Phần 2
Chương 2
Ân ân oán oán của Tưởng Giới Thạch với nguyên phối phu nhân
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Đối với cuộc sống hôn nhân cá nhân mà nói, Tưởng Giới Thạch đã là người bị hại trong các cuộc hôn nhân phong kiến kiểu cũ, ông lại là người gây hại trong các cuộc hôn nhân phong kiến. Cuộc tình ân ân ái ái giữa Tưởng Giới Thạch với người vợ kết tóc Mao Phú Mai đã tạo thành một thiên quan trọng trong những điều bí mật về hôn nhân và luyến ái của ông.
Năm 1901 dựa theo lệnh của mẹ và lời hẹn ước của bà mối, Tưởng Thụy Nguyên 14 tuổi đã lấy Mao Phúc Mai người thôn Nham Đầu cùng huyện làm vợ. Cô dâu mới, 19 tuổi lớn hơn chú rể tròn năm tuổi. Nữ lớn tuổi hơn nam, đó là phong tục rất phổ biến thời đó trong dân gian đã lưu truyền câu tục ngữ Nữ đại tam, bao kim chuyên, nghĩa là gái hơn ba coi như được cục vàng bằng hòn gạch. Thế nhưng, Tưởng Thụy Nguyên đối với việc đã được thưởng thức lần đầu quả cấm tự do luyến ái, thì trong đầu óc không làm sao quên được hình bóng xinh đẹp dịu dàng kia của A Xuân. Cộng thêm vào đó là tính cách ngang ngạnh phóng túng, đã khiến cho Tưởng tuy đã trở thành chú rể nhưng trong lòng, thực sự chẳng vui vẻ chút nào. Đêm tân hôn, Tưởng Thụy Nguyên hoàn thành xong Công sự của cuộc hôn lễ theo tục lệ, liền quay ngoắt mình bước ra khỏi động phòng, vào ngủ ở trên giường của mẹ. Chẳng biết là vô tình hay hữu ý, vô luận hô gọi như thế nào Tưởng vẫn không tỉnh dậy. Tưởng mẫu không biết làm thế nào, đành phải sai người đem con nửa lôi nửa vác dìu vào trong động phòng, đặt ngay ngắn ở trên chiếc giường mới. Một chàng rể mới mà suốt ngày vui vẻ nhộn nhịp, bây giờ đến vui mắt cũng không mở được ra, lại tiếp tục ngáy khò khò. Giờ phút này cô dâu ở trong động phòng, đối mắt với rồng phượng đuốc hoa, hình đơn bóng lẻ, tâm tình thê thảm lạnh lùng Đêm hôm đó, nàng chỉ dõi theo tiếng trống cầm canh đơn điệu, Mao Phúc Mai tràn trề, giàn giụa những giọt nước mắt nong hổi oan khuất vô hạn, và cứ thế ngồi chờ cho tới lúc gà trống cất tiếng gáy báo trời đã sáng.
Kỳ thực gia đình nhà Mao Phúc Mai, cũng là một gia đình giàu có ở thôn Nham Đầu. Người cha là Mao Đỉnh Hòa đã mở cửa hiệu Tường Phong Nam hóa điếm, nhân dân đều gọi ông là ông chủ Tường Phong, là một thương nhân có quan niệm đạo đức phong kiến tương đối sâu. Trên vấn đề liên kết nhân duyên với nhà họ Tưởng, ông tin thờ nguyên tắc Chọn thân không bằng chọn mối, ông coi trọng hiền đức hậu đạo của Tưởng mẫu Vương thị. Còn Mao Phúc Mai được từ trong một gia đình lễ giáo phong kiến này hun đúc ra, rất tuân thủ tín điều Con gái không cần tài mà chỉ cần đức. Tuy đối với tương lai của mình nàng ôm ấp một viễn cảnh đẹp tuyệt vời, thế nhưng đối với cuộc hôn nhân do cha mẹ làm chủ này, nàng vẫn phục tùng tuyệt đối mà chẳng thấy có chút gì bảo đảm. Tuy đã có sự gay go căng thẳng của đêm tân hôn, thế nhưng Mao Phúc Mai Khoan dung nhân hậu, vẫn nuốt hết nước đắng oan khuất vào trong bụng, gánh vác lấy những công việc phức tạp, thờ phụng chồng, kính yêu mẹ chồng. Trong mấy năm đầu sau lễ cưới, mối quan hệ giữa hai vợ chồng còn tạm được. Điều đó, một mặt là Mao Phúc Mai tuân theo đạo tam tòng tứ đức, đồi với chồng tuyệt đối vâng lời, hầu hạ người chồng trẻ con tính nết cực kỳ ương bướng, được hài lòng mãn ý. Mặt khác, Tưởng còn chưa đi ra ngoài giang hồ đây đó, tầm mắt chưa được mở rộng, cho nên có thể bằng lòng với hiện trạng.
Năm 1905 Tưởng Giới Thạch tới tư đường họ Trần ở phố Văn Xương Ninh Ba. Mao Phúc Mai tuân theo lệnh mẹ đi theo giúp chồng học hành, chăm sóc cuộc sống cho chồng. Trong giai đoạn này, cảm tình của Tưởng đối với Mao tương đối tốt, thuê một bà chuyên để cho Mao thị sai bảo, lại mời em gái của bạn học Lâm Thiệu Khảo là Lâm Thụy Liên dạy Mao Phúc Mai học chữ, để mở rộng hiểu biết. Thế nhưng thời gian trăng mật này của hai người rất ngắn tổng cộng chỉ có sáu bẩy tháng , Tưởng liền đưa Mao thị trở về Khê Khẩu. Vốn là lúc học tập ở Ninh Ba, Tưởng đã nghe theo kiến nghị Thanh niên muốn thành đạt đổi mới, phải xuất dương du học ở nước ngoài của giáo sư Cố Thành Liêm, chuẩn bị ra nước ngoài học tập, liền đưa Mao Phúc Mai trở về quê cũ.Từ đó về sau, Tưởng Giới Thạch đi thi đỗ vào Học đường Võ bị Triết Giang, lại vào trường quân đội Bảo Định, lại chuyển sang Nhật Bản du học. Bôn tẩu ở trong nước và ngoài nước, những ngày về Khê Khẩu chỉ tính được trên đầu ngón tay. Lại cộng thêm những Đông Dương Mỹ nữ ở Nhật Bản đã rút hết hồn phách, đã khiến cho mối quan hệ giữa Tưởng và Mao tình cảm vốn đã rất miễn cưỡng nay đã mau chóng phai nhạt.Tưởng mẫu Vương thị lấy người vợ có số tuổi lớn hơn một chút cho con trai, sớm có ý niệm khao khắt là được có cháu bế. Chẳng ngờ, hai người kết hôn đã nhiều năm, không thấy sinh nở, chẳng tránh được có chút sốt ruột. Về sau, cuối cùng thì Mao Phúc Mai cũng đã có thai, Vượng thị sung sướng hiện ra trên nét mặt, chăm sóc nàng rất chu đáo. Lúc đó Tưởng lưu học ở Nhật Bản, về nhà nghỉ hè. Giờ phút này, Tưởng Giới Thạch đã được uống qua mực Tây, bỗng trở nên coi thường người vợ bèo cám Mao Phúc Mai này. Giữa hai vợ chồng vì một chuyện nhỏ mà cũng cãi lộn. Tưởng Giới Thạch đã dùng bàn chân mang giày da đá vào bụng của vợ. Lúc đó, Mao thị đã có thai được mấy tháng rồi, sau khi bị đá nàng đớn đau vô hạn, nằm liệt ở trên giường. Sai khi Vương thị biết tin, vội vã chạy tới, rồi mời bác sĩ tới chuẩn trị. Thế những, tất cả đều đã muộn. Ngay đêm đó, Mao Phúc Mai đã sảy thai. Sau khi được tin con dâu sảy thai, Vương thị khóc lóc dạy con, vừa khóc vừa kể tới lịch sử đớn đau của gia đình, quở trách con với đạo lý bất hiếu hữu tam, vô hậu vi đại (Có 3 tội bất hiếu, không có con là tội lớn nhất).
Mùa hè năm 1909, Tưởng Giới Thạch từ Nhật Bản về nước nghỉ, chỉ ở Thượng Hải, không chịu về quê nhà. Tưởng mẫu Vương thị khát khao có cháu bế, bà đã đích thân đưa con dâu tới Hộ (Thượng Hải). Để xúc tiến cho vợ chồng hòa hợp, bà cụ đã khóc lóc đớn đau dạy con, chỉ xuýt nữa thì đã tới mức bà cụ nhảy xuống sông Hoàng phố. Bà mẹ già đã lấy cái chết để khuyên nhủ, Tưởng Giới Thạch đã phải quỳ xuống đất xin tha tội cho và đã phát ra lời thề từ nay sẽ không cãi nhau với vợ nữa. Tới lúc này Vương thị mới yên tâm trở về Khê Khẩu. Chẳng thể ngờ được trái tim đau khổ của Tưởng mẫu thực sự đã có báo ứng tốt lành. Sự chung sống trong một thời gian ngăn giữa Mao Phúc Mai với Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã khiến cho Mao có thai một lần nữa. Sang năm sau, Mao Phúc Mai đã sinh ra một cậu con trai, tên tục là Kiến Phong, tên gia phổ là Kinh Quốc. Mao thị lấy chồng được mười năm, 28 tuổi được con. Vương Thị 46 tuổi được cháu, hương hỏa cả nhà họ Tưởng đã có người nối dõi, cả hai mẹ con đều vui vẻ lạ thường. Tưởng Giới Thạch lần đầu tiên được làm cha, thế nhưng không vì việc đưa con ra đời mà có thể buộc chặt được tình cảm với người vợ kết tóc đó. Cộng thêm vốn tính từ nhỏ đã là một gã trai lơ, đi qua Đông dương, nhìn nhiều chuyện lạ, cho nên về căn bản đã không để Mao Phúc Mai, người đàn bà lớn hơn mình năm tuổi lại chẳng phải là giai nhân lộng lẫy này vào trong con mắt.
Từ sau năm 1911, Tưởng Giới Thạch thường xuyên sống ở Thượng Hải, ăn chơi đàng điếm, rượu chè ** bợm, say đắm cảnh xa hoa với bọn người như Trương Tình Giang, Đới Quý Đào v.v... Chẳng bao lâu sau Tưởng đã lấy Diêu Di Thành xuất thân từ thân phân vú em làm thứ thất (thiếp). Từ đó Mao Phúc Mai đã trở thành rắc rối, rách việc. Thế nhưng sợ oai nghiêm của mẹ, Tưởng còn không thể không biểu hiện duy trì hình thức vợ chồng ở ngoài mặt.Mao Phúc Mai nhìn thấy tình cảm của chồng đối với mình ngày càng nhạt nhẽo mỏng manh, trong lòng vô cùng buồn nản. Thế nhưng, đối với một người phụ nữ chân nhỏ yếu đuối khư khư giữ lễ giáo phong kiến như vậy, đối mặt với số phận thê thảm như vậy, ngoài việc thuận chịu nghịch cảnh ra thì còn có cách gì. May mà nàng đã sinh ra một đứa con trai, nó sẽ kế thừa hương hỏa nhà họ Tưởng, mai sau mẹ sẽ lấy con làm giúp, có thể giữ được một chỗ ngồi ở trong nhà họ Tưởng. Tức thì, Mao thị càng tận tâm gắng sức chăm sóc con trai dốc hết lòng hầu hạ mẹ chồng, suốt ngày ăn chay niệm phật, để trôi theo thời gian.
Năm 1912, bởi Tưởng Giới Thạch tham gia vụ án mưu sát Đào Thành Chương, phải chạy sang Nhật Bản trốn tránh. Cuối năm ấy phong thanh vụ án họ Đào đã qua, Tưởng mặc com lê đi giày da, hãnh diện trở về quê, hơn thế còn đem theo về một thiếu phụ trẻ trung xinh đẹp như hoa tựa ngọc đó là Diêu Di Thành.Tin tức truyền tới, dân chúng trên đường phố ở Khê Khẩu đều chẳng hẹn mà cũng đổ dồn ánh mắt chĩa vào nhà họ Tưởng, cho rằng phòng Phong Cảo sẽ nổi sóng dữ trong biển ghen. Ai ngờ đã chẳng xảy ra như vậy. Mao Phúc Mai đã nắm tay Diêu Di Thành hỏi chuyện rối rít, rất thân mật. Thái độ của Mao thị khiến cho bà con dân phố ngớ người ra. Một người phụ nữ khoan hồng độ lượng tới mức như vậy ai đã từng nhìn thấy? Người chồng đã lấy vợ lẽ đem về, nàng chẳng những không giận mà còn tương kính tương thân như chị em. Khỏi phải nói tới những người bên cạnh ngỡ ngàng, mà ngay cả đến người chồng cũng phải ngấm ngầm bái phục sự độ lượng nhã nhặn của người vợ. Ngay từ lúc quyết định đem người vợ lẽ về làng, Tưởng Giới Thạch đã phải chuẩn bị tư tưởng cam chịu sự trách móc. Chẳng ngờ được Mao thị không những không ghen tuông mà còn sẵn lòng tha thứ trước, trong lòng Tưởng Giới Thạch bỗng chốc đã trào dâng đầy sự cảm kích.Kỳ thực, sự nhẫn nại, nhượng bộ và tha thứ của Mao Phúc Mai, chỉ là một phía của sự việc. Về một mặt khác, đương nhiên là nàng biết rõ tính cách của người chồng mang biệt hiệu là vô lại kia, cãi cọ với chồng cũng chẳng đem lại thú vị gì, chi bằng cứ thuận nước đẩy thuyền, để cầu lấy sự cùng yên ổn cùng vô sự. Sự thông minh và độ lượng của Mao thị, đã khiến cho mối quan hệ giữa nàng và chồng gay go mguy kịch, không những không vì sự xuất hiện của Diêu Dã Thành mà bị phá vỡ, ngược trở lại còn được cải thiện thêm.
Tháng 6 năm 1921, Tưởng mẫu Vương thị qua đời. Trục cột tinh thần để cho Mao Phúc Mai nương tựa nhờ cậy đã bị sụp đổ. Nàng biết rõ, từ đây về sau trên quan hệ hôn nhân sẽ không thể có người nào đem lại sự công bằng cho nàng được nữa. Nàng khoác áo cộ, đội khăn hiếu, đứng giữ trước kinh cữu, sa vào trong vực sâu đau khổ.Quả nhiên, vận rủi ro đã đến rất nhanh. Một đêm sau khi hoàn thành xong tang lễ Vương thị, Tưởng Giới Thạch, ngồi ngay ngắn ở trong Phật đường trước khi mẹ còn sống, gọi Mao Phúc Mai, Diêu Di Thành (có chỗ viết là Diêu Di Thành) tới, nước mắt ròng ròng tuyên bố với họ một tờ giấy bỏ vợ: Tôi chôn cất mẹ đã xong, một việc đại sự trong đời của người con đã hết, từ nay có thể một lòng dốc sức cho cách mạng, chẳng còn điều gì ràng buộc khác nữa. Nay tôi và mẹ con nàng sẽ li dị, việc sinh tử thành bại của tôi về sau, gia đình tự sẽ không còn liên lụy gì đến tôi nữa...[1] Thoạt nghe tới hai chữ li dị, một âm thanh bùng nổ trong tai Mao Phúc Mai, tưởng chừng như những đợt sấm vang. Nàng tuy đã có dự cảm từ lâu, thế nhưng chẳng thể ngờ được người chồng tuyệt tình lại hành động nhanh đến như vậy được. Lúc này, Mao thị ôm chặt con trai vào lòng, hai mẹ con nước mắt chảy ròng ròng nhìn Tưởng Giới Thạch, như van xin, mong Tưởng đừng ruồng bỏ họ. Mẹ già vừa chết, thi thể xương cốt còn chưa lạnh Tưởng Giới Thạch đã vội vội vàng vàng bỏ vợ, còn nhởn nhơ giả dạng lấy danh nghĩa Cánh mạng mà không biết nhục nhã hổ thẹn, dùng thủ đoạn xấu xa bỉ ổi, thực sự khiến cho người ta phải rùng mình ghê sợ. Tháng 11 cùng năm, trong bức thư gửi cho người anh của Mao thị là Mao Mậu Khanh đã bộc lộ rõ cách nghĩ chân thực Mười năm trở lúc đây, nghe thấy tiếng chân bước, nhìn thấy hình dáng con người, lập tức trở thành sự kích thích. Con người bỗng nhiên sinh ra oán hận đau khổ, cũng phải miền cưỡng làm việc chưa có quyết tâm nào muốn chia ly chồng vợ. Ngày hôm nay đã đến lúc bất hạnh, gia đình không thành gia đình không thành gia đình nữa, chồng đã không thể nhận vợ, vợ cũng chẳng được nhận chồng, để đến nỗi tôi và người mẹ hiền của tôi cũng đã dần tức tình cảm như nước sôi lửa bỏng cũng sinh ra liên lụy. Mọi điều đó tức là chồng chẳng ra chồng, vợ không ra vợ, rồi lại công thêm mẹ chẳng nhận con, điều đó đâu có phải là lạc thú của con người những lời nói kể trên, không phải là không muốn nói rõ một điều là Mao Phúc Mai căn bản không xứng đáng với Tưởng Giới Thạch, Mao chỉ có thể đem lại cho Tưởng những kích thích ác tính mà thôi.Tưởng Giới Thạch vội vàng thoát khỏi Mao Phúc Mai, còn có một nguyên nhân nữa là ở bên ngoài Tưởng lại còn có một niềm vui mới nữa, đó là Trần Khiết Như. Đáng tiếc là việc li hôn, thủ đoạn qúa ác liệt này, đã vấp phải sự phản đối của họ hàng thân thích, cũng chẳng thể giải trừ được quan hệ hôn nhân trên mặt pháp luật. Thế nhưng, cuộc hôn nhân trên thực tế giữa hai người, đã chết từ lâu.
Tháng 8 năm 1927, Tưởng Giới Thạch tạo phản đã bước lên đỉnh cao quyền lực trên võ đài chính trị Trung Quốc thì lại bị thông báo buộc phải từ chức Ra nước ngoài nghỉ ngơi dưỡng sức. Do vì các thủ tục như hộ chiếu. v.v... chưa làm xong, sau khi Tưởng đi du chơi Hàng Châu tham quan Tây Hồ, rồi trở về nghỉ ở Khê Khẩu. Mao thị nghe nói chồng sắp sửa trở về Phong Cảo phòng, nỗi bực tức giận dữ ở trong lòng liền trỗi dậy. Ngàn nỗi oán, vạn mối hận tập trung lại một chỗ, chỉ hận chồng đã đem đứa con mà mình dứt ruột đẻ ra đưa đi nước ngoài để nói phải sống ở quê hương khác. Nghe thấy tiếngg chân của chồng bước vào cửa, không biết dũng khí bật trỗi dậy từ đâu, Mao thị bỗng đứng dậy, bước mạnh bàn chân nhỏ, chạy xuống cầu thang gác, thì gặp ngay Tưởng Giới Thạch ở giữa sân. Nàng vừa khóc và gào:
- Ông đã đem con trai của tôi đi đâu rồi ? ông phải trả lại con cho tôi!
Bọn lính tùy tùng của Tưởng đứa nọ nhìn đứa kia, không người nào dám bước lên khuyên can, không khí vô cùng căng thẳng. May mà Tưởng Giới Thạch đã không phải là Tưởng Thụy Nguyên của quá khứ nữa, những công việc động tới chân tay Tưởng đã thi hành rất ít, lại cộng thêm bản thân Tưởng đích thực đã mắc nợ Mao thị quá nhiều rồi, đành phải dùng lời nói khéo để khuyên giải, cầu lấy sự việc được êm suôi.Sau khi Tưởng Giới Thạch ổn định được Mao thị, chẳng bao lâu lại sang Nhật Bản, cầu hôn với Tống Mỹ Linh đang cư trú ở Nhật Bản. Sau nhiều lần bàn bạc hai bên đã đạt tới hiệp nghị: Tống Mỹ Linh sẽ giải trừ hôn ước với người chồng chưa cưới trước là Lưu Kỷ Văn. Tưởng Giới Thạch cũng cần phải công khai ly hôn với người vợ cả Mao thị. Sau đó hai người mới có thể kết hôn.Tháng 12 cùng năm, Tưởng lại một lần nữa trở về Khê Khẩu đích thân xử lý công việc vô cùng gay cấn này - Tuyên bố công khai li hôn với Mao thị. Thế nhưng, Mao Phúc Mai cuối cùng vẫn là nguyên phối phu nhân của Tưởng Giới Thạch do Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc chủ trì mối manh cưới hỏi chính thức. Cổ nhân đã có lời dạy rõ ràng Tao khang chi thê bất hạ đường, huống hồ bình thường nàng bình tĩnh tự tin, ăn chay niệm Phật, chẳng tranh chấp gì với ai, được mọi người trong làng xóm cảm thông sâu sắc. Tưởng Giới Thạch nêu ra việc li hôn với Mao thị, trên mặt tình lý nói không xuôi mà người họ hàng làng xóm cũng chẳng ai thừa nhận Hơn nữa, con cả Tưởng Kinh Quốc lại do Mai thị sinh ra, hiện còn đang lưu học ở Liên Xô, người mẹ lấy con làm quý. Mao Phúc Mai lẽ dĩ nhiên phải là bà chủ của Phong Cảo phòng. Sau cùng, do người cậu Tôn Cầm Phương của Tưởng Giới Thạch suy nghĩ tới tiền đồ chính trị nếu Tưởng Tống kết hợp với nhau thì sẽ có lợi cho Tưởng Giới Thạch từ nay về sau, liền nêu ra chủ trương: Đón Mao Phúc Mai tới tạm trú ở Miếu Tiêu Vương, mặc nhận là đã li hôn, làm một thủ tục ki hôn đăng trên mặt báo, rồi chuẩn bị hồ sơ ở chính quyền huyện Phụng Hóa, đem giấy chứng thực ly hôn có cả Tưởng Mao cùng ký tên, giao chuyển cho nhà họ Tống - chờ sau khi Tưởng Tống kết hôn xong, Mao Phúc Mai lại trở về Phong Cảo phòng, cuộc sống do Tưởng cung cấp. Như vậy tuy trên danh nghĩa đã giải trừ được quan hệ hôn nhân, thế nhưng Mao thị vẫn là bà chủ của Phong Cảo phòng.Gặp ngày tết, bạn bè thân thích qua lại, vẫn theo tục lệ của làng như trước coi Mao thị là chính tông, cả hai bên, việc nào đi việc ấy.
Ngày 1 tháng 12 năm 1927, trên tờ Thân báo Thượng Hải đã đăng tải một mẩu tin li hôn: Mao thị là vợ cả, đã li dị từ lâu, hai họ Diêu Trần, vốn không có khế ước Trải qua một loạt sắp đặt, cuối cùng Tưởng Giới Thạch đã thoát khỏi được người vợ kết tóc của mình là Mao Phúc Mai. Sau khi sóng gió của cuộc ly hôn đã trôi qua, Mao Phúc Mai vẫn trở về nhà họ Tưởng, tiếp tục chủ trì mọi công việc ở Phong Cảo phòng. Loại hiệp định quân trở li hôn bất li gia này giữa Tưởng và Mao, cố nhiên là có tâm lí hổ thẹn day dứt của Tưởng Giới Thạch, thế những có điều càng quan trọng hơn là Mao thị đã dùng hành động thực tế của mình giành được địa vị không thể chuyển lay ở trong nhà họ Tưởng. Mao Phúc Mai là một người vợ hiền mẹ tốt điển hình. Hiền đức và từ thiện của nàng đã giành được hầu hết sự đồng tình và ca ngợi của họ hàng làng xóm. Khiếp sợ oai vọng của lão Tưởng các cụ phụ lão ở quê hương không dám công khai tuyên bố rằng Tưởng Giới Thạch đang đi trên con đường của Trần Thế Mỹ hiện đại, thế nhưng sự đồng tình và kính trọng đối với Mao thị, chính là chiếc roi đạo đức quất vào hành vi ruồng bỏ người vợ kết tóc của Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch là người đầu tiên đề xướng Phong trào đời sống mới: lấy Trung, Hiếu, Lễ, Nghĩa làm cốt lõi. Hành vi ruồng bỏ Mao thị, không thể không là một vết nhơ mà bản thân ình cảm thấy lo sợ hồi hộp. Trong những ngày tiếp sau đó, người Khê Khẩu vẫn coi Mao thị là người vợ cả của Tưởng, tôn gọi Mao thị là Đại sự mẫu. Mãi đến năm 1948, Tưởng Giới Thạch về quê tu sửa gia phổ, mới đem Mao Phúc Mai thay đổi xưng hô gọi Mao thị là nghĩa nữ của Tưởng mẫu Vương Thái Ngọc.Mặc dù Tưởng và Mao hai người đã chẳng còn danh phận vợ chồng, thế nhưng Mao thị đối với Tưởng vẫn tôn kính giữ lễ. Mỗi lần Tưởng Giới Thạch trở về Khê Khẩu, bao giờ cũng có thông báo trước. Sau khi Mao thị nhận được tin Tưởng sẽ về làng, bao giờ cũng sai phái nhân viên quét dọn sạch sẽ tinh tươm trong và ngoài Phong Cảo phòng, cửa nhà sáng choang, không chút bụi nhiễm. Bình thường, Phong Cảo phòng đối với người thuê không cung cấp việc ăn uống, thế nhưng trong thời gian Tưởng Giới Thạch về quên thì lệ ngoại. Ngoài việc tìm ngờưi giúp đỡ việc làm cơm nấu thức ăn cho Tưởng và các nhân viên phục vụ ra, còn phải tăng thêm mấy mâm cơm khách, cung cấp cho người kế toán, tổng quản v.v... của Phong Cảo phòng sử dụng. Trong thời gian này Mao thị thường xuyên xuống nhà bếp, tự tay làm mấy món thức ăn nhà quê cho Tưởng. Còn Tưởng Giới Thạch mỗi lần về nhà, cũng luôn luôn dành thời gian tới Phong Cảo phòng, trò chuyện với Mao thị. có khi Tưởng và Tống Mỹ Linh cùng trở về Khê Khẩu, trú ở biệt thự Lạc đình. Tống Mỹ Linh luôn luôn có thói quen ngủ dậy muộn. Sau khi Tưởng dậy trước, lập tức sử dụng đoạn thời gian này, đi bộ tới Phong Cảo phòng. Mao thị tất đã chuẩn bị sẵn sàng một chút loại thức ăn điểm tâm như bánh ngải xanh..., để cho Tưởng sử dụng. Khi Tưởng Giới Thạch dùng xong món điểm tâm trở về Lạc đình, Tống Mỹ Linh vẫn còn chưa ngủ dậy, Mao thị biết rằng Tưởng rất thích ăn khẩu vị đặc sắc của Phụng Hóa, cho nên mỗi năm đều phải gửi tới Nam Kinh một ít thức ăn địa phương như khoai sọ v.v... cho Tưởng sử dụng. Do vì Mao thị luôn nhớ tới con trai Tưởng Kinh Quốc đang ở Liên Xô xa xôi, có khi cãi nhau với Tưởng, bắt Tưởng phải đưa trả con trai trở về. Trong đại đã số các trường hợp, đều hòa hoãn thân thiện với Tưởng.Sau khi giải quyết hòa bình sự biến Tây An, Tưởng Giới Thạch trở về Khê Khẩu nghỉ ngơi hưu dưỡng, Mao thị suốt ngày hầu hạ ở bên cạnh, chăm sóc tới đời sống của Tưởng. Do vì có nợ với Mao thị, trong lòng có sự hổ thẹn, Tưởng Giới Thạch liền hớn hở vui vẻ nói với Mao thị:
- Nỗi oan khuất, đau khổ của nàng trong bao nhiêu năm nay ta đều rõ cả. Bây giờ nàng có việc gì cần phải làm? Cần thiết phải có những thứ gì. Chỉ cần nàng nói ra, ta nhất định sẽ làm giúp cho nàng ?
Mao Thị chẳng hề suy nghĩ, trả lời luôn:
- Tôi không cần thứ gì hết, chỉ cần ông đem trả Kinh Quốc lại cho tôi - Tưởng Giới Thạch đã gật đầu đồng ý.Không lâu, với sự can thiệp của lão Tưởng, Tưởng Kinh Quốc đã từ Liên Xô về nước, trở về bên cạnh Mao thị, khiến cho bà có được niềm an ủi cực kỳ lớn.
Ngày 12 tháng 12 năm 1939, máy bay quân Nhật bỏ bom bắn phá Khê Khẩu, lấy nơi ở cũ Phong Cảo phòng và biệt thự Văn Xương các Võ Lính Đầu của nhà họ Tưởng là mục tiêu chủ yếu. Trong lúc vội vàng đi trú ẩn, Mao Phúc Mai không mau bị ngôi nhà đổ sập đè chết, thọ được 58 tuổi. Nhìn chung cuộc hôn nhân chồng vợ đầu tiên của Tưởng Giới Thạch và Mao Phúc Mai bắt đầu từ hài kịch rối kết thúc bằng bi kịch. Mao thị không hẳn là hồng nhan, nhưng chỉ có thể nói là bạc mệnh. Nàng với người chồng là Tưởng Giới Thạch, cũng là người bị hại của cuộc hôn nhân phong kiến bao biện. Thế nhưng điểm khác nhau giữa nàng và chồng nàng ở chỗ: Cái hại mà nàng phải chịu là hai tầng, vừa chịu cái hại lấy chồng do lôi kéo ép buộc của mệnh lệnh cha mẹ, lại chịu cái hai là bị chồng ruồng bỏ. Còn Tưởng Giới Thạch đã vừa là người bị hại của cuộc hôn nhân phong kiến, trái ngược lại Tưởng lại trở thành người gây hại cho cuộc hôn nhân phong kiến đòi hỏi môn đang hộ đối, phu sướng phụ hòa. Trong bi kịch hôn nhân giống như một câu đố, người bị thể thảm nhất không ai hơn được Mao Phúc Mai. Giả sử nàng cũng giống như những người phụ nữ khác tuân theo chỉ ý của mẹ cha, lấy một người nông dân bình thường, sinh con đẻ cái, làm một người vợ tốt tam tòng tứ đức, thì sẽ có thể trôi qua một cuộc sống tháo bình yên ả. Nếu như vậy, nhìn lên thì chẳng bằng ai, nhìn xuống cũng khối người chẳng bằng mình! Thế nhưng, số phận luôn luôn đùa giỡn với con người, mộng ảo của người phụ nữ, không chịu nổi sự thét gào của thời đại. Ai đã từng nghĩ tới, người chồng bé nhỏ mà năm xưa ương bướng phóng đãng, cuối cùng đã trở thành Tổng thống thống trị Trung Quốc gần hai chục năm, thật là ân hận đã dạy chồng kiếm được sự phong hầu! đó lắm thay!
-----------------------------------
[1] Tưởng Giới Thạch gia thế trang 121, NXB nhân dân Triết Giang, Xuất bản 10 năm 1988
Phần 2
Chương 3
Duy anh hùng mỹ nữ của Tưởng Giới Thạch
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Năm 1966, người đàn bà thứ hai đã từng có quan hệ hôn nhân với Tưởng Giới Thạch, mẹ nuôi của Tưởng Kinh Quốc - Diêu Di Thành, tạ thế tại Đài Trung. Công việc an táng do người anh họ của Diêu Di Thành đứng ra sắp đặt, tất cả đều làm việc giản đơn, thậm chí lúc đó các đài phát thanh, các tòa báo trên toàn Đài Loan chẳng hề đăng tin một chữ nào về việc quy tiên của tiền phu nhân Tổng thống cả. Tục ngữ nói nhất nhật phu thê bách nhật ân - một ngày chồng vợ ân nghĩa trăm ngày. Có một điều mà mọi người không hiểu đó là: Tưởng Giới Thạch luôn luôn tuyên truyền Trung, Hiếu, Nhân, Nghĩa, tại sao đối người đàn bà đã gửi thân cho mình và đã bị lạnh nhạt suốt thời gian dài lại bạc tình quả ân tới mức như vây?
Muốn giải đáp được điều bí mật này phải bắt đầu kể từ thân thế long đong lận đận của Diêu Di Thành và địa vị mà bà đã đứng trong quan hệ hôn nhân giữa bà và Tưởng Giới Thạch.Diêu Di Thành, lúc nhỏ tên là A Xảo, người huyện Ngô Giang Tô. A Xảo ra đời ở trong một thị trấn nhỏ Nam Kiều ở bờ bắc sông Kinh Trị Trường, là một người con gái độc nhất. Từ nhỏ lớn lên đã có dung nhan xinh đẹp, được cha mẹ vô cùng yêu quý. Chẳng ngờ trời xanh vô tình, một trận ốm nặng, đã cướp đi tính mệnh của cả cha mẹ A Xảo, đã khiến cho đưa trẻ này biến thành mồ côi. Do vì cuộc sống khó khăn, cô bé A Xảo đành phải sống nhờ vào gia đình người chú ruột. Người chú là Diêu Tiểu bảo không có con, đã coi ảXao như con đẻ của mình, ông chuẩn bị sau này tìm một người ở rể vào nhà họ Diêu, để nối dõi hương hỏa.Đông qua hè lạy nhật nguyệt như thoi. Một số năm đã trôi qua. Tiểu A Xảo đã lớn lên, tuy chẳng phải là tuyệt sắc giai nhân nghiêng thành nghiêng nước, thế nhưng cũng xinh đẹp lạ kỳ mắt sáng răng trắng, mắt mày thanh tú, thân hình thon thả, thể thái nở nang. Cộng thêm nàng tính tình dịu dàng, khéo tay kim chỉ, đã lọt vào mắt xanh của rất nhiều chàng trai trên phố. Chờ đến năm A Xảo lớn lên đến tuổi cập kè, người chú Diêu Tiểu Bảo liền chọn cho cháu một chàng rể vào cửa tên gọi là Thẩm Thiên Tường, vào ở rể nhà họ Diêu thì đổi họ tên là Diêu Thiên Sinh. Sau cuộc hôn lễ, vợ chồng ân ái, tình cảm cảu hai người rất tốt đẹp.Thị trấn Nam Kiều là một nới giao thông đường thủy rất tiện lợi. Tự Trường Kinh không phải là con sông to lớn gì, thế nhưng nó ăn thông với hồ Đãng, hồ Tào, hồ Dương Trừng và sông đào Tô Ngu ở phía bắc huyện Ngô. Do vì nghề vận tải đường thủy phát đạt, đi lại tiện lợi. Đầu năm dân quốc cuối đời Thanh, vùng này có rất nhiều nông dân tới Thượng Hải kiếm sống. Đàn ông làm thuê đàn bà ở thuê. Người Tô châu gọi những người đi ở thuê là vú em. Lúc đó Diêu Thiên Sinh có hai người chú, làm thuê ở Thượng Hải, chủ yếu là làm cái công việc nặng nhọc tương đối thấp hèn như khiêng kiệu, khiêng quan tài đi chôn cất. Để kiếm được nhiều tiền, vợ chồng Diêu Thiên Sinh cũng tới bến Thượng Hải. Thiên Sinh theo chú đi làm phu khuân vác, A Xảo thì vào trong nhà làm vú em. Lúc đầu hai vợ chồng tiết kiệm chi tiêu, ngoài tiền ăn mặc ra vẫn còn dư thừa. Cuộc sống trôi qua tương đối thoải mái. Về sau do vì có mấy đồng tiền, Diêu Thiên Sinh đã nhiễm phải thói quen xấu là nghiện hút thuốc phiện, suốt ngày là cà ở trong quán thuốc, quán rượu, rất nhanh chóng mắc nợ chất chồng, không thể vượt lên được. Hàng ngày Diêu Thiên Sinh ngoài việc sống vật vờ trong cơn say, làm điều hèn hạ, còn hành hạ lăng nhục A Xảo, thượng cẳng chân hạ cẳng tay đánh đập A Xảo, quan hệ vợ chồng dần dần lạnh nhạt.Sau khi quan hệ vợ chồng xấu đi, A Xảo bỏ nhà ra đi, tìm được công việc làm ở trong nhà thổ tên gọi là Quần Ngọc Phương trên đường Ngũ mã Thượng Hải. Nhà chứa này cũng chính là kỹ viện . Trong các nhà chứa ở Thượng Hải cũ, có một loại kỹ nữ cao cấp có trình độ tư dưỡng văn hóa nhất định, hay thơ giỏi họa, hát hay đàn giỏi, những người mà loại kỹ nữ cao cấo này hầu hạ thường đều là một số nhân vật có quyền thế, do đó thu nhập tương đối cao. ở bên cạnh những kỹ nưc cao cấp này, nói chung đều có hai người vú em hoặc thị nữ gọi là Đại tiểu thư để hầu hạ họ. Một người chuyên môn làm các công việc thô như giặt quần áo, nấu cơm, quét dọn vệ sinh v.v.. Còn một người phụ trách công việc tế nhị như trông nom quản lý quần áo đồ trang sức của các vị tiên sinh, chải đầu lau mặt, chiêu đãi khách v.v.. Sau khi A Xảo vào trong Quần Ngọc Phương, chuyên làm các công việc tế nhị nhẹ nhàng khéo léo, được gọi là vú em làm việc tế nhị, đồng thời đặt tên hòa là Di Cầm.Thời gian đó là năm 1912, sau khi cách mạng Tân hội bùng nổi không lâu. Tưởng Giới Thạch trẻ trung vừa từ Nhật Bản về nước lao thân vào cửa đô đốc Thượng Hải là Trần Kỳ Mỹ, được nhận chức trung đoàn trưởng trung đoàn thứ 5 quân đội Thượng Hải. Vào thời kỳ này, cách mạng Tân hội tuy đã thành công, thế nhưng Đảng Cách mạng vẫn chưa khống chế được cục thế toàn quốc, cho nên bọn quân phiệt nổi dậy hết đợt nọ tới đợt kia, thời cuộc rất hỗn loạn. Tưởng Giới Thạch lúc này, lao mình vào cách mạng giữa lúc khí huyết đang mạnh mẽ hăng hái, toàn thân nai nịt quân trang, khi ở Triết Giang, khi ở Giang Ân, không tổ chức quân đội thì vạch kế hoạch hành động khởi nghĩa. Chính trong cuộc sống binh mã, nhiệm vụ quân sự khẩn cấp vội vã này, Tưởng Giới Thạch đã bớt chút thời gian rảnh rỗi, cũng không quên đã diễn xuất ra những vở kịch phong lưu anh hùng gặp mỹ nữ.Đoạn nhân duyên phong lưu này của Tưởng Giới Thạch bắt đầu từ ân công của Tưởng là Trần Kỳ Mỹ. Trần kỳ Mỹ là người lãnh đạo cuộc khởi nghĩa Tân hợi ở Thượng Hải, tuy cũng là lãnh tụ cách mạng danh tiếng một thời, thế nhưng cũng là con người quả nhân hữu tật - hiếu sắc, thường đắm tình trong Tần lầu Sở quán. Trong đó Quần Ngọc Phương ở đường Ngũ Mã chính là một trong những chỗ mà Trần Kỳ Mỹ thường lui tới. Tại đây ông ta đã bao một kỹ nữ cao cấp tài sắc tuyệt vời. Diêu Di Cầm chính là Vú em làm việc tế nhị cho cả kỹ nữ cao cấp này.Một lần, do có việc quân sự khẩn cấp cần phải báo cáo, Tưởng Giới Thạch đã tìm tới Quần Ngọc Phương theo địa chỉ Trần kỳ Mỹ đã cho. Trong khuê phong ngào ngạt hương thơm son phấn, Tưởng Giới Thạch một mặt nghiêm trang báo cáo tình hình quân sự vô cùng hỏa cấp với Trần Kỳ Mỹ, một mặt dùng ánh mắt dọi chiếu trong lúc báo cáo ngắm nhìn cô gái Di Cầm đứng hầu ở bên cạnh, trong lòng rộn ràng điên sông đảo biển: Mẹ kiếp, cách mạng rồi mà vẫn bất bình đăng thế này, có người được ôm gái đẹp chỉ huy cách mạng ở trong chăn êm ấm, còn lũ chúng tao lại phải mạo hiểm cào đầu ở trên dây lưng. Một lát sau, Diêu Di Cầm bước tời giót nước trà vào tách. Tưởng Giới Thạch ngắm nhìn cô gái thân hình thướt tha mảnh mai chân tay thon thả, không kìm nổi lòng dạ xốn sang. Nói thực tình, Tưởng Giới Thạch tuy xuất thân từ nông thôn, thế nhưng từ xưa Tưởng chưa hề cam chịu cảnh tịch mạc, cuộc sồng ở thành thị lâu dài, đặc biệt là sự tiêm nhiễm phong tục văn hóa Nhật Bản, đã khiến cho tài nghệ của Tưởng về mặt truy cầu tán tỉnh phụ nữ rất cao siêu Tưởng ngấm ngầm hạ quyết tâm phải giành lấy có gái xinh đẹp này vào trong tay mới được ! Từ đó trở đi, có việc hay không có việc Tưởng Giới Thạch đều thường xuyên chiếu cố tới Quần Ngọc Phương. Có khi Tưởng tới đòng vai sĩ quan tùy tùng của Trần Kỳ Mỹ, có lúc tới là vì thuận đường rẽ ào hoặc vì một lý do nào khác. Thời kỳ đó là thời kỳ cách mạng, trong con mắt của người dân thường thì Cách mạng cũng đã trở thành một mốt thời thượng. Đối với một sĩ quan quân đội cách mạng trẻ trung anh tuấn như thế này, lẽ dĩ nhiên là Diêu Di Cầm tỏ ra nhiệt tình đặc biệt, không bao giờ thờ ơ chểnh mảng. Sau mấy tháng, hai người dần dân quen thuộc, thường xuyên đơn độc hòa chộn đắm mình ở trong phòng của Diêu Di Cầm, cảm tình ngày một nồng nhiết, ngay đến cả Trần Kỳ Mỹ cũng đã trở thành một nhân vật vướng chân vướng tay.Mùa đông năm đó, với sự vun vén của Trần Kỳ Mỹ, cuối cùng Tưởng Giới Thạch đã được toại nguyện, giành được cô gái Di Cầm mà ngày tưởng đêm mơ. Không lâu, Tưởng Giới Thạch bỏ ra một khoản tiền, đòn Diêu Di Cầm từ trong nhà chứa ra. Sau đó, tìm được một căn phòng số 13 Tân Dân lý Đường Phố Thạch Tô giới Pháp ở Thượng Hải, chưa tiến hành bất kỳ nghi thức gì, liền kim ốc tàng kiều bắt đầu cuộc sống chung. Từ trước Diêu Di Cầm đã chịu đựng hết mọi sự ngược đãi của chồng, bây giờ được cưng chiều sung sướng, như say như mê. Để xóa sạch mọi dấu tích ở trong nhà thổ của Diêu Di Cầm, căn cứ vào âm độc đem Diêu Di Cầm đổi ra Diêu Di Thành. Tuy đều là những người tái hôn, thế nhưng sau khi thoát khỏi được xiềng xích của cuộc hôn nhân trước, hai người đã yêu thương ân ái, giống hệt như mới cưới lần đầu vậy. Lúc đó Tưởng vẫn còn chưa phất, sau khi rời bỏ chức vụ trung đoàn trưởng quân đội Thượng Hải, không tránh khỏi có sự thẹn thùng trong dạ. Có điều, ở Thượng Hải lúc đó, Tưởng Giới Thạch còn có mấy người bạn chí cốt có số tiền khổng lồ dựa vào sự tiếp tế của họ, Tưởng vẫn có thể được sống cuộc sống sa hoa. ở trong nhà Tưởng và Diêu, nuôi một người đầu bếp, một người sai vặt và một người hầu gái, ngày nào cũng ăn chơi đàng điếm, không gì sung sướng bằng. Chưa được bao lâu, khoản tiền mà Tưởng Giới Thạch chi dùng của Trương Tĩnh Giang đã đạt tới hơn mười vạn đồng, tuy là tri kỷ đó những cuối cùng vẫn phải nợ món nợ nhân tình. Tưởng Giới Thạch đắn đo suy tính dứt khoát để cho Diêu Di Thành vái gọi Trương Tĩnh Giang là người cha nuôi, và như vậy Diêu đã trở thành con gái nuôi của Trương Tĩnh Giang, tự nhiên Tưởng cũng trở thành con rể nuôi của Trương Tĩnh Giang.Sau khi Tưởng Giới Thạch và Diêu Di Thành chung sống không lậu, Tưởng liền đem Diêu trở về nhà cũ ở Khê Khẩu Phụng Hóa. Tại Phong Cảo phòng, người vợ kết tóc của Tưởng là Mao Phúc Mai, nhìn thầy vị khách mới từ Thượng Hải tới này, lẽ dĩ nhiên đã có chút bực bội không vui. Thế nhưng, người chồng có thiếp, thì ở Trung Quốc đâu đâu chẳng có. Hơn nữa chồng mình đã không phải là đứa trẻ bướng bỉnh của ngày xưa, đã từng đi du học, đã làm trung đoàn trưởng, đã tham gia cách mệnh, đã có vai có vế như vậy, lấy một người vợ nhỏ cùng đâu phải là chuyện quá đáng. Tức thì, đối với người phụ nữ trẻ mà chồng dẫn về này, Mao Phúc Mai đã sử dụng thái độ khoan dung độ lượng. Sau khi Tưởng Giới Thạch sắp đặt xong cho Diêu Di Thành rồi, liên trở về Thượng Hải lao vào hoạt động cách mệnh do Trần Kỳ Mỹ vạch định.Trong mấy năm sau đó, hành tung của Tưởng Giới Thạch không ôn định, ông đã bôn tẩu ở Thượng Hải Triết Giang, Nhật Bản v.v... rất ít khi chăm sóc tới vợ con ở nhà. Thoạt đầu, Diêu Di Thành và Mao Phúc Mai đề sống ở trên lầu Phong Cảo phòng. Bởi Mao Thị tụng kinh niệm phật, Diêu thị để cho bà được yên tĩnh một chút, liền dọn tới ở trong phòng của một gia định thân thích ở trên thị trấn. Đối với sự lạnh nhạt của chồng, Mao thị đã quen từ lâu. Thế nhưng đối với Diêu thị đã chịu đựng qua ân ái mà nói thì lại cảm thấy vô cùng tẻ lạnh và cô đơn. Trong lúc tâm tình trơ vơ chới với, Diêu Thị lại làm nghề cũ ở trong nhà thổ, suốt ngày chơi bài đánh bạc, say đắm cảnh sa hoa. Có khi Tưởng Giới Thạch về thăm, Diêu thị đã nói tuốt tuột hết mọi nỗi oán hận mình phải đơn độc phong không gối chiếc, liên hồi không ngợt, khiến cho Tưởng phải rối ruốt điên đều, trên mặt tình cảm hai người đã dần dần xa cách. Tháng 10 năm 1919, trong nhật ký Tưởng đề cập tới: Di Thành không ngừng đánh bạc, thật là ác quá! phiền quá! Diễn biến về quan hệ của Tưởng đã nhìn thấy rõ ràng.Cuối năm 1919, Tưởng Giới Thạch đi du lịch Nhật Bản, khi về tới Thượng Hải, đã đem theo một đứa bé lên ba tuổi rất hoạt bát đáng yêu. Đứa bé như một câu đó bí mật này, Tưởng Giới Thạch đã thay nó đặt một cái tên Tưởng Vĩ Quốc, tên trong gia phổ là Kiên Cảo, giao cho Diêu Di Thành chăm sóc nuôi dưỡng. Từ sau khi Diêu thị lấy Tưởng Giới Thạch, không sinh đẻ con cái, ở Khê Khẩu một mình, tinh thần vô cùng trống rỗng. Lần này người chồng trở về, đem theo một đứa bé bướng bỉnh, vừa hay bà lấp được chỗ trống trải trên mặt tinh thần của Diêu. Cộng theo việc suy trước tính sau, tình cảm với chồng đã ngày một nhạt nhẽo, tứ thì Diêu thị liền dồn tình cảm và hy vọng của nửa sau cuộc đời, tất cả ký thác lên thân Vỹ Quốc, chăm sóc yêu thương, như chính con mình đẻ ra vậy.Tháng 6 năm 1921, Tưởng mẫu qua đời. Sau khi Tưởng Giới Thạch thu xếp xong tang lễ cho mẹ, liền đối mặt với hai người Mao Diêu diễn ra vở hài kịch bỏ vợ. Đáng tiếc là vợ cả, vợ lẽ thì nước mắt nhạt nhòa; Kinh Quốc, Vĩ Quốc thì khổ sở van xin; người trong họ trong làng thì nhao nhao quở trách, khiến cho kế hoạch này của Tưởng Giới Thạch, không phải là lí do vì gia đình ràng buộc nên phải bỏ vợ, đó hoàn toàn là những lời nói hoang đường giả dối, còn nguyên nhân chân thực là Tưởng đã lại có một ý trung nhân càng trẻ trung xinh đẹp khác.Đầu năm 1922, Tưởng Giới Thạch kết hôn với Trần Khiết Như, sau khi tìm được niềm vui mới, lẽ dĩ nhiên Diêu Di Thành đã không còn điều gì đáng kể nữa. Cộng thêm thói xấu chơi cờ bạc mà nàng đã nhiễm phải ở trong nhà thổ từ trước, Tưởng đã nhạt nhẽo, xa lánh và lãng quên đối với Diêu thị. Không lâu Diêu Di Thành đem Tưởng Vĩ Quốc về tới Thượng Hải, được thu xếp cho ở trong một biệt thự của Trương Tĩnh Giang. Năm 1924, sau khi Tưởng Giới Thạch nhậm chức hiệu Trưởng trường quân sự Hoàng Phố, cùng cặp đôi tới Tuệ (tức Quảng Châu) với Trần Khiết Như, để lại Diêu thị ở Thượng Hải. Ngày qua tháng lại, Diêu thị không chịu nổi cảnh lạnh lẽo của phòng đơn gối lẻ, liền vắt nát óc suy nghĩ ra một kế, tìm cách tới gặp Tưởng Giới Thạch. Diêu thị biết rất rõ Tưởng rất yêu quý Tưởng Vĩ Quốc, liền bắt Vĩ Quốc chụp một kiểu ảnh, lại nhờ người lấy danh nghĩa là Vĩ Quốc, viết một bức thư cho cha, thuật kể những cảm tình thương nhớ. Kế này qủa nhiên là linh nghiệm. Sau khi Tưởng Giới Thạch nhận được là thư của đưa con yêu quý, tình quyến luyến cho con bỗng nhiên thức dậy, liền đánh điện gọi Vĩ Quốc tới Tuệ. Diêu thị cũng theo đó tới Quảng Châu.Sự có mặt của Diêu Thị đã khiến cho Tưởng Giới Thạch lúng túng nhiều bề, vô cùng ngượng nghịu. Một mặt Tưởng phải có sự trao đổi với Trần Khiết Như. Người phụ nữ trẻ trung xinh đẹp này, lần đầu được hưởng vị ngọt của tình yêu, chưa từng được thưởng thức mùi vị của việc ăn dấm. Mặt khác, Tưởng không thể không suy nghĩ tới ảnh hưởng. Hoàng Phố là trường học của những quân nhân cách mệnh, hiệu trưởng lẽ dĩ nhiên phải là một người thày mẫu mực của học sinh. Hễ học sinh phát hiện hiệu trưởng có ba thê bốn thiếp, thì uy tín của Tưởng Giới Thạch sẽ mất hết. Cũng may mà trong việc sử lý vấn đề này Tưởng đã rất có kinh nghiệm. Ông đã vận dụng đầu lưỡi của mình như chiếc lò so kia thuyết phục được Trần Khiết Như, để cho Trần cứ yên tâm trở về Thượng Hải trước. Sau đó nhẹ nhàng, khéo léo sắp đặt chỗ ở cho Diêu thị. Tức thì, chỉ trong thời gian ngắn này tạm thời Diêu Di Thành thay thế Trần Khiết Như, trở thành bà chủ gia đình ở bên cạnh Tưởng. Diêu thị sử dụng hết toàn thân, tận tâm hầu hạ chồng, chiều cố chăm sóc con, hy vọng đoạt lại được tình yêu thương của ngày trước. Thế nhưng, tất thảy đều đã chẳng có tác dụng gì. Cuối cùng chỉ là vì Diêu thị không xinh đẹp trẻ trung, có văn hóa, giỏi giao tiếp bằng Trần Khiết Như, do đó trong một số trường hợp Diêu không biết cách ứng phó với tầng lớp xã hội thượng lưu. Lại cộng thêm thân phận của Diêu cùng danh bất chính ngôn chẳng thuận, cho nên, chẳng được bao lâu, Tưởng Giới Thạch liền đón Trần Khiết Như trở về Quảng Châu. Diêu thị không biết làm cách nào, liền nuốt hận bỏ đi.Năm 1927, Tưởng Giới Thạch kết hôn với Tống Mỹ Linh, do đó đã tuyên bố li dị với DIêu Di thành. Đối mặt với sự đả kích bỗng nhiên ập tới này, Diêu Di Thành không còn đủ sức giáng trả và thanh minh, nàng đành phải âm thâm cam chịu. Có điều may mắn là, Tưởng Giới Thạch vẫn còn phụ trách việc nuôi dưỡng, như vậy thì Diêu thị cũng có chỗ dựa suốt đời. Còn vấn đề Tưởng Vĩ Quốc đã vấp phải một số trắc trở. Tưởng Giới Thạch vốn muốn đón Vĩ Quốc đi, vô luận sống chết thế nào Diêu thị cũng không chịu, Tưởng Diêu lại đã thoát ly quan hệ vợ chồng, thì trên danh nghĩa không thể để cho Diêu thị nuôi dưỡng được. Tức thì, không qua thương lượng, họ đã đạt tới thỏa thuận như sau: Tưởng Vĩ Quốc trên danh nghĩa gửi nhờ Ngô Trung Tín nuôi dưỡng, gọi vợ chồng Ngô Trung Tín là cha nuôi, mẹ nuôi còn trên thực tế do Diêu thị nuôi dưỡng. Sau cuộc biến loạn về hôn nhân Diêu thị đã đem Tưởng Vĩ Quốc rồi tới ở Tô châu.Không lâu, Tưởng Giới Thạch tiến vọt rồi trở thành nhân vật thủ lĩnh trong chính phủ Nam Kinh Quốc dân đảng Chồng hiển vinh vợ phú qúy, Diêu thị tuy cách xa không hiển hách bằng đệ nhất phu nhấn phu nhân Tống Mỹ Linh, thế nhưng trong con mắt của các quan chức địa phương Tô Châu bỗng nhiên thân giá của Điêu thị đã được tăng cao gấp bội. Trong một thời gian ngắn, một tòa Công quán hào hoa trang nhã đã được hoàn thành ở phường Thái Trinh Nam Viên Tô Châu. Tòa công quán này chiếm mười mẫu đất trị giá ước hai vạn đồng ngân hàng, chủ thể biến trúc là ngôi nhà tây đá xanh ba tầng ba gian rộng, phối hợp với vườn hoa thủy tạ lung linh rực rỡ, một vườn đào ở ngoài đời sống động sặc sỡ. Diêu thị đã trải qua đòn đả kích của cuộc ly hôn, giờ đât được vào trú trong công quán hào hoa lịch sự như thế này, liền đã lại thấy thỏa lòng mãn nguyện. Tức thì hàng ngày ngoài việc tụng kinh niên Phật ra bà chỉ chăm sóc lo liệu tới cuộc sống ăn ở của Vĩ Quốc. Trong một đoạn thời gian dài theo đuổi với thanh đăng cố phật, sự tẻ lạnh và đau khổ của Diệu thị có thể tự nghĩ cũng biết được. Một điều duy nhất có thể an ủi được bà chính là việc nuôi dưỡng Vĩ Quốc. Bà đã có đầy đủ tinh thần khắc kỷ của người phụ nữ Trung Quốc cũ, mặc dù đã thoát ly quan hệ với Tưởng thế nhưng vẫn âm thầm cầu nguyện cho Tưởng. Khi Tưởng đài thọ 50 tuổi, Diêu thị đã đích thân tới chùa Quốc Thanh Thiên Đài làm Phật sư để chúc thọ Tưởng.Năm 1949, Diêu thị theo Tưởng vĩ Quốc tới Đài Loan, trú ở Đào Viên làm hàng xóm với Thạch Phương Tường là chủ xưởng dệt Đại Tân rút về Đài Loan. Thạch Phương Tường chính là nhạc phụ của Tưởng Vĩ Quốc họ cũng xưnmg đáng là thông gia,là hàng xóm của nhau, cũng có dịp chăm sóc lẫn nhau. Mỗi ngày nghỉ cuối tuần Tưởng Vĩ Quốc thường về thăm viếng bà mẹ nuôi cô đơn tẻ lạnh. Năm 1955 sau khi Tưởng Vĩ Quốc lại lấy vợ, Diêu thị lập tức rồi về ở Đài Trung.Năm 1966, Diêu Di Thành qua đời ở Đài Trung. Tin buồn đưa tới, Tưởng Vĩ Quốc vô cùng xúc động kinh ngạc. Trên đường ngồi xe trở về Đài Trung, Tưởng Vĩ Quốc bỗng nhiên nghĩ tới một việc tâm sự cần phải làm, lìen quay xe trở lại đi thẳng tới dinh quan Dương Minh Sơn Đài Bắc. Sau khi gặp Tưởng Giới Thạch người con rưng lệ kể lể nỗi đớn đau, kể hết ơn dưỡng dục của bà mẹ nuôi trong nhiều năm và sự cô đơn lạnh lẽo vì bị ruồng bỏ, mong muốn việc hậu sự của bà được tổ chức long trọng một chút, để an ủi linh hồn cô độc của bà. Sau khi nghe hết lời kể lễ của con, Tưởng ngồi trên ghế bành, nét mặt thâm trầm, một lời chẳng nói. Trầm mặc hồi lâu, cuối cùng đã buột ra một câu từ trong miêng: Con hãy mau mau trở về, lo liệu việc hậu sự của nghĩa mẫu con cho tốt, thế nhưng cần phải chiếu cố tới danh dự và tiếng tăm của cả họ Tưởng chúng ta, bất tất phải phô trương rùm beng ! Quả nhiên việc tang sự của Diêu thị tổ chức rất âm thầm lặng lẽ. Ngoài sự bi phẫn và tiếng khóc đớn đau của Tưởng Vĩ Quốc cùng họ hàng thân thuộc nhà họ Diêu ra, chẳng còn một chút tiếng vang vọng nào.Một người phụ nữ đã từng có một đoạn tình duyên với Tưởng Giới Thạch đã ra đi im hơi lặng tiếng như vậy ! Trong giây phút hấp hối, sau khi xem xét kỹ suốt cuộc đời cô độc của mình bà có suy nghĩ gì không ? Phải chăng là bà đã cảm thấy hối hận đối với những thứ thuộc về của riêng mình đã bị mất đi ? Chúng ta không được biết. Thế nhưng, đối với đoạn tình duyên giữa Diên Di Thành với Tưởng Giới Thạch này, đối với điều bí mật bắt đầu từ kim ốc tàng kiều, kết thúc bằng bi kịch bí mật chôn cất, hết thảy chúng ta đều hiểu rõ chân tướng cả. Khi Tưởng Giới Thạch truy cầu Diêu Di Thành còn là một trung đoàn trưởng nhỏ bé tên tuổi chẳng ai biết, tuy đi theo Trần kỹ Mỹ vượt bắc xuống nam, thế nhưng cuối cùng chỉ là phiêu lưu với nguy hiểm của tính mạng. Do vậy, kịp thời hành lạc, chơi bời chốc lát, đã lấy Diêu Di Thành để bù lấp vào sự trống vắng và đòi hỏi trên mặt tình cảm và sinh lý. Thế nhưng, rượt theo sự thăng thiên của địa vị, Tưởng lại đã nhằm trúng người người đàn bà càng thích hợp với địa vị của mình. Chẳng còn nghi ngờ gì nữa, trong cuộc sống thượng tầng cao sang thanh nhã, Diệu thị xuất thân từ nhà thổ, càng tỏ thô tục, bỉ ổi, xấu xa, khong đáng để cho mọi người biết. Ngoài ra, sự kết hợp giữa Diêu và Tưởng, trên mặt danh phận đã thấp hơn một bậc so với Mao thị và Trần thị. Mao thị là người vợ đầu tiên, Trần Khiết Như thì đối ngoại cũng được gọi là Tưởng phu nhân, duy chỉ riêng có Diêu thị thì được gọi là trắc thất[1]. Đối với địa vị thấp hèn nhỏ bé của Diêu thị. Trong cuốn sách Tưởng Giới Thạch tiên sinh trước năm 15 Dân Quốc của Mao Tư Thành đã không hề dầu diếm, trong sách đô dà nói rõ nhận đón vợ lẽ Diêu thị. Lẽ dĩ nhiên, thân thế ti tiện và địa vị nhỏ bé thấp hèn của Diêu thị cũng có chút làmn cho Tưởng khó chịu, thế nhưng điều này cũng không phải là chủ yếu. Vấn đề lợi hại quan trọng vào bậc nhất không có cách gì công bố trước quần chúng của Diêu thị chính là thân phận thiếp này của bà. Tưởng Giới Thạch được gọi là người kế tục sự nghiệp của tôn Trung Sơn, chủ trương Vận động đời sống mới, kêu gọi dân chúng phản đối tư tưởng và tập tục phong kiến, hơn thế còn công khai chỉ trích lấy vợ lẽ là một sự việc mất đạo đức nhất trong đời sống con người. Vậy mà sau khi công khai thân phận của Diêu Di Thành, đối với những lý luận cách mệnh mà Tưởng Giới Thạch tuyên truyền cổ vũ ở khắp nơi, chẳng phải là một cú bạt tai vang dội đó hay sao ? Bà con dân chúng nếu biết được Tưởng tổng thống có ba the bốn thiếp, thế thì tất cả những lí luận lấy vợ lẽ là một sự việc mất đạo đức nhất trong đời sống con người, há chẳng phải là trò cười hài hước quá hớn hay sao ? Cho nên trước khi Tưởng Vĩ Quốc đi chịu tang Diêu thị nước có mệnh lệnh của cha chiếu cố tới danh dự và tiếng tăm của cả họ Tưởng là vì thế đó !
------------------------------------
[1] Thiên Tân ích thế báo ngày 18-10-1927
Phần 2
Chương 4
Như phu nhân mà Tưởng Giới Thạch suốt đời quyến luyến
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Trong cuộc đời của Tưởng Giới Thạch, những người đàn bà có quan hệ hôn nhân và được gọi là phu nhân của ông chỉ có ba người. ấy là Trần Khiết Như nằm giữa Nguyên phối phu nhân Mao Phú Mai và Đệ nhất phu nhân Tống Mỹ Linh.Đối với thân thế của vị Tưởng phu nhân này, sử sách ghi chép rất ít, thế nhưng mọi người đều cho rằng: Trần Khiết như xuất thân từ kỹ nữ{1}. Ví dụ, một quyển sách mang tên Tưởng Giới Thạch gia thế Xuân thu ghi chép rằng: Trần Khiết Như cùng quê với Diêu Di Thành, đều là người Tô châu. Xuất thân của nàng cũng tương tự nhe Diêu thị, những năm trước đã từng làm kỹ nữ cao cấp ở trong nhà thổ Trường Tam Thượng Hải. Nhà thổ Trường Tam có quy định nghiêm nhặt, yêu cầu đối với các cô gái rất cao. Chẳng những đòi hỏi con người xinh đẹp, biết cách chiều chuộng khoản đãi các công tử tiêu tiền, lại còn phải biết một chút kỹ nghệ như gảy đàn, ca hát v.v..nói tóm lại là phải tài sắc song toàn. Trần Khiết Như thân hình thon thả, mắt trong răng trắng, mặt này thanh tú, lới nói dịu dàng ngọt ngào, lại thạo cầm kỳ, do đó đã lọt vào mắt xanh của rất nhiều vị khách. Đọc tới đây, mọi người sẽ không kìm nổi nỗi bàng hoàng kinh ngạc. Tưởng Giới Thạch là loại người như thế nào, một đời đã lấy bốn người đàn bà, trong đó có hai người là gái điếm. Thật là hám sắc quá chừng! Với địa vị của Tưởng Giới Thạch lúc đó ở Thượng Hải, tuy không thể nói là nổi trội hơn hẳn mọi người khác, nhưng cũng không phải loại người có nhiều; không lấy được những trang quốc sắc thiên hương cũng chẳng thể trở về tìm gái làng chơi làm vợ được. Hơn nữa, vào năm đó Trần Khiết Như kết hôn với Tưởng Giới Thạch, mới chỉ có mười lăm tuổi, được hấp thụ nền giáo dục bậc trung học, thông thạo tiếng Nga, tựa như không xuất thân từ kỹ nữ thì phải. Và như vậy, thân phận của Trần Khiết Như đã có cả một thiên văn chương rất lớn, có phải?Kỳ thực, căn cứ vào những tài liệu mới nhất được tiết lộ ra trong thời kỳ gần đây đã chứng minh: Trần Khiết Như không phải là người con gái xuất thân từ Tần lầu Sở quán mà là người con gái xuất thân từ một gia đình lương thiện. Lúc nàng kết hôn với Tưởng nàng là một cô gái trinh chứ không phải là kỹ nữ.Trần Khiết Như có tên thật là Trần A Phượng. Quê quán ở Tô Châu, năm 1906 sinh ra ở Thượng Hải, phụ mẫu song toàn, hoàn cảnh gia đình thuộc loại trung bình. Từ nhỏ Trần A Phượng đã được cha mẹ yêu quý, cuộc sống không lo không nghĩ. Năm 1919, Trần A Phượng tuổi mới mười ba, bới phát dục tương đối sớm đã lớn lên như một cô gái. Nàng với thân hình thon thả uyển chuyển dịu dàng, dáng người nở nang cân đối mà không mất vẻ nhẹ nhàng mềm mại. Trên khuôn mặt đoan trang xinh đẹp, cân xứng với đôi mắt long lanh như nước, toàn thân tràn đầy sức sống tuổi thanh xuân. Chính vào năm đó, do một nguyên nhân ngẫu nhiên, Trần A Phượng đã dẫn tới sự chú ý của Tưởng Giới Thạch và đã trở thành mục tiêu săn bắt của ông.Vốn là, ở bên cạnh chỗ ở của nhà họ Trần tại Thượng Hải có một người hàng xóm tên gọi là Châu Dật Dân. Cô gái này là bạn thân của A Phượng. Năm 1919. Châu tiểu thư lấy Trương Tĩnh Giang, phụ trách nuôi dưỡng chăm sóc năm cô con gái do người vợ của Tưởng qua đời, để lại. Để cho những đứa trẻ này được tiếp thụ giáo dục, Trương Tĩnh Giang muốn mời một vị gia sư tới nhà dạy học. Lúc đó, Trần A Phượng mười ba tuổi, có độ tuổi xấp xỉ với các tiểu thư của nhà họ Trương, tức thì liền thông qua mối quan hệ của Châu tiểu thư, tới nhà họ Trương để cùng học, thường xuyên ra vào ở trong nhà Trương Tĩnh Giang.Vào thời kỳ này, Tưởng Giới Thạch ở Quảng Châu thường phát sinh ra những ý kiến bất đồng với quân nhân phía đất Việt (Quảng Đông) cho nên phải dừng lại ở Thượng Hải, bổ sung làm người mách mối cho sở giao dịch chứng khoán. Kiếm được đồng tiền dư dật, cũng thường qua lại nhà thổ để tìm lấy thú vui trong thành và sắc. Một hôm, Tưởng đến chơi nhà ông bạn già Trương Tĩnh Giang nhìn thấy một lũ em bé gái đang ngồi học. Trong đó có một cô gái mà Tưởng chưa từng được nhìn thấy, làm cho Tưởng phải chú ý. Thoạt nhìn đã thấy tiểu thư lạ này học tập rất chăm chỉ, hơn thế ngôn ngữ thái độ rất khác thường, người này chính là Trần A Phượng.Tưởng Giới Thạch tự xưng hiếu sắc là do bất đắc chí, mà lúc này đã thoát ly Quảng châu tới ở Thượng Hải, bực bội bất đắc chí, vừa hay là thời kỳ phát bệnh. Tức thì dàng vẻ ngây thơ non trẻ của Trần A Phương liền phát sinh ra tác dụng câu hồn rút phách đối với Tưởng từ đó về sau, Tưởng Giới Thạch đã sử dụng chiến thuật săn bắt Diêu Di Thành ở Quần Ngọc Phương, có việc hay không có việc đều dềnh dàng ở nhà Tương Tĩnh Giang, tìm mọi cơ hội trò truyện với Trần A Phượng. Thế nhưng, Trần A Phương chỉ là một cô bé thơ dại tình cảm chưa phát triển, đâu có nhìn thấy trận đồ này. Đứng trước mặt Tưởng Giới Thạch vồn vã nhiệt tình qúa mức, cô bé chỉ biết e thẹn cúi đầu, răng cắn chặt môi, trong đôi mắt to bao hàm một nụ cười ngây thơ thuần phác, tim đập thình thịch, loạn xạ. Dáng vẻ sợ sệt, e thẹn này của A Phượng càng kích thích dục vọng phải chiếm lấy cô gái này.Tục ngữ nói Thời gian chẳng phụ kẻ có tâm, về mặt truy cầu phụ nữ, đạo lý cũng như vậy. Với sự cố gắng không ngừng của Tưởng Giới Thạch, qua nhiều lần đi lại, Trần A Phượng đã không có cảm giác e thẹn như lúc đầu nữa. Thế nhưng trong con tim của thiều nữ không sao có thể đem tình yêu và hạnh phúc tương lai của mình buộc chặt vào với một người đàn ông lớn hơn mình mười chín tuổi được. Đối với điểm tâm lý này Tưởng Giới Thạch đã biết rất rõ Tưởng tạm thời kìm nén dục vọng không vội vàng chiếm hữu cô gái trẻ trung này, không động tĩnh gì về thanh về sức, yên lặng chờ đợi thời cơ đến. Cuối cùng, thời cơ đã đến, Tháng 9 năm 1921 người cha của Trần A Phượng bởi mắc bệnh tim, đã qua đời. Đon đả kích bất ngờ đã khiến cho nhà họ Trần mẹ góa con côi, muôn vàn khó khăn lúng túng. Còn đối với Tưởng Giới Thạch mắt long sòng sọc như hổ thèm mồi mà nói, đây lại là một cơ hội tốt trời cho để đánh gục Trần mẫu, cướp lấy A Phượng. Tức thì, trong thời gian nhà họ Trần gặp phải bất hạnh này, Tưởng Giới Thạch vô cùng ân cần, bận rộn tất bật, lo liệu mọi mặt việc tang lễ cho cha A Phượng. Sự ân cần và tháo vát của Tưởng đã giành được tình cảm tốt đẹp của bà mẹ A Phượng. Sau đó, Tưởng Giới Thạch tát nước theo mưa, lợi dụng thời cơ, nhờ vợ chồng Trương Tĩnh Giang đứng ra tác hợp cho, cuối cùng đã khiến cho Trần mẫu đồng ý với việc hôn nhân này. Thoạt đầu, Trần A Phượng sống chết không chịu, không bằng lòng lấy người đàn ông lớn hơn mình những mười chín tuổi này. Thế nhưng, không sao lay chuyển được thái độ của mẹ, lời khuyên bảo của châu tiểu thư, lời đường lẽ mật của Tưởng Giới Thạch, với sự thuyết phục của mọi người, cuối cùng nàng đã bị khuất phục.Buổi chiều ngày 5 tháng 12 năm 1921, lễ cưới giữa Tưởng Giới Thạch với Trần A Phượng đã được cử hành tại khách sạn Đại Đông Thượng Hải. Lúc này, Tưởng Giới Thạch không những đã triệt để - chinh phục được Trần A Phượng, hơn nữa ngay đến cả tên của nàng cũng đã được đổi thành Trần Khiết Như. Hôn lễ do Đới quý Đào và Trương Tĩnh Giang chủ trì, luật sư danh tiếng ở Thượng Hải là Giang Nhất bình đã đứng ra làm thủ tục cho ông. Trong bữa tiệc cưới thịnh soạn. Các nhân vật tiếng tăm lừng lẫy như Hoàng Kim Vinh, Đỗ nguyệt sênh, Trương Túc Lâm và hơn năm chục nhân vật quan trọng trong quân đội Thượng Hải đã tới tham dự trong buổi lễ cưới, Tưởng Giới Thạch đóng vai chủ rể lần thứ ba mặc bộ lễ phục màu đen với vẻ mặt tươi cười hớn hở phơi phới sức xuân, cuối cùng thì ông đã đạt được mục tiêu săn bắt. Cô dâu Trần Khiết Như trên thân mặc bộ lễ phục sắc hồng nhạt thêu hoa bạc dát vàng, trên đầu cắm đầy đồ trang sức bằng ngọc quý. Vào giờ này phút này, trong lòng cô dâu đã có những cảm giác gì? Mặc dù chú rể tuổi đã ba mươi sáu, có hơn lớn một chút, thế nhưng cuối cùng cũng phải kể là con người có tài. Hơn nữa, cử hành lễ cưới to lớn thịnh soạn như thế này, những nhân vật quan trọng tới dự nhiều như vậy, qủa thực là rất vinh hanh. Phụ nữ luôn luôn thích hư vinh, đối với một thiếu nữ mười lăm tuổi mà nói, được hưởng thụ một cuộc hôn lễ hào hoa như vậy, cũng phải kể là vô cùng may mắn. Nghĩ tới đây, trên nét mặt cô dâu bỗng nhiên ửng đỏ hưng phấn. Đột nhiên, một bóng đen thoáng lướt qua tim, chàng có yêu mình thật không. Trần Khiết Như đưa mắt liếc nhìn trậm Tưởng Giới Thạch đang ứng thù trong tiệc rượu linh đình, người đàn ông này đã có một thê và một thiếp rồi. Tuy Tưởng Giới Thạch đã nói rõ với nàng rằng quan hệ với hai người đàn bà kia đã tan nát rồi, chàng còn túm ngực dậm chân chỉ non thề biển, chỉ yêu một mình nàng thôi... thế nhưng trong lòng người thiếu nữ vẫn giăng đầy những đám mây nghi vấn.Sau khi kết hôm không lâu, Tưởng Giới Thạch liền đem người vợ mới trẻ trung xinh đẹp, ngồi thuyền từ Thượng Hải qua Ninh Ba trở về Khê Khẩu. Lúc này, Tưởng mẫu Vương thị đã qua đời, Tưởng Giới Thạch có thể tự do không kiêng dè trong việc bỏ vợ cả lấy vợ lẽ. Tưởng không phải lo lắng gì đến việc bực tức và cản trở của mẹ nữa, cho nên, cũng đã công khai ngang nhiên đem Trần Khiết Như đi giới thiệu với họ hàng và làng xóm. Thời gian Tưởng mẫu qua đời còn chưa lâu, vở hài kịch bỏ thê bỏ thiếp vẫn còn chưa mờ nhạt trong đầu óc dân làng. Bây giờ Tưởng quả nhiên lại dẫn về một người đẹp như hoa tựa ngọc, đã khiến cho dân làng vô cùng kinh ngạc. Những cụ già tương đối nhiều tuổi ở trong họ, đối với việc Tưởng Giới Thạch lạnh nhạt ruồng bỏ Mao Phúc Mai, lấy vợ lẽ bừa bãi, đã vô cùng bất mãn, bực tức chỉ cây dâu chửi cây hòe, nói cạnh nói khóe, quở trách Tưởng là ngả nghiêng bất định. Một số người trẻ trung thì dơ ngón tay cái chỉ vào sau lưng Tưởng tặc tắc lưỡi xun xoe thèm muốn Tưởng là diễm phúc chẳng phải xoàng. Còn Tưởng thì sao? Một dáng vẻ phớt đời, tôi làm theo ý muốn của tôi!Trước khi kết hôn với Trần Khiết Như, Tưởng Giới Thạch đã từng hứa với nàng, sẽ đuổi cút hai người đàn bà trước kia đi, rồi đã vì chuyện này mà đã gây nên một trận lôn xộn lớn ở Phong Cảo phòng. Thế nhưng, việc ly hôn đâu có phải chuyện đơn giản. Dưới áp lực về các mặt, trước sau Tưởng Giới Thạch vẫn chưa thể làm xong thủ tục li hôn với Mao thị và Diêu thị được. Đối với sự việc này, Trần Khiết Như vô cùng để ý. Cho nên vừa về tới Phong Cảo phòng ở Khê Khẩu, Trần đã tới gặp Mao Phúc Mai với tâm trạng phấp phỏng bất an. ở trong phật đường tụng kinh, với tâm tình vô cùng điềm tĩnh tỉnh táo, Mao thị nhìn cô gái chỉ lớn hơn Kinh Quốc bốn tuổi này, ân cần tiếp đón em gái bé nhỏ này, rồi kể lại lịch sử Phong Cảo phòng cho Trần thị nghe. Cuối cùng, Mao thị kéo tay Trần Khiết Như, nước mắt rưng rừng, nói.- Suốt cuộc đời chị đã chẳng có niềm hy vọng nào, chỉ có điều an ủi duy nhất chính là mong muốn cho con Kinh Quốc sau này có tiền đồ, không phụ nỗi khổ tâm của mẹ nó. Có lẽ là thực lực của song phương chênh lệch quá lớn, có lẽ là lòng khoan dung nhân hậu, lương thiện của Mao thị, lần gặp gỡ giữa hai người lần này, đã hoàn toàn đập tan hết ý chí thù địch của Trần Khiết Như. Từ đó về sau, Trần Khiết Nhe đã không bao giờ yêu cầu, đòi hỏi Tưởng Giới Thạch ly hôn với người đàn bà đáng thương này nữa. Phụ nữ là phải yếu, thường nhận được sự thông cảm của mọi người. Trần Khiết Như chính là đã nảy sinh ra tấm lòng thông cảm đối với Mao thị trong cảnh ngộ bi thảm đáng thương của Mao thị. Thế nhưng, ai lại có thể ngờ tới, chỉ vài năm sau, do vì có sự xuất hiện của kẻ mạnh trong giới nữ, trần thị đã bị đẩy vào lãnh cung một cách rất nhanh chóng. Điều này thực sự đã ừng vào một câu sấm truyền trong Hồng lâu mộng: Đang tham người khác chẳng sống lâu, đâu biết mình đã về cõi hết!. Lẽ dĩ nhiên, đây là chuyện về sau.Lần này trở về Khê Khẩu, về mặt công việc gia đình, Tưởng Giới Thạch đã có một quyết định quan trọng: Đem Tưởng Kinh Quốc trao cho Trần Khiết Như nuôi dưỡng và dạy bảo. Dựa vào trái tim mà suy luận, trong ba người thê thiếp của Tưởng, người có trình độ tri thức nhất đình cũng chỉ có một mình Trần Khiết Như. Diêu thị xuất thân từ nhà thổ, tuy giỏi về cầm kỳ thư họa, thế nhưng những thứ đó phần lớn đều là việc kiếm sống trên trường trăng gió không phải là chính đạo dạy dỗ con cái. Mao thị là mẹ đẻ ra Kinh Quốc, tính tình lương thiện, là người lành hiền chất phác, thế nhưng cuối cùng bà chỉ là một người phụ nữ kiểu cũ của Trung Quốc, không phải là con nhà dòng dõi, đối với cuộc đời này hiểu biết quá ít ỏi. Dựa vào bà để dạy dỗ con cái, rất khó nói mai sau dữ đem lại lợi ích gì cho con cái. Suy đi tính lại, Tưởng Giới Thạch đã hạ quyết tâm, vì kế sách mai sau lâu dài của con, hãy để cho Trần Khiết Như học nhiều biết rộng làm người trông coi dạy dôc cho con, để cho nó tới học hành ở Thượng Hải. Quyết định này của Tưởng chẳng khác gì đã khoét thịt moi tim của Mao Phúc Mai. Bà vừa kêu gào vừa khóc lóc không chịu rời chon. thế nhưng, lệnh chồng khós chống, cuối cùng thì cánh tay không vặn nổi bàn chân, nhìn bóng con đã đi xa, Mao thị dàn dụa nước mắt đầy trên mặt.Năm 1922, Tưởng Kinh Quốc từ Khê Khẩu tới học tập ở Thượng Hải, trên mặt đời sống hoàn toàn do Trần Khiết Như lo liệu - chăm sóc. Tưởng Kinh Quốc gọi Trần thị là mẹ bảo mẫu Thượng Hải. Về sau, Tưưỏng Vĩ quốc cũng tới Thượng Hải, thường lui tới nhà Trần thị. Dưới gối Trần Khiết Như chẳng có con, nàng đặc biệt thương yêu hai anh em Kinh Quốc, như chính con mình đẻ ra. Do đó, tình cảm giữa Tưởng Kinh Quốc với Trần Khiết Như cũng tương đối sâu sắc. Sau khi Tưởng Giới Thạch tuyên bố li dị với Trần Khiết Như, Tưởng kinh Quốc vẫn giữ mối liên hệ với mẹ bảo mẫu Thượng Hải Năm 1938, sau khi từ Liên Xô về nước, Tưởng Anh Quốc từng đem vợ là Tưởng Phương Lương cùng tới thăm Trần Khiết Như. Tuy cuộc gió mưa biến ảo của mười năm sau đó, vì đại thái ử của nhà họ Tưởng này trước sau vẫn giữ sự đi lại với Trần thị. Năm 1961, Trần Khiết Như được phép rời đại lục tới định cư ở Hương Cảng, sau khi Tưởng Kinh Quốc biết tin đã đặc biệt mua một ngôi nhà ở rộng rai thoáng đáng ở Hương Cảng cho Trần Thi, để tận đạo hiếu.Tháng 2 năm 1923, Tưởng Giới Thạch nhận được thư của Tôn Trung Sơn từ Hương Cảng gửi tới, dự định bổ nhiệm Tưởng làm thưm mưu trưởng hành dinh phủ Đại nguyên soái Quảng Châu - Cơ hội phất lên cao đã tới Tưởng Giới Thạch đem phu nhân Trần Khiết Như cùng tôi Tuệ. Trong mấy năm ở Quảng Châu, cục diện chính trị biến ảo; bío mây khó lường. Chính trong cảnh uân trường chìm nổi, sóng gió hãi hùng này, Tưởng Giới Thạch đã dựa vào ngụy biện gian trá, xảo quyệt của mình, từng bước, từng bước từ chức hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố leo lên chức vụ Tổng tư lệnh Bắc phạt quân, mà sự vinh hạnh vẻ vang nổi trội vượt người, thẳng tiến lên tận mây xanh này chỉ có riêng một mình Trần Khiết Như độc hưởng.Sau khi Trần Khiết Như theo Tưởng Giới Thạch tới Quảng Châu, trước tiên cùng trú với Tưởng ở Bộ tư lệnh Trường Châu yếu tác. Nơi đây thuộc về doanh trại quần độc, lẽ dĩ nhiên điều kiện không bằng sống ở Thượng Hải, có rất nhiều điều bất tiện. Về sau Tưởng nhận chức hiện trưởng trường Quân sự Hoàng Phố, liền đưa Trần cùng vào ở dinh thự của hiệu trưởng. Trong thời kỳ này, Tưởng và Trần hai người tựa hồ như đôi chim én chưa thoát khỏi kỳ trăng mật của cuộc tân hôn, thường xuyên anh anh em em, ra có đôi vào có lứa, tình cảm rất khăng khít. Căn cứ vào hồi ức của một số người tướng lĩnh một thời ở Hoàng Phố, môn sinh của Tưởng Giới Thạch như Tống Hy Liêm, Tôn Nguyên Lương v.v... thì: Cứ đến chập tối mỗi ngày, sau khi bài giảng quân sự đã xong một giai đoạn, Tưởng hiệu trưởng thường dắt tay Trần Khiết Như đi dạo ở trong vườn hoa nhà trường. Mức độ thân mật của họ như thế nào, chúng ta đủ hiểu.Trên một sự nghiệp, Trần Khiết Như cũng đã có sự giúp đỡ đối với Tưởng. Lúc đó, trong việc ứng thù giao tế, Tưởng Giới Thạch thường đem theo vị phu nhân non trẻ này ra vào trong trường ngoại giao. Cộng thêm việc Trần thị thông thạo Nga ngữ, đã trò truyện làm quen với các cố vấn Liên Xô Bazôtin và Galon, làm vẻ vang cho Tưởng Giới Thạch rất nhiềm. Đêm hôm trước Bắc phạt, cố vấn Liên Xô Barôtin còn chụp ảnh lưu niệm ở trạm phía đông Quảng Châu với Trương Tình Giang, Tưởng Giới Thạch, Đới Quý Đào, Hà Hương Ngưng v.v... Trần Khiết Như cũng có mặt ở trong đó nàng khoác một bộ áo bào hoa cờ hai ống tay cộc tới khủyu, rất hợp mốt. Một phụ nữ tước chỉ mới hai mươi có thể len thân vào bên cạnh các vị nguyên lào Quốc dân đảng như Trường Tĩnh Giang, Hà Hương Ngưng v.v.. Cùng với cả cố vấn Liên Xô, nếu không phải là người yêu cưng của Tưởng tổng tư lệnh, thì đó là điều hoàn toàn không thể có được.Tháng 3 năm 1927, quân Bắc phạt tiền chiếm Thượng Hải, Tưởng tổng tư lệnh cũng theo quân đội về Hộ. Lúc này, Tưởng Giới Thạch vây cánh đã đầy đủ liền bắt đầu vạch kế hoạch lập phương án hành động để cướp đoạt lấy quyền lực cao nhất của Trung Quốc. Để thực hiện được kế hoạch này cần phải thanh lý Đảng cộng sản, cướp lấy quyền lực cao nhất của Quốc dân đảng và lôi kéo các tài phiệt Giang Triết - ba mũi tên cùng bắn, mới có thể xong xuôi công việc lớn được. Tức thì Tưởng Giới Thạch; đồng thời với việc bí mật âmmưu thanh toán Đảng cộng sản, đã tích cực liên lạc với các đại tư fphiệt như Ngu Hiệp Khanh, Tống Tử Văn v.v.. đều cầu lấy sự tri viện trên mặt tài chính. Đồng thời với việc lôi kéo Tổng Tử Văn, Tưởng Giới Thạch nhiều lần cầu hôn với tiểu thư thứ ba của nhà họ Tống - Tống Mỹ Linh, mong giành được làm thành một cuộc buôn bán lớn thu được cả tài và sắc. Lẽ dĩ nhiên, ướt vọng mai sau khi bước lên địa vị cao sang lớn lao ở Trung Quốc, người đàn bà lí tưởng nhất ở bên cạnh Tưởng phải là tam tiểu thư của nhà họ Tống. So với con người danh môn khuê tú, phong tư tuyệt vời này, Trần Khiết Như đáng thương, không đáng được kể tới.Chính trong lúc đồng thời với việc Tưởng Giới Thạnh bí mật tiến hành truy cầu Tống Mỹ Linh, vẫn cẩn thận từng li từng tí ứng phó với Trần Khiết Như. Đêm hôm trước ngày 12 tháng 4, đó phát động cuộc chính biến phản đối Đảng cộng sản, Tưởng Giới Thạch đang gấp rút khua chiêng gõ trống thu hút thân tín, điều tập binh mã, nhiều lần bàn bạc thượng nghị những âm mưu thay đổi lịch sử Trung Quốc này với Ngô Trung Tín, Dương Hổ, Trương Tĩnh Giang, Hoàng Kim Vinh, Đỗ Nguyệt Sệnh, Ngư Hiệp Khanh v.v..., có một bộ phận tương đối đông đang bí mật chuẩn bị tại nhà của Trần Khiết Như ở Thượng Hải.Thế nhưng, giấy làm sao gói nổi lửa. Một hôm, Trần Khiết Như đang thu dọn đồ đạc cho Tưởng Giới Thạch, vô tình phát hiện được một bức thư van xin tình yêu đầy những lời đường lệ mật của chồng mình gửi cho tiểu thư Tống Mỹ Linh, bỗng chốc máu ghen nổi dậy Lào Tưởng chẳng thèm là một tay lối đời trong việc vuốt ve nữ giới. Sau khi sự việc giữa mình và tam tiểu thư họ Tống bị vợ mình phát hiện, chẳng những Tưởng không có một chút gì là ngượng nghịu áy náy, trái ngược lại, Tưởng đã thuận nước đẩy thuyền, hùng biện bừa bãi với Trần Khiết Như. Tưởng chau mày chau mặt, giả vờ dáng vẻ thương nước thương dân nói với Trần rằng, ông ta lấy Tống Mỹ Linh hoàn toàn chỉ là một cuộc hôn nhân chính trị, nếu không sẽ không thể nhận được một xu của các nhà ngân hàng Thượng Hải ! Sau đó, Tưởng tiếp tục hùng biện với Trần nói:- Em sẽ qua bên nước Mỹ học tập vài năm, đó là vì sự thống nhất của Trung Quốc, vì sự thắng lợi của bắc phạt. Trong tương lai chúng ta vốn là vợ chồng ! - với những lời hùng biện của Tưởng Giới Thạch, Trần Khiết Như gào khóc một hồi, cuối cùng không biết làm cách nào, đã phải thuận theo. Ngoài cách đó ra, Trần còn có cách nào nữa ? Tục ngữ nói, đàn bà lấy gà theo gà, lấy chó theo chó. Cuộc hôn nhân giữa những người dân bình thường lớp dưới, tuy đẳng cấp có thấp, thế nhưng điều tốt là người vợ tào khang, sống với nhau tới chọn kiếp. Còn như Trần Khiết Như làm phu nhân của Tưởng Giới Thạch, tuy nhiên cũng có được vẻ vang trong vài năm, được thưởng thức qua mỹ tửu ngọt ngào trên con đường đời, thế nhưng, những điều này cuối cùng chỉ là tam thôi ngắn ngủi, như khói như mây lướt qua trước mắt, trong giây lát đã tiêu tan. Sự cô độc bị ruồng bỏ mới là lâu dài...Tháng 8 năm 1927, được sự đồng ý của Tưởng Giới Thạch, Đỗ nguyệt Sênh sắp đặt cho Trần Khiết Như sang Mỹ lưu học. Trước khi ra đi, Tưởng cho mười vạn đồng bạc, gọi là an ủi vỗ về. Sống tha hương ở nước ngoài ở bên kia bờ đại dương, cuối cùng Trần Khiết Như cũng đã nhìn thấy tờ thân báo Thượng Hải, qua tay nhiều người giả đến. Tin báo của Tưởng Trung Chính sừng sững hiện lên trước mặt mọi người, trong đó viết Năm dân quốc thứ mười, người vợ cả Mao thị đã chính thức li hôn với Trung Chính. Còn hai thị khác vốn không có hôn ước, hiện tại đã thoát ly quan hệ với Trung Chính. Đọc đến đây, Trần Khiết Như bị phẫn tới cực điểm. Sau khi Tưởng Tống kết hôn, năm 1928 Tưởng đã từng cử luật sư Giang Nhật Bình sang nước Mỹ để hiệp đàm với Trần Khiết Như về nghi thức li hôm, Trần đã tha thứ cho Tưởng Giới Thạch, ký tên trên văn kiện li hôn.Sau khi Trần Khiết Như sang Mỹ, về mặt kinh tế đã có người bảo đảm cho, cuộc sống lẽ dĩ nhiên không thành vấn đề nữa. Trong năm năm lưu học ở Mỹ, Trần thị học tiếng Anh nuôi ong và nghệ thuật làm vườn, đã đạt được học vị thạc sĩ của học viện giáo dục trường đại học Côlômbia. Năm 1933, vì nhớ nhung đất nước, Trần Khiết Như đã trở về Thượng Hải.Sau cuộc kháng chiến bùng nổ, Trần Khiết Như vẫn sống ở Thượng Hải. Đầu năm 1940, Thượng Hải đã trở thành khu thống trị của chính quyền Uông ngụy. Để hòng ngừa chính quyền Ngụy lợi dụng quan hệ hôn nhân giữa Trần với Tưởng để viết văn chương báo chí, Trần Khiết Như đã bí mật rời Thượng Hải, rồi chuyển tới Thượng Nhiêu Giang Tây. Lúc đó, tư lệnh đệ tam chiến khu Quốc dân đảng là Cố chúc Đồng đang ở Thượng Nhiên. Sau khi được biết Trần Khiết Như đã tới, trước hết ông ta ra lệnh cho bộ hạ sắp đặt chỗ ở chu đáo cho bà, sau đó hỏa tốc mật điện cho Trùng Khánh thỉnh thị ý kiến của Tưởng Giới Thạch. Tưởng lập tức đánh điện trả lời, bắt Cố Chúc Đồng cử người chuyên môn hộ tống bà Trần tới Trùng Khánh. Sau khi tới Trùng Khánh, người đứng đầu quân đội thống nhất là Đới Lập đích thân lộ mặt, đem Trần Khiết Như bí mật xếp đặt ở biệt thự hang núi, cách dinh quan của Tưởng Giới Thạch không xa.Nhận được sự tiếp đãi thần bí như vậy, Trần Khiết Như rơi vào cõi sương mù mờ mịt, không hiểu là vì sao. Nói thực tình hơn mười năm nay, hình bóng của Tưởng Giới Thạch không hề mất đi trong sóng gió tình cảm của bà, yêu và ghét xen kẽ vào nhau khó bề phân biệt. Có điều là Trần Khiết Như chưa bao giờ dám nghĩ tới chuyện ôn lại mộng cũ với Tưởng. Thế rồi, ngày hôm đó, chuyện kỳ lạ đã phát sinh. Chẳng biết là sức lôi cuốn của Tống Mỹ Linh đã quá giảm sút, hay là mối tình cũ của Tưởng Giới Thạch lại bùng cháy, qủy khiến thần sai, khiến cho vị lãnh tụ kháng chiến của bốn trăm triệu nhân dân Trung Quốc - Tưởng ủy viện trưởng đã tới biệt thự hang núi ôn lại chuyện cũ như đôi uyên ương trong mộng.Thế nhưng, ở trên đời này không có bức tường nào không lọt gió. Tin tức Tường Trần bí mật lén lút gặp gỡ đã không cánh mà bay, rất nhanh chóng lọt vào tai bà Tống Mỹ Linh. Tức thì, sự kiện dan díu trai gái của chồng, đã dẫn tới một trận đại nội chiến của gia đình thứ nhất Trung Quốc, Tống Mỹ Linh đã ngăn sông lấp biển, biển ghen nổi sóng, đã buột tay đánh vỡ trán Tưởng ủy viên trưởng. Hậu quả ác liệt tạo ra bởi cuộc nội chiến, này cũng rõ ràng dễ thấy: Người chồng mấy ngày liền không dám lộ mặt trong các trường hợp ông khai. Ông Tưởng có tài nói khoác đến đâu cũng không thể đem cuộn băng cuốn ở trên đầu liên hệ tới cuộc kháng chiến ở tiền phương được. Vậy thì trước mặt các công chúng trong và ngoài nước ông Tưởng đã giải thích như thế nào ? Phu nhân sau cơn thịnh nộ đã lềnh bềnh đi về phía đông tới nước Mỹ ở bên bờ bên kia đại dương. Một thời gian, sự kiện tình tứ trai lơ này do đích tay đạo diễn của Tưởng Giới Thạch đã không có cẳng mà chạy đi mất, Trùng Khánh đồn đại ầm ỹ ủy viên trưởng đã có niềm vui ước, người ta gọi đó là Trần tiểu thư. Thế nhưng tất cả mọi người đều chỉ nói vu vơ như thể bắt gió tóm bóng, nghe hơi nồi chõ, mà không biết niềm vui mới, vàng thau lẫn lộn này - Trần tiểu Thư là ai ? Tức thì người ta bí mật bàn tán ở khắp mọi nơi, tất cả mọi người dùng điều sai truyền đi điều sai. Có người nói Trần tiểu thư chính là con gái của Trần Bố Lôi, có người nói là cháu gái của Trần Lập Phu. Mỗi người nói một phách, không thể nhất trí được, làm cho rối loạn ầm ỹ, ầm ào. Kỳ thực, Trần tiểu thư, niềm vui mới này của Tưởng ủy viên trưởng, chính là niềm vui cũ - Trần Khiết Như ngày trước !Tháng 5 năm 1949, giải phóng quân bước tới gần Thượng Hải, chính quyền quân đội Quốc dân đảng rêu rao các yếu nhân bỏ chạy lung tung. Trần Khiết Như đã lựa chọn con đường ở lại Đại Lục. Sau khi giải phóng Thượng Hải, bà được chính phủ thành phố của Đảng Cộng sản tôn trọng, được mời làm ủy viên chính trị hiệp thương khu Lư Loan. Tháng 12 năm 1961, nhận lời mời của ủy, ban mặt trận thống nhất Trung Ương Đảng Cộng sản Trung Quốc, Trần Khiết Như đã tới Bắc Kinh. Bưởi trưa ngày 26, thủ tướng nước Cộng hòa nhân dân Trung Hoa Chu Ân Lai đã tiếp kiến bà tại nhà ở, đã cùng bà thân mật kể lại chuyện cũ và tiếp kiến bà tại nhà ở, đã cùng bà thân mật kể lại chuyện cũ và bàn tới vấn đề tiền đồ của Đài Loan và cá nhân ông Tưởng Giới Thạch. Trong cuộc hội kiến, Trần Khiết Như đã nêu ra lời thỉnh cầu muốn được định cư tại Hương Cảng, ngay lúc đó thủ tướng Chu Ân Lai đã biểu thị sự đồng ý.Tháng 5 năm 1962, Trần Khiết như rời Thượng Hải đi Hương Cảng. Sau khi tứi Hương Cảng không lâu, bà đã vào ở trong ngôi nhà mà Tưởng Kinh Quốc đã mua sẵn cho bà, dấu tên đổi họ, dấu kín như miệng bình mọi chuyện ngày xưa, lặng lẽ sống qua cuộc đời. Không lâu, bà đã nhận được bức thư do chính tay Tưởng Giới Thạch viết, thông qua Đới An Quốc - chuyển tới. Trong thư, Tưởng Ca tụng Trần là con ngừưi luôn luôn dịu dàng nhân hậu, tiếp đó còn tỏ rõ: Trước kia, torng những ngày cùng chung con thuyền đầy mưa gió, tất cả những sự yêu thương vỗ về, không một khoảnh khắc nào có thể quên được. Lúc này, Cụ Tưởng Giới Thạch đã trên bảy chục tuổi nhớ về ngày xưa, trong lòng tràn đầy tình cảm hổ thẹn áy náy đối với Trần Khiết Như.Năm 1967, được sự giúp đỡ của người khác, căn cứ vào nhật ký trân trọng giữ gìn của mình, Trần Khiết Như đã biên soạn ra một bộ tự truyện theo thể ghi chép hồi ký, đặc biệt giới thiệu đời sống hôn nhân giữa bà và Tướng Giới Thạch từ năm 1921 đến năm 1928. Một NXB ở Niu oóc nước Mỹ bàn bạc quyết định xuất bản ngay. Tin tức truyền đi, phía Đài loan vô cùng lo lắng. Nhà đương cục Đài Loan cùng một lúc trả giá rất cao để mua cho được bản thảo này, một mặt do Trần Lập Phu điều giải, hòng muốn kết thúc việc này. Trong bức thư gửi cho Trần Khiết Như, Trần Lập Phu nói: Nhưng sự hy sinh của bà cho sự thống nhất quốc gia, cùng với sự trầm lặng mà bà gìn giữ trong nhiều năm nay đã khiến bà trở thành một vĩ nhân, một công dân trung thực rồi. Thế nhưng trước tác của bà hể xuất bản phát hành ra, người duy nhất bị phương hại chính là Tưởng tổng thống và. Quốc dân đảng. Cho nên xin bà hãy tiếp tục giữ lấy sự trầm lặng như những năm tháng trước đây cho!Trầm lặng, trầm lặng ! Chẳng phải là sự bùng nổ trong trầm lặng, thì cũng là sự chết chóc trong trầm lặng. Trần Khiết Như đã thưởng thức cách thứ nhất, xuất bản sách - có điều là một loại bùng nổ tình cảm có mức độ. Thế nhưng bà đã không thành công. Cuối cùng, không còn cách nào, bà đã phải ứng thuận theo cách thứ hai - bà đã chết. Ngày 21-2-1971 bà đã trúng phong đột ngột qua đời tại nhà riêng ở Hương Cải, thọ 65 tuổi. Sau một tuần lễ, người ta mới phát hiện cái chết của con người cô độc này.Khi Trần Khiết Như dự cảm thấy mình chẳng ở trần gian được bao lâu nữa, đã dùng bàn tay run rẩy, viết một bức thư cuối cùng cho Tưởng Giới Thạch, nói rõ nỗi buòn rầu đau sót cuói cùng: Hơn ba chục năm nay, nỗi oan khuất của em chỉ có chàng mới hiểu được. Thế nhưng để gìn giữ niềm vinh dự trước quốc gia của chàng, em đã luôn luôn tự nguyện nhận về mình sự hy sinh lớn lao nhất....Tưởng Giới Thạch đã nói đúng. Trần Khiết Như luôn luôn dịu dàng nhân hậu. Thế nhưng, hai người thê thiếp trước của Tưởng, có người nào không dịu dàng nhân hậu đâu ? Mao Phúc Mai ư ? Diêu Di Thành ư ? Họ đều đã từng trải qua nỗi đau khổ bị ruồng bỏ và lạnh nhạt mà phải ngậm đắng nuốt cay, im hơi lặng tiếng, đã đủ dịu dàng nhân hậu rồi. Giả sử có một người trong số đó không dịu dàng nhân hậu điều đó cũng đủ làm cho Tưởng Tổng thống điệu đứng khốn khổ rồi. Phải nên thừa nhận rằng, ở trên chiến trường, Tưởng Giới Thạch nhiều lần đánh thì nhiều lần thất bại, không thể ngóc đầu lên được. Còn ở trên tình trường thì sao? thực sự đã rõ ràng cụ Tưởng là một người thắng lợi.
Phần 2
Chương 5
Cuộc hôn nhân Tưởng - Tống với tình yêu cùng tồn tại
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Từ thời xưa tới nay, coi nhân vật lớn trên lịch sử Trung Quốc, vô luận là bắt đầu sáng lập thiên hạ hay là giữ gìn sự nghiệp, tựa hồ như không thể rời khỏi một người nội trợ đảm đang để diễn xuất ra một vở hài kịch trong dân gian phu sướng phụ hòa. Ngày 1 tháng 12 năm 1927, sau khi bức màn của cuộc hôn lễ từ từ kéo lên, viên quân phiệt mới lớn nhất Trung Quốc - Tưởng Giới Thạch, chẳng những đã giành được Tống Mỹ Linh, người con gái xinh đẹp quyền quý mà mình đã thèm chảy dãi từ lâu, hơn thế thông qua dải váy của cuộc hôn nhân đã buộc chặt nhà tư bản tài chính, từ đó đã đặt được cơ sở kinh tế do chính quyền của mình. Trong cuộc trao đổi giao dịch này, phía phụ nữ cũng không bị hớ thiệt, thông qua cuộc hôn nhân bà đã trở thành đệ nhất phu nhân hiển hách của Trung Quốc. Quyền lực và tiền của luôn luôn chung nhịp với nhau như vậy.Chính trong hai tháng trước khi cử hành hôn lễ, tức là ngày 28, 29, 30 tháng 9, Thân báo, Tân văn báo và Thời sự tân báo ở Thượng Hải liên tục đăng tải Tin báo của Tưởng Trung Chính suốt ba ngày liền, nói: Các đồng chí đối với gia sự của Trung Chính, có rất nhiều người gửi thư đến chất vấn nghi ngờ, bởi chưa trả lời khắp kết được, nay đặc biệt nói rõ như sau: Năm thứ mười dân quốc, nguyên phối Mao thị đã chính thức li hôn với Trung Chính, còn lại bà khác, vốn không có hôn ước, hiện tại đã thoát ly quan hệ với Trung Chính. Nay ở trong nhà ngoài hai người con ra, chẳng còn thê thiếp nữa. Mọi tin truyền sai sự thật, dễ làm ra sự hiểu lầm, nên đặc biệt kính báo tại đây ! Trước khi kết hôn với Tống Mỹ Linh, Tưởng đã có ba lần làm chú rể. Đàn bà đối với Tưởng quả thực chỉ giống như một chiếc áo lót, khi cần thì mặc vào, khi không cần thì cởi bỏ. Những lần kết hôn khác cũng chẳng bao giờ làm thủ tục li hôn với người vợ trước. Thế nhưng lần này thì khác hẳn. Trước khi lấy tiểu thư thứ ba của nhà họ Tống, Tưởng Giới Thạch cần phải tiến hành thanh lý nhà cửa đối với những thê thiếp vốn có từ trước, hơn thế còn tuyên bố trịnh trọng đàng hoàng trên báo chí, tất cả đều làm theo lớp lang bài bản, cẩn thận từng li từng tí một. Sự chuyển biến thái độ đối với cuộc hôn nhân này của Tưởng Giới Thạch, xuất phát từ nguyên nhân địa vị xã hội và điều kiện không giống người thường của gia tộc họ Tống với tiểu thư thứ ba của nhà họ Tống.Trong lịch sử cận đại Trung Quốc, gia tộc họ Tống có tiếng tăm lừng lẫy. Người cha của Tống Mỹ Linh là Tồng Gia Thụ, tự là Diệu Như, sinh năm 1866 tại một gia đình nghèo túng ở huyện Văn Xương Đảo Hải Nam. Năm lên 9 tuổi, bởi gia cảnh khó khăn, cha mẹ đã đem Tống Gia Thụ giao cho người cậu mở cửa hiệu buôn Bốt Stơn ở Mỹ nuôi dưỡng xung vào làm người giúp việc ở cửa hiệu. Sau đó vì bực tức với Cậu đã tự động bỏ đi. Sau đó, Tống Gia Thụ phiêu bạt lang thang ở nước Mỹ, làm thuyền viên ở trên tàu thủy, làm tạp dịch ở trong một khách sạn. Sự tôi luyện vất vả của cuộc sống, đã khiến cho chàng trai này trưởng thành, Tống đã tiếp nhận lễ rửa tội của Đạo Ki Tô, rỗi được hun đúc trong nền văn hóa phương Tây. năm 1886, Tống Gia Thụ trở về Thượng Hải được ủy nhiệm làm mục sư. Không lâu, do vấp phải sự bài sích, ông đã vứt bỏ nghề truyền đạo, bắt đầu chuyển vào giới xí nghiệp công thương, sáng lập ra Hoa Mỹ ấn thư quán. Ngoài việc phát triển nghề xuất bản, nghề ấn loát ra, Tống Gia Thụ còn kinh doanh nhập khẩu máy móc, nghiệp vụ lắp ráp, trở thành thương nhân mai bản tương đối sớm ở Thượng Hải. Trải qua hơn hai chục năm phấn đấu, ông đã tích lũy được số vốn năm sáu chục vạn lượng bạc. Người vợ của Tống Gia Thụ là Nghê quế Trân, là con gái một nhà buôn giàu có ở Thượng Hải, mẹ của bà họ Từ, là con cháu của Đại học sĩ cuối đời Minh là Từ Quang Khải - Hai vợ chồng tổng cộng có sáu người con, theo thứ tự là: Tưởng nữ là Tống ái Linh thứ nữ là Tống Khánh Linh, Trưởng nữ là Tống Tử Văn, Tam nữ là Tống Mỹ Linh thứ tứ là Tổng Tử Lương, tam tử là Tống Tử An.Năm 1894, Tống Gia Thụ quen biết với Tôn Trung Sơn. Có lẽ bởi vì có mối quan hệ về bối cảnh văn hóa, hai người vừa gặp đã như quen biết từ lâu và đã trở thành người bạn thân thiết. Trong đời sống cách mệnh trắc trở về sau của Tôn Trung Sơn, Tống đã đem đại bộ phận tiền của mình ra tri viện cho cuộc cách mạng dân chủ tư sản do Tôn phát động, đã trở thành cột trụ về nguồn tài liệu quan trọng giúp cho cuộc cách mạng quốc dân của Tôn Trung Sơn tranh thủ được sự thành công. Đồng thời với việc kinh doanh thương nghiệp, Tống Gia Thụ đã quyết tâm bồi dưỡng các con của mình, đến tháng 5 năm 1918 thì qua đời. Ông đã sáng tạo ra cơ sở sự nghiệp tốt đẹp cho các con lúc này, con gái cả đã lấy Khổng Tường Hy một nhà đại tài phiệt ở Sơn Tây. Con gái thứ hai lấy Tôn Trung Sơn. Con cả Tống Tử Văn về sau ra nhận chức Bộ trưởng Tài chính của Chính phủ quốc dân Vũ Hán. Trong gia tộc họ Tống, tiền của, địa vị vinh dự, những gì cần có thì đều đã có.Tiểu thư thứ ba trong gia đình này, Tống Mỹ Linh sinh ngày 14 tháng 3 năm 1897. Lúc này Tống Gia Thụ đã trở thành một phú ông nổi tiếng ở Thượng Hải. Tống Mỹ Linh được lớn lên torng hoàn cảnh sống cực kỳ ưu việt, lại là một cô gái nhỏ nhất trong ba chị em, từ nhỏ đã được nâng niu chiều chuộng, bản tính rất buông thả. Năm 1907, Tống Mỹ Linh lên 10 tuổi, với sắp đặt của cha, cô bé đã tới nước Mỹ xa xôi, bắt đầu cuộc sống cầu học. Trong mười năm ở nước Mỹ, Tống Mỹ Linh đã trải qua sự hun đúc của nền văn hóa Tây Phương điển hình rồi từ một cô bé béo mũm mĩm trở thành một thiếu nữ thướt tha mềm mại phong thái dịu dàng.Năm 1917, Tống Mỹ Linh trở về Thượng Hải. Sau khi về nước ngoài việc học tập bổ túc thêm văn hóa Trung Quốc ra, Tống Mỹ linh tích cực lao vào công tác xã họi như Hội nữ thanh niên đạo Ki Tô Thượng Hải. ủy viên ẹy ban thẩm tra điện ảnh toàn quốc v.v.. và đã rất nhiều lần xuất đầu lộ diện ở giới xã giao Thượng Hải, rất nhanh chóng trở thành một nhân vật có tiếng tăm lừng lẫy. Lúc đó, địa vị của gia đình họ Tống như trời giữa Xuân, những người thông qua các mối quan hệ muốn nhờ cậy, dựa dẫm gia đình họ Tống, chạy ra theo như đàn vịt. Trong đó, những người có ý đồ dồn chú ý lên thân tiểu thư nhà họ Tống cũng chẳng thiếu gì. Đáng tiếc là, Tiểu thư cả, tiểu thư hai nhà họ Tống thì sớm đã như danh hoa có chủ, duy nhất chỉ còn lại tam tiểu thư tuổi xuân mới chớm vẫn ở khuê phòng chưa lấy chồng. Tức thì rất nhiều mũi tên thần liền hăm hở bắn về phía Tống Mỹ Linh.Trong rất đông số người truy cầu, Tưởng Giới Thạch là người biểu hiện siêng năng miệt mài không mệt mỏi và ngoan cường bất khuất.Tưởng Giới Thạch lần đầu quen biết Tống Mỹ Linh vào năm 1922. Tháng 8 năm đó, do vì khi Trần Quýnh Minh làm phẩn ở Quảng Châu, Tưởng hộ giá có công, tháp tùng Tôn Trung Sơn tới Thượng Hải nghỉ ngơi. Một buổi tối đầu tháng 12, trong nhà ở của Tôn Trung Sơn trên đường Môlie, Tống Tử Văn đã cử hành dạ hồi đạo KiTô, Tưởng Giới Thạch cũng nhận được lời mời. Tuy đối với nền văn hóa Ki Tô thì Tưởng không hiểu lắm, thế nhưng kinh nghiệm len thân vào giới xã giao trong xã hội thượng lưu thì Tưởng đã có. Buổi tối hôm ấy, Tưởng Giới Thạch ăn mặc sang trọng lịch sử đúng giờ tới nơi Tôn ở. Trong buổi dạ hội đó Tưởng làm quen được với Tống Mỹ Linh hoạt bát đáng yêu mà lại giao du rộng rãi. Lần đầu tiên gặp gỡ, khí chất cao nhà lịch sự, phong độ dịu dàng tha thướt của tam tiểu thư họ Tống đã làm cho Tưởng Giới Thạch mê tít đã khiến cho tràng nam nhi tuổi gần bốn chục lại mới lấy vợ không lâu này suy nghĩ vớ vẩn lung tung: yểu điệu thục nữ, xinh đẹn quyền quý, lại là em vơu của Tôn Trung sơn tiên sinh, rồi lại cộng thêm nguồn tài lực hùng hậu và ảnh hưởng ở hải ngoại của Tống Tử Văn, Khổng Tường Hy. Tất cả nưhng danh dự, địa vị, tài sản này chỉ cần một chiếc dải váy của cuộc hôn nhân bền có thể buộc chặt được, để cho mình sử dụng, quả thật là một cuộc buôn bán lớn một vốon vạn lợi!Cuối tháng 12 cùng năm, Tưởng Giới Thạch theo yêu cầu của Tôn Trung Sơn đã trở về Quảng Châu. Lúc này, trong con mắt của Tưởng Giới Thạch, Tôn Trung Sơn ngoài việc là lãnh tụ cách mạng tôn kính ra còn là chồng chị gái của người đàn bà mà mình truy cầu. Do đó, Tưởng đối với Tôn tỏ ra vô cùng thân thiết. Một hôm, Tưởng Giới Thạch hết sức cung kính khẩn cầu Tôn Trung Sơn, mong muốn Tôn đứng ra thuyết phục Tống Mỹ Linh trở thành vợ của mình. Trong cuộc trò truyện Tưởng còn đặc biệt giải thích: Cuộc hôn nhân do cha mẹ bao biện đã được giải trừ, quan hệ với Diêu Thị cũng đã kết thúc; hiện tại bản thân đang là một tấm thân thanh bạch. Thế nhưng, Tưởng bịt miệng không nói tới nàng Trần Khiết Như vừa mới lấy. Đối với yêu cầu đường đời này do học trò của mình vừa mới nêu ra, Tôn Trung Sơn rất khó xử. Đồng ý ư ? bản thân mình làm sao có thể thuyết phục Tống Mỹ Linh đồng ý lấy một người đàn ông đã kết qua mấy lần hôn này được ? Không đồng ý ư ? lại sợ tổng thương tới trái tim của con người súng bái cùng mình sống chết với cộng (tới thiểu là lúc Trần Quýnh Minh làm phản đã như vậy).Đối với một sự việc liên quan tới trai thích gái yêu như vậy, Tôn Trung sơn đã không trực tiếp đi tìm Tống Mỹ Linh, mà là thông qua vợ mình vòng vo nói rõ đầu đuôi câu chuyện. Thái độ của Tống Khánh Linh rất kiên quyết rõ ràng, xác thực phản đối việc em gái mình kết hôn với một người đàn ông đã có qua mấy người đàn bà. Lúc đó, Tưởng Giới Thạch lấy vợ cả, lấy vỡ lẽ, đối với những tia đồn hiếu sắc đã có rất nhiều. Suy nghĩ về danh dự của gia đình họ Tống và tiền đồ của em gái, lẽ dĩ nhiên Tống Khánh Linh đã cự tuyệt thẳng thừng sự truy cầu này. Tôn Trung Sơn bẩm sinh trung hậu không thể đem những lời nói khiến cho người ta khó chịu buồn nản chuyển đạt tới Tưởng Giới Thạch được mà chỉ là nói một cách mập mờ với Tưởng rằng: Hãy chờ đợi đã !. Tưởng đã không hổ thẹn là một tay già đời về truy cầu phụ nữ, nghe Tôn tiên sinh trả lời như vậy, liền lập tức hiểu rõ tới tám, chín phần Hãy chờ đợi đã !, nói rõ đối phương không đồng ý nhưng lại không cự tuyệt rõ rệt, mà đang còn ở trong sự do dự. Với việc đó, để cho đối phương nói rõ ra không, sao bằng nói hãy chờ đợi đã !, như vậy thì còn có hy vọng. Tưởng tin tưởng sâu sắc vào câu cách ngôn hảo sự đa ma của người Trung Quốc, cũng hiểu biết một cách sâu sắc rằng tưởng ngại trong việc cầu hôn của mình là do ở mấy người đàn bà lớn tuổi trong nhà họ Tống. Tức thì, Tưởng Giới Thạch đã sử dụng sách lược tránh thực dựa hư, đối với gia đình họ Tống thì sử dụng sự yên lặng, chờ đợi thời cơ. Đối với Tống Mỹ Linh thì dùng phương thức thư từ qua lại tấn công nhiều lần, để giành lấy trái tim thơm thảo.Từ năm 1922 đến năm 1927, tròn năm năm Tưởng Giới Thạch đời chờ, truy cầu. Lẽ dĩ nhiên, trong thời gian này đã có Trần Khiết Như trẻ trung xinh đẹp làm bạn. Tưởng không hề cảm thấy buồn tẻ chút nào. Trong vòng năm năm nay, Tưởng Giới Thạch đã sử dụng hết mánh khóe toàn thân, trong sóng gió hãi hùng của cảnh quan trường chìm nổi, một bước lên mây, dần dần tiến thẳng lên đỉnh cao của quyền lực, khiến cho địa vị của mình phát sinh ra nưhng biến hóa như thần thoại. Tháng 5 năm 1924 Tưởng được ủy nhiệm làm hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, rồi tham mưu trưởng quân đội chính phủ Quảng Châu. Tháng 7 năm 1926, Tưởng ra làm chủ tịch ẹy ban thường vụ trung ương Quốc dân đảng, Tổng Tư lệnh Bắc phạt quân, tập trung toàn bộ quyền lực của Đảng của quân đội vào một thân mình, trở thành một nhân vật tối cao nắm giữ thực quyền trong Quốc dân đảng. Theo đà thắng lợi liên tiếp của chiến tranh bắc phạt, tháng 3 năm 1927 khi tiến đến Nam Kinh, Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch nghiễm nhiên trở thành người anh hùng cách mạng, địa vị của Tưởng trong tâm mắt Tống Mỹ Linh cũng dần dần có sự biến hóa. Tháng 4 tại nhà Tống trên đường Tây Môlie ở Thượng Hải, Tưởng Giới Thạch đã gặp gỡ Tống Mỹ Linh, người anh hùng đã một lần nữa cầu hôn với mỹ nhân.Lúc này, Tưởng Giới Thạch đang nắm quyền thế như bầu trời xuân, lại một lần nữa cầu hôn với Tống Mỹ Linh, biểu hiện thoải mái tự nhiên đường hoàng, tiến thoái ung dung xuất phát từ thượng sách của binh pháp. Đối với sự việc cầu thân này gia đình họ Tống đã mở hội nghị gia đình đặc biệt, kết quả vốn là đại đa số người không đồng ý. Thế nhưng phái tán đồng cũng được tăng thêm. Chỉ cả Tống ái Linh dùng lực lớn át hội nghị, chủ trương đồng ý việc cầu thân này. Tống ái Linh tin tưởng sâu sắc rằng trong tương lai tiền đồ của Tưởng sẽ là vô lượng, có thể làm vẻ vang cho nhà họ Tống. Tống ái Linh ra sức khuyên em gái và các em, tiếp nhận vị tổng tư lệnh nắm giữ đại quyền sát phạt này trở thành thành viên của gia đình họ Tóng. Như vậy chẳng những suốt đời của em gái được vinh hoa, có chỗ nương dựa, hơn nữa sự phú quý của cả gia tộc cũng đã có bảo đảm. Tiểu thư cả nhà họ Tống chẳng thẹn là người có con mắt tinh đời, chỉ có mấy câu nói ngắn ngủi mà đã rất có sức thuyết phục đối với mối quan hệ lợi hại này, lời nói đó thật là cặn kẽ kỹ càng.Ngày 14 tháng 5 năm 1927, dưới sự tác hợp của Tống ái Linh, Tưởng Giới Thạch đã xin phép Trung ương Quốc dân đảng nghỉ mười ngày, dẫn Tống Mỹ Linh tới du lịch vãn cảnh ở Tiêu Sơn Trấn Giang. Đây là một bước mang tính chất then chốt đối với cuộc liên duyên Tưởng Tống. Buối sáng ngày hôm ấy, Tưởng Giới Thạch đã cử xe hoa tới Thượng Hải nghênh đón Tống Mỹ Linh rồi cử vệ đội trưởng đích thân đi bảo vệ. Trong xe chất đầy hoa tươi. Sau khi xe tới Trấn Giang, Tưởng tổng tư lệnh mặc comlê đi giày da, phong độ đường hoàng, ăn mặc giống như một thân sĩ. Mọi thứ sắp đặt như thế này đã làm cho Tống Mỹ Linh rất vui vẻ. Sau khi chèo lên Tiên Sơn, hai người đã đi du lãm âm Biệt Phong, động Hoa Nghiềm, lầu Cấp Giang, đình Tráng Quan v.v.. ở giữa khoảng đất trời, anh hùng mỹ nữ, núi non hùg vĩ đã khiến họ lưu luyến chẳng muốn về... Thời gian mười ngày đã trôi qua như một nháy mắt. Qua lần đi du chơi này, quan hệ giữa hai người trên đại thể đạt tới tám chín phần mười.Tháng 8 cùng năm, đối mặt với áp lực trong Đảng, Tưởng Giới Thạch lấy thoái để tiến ông đã tuyên bố từ chức, rời khỏi các chức vụ mà mình nắm giữ. Sau đó, rời Nam Kinh qua Thượng Hải, Ninh Ba về tới quê hương Khê Khẩu, rồi vào ở trong chùa Tuyết Đâu. Lúc này, rời khỏi chính sự bận rộn, Tưởng Giới Thạch với thân phận võ nhân bái chức vứt khỏi việc đời, đã gửi cho Tống Mỹ Linh một bức thư tình ý tứ khẩn thiết. Thư viết rằng: Nay ta không có ý hoạt động chính trị nữa, duy chỉ thương nhớ một người mà ta suốt đời mến mộ, đó là nàng. Trước kia khi ở Quảng Đông ta đã tỏ ý với lẹnh huynh của nàng, nhưng chưa được chấp nhận. Lúc đó hoặc vì quan hệ chính trị, cho nên bây giờ ta lui về làm người sơn dã, vứt bỏ hết việc đời sống cùng tro bụi. Ngày trước trăm trận chiến đấu ngoài biên cương, lấy gào thét làm vui, đến nay nghĩ lại, cái gọi là công danh sự nghiệp chẳng qua chỉ là ảo mộng. Duy chỉ có nàng là người tài hoa vinh đức, khiến ta quyến luyến không thể nào quen. Thế nhưng chẳng biết được võ nhân buộc phải từ chức bị vứt bỏ ra ngoài đời này, nàng nhìn thấy sẽ như thế nào đây ?. Tưởng Giới Thạch đã dùng hết cả mười tám ban võ nghệ để truy cầu một người đàn bà cuối cùng đã chiến thắng giành được trái tim ngào ngạt của Tống Mỹ Linh. Ngày 16 tháng 9, Tiểu thư chị cả Tống ái Linh phụ trách công việc tác hợp này của nhà họ Tống đã tiến hành hội nghị chiêu đãi các nhà báo, tuyên bố: Tưởng tổng tư lệnh sắp sửa kết hôn với tiểu thư Tống Mỹ Linh, rồi đem đôi tân nhân này ra giới thiệu cho các tân văn ký giả biết.Mở ra hội nghị chiêu đãi các ký giả, đem tin tức liên duyên Tưởng Tống công khai trước dân chúng, là cái kế Tiền trảm hậu tấu để đối phó với Tống lão phu nhân, là hợp mưu của Tưởng Giới Thạch và Tống ái Linh. Các con của nhà họ Tống, tuy đều tiếp thu nền giáo dục phương Tây, thế nhưng đối với nền văn hóa truyền thống Trung Quốc họ vẫn vô cùng tôn sùng. Hơn thế, Tống lão phu nhân Nghệ Quế Trân chính là con cháu của danh môn, lẽ dĩ nhiên, việc nhân duyên đại sứ của các con trong gia đình cũng cần phải thông qua sự đồng ý của mẹ mới có thể được, nếu không thì sẽ là đại bất hiếu. Tức thì vào cuối tháng chín, Tưởng Giới Thạch đã vượt qua biển đông bái kiến Tống lão phu nhân đang ở Nhật Bản. Trước mặt lão phu nhân, Tưởng nghiêm trang lấy ra một bản chứng minh biểu thị rõ bản thân mình đã cắt đứt với tất cả những người đàn bà trong quá khứ, hơn thế còn thề nguyện giữ mãi tình yêu trung tình không bao giờ thay đổi đối với tiểu thư Mỹ Linh. Đối với vấn đề tín ngưỡng tông giáo, Tưởng Giới Thạch cũng dứt khoát trả lời đồng ý, biểu thị bằng lòng tiếp thu đạo Ki Tô. Tất thảy những điều này giống hệt như diễn kịch, tất thảy đều đã được sắp xếp sẵn từ trước. Một cuộc cầu hôn có tính chất hình thức đã được hoàn thành như vậy. Tống lão phu nhân đã bằng lòng lời thỉnh cầu của Tưởng Giới Thạch.Ngày 1 tháng 12 năm 1927, lễ kết hôn giữa Tưởng Giới Thạch với Tống Khánh Linh đã được cử hành tại Thượng Hải. Chiếu cố tới tông giáo tín ngưỡng và bối cảnh văn hóa của gia đình họ Tống, lại không để mất thể diện của Tưởng tổng thống, hôn lễ được cử hành chia làm hai lần. Một lần tại nhà họ Tống trên đường Môlie, cử hành theo tập tục của đạo Ki Tô, do mục sư Dư Nhật Chương chủ trì, toàn bộ cuộc hôn lễ ắng lặng tĩnh mịch. Còn một lần cử hành tại khách sạn Đại Hoa, số người tham dự đạt tới trên một ngàn ba trăm người, các yếu nhân chính trị quân đội Quốc dân đảng, đầu mục bằng Thanh hồng --- đều tới chúc mằng; nhất thời tân khách đồng nghịt, so với nghi thức hôn lễ trước, nghi thức kết hôn mang phong cách truyền thống Trung Quốc ở khách sạn Đại hoa tỏ ra rất đàng hoàng sang trọng.Kết hôn với tiểu thư thứ ba trong gia đình họ Tống tám tiếng lẫy lừng, thực hiện được nguyện vọng mà mình truy cầu cả trong mộng mỵ suốt mấy năm nay, Tưởng Giới Thạch sung sướng vô cùng. Thông qua cuộc hôn nhân, Tưổưng đã giành được tiền của, mỹ nữ, địa vị xã hội, đã giành được mọi thứ mà mình mong muốn. Trong lúc hưng phấn Tưởng Giới Thạch đã không quên căn cứ vào luân lý đạo đức của hôn nhân và gia đình cùng với mối quan hệ giữa mình với cách mạng, phát biểu những lời viển vông trời biển. Chính trong ngày kết hôn đó, ông đã phát biểu bài Ngày hôm nay của chúng tôi trên tờ Dân quốc Nhật báo, nói rằng: Ngày hôm nay tôi được kết hôn với Tống Mỹ Linh người mà tôi kính yêu nhất, quả thực là một ngày vẻ vang nhất từ trước đến nay trong cuộc đời tôi, cùng là một ngày sung sướng nhất trong đời tôi từ trước đến nay. Những vấn đề nhân sinh triết học và xã hội mà hàng ngày tôi nghiên cứu, tin tưởng sâu sắc rằng trong cuộc đời không có cuộc hôn nhân nào hoàn toàn mỹ mãn, thì làm người mọi thứ đều vô ý nghĩa cả. Trong xã hội không có gia đình yên vui sung sướng thì dân tộc căn bản không thể tiến bộ được... Cùng ngày hôm đó, trên tờ Thân báo đã đăng tin báo của Tưởng Trung chính, có lẽ có thể làm một lời chú thích cho bài văn phát biểu trên. Tin báo như sau: Người vợ kết tóc là Mao thị, đã li dị từ lâu; Diêu Trần hai thị vốn không có khế ước ! Trời ơi, vì sự : tiến bộ của dân tộc Tưởng Trung Chính đã ruồng bỏ cả ba người đàn bà. Hiện tại, ông đang sung sướng lao vào lòng người đàn bà thứ tư !Đầu năm 1928, đối với Tưởng Giới Thạch mà nói, đó là tuồng hay liền sân khấu, sự tốt nối liền nhau. Ngày mồng 2 tháng 2, hội nghị lần thứ tư khóa ba Quốc dân đảng họp ở Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch được cử làm ủy viên thường vụ ẹy ban chấp hành Trung ương, Chủ tịch ẹy ban quân sự, Tổng tư lệnh quân cách mạng quốc dân. Ngày mồng 7 tháng 3, Trung ương Quốc dân đảng lại cử Tưởng Giới Thạch làm chủ tịch hội nghị chính trị Trung Ương. Từ đây Tưởng Giới Thạch độc chiếm đại quyền Đảng, chính phủ và quân đội, bước lên đỉnh cao về quyền lực. Đi theo một bước lên tận mây xanh của chồng, Tống Mỹ Linh cũng đã trở thành Đệ nhất phu nhân danh phù hợp với thực.Làm Đệ nhất phu nhân, Tống Mỹ Linh khác hẳn với các quan viên khác trong quyến thuộc, bà không thỏa mãn với hoạt động xã giao và cuộc sống hào hoa đơn thuần mà là phải len thân vào trong chiếc vòng chính trị và quyền lực cùng thao túng con thuyền trong thế giới quan trường với chồng.Căn cứ vào bẩm tính của phụ nữ, Tống Mỹ Linh tích cực theo được sự nghiệp phúc lợi của trẻ em. Sơm từ trước khi kết hôn, bà đã đặt chân vào sự nghiệp của trẻ em, đối với con đường này đâu có phải là lạ lẫm. Sau khi Tưởng Giới Thạch thống nhất được toàn quốc, tiếp đó liền bùng nổ cuộc chiến tranh quân phiệt với quy mô lớn. Trong cuộc hồn chiến quân phiệt mới, hàng loạt các sĩ quan binh lính Quốc dân đảng bị thương vong, các cô nhi quả phụ đầy rẫy ở thành thị và nông thôn. Để giúp đỡ cho chồng đánh thắng cuộc chiến tranh này, tiêu diệt hết bọn quân phiệt ở các lộ dám đối lập với chính quyền Tưởng, duy trì nền thống trị độc tài của Tưởng Giới Thạch nhằm lung lạc nhân tâm, Tống Mỹ Linh đã giương cao ngọn cờ của nhà từ thiện, xây dựng lên Trường trẻ mồ côi cách mạng. ở trong nhà trường đào tạo nhân tài, xây dựng lên giành riêng cho các trẻ mồ côi của các sĩ quan và binh líh Quốc dân đảng bị tử thương này. Tống Mỹ Linh đích thân đảm nhiệm chủ nhiệm giáo vụ và giáo sư Anh văn của tràng. Nhằm khuếch trương ý nghĩa chính trị to lớn của hành động này, tăng cường tuyên truyền hiệu quả, Tống Mỹ Linh đã trình bày tôn chỉ mục đích xây dựng nhà trường như sau: Rất nhiều nhà cách mệnh đã hy sinh, những người còn sống trong tương lai cũng khó tránh khỏi việc hiến dâng sinh mệnh của mình, kết quả giáo dục con cháu của họ không ai đề cập tới. Tôi cho rằng, số trẻ nhỏ này nếu được bồi dưỡng thích đáng, chúng sẽ trở thành những nhân tài cực kỳ hữu dụng. Bởi vì trong huyết quản của chúng, dòng chảy chính là mạch máu của những người cách mạng!.Bởi chiến tranh kéo dài nhiều năm, đời sống vật chất thiếu thốn, quân đội Quốc dân đảng dần dần biến đổi; buông lỏng kỷ luật, hư bại bất tài, mất hẳn đi sự hoạt bát năng động của thời kỳ bắt phạt. Trong tình hình này, rất nhiều sĩ quan và binh lính Quốc dân đảng cảm thấy tiền đồ vô vọng, cuộc sống trống rỗng, tức thì liên tục phát sinh ra những sự kiện cướp bóc của cải hãm hiếp phụ nữ, thương vong bại tục. Thậm chí một số tướng lĩnh cao cấp cũng ngày cờ bạc đêm ** điếm, sống say sưa chết trong mộng mỵ. Một lần có hai môn sinh trường Hoàng Phố của Tưởng Giới Thạch bởi chọc ghẹo vợ của một tướng lĩnh khác, đã dẫn tới xung đột, hai bên bị thẩm vấn tại công đường, kiện tụng lên tới chỗ Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch tức giận nổi gân xanh chỉ muốn đem hai tên này ra bắn chết. Nhìn thấy quân đội của chồng, quân kỷ trên dưới rệu rã, tinh thần ủy mỵ, Tống Mỹ Linh vô cùng lo lắng, Tống hiểu sâu sắc rằng cứ tiếp tục như thế này quân đội không đánh cũng sẽ tự bại thức thì với sự hoạch định của Tống Mỹ Linh, đã xuất hiện một cơ cấu được gọi là Lệ chí xã. Cái gọi là Lệ chí tức là khích lệ ý chí chiến đấu. Lệ chí xã là một cơ cấu tổ chức gần giống như câu lạc bộ quân đội, mong muốn thông qua tổ chức này, vừa có thể làm phong phú cuộc sống văn hóa nghiệp dư của sĩ quan và binh lính, lại có thể bồi dưỡng được tố chất tâm lý và văn hóa của họ, điều càng quan trọng hơn là phòng ngừa bọn lính trắng này chẳng chịu làm gì mà quấy rối xã hội. Thoạt đầu, công tác của Lệ Chí Xã không mấy thuận lợi, những người chiếu cố tới tham dự rất ít, phòng cửa vắng tanh vắng ngắt, mọi người đều nghi ngờ đó là tổ chức của đạo Ki Tô. Về sau, với sự cổ động mạnh mẽ của đệ nhất phu nhân và việc tham dự làm mẫu của Tưởng tống tư lệnh các sĩ quan và binh lính vào tổ chức này dần dần đông lên. Điều này đối với sự bồi đắp sĩ khí sa sút, ít nhiều đã phát huy được một số tác dụng.Vào cuối năm 20, đầu năm 30, chính phủ Nam Kinh của Tưởng Giới Thạch hầu như đều trải qua khói đạn của cuộc nội chiến. Tháng 6 năm 1928, sau khi Tưởng dẫn quân đánh bại Trơng Tác Lâm, các vùng Đông bắc đều lần lượt quy thuận chính phủ Nam Kinh. Thế nhưng, trong nội bộ chính phủ Quốc dân Nam Kinh, mâu thuẫn trong nội bộ các phe phái ngày càng sâu sắc, Tưởng có ý đồ thông qua thủ đoạn chính trị làm cho các phái phải khuất phục, để tiện việc tập trung quyền lực vào một thân. Kết quả là đã dẫn tới xung đột ngày càng lớn. Bắt đầu từ tháng 3 năm 1929, để duy trì và bảo hộ quyền uy của chính phủ quốc dân Nam Kinh, Tưởng Giới Thạch đã nhiều lần tiến hành chiến tranh với Quế Hệ, Phùng Ngọc Tường, Đường Sinh Trí. Đồng thời với việc dựa vào vũ lực đã đánh bại được các phái có thực lực ở các địa phương của Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn, Lý Tông Nhân v.v... Tưởng Giới Thạch còn sử dụng chính sách lôi kéo đối với thiếu sư trẻ tươi Trương học Lương. Về mặt này, Tống Mỹ Linh phu nhân đã phát huy được sức hấp dẫn đặc biệt sẵn có.Tháng 11 năm 1930, Tưởng Giới Thạch đánh điện mời Trương Học Lương tới Nam Kinh tham gia hội nghị toàn thể Trung ương lần thứ tư khóa 3 của Quốc dân đảng. Đồng thời, Trương Học Lương phu nhân là Vu phương Chí cũng nhận được lời mời của Tống Mỹ Linh. Sau khi vợ chồng Trương Học Lương tới Nam Kinh, họ được vợ chồng Tướng Giới Thạch khoản đãi thịnh tình. Đối với Trương phu nhân con người xuất thân tại huyện Lê Thụ Cát Lâm này, Tống Mỹ Linh không vì dáng vẻ nhà quê của thị mà có chút thiếu chu đáo, cũng chẳng hề tơ vẻ ta đây dễ nhất phu nhân, mà đã sắp xếp chu đáo tỉ mỉ công việc tiếp đãi. Tống biết rõ Vu Phượng Chí không giỏi giao tế liền sử dụng hình thức khuê các dùng phương thức gia đình để chiêu đãi, đã làm cho Trương phu nhân thoát khỏi sự ngượng ngùng giữ ý, rất nhanh chóng đã phát sinh ra tình cảm tốt với vợ chồng Tưởng. Không lâu, Vu Phương Chí đã trở thành con nuôi của Tống lão phu nhân Nghê Quế Trân, trở thành chị em nuôi với Tống Mỹ Linh. Tức thì Tưởng Giới Thạch với Trương Học Lương cũng đã trở thành anh em kết liên minh là điều tất nhiên. Trong một loạt hệ thống hoạt động, hai người Tưởng Tống thay nhau xuất hiện, tiếp đãi vợ chồng Trương học Lương ở mọi chỗ.Ngoài việc dốc hết sức giúp đỡ chồng trên mặt nội chính, trên mặt ngoại giao, Tổng Mỹ Linh càng thể hiện là người trợ chủ đắcc lực của Tưởng Giới Thạch.Tống Mỹ Linh có phong thái uyển chuyển dịu dàng , dung nhan xuất chúng, nói tiếng Anh lưu loát thông thạo, tinh thông nền văn học Anh. Những tố chất cá nhân và bối cảnh văn học này đã khiến cho bà khi giao dịch với các nước phương Tây, đặc biệt là với nước Mỹ đã tỏ ra thoải mái như ý muốn, thể hiện ra đầy đủ sức hấp dẫn của một đệ nhất phu nhân. Sớm từ những năm tháng Tưởng Tống mới kết hôn, Tống Mỹ Linh đã đảm nhiệm trợ thủ ngoại giao cho Tưởng Giới Thạch. Trong rất nhiều người có tài ngoại giao ở bên cạnh Tưởng, Tống Mỹ Linh đã có tác dụng đặc biệt quan trọng. Trong thời kỳ chiến tranh Thái Bình Dương, nhiều hoạt động trọng đại trao đổi đối ngoại của Trung Quốc, Tống Mỹ Linh đều tham dự ở trong đó. Tháng 2 năm 1942, Tống Mỹ Linh đã theo Tưởng Giới Thạch (lúc này Tưởng Giới Thạch là thống soái tối cao của quân đồng minh ở Châu á và chiến khu Trung Quốc) đi thăm ấn Độ, Miến Điện, đã hội kiến với Găng đi, cùng thương thuyết các vấn đề tác chiến chung đối với Nhật Bản ở chiến khu Trung ấn Miến. Đầu năm 1943 làm khách quý của Bạch Cung đi thăm nước Mỹ và thể theo lời mời bà đã phát biểu diễn văn tham dự hai viện ở quốc hội Mỹ. Với trình độ tiếng Anh thông thạo, ngôn ngữ hóm hỉnh, dáng người xinh đẹp dịu dàng, áo quần hoa lệ lộng lẫy, Tống Mỹ Linh đã làm cho người Mỹ phải hậmmô, khuynh đảo. Các tạp chí thời đại, Tuần san tin tức của nước Mỹ đều in bức ảnh khổ to của Tống ngay trên trang bìa. Tháng 12 năm 1943, theo Tưởng Giới Thạch chủ tịch chính phủ quốc dân tới Cairô thủ đô Ai Cập, tham dự hội nghị người đứng đầu ba nước với tổng thống Mỹ là Rudơ Ven và thủ tướng Anh là Sớc Sin cùng bàn bạc các công việc chống đánh bọn Phát Xít xâm lược. Trong hội nghị Thượng đỉnh ba nước quan torng này ở Cairô, Tống Mỹ Linh vừa là cán bộ phiên dịch của Tưởng, lại là đệ nhất phu nhân của Trung Quốc, bà đã như một con thoi trò truyền làm quen với người đứng đầu các nước, dốc hết mọi chiều hướng khả năng. Sau sự kiện đó, Sớc Sin vô cùng tán thưởng, nói với Rudơ Veni- Người phụ nữ Trung Quốc này đâu có phải là phái yếu ! - là dĩ nhiên là như vậy ! Tháng 8 năm 1945 sau khi kết thúc cuộc kháng chiến, để giúp chồng phát động nội chiến, tiêu diệt Đảng cộng sản, xây dựng nền thống trị độc tài, Tống cũng đã từng sang thăm Mỹ, du thuyết giữa các nhân vật chính yếu của nước Mỹ, đã đem về một khối lượng lớn vũ khí đạn dược do Mỹ viện trợ cho chính phủ Quốc dân đảng. Năm 1948, theo đà thắng lợi dồn dập trong cuộc chiến tranh cách mạng của nhân dân Trung Quốc, vương triều họ Tưởng đã phơi trần sự thật, bại rõ rệt. Xuất phát từ sự suy xét bản thân, chính phủ Mỹ đã phê đnh vứt bỏ Tướng Giới Thạch. Lúc này, Tống Mỹ Linh không hiểu rõ thời cuộc lại một lần nữa sang thăm Mỹ, ảo tưởng dựa vào sức hấp dẫn của mình xoay chuyển càn khôn. Kết quả là tốn công vô ích, Tống đã bị đóng cửa không được tiếp. Lúc này, Tống Mỹ Linh tự phụ là người giỏi giao tế cũng đã có cảm giác Giang lang tài tận.Trong đời sống hôn nhân giữa Tống Tưởng, Tống Mỹ Linh đối với cuộc sống thường ngày của Tưởng Giới Thạch đã phát sinh ra những ảnh hưởng rất to lớn. Từ nhỏ, Tống đã sống trong giầu sang phú quý, lại ở Mỹ trong nhiều năm, ăn , mặc, đi, ở đều rất trang trọng lịch sự. Về mặt ăn mặc trang điểm, từ trước Tống Mỹ Linh đã rất khác người, thường xuyên mặc áo dài nữ bó sát thân, áo ba đờ xuy bó thân, giày cao gót kiểu dáng mới mẻ, đối với màu hoa chất vải của quần áo Tống đều chọn lựa rất kỹ lưỡng. Thế nhưng Tống cũng là người biết nhập hương tùy tục. Đặc biệt là khi theo Tưởng Giới Thạch đi thị sát vùng núi hoặc nông thôn thì Tống đã mặc áo váy nhẹ nhàng thuận tiện tương đối giản dị, với hình tượng giản dị chất phát thoải mái xuất hiện ở trước mặt dân chúng Trung Quốc. Về mặt ăn uống, Tống Mỹ Linh vô cùng khe khắt đòi hỏi khảo cứu, chú ý tiết thực. Bà rất thích các món nấu kiểu Tây như gà quay thịt lợn rán v.v.. thường uống nước cất, cho dù ở vùng rừng núi, cũng phải cử người mỗi ngày xuống núi lấy một bình nước cất thật to cõng lên trên núi. ở trước cửa phòng, luôn luôn đặt một chiếc cân nhỏ, để tiện việc thường xuyên tìm hiểu tình hình thể trạng. Giờ nghỉ trưa mỗi ngày, đều do nhân viên nội vụ mở đĩa hát cho phát thanh những bài mà Tống Mỹ Linh đích thân lựa chọn, nội dung nói chung là nhạc độc tấu viôlông. Lâu dần, lâu dần, Tưởng Giới Thạch cũng đã thích ứng với phương thức nghỉ ngơi tiêu khiển nay, dù Tống Mỹ Linh đi vắng Tưởng cũng vẫn kiên trì như vậy. Đối với những ngày lễ của đạo Ki Tô Tây Phương, cả hai vợ chồng cũng rất coi trọng. Tháng 12 năm 1933, hai vợ chồng họ Tưởng bận Tiễn Cộng ở mặt trận Phúc Kiến, cũng vẫn không quên tết Nôen cử máy bay bay xa hàng ngàn cây số đưa gà quay tới. Đối với việc người vợ cả Mao Phúc Mai của Tưởng Giới Thạch vẫn ở trong nhà cũ của họ Tưởng ở Khê Khẩu Phụng Hóa, ly hôn chứ không ly gia, phí sinh hoạt do Tưởng cung cấp v.v.. Tống Mỹ Linh không hề tính toán, so bì, tranh cãi. Từ sau khi kết hôn, Tống đã nhiều lần về quê hương Tưởng Giới Thạch, hoặc theo đuổi các hoạt động xã hội, hoặc theo Tưởng Giới Thạch đi thăm viếng làng xóm, chỉnh đốn chỗ nghỉ ngơi. ở Khê Khẩu, nơi ở của Tống không chỉ ở một chỗ. Năm 1930 trên cơ sở căn nhà cũ của tổ tiên để lại, Tưởng Giới Thạch xây dựng mở rộng, đem lầu gác phía đông ngăn làm phòng ngủ của Tống Mỹ Linh, trong phòng toàn là đồ dùng gia đình kiểu Tây, được lựa chọn khảo cứu kỹ càng. Thế nhưng, khi Mao thị còn sống, Tống chưa từng cư trú ở đây, mãi cho tới sau khi Mao thị qua đời, Tống mới chịu nghỉ qua đêm ở đây. Khi vợ chồng Tưởng Tống cùng về Khê Khẩu, nói chung đều sống ở biệt thự Lạc Đình. Nơi này ở đoạn nam Vũ Lĩnh, đứng ở trên cao nhìn xuống, đối mặt với dãy núi nhấp nhô uốn lượn, dưới chân là con suối Viêm chảy siết, phong cảnh của toàn thị trấn được thu hết vào trong tầm mắt. Những biệt thự ở Khê Khẩu của hai vợ chồng ngoài Lạc Đình ra, còn có biệt thư Diệu Cao Đài ở núi Tuyết Đậu và Từ Am ở mộ đạo Tưởng mẫu v.v...Về mặt tiếp vật đãi người, Tống Mỹ Linh thông thạo giao tế, có tài ngôn ngữ bẩm sinh, ngoài Anh ngữ nước Mỹ thuần túy ra, Tống còn có thể nói lưu loát tiếng Thượng Hải, tiếng Quảng Đông và tiếng phổ thông. Do đó, Tống có thể căn cứ vào những đối tượng khác nhau mà nói thứ tiếng khác nhau, để tăng cường sức thuyết phục. Khi gặp gỡ người quen, nói chung bao giờ Tống cũng với nét mặt mỉm cười, giọng nói khá dịu dàng, không để cho người nghe có cảm giác ngạo mạn hách dịch. Các nhân viên ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh, nói chung đều gọi Tưởng là Tiên Sinh, gọi Tống là phu nhân. Sĩ quan phụ tá nội vụ ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch tên là Tưởng Hiếu Trấn là đời châu chắt họ Tưởng ở Khê Khẩu Phụng Hoás. Sĩ quan phụ tá nội vụ ở bên cạnh Tống Mỹ Linh là Tư Thiệu Khải. Ngoài ra, với sự sắp xếp của Tống Mỹ Linh, các nhân viên phục vụ thứ nhất trong gia đình còn có: người đầu bếp Trung Quốc và Tây phương mỗi loại một người, tạp dịch phòng khách hai người, bảo mẫu quốc tịch nước ngoài chuyên lo liệu sắp đặt phòng và quần áo, một người. Do vì đảm nhiệm tương đối nhiều công tác xã hội, bên cạnh Tống Mỹ Linh cũng lập một văn phòng thư ký, lập ra mấy viên thư ký chuyên trách. Nói chung, những nhân viên nữ thư ký được Tống Mỹ Linh tuyển chọn tới, năng lực và tố chất học vấn đều rất tốt, thế nhưng chỉ có điều là dung mao khó coi. Điều này hoặc có lẽ là do vì người vợ hiểu biết tương đối sâu về bẩm tính bản chất của chồng mà đã sử dụng biện pháp phòng ngừa đó chăng! Làm một người vợ, Tống Mỹ Linh đối với sự nghiệp quyền lực, uy tín của chồng, có thể nói là dốc lòng dốc sức bảo vệ, và ủng hộ. Bởi vì Tống biết rằng dốc sức bảo vệ chính quyền, của Tưởng cũng chính là dốc sức bảo vệ lợi ích của gia tộc họ Tống. Mấy chục năm lại đây, mối quan hệ cùng chung lợi hại, môi hở răng lạnh này đã được kết thành trong gió mưa mưa gió, đã khiến cho cảm tình của hai người cũng hoàn làm một thể. Trong sự biến Tây An, Tống Mỹ Linh đã phấn đấu quên mình bôn tẩu ở vùng Nam Kinh, Tây An, đó là một ví dụ rất tốt đẹp. Sau khi sự biến kết thúc không lâu, Tống Khánh Linh đã từng đánh giá về mối quan hệ giữa Tưởng Giới Thạch với em gái thứ ba của mình như sau: Thoạt đầu không có tình yêu. Thế nhưng tôi cho rằng bây giờ đã có tình yêu. Mỹ Linh yêu Tưởng một cách chân thành, Tưởng cũng chân thành yêu Mỹ Linh[1]. Thế nhưng, làm một người đàn bà, Tống lại là một người tự tư và có tầm mắt nông cạn. Hễ khi lơi ích của chính quyền Tưởng với lợi ích của gia tộc họ Tống phát sinh mâu thuẫn, Tống lại không hề do dự, chẳng thèm chiếu cố tới lợi ích của Đảng quốc, mà dối lòng duy trì bảo vệ lợi ích của gia tộc ho Tống.Năm 1948, với sự đả kích về chính trị quân sự của Đảng Cộng sản, chính phủ Quốc dân đảng hầu như sa xuống tuyệt cảnh, đặc biệt là tình trạng tài chính kinh tế lúc đó, đúng là có thể nói bệnh đã ăn sâu vào xương tủy rồi. Để cứu vãn nền kinh tế sắp sửa tử vong, ngày 19 tháng 8 năm 1948 chính phủ Nam Kinh đã ban bố Lệnh xử trí khẩn cấp nền kinh tế tài chính, ngang nhiên phát hành tiền quan kim, cưỡng bức dân chúng đem ngoại tê, vàng bạc cất dấu và các đồ trang sức châu báu ra, đổi lấy tiền quan kim. Xét thấy Thương Hải là môt hê thống thuôc mạch máu chính của nền kinh tế Trung Quốc, là mấu chốt thành bại của việc này, Tưởng Giới Thạch đích thân cử Tưởng Kinh Quốc tới Thương Hải, nhân chức phó chuyên viên đốc thúc lãnh đạo khu Thương Hải, lãnh đạo đả kích vào nưhng phần tử phạm pháp cất dấu vàng bạc riêng. Chính trong lúc đại thái tử đánh mạnh dữ dội ào ạt tấn công trừng phạt gian thương, một vụ án có liên quan tới Công ti Dương Tử đã vây quanh tổ ong vò vé. Vốn là, căn cứ vào tin tình báo. người thuôc hạ của Tưởng Kinh Quốc đã niêm phong công ty Dương Tử với tội trọng đầu cơ tích trữ, thu dấu vàng bạc trái phép. Đây là sản nghiệp của Khổng Lệnh Khản con cả Khổng Tường Hy. Vị đại công tử ho khổng này đã kiên tới bà dì là Tống Mỹ Linh. Vì muốn bênh vưc cháu, đê nhất phu nhân đã làm một chuyến đi tới Thượng Hải, xin đại thái tử hủy bỏ vụ án này. Sự việc có liên quan tới Quốc Đảng cùng với sự thành bại và danh dự của bản thân, Tưởng Kinh Quốc nhất đinh làm theo lý, không hề nhương bô. Thái Tử và đê nhất phu nhân đã hình thành cục diện đối lập. Để bảo vệ lợi ích của phía nhà mình, Tống Mỹ Linh trong lúc thịnh nô đã chuyển tới Tưởng Giới Thạch. Với áp lực của Tưởng Giới Thạch, Tưởng Kinh Quốc đã giận dữ từ chức. Một phong trào đả hổ tiếng tăm lừng lẫy đã im hơi lặng tiếng. Lẽ dĩ nhiên, sau khi gió yên sóng lăng, Tống Mỹ Linh, Khổng Lệnh Khản đã bảo đảm được lợi ích của gia đình mình. Điều mất đi đối với vương triều họ Tưởng chính là dân tâm và xã tắc !Ngày 21 tháng 4 năm 1949, quân giải phóng nhân dân đã vượt qua sông Trường Giang, uy hiếp Giang Triết. Ngày 25 tháng 4, Tưởng Giảng Thạch, Tống Mỹ Linh, Tưởng Kinh Quốc dắt tùy tùng rời khỏi Khê Khẩu, tự Ninh Hải ngồi quân hạm tới Thượng Hải. Sau đó giải phóng Thượng Hải, vợ chồng Tưởng Tống, chẳng có sức mạnh xoay trời đã phải rút về Đài Loan.Một chính phú Quốc dân đảng lớn nhường ấy, còn rớt lại rút lên trên một hòn đảo này, trăm sự đổ nát đang đợi xây dựng lại. Tức thì, tắt thảy đều phải làm từ đầu. Để sáng tạo ra cục diện mới, thoát khói sự khủng hoảng của thất bai, đứng vững chân trên hòn đảo hoang sơ này, Tống Mỹ Linh lại môt lần nữa tinh thần mạnh mẽ, hiệp lực giúp đỡ chồng, chống giữ chèo chống với cục diện nguy hiểm. ở Đài Loan, Tống Mỹ Lĩnh đã trước sau làm việc suốt hai mươi nhăm năm. Nói chung mọi người đều cho rằng: Tống Mỹ Linh xếp hàng nhỏ nhất trong các chị em, là một người yếu đuối nhìn nhận này. So với hai người chị của mình, ở sinh mệnh chính trị trung tâm quyền lực, Tống Mỹ Linh tựa hồ như càng dài dằng dặc lại càng khúc khủyu gồ ghề. Điều này lẽ tất nhiên có liên quan tới cảnh ngộ suốt đời của Tưởng Giới Thạch. Người Trung Quốc ci trọng phu sướng phụ hòa, chõ mãi tới khi lâm chung Tưởng cũng không tháo dỡ gánh nặng độc chiếm chính quyền. Lẽ dĩ nhiên Tống cũng không thể không hát tiếp vở tuồng này được.Ngày 5 tháng 4 năm 1975, Tưởng Giới Thạch qua đời, lên trời thì cuối cùng đã giải thoát được gánh nặng quyền lực của vị độc tài này. Sau khi hoàn tất tang sự cho chồng, ngày 17 tháng 9 Tống Mỹ Linh nói là ốm phải sang Mỹ chữa bệnh.ở nước Mỹ, Tống Mỹ Linh ở trong biệt thự Trường Đảo ở Niu-oóc của Khổng Lệnh Khản, ru rú ở nhà ít thấy đi đâu, yên lặng theo ngày tháng. Hàng ngày, ngoài việc đọc báo, xem Ti Vi ra, bà còn lấy việc đọc sách lịch sử, truyện ký văn học và luyên ập thư pháp, hội họa để tiêu khỉê. Tuy đã thân rời xa cảnh, thế nhưng đối với cục diên chính tri ở Đài Loan bà vẫn rất quan tâm. Trong suốt mười năm Sang Mỹ chữa bệnh, nước Mỹ tuy có rất nhiều bạn bè thân thích, thế nhưng quyền thế, phong quang đã thuộc về quá khứ, không thể tái hiện được nữa, tự nhiên bà cảm thấy vắng vẻ và trống trải. Ngày thường, các con cháu về phía họ Tưởng có gia đình Tưởng Hiếu Chương cư trú ở Cựu Kim Sơn tới thăm tương đối nhiều. Tưởng Vĩ Quốc cũng từng có một số lần thay mặt Tưởng Kinh Quốc tới thăm bà.Nhìn chung, trong lịch sử hôn nhân luyến ái suốt cuộc đời Tưởng Giới Thạch, trong cuộc hôn nhân luyến ái nhiều nhất của ông, sự kết hợp với Tống Mỹ Lĩnh một cuộc hôn nhâ vừa thành công lại vừa lỳ tưởng. Trong cuộc hôn nhân kết hợp giữa quyền lực và tiền của, Tưởng Giới Thạch xuất thân từ quân nhân thông qua chiếc dải váy đã lôi kéo được bọn tài phiệt trong giới tiền tệ Trung Quốc như Tống Tử Văn, Khổng Tưởng Hy v.v..., được dựa vào thực lực kinh tế hùng hậu thống nhất Trung Quốc, xây dựng lên nền thống trị độc tài của mình. Sự kết hợp nhân duyên của gia tộc họ Tống, cón có lộc cho việc nâng cao sự ảnh hưởng của Tưởng Giới Thạch ở nước Mỹ, hơn thế, thông qua mối quan hệ, này, đã giành được hàng loạt khối lượng viện trợ to lớn của nước Mỹ.Những thứ này đối với chính quyền họ Tưởng mà nói, đều là những nhân tố quan trọng không thể thiếu được. Thông qua cuộc hôn nhân này, gia tộc họ Tống trong cục diện chính trị chao đảo đã tìm được hậu đài chính trị có đầy đủ sức mạnh. Các thành viên trong gia tộc hộ Tống như Tống Trở Văn, Khổng Tường Hy đã có mấy lầ ra làm bộ trưởng tài chính, viện trưởng viện hành chính v.v... của Chính phủ quốc dân. Cắn cứ vào bối cảnh này, tài sản của họ Tống đã không ngừng được tiếp tục tăng trưởng. Căn cứ vào thống kê trong cuốn sách Vương triều họ Tống, từ năm 40 đến đầu năm 50 của thế kỷ này, số tài sản của gia tộc họ Tống đã vượt quá ba ngàn triệu đô la Mỹ! So với ba người thê thiếp trược của Tưởng Giới Thạch, Tống Mỹ Linh là người có vận may, xuất phát từ đòi hỏi của mình, một cuộc hôn nhân được xây dựng trên cơ sở tiền của và quyền lực chính trị dần dần phát triển tới sự hòa thuận về tình cảm, vơ chồng khăng khít như môi với răng, vinh nhục cùng hưởng, có thể nói là có khổ cùng chịu khổ, có vui cùng chia vui. Thế rồi thông qua cuộc hôn nhân trọn vẹn này để rồi thúc đẩy sự nghiệp đại Cách mệnh. Đó cũng chính là một lối phát triển lôgích mà Tưởng Giới Thạch đối với việc Tề Gia, Trị quốc của đạo nho.
-----------
[1] Vương triều họ Tống trang 245 của Stơrin - Sicơlốp, áo Môn Tinh quang thư điểm số tháng 10 năm 1985
Phần 3
Chương 1
Tưởng Giới Thạch làm thế nào để giành được sự tín nhiệm của Tôn Trung Sơn ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Tưởng Giới Thạch từ một cậu bé ương bướng nghich ngợm, một nông phu sơn dã, bắt đầu xông xáo giang hồ. Sau hơn mười năm đã tiến vọt, thăng lên làm thủ lĩnh Quốc dân đảng và Tổng tư lệnh quân Bắc phạt. Mặc dầu cảnh đẹp chẳng thể tồn tại được lâu, rất nhanh chóng Tưởng đã bị buộc phải từ chức. Hơn thế lần cấm đoán này đã lâu dài. Thế nhưng mới lần phục chức, sau khi bị buộc phải từ chức, đều khiến cho ông ta bước lên nấc thang càng cao, quyền thế càng lớn, địa vị càng được củng cố. Thậm chí khi binh bại ở đại lục, sau khi bị tiêu diệt 800 vạn quân đội, ông vẫn có thể cướp đoạt được vị cao hơn, chiếm cứ ở Đài Loan hơn 20 năm, còn luôn luôn hoạt động ở trên võ đài quốc tế.Có lẽ Lý Tông Nhân tiên sinh đã nói đúng: Tưởng Giới Thạch là một người thành công lớn về nhiều mặt trong trò chơi quyền thuật ở chốn quan trường từ dân quốc đến nay.
Tưởng Giới Thạch bước lên võ đài chính trị của Trung Quốc, một nhân tố quan trọng để ông ta cướp được đại quyền của Quốc dân đảng, đó là vì ông ta đã giành được sự tín nhiệm của Tôn Trung Sơn tiên sinh. Tháng 6 năm 1910, lần đầu tiên Tưởng Giới Thạch nhìn thấy Tôn Trung Sơn ở Nhật Bản.Lúc đó, Tưởng Giới Thạch mới có 24 tuổi, là sĩ quan dự bị của Liên đội pháo binh lục quân Jakada Nhật Bản, Tôn Trung Sơn là một nhân sĩ nổi tiếng trên vũ đài chính trị quốc tế và trong nước. Tôn Trung Sơn là người đi tiên phong trong cuộc cách mạng dân chủ của giai cấp tư sản Trung Quốc. Thời kỳ niên thiếu, ông trước sau đã tiếp nhận sự giáo dục của giai cấp tư sản ở núi Đàn Hương, Quảng Châu và Hương Cảng. Năm 1894, Tôn Trung Sơn dâng thư điều trần với Lý Hồng Chương trực thuộc tổng đốc kiêm Bắc Dương đại thần của triều Thanh, đề xuất chủ trương cải cách, sau đó lại tới núi Đàn Hương, xây dựng đoàn thể cách mạng của giai cấp tư sản sớm nhất ở Trung Quốc, tức là Hưng Trung Hội. Năm 1905, Hưng Trung Hội với các đoàn thể cách mạng khác như Hoa Hưng hội, Quang Phục hội v.v... đã liên hiệp lại đã thành lập Trung Quốc đồng minh hội tại Tôkiô Nhật Bản. Đây là một chính đảng của giai cấp tư sản đầu tiên ở Trung Quốc, Tôn Trung Sơn được cử giữ chức thủ tướng, hơn thế, đã đề xuất cương lĩnh cách mạng rất có sức kêu gọi là Trừ khử Đát {(1)} Lỗ, khôi phục Trung Hoa, xây dựng dân quốc, chia đều quyền ruộng đất. Tôn Trung Sơn trước sau đã lãnh đạo tám cuộc khởi nghĩa tiến hành ở các nơi như cuộc khởi nghĩa Hoàng Cương ở Chiêu Châu, cuọc khởi nghĩa Hồ thất nữ ở Tuệ Châu, cuộc khởi nghĩa Trấn Nam Quan, cuộc khởi nghĩa ở Hà Khẩu Vân Nam, cuộc khởi nghĩa Hoàng Hoa Cương v.v.. giáng những đòn đả kích nặng nề vào chính phủ triều Thanh đang hấp hối, mở rộng ảnh hưởng của cuộc cách mạng tư sản.
Năm 1908 Tưởng Giới Thạch gia nhâp Đồng minh hội. Hâm mộ vi lãnh tụ chủ chốt của cuộc cách mạng dân chủ này là Tôn Trung Sơn đã từ lâu, cho nên khi được Trần Kỳ Mỹ giới thiệu đi gặp Thủ tướng Tôn Trung Sơn thì Tưởng Giới Thạch rất sung sướng. Ngày hôm ấy Tưởng Giới Thạch mặc bộ quân phục chỉnh tề sạch sẽ, do Trần Kỳ Mỹ đưa tới gặp Tôn Trung Sơn. Trần Kỳ Mỹ là thủ lĩnh bang hội của Triết Giang, lại là đồng hương của Tưởng Giới Thạch, lúc đó đang học tập ở trường Giám Cảnh Tôkiô Nhật Bản, quen biết với Tôn Trung Sơn đã từ lâu khi Tôn Trung Sơn từ núi Đàn Hương tới lưu trú ở Nhật Bản, ông thường xuyên tới tìm Tôn Trung Sơn. Trước mặt Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch nói năng không nhiều, tỏ ra rất cung kính lễ phép. Lần đầu tiên gặp gỡ, Tôn Trung Sơn cảm thấy Tưởng Giới Thạch Có thể trở thành nhà thực hành cách mang thế nhưng cũng chẳng có cảm tình gì đặc biệt. Thế nhưng mỗi khi Tôn Trung Sơn nguy nan, bao giờ cũng nghĩ tới Tưửng Giới Thạch. Điều này đối với sự phất lên của Tưởng Giới Thạch đặc biệt quan trọng. Sau hơn năm mươi năm, ở Đài Loan, khi Tưởng Giới Thach nhớ lại lần đầu tiên gặp gỡ Tôn Trung Sơn, ông nói: Thủ tướng yêu cầu chúng ta: Những thanh niên của Đảng Cách mạng không nên tính đến danh vị mà phải hy sinh vì nhiệm vụ cách mạng, phấn đấu vì nhiệm vụ cách mang. Sau khi nghe xong lời huấn thị này tôi liền xác lập ý chí tình nguyện, cần phải thực hiện lời huấn thị này quyết không phụ lòng mong mỏi của thủ tướng đối với Đảng viên. Đủ thấy, Tưởng Giới Thạch lúc đó đã nhanh nhập cảm thấy cần phải lợi dụng ngọn cờ này của Tôn Trung Sơn. ở Nhật Bản, Tưởng Giới Thạch còn học tiếg Đức. Sau hai năm, vào đêm hôm trước khi chuẩn bị sang Đức, ông đã tới Thượng Hải yết kiến Tôn Trung Sơn. Đầu năm nay, Tôn Trung Sơn đã từng nhận chức Đại tổng thống lâm thời Trung Hoa dân quốc tại Nam Kinh, thế nhưng chính phủ lâm thời Nam Kinh chỉ tồn tại được trong ba tháng ngắn ngủi, Tôn Trung Sơn đã bắt buộc phải từ chức. Lúc này chính là lúc ông đề xướng Cách mạng lần thứ hai, đang cần phải sử dụng người. Tôn Trung Sơn khuyên Tưởng Giới Thạch không nên ra nước ngoài, nên tham gia cách mạng ở trong nước, Tưởng Giới Thạch vui sướng tuân lệnh. Lần yết kiến này Tưởng Giới Thạch đã giành được cảm tình tốt của Tôn Trung Sơn. Cũng đã đặt một viên đá trải nền cho Tưởng Giới Thạch bước vào con đường làm quan .
Sau khi Tưởng Giới Thạch gia nhập Đảng Cách mạng Trung Hoa do Tôn Trung Sơn tiên sinh tổ chức tại Thượng Hải, rồi tháng 12 năm 1913 lại một mình tới bái kiến Tôn Trung Sơn tại Tôkiô. Trong cuộc gặp gỡ lần thứ ba này, Tưởng Giới Thạch đã trình bày thẳng thắn cách nhìn của mình đối với Cách mạng cho Tôn Trung Sơn biết, trong cách nói biểu lộ rõ sự bất mãn đối với một số người không phục tùng sự chỉ huy của Tôn Trung Sơn tiên sinh, ông còn biểu lộ rõ ông sẽ làm tốt sự nghiệp này. Sau lần gặp gỡ này, Tôn Trung Sơn đã để cho Tưởng Giới Thạch nhận chức tư lệnh đường một, tới Thượng Hải vận động khởi nghĩa một lần nữa. Năm 1917, với danh nghĩa Đại nguyên soái hải lục quân Tôn Trung Sơn đã ra lệnh cho Tưởng Giới Thạch tới các tỉnh phía đông nam chủ trì công tác Đảng vụ và quân sự của Quốc dân đảng. Tháng 3 năm 1918, Tôn Trung Sơn bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm chủ nhiệm khoa tái chiến Tổng tư lệnh bộ của Định Uy tướng quân, Trần Quýnh Minh. Khi chính phủ họ Pháp của Quảng Châu phản đối việc nhậm chức Đại nguyên Soái của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch lại tới Misukai gặp gỡ Tôn Trung Sơn. Nhìn thấy sắc mặt tiều tụy của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch xót thương rơi nước mắt, làm cho Tôn Trung Sơn vô cùng cảm động. Ngày hôm đó Tôn Trung Sơn đã bàn bạc với Tưởng Giới Thạch tới tận đêm khuya. Đây là lần gặp gỡ thứ tư của Tưởng Giới Thạch với Tôn Trung Sơn, và cũng là lần gặp gỡ quan trọng nhất. Cuối tháng 9, Tôn Trung Sơn đã để cho Tưởng Giới Thạch tới Tràng Thinh Phúc Kiến đảm nhiệm chức tư lệnh chi đội thứ hai của quân Việt. Trên mình Tưởng Giới Thạch, cuối cùng đã xuất hiện vòng hào quang quyền lực, cho dù đây chỉ là một vòng hào quang nhỏ xíu.
Năm 1920, Tưởng Giới Thạch trở về Thượng Hải, bổ sung làm người mách nối của sự giao dịch vật phẩm chứng khoán. Chỉ trong vòng một năm ngắn ngủi, Tưởng Giới Thạch đã lo liệu được một khoản tiền hoạt động là một trăm vạn đồng cho Tôn Trung Sơn. Trong thời kỳ cách mạng thoái trào, Tôn Trung Sơn cần thiết đến khoản tiền này do Tưởng Giới Thạch cung cấp biết bao ! Ngày 12 tháng 11, Tưởng Giới Thạch lại báo cáo tình hình bọn quân phiệt ở Quảng Đông, tường tận, tỉ mỉ cho Tôn Trung Sơn biết. Tháng 10 năm 1921, Tôn Trung Sơn cho Tưởng Giới Thạch trở về Quảng Châu, hoạch định kế hoạch tác chiến tiến quân vào Quảng Đông, Quảng Tây tiếp đó là thống nhất Trung Quốc. Trong thời gian này, đối với các văn kiện mà Tưởng Giới Thạch lần lượt biên soạn như Kế hoạch tác chiến với Bắc quân, Kế hoạch tác chiến đơn độc của hai quân Trinh Việt đối với Mân Triết, Phán đoán hành động từ nay về sau của hai quân nam bắc v.v... Tôn Trung Sơn rất có cảm tình tốt đẹp. Tưởng Giới Thạch được Tôn Trung Sơn tín nhiệm sâu sắc là sau khi Tưởng viết bài Ghi chép về việc gặp nạn của Tôn Đại Tổng Thống. Ngày 15 tháng 5 năm 1922, Tôn Trung Sơn nhận chức Đại tổng Thống bất thường, Trần Quýnh Minh làm Tổng trưởng nội chính kiêm tổng trưởng lục quân, tổng tư lệnh và tỉnh trưởng Việt quân, độc chiếm đại quyền. Lúc đó ý đồ giết người chứa chất ở Quảng Châu. Tưởng Giới Thạch bí mật nói với Tôn Trung Sơn rằng: Con người Trần Quýnh Minh không thể dựa vào được, lại tập trung nhiều chức vụ vào trong tay hắn, tất sẽ có hậu hoạn. Tưởng kiến nghị với Tôn Trung Sơ trước hết cất quân tiêu diệt Trần Quýnh Minh rồi sẽ Bắc phạt. Khi Tôn Trung Sơn với tấm lòng khoan dung nhân hậu cự tuyệt kiến nghị của Tưởng Giới Thạch, để chứng tỏ lòng trung thành đối với Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch đã chẳng kể tới nhiều lần lưu giữ của Tôn, đã cãi nhau một trận gay gắt, rồi từ chức bỏ về quê. Nhưng trên đường trở về, Tưởng đã viết một lá thư cho Trần Quýnh Minh khuyên Trần Quýnh Minh phải phục tùng đại kế bắc phạt. Mãi về sau Tôn Trung Sơn mới bíet việc này.Thế nhưng, vào lúc Tôn Trung Sơn khó khăn nhất thì Tưởng Giới Thạch đã xuất hiện ở bên cạnh Tôn. Điều này đã nâng cao mạnh mẽ giá trị của bản thân Tưởng Giới Thạch. Ngày 15 tháng 6, Trần Quýnh Minh ra lệnh cho bộ hạ Diệp Cử phát đi một bức điện thông báo, yêu cầu Tôn Trung Sơn bắt buộc phải từ chức. Sáng sớm ngày 16, Trần Quýnh Minh công khai làm phản, phái cử hơn bốn ngàn lính vây chặt xung quanh phủ Tổng Thống, lại dùng đại bác và máy bay bỏ bom bắn phá phủ Tổng Thống. Tôn Trung Sơn không thể không mạo hiểm liều vượt qua rừng súng mưa đạn, rời khỏi phủ Tổng thống, đi bộ tới bộ tư lệnh Hải quân trên con đê dài. Sau đó bước lên chiến hạm Vĩnh Phong, chỉ huy hải quân đánh trả quân phiến loạn. Trong lúc hoạn nạn, Tôn Trung Sơn đã nghĩ tới Tưởng Giới Thạch. Lúc này Tưởng Giới Thạch đang cúng giỗ một năm ngày qua đời của mẹ ở Triết Giang, Tôn Trung Sơn liền sai người đánh đi một bức điện khẩn Việc nguy cấp, mong tới đây ngay ! Sau khi Tưởng Giới Thạch nhận được bức điện, đã cấp tốc tới Quảng Đông, lặng lẽ bước lên chiến hạm Vĩnh Phong, hộ vệ Tôn Trung Sơn. Để tránh khỏi cuộc pháo kích lần thứ hai, Tưởng Giới Thạch kiến nghị các chiến hạm vượt qua pháo đài Chewai, lái về chỗ các chiến hạm ngoại quốc đang neo đậu ở đầm Bạch Nga. Trên đường, khi gặp phải pháo kích của quân phiến loạn, Tưởng Giứi Thạch vội vàng mời Tôn Trung Sơn vào ẩn ở trong boong, còn bản thân mình kiên trì đứng chỉ huy ở trên dàn pháo. Sau khi chiến hạm Vĩnh Phong đi qua pháo đài Chewai, đối với nơi kinh hoàng của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch đã biểu thị rất hổ thẹn day dứt. Sau sự việc này, Tôn Trung Sơn đã mấy lần ca ngợi Tưởng Giới Thạch ở trước mặt mọi người. Tưởng Giới Thạch đúng là nắm lấy cơ hội Tôn Trung Sơn gặp và giành được sự tín nhiệm của Tôn Trung Sơn.Sau khi chiến hạm Vĩnh Phong neo đậu ở đầm Bạch Nga, Tưởng Giới Thạch thường lợi dụng lúc đêm khuya thanh vắng lặng lẽ bên bờ, mua thực phẩm và rau cỏ thức ăn cho Tôn Trung Sơn. Sau sự kiện này, Tôn Trung Sơn đã từng nói với nhà báo nước ngài:- Tưởng tới lần này, thực sự đã như tăng thêm hai vạn viện binh ! Một nhà báo đã chụp một kiểu ảnh Tôn Trung Sơn và Tưởng Giới Thạch: Tôn Trung Sơn ngồi trên chiếc ghế mây, Tưởng Giới Thạch mặc quân phục thắt đay đứng nghiêm trang ở đằng sau Tôn Trung Sơn. Tưởng Giới Thạch đã cho người phân rải bức ảnh này ở khắp nơi. Đủ thấy, đây là một lần gặp mặt mấu chốt nhất giữa Tưởng Giới Thạch với Tôn Trung Sơn. Một lần khen ngợi và một lần chụp ảnh chung của Tôn Trung Sơn, đã xây cao mạnh mẽ địa vị của Tưởng Giới Thạch ở trong quân cách mạng. Trong tháng 9, Tưởng Giới Thạch nghĩ ra một điều khác hẳn, trở về Ninh Ba, chuyên tân soạn viết Ghi chép về việc gặp nạn của Tôn Đại Tổng Thống, phỉ nhổ Trần Quýnh Minh, ca tụng Tôn Trung Sơn. Sau khi cuốn sách này viết xong, Tưởng Giới Thạch hành trình một chuyến tới Thượng Hải yết kiến Tôn Trung Sơn, xin Tôn Trung Sơn viết lời đề tựa cho ghi chép về việc gặp nạn. Tôn Trung Sơn vui vẻ cầm bút, còn ca ngợi Tưởng Giới Thạch là người tùy tùng trung thành, sắp đặt kế sách đều trúng. Lúc này, Tưởng Giới Thạch đã được Tôn Trung Sơn tín nhiệm sâu sắc... Mặc dù về sau này, đối với việc Tưởng Giới Thạch có một số hành vi đã khiến cho Tôn Trung Sơn ác cảm, thậm chí còn phê bình chỉ trích Tưởng Giới Thạch. Thế nhưng Tôn Trung Sơn đã coi Tưởng Giới Thạch là một nhân vật quan trọng trên vũ đài chính trị Trung Quốc, dần dần được ủy nhiệm, trọng dụng.
Tháng 10 năm đó, Tôn Trung Sơn bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm tham mưu trưởng quân đội hai của Hứa Sùng Trí. Tháng 2 năm 1923, Tôn Trung Sơn trở về thiết lập Phủ Đại nguyên soái ở Quảng Châu, bổ nhiệm Tưởng Giới Thạch làm tham mưu trưởng đại bản doanh, đã khiến cho Tưởng Giới Thạch trở thành nhân vật có thực quyền hiển hách bên cạnh Tôn Trung Sơn. Ngày 16 tháng 8, Tôn Trung Sơn lại ủy nhiệm Tưởng Giới Thạch làm đoàn trưởng Đoàn đại biểu tiến sĩ khoa học Tôn Dật Tiên, dẫn đoàn đại biểu sang Liên Xô khảo sát tổ chức Quân chính Đảng. Đầu năm 1924, Tôn Trung Sơn cử Tưởng Giới Thạch lập kế hoạch xây dựng trường quân sự Hoàng Phố, rồi trước sau bổ nhiệm Tưởng làm ủy viên ban thường vụ quân sự Quốc dân đảng, hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố kiêm tham mưu trưởng bộ tổng tư lệnh quân đội Quảng Đông. Cho tới lúc mắc bệnh qua đời, Tôn Trung Sơn vẫn luôn luôn tín nhiệm Tưởng Giới Thạch. Suốt cuộc đời của Tưởng Giới Thạch, trước sau không hạ ngọn cờ này của Tôn Trung Sơn, tôn xưng Tôn Trung Sơn tiên sinh là quốc phụ. Chủ nghĩa tam dân: dân tộc, dân quyền, dân sinh mà Tôn Trung Sơn đề xuất cùng với một số chủ trương chính trị khác của Tôn Trung Sơn, đã thực sự được đông đảo dân chúng ủng hộ. Những hoạt động cách mạng của Tôn Trung Sơn đã có ảnh hưởng rất to lớn trong các đảng phái Quốc dân đảng, ngay cả đến toàn Trung Quốc toàn thể giới cũng đều có ảnh hưởng rất lớn lao. Chính bởi vì như vậy, Tưởng Giới Thạch thất bại phải chạy trốn sang Đài Loan, thậm chí ngay cả trong di chúc vẫn vang vọng không quên những câu từ đẹp đẽ Đi theo cuộc cách mạng của thủ tướng, thực hiện tam dân chủ nghĩa v.v... để lung lạc lòng người, khống chế chính quyền. Có được ngọn cờ này của Tôn Trung Sơn, Tưởng Giới Thạch đã dần dần nắm chắc Đảng quyền Quốc dân đảng vào trong tay mình.
Phần 3
Chương 2
Ba lưỡi dao mà Tưởng Giới Thạch kinh doanh ở Trường quân sự Hoàng phố
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Mao Trạch Đông có nói: Tưởng Giới Thạch đã dựa vào trường quân sự Hoàng Phố mà làm nên sự nghiệp. Trường quân sự Hoàng Phố là trường sĩ quan lục quân được xây dựng dưới sự giúp đỡ của Liên Xô và Đảng Cộng sản Trung Quốc, Tôn Trung Sơn đã tổng kết những kinh nghiệm lịch sử từ cuộc cách mạng Tân Hợi tới nay, cũng là những hành động cụ thể về tư tưởng Xây dựng quân đội Cách mạng, Cứu vãn nguy vong cho Trung Quốc của Tôn Trung Sơn. Thời gian chỉ trải qua được ba năm, trường quân sự Hoàng Phố đã bị tập đoàn Tưởng Giới Thạch thao túng. Đây lại là một điều bí mật trong sự chìm nổi của Tưởng Giới Thạch.
Hạ tuần tháng 12 năm 1921 đại biểu của quốc tế Cộng sản Mã Lâm tới Quế Lâm yết kiến Tôn Trung Sơn, kiến nghị Tôn Trung Sơn xây dựng trường sĩ quan quân sự để tổ chức xây dựng quân đội Cách mạng. Kiến nghị này đã nói tới tâm khảm của Tôn Trung Sơn, bản thân nằm trong đại bản doanh bắc phạt mà lại không có một đội quân cách mạng lớn mạnh, đã khiến cho Tôn Trung Sơn nhiều lần lãnh đạo cách mạng gặp khó khăn. Tôn Trung Sơn nghe thấy xây dựng trường sĩ quan quân đội, trong lòng vô cùng phấn khởi. Ông đã cùng Mã Lâm mật đàm suốt năm ngày, đã tìm hiểu tường tận quy mô, biên chế và nội dung giáo dục chính trị. Tháng 8 năm 1922, người lãnh đạo Đảng Cộng sản là Lý Đại Chiêu tới Thượng Hải, cùng Tôn Trung Sơn thảo luận các vấn đề Chấn Hưng Trung Quốc. Trong cuộc đấu tranh quân sự liên tiếp bị thất bại đặc biệt là sau vụ Trần Quýnh Minh làm phản, Tôn Trung Sơn đối với kiến nghị của những người Cộng sản đã biểu thị niềm hứng thú cực kỳ to lớn. Một thời gian dài trong Quốc dân đảng, Tôn Trung Sơn đã hạ lệnh vạch kế hoạch xây dựng trường quân sự. Theo cách nghĩ của Tôn Trung Sơn, để cho Liêu Trọng Khải và Bào La Đình phụ trách vạch kế hoạch xây dựng, hiệu trưởng do bản thân ông kiêm nhiệm, còn xác định Tưởg Giới Thạch, Vương Bá Linh, Lý Tế Thâm, Thẩm ứng Thời, Lâm Trấn Hùng, Du Phi Bằng, Trương Gia Thụy, Tống Vinh Xương làm ủy viên trù bị. Tưởng Giới Thạch từng bôn ba mấy năm trong cơn lốc đấu tranh quân phiệt đã hiểu rõ tác dụng của vũ khí, cảm thấy trường sĩ quan quân sự là một miếng thịt béo khó giành được, Tưởng đã đem hết tâm trí giành được quan hàm ủy viên trưởng trù bị từ chỗ Tôn Trung sơn, nắm được đại quyền trù bị xây dựng trường quân sự Hoàng Phố vào trong tay. Đối với việc xây dựng tôn chỉ học của trường quân sự Hoàng Phố, Tôn Trung Sơn đã có một số cách nghĩ rất tốt. Ngày 16 tháng 6 năm 1924, Tôn Trung Sơn đích thân tới Hoàng Phố chủ trì lễ khai giảng của nhà trường đã đặt ra lời khuyên răn đối với nhà trường là Thân ái chân thành, yêu cầu thày trò trường Hoàng Phố trước tiên thực hiện cho được ba tinh thần lớn Đoàn kết, hy sinh, phấn đấu. Trong buổi lễ khai giảng Tôn Trung Sơn đã chỉ rõ : Bắt đầu từ hôm nay trở đi, phải xây dựng lại sự nghiệp cách mạng phải sử dụng học sinh của trường này làm căn bản, thành lập đội quân cách mạng...Tôn chỉ của chúng ta là phải tạo thành một loại quân cách mạng... Nếu không có chí khí cách mạng, không nghiên cứu lí luận cách mạng, giống như lục quân với xây dựng huấn luyện ra vào cuối năm Mãn Thanh, đều có đại pháo súng trường tinh xảo hoàn mỹ, hải quân có chiến hạm và tàu phóng ngư lôi kiên cố vẫn không thể phát huy được sự nghiệp cách mạng[1] . Tôn Trung Sơn còn phê chuẩn hai câu đối dán ở hai bên cửa lớn trường quân sự Hoàng Phố là:
Thằng quan phát tài đi chỗ khác
Tham sinh úy tử chớ vào đây
Tấm biển ngang đặt trên cửa khắc bốn chữ Cách mạng giả lại. Những tư tưởng xây dựng nhà trường này của Tôn Trung Sơn đều bị Tưởng Giới Thạch ngấm ngầm vứt bỏ.
Ngày 3 tháng 5 năm 1924, Tưởng Giới Thạch cuối cùng đã giành được chức vụ Hiệu trưởng trường sĩ quan lục quân từ chỗ Tôn Trung Sơn. Lúc này mặc dù Tôn Trung Sơn còn kiêm nhiệm thủ trưởng nhà trường, người lãnh đạo kiệt xuất của phái tả Liêu Trọng Khải làm đại biểu của Đảng, Lý Tế Thâm làm phó hiệu trưởng. Thế nhưng ít lâu sau Tôn Trung Sơn bị ốm qua đời, Liên Trọng Khải bị ám sát, trên thực tế trường quân sự Hoàng Phố đã trở thành Trường quân sự của Tưởng.Tưởng Giới Thạch kinh doanh trường quân sự Hoàng Phố, chủ yếu đã dùng ba lưỡi dao.
Lưỡi dao thứ nhất là làm chuyện sùng bái cá nhân. Đây là lưỡi dao mềm.Tưởng Giới Thạch tới trường quân sự Hoàg Phố, đã có tư tưởng chỉ đạo rõ rẹt: Cần phải bồi dưỡng học sinh của trường sĩ qua quân đội này trở thành những sĩ quan tương lai trung thành với Tưởng mỡ. Tưởng không rời bỏ bất kỳ cơ hội nào huấn luyện học sinh ý thức phục tùng tuyệt đối đối với mình Tưởng Giới Thạch rất giả dối, ông ta luôn luôn lợi dụng ngọn cờ của Tôn Trung Sơn ở khắp mọi nơi để làm chuyện sùng bái cá nhân. Xin hãy dõi theo một số biểu hiện của ông ta. Trong nhữg trường hợp công khai, Tưởng Giới Thạch luôn luôn hô to ba chính sách lớn mà Tôn Trung Sơn đặt ra. Tưởng nói với các học sinh: Tôi cho rằng thực hành được tam dân chủ nghĩa đó chính là cộng sản chủ nghĩa, Tất nhiên muốn bao quát được chủ nghĩa cộng sản thì trước hết phải là chủ nghĩa tân dân chân chính; đồng thời cũng có thể dụng nạp được Cộng sản đảng, trước hết phải là Đảng quốc dân chân chính. Đảng viên đảng quốc dân phản đối Đảng Cộng sản chính là chống lại phương châm chủ trương mà thủ tướng đã đề ra. Những chủ trương mà chủ trương đề ra, chúng ta không thể đi ngược lại được. Nếu không hư vậy thì vô luận anh tín ngưỡng chủ nghĩa tam dân như thế nào, cũng là giả dối cả. Còn kín dấu ở bên trong thì sao, tạm thời không nói tới, cuộc chính biến phản cách mạng 12-4 đã giết hại rất nhiều đảng viên cộng sản, ngay tới cả những nhân sĩ nổi tiếng giữ chức vụ quan trọng ở trường quân sự Hoàng Phố như Chu An Lai, Nhiếp Vinh Trăn, cũng đã vấp phải sự quở trách của Tưởng. Ngày 7 tháng 7 năm 1924, Tưởng Giới Thạch kiêm nhiệm tư lệnh nơi hiểm yếu vùng biên giớiTrương Châu. Chức vụ tư lệnh này thực ra không cao. Thế nhưng bởi vì nơi hiểm yếu vùng biên giới Trường Châu này cách trường quân sự Hoàng Phố chỉ xa có một ngàn mét, Tưởng Giới Thạch đã xảo quyệt lợi dụng được chức vụ này. Tưởng ra lệnh cắm lên một ngọn cờ lớn ở trước pháo đài Yếu tái {(1)} Trường Châu, trên là cờ ở đó thêu chữ Tưởng rất lớn để khoe khoang mình. Ban ngày Tưởng tới trường quân sự Hoàng Phố, ban đêm chui vào bộ tư lệnh Yếu Tái. Mỗi lần tới trường đều phòng bị nghiêm ngặt, tỏ ra rất oai phong lẫm liệt. Tưởng thường xuyên dùng hình thức lời giáo huấn để tiến hành giáo dục tư tưởng đối với các học viên ở trường quân sự này. nhấn mạnh tuyệt đối tín ngưỡng tam dân chủ nghĩa, tuyệt đối phục tùng kỷ luật của nhà trường. Tưởng nói: Những người hoài nghi chủ nghĩa tam dân hoặc phê bình chủ nghĩa tam dân chính là phản đảng, những kẻ đó đều là kẻ thù của chúng ta.Để đặc biết nhấn mạnh địa vị của hiệu trưởng, Tưởng đã đặt ra rất nhiều điều lệnh và pháp quy, yêu cầu học viên, sĩ quan và binh lính nghiêm chỉnh chấp hành. Những điều lệnh và pháp quy này đại đa số là bắt mọi người phải thực hiện sự thống trị của cá nhân ông ta.Ông ta dốc lòng tin tưởng có quân tất có quyền, đặc biệt chú trọng bồi dưỡng chăm sóc thế lực cá nhân. Tưởng giao cho Đới Quý Đào, Thiệu Nguyên Xung làm sĩ quan giảng dạy chính trị, giao cho Vương Bách Linh, Hà ứng Khâm vv.. làm sĩ quan giảng dạy quân sự; giao cho những người theo Tưởng trung thành không thay lòng đổi dạ như Lưu Trĩ, Cố Chúc Đồng, Tiền Đại Quân, Trần Thành v.v...đảm nhận chức sĩ quan cấp trung, hạ ở trong trường. Số người này về sau đều trở thành lực lượng trung kiên của tập đoàn Tưởng Giới Thạch. Sự sùng bái cá nhân của Tưởng Giới Thạch đã sản sinh ra những ảnh hưởng rất to lớn trong số học viên của nhà trường. Binh lính trong quân đội Quốc dân đảng, coi việc được nhập vào Trường quân sự Hoàng Phố là vinh dự, Học viên trường Hoàng Phố đã trở thành những chiếc bậc thang cực tốt để họ tấn thăng Hiệu trưởng, tiếng gọi này trong rất nhiều trường hợp đã trở thành tiếng xưng hô đặc thù nịnh hót chiều chuộng đối với Tưởng Giới Thạch. Các sĩ quan chủ yếu trong quân đội là họ hàng của Tưởng đều được tuyển từ Hoàng phố. Một số sĩ quan Quốc dân đảng khi cầm quân bị thất bại cam nguyện làm Hiệu trưởng, Thành nhân. Mao Trạch Đông nói Tưởng Giới Thạch đã dựa vào trường Hoàng phố mà làm nên sự nghiệp, cũng là chỉ Tưởng Giới Thạch lợi dụng đại bản doanh - Trường quân sự Hoàng Phố này để đào tạo bồi dưỡng hàng loạt các sĩ quan quân đội.
Lưỡi dao thứ hai là mượn cơ hội đông chinh để tổ chức xây dựng và mở rộng quân đội. Đây là một lưỡi dao cứng. Tháng 10 năm 1924, Tập đoàn thương nhân Quảng Đông do Trần Liêm Bá ngân hàng mại bản Hối Phong nước Anh và Trần Cung Thu đại địa chủ ở Phật Sơn khống chế, dưới sự ủng hộ trực tiếp của đế quốc Anh, đã dùng vũ lực uy bức thương nhân bãi thị, sát hại đẫm máu quần chúng du hành thị uy, chuẩn bị lật đổ chính quyền cách mạng Quảng Châu. Khi Tôn Trung Sơn yêu cầu Tưởng Giới Thạch tổ chức học sinh Hoàng Phố dẹp loạn, Tưởng Giới Thạch đã vui mừng phấn khởi lộ trên nét mặt. Tưởng đã dùng học sinh Hoàng Phố làm lực lượng cốt cán trước sau đã tổ chức thành hai trung đoàn lãnh đạo. Mỗi trung đoàn có ba tiểu đoàn, mỗi tiểu đoàn có ba đại đội, mỗi đại đội có ba trung đội. Ngoài ra còn thiết lập đại đội đặc vụ, đội trinh sát, đại đội súng máy, đội vận tải quân nhu v.v... Để khống chế hóa trung đoàn này, Tưởng Giới Thạch chọn Hà ứng Khâm đảm nhiệm Trung đoàn trưởng trung đoàn thứ nhất, Vương Bá Linh làm trung đoàn trưởng trung đoàn thứ hai, tuyển chọn các sĩ quan giảng dạy ở trong trường đảm nhiệm các chức sĩ quan trung cấp. Mỗi binh sĩ cùng đều được tuyển chọn nghiêm ngặt. Đội quân Cách mạng vũ trang từ trường quân sự Hoàng Phố này, được sự ủng hộ và giúp đỡ của quần chúng công nông Quảng Châu và sự phối hợp của quân đội công đoàn, rất nhanh chóng đã đập tan được quân đội Thương nhân phản động. Lần đầu Tưởng Giới Thạch được hưởng kết quả thắng lợi, cùng coi trọng việc khống chế của trung đoàn lãnh đạo Hoàng Phố. Cơ hội lại đã tới, sau khi quân phản loạn của tập đoàn thương nhân Quảng Đông bị dẹp tan, Trần Quýnh Minh được sự giúp đỡ của thế lực nước Anh và quân phiệt Bắc Dương đã chuẩn bị dân quân tiến đến xâm phạm Quảng Châu. Lúc này, Tôn Trung Sơn đang bị ốm nặng tại Bắc Kinh, chính phủ quốc dân Quảng Châu quyết định tổ chức liên quân Đông Chinh trừng phạt Trần Quýnh Minh. Để tiếp tục rèn luyện trung đoàn lãnh đạo của Trường quân sự Hoàng Phố, Tưởng Giới Thạch đã mượn cơ hội thể hiện rõ tài năng quân sự của mình, tích cực yêu cầu được dẫn trung đoàn lãnh đạo tham gia tác chiến Đông Chinh. Ngày 30 tháng 1 năm 1925, Bộ tổng tư lệnh liên quân Đông Chinh không khí sôi nổi, trung đoàn quân người ngựa từ nhiều ngả, có bộ đội của quân Việt là Hứa Sùng Trí, bộ đội của quân Điên là Dương Hy Mân, bộ đội của quân Quế là Lưu Chấn Hoàn, bộ đội của quân Tương là Đàm Diên Khải. Bởi Tưởng Giới Thạch bản thân kiêm các chức: Hiệu trưởng trường quân sự Hoàng Phố, Tư lệnh Yếu Tái Trường Châu, tham mưu trưởng quân đội Việt v.v... đều là các chức vụ quan trọng, cho nên được toàn thể cử làm Thống lĩnh. Chín giờ sáng ngày 3 tháng 2, Tưởng Giới Thạch dẫn quân Đông Chinh, ngày hôm sau đã thu phục được Đông Quan, Thạch Long. Lúc này Tưởng Giới Thạch tươi cười hớn hở tức hứng viết ngay bài thơ sau:
Thân dẫn ba ngàn lính chiến binh,
Rập rình cú vọ bước Đông chinh,
Cách mạng gian nan dành thử sức
Vung kiếm rạch trời, lệ chẩy quanh !
Quân đội của Trần Quýnh Minh không kham nổi đòn sấm sét. Sau mười ngày, Tưởng Giới Thạch lại chỉ huy quân đội thu phục lại Đam Thủy, bắt sống làm tù binh hơn bẩy trăm tên địch. Ngày hôm đó Tưởng Giới Thạch phấn khởi vô cùng vội vàng báo tin thắng trận tới Tôn Trung Sơn đang ở tận Bắc Kinh xa xôi, nói rõ rằng dưới sự chỉ huy độc lập của mình đã giành được chiến thắng lợi đầu tiên. Trong tháng 3, một trung đoàn lãnh đạo của Hoàng Phố do Hà ứng Khâm dẫn đầu, dùng hơn một vạn quân đã đánh bại được hơn hai vạn quân địch. Cuối cùng, bộ phận tàn quân của Trần Quýnh Minh đã thất bại chạy khỏi biên giới Mân Cán.
Sau khi kết thúc cuộc Đông Chinh lần thứ nhất, Tưởng Giới Thạch không hề do dự xây dựng mở rộng quân đội Quốc dân đảng, bản thân nhận chức Tư lệnh Đảng Quân. Trung đoàn lãnh đạo của Hà ứng Khâm mở rộng bổ sung thành Lữ đoàn một, Hà ứng Khâm giữ chức Lữ Đoàn Trưởng. Mùa hạ năm 1925, phủ Đại nguyên soái Quảng Châu cải tổ thành chính phủ quốc dân, học sinh quân Hoàng Phố cùng thừa cơ mở rộng thành Quân đoàn 1 quân cách mạng quốc dân. Quân đoàn trưởng lẽ dĩ nhiên là Tưởng Giới Thạch.Thế nhưng Trần Quỳnh Minh chết mà không đông cứng, bộ đội tàn quân của hắn sau khi nhận được ba mươi vạn đồng lương ăn và sinh hoạt phí của Đoàn Kỳ Thụy, một khối lượng tiền mặt lớn và ba trăm vạn viên đạn của chính phủ thực dân Hồng Công, lợi dụng lúc Liêu Trọng Khải bị giết, lại một lần nữa phát động phản loạn, chiếm lĩnh trở lại Triều Châu, Sán Đầu, khí thế hừng hực tiến công Quảng Châu. Lúc này, Tưởng Giới Thạch đang cùng Uông Tinh Vệ, Hứa Sùng Trí v.v... lập thành ẹy ban đặc biệt sử lý vụ án họ liêu, để xử lý vụ án giết chết Liêu Trọng Khải. Lúc này Tôn Trung Sơn đã qua đời, trong Quốc dân đảng chỉ có một mình Uông Tinh Vệ có chức vị đứng trên Tưởng Giới Thạch. Tưởng nhìn thấy mình sắp sửa bước lên đỉnh cao của chính quyền Quốc dân đảng thế nhưng Tưởng vẫn không muốn vứt bỏ cơ hội dẫn quân đi dẹp loạn. Tưởng đã danh chính ngôn thuận đảm nhiệm chức tổng tư lệnh quân đội Đông chính, dưới sự phụ trợ của Chu Ân Lai chủ nhiệm Bộ Chính trị quân đoàn một quân cách mạng quốc dân, lại một lần nữa dẫn quân Đông Chinh. Xuất chinh lần này, Tưởng Giới Thạch hầu như đã mất hết thể diện, thế nhưng để khống chế quân đội, Tưởng đã chơi hai trò rất xảo trá.Trò bịp thứ nhất là vờ lùi ngầm tiến. Sau khi quân Đông Chinh đánh phá Tuệ Châu, Tưởng Giới Thạch đệ trình lên chính phủ quốc dân một lá đơn xin từ chức, nói nào là việc đánh chiếm Tuệ dân, quân Đông Chính căn bản đã làm xong, để tránh khỏi việc thực sự nắm giữ binh quyền trở thành quân phiệt, phải từ bỏ chức vụ quân đoàn trưởng quân đoàn một. Trò bịp này của Tưởng Giới Thạch, chẳng những quân quyền không mất mà chiếc gậy chỉ huy tổng chỉ huy quân đội Đông Chinh một khắc cũng chẳng rời tay, mà còn giành được sự tín nhiệm của chính phủ quốc dân và cố vấn Liên Xô, thuận lợi bước vào phạm vi lãnh đạo của Trung Ương Quốc dân đảng. Còn trò bịp thứ hai là vờ văn ngầm võ. Sau chiến dịch Hoa Dương, Tưởng Giới Thạch chuyển nguy thành an, cuối cùng đã vào trú ở Miêu Quan Nhạc Triều Châu, ngâm nga đọc truyện ký của Ta Go nhà đại thi hào ấn Độ. Tư thái cầu tĩnh trung loạn, học văn trong võ này của Tưởng Giới Thạch, đã khiến cho một số tướng tá thỉnh thoảng chạy vào trong miếu thỉnh thị báo cáo đã hết lòng khâm phục. Cuộc Đông Chinh lần thứ hai, đã quét sạch được thế lực quân phiệt gây ra loạn họa ở Quảng Đông của Trần Quýnh Minh. Sự đổ máu hy sinh của các tướng sĩ tiền phương, đã hóa thành vầng hào quang vinh dự ở trên đầu Tưởng Giới Thạch, đặc biệt là bức điện báo chúc mừng thắng lợi của Uông Tinh Vệ đã vô tình ca ngợi Tưởng Giới Thạch là người đặt nền tảng cho căn cứ địa Cách mạng Quảng Đông. Tưởng Giới Thạch đã dựa vào chức vụ quan trọng - hiện trưởng trường quân sự Hoàng Phố và chiến công hiển hách của học sinh Hoàng Phố, không những đã trở thành nhân vật mấu chốt trong chính phủ quốc dân mà đã trở thành phái có thực lực ở Quảng Đông nắm giữ binh quyền ở trong tay.
Lưỡi dao thứ ba của Tưởng Giới Thạch là tạo ra Sự kiện chiến hạm Trung Sơn để đối phó với Đảng Cộng Sản. Đây là một Con dao hai lưỡi kết hợp giữa cứng và mềm. Sáng tạo và xây dựng ra trường quân sự Hoàng Phố, là thành qủa quan trọng trong lần hợp tác thứ nhất của hai đảng Quốc Cộng. Chu Ân Lại, Nhiếp Vinh Trăn, Diệp Kiếm Anh v.v... đã lần lượt đảm nhiệm những chức vụ quan trọng ở trong trường quân sự Hoàng Phố. Các Đảng bộ đặc biệt nhiều khóa của nhà trường đều có các đảng viên cộng sản trúng cử làm ủy viên chấp hành hoặc ủy viên giám sát. Thế nhưng, chính trong ngày 26 tháng 3 năm 1926, Chu Ân Lai chủ nhiệm Bộ Chính Trị trường quân sự Hoàng Phố đã bị giam lỏng trong nhà máy xi măng. Bộ thư bộ chính trị kiêm sĩ quan dạy chính trị Nhiếp Vinh Trăm cũng bị giam lỏng ở trên chiến hạm Trung Sơn. Lý do giam người rất đáng sợ: Chiến hạm Trung Sơn sắp bắn phá Hoàng Phố, Đảng Cộng Sản sắp được bắt Tưởng hiệu Trưởng. Hạm trưởng chiến hạm Trung Sơn là đảng viên Cộng sản Lý Chi Long. Hai ngày trước, Tưởng Giới Thạch lấy danh nghĩa là Biện sự xứ đóng tại tỉnh của tưởng quân sự Hoàng Phố, ra lệnh cho Lý Chi Long cục Trưởng thay mặt Hải quân kiêm hạm trưởng Chiến hạm Trung Sơn, điều chiến hạm Trung Sơn tới Cảng Hoàng Phố để chuẩn bị sử dụng. Sau khi chiến hạm Trung Sơn lái tới Hoàng Phố, Lý Chi Long đột nhiên bị người bắt đi trong lúc ngủ mơ, giam giữ ở Sở quản lý quân đoàn I. Lý Chi Long trách hỏi giám đốc Sở quản lý.
- Các anh dựa vào đâu để bắt tôi.
Giám đốc sở quân lý khịt khịt mũi, hỏi lại:
- Anh có điều gì không phải với hiệu trưởng?
- Không có.
- Ai cử chiến hạm Trung Sơn tới Hoàng Phố?
- Là chỉ thị tự tay Tưởng hiệu trưởng viết ra, vừa rồi đã bị binh lính lục soát va li của tôi cướp đi mất rồi!
Lý chi Long nghĩ rằng, việc này chỉ cần điều tra là rõ ngay.
- Để tôi tới nói với hiệu trưởng.
Giám đốc sở quản lý đứng dậy bước ra. Chỉ chốc lát hắn quay trở lại, nói với một tên lính đứng ở bên cạnh:
- Hiệu trưởng ra lệnh, trói chặt nữa vào!
Tên lính canh giữa lập tức trói thêm mấy sợi dây thừng thô thít chặt làm cho chân tay của Lý Chi Long không thể động đậy được nữa.Giám đốc sở quản lý lại hỏi:
- Tại sao hôm nay anh dậy sớm như vậy? Bước lên chiến hạm với âm mưu gì?
Lý Chi Long đang sắp sửa giải thích, từ cửa sau có người bước vào, giận dữ độc ác nói:
- Hiệu trưởng ra lệnh, trói chặt thêm nữa vào!
Tên lính gác lại lấy ra một sợi thừng, trói chặt hai tay của Lý Chi Long đau buốt tới tận tim tận xương. Tưởng Giới Thạch còn lấy tội danh: Đảng Cộng Sản âm mưu bạo động, điều động quân đội tuyên bố lệnh giới nghiêm, cắt đứt đường giao thông giữa trong và ngoài Quảng Châu, bao vây chặt ẹy ban bãi công của Tỉnh Cảng, sở Cố vấn Liên Xô ở Đông Dơn Quảng Châu. Khi Trần Độc Tú và những người Cộng sản khác, giải thích sự hiểu lầm với Tưởng Giới Thạch, Tưởng Giới Thạch đồng ý thả người, thế nhưng trái lại, đã đề xuất những điều kiện đả kích Cộng sản Đảng và lực lượng lãnh đạo của Đảng. Trong đó có những điều như sau:
- Mọi đoàn thể bí mật và mọi hành động bí mật của các đảng viên cộng sản ở Trung Quốc dân đảng, hoàn toàn thủ tiêu. Nếu kẻ nào phạm vào điều này, nhẹ thì khai trừ Đảng tịch, nặng thì bị trừng phạt.
- Mọi huấn lệnh và sách lược của Đảng cộng sản đối với Đảng viên, cần phải thông qua cán bộ cao nhất của Quốc dân đảng.
- Các đảng viên Cộng sản ở trong Quốc dân đảng, danh sách của họ phải thông qua cán bộ cao nhất của Quốc dân đảng.
Không lâu, Tưởng Giới Thạch lại triệu tập hội nghị liên tịch giữa đảng bộ Trung Ương Quốc dân đảng với chính phủ Quốc dân đảng, đã giải tán Hội liên hiệp quân nhân Thanh niên là tổ chức tiến bộ, cưỡng bức toàn bộ các đảng viên Cộng sản trong quân cách mạnh quốc dân phải rút ra khỏi đội quân này.Tiếp sau đó Tưởng Giới Thạch lại đem Sự kiện chiến hạm Trung Sơn đổ bò cho Uông Tinh Vệ, nói là Uông Tinh Vệ đang xúi bẩy gây xích mích trong mối quan hệ giữa Quốc dân đảng với Đảng Cộng sản. Tưởng Giới Thạch tự trách nói: Sự kiện chiến hạm Trung Sơn Xuất phát từ sự vội vàng lật đật, xử trí không bình thường, trước khi xảy ra sự việc không kịp thời báo cáo, đó là tội tự ý làm, thành thực không dám từ chôi!. Tưởng còn nói rõ với mọi người: Tôi đối với các đồng chí Cộng sản, có tinh thân ái, điều này không thể nói rõ ra được! Tưởng Giới Thạch một mặt kiến quyết được hết các đảng viên Cộng sản ở trong quân đoàn một, đồng thời lại thết tiệc mời các đại biểu đảng rời khỏi quân đoàn một.Trong bữa tiệc, Tưởng nâng cốc nói:
-Nếu con người cách mệnh trong tôi còn mảy may trái tim quyền lợi bổng lộc địa vị, vô luận đồng chí học sinh nào, chẳng những có thể lật đổ tôi, hơn nữa còn có thể rút súng bắn chết tôi được![2]
Thời kỳ đầu sáng lập ra trường quân sự Hoàng Phố, được sự giúp đỡ của những người cộng sản như Chu Ân Lai v.v... đã bồi dưỡng ra hàng loạt những nhân tài quân sự, chính trị ưu tú. Trong cuộc bình định bọn phản loạn quân phiệt Quảng Đông, thống nhất các căn cứ địa cách mạng Quảng Đông và chiến tranh bắc phạt đã có những cống hiến quan trọng. Sau lễ tốt nghiệp của học viên khóa 5 trường Hoàng Phố, trường quân sự này, dưới sự thao túng của Tưởng Giới Thạch, ngày một trở thành trường học bồi dưỡng những phần từ cốt cán phái hữu của Quốc dân đảng. Trường quân sự Hoàng Phố hoàn toàn đã bị Tưởng Giới Thạch khống chế. Công cuộc kinh doanh ở trường quân sự Hoàng Phố là một khoản đầu tư trọng đại của Tưởng Giới Thạch ở trên vũ đài chính trị Trung Quốc, cũng là một cuộc đầu cơ chính trị sản sinh ra ảnh hưởng to lớn đối với ách thống trị độc tài của Tưởng.
-------------------------------------
[1] Lược truyện danh nhân trường quân sự Hoàng Phổ - Dương Mục chủ biên, trang 13, 14, NXB nhân dân Hà Nam, tháng 3 năm 1986.
[2] Dân Quốc Cao cấp tướng lĩnh liệt truyện tập 1 trang 465, NXB giải phóng quân số tháng 3 năm 1988.
Phần 3
Chương 3
Tưởng Giới Thạch làm thế nào để nhận chức Tổng tư lệnh quân Bắc phạt.
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Tổng tư lệnh quân Bắc phạt, đó là một chức vụ mà Tưởng Giới Thạch rất đắc ý suốt đời, bởi vì nó đã lũng đoạn được đại quyền của Đảng, Chính phủ, quân đội và tài chính của Quốc dân đảng. Lẽ dĩ nhiên Tưởng Giới Thạch rất say mê và quyến luyến với chức vụ này. Hơn thế, Tưởng đã nhận định rằng chức Tổng tư lệnh ngoài ông ra thì không ai có thể nhận được nó, bởi công lao của hai lần Đông Chinh đủ để làm khiếp sợ bất kỳ đối thủ cạnh tranh nào. Thế nhưng để giành được chức vụ này Tưởng Giới Thạch vẫn phải dùng hết tâm cơ. Lẽ dĩ nhiên Tưởng Giới Thạch biết được, Bắc phạt là điều không thể không phạt, thế nhưng có một độ ông đã tảng lờ ra vẻ không nhiệt tình đối với việc Bắc phạt cho lắm.
Từ năm 1925 đến đầu năm 1926, khu vực Lưỡng Quảng đã kết thúc ách thống trị đen tối của Quân phiệt Bắc Dương. (Quân Phiệt Bắc Dương là tập đoàn quân phiệt đại biểu cho thế lưc phong kiến bắc phương vào đầu năm dân quốc (1912 - 1927) là sự kéo dài liên tục của thế lực phái Bắc Dương cuối Đời Thanh. Còn Bắc Dương là chỉ khu vực Phụng Thiên (Liêu Ninh), Trực Lệ (Hà Bắc), miền duyên hải Sơn Đông. Đặc biệt lập ra quan đại thần thông thương Bắc Dương do tổng đốc Trực Lê kiêm nhiệm. Thủ lĩnh đầu tiên của quân phiệt Bắc Dương là Viên Thế Khải, sau khi Viên chết phân thành mấy phái. Được sự giúp đỡ của bọn đế quốc, trước sau đã không chế được chính phủ Bắc Kinh lúc đó, trấn áp lực lượng cách mạng, bán rẻ chủ quyền đất nước, tiến hành nội chiến trong nhiều năm), chính phủ cách mạng và căn cứ địa cách mạng Quảng Đông được củng cố. Thế nhưng các thế lực phản động của quân phiệt Bắc Dương như Ngô Bội Phù, Tôn Truyền Phương, Trương Tác Lâm v.v.. đã liên hiệp lại, chuẩn bị Nam chinh, hòng dập tắt ngọn lửa Cách mạng ở phương nam. Đối mặt với khí thế hung hăng của bọn quân phiệt Bắc Dương, Chính phủ Quốc dân Quảng Châu quyết định giáng đòn phủ đầu xuất binh Bắc phạt. Tưởng Giới Thạch biết rõ, quân phiệt Bắc Dương đã bán đứng chủ quyền quốc gia cho nước ngoài, đối nội thì vơ vét tài sả của dân chúng, trấn áp cách mạng, tranh quyền đoạt lợi với nhau không ngừng phát sinh ra hỗn chiến. Nhân dân Trung Quốc đớn đau khổ cực, tiến hành cuôc bắc phat là việc đại sự của cả nước được lòng người, hợp ý dân, cũng có lợi cho việc đề cao địa vị của con người Tưởng mỗ. Tôn Trung Sơn qua đời đã một năm, Tưởng Giới Thạch đã đoạt được đại quyền của Đảng và quân đội Quốc dân đảng phải nên suy nghĩ tới đại nghiệp của Bắc Phạt.
Ngày mồng 3 tháng 4 năm 1926, Tưởng Giới Thạch chính thức nêu kiến nghị tiến hành Bắc Phạt trước ẹy ban Trung ương Quốc dân đảng. Thế nhưng trong khi dư luận về Bắc phạt vừa sôi sục lên thì bản thân Tưởng Giới Thạch lại tỏ ra như không để ý tới. Có một lần hội nghị thảo luận vấn đề quân đội tham gia Bắc phạt, Tưởng Giới Thạch bỗng nhiên mạo muôi nói bừa một câu: Phàm những kẻ tín ngưỡng bọn vô chính phủ và bọn Cộng sản đều phải rút ra khỏi quân đội. Bề ngoài đã tiến thêm một bước hạn chế đối với Đảng Cộng Sản Trung Quốc, ngấm ngầm bên trong còn có mục đích cá nhân của ông ta nữa. Đối với các tướng lĩnh tích cực chủ trương Bắc phạt, Tưởng Giới Thạch cũg tỏ ra một bộ mặt nghiêm nghị lạnh lùng. Lúc ấy, có hai người trong tay nắm giữ binh quyền, rất tích cực đối với việc Bắc Phạt. Một người là Lý Tông Nhân, một người là Lý Tế Thâm. Lý Tông Nhân là một tướng lĩnh nổi tiếng của quân đôi Quảng Tây. Sau năm 1907, lần lượt vào hoc các trường Tiểu học Đường lục quân Quảng Tây, trường lục quân cấp tốc Quảng Tây, sở Giảng tâp trường Tướng Quảng Tây, trong cuộc chiến tranh bảo vệ đất nước và bảo vệ phật pháp, đã lập được rất nhiều chiến công. Năm 1922, Lý Tông Nhân đã là Tổng tư lệnh quân Tự trị Đường số 2 Quảng Tây. Tháng 11 năm 1924, Lý Tông Nhân được Tưởng Giới Thạch bổ nhiêm làm quân đoàn trưởng quân đoàn môt lục quân Quảng ây, Lý đã liên lac với môt số người như Hoàng Thiệu Hồng, Bạch Sùng Hy v.v... lần lượt đã tiêu diệt quân đội của Lục Vinh Đình, Thẩm Hồng Anh, đã đánh bại được quân đội của Đường Kế Nghiệu, thống nhất Quảng Tây, là môt chiến tướng hăng hái sôi nổi trong quân đôi Quốc dân đảng. Ngày 10 tháng 5, Lý Tông Nhân tới Quảng Châu, tuyên truyền Bắc phạt ở khắp nơi. Trên hội nghị toàn thể Trung Ương Quốc dân đảng, Lý Tông Nhân khẳng khái hùng hồn cho rằng nhân lúc Tôn Truyền Phương chưa phụ họa theo Ngô Bội Phu nên kéo quân đánh lớn, sẽ rất có lợi đối với viêc đánh bại quân phiệt Bắc Dương. Quân cách mạng quốc dân nên mượn uy danh này thống nhất Lưỡng Quảng, nhanh chóng đánh bại. Diêp Khai Hâm phu họa Bắc quân. Lý Tông Nhân còn mấy lần đi tìm Tưởng Giới Thạch yêu cầu Tưởng nhanh chóng sắp đặt đại kế Bắc Phạt. Thế nhưng, cái mà Tưởng Giới Thạch trao cho Lý Tông Nhân là môt bô mặt lạnh lùng, thậm chí Tưởng còn nói với Lý Tông Nhân:
- Đức Lân Huynh, lần đầu ông tới Quảng Châu, có một số tình hình còn chưa hiểu rõ. Quảng Châu quá phức tạp, rất nhiều sự việc còn chưa làm rõ ràng, sao lại có thể bàn tới chuyện Bắc phạt được?
Tưởng Giới Thạch biết quân đội của Lý Tông Nhân đã đánh nhau với quân đội của Diêp Khai Hàm ở Hồ Nam rất ác liêt, rất có hùng tâm muốn dẫn quân Bắc phạt trước nên đã cố ý dội gáo nước lạnh lên đầu Lý Tông Nhân.
Một người khác nữa tích cực chủ trương Bắc phạt là Lý Tế Thâm. Lý Tế Thâm tốt nghiệp trường trung học Lục quân Hoàng Phố, học đường lục quân cấp tốc và trường sĩ quan quân tư phủ Bảo Đinh, trải qua huấn luyện chính quy có hệ thống, đã từng đảm nhiệm chức phó quan trưởng tham mưu trưởng, sư trưởng kiêm tham mưu trưởng trong quân chính phủ do Tôn Trung Sơn lãnh đạo. Trong số rất đông tướng lĩnh chủ trương Bắc Phạt, thái đô của Lý Tế Thâm dốc toàn sức lưc ủng hộ Lý Tông Nhân, thậm chí ông ta gào vang lên: Quân đoàn bẩy đã đẫm máu trong cuộc chiến, các quân đoàn khác cũng nên dốc lòng hưởng ứng cùng rầm rộ giúp đỡ. Lúc này Tưởng Giới Thạch chỉ cười nhạt. Tuy hội nghị toàn thể ban chấp hành Trung ương Quốc dân đảng quyết nghị Bắc phạt, thế nhưng Tưởng Giới Thạch vẫn cứ lạnh lùng như trước tỏ ra không mấy hứng thú với cuộc bắc phạt. Lý Tông Nhân và Lý Tế Thâm cảm thấy rất buồn bực, vô cùng thất vọng đối với thái độ của Tưởng Giới Thạch. Đồng thời họ cũng cảm thấy nếu không có sự giúp đỡ của Tưởng Giới Thạch về tổng tư lệnh quân cách mạng quốc dân và vị chủ tịch quân ủy này chỉ dựa vào sự bôn tẩu của hai người bọn họ, cũng khó có thể khiến cho quân Bắc phạt bước lên con đường chinh chiến được. Lý Tông Nhân và Lý Tế Thâm cuối cùng vẫn là người cộng sự nhiều lần với Tưởng Giới Thạch, họ cho rằng, để cử Tưởng Giới Thạch làm tổng tư lệnh quân Bắc Phạt thì có thể giải trừ điều bí ẩn không nhiệt tâm bắc phạt của Tưởng Giới Thách. Tức thì, hai họ Lý liền biểu thị ngay trước mặt Tưởng Giới Thạch, nếu lập tức cắt quân Bắc phạt, thì họ sẽ cùng tiến cử Tưởng Giới Thạch làm Tổng tư lệnh quân Bắc phạt. Điều mà Tưởng Giới Thạch đòi hỏi chính là câu nói này, chính là chiếc gậy chỉ huy này của một viên tổng tư lệnh quân Bắc phạt.
Ngày 5 tháng 6 năm 1926, Trung ương Quốc dân đảng chính thức ủy nhiệm. Tưởng Giới Thạch làm tổng tư lệnh quân Bắc Phạt, hơn thế còn được tổ chức xây dựng Bộ tổng tư lệnh quân Bắc phạt. Tưởng Giới Thạch vừa ý thỏa lòng. Sau khi lên làm Tổng tư lệnh quân Bắc phạt, thái độ với Bắc phạt hòan toàn khác hẳn trước. Ngày mồng 1 tháng 7, Tưởng Giới Thạch hạ lệnh tổng động viên Bắc phạt, phát biểu Tuyên ngôn Bắc Phạt, nêu ra mục tiêu rõ ràng: Tuyển định Tam Tương, sau đánh Vũ Hán hội sư Trung Nguyên, thống nhất Trung Quốc. Từ mồng 4 đến mồng 6 tháng 7, Tưởng Giới Thạch tổ chức hội nghị chấp ủy lâm thời trung ương Quốc dân đảng, thảo luận công việc cần phải làm trong việc Bắc Phạt. Tưởng Giới Thạch ra nhận chức chủ tịch ẹy ban thường vụ Trung ương Quốc dân đảng.Ngày mồng 7 tháng 7, Tưởng Giới Thạch đã đặt ra Đề Cương tổ chức bộ tổng tư lệnh quân Cách mạng quốc dân. Bản đề cương này quy định: Sau khi cuộc chiến tranh Bắc Phạt bắt đầu, các cơ quan quân sự, tài chính thuộc chính phủ quốc dân, đều phải chịu sự chỉ huy của tổng tư lệnh. Như vậy thì, Tưởng Giới Thạch đã tài tình khéo léo nắm chắc quyền quân sự, quyền tài chính của Quốc dân đảng vào trong tay mình. Ngày 9 tháng 7, Tưởng Giới Thạch tổ chức cử hành Đại hội tuyên thệ Bắc Phạt tại quảng trường Đông Hiệu, Quảng Châu bao gồm mười vạn người. Tưởng Giới Thạch đã phát biểu Lời tuyên thệ Bắc phạt, biểu lộ rõ ràng Quân đội ta dấy binh, cứu nước cứu dân, kêu gọi toàn quân Tuân thủ kỷ luật, phục tùng tự lệnh, Triệu người một lòng cùng lái con thuyền vượt qua mưa gió. Mặt giữa chiến sĩ ta cũng trả mối thù này !. [1] Đồng thời còn lần lượt phát biểu Thư gửi nhân dân toàn tỉnh Quảng Đông, Thư gửi các đồng chí binh sĩ, Thư gửi đồng bào ở hải ngoại. Bổ nhiệm Lý Tế Thâm làm Tổng tham mưu trưởng quân Bắc Phạt, Đường Sinh Trí làm Tổng chỉ huy tiền phương, dẫn tám quân đoàn của Hạ ứng Khâm, Đàm Diên Khải, Châu Bồi Đức, Lý Tế Thâm (Trần Khả Ngọc), Lý Phúc Lâm, Trình Tiềm, Lý Tống Nhân, Đường Sinh Trí v.v... chính thức xuất quân bắc phạt, trong tiếng khẩu hiệu hô vang Đả đảo bọn đế quốc ! Đánh đổ bọn quân phiệt, Xóa bỏ thế lực phong kiến !.
Tưởng Giới Thạch đã nhìn thấy đại xu thế Bắc phạt không thể không phạt, trước tiên đã nêu ra đề tài quân cách mạng quốc dân phải tiến hành Bắc phạt, sau đó đã lại đổi một bộ mặt khác, tỏ ra không mấy nhiệt tình, đưa Lý Tông Nhân và Lý Tế Thâm thông minh sáng suốt bước vào đám mây mù dày đặc mười dặm sâu Tưởng Giới Thạch muốn làm tổng tư lệnh quân Bắc phạt, thế nhưng cố ý lùi lại một bước, để cho Lý Tông Nhân, Lý Tế Thâm tích cực đi tuyên truyền Bắc phạt, hơn thế đã để cho họ chủ động đem chức hàm Tổng tư lệnh đưa tới. Loại ma thuật lấy ở trên bảo tháp, lại có thể danh chính ngôn thuận khống chế các quân phiệt khác. Điều bí mật này đã có thể nhìn thấy rất nhiều rất rõ ràng trong tiếng súng tiếng bom trong cuộc chiến tranh Bắc phạt. Lẽ dĩ nhiên, Tưởng Giới Thạch còn có thể tung ra rất nhiều đám hỏa mù mới nữa. Sau khi Tưởng Giới Thạch lên làm Tổng tư lệnh quân Bắc phạt thỉnh thoảng lại có những hành động bất thường, có khi ngay cả đến những tướng lĩnh cao cấp làm việc ở ngay bên cạnh Tưởng cũng không sao có thể hiểu nổi. Xin nêu ra mấy sự kiện dưới đây.
Một là việc kết nghĩa kim lan thân thiết với Lý Tong Nhân. Việc trao đổi thiếp lan phổ kết nghĩa anh em, đó là một loại phương thức kết giao đặc biệt độc đáo của người dân Trung Quốc. Trong thời Tam Quốc, việc kết nghĩa đào viên một hành động nổi tiếng của ba người Lưu Bị, Quan Vũ, Trương Phi, đã trải qua mấy ngàn năm nay vẫn được mọi người truyền tụng. Thời kỳ đầu Bắc Phạt, Tưởng Giới Thạch tổng tư lệnh sau khi duyệt binh ở trên sân trường lớn ngoài Đồng môn Trường Sa, bỗng nhiên đề xuất muốn kết nghĩa anh em khác họ với Lý Tông Nhân Quân đoàn trưởng quân đoàn bẩy. Lý Tông Nhân không biết thuốc bán ở trong hồ lô của Tưởng Giới Thạch là thuốc gì, nên không sao có thể dám bằng lòng được. Ai ngờ được Tưởng Giới Thạch đã viết xong thiếp Lan phổ sẵn sàng từ trước. Tưởng một mặt níu chặt tay Lý Tong Nhân, thân mật nói:
- Đức Lân Huynh nè, để cùng mưu đai nghiệp Bắc phạt hai chúng ta nên cùng đồng chí, tình thân thiết tựa đồng bào đồng tâm đồng đức, sinh tử cùng nhau.
Một mặt khác nhét thiếp lan phổ mà mình đã viết xong vào trong túi áo của Lý Tông Nhân. Trên tờ thiếp lan phổ viết lời thề của Tưởng Giới Thạch, ở mặt sau còn có chữ ký của Tưởng Giới Thạch và vợ là Trần Khiết Như. Trước mối thịnh tình Lý Tông Nhân khó từ chối, cũng phải bắt chước về hồ lô đưa tới một tấm danh thiếp lan phổ đưa tới cho Tưởng Giới Thach. Và như vậy Tưởng Giới Thạch và Lý Tông Nhân đã hoàn thành thủ tục pháp luật của việc kết nghĩa anh em. Tưởng Giới Thạch càng phóng tay trọng dụng Lý Tông Nhân trong cuộc chiến tranh Bắc phạt. Trên danh nghĩa quân cách mạng quốc dân tham gia chiến tranh Bắc phạt có tám quân đoàn gồm mười vạn người. Thế nhưng so sánh với quân phiệt Bắc dương, trên mặt số lượng vẫn ở vào thế xấu. Quân phiệt của Ngô Bội Phù chiếm cứ Hồ Nam, Hồ Bắc và Hà Nam, Thiểm Tây có hai mươi vạn người. Tôn Truyền Phương khống chế năm tỉnh đông nam có hai mươi vạn người. Trường Tác Lâm khống chế khu vực Hoa Bắc và Đông Bắc có ba mươi nhăm vạn người. Thế nhưng quân phiệt Bắc Dương mỗi người chiếm cứ một phương, lục đục hục hặc với nhau. Quân Bắc phạt quyết định sử dụng phương châm trước đánh Ngô Bội Phù, sau đánh Tôn Truyền Phương, sau nữa đánh Trương Tác Lâm, đánh phá riêng từng hường một. Thượng tuần tháng tám quân đoàn bẩy của Lý Tông Nhân, quân đoàn bốn của Lý Tế Thân, quân đoàn tám của Đường Sinh Trí liên tục tấn công rất nhiều thành phố như Trường Sa Hồ Nam v.v... men theo Bạc La Giang, đối địch với bắc quân của Ngô Bội Phù. Sau khi Tưởng Giới Thạch kết nghĩa anh em với Lý Tông Nhân, đã lập tức ra lệnh cho Lý Tông Nhân thống nhất quân đoàn 4 và quân đoàn 7, vượt mạnh qua Bạc La Giang mưu đồ chiếm đóng Vũ Xương trước các quân đội khác. Ngô Bội Phù, tên quân phiệt Bắc Dương, đã từng tạo ra thảm án mồng 7 tháng 2, trấn áp cuộc bãi công lớn của đường sắt Kinh Hán, tuy nắm giữ hai mươi vạn đội quân hùng hậu, thế nhưng từ sau khi Trường Sa thất thủ, có cảm giác sâu sắc rằng sức chiến đấu của quân Bắc phạt lớn mạnh, nhìn thấy đại quân của Lý Tông Nhân áp sát biên giới, lập tức quyết định quân đội từ các nơi gần cố thủ Bạc La Giang, lai điều động sự đoàn tinh nhuệ cản trở quân Bắc phạt. Lúc đó quân đội của Lý Tông Nhân sĩ khi đang mạnh chỉ dùng thời gian một ngày đã dễ dàng, nhẹ nhàng đột phá Bạc La Giang, bước thẳng tới cầu Thinh Tứ. Cầu Thinh Tứ, cầu Hạ Thắng là hai chiếc cầu bảo vệ Vũ Xương, Ngô Bội Phù đích thân soái lĩnh mấy vạn quân tinh nhuệ cố chết giữ lấy hai mảnh đất quan trọng này. Tại cầu Hạ Thắng, Ngô Bội Phù đích thân chỉ huy đội đại đạo và đội súng máy đốc trận, kẻ nào rút lui lập tức xử tử ngay. Ngô Bội Phù còn tay cầm đại đao, tự tay giết chết mấy chục tên lữ đoàn trưởng, trung đoàn trưởng rút lui, rồi đem đầu của bọn đó treo trên cột dây điện để thị chúng, dùng hành vi đó để cưỡng bức sĩ quan và binh lính kiên trì giữ lấy. Đối với hai mảnh đất quan trọng giữ vai trò rất chủ yếu và khó tiến công như vậy, Tưởng Giới Thạch không chịu động dụng quân đoàn một của mình, nhưng lại ra lệnh cho quân đoàn 4 của Lý Tế Thâm tới đánh chiếm cầu Thinh Tứ. Đội quân này, dưới sự xông đánh dũng mãnh của trung đoàn độc lập Diệp Đình, đã chiến đấu ác liệt suốt hai ngày hai đêm, đánh phá được cầu Thinh Tứ. Tưởng Giới Thạch lại để cho quân đoàn 7 của Lý Tông Nhân chủ công cầu Hạ Thắng. Quân đoàn 1 của Tưởng sẽ làm hậu thuẫn cho Lý Tông Nhân. Lý Tông Nhân dốc hết toàn bộ sức lực cống hiến cho người anh em kết nghĩa của mình. Quân đoàn 7 của ông ta chia làm hai cánh trái phải, cùng kề vai sát cánh tiến lên với quân đoàn 4. Bản thân Lý Tông Nhân cũng đích thân lao ra tiền tuyến đốc chiến, say mê chiến đấu suốt mấy chục giờ liền, cuối cùng đã đánh phá được cầu Hạ Thắng, bức thẳng tới dưới chân thành Vũ Xương. Lý Tông Nhân lại chỉ huy bộ đội trèo lên thang để đánh thành. Thế nhưng bởi thương vong quá lớn, liên tục đánh phá hai lần mà không hạ được. Ngày mồng ba tháng chín, Tưởng Giới Thạch triệu tập hội nghị đại Thành Nam Vũ Xương, ra lệnh nghiêm ngặt bắt buộc trong vòng bốn mươi tá tiếng đồng hồ phải hạ được Vũ Xương. Đồng thời với cái đó, Tưởng Giới Thạch đem sư đoàn hai của Lưu Trĩ điều lên đánh Trung Hiếu Môn, đồng thời còn treo giải thưởng: Ai trèo được lên tường thành Vũ Xương, sẽ quan được thưởng 200 đồng, binh sĩ được thưởng 100 đồng. Người đầu tiên tiến vào thành Vũ Xương được thưởng 300 đồng. Lúc này Lý Tông Nhân mới lĩnh ngộ được điều bí mật trong việc Tưởng Giới Thạch kết nghĩa anh em với mình. Cảm thấy rất bất mãn đối với Tưởng Giới Thạch, quân Bắc phạt tiến đánh hai tỉnh Hồ Nam, Hồ Bắc thuận lợi, Lý Tông Nhân đã lập được nhiều công lao. Những trận khó đánh nhất Lý Tông Nhân đã không hề do dự, thế nhưng chính trong lúc có thể dừng lại ngay trong ngày thì Tưởng lại điều dùng Lưu Trĩ. Vị tổng tư lệnh này quả thật là dùng binh chu đáo ! Sau hơn 10 năm, Lý Tông Nhân lại đã chỉ huy một trận cú chiến ở Đài Nhi Trang, cũng có liên quan đến người anh em kết nghĩa của ông ta.Hai là thể hiện tĩnh trong khi động. Bộ trưởng tư lệnh quân Bắc phạt tuy nhiên không giống Bush tổng thống nước Mỹ chỉ huy chiến tranh vùng Vịnh dùng nhiều thiết bị chỉ huy hiện đại như hệ thống máy tính điện tử, hệ thống C{3}I v.v.. thế nhưng đã có cảnh tượng người qua kẻ lại, điện báo điện thoại không ngừng chuyển quân, thật là một cảnh tượng bận rộn rối bời. Quân đoàn bảy của Lý Tông Nhân vượt qua sông Bạc La, khi phát khởi cuộc tiến công mạnh mẽ vào trận địa của Ngô Bội Phù bộ tư lệnh tỏ ra càng rối loạn. Theo lẽ thường tình Tổng tư lệnh Tưởng Giới Thạch nên ngôi trấn giữ bộ tư lệnh, điều binh khiển tướng, quyết định sách lược ta chiến, thế nhưng Tưởng Giới Thạch đã không như vậy, tiếng súng vượt qua Bạc La giang của Lý Tông Nhân vừa nổ, Tưởng Giới Thạch đã rời bỏ quân trang vũ khí mặc bộ quần áo ngăn để cưỡi ngựa nhẹ nhàng rời khỏi sở chỉ huy đi du chơi ở núi Nhạc Lộc. Núi Nhạc Lộc chính là một hòn núi nổi tiếng ở bờ tây Tương Giang thị trấn Trường Sa, là một trong bảy mươi hai ngọn của Nam Nhạc. Nam Nhạc Ký của Lưu Tống đã ghi chép: Nam Nhạc chu vi tám trăm dặm, Hồi Nhạn là đầu, Nhạc Lộc là chân. Trong núi màn biếc chập chùng, đẹp như ngọc giữa, từng từng xanh thắm, khe núi âm u. Từ thời Tây Hán tới nay rất nhiều văn nhân mặc khách đều lưu lại dấu tích ở trên núi Nhạc Lộc. Tưởng Giới Thạch đã tới thư viện Nhạc Lộc ở phía đông Nhạc Lộc Sơn, ngẩy đầu lềnnhin tấm biển đề Nhạc Lộc Thư viện do chính tay Tống Chân Tống viết, bằng nghe thấy từng loạt pháo nổ vang trời chuyển đất. Tưởng nghĩ bụng, Lý Tông Nhân, my chớ có coi thường quân đội của Ngô Bội Phù, ngoài miệng lại nói với bọn lính hầu cận ở xung quanh:- Đây là một trong bốn thư viện lớn của đời Tống, các danh nhân nổi tiếng như Trương Thức, Chân Hy đều giảng dạy ở đây, từ trước đến nay đã có tên Tiêu Tương Tru Tư. Khi nhìn thấy bốn chữ lớn Trung Hiếu Liêm Tiết khắc ở hai bên tường trái phải của tiền sảnh, Tưởng Giới Thạch bồng tình cảm xúc động nói:- Mấy trăm năm lại đây thư viện này đã trải qua binh đao khói lửa, nhiều lần đổ nát nhiều lần dựng xây, chỉ có chữ khắc Trung Hiếu Liêm Tiết trên đá là vẫn như xưa. Du hứng của Tưởng Giới Thạch ngày càng nồng đượm, Tưởng hết quan sát tiền sảnh lại xem xét bia dựng, tựa hồ như đã quên tiết mọi điều của chiến sự bắc phạt.Ra khơi Thư viên Nhạc Lộc, Tưởng Giới Thạch lại bước tới mộ Thái Ngạc ở bên trên suối Bạch Hạc. Thái Ngạc, vị thủ lĩnh tân quân rất có danh tiếng này, trong cuộc phát động khởi nghĩa Vân Nam, tổ chức hộ quốc quân tiến đánh Viện Thế Khải, rất được quốc dân ca ngợi. Tuy ông chưa được toại nguyện trong cuộc phát động khởi nghĩa vũ trang ở Hán Khẩu, thế nhưng thanh danh diệt Viên hộ quốc vĩnh viễn, không thấp hơn việc tổ chức một cuộc khởi nghĩa vũ trang. Tưởng Giới Thạch bước tới bên cạnh mộ Thái Ngạc cổ thụ chọc trời, phong cảnh hợp với lòng người đi dạo quanh một vòng phần mộ và bức tường xây bằng đá hoa cương, nghĩ tới oai phong hùng vĩ mà mình dựa vào tướng sĩ Bắc phạt, chẳng bao lâu nữa đã có thể bước lên thành Vũ Xương, trong lòng không ngăn nổi một dòng khoái cảm dâng trào.ở dưới chân núi Nhạc Lộc, tiếng súng nổ ùng oàng, cuộc chiến đấu ngày càng ác liệt. Bọn lính hầu cận đã mấy lần tỏ ý muốn để cho Tưởng Giới Thạch trở về bộ Tư lệnh. Thế nhưng, Tưởng Giới Thạch du hứng đang nồng, ngồi xe xông thẳng lên đỉnh núi. Từ xa đã nhìn thấy tấm bia mộ màu trắng như sữa hình bốn cạnh, Tưởng Giới Thạch đã nghĩ tới Hoàng Hưng, liền có ý muốn tới dạo chơi mộ Hoàng Hưng.Hoàng Hưng là một nhân sĩ nổi tiếng đã cùng một số người như Tôn Trung Sơn, Trương Thái Viênm v.v... tổ chức ra Trung Quốc đồng minh hội, đã từng đảm nhận chức tổng trưởng lục quân chính phủ lâm thời Nam Kinh, tiến đánh quân Viên với chức vụ tổng tư lệnh, sau khi ốm chết được quốc táng lại Nhạc Lộc sơn. Ngôi mộ Hoàng Hưng được đặt tại nơi rộng rãi trên đỉnh ngọn cao của núi Nhạc Lộc, vô cùng hùng vĩ, vô cùng trang nghiêm. Từ trên mộ đưa mắt nhìn, cảnh vật của Tương Giang, Trường Sa đều tận thu vào trong tầm mắt, thậm chí ngay cả hành tung của quân đội Lý Tông Nhân cũng đều nhìn thấy rất rõ. Khi Tưởng Giới Thạch nhìn thấy quân Bắc phạt đột phá Bạc La giang, chiếm được thành Trường Sa một cách thuận lợi, hứng thu du chơi đã hoàn toàn biến mất, Tưởng lập tức hạ lệnh trở về bộ Tổng tư lệnh.Tình huống chiến tranh, biến ảo khôn lường. Lý Tông Nhân dẫn quân đánh Trường Sa, chính là sự so sánh lực lượng toàn diện lần thứ nhất của quân Bắc phạt với quân đội Ngô Bội Phù, không thể vượt ra ba loại khả năng: Một là tốc chiến giành thắng lợi,hai là khổ chiến giành thắng lợi, ba là khổ chiến nhưng không giành được thắng lợi. Trước khi đánh, Tưởng Giới Thạch đã yêu cầu rõ ràng Lý Tông Nhân đánh Trường Sa, nếu thắng công lao lớn nhất đương nhiên phải là của Tổng tư lệnh tức là của ông ta. Nếu ở trên chiến trường xuất hiện những gì phiền phức, như những vấn đề khó khăn thuộc loại bảo đảm hiệu cần, điều binh tăng viện v.v.. Tưởng Giới Thạch biết rõ tám quân đoàn Bắc phạt quân là tám quả tim, mỗi cái đầu đều khó gọt cả, cho nên đã dứt khoát để cho Lý Tông Nhân tự mình điều độ, còn ông Tưởng thì an nhàn du chơi ở trong ngôi chùa cổ của núi rừng giữa lúc chiến trận đang chém giết. Như vậy, đã gạt bỏ được những phiền toái, lại không để mất đi phong độ đại tướng vị Tưởng Tổng tư lệnh của ông ta được. Đây chính là lời giải bí mật của việc Tưởng Giới Thạch du chơi Nhạc Lộc Sơn.Tưởng Giới Thạch tự biết rằng muốn nắm chắc được trái tim của Lý Tông Nhan quyết không phải là một việc dễ dàng. Sự việc kiểu như trong chiến trận mà lại bỏ đi du chơi Nhạc Lộc Sơn chỉ có thể diễn ra một lần. Khi quân Bắc phạt đánh tới chân thành Vũ Xương, Tưởng Giới Thạch lại thay đổi thủ pháp, đột nhiên mời Lý Tông Nhân cùng tới thành quách thị sát. Trong mưa súng bão đạn đánh thành ác liệt, Tưởng Giới Thạch ung dung trấn tĩnh, cử chỉ đường hoàng, ngay cả đến Lý Tông Nhân một vị chiến tướng như vậy cũng phải thầm bái phục Tưởng Giới Thạch rất có phong độ chủ soái ở trong tâm mình. Có thể nhìn thấy được sự dụng tâm khổ sở của Tưởng Giới Thạch tới mức độ nào !Ba là cố tình làm ra tư thái. Khi Đường Sinh Trí chỉ huy quân đoàn tám đánh chiếm Hán Khẩu, Hán Dương, Tưởng Giới Thạch đánh Vũ Xương đã lâu mà không thắng, Tưởng Giới Thạch lại bắt Đường Sinh Trí tới vây đánh Vũ Xương còn mình thì lại dẫn quân đi tấn ông Nam Xương.Nam Xương là một thành phố quan trọng do quân phiệt Tôn Truyền Phương đóng giữ. Trung tuần tháng chín, Tưởng Giới Thạch ra lệnh cho quân đoàn 2, quân đoàn 3, quân đoàn 6, quân đoàn 1 và quân đoàn 5, mỗi quân đoàn một bộ phận tấn công vào Giang Tây, rất nhanh chóng chiếm lĩnh được một số thị trấn quan trọng ở Cống Nam, thế nhưng đánh Nam Xương thì không mấy thuận lợi. Ngày mồng 4 tháng 10, Tưởng Giới Thạch lại một lần nữa hạ lệnh vây đánh Nam Xương, hơn thế còn đích thân tới đốc chiến ở Nam Môn khẩu, chỉ huy bắt ép quân đội lắp đặt thang dây leo lên thành. Thế nhưng cuộc chiến tranh ta địch, tình huống thiên biến vạn hóa, cộng thêm việc quân Bắc phạt bắt buộc phải quyết chiến, tham mưu trưởng hành dinh Bạch Sùng Hy không thực sự bằng lòng. Đêm ngày 12, giữa lúc quân Bắc phạt đánh thành gặp trắc trở, tư lệnh phòng vệ thành Nam Xương là Nhạc Tư Tuyên đột nhiên tổ chức một đội quân cảm tử đánh trồm vào quân Bắc phát. Đội ngũ hơn ba trăm người này tung hoành xông xáo ngang dọc, chỉ trong một đêm hầu như đã tiêu diệt toàn bộ quân đoàn 6 của quân đoàn Bắc phạt tới đánh thành nguy cấp đến nỗi Tưởng Giới Thạch phải kéo tay Bạch Sùng Hy ở trận địa, nói liên tục.- Làm sao bây giờ? Làm sao bây giờ?Khi bộ chỉ huy rút về bến xe Ngưu Hoàng ở gần Nam Xương, Tưởng Giới Thạch lại kéo tay Bạch Dùng Hy bắt đi dạo, trên đường qua một miếu nhỏ, trên bàn hương trong miếu đặt một ống quẻ. Tưởng Giới Thạch bắt Bạch Sùng Hy rút một quẻ. Bạch Sùng Hy chối nhường, bản thân Tưởng Giới Thạch đã rút một thẻ tre mời hòa thượng giải cho. Hòa thượng xem quẻ xong, nói:- Chiến sự đại cát đại lợi, nhất định sẽ thắng, thế nhưng cần phải đề phòng cần thận việc cắt đứt đường phía sau.Tưởng Giới Thạch yêu cầu Bạch Sùng Hy điều hai trung đoàn trung đội dự bị kéo tới gần bộ tư lệnh. Ngày hôm sau, một đơn vị quân địch từ trong thành Nam Xương theo đường hầm xông ra đánh úp bộ tổng tư lệnh. Do vì Tưởng Giới Thạch đã có sự điều động trước hai trung đoàn, bọn địch này đã bị tiêu diệt rất nhanh chóng. Bạch Sùng Hy thẩm vấn ý đồ đánh úp của tên sĩ quan bị bắt làm tù binh, hắn trả lời:
- Cắt đứt đường phía sau!
Lời khai của tên tù binh lẽ dĩ nhiên là một loại trùng hợp khéo léo, Tư thái cố tình làm ra của Tưởng Giới Thạch lại có dụng ý sâu sắc của nó. Khi lâm nguy kéo tay tiểu Gia cát Bạch Sùng Hy liên tục hỏi Làm sao bây giờ, nếu qủa thực Bạch Sùng Hy có diệu kế, thì cũng chẳng ngần ngại mà không thử nêu ra cách tránh nạn. Nếu mưu kế của Bạch khó có thể lui được quân địch, hoặc là vô kế khả thi thì Tưởng lại có thể dùng danh nghĩa của Tổng tư lệnh quở trách vị Bạch tham mưu trưởng này. Hơn thế, hành động này để cho Bạch Sùng Hy cảm thấy Tưởng tổng tư lệnh đối với ông ta đã hoàn toàn tín nhiệm. Sau khi rút thẻ quẻ ở trong miếu nhỏ đã điều động hai trung đoàn, nếu không có kết quả, thì chỉ là một mẹo vặt làm xiếc. Nếu có kết quả bởi dùng hai trung đoàn này, thì cũng để cho người ta cảm thấy ông ta chỉ huy bộ đội đã được thần linh ủng hộ. Mặc dù đây chỉ là một số thứ cũ rích, thế nhưng cũng đã lung lạc được rất nhiều trái tim của sĩ quan và binh lính quân Bắc phạt.Đây cũng là một điều bí mật giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh Bắc phạt của Tưởng Giới Thạch khi làm Tổng tư lệnh.
------------------
[1] Tuyển tập hồ sơ các vụ án trong lịch sử Trung hoa dân quốc (quyển hạ) trang 917, bản tháng 9 năm 1986 NXB Cổ tích Giang Tô.
Phần 3
Chương 4
Bí quyết giành thắng lợi trong đại thắng Trung Nguyên của Tưởng Giới Thạch
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Năm 1930 trên giải đất Trung Nguyên rộng lớn đã phát sinh ra cuộc đại hỗn chiến giữa các quân phiệt mới của Quốc dân đảng. Một bên của cuộc đại hỗn chiến này là Tưởng Giới Thạch, còn một bên là Diêm Tích Sơn Tổng tư lệnh hải lục không quân của Trung hoa dân quốc, với tám phương diện quân của quân phiệt Quảng Tây thuộc phái Diêm Phùng do phó tổng tư lệnh Phùng Ngọc Tường, Lý Công Nhân soái lĩnh. Phía bên này còn được sự giúp đỡ ủng hộ của Uông Tinh Vệ ở Vũ Hán, được sự lên tiếng ủng hộ của Phái hội nghị Tây Sơn, hầu như đã hình thành tập đoàn lớn chống Tưởng trên mặt quân sự và trên mặt chính trị, đã hình thành sự liên hiệp lớn trên mặt quân sự và chính trị.Trong một lần hỗn chiến quân phiệt này, với quy mô lớn nhất trên lịch sử Cận đại Trung Quốc tử thương trên 30 vạn người do qủy khiến thần sui, bên phía giành thắng lợi lại là Tưởng Giới Thạch. Chỉ trong năm tháng ngắn ngủi, quân đội của Phùng Ngọc Tường hầu như đã bị tiêu diệt hoàn toàn, Phùng tướng quân nuốt nước mắt lui về ở ẩn tại ven sông Phần Thủy {1}. Diêm Tích Sơn bị bức thủ tiêu bộ tư lệnh Lục, Hải, không quân, đánh điện tới buộc phải từ chức, co lại ở Sơn Tây, lúc phong thanh khẩn cấp còn không thể không rời khỏi Sơn tây tới Thiên Tân. Bộ đội thuộc Quảng Tây của Lý Tông NHân, Bạch Sùng Hy sau khi bị đòn đánh nặng nề không lùi về Quảng Tây. Số quân phiệt mới của Quốc dân đảng này từ đây đã mất hẳn thực lực mưu cướp chính quyền Trung Nguyên, quyết phân thắng phụ với Tưởng Giới Thạch. Từ đây vè sau, đại quyền về mặt Đảng, chính quyền quân đội, tài chính trong Quốc dân đảng của Tưởng Giới Thạch ngày càng được củng cố, không có một quân đội quân phiệt mới nào của Quốc dân đảng dám tranh giành với Tưởng Giới Thạch nữa. Tưởng Giới Thạch đã làm thế nào giành được thắng lợi trong cuộc đại chiến ở Trung Nguyên ?Muốn vạch trần điều bí mật này phải bắt đầu nói từ trò chơi quyền thuật trên vũ đài chính trị của Tưởng Giới Thạch.Tưởng Giới Thạch che dấu tung tích trong nhiều năm ở Thượng Hải, chơi bời nồng nhiệt với bọn đại lưu manh như Hoàng Kim Vinh, Đỗ Nguyệt Sênh v.v.. đã cảm thấy tác dụng quan trọng sâu sắc trong việc kéo bè kết đảng, lung lạc nhân tâm đối với việc phất lên con đường quan lại. Ngoài một bộ mặt công khai trên vũ đài chính trị ra, Tưởng Giới Thạch còn ngấm ngầm lôi kéo mua chuộc một số người. Bọn người này luôn luôn ở mọi nơi mọi chỗ, cung cấp mọi hành tung và các loại tình báo của những kẻ đối địch về chính trị của mình. Bàn tay đen này của Tưởng Giới Thạch còn vươn dài vào trong quân đội quân phiệt mới khác nữa. Do đó, Tưởng Giới Thạch một độ đã năm chắc rất rõ ràng tình hình quân đội của Phùng Ngọc Tường, Diêm tích sơn, Lý Tông Nhân. Số người này về sau đã phát triển thành tổ chức đặc vụ nghiêm mật Trung thống, Quân thống mà ai nghe thấy cũng kinh hoàng khủng khiếp chính là hai bàn tay đen của Tưởng Giới Thạch.Tưởng Giới Thạch do được sự ủng hộ của tập đoàn tài chính Giang Triết, túi tiền riêng của ông ta bao giờ cũng căng phồng hơn so với mọi người như Phùng Ngọc Tường. Tưởng Giới Thạch vơ vét tiền bạc của dân chúng chưa từng bỏ sót một xu nào. Thế nhưng ông ta cũng không hề ky bo bủn xỉn trong việc dùng tiền bạc mua chuộc nhân tâm. Các sĩ quan trung hạ cấp xuất thân từ Hoàng Phố khi chơi bạc hết tiền, không có tiền phát lương cho lính, liền trực tiếp tìm tới van xin Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch hỏi rõ nguyên do, chũng cũng nói thẳng không dấu diếm. Sau khi Tưởng Giới Thạch chửi bới chúng một thôi một hồi, liền viết một lá thư tay, do sở quân nhu cấp tiền cho. Đa số sĩ quan này liền không thay lòng đổi dạ đi theo Tưởng Giới Thạch. Những thư đoạn này của Tưởng Giới Thạch đương nhiên cũng có kẻ áp dụng lên bản thân của những ngưừoi như Diêm Tích Sơn.Tưởng Giới Thạch đã sớm có ý thức đề phòng cảnh giác đối với bọn quan phiệt mới. Khi kết thúc Bắc phạt Phụng Trương, Tưởng Giới Thạch đã từng triệu tập các sĩ quan quân đội tốt nghiệp trường quân sự Hoàng Phố ở Bang Phụ để huấn thị, còn phát cho mỗi người một tờ giấy trắng yêu cầu mỗi người viết rõ lên trên tờ giấy trắng đó một trong hai thái độ Quân phiệt đã bị đánh đổ hoặc Quân phiệt chưa bị đánh đổ. Khi đó chính là lúc Bắc phạt thắng lợi, mọi người vui mừng lộ ra trên nét mặt, liền đều viết lên mấy chữ Quân phiệt đã bị đánh đổ, để làm vừa lòng Tưởng Giới Thạch. Nào ngờ Tưởng Giới Thạch xem xong hầm hầm giận dữ, nặng nề nói: Quân phiệt cố nhiên đã bị đánh đổ rồi, thế nhưng bọn quân phiệt mới lại phát triển lên. Chỉ có triệt để đánh đổ bọn quân phiệt mới thì mọi người mới có triển vọng.Đủ thấy, Tưởng Giới Thạch đã sớm có dã tâm tiêu trừ bọn quân phiệt mới như Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn, Lý Tông Nhân v.v..Tháng 5 năm 1930, Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường, Lý Tông Nhân chỉ huy trên sáu mươi vạn bộ đội đã giải ra chiến trường quyết một phen cao thấp với Tưởng Giới Thạch ở Tân Phố, Kinh Hán, Lũng Hải Tuyến. Tưởng Giới Thạch cũng không thể không điều quân đội ứng chiến trên tuyến Hà Nam, Sơn Đông. Mở đầu cuộc chiến tranh, Tưởng Giới Thạch hoàn toàn ở vào trạng thái bị động bị đánh. Quân đội của Phùng Ngọc Tường dùng tuyến Bình Hán, tuyến Lũng Hải làm chiến trường chủ yếu, quân đội của Diêm Tích Sơn lấy tuyến Tân Phố làm chiến trường chủ yếu, trước tiên đánh bại quân đội Lưu Trĩ của Tưởng Giới Thạch ở vùng Dân Quyền, Tây Lăng thuộc Dự Đông, đánh bại quân đội của Hàn Phúc Củ, Trần Điều Nguyện ở Sơn Đông, đánh bịa quân đội của Hà Thành Tuấn ở vùng Hứa Xương. Trong cuộc chiến đấu ở bến xe Quy Đức tập, Tưởng Giới Thạch đích thân chỉ huy tiền tuyến chỉ chút nữa đã bị bắt sống.Thế nhưng cuộc chiến tranh này rất nhanh chóng đã phát sinh ra sự biến đổi mang tính chất hài kịch. Ngày 15 tháng 6, khi Phùng Ngọc Tường chỉ huy quân đội chuẩn bị truy kích quân Tưởng ở trên tuyến Lũng Hải, đã không ngờ vấp phải sự tấn công của quân đoàn ba Hà Thành Tuấn của quân Tưởng. Khi Phàn Chung Tú tổng chỉ huy phương diện quân thứ tám chỉ huy quân đội tiến quân về phía Hứa Xương, đột nhiên bị máy bay của Tưởng Giới Thạch bắn bị thương, ít lâu sau thì chết. Phùng Ngọc Tường không thể không vứt bỏ việc truy kích mà rút lui về phía Tây. Diêm Tích Sơn cũng không lệ ngoại đã vấp phải đòn đả kích ngoài dự liệu của quân đội Tưởng.Hai viên sĩ quan tư lệnh từng qua chiến trận lâu dài này là Diêm Tích Sơn và Phùng Ngọc Tường một vạn lần cũng chẳng ngờ được, Tưởng Giới Thạch đã phá dịch được mã mật điện của họ. Đối với việc sắp xếp quân đội và động hướng của Diêm, Phung, Tưởng Giới Thạch đã nắm vững được rất rõ rằng. Những mệnh lệnh mà Phùng Ngọc Tường truyền đạt có khi quân đội của mình còn chưa nhận được Tưởng Giới Thạch đã sớm biết trước rồi. Điều này chẳng khác gì con bạc ở trên chiếu bạc, do vì đã biết trước được bài nọc của đối phương thì làm sao lại không thấy cho được!Đi theo việc sử dụng công cụ điện tín, mà số điện mật cũng đã bước lên ngôi nàh lịch sử để chỉ huy quân sự. Thế nhưng mã số điện mật lúc đó còn tương đối giản đơn, rất nhiều mật mã vốn đều là những chữ trong cuốn sổ đã ghi rõ mã rồi thêm mấy hàng mã ngang, mã dọc, đã được coi là một quyển mật mã rồi. Đem những chữ trong cuốn sổ đã ghi rõ mã rồi sắp xếp theo hàng khác, lại cộng thêm một tổ chữ số khác nhau, khiến cho mật mã ban đầu lại phát sinh những biến đổi khác nhau, chính là quyền mật mã tương đối phức tạp. Tưởng Giới Thạch đã phá dịch được mật mã của Phùng, Diêm, nói ra cũng còn một câu chuyện ly kỳ nữa.Đầu năm 1930, một người có tên là Thái Mạnh Kiên chịu sự sai phái của Tưởng Giới Thạch tới Bắc Bình để tìm hiểu nội tình quân đội của Phùng Ngọc Tường và Diên Tích Sơn. Khi Thái Mạnh Kiên đi qua Hứa Xương tới thăm hỏi một người bạn ở trong giới quân đội, tiện thể hỏi thăm điều tra tình hình của quân đội Phùng Ngọc Tưởng, ông ta còn quen biết với mấy vị nhà buôn của công ty cây thuốc lá Anh Mỹ ở Hứa Xương. Một hôm Phan Nghi Chi ở Quảng Tây nhận lệnh của Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường, với danh nghĩa là Tổng Giám binh trạm tới Hứa Xương thị sát. Toàn thể các sĩ quan và binh lính của doanh trại này đều đi nghênh tiền, chỉ có một mình Thái Mạnh Kiên lưu tại sở tham mưu. Chính trong lúc này tổng tư lệnh tiền phương của Phùng Ngọc Tường Lộc chung Lân cử người đi công tác đem tới một quyển mật điện mới phát ra. thái Mạnh Kiên vừa nhìn thấy trên quyển mật điện này còn ghi rõ phiên hiệu thông tin mật điện với nhau giữa các đơn vị quân đội, ngay lập tức dùng con dấu đóng ở trên bàn sở tham mưu, thu lấy quyển mật điện, cẩn thận dấu nó vào trong người lập tức rời khỏi Hứa Xương, vội vàng tới trụ sở của bộ tổng tư lệnh ở Đăng Sơn, lại dùng danh nghĩa của Trần lập phu tiên sinh đem quyển mật điện này giao cho phòng cơ yếu của tổng bộ. Tưởng Giới Thạch nhìn thấy cuốn sổ mã điện mật này như là bắt được của chí bảo, lập tức bắt điện đài dùng danh nghĩa của Bộ tổng tư lệnh quân địch điều khiển quân đội của Phùng, Diêm. Và như vậy, Phùng Ngọc Tường, Diêm Tích Sơn làm sao mà chẳng thất bại cho được? Sau sự kiện này, Tưởng Giới Thạch đã đặc biệt triệu kiến Thái Mạnh Kiên để khen thưởng chúc mừng.Đây chính là điều bí mật Tưởng Giới Thạch dự đoán địch như thần trong cuộc đại chiến Trung nguyên.Trong cuộc đại chiến này, Tưởng Giới Thạch còn đặc biệt không tiếc vàng bạc tiền của loại ma pháp này để mua chuộc và phân hóa đối phương.Khi đại chiến Trung Nguyên, trên thực tế Trung Quốc có ba chính quyền giành giật nhau. Một chính quyền quân phiệt mới Tưởng Giới Thạch lấy Nam Kinh làm trung tâm, họ chiếm hữu một bộ phận của Tô Hoản (An Huy) và toàn bộ Mân, Triết, đặc biết là được sự giúp đỡ của đế quốc Anh Mỹ và tập đoàn tài chính Giang Triết. Một chính quyền nữa là chính quyền Vũ Hán, trên mặt quân sự họ lôi kéo thế lực của Diêm Tích Sơn, Phùng Ngọc Tường, Lý Tông Nhân. Còn một chính quyền nữa là bộ phận cũ của Trương Tác Lân, quân đội của Trương Học Lương. Trong lòng Tưởng Giới Thạch hiểu rất rõ, trong khi ông ta kịch chiến ở Trung nguyên với Diêm, Phùng, Lý, thì lực lượng của Trương học Lương, vô luận đối với bên nào cũng đều có quyền uy cả. Cuộc đại chiến bùng nổ, Tưởng Giới Thạch đã giành nhiều thời gian về phía Trương học Lương.Trong cuộc tác chiến của Tưởng Giới Thạch, từ trước vẫn chú trọng dùng tiền bạc để mua chuộc những nhân vật mấu chốt của đối phương. Trong cuộc chíen tranh Tưởng Qúe từ một năm trước, Tưởng Giới Thạch đã sử dụng biện pháp Rút xương, Khoét tim, dọn đá để đối phó với Lý Tông Nhân và Phùng Ngọc Tường. Mở đầu cuộc chiến tranh, Tưởng Giới Thạch sử dụng thủ đoạn lừa bịp, đem Lý Tế Thâm chủ tịch chính phủ tỉnh Quảng Đông và tổng chỉ huy lộ quân thứ tám giam lỏng ở Thang Sơn Nam Kinh, phá tan liên minh Quảng Đông, Quảng tây, rút bỏ xương sọ của Quảng Tây. Tưởng Giới Thạch còn hứa với Phùng ngọc Tường, dụ dỗ khiến cho Phùng Ngọc Tường phát biểu tuyên ngôn tấn công Quảng tây, thúc đẩy sư đoàn trưởng quân đội Quảng Tây như Lý Minh Dương v.v...Quay súng chống lại ở ngay mặt trận, khoét đi mất bộ óc trái tim của Quảng Tây, còn khiêng dọn đi hòn đã tảng là Đường Sinh Trí tới đánh Bạch Sùng Hy. Do vì sử dụng những biện pháp này, tuy Tưởng Giới Thạch dùng binh không nhiều trên mặt quân sự, nhưng đã rất nhanh chóng đánh bại quân đội Quảng Tây.Khi Phùng Ngọc Tường nhận thức được bản thana mình đã bị Tưởng Giới Thạch lừa bịp, đã chỉ huy quân đội rút về phía Tây. Khi chuẩn bị tác chiến với quân đội của Tưởng Giới Thạch, Tưởng Giới Thạch đã mạnh mẽ ra tay trước, lấy danh nghĩa Tưởng Giới Thạch và Tống Mỹ Linh, mời Hàn Phúc Cử tới Vũ Hán, tiếp đãi rất thịnh tình, hơn nữa còn tặng một khoản tiền lớn mấy chục vạn cùng với chức vụ chủ tịch tỉnh Hà Nam, khiến cho Hàn Phúc Cử, một vị tướng lĩnh tự xưng là trung thành với Phùng Ngọc Tường đã đưa quân đội từ Thiểm Châu kéo tới Lạc Dương, rời bỏ Phùng Ngọc Tường, đầu hàng Tưởng Giới Thạch. Tưởng Giới Thạch còn dùng khoản tiền mấy chục vạn mua chuộc Thạch Hữu Tam, khiến cho Thạch Hữu Tam cùng Hàn Phúc Cử trong giờ phút gay go khẩn cấp đã quay súng chạy sang đầu hàng Tưởng. Mặc dù sau mấy năm Tưởng Giới Thạch lại hạ lệnh bắn giết Hàn Phúc Cử và Thạch Hữu Tam, thế nhưng việc quay súng đầu hàng tại mặt trận của Hàn Phúc Cử và Thạch Hữu Tam, đã khiến cho Phùng Ngọc Tường vấp phải thất bại thảm hại. Tướng quân họ Phùng đã nhiều năm dày dạn trên chiến trường này đã đớn đau khóc lóc ầm ỹ. Thế nhưng vở kịch của Tưởng Giới Thạch vẫn còn chưa diễn hết. Để ngăn chặn sự liên hợp giữa Phùng và Diêm, Tưởng Giới Thạch lại đem chức vụ sĩ quan Tư lệnh trưởng biên phòng Tây Bắc vốn là thuộc về Phùng Ngọc Tường nay trao cho Diên Tích Sơn, khiến Dương Tích Sơn đã bắt Phùng Ngọc Tường đang thăm viếng Sơn Tây gảii tới huyện Ngũ Đãi. Trong tháng 9, Tưởng Giới Thạch còn cử Hà ứng Khâm đem giấy ủy nhiệm giữ chức phó tư lệnh Lục Hải khônmg quân đưa tóc trụ sở của Diêm Tích Sơn ở Thái Nguyên, mua chuộc Diêm Tích Sơn thêm một bước nữa. Có thể nhìn thấy rõ, Tưởng Giới Thạch đã nắm chắc mọi cơ hội dùng tiền bạc và địa vị để mua chuộc và phân hóa kẻ địch.Trong cuộc đại chiến Trung Nguyên, khi Diêm Tích Sơn đã trở thành đối thủ chủ yếu của Tưởng Giới Thạch rồi, Tưởng Giới Thạch đã quyết tâm lôi kéo Trương Học Lương về phía mình. Ngày 21 tháng 8, Tưởng Giới Thạch ủy nhiệm Trương học Lương làm phó tư lệnh Lục Hải không quân, địa vị ở trong Quốc dân đảng chỉ đứng sau Tưởng Giới Thạch.Việc thay đổi ngọn cờ ở Đông Bắc của Trương học Lương, công khai tuyên bố ủng hộ Tưởng Giới Thạch, chủi huy quân đội Đông Bắc nhập vào Quan, trong vòng mười ngày đã chiếm lĩnh được cả một vùng đất rộng lớn Bình Tân và Hoa Bắc. Diêm Tích Sơn và Phùng Ngọc Tường lần lượt dưới đòn đánh khép gọng kìm của Tưởng Giới Thạch và Trương Học Lương đã mau chóng tan rã thất bại.Một cuộc chiến tranh Trung Nguyên, quân phí mỗi tháng của quân đội Tưởng chi tiêu hết ba mươi triệu đồng, còn quân phí mỗi tháng cho hai quân đội to lớn hùng hậu của Diêm Tích Sơn và Phùng Ngọc Tường chỉ có mười triệu đồng.Chẳng trách được người anh em kết nghĩa và người đối thủ gia lý Tông nhân của Tưởng Giới Thạch đã phải thốt lên lời than vãn nói.- Tưởng tiên sinh trung thành trên chiến trường Trung Quốc mấy chục năm, những vũ khí mà ông ta dựa vào không ngoài mánh khóe dùng tiền bạc mua chuộc và phân hóa li gián. Nếu từ lập luận trên quan điểm thuần quân sự thì Tưởng tiên sinh quả thực đã không làm tướng của tướng cũng chẳng thể làm tướng của quân được ! [1]
.Lời nói này của Lý Tông Nhân tiên sinh đã vạch rõ những điều bí mật lấy ít thấy nhiều trong Đại chiến Trung nguyên của Tưởng Giới Thạch.
-------------------------
[1] Nghiên cứu Tưởng Giới Thạch Tập 3 trang 19 bản tháng 2 năm 1988 NXB Hoa Văn
Phần 3
Chương 5
Tại sao Tưởng Giới Thạch giăng cài lưới đen ?
Nguồn: Mọt sách
Thu gọn nội dung
Trên đầu phố Quảng Châu, theo sau tiếng súng nổ chói tai, ủy viên ban chấp hành Trung ương Quốc dân đảng Vương Lạc Bình đã ngã xuống trong vũng máu. Sau đó mấy ngày, khi bốn mơơi học sinh trường đại học Trung Sơn cũng bỗng nhiên mất tích.Đó là năm 1930.Lúc đó, chính phủ quốc dân đã từng tổ chức một lực lượng rất mạnh để điều tra phá án sự kiện án sát mấy lần này. Thế nhưng, thân thuộc của Vương Lạc Bình đã bị thất vọng, những công chúng chú ý theo dõi vụ án này cũng bị thất vọng. Những sự kiện ám sát kiểu này đã dần dần không thể cháy nhà ra mặt chuột được.Liền sau đó, một số nhân sĩ nổi tiếng trong và ngoài Quốc dân đảng như Dương Hạnh Phật, Sử Lượng Tài v.v... Đã lần lượt bị ám sát chết một cách thể thảm. Có một số vụ án gây chấn động cả nước đã từng do các nhân vật quan trọng trong Quốc dân đảng như Tưởng Giới Thạch v.v... xuất đầu lộ diện tổ chức trinh sát điều tra, nhưng rồi cũng đã lờ đi cho qua chuyện, cho dù là một số vụ án cực kỳ đơn giản, cũng thường thưòng là càng điều tra càng rối loạn, trướng sau không thể kết an công bằng được.Tại sao lại như vây? Số người này chết vì nguyên nhân nào? Những vụ án này vì sao không thể điều tra phá án được?Muốn vạch rõ được điều bí mật này, cần phải bắt đầu nói từ Phục Hưng Xã do Tưởng Giới Thạch tổ chức ra.Trên võ đài chính trị, Tưởng Giới Thạch đã coi quân đội, đặc vụ, tài chính là hòn ngọc qúy để củng cố ách thống trị phản động của ông ta, Phục Hưng Xã chính là một tổ chức đặc biệt vụ phục vụ cho ánh thống trị đen tối của Tưởng Giới Thạch.Con người Tưởng Giới Thạch này rất có hứng thú đối với ách thống trị độc tài Phát Xít và hoạt động đặc vụ, Tưởng coi hoạt động đặc vụ là một loại thủ đoạn quan trọng để đối phó với phải phản đối. Đêm hôm trước cuộc chính biến phản cách mạng 12-4 năm 1927, Trần Lập Phu làm bí thư ở bên cạnh Tưởng Giới Thạch đã bắt đầu mời chào một số kẻ phản bộ ở trong đội ngũ cách mạng và bọn lưu manh, bắt tay vào tiến hành hoạt động cách mạng, phòng điều tra thuộc ban tổ chức trung ương Quốc dân đảng, đều tiến hành điều tra theo yêu cầu xoay quanh ách thống trị độc tài của Tưởng Giới Thạch. Tháng 1 năm 1927, Tưởng Giới Thạch đã thành lập Lệ Chí Xã ở trong trường sĩ quan lục quân Trung Ương Đường Hoàng Phố Nam Kinh, đích thân đảm nhiệm xã trưởng, nghĩ ra trăm phương ngàn kế đem Lê Chí Xã làm thành một Cơ quan đặc vụ. Chỉ do vì điều kiện của các phương diện không thành thuộc, cho nên cách nghĩ này chưa được thực hiện, thế nhưng những hoạt động bám gót, bắt cóc, ám sát do Tưởng Giới Thạch gợi ý vẫn không ngừng diễn ra.Sau sự biến ngàu 18-9, Chính sách bán nước mà Tưởng Giới Thạch sử dụng không đề kháng đã kích động sự phẫn nộ của đông đảo quần chúng nhân dân, rất nhiều quần chúng đều tới Đảng bộ thành phố, Tỉnh của Quốc dân đảng đưa ra yêu sách chung, một số học sinh yêu nước còn kéo tới Nam Kinh kiên quyết yêu cầu Trung ương Quốc dân đảng và chính phủ quốc dân tác chiến với Nhật. Tưởng Giới Thạch bị bức đến nỗi không thể lẩn tránh được, không thể không đích thân xuất hiện nói chuyện với học sinh trong lòng càng bực bội càng cảm thấy cần phải lợi dụng tổ chức đặc vụ để trấn áp nhân dân, tăng cường ách thống trị độc tài của Tưởng. Sai khi Tưởng Giới Thạch dùng thủ đoạn lừa bịp để đối phó với những yêu sách chun của học sinh, lập tức triệu tập những lâu la của mìh tới răn dạy, nói nào là những học sinh tốt của ta đều đã chết rồi, lũ các người là đồ vô dụng, nhìn cách mạng của chúng ta sắp sửa thất bại rồi... Tưởng Giới Thạch từ trước tới nay vẫn lợi dụng phương pháp nhục mạ để bức đối phương phán đoán tâm lý của mình, lại nghĩ ra biện pháp để phù hợp với ý đồ của Tưởng. Số người vô dụng này qua nhiều lần bàn bạc, đã quyết định dùng một loại tổ chức đặc vụ lực hành xã. Cứu vong xã hoặc Phục hưng xã để duy trì ách thống trị độc tài của Tưởng Giới Thạch. Chủ ý này đã rất nhanh chóng được sự tán đồng của Tưởng Giới Thạch.Ngày 1-4-1932, Tưởng Giới Thạch đích thân chủ trì thành lập tổ chức đặc vụ Trung Hoa phục hưng xã, gọi tắt àl Phục Hưng xã. Bản thân Tưởng Giới Thạch đảm nhận chức vụ giám đốc Phục Hưng Xã, dưới Tưởng còn thành lập Bí thư cán sự thường vụ, Phòng giám sát và tổ chức thường vụ, phòng tuyên truyền, phòng huấn luyện, phòng đặc vụ v.v... và các tổ chức nhân sự. Các nhân viên trong tổ chức này chủ yếu là những học sinh đã tốt nghiệp ở trường quân sự Hoàng phố ra. Phàm những người tham gia vào tổ chức này đều cần phải tuyên thị, lời tuyên thệ là: tuân theo nội quy của bản xã, phục tùng mệnh lệnh của giám đốc xã trưởng, gìn giữ bí mật của bản xã. Nếu làm trái lời tuyên thệ này xin chịu sự trừng phạt nghiêm khắc nhất. Kỷ luật của Phục Hưng Xã chủ yếu có rất nhiều điều không được như là Không được chống lại mệnh lệnh, không được có tổ chức nhỏ, không đưựoc tiết lộ bí mật, không được hãm hại đồng chí v.v... vi phạm bất kỳ điều nào, đều có thể bị chặt đầu. Ban đầu thành lập phục Hưng xã, người nhập xã đều phải được Tưởng Giới Thạch phê chuẩn. Theo đà tổ chức đặc vụ không ngừng được mở rộng, Tưởng Giới Thạch mới đồng ý cho thành lập phân xã, các phân xã cũng có thể phê chuẩn những người trung thành với Tưởng Giới Thạch vào tổ chức.Muốn vạch rõ điều bí mật của việc ám sát, không thể không nói tới một con người tên gọi là Đới Lập. Đới Lập không phải là phần tử cốt cán đứng ra tổ chức trước nhất của phục hưng xã, thế nhưng về sau đã trở thành người chủ trì thực tế của tổ chức đặc vụ Quân thống Cục của Tưởng Giới Thạch. Mười ba vị thái bảo chuẩn bị tổ chức Phục Hưng Xã thông thường là chỉ Hạ Trung Hàn, Phan Hộ Cường, Quế Vĩnh Thanh, Trịnh Văn Nghi, Trinh Giới Dân, Lưu Kiện Quần, Lương Cán Kiều, Tiêu Tán Dục, Cát Vũ Khải, Đằng Kiệt, Khang Trạch, Đỗ Tâm Như, Hồ Tông Nam v.v... Đới Lập không ở trong số này. Đới Lập là người thị trấn Hiệp khẩu huyện Giang San tỉnh Triết Giang, khi che dấu tung tích ở Sở Giao dịch Thượng Hải đã quen biết Tưởng Giới Thạch, không lâu làm lính cần vụ cho Tưởng Giới Thạch. Sau khi Đới Lập chui được vào trong trường quân sự Hoàng Phố, học được một năm ở khoa Kỵ Binh khóa 6, tháng 8 năm 1927 tới giúp việc Hồ Tông Nam, nhậm chức sĩ quan phụ tá. Hồ Tông Nam cho rằng Đới Lập Có Dị tài liền tiến cử hẳn tới làm sĩ quan phụ tá cho Tưởng Giới Thạch. Khi thành lập Phục Hưng Xã, Đới Lập chỉ là cán sự dự bị của Hội Cán sự trung ương, trưởng phòng Phòng Đặc Vụ. Đoạn từng trải này của Đới Lập, trong tâm mắt các lão đại ca Hoàng Phố thì chẳng ai thèm để ý tới, đặc biệt là cán sự trung ương Trịnh Giới Dân, trong lòng chẳng chút nể phục, thế nhưng do vì Đới Lạo là người Triết Giang, cùng thuộc hệ thống Ala với Tưởng Giới Thạch. Đây là điều mà những người Quảng Đông như Trịnh Giới Dân v.v.. không sao so sánh nổi. Cộng thêm Đới Lập có dị tài, giỏi phụng mệnh ý chỉ của lãnh tụ, lo lắng cho nỗi khổ tâm của lãnh tụ, rất được Tưởng Giới Thạch yêu quý, Đới Lập cũng có thể thành đạt như diều gặp gió trong tổ chức đặc vụ, trở thành Tổng quản đặc vụ của Tưởng Giới Thạch, trở thành một nhân vật đặc biệt độc đáo dưới một người, trên vạn người của Tưởng Giới Thạch, một số yếu nhân trong Đảng và chính quyền Quốc dân đảng đề khiếp sợ Đới Lập nhiều bề.Năm 1935, Tưởng Giới Thạch đem các loại tổ chức đặc vụ của mình tập hợp lại, thành lập nên Cục thống kê điều tra của ẹy ban quân sự chính phủ quốc dân. Đới Lập đảm nhận chức vụ thiếu tướng trưởng phòng của phòng 2 cục này. Sau ba năm, Đới Lập thăng chức trung tướng Phó cục trưởng Cục Quân Thống,một lòng một dạ liều chết bán mình cho Tưởng Giới Thạch. Bộ thuộc của Đới Lập là Thẩm Túy đã từng nói:
- Đới Lập là con dao găm sắc nhọn đeo ở bên sườn Tưởng Giới Thạch, cũng là một con chó săn trung thành, hung ác, rất giỏi nắm bắt ý đồ của chủ, rất được Tưởng Giới Thạch quý mến ! [1]
Tưởng Giới Thạch rất cần thiết có một tên trùm sỏ đặc vụ kiểu như Đới Lập, cho nên đã dụng tâm bồi dưỡng Đới Lập. Do được Tưởng Giới Thạch tin yêu, Đới Lập đã không ngừng mở rộng tổ chức đặc vụ. Nhân viên đặc vụ dưới quyền Đới Lập rất nhanh chóng từ hơn ba ngàn người phát triển tới gần năm vạn người. Tổ chức nội bộ đã phát triển mở rộng tới hơn mười phòng, ban. Đới Lập còn thiết lập Ban nghiên cứu kỹ thuật đặc chủng chuyên nghiên cứu và chế tạo các loại thuốc độc, đoạn độc, dao độc, dụng cụ phóng hỏa, bom định giờ, địa lôi, các loại khí tài nổ v.v..dùng để đối phó với các Đảng phái dân chủ và những người cộng sản chống đối lại Tưởng Giới Thạch, tạo ra những hoạt động khủng bố. Có được con chó săn trung thành như kiểu Đới Lập, Tưởng Giới Thạch càng ngày càng điên cuồng thực hành ách thống trị độc tài Phát xít. ở trong Quốc dân đảng, phàm hễ cứ nghe thấy tiếng hô gọi Tưởng ủy viên trưởng, ủy tọa, lãnh tụ ...tất cả các nhân viên có mặt đều phải đứng nghiêm dậy !Bàn tay đen của tổ chức đặc vụ Tưởng Giới Thạch đã vươn ra rất dài, chủ yếu là ở trong hai lĩnh vực lớn nội bộ và ngoại bộ. Trong nội bộ Quốc dân đảng, vô luận là ở trong các cơ quan các cấp huy là quân đội Lục, Hải, Không quân và các đoàn thể xã hội, đều có những hoạt động đặc vụ của Tưởng Giới Thạch. ở trong quân đội các cấp Hải, lục, không quân, các loại nhà trường học viện quân sự và các loại cơ quan quân sự đều thiết lập phòng huấn luyện chính trị, sắp đặt các nhân viên công tác chính trị từ trung cấp trở lên, tuyệt đại bộ phận đều là người của Phục Hưng xã Họ chủ yếu phụ trách giám thị các sĩ quan tư lệnh quân đội và tình hình tư tưởng của các sĩ quan, phát hiện thấy tình hình khác thường thì sẽ báo cáo ngay lên nhân viên công tác chính trị cấp trên có thể báo thẳng tới Đới Lập, bộ đội chính quy hoặc tạp nham cũng đều như vậy cả. Theo yêu cầu của Tưởng Giới Thạch, ngoài những nhân vật cốt cán của Phục Hưng xã như Hồ Tông Nam, Hoàng Kiệt, Quế Vĩnh Thanh v.v... không cho phép các sĩ quan quân đội trực tiếp chỉ huy quân đội được tham gia Phục Hưng xã, để tiện cho các đặc vụ của Phục Hưng xã có thể bí mật theo dõi số sĩ quan quân đội này, như vậy sẽ có lợi cho sự khống chế quân đội của Tưởng Giới Thạch. Do đó, các sĩ quan quân đội từ trung thượng tầng trong quân đội Quốc dân đảng đều phải đặt dưới quyền giám thị của đặc vụ Tưởng Giới Thạch. Hễ phát hiện có lời nói và hành động không trung thành với Tưởng Giới Thạch thì sẽ có thể gặp tai họa bị giết chết ngay. Một số đặc vụ lục đục hục hặc với nhau, để đạt được mục đích cá nhân chúng đã vu cáo người khác, do đó đã khiến cho các sĩ quan quân đội suốt ngày hoảng hốt lo sợ, thường xuyên có người bị mất tích, có người bị ám sát. Các nhân viên công tác chính trị trong các nhà trường học viện quân sự chủ yếu là theo dõi học sinh. Hễ phát hiện những học sinh tư tưởng không ổn định hoặc có nghi ngờ thông đồng với Cộng sản thì do phòng huấn luyện chính trị lấy danh nghĩa là nhà trường đem nhốt lại, khai trừ, hoặc đem giao cho cơ quan quân pháp đem nhốt vào trại giam lục quân. Từ năm 1933 đến năm 1935, Phục Hưng xã còn thành lập hai tổ chức ngoại vi là Trung Dũng cứu quốc hội và Trung quốc văn hóa học hội Trung Dũng cứu quốc hội chuyên môn tiếp nhận các phần tử băng bí mật, ác ôn du ôn, lưu mạnh bất lương làm cốt cán. Trung Quốc văn hóa học hội thì dùng các hiệu trưởng, giáo sư đại học và những người có trình độ văn hóa làm cốt cán. Hai tổ chức ngoại vi này tuy không nghiêm mật chặt chẽ như Phục Hưng xã, thế nhưng đã khiến cho các hoạt động đặc vụ của Quốc dân đảng ngày càng điên cuồng lồng lộn.ở bên ngoài, tổ chức đặc vụ của Tưởng Giới Thạch chủ yếu coi trọng hoạt động tống tiền. Thời kỳ đầu của cuộc chiến tranh kháng Nhật, Tưởng Giới Thạch còn thành lập các cơ quan nhe Phòng giám sát cấm thuốc v.v.. thu nhập của việc cấm thuốc không nộp vào kho nhà nước, đều dùng làm phí đặc chi của cá nhân Tưởng Giới Thạch. Loại này trên danh nghĩa là cấm thuốc, còn trên thực tế là việc vơ vét của cải, Tưởng Giới Thạch đều để cho bọn đặc vụ của Phục Hưng Xã đi bắt bớ. Bọn đặc vụ này cầm lông gà làm lệnh tiễn, luôn muốn quấy đục nước để bắt cá, mưu đồ tư lợi từ bên trong, chúng thường tùy ý bắt người giết người, điên cuồng như vệ quân Đảng quốc xã Nazi của Hít le. Bắt cóc là một loại thủ đoạn quan trọng mà Tưởng Giới Thạch lợi dụng tổ chức đặc vụ để bức hại các nhân sĩ tiến bộ, bài trừ khác cánh với minh. Để củng cố địa vị thống trị của mình, khi Tưởng Giới Thạch cần phải hạn chế hành động của một số người, liền ra hiệu cho Đới Lập tiến hành bắt cóc người đó. Khi Tưởng Giới Thạch có mâu thuẫn với Hồ Hán Dân, đã hận tận xương tận tủy đối với người trợ thủ đắc lực của Hồ Hán dân là Lưu Lô ẩn. Sau khi Hồ Hán Dân chết, Đới Lập liền ra lệnh cho đặc vụ bí mật bắt cóc Lưu Lô ẩn đem về Nam Kinh. Khi người vợ nhỏ của Lưu Lô ẩn phát hiện ý đồ bắt cóc của mấy tên đặc vụ do Thẩm Túy dẫn đầu ở trên phố Thượng Hải, kinh sợ gào thét ấm lên. Bọn đặc vụ đã ngang nhiên đem cuộc bắt bớ bí mật biến thành cuộc đuổi bắt công khai, giải ngay Lưu Lô ẩn tới giam cầm ở Vũ Hán. Lúc đó, Tô giới của Anh Pháp ở Thượng Hải không cho phép nhân viên chính phủ Quốc dân đảng tùy tiện tiến vào bắt bớ cư dân. Đới Lập đã không tiếc tiền của đã dùng khoản vàng lớn mua chuộc bọn cảnh sát ở trong Tô giới, để cho đặc vụ và cảnh sát cùng hợp tác, bắt cóc các nhân sĩ có liên quan ở trong tô giới. Tại một số thành phố lớn dưới ách thống trị của Quốc dân đảng như Thượng Hải, Vũ Hán, Trùng Khánh v.v... hoạt động bắt cóc của Đới Lập hầu như không ngày nào dừng lại. ám sát, là một loại thủ đoạn Phát xít mà Tưởng Giới Thạch rất hay dùng, cũng là thủ đoạn mà Đới Lập ưa chuộng nhất. Để bài trừ những người khác cánh, ngăn chặn các lực lượng tiến bộ, Tưởng Giới Thạch thường ra hiệu cho Đới Lập điều khiển đặc vụ ám sát kẻ thù địch về chính trị và những nhân sĩ tiến bộ. Tại Thượng Hải, phu nhân của Tôn Trung Sơn tiên sinh là Tống Khánh Linh, vì để phản đối Tưởng Giới Thạch đã có những hành động bạo ngược miệt thị nhân quyền, sát hại dân chúng, bà đã cùng rất nhiều nhân sĩ tiến bộ tổ chức ra Hội đồng minh bảo đảm dân quyền Trung Quốc, vạch trần những hành vi phản động của Tưởng Giới Thạch, tuyên truyền tư tưởng cách mạng. Đối với việc này, Tưởng Giới Thạch đã hận tới tận xương tủy đối với vị quốc mẫu này, chỉ do vì ảnh hưởng xã hội của bà Tống Khánh Linh quá lớn, Tưởng không dám hạ độc thủ đối với bà đành phải phái cử một khối lượng đặc vụ khá lớn tới giám sát khu nhà ở của Tống Khánh Linh, đồng thời ra lệnh cho Đới Lập ám sát Dương Hạnh Phật, ủy viên chấp hành kiêm tổng cán sự của Hội đồng minh bảo đảm dân quyền Trung Quốc, hòng mượn việc này đe dọa Tống Khánh Linh. Đới Lập vốn muốn nhân lúc Dương Hạnh Phật đi cưỡi ngựa trên đường Đại Tây tới đường Trung Sơn tiến hành đánh lén, thế nhưng Tưởng Giới Thạch không đồng ý cách làm như vậy. Lúc đó, Khu nhà ở của Tống Khánh Linh ở gần vườn hoa thuộc tô giới nước Pháp, Tưởng Giới Thạch cho rằng Dương Hạnh Phật ở khu vực ngoài tô giới mà bị ám sát thì khó có thể đạt được mục đích khủng bố đe dọa Tồng Khánh Linh, lại suy nghĩ tới việc giết người ở trong khu vực quản lý của chính phủ Tưởng, sau sự việc khẳng định sẽ dẫn tới sự chỉ trích về các phương diện, không phá án thì sẽ mất thể diện, muốn phá án thì lại phải bắt bọn đặc vụ, do đó Tưởng đã kiên trì bắt Đới Lập phải động thủ ở gần tô giới Pháp. Vì sự kiện này, Đới Lập đã đặc biệt từ Nam kinh tới Thượng Hải đích thân bố trí. Buổi sáng ngày 18 tháng 6 năm 1933, khi Dương Hạnh Phật ngồi xe tới số nhà 331 đường Albe, bốn họng súng trường của bốn tên đặc vụ cùng bắn vào ông ta, trên thân ông ta đã bị hơn mười về đạn. Sau sự việc, Tưởng Giới Thạch đã vin vào lí do việc hung sát này xảy ra ở trong tô giới, nên không chịu trách nhiệm phá án, để đối phó với giới báo chí.Thông qua sự kiện này, bạn đọc đã nhìn thấy rõ bí mật của các sự kiện ám sát mà không được phá án từng phát sinh ra rất nhiều lần ở trong khu vực thống trị của Quốc dân đảng, đã nhìn thấy rõ những hành vi đáng sỉ nhục của Phục Hưng Xã.Tấm lưới đen Phục Hưng Xã do Tưởng Giới Thạch giăng cài đã tạo ra rất nhiều sự kiện ám sát chính trị gây trấn động xã hội, đã phạm biết bao nhiêu tội ác tày trời. Người chủ trì Thân báo Thượng Hải ông Sử lượng Tài do vì đã phát biểu bài Bình luận thời sự Tiếu phỉ trên Thân báo không lợi cho chính quyền của Tưởng, đã nêu ra quan điểm Bọn phỉ trong cả nước ngày nay, đều do sự thống trị đen tối tạo thành... Bọn phỉ đã bị tiêu diệt đâu có phải là những đồng bào lao khổ của chúng ta, đâu có phải là những dân lành cơ hàn quẫn bách cầu sinh bất đắc, đã bị Đới Lập bố trí đặc vụ tinh vi bắn chết ngay ở ngoại ô Hàng Châu. Có những trước tác nổi tiếng như Bí quyết then chốt của chiến tranh, Tôn tử Thiển dịch, Tổng tư lệnh học v.v... Dương Kiệt từng đảm nhận chức vụ hiệu trưởng trường Đại học Lục quân, phó tổng tham mưu Trưởng, đã bị ám sát tại lầu bốn số nhà 302A đường Xuannishi. Vị tướng lĩnh yêu nước nổi tiếng trong sự biến Tây An là Dương Hổ Thành, ủy viên Trung cộng tỉnh Tứ Xuyên là Xa Diệu Tiên, La Thế Văn v.v.. lấy cớ vin vào sự kiện cướp gạo bị chúng bắt giam, đã lần lượt bị ám sát ở trong trại giam. Tưởng Giới Thạch còn đưa bàn tay đen vươn tới một số người như Chu Ân Lai, Hà Tư Nguyên, Trương Trị Trung v.v... chỉ có điều là những âm mưu ám sát này chưa thành hiện thực.Tưởng Giới Thạch đúng là có ý đồ lợi dụng tổ chức đặc vụ lớn mạnh để trấn áp nhân dân, bài trừ những người khác phe cánh, để duy trì ách thống trị phản động của mình. Thế nhưng điều đó đã thực sự chứng tỏ sự suy yếu giả dối của chính quyền họ Tưởng. Những hoạt động đặc vụ ám sát tàn khốc nguy hiểm càng nhiều chỉ có thể càng kích động sự công phẫn của nhân dân Hít le và Môsulini đã từng có tổ chức đặc vụ vô cùng lớn mạnh đã bị sụp đổ. Tưởng Giới Thạch cũng đã bị bắt buộc phải từ chức hết lần này tới lần khác. Con dao găm sắc nhọn luôn ở bên cạnh ông Tưởng đó đã ngồi máy bay từ Bắc Bình tới Nam Kinh trên đường bay đã bị lao đầu vào Đới Sơn, thị trấn Bản Kiều huyện Giang Ninh chết mất mạng vào ngày 17 tháng 3 năm 1946.
-----------------------
[1] Vương Phủ Dân: Tưởng Giới Thạch truyện, trang 134, số 8 năm 1989 NXB kinh tế nhật báo.