuẩn bị công phu từ nhiều năm trước đó nhằm dồn hết lực lượng cho cuộc chiến tranh xâm lược nước ta. Và, quyết định thứ hai là: tìm cho bằng được những nguyên nhân dẫn đến sự thất bại của quân Nguyên trong hai lần xâm lược nước ta. Những cận thần của Hốt-Tất-Liệt, cũng là những chiến lược gia lừng danh của nhà Nguyên cho rằng, sở dĩ quân Nguyên thất bại ở nước ta là bởi ba nguyên nhân sau đây:
Thứ nhất: quân Nguyên thiếu lương thực một cách trầm trọng. Kế thanh dã (tức là kế làm vườn không nhà trống) của nhân dân ta đã gây cho kẻ thù những khó khăn rất lớn. Để khuất phục tình trạng này, Hốt-Tất-Liệt ra lệnh thành lập một đoàn thuyền lương, giao cho Trương Văn Hổ chỉ huy. Trương Văn Hổ có nhiệm vụ chuyên chở lương thực cho đại binh của nhà Nguyên khi chúng sang xâm lược nước ta.
Thứ hai: nước ta nhiều sông ngòi ao hồ, kênh rạch và bờ biển lại rất dài. Địa hình phức tạp này khiến cho kị binh nhà Nguyên không phát huy được sở trường chiến đấu. Để khắc phục tình trạng ấy, Hốt-Tất-Liệt đã ra lệnh thành lập ngay một đạo thủy binh, giao cho tướng Ô-Mã-Nhi cầm đầu. Đạo thủy binh này vừa chiến đấu như một đơn vị vũ trang độc lập, lại vừa phối hợp và giúp đỡ bộ binh cũng như kị binh khi chúng hành quân trên địa hình khó khăn và phức tạp của nước ta.
Thứ ba: Người và ngựa của nhà Nguyên rất khó thích ứng với khí hậu của nước ta. Để hạn chế bớt nạn tử vong vì ốm đau và bệnh dịch, Hốt-Tất-Liệt chủ trương huy động thật nhiều thầy thuốc và thuốc men phục vụ quân viễn chinh.
Những việc làm kể trên tỏ rõ quyết tâm của Hốt-Tất-Liệt rất lớn, công cuộc chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lược lần thứ ba là rất công phu.
Cuối năm 1287, đầu năm 1288, quân Nguyên bắt đầu tràn sang lãnh thổ nước ta. Tổng số quân xâm lăng lần này là 50 vạn, tất cả được đặt dưới quyền tổng chỉ huy của Thoát-Hoan. Bên cạnh Thoát-Hoan là một loạt các tướng khét tiếng khác của nhà Nguyên, như Ô-Mã-Nhi, Áo-Lỗ-Xích, Phàn Tiếp... Giặc chia quân làm ba đạo, tiến vào nước ta qua ba hướng khác nhau:
- Đạo thứ nhất gốm kị binh và bộ binh, băng qua ải Chi Lăng rồi tiến vào nước ta qua hướng Lạng Sơn. Thoát-Hoan trực tiếp cầm đầu đạo này.
- Đạo thứ hai cũng gồm bộ binh và kị binh, từ đất Vân Nam của Trung Quốc men theo sông Hồng mà tiến xuống nước ta. Đạo này do tướng Áo-Lỗ-Xích chỉ huy.
- Đạo thứ ba là đạo thuỷ binh, từ Quảng Đông của Trung Quốc, băng qua vịnh Hạ Long rồi men theo sông Bạch Đằng mà tiến vào. Đạo này do Ô-Mã-Nhi và Phàn Tiếp chỉ huy. Đoàn thuyền lương do tướng Trương Văn Hổ cầm đầu đi theo sau đạo thủy binh này.
Ngoài lực lượng quân sự như đã kể ở trên, nhà Nguyên còn thành lập sẵn một triều đình bù nhìn, giao cho tên phản thần Trần Ích Tắc làm “An Nam quốc vương”
Theo Nguyên sử thì trước khi Thoát-Hoan xuất quân, chính Hốt-Tất-Liệt đã ra lệnh rằng: “Không được cho Giao Chỉ là nước nhỏ mà khinh thường”(1). Một lần nữa, vận nước lại lâm nguy, và cũng một lần nữa, Trần Hưng Đạo được tin cậy trao phó trọng trách vạch kế hoạch chiến lược, đồng thời, tổng chỉ huy toàn bộ lực lượng chống xâm lăng. Khi được vua Trần Nhân Tông hỏi thăm về việc chống giữ, Trần Hưng Đạo đã khảng khái trả lời một cách đầy tự tin rằng: “Nước ta thái bình đã lâu, dân không biết tới việc binh đao, cho nên, vừa năm trước đây, khi quân Nguyên vào cướp thì có kẻ đầu hàng hoặc trốn chạy. Nhờ uy linh của tổ tông và cũng nhờ thần võ của bệ hạ, ta đã quét sạch được bụi Hồ. Nay, nếu chúng lại sang cướp nữa thì quân ta đã quen việc chiến trận mà quân giặc thì phải đi xa, đã thế lại còn nơm nớp nỗi sợ thất bại của (Lý) Hằng và (Lý) Quán (những tên bại tướng trong cuộc xâm lược năm 1285 - NKT), cho nên chẳng còn chí khí chiến đấu nữa. Theo như thần thì việc ta phá được chúng là điều chắc chắn”(2).
Trên đại thể, kế hoạch chung của Trần Hưng Đạo như sau:
- Đối với hai đạo kị binh và bộ binh của nhà Nguyên tiến vào nước ta qua đường bộ, Trần Hưng Đạo chủ trương không đánh mà tạm thời rút lui, bảo toàn lực lượng để dồn sức cho trận đánh quyết định khi có cơ hội. Nhân dân các địa phương trên các tuyến hành quân của giặc nói riêng và nhân dân cả nước nói chung, phải triệt để thực hiện kế thanh dã, quyết không để quân giặc có thể cướp được lương thực và thực phẩm.
- Đối với đạo thủy binh và đoàn thuyền lương, phải quyết tâm đánh tan ngay khi chúng chưa kịp tiến vào nước ta, phá vỡ âm mưu phối hợp giữa kị binh, bộ binh với thủy binh của chúng, đồng thời, tiêu diệt nguồn hậu cần của đội quân xâm lăng khổng lồ này. Nhiệm vụ tiêu diệt thủy binh và đoàn thuyền lương của giặc được giao cho Phó Tướng Nhân Huệ Vương Trần Khánh Dươ đảm trách.
Hai đạo kị binh và bộ binh do Thoát-Hoan và Áo-Lỗ-Xích chỉ huy, do không bị đánh trả một cách quyết liệt, cho nên, đã tiến xuống Vạn Kiếp một cách khá dễ dàng. Đao thủy binh của Ô-Mã-Nhi, tuy bị đánh một số trận khá mạnh ở Ngọc Sơn (Móng Cái, Quảng Ninh) và ở An Bang (Quảng Yên, Quảng Ninh) và tuy bị thiệt hại khá nặng, nhưng chúng vẫn băng qua được để rồi sau đó, hợp binh với Thoát-Hoan và Áo-Lỗ-Xích tại Vạn Kiếp.
Giặc hợp binh được ở Vạn Kiếp là điều hoàn toàn nằm ngoài dự kiến ban đầu của Trần Hưng Đạo, bởi lẽ đó, Trần Hưng Đạo và Thượng Hoàng cũng như vua Trần rất tức giận. Sử cũ chép:
“Thượng Hoàng được tin, sai Trung Sứ đến xiềng (Trần) Khánh Dư để giải về kinh đô trị tội, (Trần) Khánh Dư liền nói với Thông Sứ rằng:
- Lấy quân pháp mà xử, tôi thật đáng phải chịu tội chết, nhưng xin cho khất vài ba ngày để tôi xin bày mưu lập công rồi về chịu tội búa rìu cũng chưa muộn.
Trung Sứ nghe theo lời cầu xin đó.
(Trần) Khánh Dư dự liệu rằng (thủy binh) giặc đã qua, lương thuyền ắt sẽ phải đi sau, cho nên, thu tập binh sĩ để đợi bọn chúng. Chẳng bao lâu sau, quả nhiên lương thuyền đến, (Trần Khánh Dư) đánh bại chúng, bắt được không biết bao nhiêu là quân lương và khí giới, tù binh cũng không đếm xuể. (Trần) Khánh Dư lập tức sai chạy ngựa về báo tin mừng. Thượng Hoàng liền tha cho tội cũ, không hỏi đến nữa”(3).
__________________________________
1. Dẫn lại của các tác giả Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc. Nxb QĐND, Hà Nội, 1976, trang 90.
2. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 51 a-b).
3. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, tờ 52-b và 53-a).
Đoàn thuyền lương do tướng Trương Văn Hổ chỉ huy bị đánh tan, cố gắng khắc phục khó khăn về lương thực của giặc không thực hiện được. Chiến thắng ở Vân Đồn của Trần Khánh Dư có ý nghĩa rất to lớn đối với diễn biến chung của cuộc kháng chiến lần thứ ba. Tuy nhiên, ở Vạn Kiếp, Thoát Hoan, Áo-Lỗ-Xích và cả Ô-Mã-Nhi đều không hay biết gì. Chính Ô-Mã-Nhi đã tuyên bố một cách rất huênh hoang trong cuộc truy tìm chủ lực nhà Trần, rằng:
“Ngươi chạy lên trời, ta theo lên trời, ngươi chạy xuống đất, ta theo xuống đất, ngươi lặn xuống nước, ta theo xuống nước”(1).
Trước tình hình đó, Trần Hưng Đạo và Thượng Hoàng nhà Trần nhận định:
“Chỗ trông cậy của quân Nguyên là quân lương và khí giới, nay đã bị ta đánh bắt, nhưng sợ rằng (chủ tướng của) chúng vẫn chưa hay biết gì, nên vì thế mà tỏ ra hung hăng chăng?
(Nói rồi) bèn thả những tên bị bắt, cho về dinh trại của quân Nguyên để báo tin. Quân Nguyên quả nhiên vì thế mà phải rút lui”(2).
Thoát-Hoan cố sức tìm diệt chủ lực của ta nhưng không sao tìm được. Quân Nguyên không dám đóng rải rác, cũng không dám chiếm giữ kinh thành Thăng Long, mà hầu hết đã co cụm lại ở Vạn Kiếp. Các mục tiêu lớn đặt ra trước lúc xuất quân đều không thực hiện được, trong lúc đó, lương thực thì đã cạn, thời tiết khắc nghiệt của mùa hè ở nước ta lại đang đến dần, con đường duy nhất của quân Nguyên lúc này là rút lui. Chúng thực sự hoang mang nên đã bàn với nhau rằng:
“Ở Giao Chỉ không có thành trì để giữ, không có lương thực để ăn, mà thuyền lương của Trương Văn Hổ không đến. Vả lại khí trời nóng nực, lương hết, quân mệt, không lấy gì chống giữ lâu được, lấy làm hổ thẹn cho triều đình, chi bằng nên toàn quân mà về thì hơn”(3).
Trước tình hình như vậy, Trần Hưng Đạo chủ trương tổ chức uy hiếp liên tục, buộc địch phải tháo chạy nhanh và sẽ đánh trận quyết định với quân xâm lăng trên đường chúng tháo chạy. Đây là chủ trương rất táo bạo và sáng tạo. Cũng như nhiều vị tướng lĩnh đương thời, Trần Hưng Đạo từng đọc rất kĩ và hẳn nhiên là từng chịu ảnh hưởng ở một mức độ nhất định nào đó của lí luận quân sự Trung Quốc cổ đại. Nhưng, nếu như Tôn Tử của Trung Quốc - nhà binh pháp có ảnh hưởng mạnh nhất đến các tướng lĩnh phương Đông - chủ trương rằng: “Hễ địch rút lui về nước thì không nên bao vây ngăn chặn. Khi tiến hành bao vây địch thì nên để hở một phía chứ không nên vây kín. Nếu đối phương đã đến lúc khốn cùng thì cũng không nên bức bách họ quá”(4)… thì ngược lại, Trần Hưng Đạo chủ trương thúc ép đối phương phải tháo chạy để rồi đánh trận quyết định khi đối phương đang trên đường tháo chạy ấy. Và, đó là chủ trương hoàn toàn đúng đắn.
Đầu tháng 4 năm 1288, quân Nguyên bắt đầu buộc phải rút khỏi nước ta. Chủ tướng của giặc là Thoát-Hoan quyết định kế hoạch rút quân cụ thể như sau:
- Kị binh và bộ binh do đích thân Thoát-Hoan chỉ huy, từ Vạn Kiếp tiến lên Lạng Sơn, rồi từ đó kéo về Trung Quốc.
- Thủy binh do Ô-Mã-Nhi chỉ huy, được tăng cường thêm quân số và thêm một đạo kị binh đi dọc theo sông để hộ tống, từ Vạn Kiếp tiến ra sông Bạch Đằng rồi vượt vịnh Hạ Long mà về Trung Quốc.
Như vậy, nếu khi tràn sang nước ta, giặc chia quân làm ba đạo thì khi về, giặc chỉ còn chia làm hai đạo nữa mà thôi. Trong hai đạo này, thủy binh tuy có tới hơn 600 chiến thuyền với quân số ước chừng 60.000 tên, chưa kể lực lượng kị binh đi hộ tống, nhưng, so với đạo kị binh và bộ binh thì quân số vẫn ít hơn, đó là chưa nói rằng, thủy chiến không phải là sở trường của chúng. Từ thực tế này, Trần Hưng Đạo hạ lệnh:
- Tổ chức nhiều trận đánh bất ngờ và nguy hiểm vào đạo quân do Thoát-Hoan trực tiếp chỉ huy buộc chúng phải tháo chạy thật nhanh, không còn cơ hội để tiếp ứng cho đạo thủy binh của Ô-Mã-Nhi.
- Tiêu diệt sạch đạo thủy binh của Ô-Mã-Nhi bằng một trận thủy chiến, lấy đó làm đòn quyết định, đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược của nhà Nguyên đối với nước ta
- Đích thân Trần Hưng Đạo đi thám sát địa hình và chuẩn bị cho trận quyết chiến với đạo binh của Ô-Mã-Nhi.
_________________________________
1. Từ Minh Thiện – Thiên Nam hành kí - Dẫn lại của các tác giả Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc, Sách đã dẫn, trang 92.
2. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 5, ta 53-a).
3. Nguyên sử. Dẫn lại của các tác giả Một số trận quyết chiến chiến lược trong lịch sử dân tộc. Sách đã dẫn, trang 95.
4. Tôn Tử - Tôn Tử binh pháp
d) Người thắng trận chung kết tuyệt vời với quân Nguyên ở Bạch Đằng Giang.
Để bảo đảm đánh nhanh, diệt gọn toàn bộ đạo thủy binh của Ô-Mã-Nhi, Trần Hưng Đạo hạ lệnh triệt phá cầu đường dọc theo hướng rút lui của đạo quân này, đồng thời tổ chức nhiều trận tập kích quyết liệt, buộc lực lượng kị binh đi hộ tống phải quay lại, cùng về với Thoát-Hoan. Ngoài ra, Trần Hưng Đạo cũng còn cho quân sĩ đánh nhiều trận lớn nhỏ khác, khiến Ô-Mã-Nhi phải đi theo hướng định sẵn của ta để rồi ra vào ổ mai phục do chính Trần Hưng Đạo sắp đặt.
Nơi diễn ra trận quyết chiến chiến lược là khu vực đầu nguồn của sông Bạch Đằng, vì thế, sử vẫn gọi đấy là trận quyết chiến chiến lược Bạch Đằng. Đây là nơi hợp lưu của sông Đá Bạc, sông Giá, sông Chanh, sông Rút, sông Kênh và sông Bạch Đằng, đó là chưa kể nhiều sông nhỏ và các kênh rạch khác, vì thế, lòng sông rất rộng, rất thuận tiện cho việc bố trí một trận thấy chiến. Đây là nơi mà năm 938, Ngô Quyền đã cả phá quân Nam Hán và năm 981, Lê Hoàn đã đánh tan quân Tống xâm lăng. Kế thừa kinh nghiệm của Ngô Quyền và Lê Hoàn, Trần Hưng Đạo đã bố trí một trận địa mai phục hết sức công phu. Hàng loạt cọc gỗ vạt nhọn và bịt sắt được cắm xuống, tạo ra bãi chướng ngại vật hết sức lợi hại đối với chiến thuyền của giặc. Những cánh quân chủ lực tinh nhuệ nhất của triều đình, đông đảo các đơn vị quân đội của vương hầu quý tộc cùng rất nhiều đội dân binh đã được huy động tham gia trận đánh lịch sử này. Trong bộ chỉ huy trận đánh, ngoài Trần Hưng Đạo, còn có cả Thượng Hoàng Trần Thánh Tông, vua Trần Nhân Tông, các danh tướng khác như Phạm Ngũ Lão, Nguyễn Khoái... v.v.
Thuỷ binh và bộ binh nhà Trần được Trần Hưng Đạo bố trí mai phục sẵn, chủ yếu ở khu vực tả và hữu ngạn sông Giá (nay thuộc huyện Thủy Nguyên), tả và hữu ngạn sông Chanh (nay thuộc huyện Yên Hưng) ở nơi hợp lưu của sông Bạch Đằng với sông Rút, sông Bạch Đằng với sông Kênh. Tuy có sự tham gia của đông đảo bộ binh, nhưng tính chất căn bản của trận Bạch Đằng vân là một trận thủy chiến, một trận thủy chiến kết hợp chặt chẽ giữa mai phục với bao vây tiêu diệt.
Trần Hưng Đạo đã nghiên cứu rất kĩ chế độ thủy văn của sông Bạch Đằng, dự kiến rất chính xác mực nước lên xuống của ngày diễn ra trận đánh. Điều này đã khiến cho bãi cọc gỗ thực sự phát huy được tác dụng lợi hại nhất, khiến cho đạo quân của Ô-Mã-Nhi hốt hoảng vì hoàn toàn bất ngờ và không cách gì có thể thoát được.
Ngày 30 tháng 3 năm 1288, từ Vạn Kiếp, Ô-Mã-Nhi bắt đầu rút quân. Đây cũng là lúc mà ở Bạch Đằng, trận địa mai phục của Trần Hưng Đạo đã bố trí xong.
Ngày 8 tháng 4 năm 1288, đội tiền vệ của Ô-Mã-Nhi do tướng Lưu Khuê cầm đầu bị đánh tới tấp ở Trúc Động (một địa điểm nằm men sông Giá, nay thuộc xã Lưu Kiếm, huyện Thủy Nguyên). Bị đại bại ở đây, Lưu Khuê buộc phải quay lại, theo sông Đá Bạc mà ra Bạch Đằng.
Mờ sáng ngày 9 tháng 4 năm 1288, binh thuyền của Ô-Mã-Nhi từ sông Đá Bạc, tiến vào sông Bạch Đằng. Trần Hưng Đạo lập tức cho một đội chiến thuyền nhẹ, ra khiêu chiến rồi giả vờ thua chạy. Tướng giặc là Phàn Tiếp đem quân đuổi theo, nhưng khi chúng vừa tiến đến khu vực núi Tràng Kênh thì bị phục binh của ta bắt đầu đổ ra đánh.
Lúc ấy, Ô-Mã-Nhi cũng vừa lọt vào ổ phục kích lớn nhất của Trần Hưng Đạo tại sông Bạch Đằng. Nước sông Bạch Đằng rút với một tốc độ rất nhanh, chiến thuyền của giặc số thì vỡ nát do đâm phải bãi cọc gỗ, số thì bị tắc nghẽn lại, không sao tiến lên phía trước được. Và, đó cũng là lúc Trần Hưng Đạo hạ lệnh cho quân sĩ ồ ạt tấn công. Trận ác chiến diễn ra vào trưa ngày 9 tháng 4 năm 1288. Sử cũ cho hay, quân Nguyên như bị chìm trong trận mưa tên thuốc độc từ nhiều hướng bắn ra. Chúng hốt hoảng chưa tìm được cách đối phó thì hàng chục chiếc thuyền chứa lửa do Trần Hưng Đao hạ lệnh thả từ thượng nguồn ồ ạt lao thẳng vào, Ô-Mã-Nhi cùng các tướng lĩnh cao cấp của giặc tìm đường chạy trốn nhưng lại bị quân ta bắt sống. Đạo thủy binh của Ô-Mã-Nhi hoàn toàn bị tiêu diệt.
Đây là chiến công lừng lẫy nhất của quân dân ta trong sự nghiệp chống xâm lăng ở thế kỉ thứ XIII và đây cũng là một trong những trận quyết chiến chiến lược lừng lẫy nhất của lịch sử dàn tộc. Trận Bạch Đằng là trận góp phần quan trọng nhất vào việc đè bẹp hoàn toàn ý chí xâm lược của quân Nguyên đối với nước ta, trận để nhục muôn đời cho quân xâm lược:
Đến nay, nước sông vẫn chảy hoài
Mà nhục quân thù không rửa hết
(Trương Hán Siêu – Bạch Đằng giang phú).
Như trên đã nói, đồng thời với việc tổ chức trận mai phục ở Bạch Đằng, Trần Hưng Đạo còn bố trí kế hoạch đánh mạnh vào đạo quân của Thoát-Hoan. Ngày 11 tháng 4 năm 1288, Thoát-Hoan lọt vào ổ mai phục của quân đội nhà Trần tại Nội Bàng khiến Thoát-Hoan phải hạ lệnh mở đường máu mới thoát được. Ngày 19 tháng 4 năm 1288, sau nhiều phen bị đánh tới tấp, Thoát-Hoan mới về đến Tư Minh (Trung Quốc) và giải tán đám tàn quân của hắn. Hắn bị vua cha là Hố-Tất-Liệt đuổi đi, không thèm nhìn mặt nữa.
Sau trận Bạch Đằng, nếu Thoát-Hoan và một loạt những tên bại tướng của nhà Nguyên phải nhục nhã ê chề, thì ngược lại, tên tuổi của Trần Hưng Đạo trở nên lừng lẫy hơn bao giờ hết. Đôi câu đối (hiện chưa rõ là của ai) dưới đây, thật chẳng có gì là quá lời:
Địa chuyển ngã Việt chủng cư Bắc phương, Âu châu cảnh nội vô Mông kỵ tung hoàng thiên vạn lý, Thiên sinh thử lương tài ư Tống thất, Trung Quốc sử tiền miễn Nguyên triền đô hộ nhất bách niên.
Dịch nghĩa:
Nếu dân Việt mà sinh ở phương Bắc thì các nước châu Âu đâu đến nỗi bị vó ngựa Mông Cổ chà đạp hàng ngàn dặm, Ví thử trời sinh bậc thiên tài này ở nhà Tống thì lịch sử Trung Quốc trước đây làm gì có chuyện bị nhà Nguyên đô hộ một trăm năm.
6. MẶN NỒNG TÌNH NGHĨA VỚI MUÔN ĐỜI
Khi đại thắng quân Nguyên ở trận Bạch Đằng lịch sử, Trần Hưng Đạo đã là một lão tướng, tuổi cũng đã xấp xỉ đến lục tuần. Sau nhiều năm lao tâm khổ tứ, sức khỏe của lão tướng Trần Hưng Đạo cũng dần dần cạn kiệt. Sử cũ chép rằng, ngày 24 tháng 6 năm Canh Tí (1300), trời bỗng có sao sa1. Cũng vào tháng ấy, Trần Hưng Đạo lâm bệnh. Vua Trần lúc bấy giờ là Trần Anh Tông (1293 - 1314) thân đến tận nhà Trần Hưng Đạo để thăm hỏi và sử cũ đã trân trọng chép lời đối đáp thật cảm động giữa vua Trần với Trần Hưng Đạo như sau:
“Hưng Đạo Đại Vương lâm bệnh, Vua ngự tới tận nhà để thăm hỏi nhân đó hỏi rằng:
- Nếu có điều chẳng may xẩy ra (ngầm chỉ việc Trần Hưng Đạo chẳng may mà mất - NKT) mà bọn giặc phương Bắc lại sang xâm lược thì nên có kế sách đối phó như thế nào?
Vương (chỉ Trần Hưng Đao - NKT) trả lời:
- Thuở xưa, Triệu Vũ (Đế) dựng nước (chỉ việc Triệu Đà lập ra nước Nam Việt vào năm 206 trước công nguyên - NKT), vua nhà Hán cho quân đến đánh, (để đối phó, Triệu Vũ Đế) sai dân làm kế thanh dã, sai đại quân ra Khâm Châu, Liêm Châu rồi đánh vào Trường Sa và sai đoản binh đánh úp phía sau. Đó là một thời. Sau, nhà Đinh, nhà Lê đều dùng được người tài giỏi, cho nên, phương Nam mới mạnh còn phương Bắc thì suy yếu và mệt mỏi dần. Ta trên dưới một dạ, lòng dân chẳng chút chia lìa, xây thành Bình Lỗ (có lẽ nằm gần khu vực Phù Lỗ, huyện Sóc Sơn, ngoại thành Hà Nội ngày nay - NKT) mà phá được quân Tống. Đó là một thời nữa. Vua Lý mở nền thịnh trị, nhà Tống xâm phạm địa giới, (triều đình) dùng Lý Thường Kiệt, đem quân đánh đến tận các châu Khâm và Liêm rồi đánh tới cả Mai Lĩnh (các châu Khâm, Liêm và Mai Lĩnh đều thuộc Trung Quốc - NKT), cũng là nhờ (có lòng người không chia lìa) như thế.
Vừa rồi Toa-Đô và Ô-Mã-Nhi đem quân bao vây ta bốn mặt, nhưng vì vua tôi ta đồng tâm, anh em hòa mục, cả nước cùng góp sức nên lũ giặc phải bị bắt. Đó là do trời xui nên vậy. Đại để, giặc cậy trường trận, ta dựa vào đoản binh, dùng đoản binh để chế ngự trường trận là sự thường của binh pháp. Nếu thấy giặc tiến như gió hoặc như lửa thì việc chế ngự sẽ dễ. Nhưng, nếu giặc tiến chậm như thể tằm ăn dâu, chẳng cầu sự thắng nhanh, thì phải khéo chọn tướng giỏi, xem xét thất sát sự biến thất thường mà ứng xử, tương tự như đánh cờ, tùy thời mà tạo thế, phải có được đội quân trên dưới một dạ như cha con thì mới mong thắng được.
Vả chăng, khoan sức dân để làm kế rễ sâu gốc vững, đó mới là thượng sách giữ nước”(2).
Vua Trần Anh Tông thân đến tận nhà để thăm hỏi, đó là biểu hiện của lòng thành. Đáp lại, Trần Hưng Đạo cũng đã nói những lời chân thành nhất với nhà vua. Đây thực sự là cuộc gặp gỡ tương đắc giữa vua sáng với tôi hiền. Nỗi bận tâm suốt đời của Trần Hưng Đạo là làm sao để không ngừng mở rộng và củng cố sức mạnh của khối đoàn kết toàn dân, làm sao để có thể chọn và trọng dụng người hiền tài và làm sao để có thể nuôi dưỡng được sức dân. Khoan sức dân để làm kế rễ sâu gốc vững, đó mới là thượng sách giữ nước! Lời chí tình ấy của Trần Hưng Đạo cũng chính là lời chí tình của tất cả các bậc ưu thời mẫn thế và nặng lòng ái quốc trong khắp mọi thời. Lời ấy mãi mãi tỏa sáng trong sử sách của dân tộc ta.
_________________________________
1. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 6, tờ 8-b).
2. Đại Việt sử kí toàn thư (bản kỉ, quyển 6, tờ 9 a-b).
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 21-12-2009 lúc 13:22.
Trần Quang Khải là con của vua Trần Thái Tông và bà Hoàng Hậu Thuận Thiên. Con trưởng của Trần Thái Tông là Trần Quốc Khang1, kế đến là Trần Hoảng (tức vua Trần Thánh Tông: 1258 - 1278). Ông là Hoàng Tử thứ ba. Sau ông là các vị Hoàng Tử khác như Trần Nhật Vĩnh, Trần Ích Tắc v.v...
Trần Quang Khải chào đời vào tháng 10 năm Tân Sửu (1241), được phong là Chiêu Minh Đại Vương vào tháng 11 năm Mậu Ngọ (1258). Tháng 3 năm Tân Dậu (1261) ông được phong hàm Thái Úy và đến tháng 10 năm Nhâm Ngọ (1282) thì được phong hàm Thái Sư, chức Thượng Tướng Quân.
Khi còn tuổi ấu thơ, Trần Quang Khải đã có lần lâm bệnh nặng, tưởng đã không cứu nổi. Về lần lâm bệnh nặng này của ông, sử cũ chép rằng:
“(Trần) Quang Khải lúc mới sinh, phát chứng bệnh lên cơn kinh giật, suýt nữa thì không qua khỏi. (Vua Trần) Thái Tông (thấy thế), liền lấy áo của Thượng Hoàng(2) và thanh gươm báu truyền quốc đem đến để bên cạnh rồi nói:
- Nếu sống thì sẽ ban cho những thứ này.
(Nhưng) đến khi ông sống lại, (vua Trần) Thái Tông lại nói rằng:
- Gươm báu truyền quốc thì không thể trao bừa được, chỉ có thể ban cho tấm áo của Thượng Hoàng mà thôi”(3).
Lớn lên, Trần Quang Khải là người có chí lớn, ham học hỏi, là bậc văn tài nổi tiếng, ông sử dụng thông thạo tiếng nói của không ít đồng bào các dân tộc ít người. Vua cha rất yêu quý ông đã đành, ngay cả bậc lừng danh văn võ như Trần Quốc Tuấn cũng rất nể trọng ông. Sử cũ có chép một câu chuyện rất cảm động về ông và Trần Quốc Tuấn như sau:
“(Trần) Quang Khải là người có học thức, hiểu được tiếng nói của giống phiên thuộc (chỉ tiếng của đồng bào các dân tộc ít người trên đất nước ta - NKT). Trước kia, có lần (vua Trần) Thánh Tông đem quân đi đánh giặc, (Trần) Quang Khải theo hầu cận, ngôi Tể Tướng phải bỏ trống. Đúng lúc đó thì có sứ giả của phương Bắc đến, (Thượng Hoàng Trần) Thái Tông liền cho gọi Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn tới và nói:
- Thượng Tướng đi theo hầu vắng, trẫm định lấy khanh làm Tư Đồ để tiếp sứ phương Bắc.
(Hưng Đạo Vương Trần) Quốc Tuấn trả lời:
- Việc tiếp sứ giả, thần không dám chối từ, còn như việc phong thần làm Tư Đồ thì thần không dám vâng theo chiếu lệnh. Huống chi, nay Quan Gia (tức vua Trần - NKT) đang đi đánh giặc xa(4), (Trần) Quang Khải đang bận theo hầu mà bệ hạ lại tự ý phong chức (cho thần), thì như thế, tình nghĩa trên dưới(5) sợ là chưa được ổn, Quan Gia và (Trần) Quang Khải sẽ không được vui. Chi bằng hãy đợi đến khi xa giá trở về, lúc đó, nếu thần có xin vâng mệnh cũng chưa muộn”(6)
_________________________________
1. Cũng do bà Hoàng Hậu Thuận Thiên sinh hạ. nhưng thân sinh là Trần Liễu, anh ruột của vua Trần Thái Tông. Trần Quốc Khang được phong tước Tĩnh Vương.
2. Đây chỉ Trần Thừa, người được tôn làm Thượng Hoàng, mặc dù trước đó chưa từng làm vua.
3. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 6, tờ 1-b).
4. Đây là lần xuất chinh đi đánh dẹp những cuộc nổi dậy của đồng bào các dân tộc ít người ở Nẫm Bà La (vùng Quảng Bình ngày nay).
5. Về thế thứ họ hàng, Trần Quang Khải tuy ở vai em con nhà chú của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, song, Trần Quang Khải lại là con của vua Trần Thái Tông và em của vua Trần Thánh Tông.
6. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 5, tờ 1-b và tờ 2-a).
Thời Trần, quân Nguyên-Mông ba lần sang xâm lược nước ta. Lần thứ nhất (1258) diễn ra khi Trần Quang Khải mới 17 tuổi, cho nên, ông chưa có cống hiến gì đáng kể. Nhưng, liên tục trong cả hai lần sau (1285 và 1288), Trần Quang Khải đã lập được rất nhiều chiến công xuất sắc, góp phần to lớn vào thắng lợi vẻ vang chung của nước nhà.
Trong cuộc kháng chiến lần thứ hai, nhiệm vụ đầu tiên mà Trần Quang Khải được đích thân vua Trần trao phó là đi tăng viện cho các cánh quân ở vùng Thanh Hóa và Nghệ An ngày nay. Bấy giờ, quân Nguyên tiến vào nước ta bằng hai hướng khác nhau. Hướng thứ nhất từ Bắc đánh xuống, gồm tất cả 50 vạn quân do chính chủ tướng của giặc là Thoát-Hoan trực tiếp chỉ huy. Hướng thứ hai gồm gần mười vạn quân, từ đất Chiêm Thành đánh lên, do tướng Toa-Đô cầm đầu. Kế hoạch ban đầu của nhà Trần là quyết không để cho giặc có thể hội quân với nhau. Để thực hiện kế hoạch này, nhà Trần đã sai Trần Quốc Khang1 và con của Trần Quốc Khang là Trần Kiện, đem quân trấn giữ vùng Nghệ An và Thanh Hóa, tổ chức đánh trả kịch liệt để cản phá lực lượng của Toa-Đô. Ngày 28 tháng giêng năm Ất Dậu (nhằm ngày 5-3-1285), tướng Trần Nhật Duật2 lại được cử vào để tăng viện. Nhưng, khi Trần Nhật Duật chưa vào đến nơi thì Trần Kiện đã đi đầu hàng quân Nguyên. Trần Quốc Khang vốn là người không có tài cầm quân, vì thế, giặc dễ dàng tập trung lực lượng đánh vào Trần Nhật Duật. Tình hình chiến trường phía Nam vì thế mà trở nên rất khó khăn và phức tạp. Đó chính là lí do khiến vua Trần sai Trần Quang Khải đem quân đi tăng viện cho Trần Nhật Duật. Sự có mặt của Trần Quang Khải đã khiến cho đạo quân của Toa-Đô bối rối và sa lầy. Chúng buộc phải đóng lại ở vùng Thanh Hóa và Nghệ An ngày nay.
Tháng 4 năm Ất Dậu (1285), nhà Trần tổ chức phản công. Một loạt các chiến dịch lớn được tổ chức. Trần Nhật Duật và Trần Quang Khải được lệnh bí mật vượt qua vùng tạm chiếm để tiến ra Bắc. Chiến dịch Hàm Tử (tháng 4 năm Ất Dậu) do Trần Nhật Duật chỉ huy và người giữ vai trò hợp đồng tác chiến một cách rất tích cực, linh hoạt và đầy hiệu quả là Trần Quang Khải. Toàn bộ lực lượng quân Nguyên đóng giữ ở Hàm Tử nhanh chóng bị đánh cho tan tành
Cũng ngay trong tháng 4 năm Ất Dậu (1285), Trần Quang Khải đã có vinh dự được cử làm tướng tổng chỉ huy chiến dịch Chương Dương và Thăng Long. Chỉ trong một thời gian rất ngắn, lực lượng cửa Trần Quang Khải đã đẩy lùi quân Nguyên ra khỏi hai vị trí trọng yếu này. Nguy cơ bị đại bại thảm hại của quân Nguyên đã bộc lộ rõ rệt. Cộng với các chiến dịch khác như Tây Kết (lần thứ nhất và lần thứ hai), ta đã hoàn toàn quét sạch quân nguyên ra khỏi bờ cõi. Ngày 6 tháng 6 lăm Ất Dậu (1285), Thượng Hoàng Trần Thánh Tông và vua Trần Nhân Tông. cùng đại quân nhà Trần trở về kinh đô Thăng Long để tổ chức ăn mừng đại thắng. Trần Quang Khải đã cảm khái mà viết rằng:
“Đoạt sáo Chương Dương độ
Cầm Hồ Hàm Tử Quan.
Thái Bình tu trí lực
Vạn cổ thử giang san”3.
Nghĩa là:
Cướp giáo giặc ở bến đò Chương Dương,
Bắt giặc Hồ (tức giặc Nguyên-NKT) ở cửa Hàm Tử.
Thời thái bình nên gắng đem hết trí tuệ và sức lực (để xây dựng),
Muôn đời (còn mãi) sông núi này.
Trong cuộc kháng chiến lần thứ ba (1288), Trần Quang Khải được bố trí theo hầu cận bên cạnh vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông. Ông vừa lo bảo vệ Nhà vua và Thượng Hoàng, vừa sẵn sàng tham gia trận mạc dưới quyền chỉ huy trực tiếp của vua Trần Nhân Tông và Thượng Hoàng Trần Thánh Tông. Trong trận quyết chiến chiến lược lịch sử tại Bạch Đằng (9-4-1288), cùng với hàng loạt các tướng lĩnh xuất sắc khác, Trần Quang Khải đã góp phần to lớn vào việc đập tan toàn bộ đạo quân hùng hậu và thiện chiến của nhà Nguyên do tướng Ô-Mã-Nhi cầm đầu.
Sau chiến trắng Bạch Đằng, Trần Quang Khải tiếp tục tận tụy phò tá nhà Trần. Ông nổi tiếng là người có tài giúp vua trị nước, thanh liêm và ngay thẳng.
Ngày 3 tháng 7 năm Giáp Ngọ (1294), Thượng Tướng Thái Sư, Chiêu Minh Đại Vương Trần Quang Khải qua đời vì bệnh, hưởng thọ 53 tuổi. Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái đã trang trọng dành cho Trần Quang Khải những lời ca ngợi thật cảm động:
“Rợ Nguyên quen thói tham tàn,
Quân năm mươi vạn những toan tung hoành.
Vua sai Hưng Đạo Tổng Binh,
Với Trần Quang Khải các dinh tiến vào.
Chương Dương một trận phong đào,
Kìa ai cướp giáo ra vào có công.
Hàm Quan một trận ruổi giong,
Kìa ai bắt giặc uy phong còn truyền.
Giặc Nguyên còn muốn báo đền,
Mượn đường hộ tống binh thuyền lại sang.
Bạch Đằng một cõi chiến tràng,
Xương bày trắng đất, máu màng đỏ sông”4.
___________________________________
1. Con của Trần Liễu (nhưng danh nghĩa lại là con của vua Trần Thái Tông) do bà Hoàng Hậu Thuận Thiên sinh hạ.
2. Em ruột của Trần Quang Khải.
3. Đại Việt sử kí toàn thư (Bản kỉ, quyển 5, tờ 50-a).
4. Lê Ngô Cát và Phạm Đình Toái: Đại Nam quốc sử diễn ca.
Chỉnh sửa lần cuối bởi LSB-Sun: 21-12-2009 lúc 13:23.