Chiến tranh Đông dương 3 P9 Biên giới tây nam 1978-1979, trận chiến quyết định Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Sau trận tấn công của quân Việt nam vào sâu trong nội địa Campuchia cuối năm 1977, Campuchia cắt đứt quan hệ ngoại giao giữa hai nước, công khai hoá sự tranh chấp và tăng cường quân đội ở biên giới. Bị tố cáo là xâm lược, quân Việt nam phải rút về nước ngày 6-1-1978. Những sư đoàn 703, 301... của Campuchia từ các quân khu Tây Nam và Trung ương mới đến tăng cường bắt đầu cuộc thanh trừng nội bộ quân khu Đông. Vì thế, tình hình chiến sự ở vùng biên giới Tây Ninh tương đối lắng dịu một thời gian.
Tuy nhiên, ở biên giới cực nam, ngay từ đầu tháng 1, các đơn vị thuộc sư đoàn 2 và 210 của quân khu Tây Nam đã tấn công và chiếm đóng các xã Phú Cường, Khánh An, Khánh Hoà, Khánh Bình và các quận lỵ Hồng Ngự, Hà Tiên thuộc lãnh thổ quân khu IX Việt nam.
Phòng thủ biên giới quân khu IX là những dợn vị cơ hữu của quân khu, gồm các sư đoàn 4, 8, và 330, cùng những trung đoàn chủ lực tỉnh Hậu Giang, Đồng Tháp. Tư lệnh quân khu lúc đầu là Lê Đức Anh, tư lệnh phó Trần Nghiêm. Sau khi Lê Đức Anh thay Trần Văn Trà, Trần Nghiêm lên làm tư lệnh quân khu IX. Trong lúc đó mặt trận ở quân khu VII đang yên tĩnh, nên sư đoàn chính quy 341 do Vũ Cao tư lệnh đang ở Tây Ninh được điều động đến tăng phái cho quân khu. Với lực lượng này, và nhờ sự yểm trợ của không quân, pháo binh, thiết giáp, trực thăng võ trang..., sau hai tháng hành quân, quân khu IX đã tái chiếm được những lãnh thổ đã mất. Sư đoàn 341 trở lại nằm trong đội hình quân đoàn 4, trấn đóng phía tây và tây nam Tây Ninh. Trong mấy tháng đó, ở phía bên kia biên giới, cuộc thanh trừng nội bộ ở quân khu Đông ngày càng trở nên gay gắt.
Ngày 24-5-1978, quân đội của Ke Pauk thuộc quân khu Trung ương kéo đến bao vây tổng hành dinh của quân khu Đông tại Suông, bắt giam hết những sĩ quan chỉ huy. Một số đơn vị của sư đoàn 4 trốn thoát vào rừng và nhiều cuộc chạm súng đã xảy ra giữa những toán quân này và quân Trung ương. Trong số những lực lượng đồn trú tại quân khu Đông, sau cuộc thanh trừng, sư đoàn 4 coi như biến mất, các sư đoàn 3, 5, 280 bị suy yếu hẳn. Lợi dụng tình thế, giữa năm 1978, quân đội Việt nam được lệnh mở một cuộc hành quân mới tiến sâu vào lãnh thổ Campuchia để “mở rộng địa bàn, mở rộng hành lang liên kết với các lực lượng nổi dậy ở nhiều nơi, giúp đỡ lực lượng nổi dậy tạo thế và lực...” và quân đoàn 4 được lệnh “tiêu diệt sư đoàn 290, kiềm chế sư đoàn 3, phát triển đánh sư đoàn 703 ở Kompong Trách, mở rộng hành lang giúp lực lượng bạn nổi dậy”.
Ngày 15-6-1978, chiến dịch bắt đầu. Các sư đoàn 7, 9, 341 cùng các đơn vị yểm trợ lại tràn qua biên giới, chiếm một giải đất sâu vào trong nội địa Campuchia từ 10 đến 40 cây số, trong đó có quận lỵ Prasaut. Lúc đó là mùa mưa, Campuchia tăng cường thêm nhiều sư đoàn từ các quân khu khác đến để phản công. Từ Prasaut, quân Việt nam phải lùi về Chipru, và tới tháng 8, vì quân số hao hụt nghiêm trọng, Việt nam phải điều động thêm sư đoàn 2 từ quân khu V đến tăng cường cho quân đoàn 4.
Mùa mưa năm đó, trời bị lụt lội, hai bên giữ nguyên tình trạng dằng dai cho đến tháng 11. Trong mấy tháng đó, quân Việt nam đã giải thoát thêm cho một số binh lính và dân chúng của quân khu Đông đang trốn tránh, tăng cường cho một mặt trận giải phóng bù nhìn mà Việt nam mới thành lập
Cuối mùa mưa 1978, tại mặt trận phía bắc Tây Ninh, do Bộ tư lệnh quân khu VII phụ trách, sư đoàn 303 cơ hữu quân khu đang đồn trú ở Phước Long được đưa lên phối hợp với sư đoàn 5 và sư đoàn 302 để sửa soạn chiếm đóng thị xã Snoul, nơi Việt nam dự định dùng làm địa điểm cho lễ ra mắt của “Mặt trận đoàn kết dân tộc cứu nước Campuchia”. Snoul là một thị xã nằm trên ngã tư của quốc lộ 13 và quốc lộ 7, trước kia đã là một mật khu an toàn của Việt nam. Phòng thủ Snoul là sư đoàn 260 Campuchia.
Chiến dịch này bắt đầu ngày 13-11-1978. Vì lơ là trong những ngày đầu, trung đoàn 316 cùng trung đoàn 55 thuộc sư đoàn 303 Việt nam bị tổn thất nặng, nhưng nhờ ở quân số và hoả lực mạnh hơn, sau đó Việt nam cũng chiếm được Snoul, cùng với một đoạn đường của quốc lộ 7 trên đường đi tới Mimot. Chiếm được Snoul, Việt nam đưa sư đoàn 476 công binh đến khai quang một khoảng đất rộng trong vùng rừng núi gần đó, thiết lập khán đài, sửa soạn cho lễ ra mắt Mặt trận giải phóng Campuchia do Việt nam đỡ đầu.
Sáng ngày 2-12-1978, một đoàn xe vận tải chở khoảng hơn một ngàn dân tị nạn Campuchia tới địa điểm hành lễ để hoan hô và giăng biểu ngữ. Nơi đây, ba tiểu đoàn binh lính Campuchia thuộc lữ đoàn 778, đơn vị quân sự gồm toàn người Campuchia do Việt nam thành lập, đã đứng xếp hàng dàn chào. Xung quanh đó, bộ đội Việt nam, gồm có cả xe tăng và súng phòng không được bố trí bảo vệ. Buổi lễ được đặt dưới quyền giám sát của Lê Đức Thọ. Mười bốn Uỷ viên của Mặt trận dân tộc cứu nước Campuchia được giới thiệu, và Hiêng Samrin được cử làm Chủ tịch Mặt trận, kiêm nhiệm tư lệnh lữ đoàn 778.
Từ cuối tháng 11, khi mùa mưa chưa chấm dứt hẳn, sau khi đã ký hiệp ước thân hữu với Thái lan, Campuchia dồn 19 trong 23 sư đoàn cơ hứa ra biên giới phía đông, liên tiếp phản công và tái chiếm những vị trí đã mất dọc biên giới Tây Ninh, đồng thời cũng pháo kích và tấn công nhiều vị trí suốt từ Đức Cơ (Pleiku) tới Hà Tiên (An Giang). Quân Việt nam, bề mặt chỉ phản ứng một cách thụ động, nhưng bên trong, âm thầm chuẩn bị một cuộc tổng tấn công quyết định. Lương thực, đạn dược được ngày đêm chở đến biên giới. Quân đoàn 3 Tây Nguyên được tăng cường ở Pleiku, Ban mê Thuộc. Quân đoàn 2 Hương Giang từ Lào và quân khu IV được đưa xuống An Giang và Kiên Giang. Vì thiếu cơ phận thay thế, các phi cơ cũ A37 và F5 của không quân quân đội cộng hoà bỏ lại không được dùng đến nữa. Thay vào đó là những phi cơ MiG 21, trực thăng võ trang MI 24 do Liên xô mới viện trợ được đưa từ Hà nội và Đà Nẵng vào. Bộ đội được học tập để chuẩn bị cho cuộc chiến tranh xâm lăng và chiếm đóng, gồm có những bài học phương pháp giành thắng lợi trong cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam, “Chín điều quy định đối với lực lượng võ trang chiến đấu tại biên giới Tây Nam”, “Công tác địch vận”, và “Sáu điều kỷ luật về công tác dân vận quốc tế”.
Bộ máy chính trị và tuyên truyền của Việt nam lại nỗ lực hoạt động, lần này không phải chống đế quốc Mỹ, mà là chống “bọn bá quyền phản động Trung quốc và bè lũ Pol Pot, Ieng Sary”. Về sau, bị cô lập về ngoại giao, họ lại thêm “đế quốc Mỹ”, “bọn quân phiệt Thái lan” và “những thế lực phản động quốc tế” (là những nước đã lên án hành vi xâm lược của Việt nam) vào danh sách những kẻ thù để cho cán binh học tập. Cuối tháng 12-1978, quân đội Việt nam đã sẵn sàng.
Tuy Việt nam quyết định sẽ mở một cuộc tấn công quy mô trên toàn tuyến biên giới vào những ngày cuối năm, nhưng ngày giờ xuất phát từ Pleiku, Ban Mê Thuộc, Tây Ninh hay Hà Tiên không xảy ra đồng thời, và cho đến nay, ngoài Bộ chỉ huy đầu não của Việt nam hay Bộ tổng tham mưu quân đội, không ai biết chắc về mục tiêu ban đầu của cuộc tổng tấn công. Có lẽ mới đầu Việt nam chỉ muốn chiếm đóng phần đất phía đông sông Cửu Long, cố gắng giải thoát Sihanouk, đặt ông này vào chức vụ Chủ tịch Mặt trận để lãnh đạo cuộc chiến tranh lật đổ Pol Pot.
Vì thế, ngày 2-1-1979, một toán đặc công vượt sông Cửu Long đến Phnom Penh định bắt cóc Sihanouk. Toán đặc công này bị phát giác và tiêu diệt. Ngoài ra, sau khi đã chiếm được hết lãnh thổ phía đông sông Cửu Long của Campuchia ngày 4-1-1979, đà tấn công của quân Việt nam đã lơi đi trong nhiều tiếng đồng hồ, có lẽ để chờ đợi lệnh từ Hà nội. Một Uỷ viên trong Ban thường vụ Mặt trận giải phóng Campuchia là Chia Soth đã tiết lộ với tác giả Stephen Haden năm 1981 “Chúng tôi chỉ định chiếm phân nửa lãnh thổ bên này sông Cửa Long, còn nửa bên kia để lại cho Pol Pot”. Một Uỷ viên khác, Hùng Sa min cũng tiết lộ: “Nhưng rồi khi chúng tôi tấn công và truy kích, thấy dễ dàng quá, chúng tôi cứ tiến mãi”.
Tuy ở trong một tình thế kinh tế, chính trị và ngoại giao khó khăn, Việt nam tin tưởng vào khả năng quân sự và tuyên truyền của mình nên quyết định cuộc hành quân phải thần tốc để đặt dư luận thế giới vào một sự kiện đã rồi. Vì thế, họ đã huy động một quân số lên tới gần hai trăm ngàn quân, sử dụng hết ba trong bốn quân đoàn chính quy, và một lực lượng yểm trợ hùng hậu gồm đủ hải quân, không quân, thiết giáp, tên lửa... Lê Đức Thọ giám sát tổng quát cuộc hành quân. Lê Trọng Tấn được triệu hồi về Hà nội, có lẽ để giúp tổ chức phòng thủ biên giới phía Bắc. Lê Đức Anh được cử làm tư lệnh chiến dịch hay còn gọi là tư lệnh đội quân “tình nguyện”. Tuy cuộc tấn công chính thức bắt đầu vào đúng 12 giờ khua đêm Giáng Sinh năm 1978 khi Chu Huy Mân, Tổng Cục trưởng Tổng cục Chính trị bắn phát súng xuất quân tại Ban Mê Thuộc, nhưng trên thực tế trận đánh đã mở màn từ ngày hôm trước, khi sư đoàn 2 cùng trung đoàn chủ lực tỉnh Tây Ninh mở cuộc tấn công cố gắng đánh bật các trung đoàn 23 thuộc sư đoàn 304 và trung đoàn 13, sư đoàn 221 của Campuchia ra khỏi các vị trí dọc theo tỉnh lộ 13 sát biên giới.
Theo như kế hoạch, quân Việt nam tràn qua Campuchia bằng nhiều hướng. Trên vùng biên giới cao nguyên, các đơn vị của quân khu V, và quân đoàn 3 Tây Nguyên do tướng Kim Tuấn chỉ huy đánh dọc theo quốc lộ 19 và 14 tiến chiếm Stung Treng và lãnh thổ đông bắc Campuchia. Kim Tuấn đã từng là tư lệnh sư đoàn 320 B năm 1975. Quân đoàn 3 gồm các sư đoàn 10, 320, 31... đã có thể được các đơn vị Việt nam trú đóng bên Lào giúp đỡ.
Ngày 3-1-1979, quân Việt nam chiếm được Stung Treng. Mũi lấn công thứ hai xuất phát từ mặt bắc tỉnh Tây Ninh, gồm những sư đoàn cơ hữu của quân khu VII như sư đoàn 303, 302, 5, được tăng cường thêm một số đơn vị của quân đoàn 3 như lữ đoàn 12 thiết giáp, những trung đoàn chủ lực các tinh Tây Ninh Long An, Sông Bé, các trung đoàn 262 pháo binh, trung đoàn 26 thiết giáp, tiến quân dọc theo quốc lộ 13 và quốc lộ 7 tiến đánh Kratié và Kompong Cham. Hướng tấn công thứ ba là hướng tấn công chủ yếu do các sư đoàn 2, 7, 9, 341 của quân đoàn 4 cùng lữ đoàn 22 thiết giáp, lữ đoàn 24 pháo binh, lữ đoàn 25 công binh, xuất phát từ hướng tây và tây nam Tây Ninh, sau khi đã tái chiếm những vị trị trên tỉnh lộ 13, tiến dọc theo trục quốc lộ 1 về hướng tây, nhắm đánh bến phà chiến lược Neak Luong. Hướng tấn công này được coi như chủ yếu vì là con đường gần nhất đi tới Phnom Penh, và những sư đoàn trận đóng khu này được coi như những sư đoàn thiện chiến nhất của quân đội Campuchia.
Hướng tấn công thứ tư, ở phía nam, từ An Giang, Hà Tiên, được giao cho những lực lượng của quân khu IX và quân đoàn 2 hay binh đoàn Hương Giang mới được tăng phái từ quân khu IV. Binh đoàn này, do Nguyễn Hữu An tư lệnh, Lê Linh chính uỷ, gồm những sư đoàn chính quy 304, 306 và 325, nhưng sư đoàn 306 được giữ lại làm “nghĩa vụ quốc tế” bên Lào, cho nên binh đoàn được tăng cường thêm sư đoàn 8 của quân khu IX.
Cũng như tại mặt trận Tây Ninh, tại An Giang, quân Việt nam cũng chia quân tấn công hai hướng. Hướng thứ nhất do các sư đoàn 4, 330 cơ hữu của quân khu IX cùng các trung đoàn chủ lực các tỉnh An Giang Đồng Tháp... phụ trách, theo quốc lộ số 2 tiến về hướng bắc đánh về Phnom Penh. Hướng thứ hai gồm sư đoàn 32 và sư đoàn 8 tiến theo duyên hải về hướng tây đánh chiếm hải cảng Kompong Som, sư đoàn 304 được dùng làm trừ bị, cố thể được dùng tăng cường trong trường hợp quân đoàn 4 tấn công Phnom Penh gặp khó khăn.
Sau ba ngày tấn công, tại hướng chủ yếu Tây Ninh, quân đoàn 4 với sự yểm trợ hùng hậu của không quân, trực thăng võ trang, pháo binh, hải quân, thiết giáp... quân Việt nam đánh bật được quân Campuchia ra khỏi các vị trí Năm Căn, Hoà Hội dọc theo tỉnh lộ 13, và các đơn vị của các sư đoàn 703, 340, 221 của Campuchia phải rút về thành lập một tuyến phòng thủ mới tại Svayrieng. Nhưng sau khi bị đánh thua ở Tây Ninh, quân Campuchia đã bị mất tinh thần. Hơn nữa, khi phải chấp nhận một trận đánh quy ước với một địch thủ mà hoả lực, quân số và kinh nghiệm chiến trường trội hơn quá nhiều, quân Campuchia bị tan rã nhanh chóng, tuyến phòng thủ Svayrieng bị vỡ ngày 2-1-1979, và quân Campuchia lại phải rút về Preyveng và Neak Luong.
Quân Việt nam ráo riết truy kích bằng ba cánh quân. Sư đoàn 7 và sư đoàn 2 làm nỗ lực chính di chuyển theo quốc lộ 1 sư đoàn 9 tiến song song bảo vệ sườn phía nam, và sư đoàn 341 bảo vệ sườn phía bắc. Tới ngày 6-1-1979, những đơn vị đầu tiên của sư đoàn 7 chiếm được bờ phía đông của bến phà Neak Luong. Quân Campuchia trong khi rút lui vội vã đã không kịp thiết lập công sự phòng thủ. Đêm hôm đó, cách bến phà khoảng hai cây số về phía nam, trung đoàn 113 cùng trung đoàn 14 của sư đoàn 7 được tàu đổ bộ đưa sang bên kia sông, và tiến chiếm luôn bờ phía tây của bến phà.
Sáng sớm hôm sau, ngày 7-1-1979, toàn bộ đội hình quân đoàn 4 rầm rộ vượt sông. Do sự tan rã nhanh chóng của lực lượng phòng thủ biên giới và ước tính chủ quan của Pol Pot, con đường từ Neak Luong về Phnom Penh dài hơn năm chục cây số thênh thênh mở rộng, không có một lực lượng chống đối nào đáng kể. Quân Việt nam, với xe tăng mở đường, ào ạt tiến về Phnom Penh bằng xe vận tải.
Tới 11 giờ sáng ngày 7-1-1979 thì đơn vị đầu tiên của Việt nam vào đến Phnom Penh, lúc đó đã là một thành phố bỏ ngỏ. Những người duy nhất còn ở lại là Đại sứ Lào Kham pha Vilachit với vài ba nhân viên sứ quán. Tại hướng tây bắc Tây Ninh quân Việt nam phát xuất từ những vị trí đã chiếm đóng từ tháng 11-1978 ở Snoul và Mimot bắt đầu tấn công ngày 30-12-1978. Sư đoàn 5 và sư đoàn 303 tiến dọc theo quốc lộ 13 tiến về hướng bắc tấn công Kratié do sư đoàn 260 và 2 trung đoàn địa phương của đặc khu 505 phòng thủ. Trong cuộc tiến quân, hai tiểu đoàn 1 và 2 trung đoàn 316 sư đoàn 303 bị tập kích bất ngờ nên bị tiêu diệt. Trung đoàn này, cũng như trung đoàn 33, sau một tháng hành quân, quân số hao hụt mất một nửa. Tuy thế, nhờ lối đánh thí quân, bất chấp tổn thất, ba ngày sau quân Việt nam cũng chiếm được Kratié. Lúc đó, sư đoàn 302 tiến về phía tây đã chiếm được Kompong Cham. Sau đó, hai sư đoàn 302 và 303 cùng quay lại đánh chiếm thị xã Chhlong do sư đoàn 603 Campuchia chống giữ. Ngày 4-1-1979, họ chiếm được Chơlong. Kể từ lúc đó, toàn bộ lãnh thổ Campuchia ở phía đông sông Cừu Long coi như bị mất.
Tại mặt trận phía nam, quân Việt nam chỉ bắt đầu vượt biên giới vào ngày 3-1-1979, và từ An Giang, họ tấn công làm hai hướng. Sư đoàn 325 và sư đoàn 8 tiến về phía tây, dọc theo quốc lộ số 2. Ngày 9-1-1979 sau khi đánh tan được sư đoàn 230 Campuchia, họ chiếm được Kampot. Ngày hôm sau, với sự trợ lực của hải quân, cánh quân này chiếm được quân cảng Ram và hải cảng Kompong Som. Tuy nhiên, có lẽ vì không chuẩn bị kịp về tiếp liệu, quân Campuchia đã có thể phản công chiếm lại Kompong Som ngày 14.1 để rồi quân Việt nam lại tái chiếm vào ngày hôm sau. Hướng thứ hai, do quân khu IX phụ trách, tiến về phía bắc đánh chiếm hai thị xã Tan và Takeo. Các sư đoàn Campuchia trấn giữ quân khu Tây Nam như sư đoàn 2, 210, 230, 250, bị tan rã và rút lui vào rừng.
Tại phía bắc, các sư đoàn của quân đoàn 3 cũng tiến xuống Phnom Penh, sau đó sư đoàn 320 theo quốc lộ 4 xuống bình định các tỉnh phía nam. Các sư đoàn còn lại theo các quốc lộ 5 và 6 tiến về hướng tây và hướng bắc. Họ gặp sức chống cự đáng kể của quân Campuchia tại Battambang và Siem Reap. Cho tới cuối tháng 3, quân đội Việt nam coi như chiếm được hết những thành phố và tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia.
Sự thất thủ Phnom Penh ngày 7-1-1979 đánh dấu sự sụp đổ của chính quyền Pol Pot. Quân Việt nam đã không ngừng lại ở Phnom Penh và họ đã nhanh chóng tiến quân về phía tây. Trên đường tiến quân, họ bỏ qua những ổ kháng cự nhỏ của quân Khmer Đỏ. Chỉ trong hai tuần sau, quân Việt nam đã tiến sát tới biên giới Thái lan và chiếm đóng hết những thị xã lớn và những tỉnh lỵ quan trọng của Campuchia. Dù cho lực lượng hai bên có chênh lệch ngay từ đầu, sự sụp đổ nhanh chóng của quân đội Campuchia đã làm ngạc nhiên nhiều người, kể cả những cấp lãnh đạo chính trị và quân sự Việt nam. Vì thế mà họ đã không chuẩn bị kịp việc tiếp vận cho một địa bàn quân sự quá lớn. Nhiều xe tăng đã bị bỏ lại và bắn cháy trên đường tiến quân về hướng tây chỉ vì hết xăng giữa đường. Chiến thắng này cũng bất ngờ với 66 đại biểu Campuchia được Việt nam triệu tập đang họp ở Mimot ngày 5-1-1979 để bàn về việc thành lập một đảng cộng sản Campuchia mới. Đảng này lấy lại danh xưng Đảng Nhân dân cách mạng có từ thời 1951. Pen Sovan, một cán bộ Campuchia tập kết về Hà nội năm 1954, đang mang quân hàm thiếu tá trong quân đội Việt nam, được đề cử giữ chức chủ tịch đảng. Những Uỷ viên thường vụ của đảng gồm Hun Sen, Bou Thang, Chan Kiri, Heng Samrin và Chia Soth.
Ngày 8-1-1979, đài phát thanh Phnom Penh loan báo Phnom Penh đã được giải phóng bởi những lực lượng cách mạng và nhân dân Campuchia. Một Hội đồng cách mạng được thành lập do Heng Samrin làm chủ tịch. Khoảng mười ngày sau, Hội đồng này ký một hiệp ước với Việt nam, hợp thức hoá sự hiện diện của quân đội nước này trên đất Campuchia.
Đạt được chiến thắng quân sự, nhưng Việt nam bị thất bại về ngoại giao. Mười năm sau, dù đã bằng lòng rút quân khỏi Campuchia, Việt nam vẫn là một quốc gia về ngoại giao lẻ loi nhất thế giới. Chính quyền Heng Samrin, dù không tàn ác như Pol Pot, nhưng là một chính quyền bù nhìn, không được thế giới công nhận. Hai ngày trước khi Phnom Penh thất thủ, sau khi mất phần đất phía đông sông Cửu Long, do lời khuyên của Trung hoa, Pol Pot mời Sihanouk đang bị giam lỏng đến và nhờ ông đại diện Campuchia tại Đại hội đồng Liên hiệp quốc để tố cáo và lên án hành động xâm lăng của Việt nam. Ngày hôm sau, 6-1-1979, Sihanouk đáp chuyến máy bay Boeing 707 của Cục hàng không dân dụng Trung hoa cùng các nhân viên của hai toà đại sứ Trung hoa và Nam Tư di tản sang Bangkok. Vì thiếu chỗ, hai viên đại sứ đã phải nhường chỗ cho nhân viên rồi tự mình đi Battambang bằng đường bộ.
Sáng ngày 7-1-1979, tin về quân đội Việt nam đang vượt bến phà Neak Long gây rối loạn trong thành phố Phnom Penh. Toàn thể dân cư Phnom Penh, gồm toàn viên chức, cán bộ hay binh lính chỉ kịp rời thành phố bằng xe hơi hay xe lửa chạy về hướng tây khoảng một giờ đồng hồ, trước khi quân Việt nam kéo đến. Ieng Sary cũng ở trong đám người này. Còn Pol Pot, Ngon Chia, Khiêu Sam phan, Son Sen trốn vào mật khu. Bốn ngày sau, Ieng Sary mới tới biên giới Thái lan. Tại đây, Ieng Sary lên một máy bay của không quân Thái bay tời Bangkok, và từ đó, sang Bắc kinh.
Trong cuộc tiếp xúc với Ieng Sary ở Bắc kinh ngày 13-1-1979, Đặng Tiểu Bình không giấu được giận dữ. Ông ta trách cứ Khmer Đỏ đã đẩy chiến dịch thanh lọc hàng ngũ đi quá trớn. Ông cũng nhắc lại thí dụ cộng sản Trung hoa đã hợp tác với Quốc dân đảng trong chiến tranh kháng Nhật, và khuyến cáo Khmer Đỏ phải trọng dụng Sihanouk, tạm thời che giấu bản chất cộng sản, bắt đầu đề cao lòng ái quốc và chủ nghĩa quốc gia.
Campuchia bị mất, Thái lan trở nên một địa bàn chiến lược quan trọng để Trung hoa có thể giúp đỡ cho Khmer Đỏ tiếp tục chiến đấu. Ngay sau khi họp xong với Ieng Sary, Đặng Tiểu Bình bí mật cử Gừng Giao, Uỷ viên Bộ Chính trị, cùng Thứ trưởng ngoại giao Hàn Niệm Long sang Bangkok hội đàm với Thủ tướng Thái Kriangsak tại căn cứ không quân Utapao. Sau khi Việt nam liên minh với Liên xô và xâm lăng Campuchia, Thái lan không còn giữ thái độ trung lập được nữa, Kriangsak đồng ý để Trung hoa dùng lãnh thổ Thái lan tiếp tế cho Khmer Đỏ.
Trong khi đó, tại New York, sau gần mười năm vắng bóng trên chính trường; ông hoàng Sihanouk tái xuất hiện, đại diện Campuchia đọc diễn văn trước Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Trong một bài diễn văn cảm động, ông lên án cả hành động xâm lăng của Việt nam lẫn chế độ bạo tàn Pol Pot. Ông yêu cầu Đại hội đồng ra nghị quyết buộc Việt nam phải rút quân khỏi Campuchia. Dù được đại đa số đại biểu tán thành, nghị quyết này bị Liên xô phủ quyết. Sau khi dự Đại hội đồng, Sihanouk bí mật rời khách sạn, đến gặp đại sứ Hoa kỳ tại Liên hiệp quốc Andrew Young, yêu cầu được tỵ nạn chính trị.
Yêu cầu của Sihanouk đã gây ít nhiều khó khăn cho Hoa kỳ, vì Hoa kỳ mới thiết lập quan hệ ngoại giao với Trung hoa được có hai tuần và Đặng Tiểu Bình sắp sang thăm thân hữu Hoa kỳ. Do đó, Hoa kỳ tỏ vẻ ngần ngại. Trong khi đó, Pháp bằng lòng để Sihanouk định cư, nhưng lại cấm ông ta hoạt động chính trị. Người giúp giải quyết vấn đề tế nhị đó là Đặng Tiểu Bình. Ông ta thuyết phục Sihanouk là Trung hoa luôn luôn là bạn tốt của Sihanouk, và sẽ cảm thấy mất mặt nếu Sihanouk không chịu qua sống ở Trung hoa. Ông bảo đảm với Sihanouk quyền tự do đi lại, và hứa áp lực với Khmer Đỏ để hỏi thăm tin tức về những người con mất tích của ông. Cuối cùng Sihanouk đồng ý.
Trở lại chiến trường Campuchia, vì quân Việt nam tiến chiếm toàn lãnh thổ Campuchia quá nhanh chóng, nên quân Campuchia chỉ bị tan rã chứ chưa bị tiêu diệt hẳn. Nhiều đơn vị đã tập trung lại thành những đơn vị nhỏ, tiếp tục đánh du kích và quấy phá.
Sau khi quân đoàn 4 chiếm được Phnom Penh, các đơn vị của quân đoàn 3, quân khu V và quân khu VII cũng vượt sông Cửu Long tiến chiếm và bình định lãnh thổ phía bắc Biển Hồ và sông Tonlé Sạp. Quân Khmer Đỏ đã cố gắng kháng cự gần lỉnh Battambang nhưng cũng chỉ có thể làm chậm đà tiến quân của Việt nam vài ngày. Họ đã phân tán thành nhiều đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích. Tướng Kim Tuấn, tư lệnh quân đoàn 3 đã bị những nhóm du kích này bắn cháy trong thiết vận xa, Nguyễn Quốc Thước được cử lên thay. Quân đoàn 2 và các sư đoàn quân khu IX sau khi chiếm được vùng duyên hải cũng tiến dọc theo quốc lộ 4 về hướng bắc. Mấy ngày sau khi Trung hoa tiến đánh biên giới Việt Hoa, quân đoàn 2 rút về bảo vệ Hà nội. Việt nam bắt đầu tổng động viên, một số các trung đoàn độc lập được tăng cường và đôn lên thành cấp sư đoàn, như các trung đoàn Gia Định 1 và 2, Quyết Thắng 1 và 2, trở thành các sư đoàn 3 1 7, 3 1 8, để gửi sang tăng cường mặt trận Campuchia. Trách nhiệm chính trong công tác hành quân vẫn là các đơn vị của quân đoàn 4. Một phần vì đa số cán bộ cũng như binh sĩ những đơn vị này đã quen thuộc với địa thế chiến trường Campuchia từ thời chiến tranh Đông dương 2. Phần khác vì những vị trí và mật khu quan trọng của Khmer Đỏ đều nằm trong vùng trách nhiệm của quân đoàn 4 và các đơn vị quân khu VII.
Trận đánh quan trọng đầu tiên trong chiến dịch bình định diễn ra tại Kompong Speu, nằm trên quốc lộ 4 nối hải cảng Kompong Sọm với Phnom Penh, cách Phnom Penh khoảng 50 cây số Thị xã này, sau khi quân Campuchia di tản vội vã, đã do trung đoàn 10 thuộc sư đoàn 339 của Việt nam chiếm đóng. Nhưng ít ngày sau, các lực lượng còn lại của các sư đoàn 703, 340, 221 từ tuyến phòng thủ Svayrieng chạy về đã tập trung lại được và dự định tái chiếm thị xã. Được tin, bộ tư lệnh quân đoàn 4 điều động sư đoàn 341 đến tăng cường. Trận đánh bắt đầu ngày 21.1 đến ngày 7.2 mới kết thúc. Dù bị tổn thất nặng, quân Việt nam vẫn giữ được Kompong Speu, các lực lượng của 3 sư đoàn Campuchia bị tan rã, chỉ còn là những nhóm nhỏ hoặc tiếp tục đánh du kích, hoặc rút về biên giới Thái lan. Giữ vững được Kompong Speu, bảo đảm được giao thông trên quốc lộ 4, quân Việt nam tiến đánh căn cứ Amleng, nơi mà bộ chỉ huy quân sự của Pol Pot từ Phnom Penh rút về trú đóng. Căn cứ này nằm trong một vùng rừng núi hiểm trở, cách Phnom Penh khoảng 100 cây số đường chim bay về phía tây nam. Lực lượng tấn công gồm sư đoàn 2, sư đoàn 7, sư đoàn 9, sư đoàn 341 của quân đoàn 4, được tăng cường thêm sư đoàn 5 của quân khu VII. Vì lực lượng tấn công quá hùng hậu, quân Khmer Đỏ rút lui, bỏ mặc cho căn cứ Amleng bị tràn ngập, nhưng họ tìm đủ cách để gây khó khăn và tổn thất cho quân Việt nam khi họ rút lui khỏi căn cứ bằng đủ mọi phương tiện, hoặc phục kích, bắn tỉa, gài mìn, đốt rừng...
Chiếm xong được Amleng, quân Việt nam mở chiến dịch đánh chiếm thị xã Leach. Leach là một thị xã nhỏ nằm gần quốc lộ số 5 là con đường từ Phnom Penh đi B attambang, cách biên giới Thái lan khoảng tám chục cây số. Trước ngày 7-1-1979, Leach được Khmer Đỏ sử dụng làm căn cứ tiếp liệu. Ngay sau khi Phnom Penh thất thủ, khi quân Việt nam chưa có đủ thì giờ để chiếm đóng hết các vị trí, Khmer Đỏ dự định biến Leach thành một căn cứ phản công. Một phần lớn những lực lượng còn lại được tập trung tại đây. Tuy quân số mang tiếng là gồm nhiều sư đoàn (264, 210, 104, 502, 260, 460), nhưng trên thực tế, mỗi sư đoàn chỉ có chưa lới một ngàn binh sĩ. Lực lượng phòng thủ cũng có vài khẩu pháo 105 ly và vài xe thiết giáp. Để tấn công Leach, quân Việt nam đã sử dụng một lực lượng lớn và tấn công làm bốn hướng: Hướng thứ nhất, do sư đoàn 341 thay thế sư đoàn 330 đã bị hao hụt quân số quá nhiều khi giải toả quốc lộ số 5, đánh chiếm thị xã Pursat để từ đó đánh vào mặt bắc của Leach. Hướng thứ hai do sư đoàn 9 từ căn cứ Amleng mới chiếm được đánh vào phía đông. Hướng thứ ba do quân khu IX phụ trách được tàu đổ bộ chở đến tỉnh Kokong, rồi từ đó, tấn công mặt nam. Hướng thứ tư, do sư đoàn 3 1, quân đoàn 3, từ biên giới Thái lan theo tỉnh lộ 56 đánh ngược về mặt tây của Leach. Vì đây là một trận quyết định, nên trận đánh đã kéo dài trên một tháng. Tất cả các sư đoàn tham chiến đều bị tổn thất nặng. Cuối cùng, vì hoả lực thua kém, quân sốt, bị hao hụt mà không được bổ xung nên căn cứ Leach của Khmer Đỏ bị sư đoàn 9 chiếm được ngày 29-4-1979. Trận đánh tại căn cứ Leach là trận đánh có quy mô lớn cuối cùng trên đất Campuchia. Sau khi Leach bị mất, các đơn vị còn lại của Khmer Đỏ rút về các mật khu ở Pailin và Taxang sát biên giới Thái lan. Một số khác phân tán thành những đơn vị nhỏ tiếp tục đánh du kích. Các đơn vị quân sự của Việt nam bắt đầu phân nhiệm để hành quân bình định. Nhiều sư đoàn thiện chiến đã bị hao hụt nặng được rút về nước. Những sư đoàn tân lập được gửi qua tăng cường hay thay thế. Tuy nhiên, vì lòng thù hận và mối nghi kỵ lâu đời giữa hai dân tộc, vì thái độ hống hách của các cán bộ lãnh đạo chính trị và quân sự của Việt nam ở Campuchia, với sự giúp đỡ của Trung hoa và sự đồng tình làm ngơ của Thái lan, đội quân tan nát của một chính thể tàn bạo như Khmer Đỏ (còn khoảng ba chục ngàn quân) vẫn còn khả năng quấy phá. Chính quyền Việt nam, dù đang ở trong một tình trạng kinh tế tồi tệ, vẫn phải duy trì một đạo quân chiếm đóng lên tới khoảng hai trăm ngàn, và cho tới mười năm sau, sau khi quân Việt nam bị áp lực ngoại giao quốc tế và áp lực quốc nội buộc phải rút quân, Khmer Đỏ vẫn còn là một lực lượng đáng kể ở Campuchia.
Đánh đuổi được chính phủ Pol Pot trong một thời gian ngắn có thể coi như một chiến thắng quân sự của Việt nam. Nhưng sau chiến thắng, quân đội chiếm đóng Việt nam đã bị sa lầy, các nhóm nhỏ Khmer Đỏ vẫn tiếp tục phục kích, đặt ơnn, bắn sẻ, pháo kích, đặt chông... gây tổn hại nặng nề cho bộ đội Việt nam cả về nhân mạng lẫn tinh thần chiến đấu. Riêng tại mặt trận biên giới Tây Nam, đã có hơn năm chục ngàn thanh niên Việt hy sinh. Hàng chục ngàn thanh niên khác bị tàn phế. Sự hy sinh ấy được đánh đổi bằng sự sa sút về kinh tế, sự cô lập về ngoại giao và kết quả là mười năm sau, họ cũng phải rút quân khỏi Campuchia.
Tài liệu tham khảo:
- Binh đoàn Hương Giang, Sư đoàn Sông Lam, Đoàn Phước Long, Sư đoàn 7, Nhà xuất bản QuẤn đội Nhân dân, Hà nội.
- Brother Enemy, Nayan Chanda, Mac Millan Publishing Company, New York.
- Mặt Thật, Thành Tín.
Chiến tranh Đông dương 3 P10 Sơ lược lịch sử Trung hoa và những quan hệ với Việt nam Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Theo truyền thuyết, lịch sử Trung hoa bắt đầu từ khoảng bốn ngàn năm trước Tây lịch. Sau thời Bàn Cổ là những vua Phục Hy, Thần Nông, Hoàng Đế, Nghiêu, Thuẫn, rồi mới đến nhà Hạ, nhà Thương. Nhưng những giả thuyết về lịch sử vào thời thượng cổ này rất hoang đường, chẳng hạn theo đó vua Thần Nông làm vua một trăm bốn mươi năm, các vua Hoàng Đế, vua Nghiêu làm vua đúng một trăm năm. Những tài liệu về khảo cổ đào được ở Bắc kinh cho thấy triều đại quan trọng đầu tiên được xác nhận là nhà Thương, kéo dài từ năm 1766 đến 1027 trước Tây lịch. Chu Văn Vương sau đó diệt được vua Trụ lập ra nhà Chu. Trong thời đại này, chế độ phong kiến được củng cố. Trung hoa bị phân tán ra thành hơn bảy mươi nước nhỏ. Nhà Chu xưng vương, các nước lớn được phong tước bá, các nước nhỏ được phong hầu. Triều đại nhà Chu được chia làm hai thời kỳ. Tây Chu từ 1 122 đến 771 trước Tây lịch, và Đông Chu từ 771 đến 249 trước Tây lịch. Đông Chu lại được chia làm hai giai đoạn, Xuân Thu và Chiến Quốc. Thời Chiến Quốc, tuy Trung hoa vẫn còn bị phân tán và loạn lạc, nhưng đó cũng là thời kỳ mà xã hội Trung hoa đã nảy sinh những nhà tư tưởng vĩ đại nhất, cùng thời với Socrate, Plato, Aristotle... Ở Hy Lạp. Đó là Khổng Tử, Lão Tử, Mạnh Tử, Trang Tử, Tuân Tử, Hàn Phi Tử... những nhà tư tưởng đã góp phần tạo dựng nên nền văn minh Trung hoa. Sau thời Chiến Quốc, Tần Thuỷ Hoàng lần đầu tiên thống nhất được Trung hoa. Đó cũng là thời kỳ mà ở phương nam, An Dương Vương lập ra nước Âu Lạc, nền móng của Việt nam. Lên làm vua không bao lâu, Tần Thuỷ Hoàng sai Đồ Thư đem quân đánh chiếm đất đai của giống dân Bách Việt ở Quảng Đông và Quảng Tây. Muốn được yên, An Dương Vương xin thần phục nhà Tần. Tần Thuỷ Hoàng làm vua được khoảng bốn mươi năm thì chết, Trung hoa lâm vào cảnh nội chiến Hán Sở tranh hùng. Bốn năm sau, Lưu Bang diệt được Hạng Võ, lập nên nhà Hán. Lúc đó, Triệu Đà đã chiếm được nước Âu Lạc, đổi tên nước là Nam Việt, tuy độc lập nhưng ngoài mặt vẫn thần phục nhà Hán. Nhà họ Triệu làm vua được gần một trăm năm. Đến năm 111 trước Tây lịch, Hán Vũ Đế sai Lộ Bác Đức đem quân sang đánh Việt nam, quân nhà Triệu bị thua, và Việt nam bắt đầu bị chìm đắm trong gần một ngàn năm Bắc thuộc.
Trong giai đoạn Bắc thuộc đó, Trung hoa cũng trải qua nhiều triều đại. Hết Hán đến Tam quốc, Tấn, Lương, Trần, Tuỳ, Đường, Ngũ Quý... Trừ một số ít như Tích Quang, Nhâm Diên, đa số các quan lại và thái thú Trung hoa đều tàn ác. Thời đại nào người Việt nam cũng nổi lên chống ngoại xâm. Đầu tiên là hai bà Trưng, sau đó là bà Triệu, Lý Nam Đế, Triệu Quang Phục, Mai Hắc Đế, Phùng Hưng... nhưng tất cả đều bị thất bại, cho đến năm 939, Ngô Quyền đại tướng quân Nam Hán, mở đầu một kỷ nguyên độc lập và tự chủ cho Việt nam.
Năm chục năm sau khi Việt nam được độc lập, bên Trung hoa, nhà Tống đã kế nghiệp nhà Đường, lại đem quân sang đánh Việt nam, nhưng quân Tống bị Thập Đạo tướng quân Lê Hoàn đánh bại. ít năm sau, tể tướng Vương An Thạch nhà Tống lại định đánh Việt nam để lấy uy tín, nhưng vua nhà Lý đã cử Lý Thường Kiệt đem quân sang “tấn công tự vệ” trước, và chiếm được châu Khâm, châu Liêm trước khi rút quân về. Triều đại nhà Tống của Trung hoa kéo dài được ba trăm năm thì quân Kim từ quan ngoại kéo vào đánh chiếm bắc Trung hoa. Nhà Tống rút về phía nam lập ra nhà Nam Tống được có năm chục năm thì quân Mông Cổ vượt Vạn Lý Trường Thành kéo vào chiếm đóng toàn cõi Trung Nguyên. Lúc đó Thành Cát Tư Hãn đã chinh phục được Cao Ly cùng những tiểu quốc vùng Trung á và đã hai lần kéo quân đánh phá các nước châu Âu. Nhưng khi Hốt Tất Liệt sai con là Thoát Hoan hai lần đem quân đánh Việt nam, cả hai lần quân Nguyên đều bị đại bại. Vì quân Mông Cổ cai trị Trung hoa quá hà khắc, năm 1368, Chu Nguyên Chương, một ông sư hồi tục, hưng binh khởi nghĩa, đánh đuổi được quân Mông Cổ lập ra nhà Minh. Minh triều cũng có một thời kỳ cực thịnh, có những đội thương thuyền đi tới tận duyên hải Phi Châu. Năm 1406, nhà Minh lấy cớ Hồ Quý Ly thoán đoạt ngôi vua đem quân sang đánh Việt nam. Hồ Quý Ly bị giết, nhưng dân Việt nam, dưới sự lãnh đạo của Lê Lợi, nổi lên đánh đuổi được quân Minh và lập ra nhà Lê.
Năm 1644, triều đại nhà Minh suy tàn, trong nước Lý Tự Thành nổi lên làm loạn, chiếm được Bắc kinh. Vua Sùng Trinh thắt cổ tự tử. Tướng phòng thủ biên giới phía bắc là Ngô Tam Quế mở cửa Sơn Hải quan cho quân Mãn Châu vào dẹp Lý Tự Thành và cai trị Trung hoa. Trước dân số đông đảo của Trung hoa, quân Mãn Châu, khác với quân Mông Cổ, không dùng bạo lực để cai trị, mà trái lại dùng người Hoa, giữ nguyên hệ thống hành chính, duy trì nếp sống, tôn trọng Nho học. Họ mang quân chinh phục thêm Ngoại Mông, Thanh Hải, Tây Tạng. Lãnh thổ Trung hoa, hợp với đất Mãn Châu, trở nên to rộng nhất trong lịch sử Trung hoa (Ngoại Mông, sau này với sự giúp đỡ của Liên xô được độc lập và trở nên Cộng hoà nhân dân Mông Cổ) Nhà Thanh, cũng như những triều đại trước, lại đem quân mưu toan xâm lăng Việt nam. Nhưng quân Thanh vừa vào đến Thăng Long thì đã bị vua Quang Trung đánh tan. Triều đại nhà Thanh, với những vị vua sáng suốt như Khang Hi, Càn Long, đã đem lại sự ổn định và thịnh vượng cho Trung hoa trong một thời gian dài.
Nhưng sự ổn định và thịnh vượng đó càng làm tăng thêm cái định kiến “Đại Hán”, “con trời”, và “trung tâm thế giới” của họ. Vì thế nên khi những thế lực châu Âu tràn vào áp chế Trung hoa, họ đã quá vụng về và chậm chạp để thích ứng với những đổi thay. Cố gắng canh tân của vua Quang Tự chỉ kéo dài được đúng một trăm ngày. Sau đó Quang Tự bị Từ Hi quản thúc, Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi phải trốn qua Nhật. Triều đại nhà Thanh chấm dứt năm 1912 khi Phổ Nghi thoái vị, nhường chức cho Viên Thế Khải.
Cũng như ở Việt nam, trong một thời gian dài sau đó, Trung hoa bị chìm đắm trong chiến tranh chống ngoại xâm rồi nội chiến, và rồi cuối cùng, phe cộng sản chiếm ưu thế. Nhìn lại lịch sử hơn ba ngàn năm của Trung hoa, từ thượng cổ đến hiện đại, từ phong kiến đến cộng sản, ta thấy Trung hoa có hai đặc điểm: lòng tự cao và kiêu hãnh của một quốc gia lớn, có một nền văn minh lâu đời, và mối lo sợ bị những dân tộc lân bang dù nhỏ yếu hơn xâm lăng. Hai đặc điểm đó, thoạt xem có vẻ mâu thuẫn, nhưng đã khiến cho khuynh hướng bành trướng của Trung hoa lúc nào cũng tiềm tàng mạnh mẽ. Lòng tự cao của Trung hoa là một điều dễ hiểu. Trong khi ở châu Âu, từ buổi bình minh của lịch sử, các dân tộc Anh, Pháp, Ý, Đức, Nga... về dân số, văn hoá, kỹ thuật đều gần như tương đương. Trong một thời điểm nào đó, một trong những quốc gia đó có thể trở - nên hùng mạnh hẳn lên, nhưng theo thời gian, họ đều coi nhau như những đối thủ bình đẳng. Ngược lại, tại Đông Á, trong suốt hơn hai mươi thế kỷ, Trung hoa lúc nào cũng trội hơn bội phần về dân số, diện tích đất đai, văn hoá. Các dân tộc mà Trung hoa biết đến như Việt nam, Nhật bản, Cao Ly, Lào, Thái, Mông Cổ... đều là những dân tộc nhỏ yếu hơn. Với trình độ khoa học và hiểu biết địa lý hồi đó, họ mặc nhiên coi mình như trung tâm của vũ trụ, tự gọi tên nước là Trung quốc, triều đình gọi là thiên triều, vua là thiên tử, nhận mệnh trời không những để cai trị Trung hoa mà còn để nhận sự thần phục của các nước lân bang.
Tuy trong khoảng một trăm năm gần đây, Trung hoa đã trải qua nhiều thăng trầm, có những lúc bị liệt cường châu Âu xâu xé thảm hại, và thế giới cũng đã trải qua nhiều biến chuyển chính trị quan trọng, nhưng Trung hoa, với dân số đông đảo, đất đai to rộng, lịch sử một nền văn minh rực rỡ, có lẽ vẫn còn giữ nguyên quan niệm về vai trò đàn anh của mình, ít ra là với những nước trong vùng.
Như trên đã nói, tuy là một nước lớn, nhưng quốc gia nào cũng có những thời kỳ hưng thịnh hay suy tàn. Trung hoa đã luôn lo sợ bị các nước lân bang nhỏ yếu hơn xâm lăng. Từ hơn hai ngàn năm trước, mối sợ hãi “rợ Hồ” phương bắc đã trở nên một mối ám ảnh, khiến Tần Thuỷ Hoàng phải xây Vạn Lý Trường Thành dài hơn ba nghìn cây số để phòng thủ, nhưng trường thành này cũng không ngăn cản nối quân Kim, quân Mông Cổ, rồi quân Mãn Thanh đã tràn vào cai trị Trung hoa tổng cộng khoảng năm trăm năm, trước khi Trung hoa bị các cường quốc châu Âu và Nhật bản đến xâu xé thêm một trăm năm. Trung hoa chỉ có thể cảm thấy yên tâm sau khi đã xâm chiếm, sát nhập hay bất buộc các nước lân bang thần phục. Do tình trạng bất an đó, Trung hoa cứ mãi mãi muốn bành trướng lãnh thổ. Từ Trung Nguyên, Trung hoa đã sát nhập Thanh Hải, Tân Cương, Nội Mông, Liêu Đông, Hắc long giang... Diện tích lãnh thổ Trung hoa đã tăng gấp gần ba lần trong mười thế kỷ qua. Trong những năm gần đây, đảng cộng sản Trung hoa, trên con đường thực hiện giấc mơ thế giới đại đồng, vẫn không quên vị trí thiên triều cũ. Từ năm 1939, khi viết cuốn “Cách mạng Trung hoa và đảng cộng sản Trung hoa”, Mao Trạch Đông vẫn coi Việt nam như một nước chư hầu và đã viết “Sau khi đánh bại Trung hoa, các thế lực đế quốc xâm chiếm những nước chư hầu: Nhật chiếm Cao Ly, Đài loan, Ryukyu, Rescadores và Porl Arthur, Anh chiếm Miến Điện, Boutan, Hồng kông, Pháp chiếm An Nam...”. Năm 1953, họ tấn công và sát nhập Tây Tạng, trước kia là lãnh thổ bảo hộ, vào Trung hoa. Năm sau, họ in bản đồ quốc gia, trong đó lãnh thổ Trung hoa không những bao gom tất cả các quốc gia Đông Nam Á, mà còn lấn sang cả Ấn độ và Liên xô. Bản đồ năm 1973 của họ giành hết chủ quyền trên hầu hết các đảo trên biển Đông, cho nên ranh giới lãnh hải của họ đã chạy dọc theo bờ biển Việt nam xuống tới gần Indonesia và chạy dọc ngược lên gần đảo Lu-xong của Phillipines. Năm 1965, trong một buổi họp của Bộ Chính trị, Mao Trạch Đông đã tuyên bố: “Chúng ta phải lấy lại vùng Đông Nam Á, gồm Nam Việt nam, Thái lan, Miến Điện, Malaysia và Singapore... Gió đông sẽ thổi bạt gió tây khi chúng ta thâu hồi được toàn vùng Đông Nam Á”. Năm 1974, lợi dụng cuộc nội chiến ở Việt nam, họ chiếm quần đảo Hoàng Sa. Thời gian gần đây, họ mưu chiếm nốt Trường Sa.
Việt nam, sau một ngàn năm Bắc thuộc đã chịu nhiều ảnh hưởng của Trung hoa từ chính trị, kinh tế đến văn hoá. Tuy nhiên, dân tộc Việt vẫn duy trì được một số đặc điểm riêng, trong đó có tinh thần độc lập. ảnh hưởng của Nho giáo về trung quân ái quốc chỉ làm tinh thần yêu độc lập đó thêm mãnh liệt.
Đối với Trung hoa, Việt nam như một miếng mồi khó nuốt. ĐốI với Việt nam, Trung hoa là một thực tế. Đó là một quốc gia đông dân, rộng lớn, đồi dào tài nguyên và luôn luôn có tham vọng đất đai. Vì thế, Việt nam một mặt lúc nào cũng sẵn sàng đấu tranh giữ độc lập, mặt khác luôn chịu nhún mình về hình thức để tránh chiến tranh. Sau mỗi lần đánh bại quân xâm lăng Trung hoa, Việt nam đều trả tù binh, cử sứ giả qua cầu hoà và triều cống. Bắt đầu thi hành chính sách này là Thập Đạo Tướng Quân Lê Hoàn người đầu tiên đánh bại quân Trung hoa trong thời tự chủ, sau đó là Lý Thường Kiệt, Trần Hưng Đạo, Lê Lợi, Quang Trung, và được vua Lê Thái Tổ giải thích nếu mình muốn giết tù binh thoả cơn tức giận một lúc, mà chịu cái tiếng muôn đời giết kẻ hàng, thì sao bằng để cho muôn vạn con người sống mà khỏi được mối lo chinh chiến đời sau. Quan niệm này được thể hiện rõ hơn khi vua Quang Trung nói với Ngô Thời Nhiệm nay nhà Thanh đã bị ta đánh một trận, tất lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao”.
Tuy nhiên, trong khi kiên quyết chống lại mọi mưu toan thống trị của Trung hoa, Việt nam lại tìm cách áp chế các nước nhỏ láng giềng khác. Trong thời bình, các vua Việt nam cũng cư xử như thiên tử, bắt các nước nhỏ phải quy thuận và triều cống. Trong thời chiến, các vua Việt nam hưng binh chinh phạt, sát nhập đất đai. Cũng như Trung hoa, các vị vua Việt nam coi những vụ hưng binh chinh phạt đó như những hành động thay trời hành đạo, và việc đô hộ như một hành động khai hoá. Thái độ này được thế hiện trong bài ghi công vào bia đá của ông Nguyễn Trung Ngạn ca tụng việc vua Trần Minh Tông đi đánh Lào năm 1384”... Nước Lào nhỏ bé kia dám ngạnh vương hoá, cuối mùa thu năm Ất Hợi, vua thân đem sáu quân đi tuần cõi tây Thế Tử nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Tiêm La và tù trưởng các đạo mán đều mang phương vật tranh nhau đến đón rước...”. Những chi tiết của bài ghi công đó có thể đã được phóng đại thêm, nhưng đã thể hiện thái độ của triều đình Việt nam đối với các dân tộc nhỏ lân bang.
Quan hệ lâu đời như thế giữa Việt nam và Trung hoa tồn tại cho đến thế kỷ thứ mười chín, khi Việt nam và Trung hoa đều bị các cường quốc châu Âu dòm ngó.
Năm 1882, khi quân Pháp đem quân đi đánh Bắc Hà, vua Dực Tông vẫn thiển cận sai người sang cầu cứu nhà Thanh. Tuy rằng lúc đó nước Trung hoa đang bị Anh, Pháp, Đức, Nhật... xâu xé thảm hại, triều nhà Thanh vẫn còn nuôi ý định xâm chiếm Việt nam. Tổng Đốc Lưỡng Quảng Trương Thụ Thanh dâng mật sớ về triều nói rằng “Nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau, mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không có thể tự chủ được nữa, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ các tỉnh thượng du”, triều đình nhà Thanh nghe lời sai quân sang giúp Việt nam đánh nhau với Pháp. Quân hai nước đánh nhau được hai năm thì hai bên ký hoà ước trong đó Trung hoa chấp thuận rút quân và công nhận quyền bảo hộ của Pháp ở Việt nam. Hoà ước do Fournier và Lý Hồng Chương ký cũng phân định biên giới hai nước. Nhưng biên giới đó phần lớn chạy dọc theo những vùng rừng núi, được đánh dấu bởi những bia đá chôn cách nhau đôi khi đến năm mươi cây số, do đó rất mù mờ và rất dễ gây ra tranh chấp.
Sau khi triều đình nhà Thanh bị lật đổ, các phong trào đấu tranh giành độc lập của Việt nam cũng chịu ảnh hưởng hay có liên hệ với các phong trào cách mạng Trung hoa. Sau cuộc cách mạng Tân Hợi ở Trung hoa, ngoài Quốc dân đảng của Nguyễn Thái Học, các cán bộ đầu tiên của cộng sản Việt nam cũng lợi dụng chủ trương thân Nga của Tôn Dật Tiên để dùng đất Trung hoa làm địa bàn tổ chức và huấn luyện cán bộ. Những lớp học chính trị do Hồ Chí Minh tổ chức được các cán bộ cộng sản cao cấp Trung hoa như Bành Bái, Lưu Thiếu Kỳ đến dạy. Một số cán bộ Việt nam như Nguyễn Sơn, Lê Thiết Hùng, được gửi đi theo học trường võ bị Hoàng Phố. Các đại hội thành lập đảng, đại hội đảng lần thứ nhất đều được triệu tập ở Trung hoa. Trong những năm mà Quốc dân đảng Trung hoa còn mạnh, cộng sản Việt nam ở Trung hoa phải giấu chân tướng, ông Nguyễn Tất Thành ở Liễu Châu giả dạng làm người quốc gia, cặm cụi ngồi dịch cuốn Tam Dân chủ nghĩa, đổi tên Hồ Chí Minh theo tên của cán bộ Quốc dân đảng Hầu Chí Minh, và hết sức lấy lòng tướng Trương Phát Khuê, tư lệnh Đệ Tứ quân khu. Dưới quyền Trương Phát Khuê, có hai tướng Quốc dân đảng nhưng lại thân Cộng là Tiêu Văn và Ngô Trạch, nên các lãnh tụ cộng sản Việt nam được giúp đỡ và tự do hoạt động (Tiêu Văn năm 1949 ở lại lục địa đầu hàng Trung quốc, còn Ngô Trạch sau đó bị xử tử ở Đài loan)
Năm 1942, Hồ Chí Minh rời Liễu Châu, ra khỏi vùng trách nhiệm của Trương Phát Khuê thì bị bắt, Trung ương Đảng cộng sản Việt nam đã gửi một điện văn rất lễ phép và quỵ luỵ cho Tôn Khoa, Viện trưởng Viện Lập pháp Trung hoa như sau: “Đại biểu của chúng tôi là Hồ Chí Minh đi Trùng Khánh để dâng cờ tỏ lòng kính trọng Tưởng Uỷ viên trưởng, khi đi qua Tịnh Tây thì bị bắt, kính xin Ngài điện cho địa phương tha ngay”.
Hồ Chí Minh bị giam gần hai năm. Người can thiệp với chính phủ Trùng Khánh để xin tha cho Hồ Chí Minh là Nghiêm Kế Tổ, một cán bộ của Việt nam Quốc dân đảng, nhân can thiệp xin tha cho Nguyễn Tường Tam, đã nhân tiện xin luôn cho Hồ Chí Minh, nhưng thiện ý của Nghiêm Kế Tổ cũng không ngăn cản được việc cộng sản Việt nam tìm cách thanh toán hết những cán bộ Quốc dân đảng sau này.
Một năm sau, sau khi Hồ Chí Minh thành lập chính phủ ở Hà nội, quân Trung hoa kéo vào giải giới quân đội Nhật ở Bắc Việt. Để lấy lòng quân Trung hoa, Hồ Chí Minh một mặt tuyên bố giải tán đảng cộng sản Đông dương, thành lập chính phủ liên hiệp, bèn trong hối lộ Lư Hán và Tiêu Văn để chèn ép các đảng phái quốc gia. Những năm về sau Trung hoa chìm trong nội chiến Quốc Cộng, cộng sản Việt nam giành được chiêu bài kháng chiến, đã phải chiến đấu độc lập, vì lúc đó Liên xô đã đối xử với cộng sản Việt nam một cách thờ ơ, coi như không có.
Quan hệ giữa hai phong trào cộng sản Việt nam và Trung hoa bắt đầu gắn bó ngay sau khi cộng sản Trung hoa chiếm được toàn lục địa Trung hoa năm 1949. Việt nam muốn được sự giúp đỡ của Trung hoa, còn Trung hoa cũng muốn có một vùng trái độn an toàn ở biên giới phía nam, đồng thời cũng muốn tiếp tục giữ vị thế thiên triều và đàn anh cũ, nên đã hết lòng giúp đỡ cộng sản Việt nam về mọi mặt. Chỉ hai tháng sau khi cộng sản Trung hoa chiến thắng, Hồ Chí Minh đã cùng Trần Đăng Ninh đi Bắc kinh gặp Mao Trạch Đông xin giúp đỡ. Hồ Chí Minh được Mao hứa sẽ giúp đỡ toàn lực về mọi mặt chính trị, quân sự, ngoại giao.
Người đứng ra công khai phản đối đường lối cầu viện Trung hoa lại là tướng Nguyễn Sơn, tư lệnh Liên khu 4. Nguyễn Sơn từng theo học trường Hoàng Phố, là một trong mười tám tướng Hồng quân theo Mao chạy thoát tới Diên An. Năm 1945, Nguyễn Sơn bỏ Hồng quân Trung hoa về Việt nam, được bổ nhiệm tư lệnh Liên Khu Tư, thay Lê Thiết Hùng. Có lẽ dựa vào tư thế quân hàm tướng Hồng quân, ông là người duy nhất dám công khai bài bác Hồ Chí Minh, coi thường Võ Nguyên Giáp. Ông ta phản đối việc xin viện trợ của cộng sản Trung hoa có lẽ vì ông biết rõ về tham vọng bá chủ của Trung hoa. Nguyễn Sơn sau đó bị Hồ Chí Minh dèm pha và gửi trả về Trung hoa rồi chết ở đó.
Trung hoa đã tích cực giúp đỡ Việt nam ngay sau khi nắm chính quyền. Khi Hồ Chí Minh còn ở Trung hoa, Trung hoa công nhận chính phủ Việt nam dân chủ cộng hoà và can thiệp với Liên xô để Hồ Chí Minh được mời sang Moscow. Vì đây là lần đầu tiên được gặp thần tượng Stalin, Hồ Chí Minh đã rụt rè đến xin chữ ký. Vì bản tính đa nghi, ngay tối hôm đó, Stalin cho người đến lấy lại chữ ký của mình. Lúc đó, Liên xô không còn hy vọng đảng cộng sản Pháp sẽ thắng cử ở Pháp để lập chính quyền nên mới cùng các nước Đông Âu công nhận chính phủ của Hồ Chí Minh. Nhưng từ đó cho tới nhiều năm sau, Liên xô vẫn không dành cho Việt nam một sự giúp đỡ đáng kể nào.
Sự giúp đỡ lớn lao của cộng sản Trung hoa về tất cả mọi mặt trong những năm đầu tiên từ 1950, 1951... không những đã làm thay đổi cán cân quân sự của cuộc chiến tranh Đông dương thứ nhất mà còn gây nên một ảnh hường cực kỳ sâu rộng trong đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội... của tất cả những người dân Việt nam đang sống trong vùng Việt Minh kiểm soát, rồi từ đó lôi kéo đất nước vào một giai đoạn lịch sử sắt máu và đau thương triền miên. Có thể nói năm 1950 là năm đánh dấu một khúc quanh quan trọng trong lịch sử Việt nam, là năm cộng sản Việt nam vứt bỏ mặt nạ Việt Minh, là năm về quân sự, đi từ giai đoạn bảo tồn lực lượng sang giai đoạn cầm cự, và về chính trị từ phản đế sang phản phong, tức là truy tìm kẻ thù ngay trong nhân dân và hàng ngũ của mình. Sự chuyển biến đó đã in hằn dấu vết ảnh hường của cộng sản Trung hoa.
Trước hết, về quân sự. Sau khi được Trung hoa hứa hẹn sẽ viện trợ dồi dào, Ngoại thương vụ nhỏ bé của Việt Minh trước kia chuyên môn mua súng đạn lậu được giải tán, thay vào đó là một Tổng Cục hậu cần do Trần Đăng Ninh đứng đầu được thành lập để trực liếp nhận và quản lý hàng viện trợ của Trung hoa. Với sự giúp đỡ đó, quân đội kháng chiến đã trưởng thành và phát triển, từ một đội quân nhỏ bé chuyên đánh du kích thành một đạo quân hiện đại, bước sang giai đoạn cầm cự và vận động chiến. Đánh dấu cho giai đoạn trưởng thành này cũng như sự hợp tác chặt chẽ thân thiết giữa hai phong trào cộng sản về phương diện quân sự là chiến dịch biên giới Cao Bắc Lạng.
Biên giới Việt Hoa là một biên giới dài khoảng một ngàn bốn trăm cây số, nhưng chỉ có vùng biên giới từ Cao Bằng tới Lạng Sơn là quan yếu nhất. Dọc theo biên giới đó là quốc lộ số 4, đến đầu năm 1950 vẫn do quân đội Pháp trú đóng. Chiếm được quốc lộ 4 là có thể kiểm soát được Cao Bằng và Lạng Sơn, nối liền chiến khu Việt Bắc với hậu phương lớn Trung hoa. Để sửa soạn cho chiến dịch, đại đoàn 308 của Vương Thừa Vũ vượt biên giới sang Trung hoa, để được trang bị, huấn luyện thêm về truyền tin, công binh, pháo binh... biến thành cấp sư đoàn. Một trong ngũ hổ tướng của Trung hoa là Trần Canh được gửi sang ăn ở cùng nhà với Hồ Chí Minh bàn thảo kế hoạch. Công tác tiếp vận được giao cho Vi Quốc Thanh, một tướng Trung hoa gốc người Nùng. Sau khi được huấn luyện và trang bị, sư đoàn 308 trở về nước, lần đầu tiên dùng vận động chiến phục kích đánh tan hai binh đoàn lê dương Charton và Lepage ở Đông Khê. Bị cô lập, quân Pháp phải rút khỏi Cao Bằng và Lạng Sơn. Sau sư đoàn 308, các đại đoàn 304, 312, 316 của Lê Quảng Ba cũng được giúp trang bị và tổ chức thành những sư đoàn chính quy. Trường Lục quân Trần Quốc Tuấn được dời sang Vân Nam để các sĩ quan trung cấp Việt nam được các cố vấn Trung hoa huấn luyện về công binh, pháo binh, truyền tin... Họ được học về chiến thuật của Lâm Bưu như nhất điểm lưỡng diện”, “tứ khoái nhất mạn”. Chiến lược ba giai đoạn (bảo tồn chủ lực, cầm cự, tổng phản công), lấy nông thôn bao vây thành thị của Mao Trạch Đông cũng được Việt nam đề ra làm kim chỉ nam. Những sách của Mao Trạch Đông như Trì cửu chiến, Tân dân chủ luận cũng được Việt nam dịch và học tập.
Tuy nhiên sự giúp đỡ và ảnh hưởng của Trung hoa trong thời gian đó không những chỉ quan trọng về phương diện quân sự, mà còn quan trọng trong sự thay đổi bản chất của Đảng cộng sản Việt nam, và của quân đội Việt Minh. Song song với sự cố vấn và viện trợ quân sự của Trần Canh và Vi Quốc Khanh một đoàn cố vấn chính trị hùng hậu do La Quý Ba cầm đầu sang Việt nam để giúp Việt nam tổ chức đảng, chính quyền và quân đội theo khuôn mẫu cộng sản Trung hoa. Với hậu thuẫn Trung hoa, Việt nam không cần phải núp sau chiêu bài Việt Minh nữa, và bộ mặt thật cộng sản bắt đầu lộ diện. Tuy Đại hội Đảng vào tháng 3-1951 mới chỉ lấy tên đảng là Đảng Lao động Việt nam, nhưng ngay trong điều lệ đảng đã ghi rõ: “Đảng Lao động Việt nam lấy học thuyết Mác, Ăng ghen, Lênin và tư tưởng Mao Trạch Đông kết hợp với thực tế cách mạng Việt nam làm nền tảng tư tưởng...”. Ngoài việc học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, trong dịp đó, Việt nam cũng xác nhận vai trò lãnh đạo và đàn anh của Trung hoa trong điện văn gửi cho Đảng cộng sản Trung hoa “Đảng Lao động Việt nam nguyện noi gương anh dũng của Đảng cộng sản Trung quốc, học tập tư tưởng Mao Trạch Đông, tư tưởng lãnh đạo nhân dân Trung quốc và các dân tộc Á Đông trên con đường độc lập và tự chủ” (báo Nhân dân ngày 11-3-1951).
Dưới sự hướng dẫn của phái đoàn cố vấn La Quý Ba, Việt nam đã biến đổi một phong trào mang nặng tính cách quốc gia, dân tộc thành một phong trào cộng sản. Sự chuyển biến đó là một quá trình sắt máu. Đại đa số những người theo Việt Minh hồi đó phát sinh từ lòng yêu nước, và bao gồm đủ mọi thành phần. Trong số này, những người xuất thân từ những gia đình địa chủ hay đảng phái quốc gia bị thủ tiêu hay khai trừ ngay. Một số nhỏ, xuất thân công nhân hay nông dân, tương đối ít học, dễ bị uốn nắn khuyến dụ để trở nên cuồng tín. đa số còn lại, theo cộng sản một cách lãng mạn, lý tưởng, chưa từng thể nghiệm thực tế sắt máu trong đấu tranh giai cấp đều phải tham dự những lớp chỉnh Đảng”... Điều này được xác nhận trong nghị quyết về Chỉnh Đảng như sau: Hơn chín mươi phần trăm đảng viên thuộc thành phần gốc rễ nông dân và tiểu tư sản, tuy đã vào Đảng, được Đảng giáo dục một phần nào, và tự bản thân cũng có ít nhiều cố gắng, nhưng chưa gột sạch ý thức tiểu tư sản...”. Cũng trong nghị quyết này, vai trò lãnh đạo của cộng sản Trung hoa trong việc uốn nắn các đảng viên cộng sản Việt nam lại được đề cao.”... cho nên xây dựng Đảng cốt chính là một quá trình giáo dục, đấu tranh và cải tạo tư tưởng. Đó là đường lối Mao Trạch Đông trong vấn đề xây dựng đảng”.
Khi tham dự các lớp Chỉnh Đảng, học viên được thanh lọc, thường xuyên bị theo dõi, kiểm soát, phê bình và cuối cùng phải làm tờ phản tỉnh, tự lố cáo rồi nhận hết tội lỗi có thật hay tưởng tượng để chứng minh là mình đã lột xác, đã đầu hàng giai cấp và thành khẩn chấp nhận sự lãnh đạo tuyệt đối của Đảng. Với biện pháp vừa đe doạ vừa khuyến dụ, trong một hoàn cảnh bị áp chế cả về thể xác lẫn tinh thần, đa số các cán bộ Việt Minh cuối cùng cũng bị khuất phục. Điển hình cho sự hữu hiệu của phương pháp này, là những lớp Chỉnh Đảng ở trường Lục quân Trần Quốc Tuấn, nơi đào tạo những cán bộ chỉ huy quân đội. Dù những cán bộ theo học đã được tuyển chọn kỹ lưỡng, chính uỷ của trường là Trần Tử Bình cũng báo cáo về Trung ương là có đến hơn bảy mươi phần trăm học viên đã nhận tội có hành động chống lại đảng và nhân dân, một số đã tự tử. Dù cuồng tín đến đâu Trung ương đảng cộng sản Việt nam cũng biết điều đó quá đáng, và phải cử Tổng Cục trưởng Tổng Cục Chính trị là Nguyễn Chí Thanh sang Trung hoa bắt Trần Tử Bình sửa sai, viên cố vấn Trung hoa của trường cũng bị gọi về Bắc kinh.
Sau các lớp Chỉnh Đảng, ngoài một số bị thanh toán, tự tử hay trốn về thành, đa số còn lại đã phải nhắm mắt trở nên một công cụ ngoan ngoãn, tuân theo mọi chỉ thị của đảng một cách mù quáng, và quân đội Việt Minh, một quân đội được tạo dựng để giải phóng quốc gia, giờ đây đã trở nên một đội quân cộng sản, nhằm một mục tiêu xa hơn là giải phóng toàn thế giới. Trận chiến thắng mở đầu Cao Bắc Lạng năm 1950 không còn là chiến thắng của Việt Minh, mà theo ông Hồ Chí Minh, đó là “một chiến thắng của xã hội chủ nghĩa”.
Song song với sự biến thể của quân đội, Đảng cộng sản Việt nam, với sự giúp đỡ và cố vấn của phái bộ La Quý Ba, đã hoàn toàn biến đổi nếp sống cổ truyền của nhân dân sống trong vùng Việt Minh kiểm soát. Việc thờ phụng tổ tiên bị đả phá, tôn giáo bị bài xích, gia đình bị đảo lộn, người thân thuộc tố cáo lẫn nhau. Ai không tích cực học tập, không a dua với chính sách đều bị điều tra, theo dõi, bị xếp thành phần, hay bị giam giữ, hành hạ. Những người không cùng chính kiến bị coi là phản động và bị thủ tiêu. Để có được sự tuân phục tuyệt đối của cấp dưới, các lãnh tụ được thần thánh hoá. Ngoài Hồ Chí Minh, “đại nguyên soái Stalin”, Mao Trạch Đông cũng được tôn làm thánh sống, và để tuân hành theo tư tưởng chỉ đạo của Mao Trạch Đông, chính sách cải cách ruộng đất của Mao được thi hành năm 1953, với sự giúp đỡ của các cố vấn Trung hoa. Chính sách này lại được phát động một cách quy mô hơn sau khi Việt nam chiếm được chính quyền miền Bắc. Trong đợt phát động này, hàng trăm ngàn cán bộ và nông dân đã bị xử tử, đấu tố, hay cầm tù một cách oan uổng. Mầm mống bất mãn của nhân dân lên cao đến nỗi đảng phải đổ lỗi cho một số cán bộ lãnh đạo như Trường Chinh, Lê Văn Lương, Hoàng Quốc Việt.
Sau hiệp định Geneva, chiếm được chính quyền ở miền Bắc, Việt nam đã cố gắng có một mối giao hảo tốt đẹp với cả hai nước cộng sản đàn anh. Tuy nhiên trong nhiều năm sau đó, đa số những nguồn viện trợ kinh tế cũng như quân sự cho Việt nam đều từ Trung hoa. Trung hoa đã giúp Việt nam những công trình xây cất, những nhà máy xay lúa, nhà máy điện. máy dệt, máy sản xuất đường, phân hoá học... Ngoài ra, toàn bộ vũ khí, đạn dược, quân trang, quân dụng của bộ đội Bắc Việt và Việt cộng từ 1950 đến 1964 đều do Trung hoa cung cấp. Tính đến năm 1978, tổng số hàng viện trợ của Trung hoa cho Việt nam kể cả quân sự lẫn kinh tế lên đến hai mươi tỷ mỹ kim, chiếm 41 % ngân sách ngoại viện của Trung hoa.
Ngoài viện trợ về tiền bạc, vật chất, trong chiến tranh Đông dương thứ hai, từ 1965 đến 1970, Hồ Chí Minh đã yêu cầu quân Trung hoa sang giúp Bắc Việt nam xây dựng hệ thống cầu đường, sân bay, hệ thống phòng không. Một số khác trực tiếp sử dụng đại bác và tên lửa. Có khoảng một ngàn lính Trung hoa bị bắn chết ở Bắc Việt. Công ơn của Trung hoa đối với Việt nam đã được Hồ Chí Minh bày tỏ “Tinh thần quốc tế cao cả đó và tình thân ái của nhân dân Trung quốc đối với nhân dân Việt nam làm chúng ta rất cảm động và biết ơn”.
Tình hữu nghị “Việt-Trung-Xô đời đời bất diệt” không kéo dài được lâu. Sự rạn nứt giữa hai nước cộng sản đàn anh của Việt nam bắt đầu ngay từ năm 1956, sau khi Khrushchev lên nắm quyền, tố cáo tội ác của Stalin và chủ trương hoà hoãn với phương Tây. Là một đảng cộng sản đàn em, đang phải nhờ vả vào sự viện trợ của cả hai nước, cộng sản Bắc Việt bất lực nhìn hai đàn anh tranh chấp. Trong những năm đó, về ý thức hệ, Việt nam gần gũi hơn với Trung hoa. Đã lỡ thần thánh hoá Stalin, họ không dễ dàng đạp đổ thần tượng của họ. Họ cũng đang mở cuộc chiến tranh xâm chiếm miền Nam, nên không thể nào chấp nhận chủ trương chung sống hoà bình của Kroushchev. Hơn nữa, ảnh hưởng của Trung hoa đã lan rộng trong mọi mặt từ hình thức tổ chức đến tư tưởng của Việt nam, từ các chính sách đấu tố, trăm hoa đua nở, đến các bộ quần áo đại cán, các danh từ đồng chí, bí thư, uỷ viên... Vì thế, bài diễn văn của Kroushchev lên án Staline do phái đoàn Việt nam đi họp mang về bị giấu kín, chỉ cho các Uỷ viên Bộ Chính trị đọc. Các nhân vật có khuynh hướng thân Liên xô như Hoàng Minh Chính, Viện Trưởng Viện Triết học, Nguyễn Văn Vịnh, trung tướng, chủ tịch Uỷ ban thống nhất của Quốc hội, Đỗ Đức Kiên, đại tá cục trưởng cục tác chiến, Nguyễn Minh Nghĩa, đại tá cục trường cục quân báo... cùng một số cán bộ chính trị và quân đội khác bị ghép tội, bỏ tù hay bị mất chức. Tuy theo đuổi một đường lối thiên về Trung hoa, nhưng bề ngoài, Việt nam không thể bỏ lơi Liên xô, một siêu cường cộng sản đàn anh, một thánh địa. Vì thế mà Việt nam đã luôn cố gắng đứng trung lập trong cuộc tranh chấp Nga Hoa. Lúc đó, nếu báo Nhân dân có đăng bài về Cách mạng Tháng Mười thì bên cạnh đó, sẽ có một bài khác nói về cuộc Vạn Lý Trường Chinh với cùng một số chữ, và trong các cuộc tiếp tân, số quan khách của cả hai nước Nga Hoa được mời đều ngang nhau, cũng như số lượng rượu Vodka và Mao đài đem ra chiêu đãi cũng ngang nhau. Đi dự đại hội các đảng cộng sản ở Moscow, khi phái đoàn Trung hoa do Chu Ân Lai cầm đầu giận dữ bỏ về nước thì ông Hồ Chí Minh cũng bỏ phòng họp ra ngoài, nhưng chỉ ra đi dạo ở Moscow.
Sau 1970, nhiều diễn biến đã xảy ra khiến cho Việt nam ngày càng thiên về Liên xô, và Liên xô cũng chú ý nhiều hơn đến Việt nam. Lúc đó, Hồ Chí Minh vừa mới chết, Lê Duẩn lên nắm quyền. Trong số những lãnh tụ kỳ cựu của Việt nam, Lê Duẩn là người ít chịu ảnh hưởng của Trung hoa. Trước 1954, địa bàn hoạt động của Lê Duẩn luôn luôn là ở miền Nam, chưa từng phải lưu lạc sang Trung hoa, hay tiếp xúc với các cố vấn Trung hoa. Hơn nữa những đối thủ của Duẩn như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp đều chịu ảnh hưởng của Trung hoa nhiều hơn, nên Lê Duẩn mặc nhiên có khuynh hướng thân Nga. Đồng thời, tình hình biên giới Nga Hoa cũng như chủ thuyết Brezhnev biện minh cho sự xâm lăng các nước chư hầu cộng sản khiến cho Trung hoa bắt đầu coi Liên xô là kẻ thù số một, và xích lại gần hơn với Hoa kỳ. Ngoài ra, cuộc chiến ở miền Nam cũng như ở miền Bắc đang bước vào giai đoạn quyết liệt, Việt nam cần có những vũ khí tối tân như MiG 21, xe tăng T54, T55..., tên lửa SAM mà chỉ Liên xô mới có khả năng cung cấp. Cùng lúc đó, những diễn biến chính trị tại Trung hoa xảy ra đã khiến Việt nam bớt tin cậy vào Trung hoa, nhất là thời gian mà Hồng vệ binh hoành hành. Họ đã không những chống lại phe ôn hoà mà còn chống lại sự giúp đỡ Việt nam. Sau 1970, Trung hoa chỉ còn giúp đỡ Việt nam một cách thụ động. Xích lại gần hơn với Hoa kỳ, không còn lo ngại nhiều về sự đe doạ ở biên giới phía nam, Trung hoa không muốn có một nước Việt nam, dù cộng sản, được thống nhất. Chính Mao Trạch Đông đã khuyên Phạm Văn Đồng nên tiếp tục chiến tranh du kích, không nên tổng tấn công chiếm hết miền Nam, dù lúc đó Cộng quân đang thắng thế. Mao nói “Cái chổi của chúng tôi không quét tới Đài loan thì cái chổi của các đồng chí cũng không quét tới Sài gòn” và Mao Trạch Đông cũng không che giấu sự khinh miệt đối với các cấp lãnh đạo Việt nam. Ông ta gọi Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Trường Chinh, Phạm Văn Đồng là “bốn tên ăn mày, lúc nào cũng chìa bát đòi cho thêm”. Tuy nhiên, để cho Việt nam có thể “chiến đấu đến người Việt cuối cùng”. Trung hoa vẫn tiếp tục giúp đỡ Hà nội tiếp tục chiến tranh.
Sau khi Cộng quân chiến thắng và chiếm hết miền Nam, Việt nam đã trở nên một thế lực đáng kể trong vùng. Nhưng thế lực đó chỉ mạnh về quân sự, và muốn sống còn, vẫn phải dựa dẫm vào viện trợ ngoại bang. Vì đầu óc kiêu căng, chật hẹp, các lãnh tụ Việt nam đã đánh giá quá cao khả năng của chính họ, coi nhẹ những tổn thất về sinh mạng và vật chất của nhân dân, tin tưởng mù quáng vào chủ nghĩa Mác và sự giúp đỡ của Liên xô. Họ không thèm để ý đến sự cảnh giác về an ninh lãnh thổ, sự tổn thương lòng tự ái dân tộc của Trung hoa, và nhất là họ đã quên là người Trung hoa coi trọng nhất là sự trung tín, coi khinh nhất là sự phản bội, nên đã công khai trở mặt và thách đố Trung hoa, để từ đó, đưa đất nước vào một cuộc phiêu lưu quân sự mới.Tài liệu tham khảo:
- Việt nam sử lược của Trần Trọng Kim.
- Việt nam Máu Lửa của Nghiêm Kê Tổ.
- Death In The Rice Field, Peter Scholl Latour.
- Giọt Nước Trong Biển Cả của Hoàng Văn Hoan.
- Kroutschev Remembrance của Khroutschev
- China, A Country History của Bộ quốc phòng Hoa kỳ.
- The Chinese Aggression, Nhà Xuất Bản Ngoại Văn, Hà nội
- Mặt Thật, Hoa Xuyên Tuyết của Thành Tín
- Red Star Over China, Edgar Snow, Grove Press Inc., New York.
- Từ Thực Dân Đến cộng sản, Hoàng Văn Chí.
Chiến tranh Đông dương 3 P11 Sơ lược tình hình chính trị và quân sự tại Trung hoa cận đại Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Trong phong trào cộng sản Trung hoa, kể từ khi đảng cộng sản được Trần Độc Tú thành lập năm 1921, nhân vật nổi bật luôn đứng sau những thăng trầm và biến động là Mao Trạch Đông. Gia nhập đảng từ những năm đầu tiên, Mao đã phát động cuộc nổi dậy mùa thu ở Hồ Nam năm 1928, đã cùng Chu Đức, Bành Đức Hoài, Lâm Bưu thành lập Hồng quân Trung hoa, đã dẫn đầu cuộc Vạn Lý Trường Chinh đến Diên An, để từ đó, củng cố lực lượng, phản công đánh tan quân đội của Tưởng Giới Thạch, chiếm chính quyền trên toàn lục địa Trung hoa.
Sau chiến thắng, năm 1949 nước Cộng hoà nhân dân Trung hoa được thành lập, Mao Trạch Đông được bầu làm chủ tịch đảng, Chu Ân Lai là Thủ tướng. Những năm đầu tiên là những năm củng cố chính quyền, nhưng cũng là những năm Trung hoa xua quân đánh chiếm Tây Tạng và tham gia trận chiến Triều tiên. Năm 1953, Trung hoa mới bắt đầu kế hoạch ngũ niên thứ nhất để quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Kế hoạch này rập khuôn theo khuôn mẫu Liên xô, dành ưu tiên phát triển kỹ nghệ nặng. Một hiệp ước hữu nghị và hợp tác được ký kết theo đó Liên xô viện trợ dồi dào cho Trung hoa về mọi mặt, kỹ thuật, kinh tế, quân sự. Cùng năm đó, Quốc hội đầu tiên được bầu. Quốc hội đề cử Mao Trạch Đông kiêm nhiệm Chủ tịch nhà nước, Lưu Thiếu Kỳ Chủ tịch Quốc hội, Chu Ân Lai Thủ tướng. Bộ máy đảng do Đặng Tiểu Bình tổng bí thư điều hành.
Cuối năm 1956, Mao Trạch Đông phát động phong trào “Bách gia tranh minh, bách hoa tề phóng” - khuôn mẫu cho Hồ Chí Minh phát động phong trào trăm hoa đua nở ở Việt nam - để nhân dân có thể phê bình khuyết điểm của cán bộ. Mới đầu, những lời phê bình còn dè dặt, sau đó, phong trào trở nên rầm rộ. Dân chúng không những chỉ trích cán bộ cấp dưới mà còn phê bình cả những cấp lãnh đạo đảng và chính phủ. Tức giận, Mao gán những lời phê bình đó cho những phần tử tư sản hữu khuynh phản động và phát động chiến dịch đàn áp. Từ những diễn biến đó, Mao thấy cần phải có những cuộc cách mạng liên tục. Tuy những công trình của kế hoạch ngũ niên thứ nhất đã đạt kết quả tốt, nhưng Mao tin rằng nếu nhân dân được thấm nhuần nhiều hơn về ý thức hệ, và tài nguyên nhân lực cũng như vật chất được sử dụng một cách quy mô, có tổ chức thì kế hoạch ngũ niên thứ hai 1958-1963 sẽ thành công rực rỡ hơn. Do đó, Mao phát động “đại nhảy vọt”năm 1958.
Thi hành đại nhảy vọt này, nhân dân được gom lại thành mấy chục ngàn công xã. Cách sinh hoạt giống như trong quân đội. Dân chúng ăn uống ở những nhà ăn tập thể, nhiều công xã còn có những nhà ngủ công cộng. Nhân dân làm việc theo giờ, tổ chức thành những đội nông nghiệp, công nghiệp để tự túc về sản xuất, hành chánh, kế toán. Các cán bộ và đảng viên sẽ tăng cường huấn luyện và nhồi sọ quần chúng thêm về chính trị.
Đại nhảy vọt đó là một thất bại, mức sản xuất các ngành đều sa sút, lương thực bị thiếu hụt, kỹ nghệ bị ngưng trệ. Nhân dân mệt mỏi và bất mãn. Người đứng lên chỉ trích “đại nhảy vọt” là Bành Đức Hoài, Bộ trưởng quốc phòng. Tại đại hội đảng ở Lư Sơn tháng 4-1959, Mao đứng ra nhận trách nhiệm về những thất bại, từ chức Chủ tịch nhà nước, nhưng vẫn giữ chức Chủ tịch Đảng. Lưu Thiếu Kỳ được bầu lên thay chức Chủ tịch nhà nước, nhưng Bành Đức Hoài thì bị mất chức, nhường chỗ cho Lâm Bưu. Từ 1960 đến 1965, đảng cộng sản Trung hoa dưới sự lãnh đạo của những phần tử ôn hoà như Lưu Thiếu Kỳ, Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình thực hiện được những biện pháp cải cách. Trong sản xuất, hiệu năng được chú trọng hơn ý thức hệ, và tới năm 1965 thì kinh tế Trung hoa đã hồi phục. Tuy nhiên, Mao Trạch Đông không nằm yên trong bóng tối. Biện pháp dùng quyền lợi vật chất khuyến khích công nhân và nông dân đối với Mao là một hình thức thoái hoá, phản cách mạng, phản Mác xít. Mao thấy đảng cộng sản Trung hoa đang đi trên con đường tư bản và cần phải có một cuộc cách mạng mới. Năm 1965, Mao đi một vòng chu du khắp nước để tìm hậu thuẫn, và rồi trong một buổi họp của Bộ Chính trị, Mao tố cáo là có “những phần tử nắm quyền trong đảng đang đi theo con đường tư bản”, và đề nghị phát động một cuộc cách mạng văn hoá. Bộ Chính trị đề cử một Uỷ ban năm người do Bành Chân, thị trưởng Bắc kinh đứng đầu phụ trách việc này. Nhưng nhóm này suốt năm không làm gì cả. Tới tháng 11-1965, do sự khuyến khích của Mao Trạch Đông, Diêu Văn Nguyên viết một bài gay gắt phê bình một vở kịch đang được hoan nghênh “Hải Thuỵ bị cách chức”. Vở kịch do Vũ Hàm, một phụ tá của Bành Chân, viết năm 1961. Nội dung vở kịch là chuyện một ông quan chính trực nhà Minh, vì phản đối chính sách chiếm đoạt đất đai nông dân của bọn địa chủ và tham quan mà bị một bạo chúa cách chức. Vở kịch rất được phổ biến và hoan nghênh, nhưng cũng dễ dàng khiến khán giả liên tưởng tới hoàn cảnh của Bành Đức Hoài trong thời gian đại nhảy vọt. Sau bài phê bình, nhóm Bành Chân phản ứng lại bằng cách kiểm duyệt không cho phổ biến những bài của Diêu Văn Nguyên. Mao Trạch Đông, nhờ uy tín sẵn có, cùng với sự ủng hộ của Lâm Bưu, nhóm Giang Thanh, và Trần Bá Đạt bí thư thành uỷ Thượng Hải, nên đã thành công trong việc cách chức Bành Chân và bắt giữ Chu Dương, người được coi như lãnh đạo văn nghệ ở Trung hoa. Tuy nhiên, trong nội bộ Đảng, Mao dã không thể triệt hạ được Lưu Thiếu Kỳ và Đặng Tiểu Bình. Vì thế, Mao quay sang tìm sự ủng hộ của học sinh và sinh viên.
Được xách động, phong trào nổi loạn bắt đầu ở Đại học Bắc kinh và Thanh Hoa, sau đó lan rộng ra khắp nước. Những học sinh này, được gọi là Hồng vệ binh, đeo băng vải đỏ ở tay, họp thành từng nhóm, mới đầu chỉ biểu tình, đập phá trường sở, bắt giữ, hành hung và hạ nhục các giáo sư và ban giám đốc. Sau đó, được sự đồng tình không can thiệp của công an và quân đội và bị tay chân của Giang Thanh, Vương Hồng Văn, Diêu Văn Nguyên, Trương Xuân Kiều thúc đẩy, họ kéo đi đập phá các cơ sở của đảng cộng sản, bắt giữ hạ nhục công chức, đảng viên. Đầu năm 1967, đến lượt Chủ tịch nhà nước Lưu Thiếu Kỳ và Tổng bí thư đảng Đặng Tiểu Bình bị thanh trừng. Từ đó, Mao Trạch Đông hoàn loàn làm chủ tình thế.
Tình hình quốc tế đã khiến Mao Trạch Đông phải chấm dứt tình trạng hỗn loạn do Hồng vệ binh gây ra. Năm 1968, Liên xô ngang nhiên đem quân xâm lăng Tiệp khắc, đồng thời tăng cường quân đội ở biên giới Nga Hoa. Mao ra lệnh cho Lâm Bưu đem quân đội tái lập trật tự. Tình trạng hỗn loạn chấm dứt, và các đối thủ của Mao bị loại trừ.
Trong đại hội Đảng lần thứ tư năm 1969, Lâm Bưu được đề cử vào chức Phó chủ tịch Đảng, trở nên nhân vật số hai, được coi như sẽ kế nghiệp Mao Trạch Đông. Tuy nhiên, sau thời kỳ hỗn loạn, Mao Trạch Đông thấy Trung hoa cần có một giai đoạn ổn định để phục hồi kinh tế nên đã không nhiệt tình ủng hộ nhóm quá khích của Giang Thanh. Trong thời gian này, uy tín của Chu Ân Lai tăng dần vì ông ta được sự ủng hộ của đa số cán bộ trong đảng và quân đội. Phe quá khích bị tổn chát nặng năm 1971, khi Lâm Bưu, thấy mình bị mất dần ảnh hưởng trong đảng, trung quân đội, cũng như sự ủng hộ của Mao nên không thể chờ đợi được nữa, phát tổ chức đảo chánh. Cuộc đảo chánh thất bại, Lâm Bưu định trốn qua Liên xô, nhưng chết khi chiếc máy bay bị bắn hạ. Nhờ lý do đó, phe đảng của Lâm Bưu bị loại trừ, những người bị giáng cấp hay thanh trừng trong cuộc Cách mạng Văn Hoá dần dần được phục hồi chức vụ. Với sự giúp đỡ của Chu Ân Lai, Đặng Tiểu Bình được phục chức phó Thủ tướng vào tháng 4-1973. Lúc đó, sau chuyến viếng thăm Bắc kinh của Tổng thống Nixon, Trung hoa đã thân thiện hơn với Hoa kỳ.
Mất Lâm Bưu, mất hậu thuẫn của quân đội, phe quá khích thành lập một lực lượng võ trang riêng, nhưng lực lượng này chỉ có sự ủng hộ của Thượng Hải. Cùng với Đặng Tiểu Bình, Chu Ân Lai đề ra chính sách bốn hiện đại” (hiện đại hoá nông nghiệp, kỹ nghệ, quốc phòng và khoa học kỹ thuật). Nhưng kế hoạch này bị gián đoạn ngay từ đầu do cái chết của Chu Ân Lai vào tháng 1-1976. Cái chết này mở đầu cho một năm 1976 nhiều sóng gió trong lịch sử Cộng đảng Trung hoa. Mao Trạch Đông, không bao giờ ưa Đặng Tiểu Bình, nhưng cũng không ủng hộ nhóm quá khích, nên đã đề cử Hoa Quốc Phong, Bộ trưởng Bộ an ninh một nhân vật ít người biết, làm quyền Thủ tướng. Trong nội bộ đảng, sau khi Chu Ân Lai chết, Đặng Tiểu Bình bị thất thế, phe quá khích lại nổi lên. Điều này gây bất mãn cho dân chúng Bắc kinh. Tháng 4-1976, nhân tiết thanh minh, hàng trăm ngàn dân Bắc kinh tụ họp ở Thiên An Môn, lấy cớ tưởng niệm Chu Ân Lai, nhưng thật sự để làm và nghe những bài thơ chống phe quá khích trong đảng. Công an đàn áp mạnh. Mao Trạch Đông, do sự xúi giục của Giang Thanh, đổ lỗi cho Đặng Tiểu Bình và làm áp lực để Bộ Chính trị khai trừ Đặng Tiểu Bình lần thứ hai.
Ba tháng sau, tháng 7-1976, Thống chế Chu Đức, người có công lớn nhất trong việc thành lập Hồng quân cũng chết. Tháng 8, một trận động đất lớn xảy ra ở Đường Sơn, phá huỷ hết những cơ sở kỹ nghệ và gây thương vong cho năm trăm ngàn người. Cuối cùng, tháng sau nữa, đến lượt Mao Trạch Đông qua đời. Cái chết của Mao Trạch Đông để lại một khoảng trống, không có người kế vị chính thức. Hoa Quốc Phong tuy nắm quyền Thủ tướng nhưng lại không có uy tín và ảnh hưởng sâu rộng trong nhân dân, trong đảng, hay trong quân đội. Chính quyền lúc ấy có hai phe. Phe thứ nhất của Giang Thanh nhấn mạnh đến sự quan trọng của sự thuần khiết ý thức hệ, quy tụ những cán bộ, đảng viên được cất nhắc trong cuộc Cách mạng Văn Hoá. Phe thứ hai là một liên minh lỏng lẻo những cấp chỉ huy quân đội, những chuyên viên kinh tế và cán bộ hành chánh. Đứng đầu phe này là Diệp Kiếm Anh một thống chế đang nắm chức Bộ trưởng quốc phòng. Ông ta thuyết phục được Hoa Quốc Phong và Uông Đông Hưng, người chỉ huy biệt đội 8341, đơn vị phụ trách bảo vệ an ninh cho Trung ương đảng, về phe mình để loại trừ phe quá khích.
Ngày 6-10-1976, biệt đội 8341 ra tay, bắt giữ hết bốn nhân vật trong “bè lũ bốn tên”, đồng thời những binh lính thuộc đặc khu Bắc kinh của Trần Tích Liên cũng chiếm đóng tất cả những cơ sở hoạt động của phe Giang Thanh. Để hoá giải sự chống đối của Thượng Hải, một căn cứ mạnh mẽ của bè lũ bốn tên, Hoa Quốc Phong trước đó đã triệu hồi các cấp lãnh đạo đảng và quân đội ở đó về họp. Mấy ngày sau, Trung ương đảng cộng sản họp và bầu Hoa Quốc Phong làm Chủ tịch đảng kiêm Chủ tịch quân uỷ Trung ương.
Tuy ở ngôi vị cao và quan trọng, nhưng trong đảng và quân đội, Hoa Quốc Phong lại không có nhiều ảnh hưởng và uy tín như Đặng Tiểu Bình. Để củng cố địa vị, một mặt Hoa Quốc Phong bắt đầu một chiến dịch tự đề cao. Báo chí gọi Hoa Quốc Phong là một “lãnh tụ sáng suốt, một vị chỉ huy tài ba, người kế nghiệp xứng đáng của Mao chủ tịch”. Đâu đâu cũng thấy hình Mao Trạch Đông cầm tay Hoa Quốc Phong với câu “Có đồng chí, tôi yên tâm”. Mặt khác, Hoa Quốc Phong liên kết với những người tuy không thuộc phe Bè lũ bốn tên, nhưng trước kia đã hùa theo Mao Trạch Đông chống Đặng Tiểu Bình như Uỷ viên an ninh Trung ương đảng Uông Đông Hưng, bí thư thành uỷ Bắc kinh Vũ Đệ, tư lệnh quân khu Bắc kinh Trần Tích Liên, phó Thủ tướng Trần Hồng Quý. Một lần nữa, Diệp Kiếm Anh lại giữ một vai trò quan trọng. Ông ta khuyên Đặng Tiểu Bình nên nhún nhường bằng cách viết thư chúc mừng Hoa Quốc phong đã dẹp được Bè lũ bốn tên, ủng hộ Hoa trong chức vụ Chủ tịch đảng, và công nhận đã phạm vài lỗi lầm. Ngày 21-7-1977, Trung ương đảng cộng sản họp và Đặng Tiểu Bình được phục hồi tất cả những chức vụ cũ như Uỷ viên Bộ Chính trị, phó Chủ tịch quân uỷ Trung ương, và Tham mưu trưởng quân đội.
Vừa được phục chức, Đặng Tiểu Bình bắt tay ngay vào việc củng cố địa vị của mình. Nhờ sự trợ lực của Hồ Diệu Bang, Vụ trưởng Vụ Tổ chức Trung ương đảng, những cán bộ, đảng viên trước kia bị thanh trừng được phục hồi đảng tịch và được thăng chức. Những người thuộc phe quá khích hay thân Mao dần dần bị loại.
Trong Đại hội Đảng lần thứ XI cuối năm 1978, bốn người thuộc phe Đặng Tiểu Bình gồm Hồ Diệu Bang, Trần Tôn, Vương Chân và Đặng Dĩnh Châu được bầu vào Bộ Chính trị. Hồ Diệu Bang được bầu làm Tổng bí thư. Diệp Kiếm Anh trở nên Chủ tịch nhà nước. Các đối thủ của Đặng Tiểu Bình như Uông Đông Hưng, Vũ Đệ bị mất chức. Còn Hoa Quốc Phong tuy còn được giữ chức Chủ tịch Đảng một thời gian nữa, nhưng dần dần bị đẩy lùi vào bóng tối. Phe Đặng Tiểu Bình nắm hết quyền hành ở Trung hoa, và Trung ương Đảng chấp thuận hết những chính sách của ông ta, trong đó có chính sách “Bốn hiện đại”, chính sách mềm dẻo trong vấn đề Đài loan, xích lại gần Hoa kỳ, và xâm lăng giới hạn Việt nam. Một trong những yếu tố quan trọng đưa đến những đổi thay trong đường lối đối ngoại của Trung hoa là do sự nứt rạn ngày càng trầm trọng của quan hệ Nga Hoa.
Sau chiến thắng của cộng sản Trung hoa năm 1949, hai nước cộng sản trên đã có những quan hệ thân thiết nhất, tưởng như lực lượng hai nước kết hợp lại sẽ có thể giúp phát triển chủ nghĩa cộng sản lan tràn ra khấp thế giới. Tháng 2-1950, ngay mấy tháng sau khi chiếm được toàn lục địa, cộng sản Trung hoa đã ký với Liên xô một hiệp ước liên minh ba mươi năm, ngoài mục đích cùng nhau phát triển kinh tế, còn để phòng thủ chống lại Hoa kỳ và Nhật bản. Cả hai lại còn đoàn kết hơn nữa trong chiến tranh Triều tiên.
Theo thời gian, mối quan hệ thân thiết này dần dần lạnh nhạt. Là những người cộng sản mới thành công trong việc chiếm được chính quyền còn nhiều tự tin và quá khích, cộng sản Trung hoa tin rằng thế giới sẽ được giải phóng bằng đấu tranh giai cấp và bạo lực cách mạng. Vì thế họ thấy bất mãn khi Kroushchev trong năm 1956 công khai tuyên bố không còn coi chiến tranh giữa hai khối cộng sản và tư bản là một quy luật tất yếu. Hai bên có thể sống chung hoà bình và phe cộng sản vẫn có thể giành được thắng lợi bằng những phương cách đấu tranh chính trị hay tranh cử nghị viện. Năm 1958, khi Trung hoa mưu chiếm hai đảo Kim Môn và Mã Tổ thuộc Đài loan, họ hy vọng Liên xô giúp đỡ, nhưng nước này tỏ vẻ thờ ơ. Trung hoa càng bất mãn hơn khi Liên xô thiên về Ấn độ trong cuộc tranh chấp Ấn-Hoa năm 1959. Một năm trước đó, Trung hoa phát động đại nhảy vọt, tiến lên xã hội chủ nghĩa một cách quá khích, không theo khuôn mẫu Liên xô, Liên xô coi đó như một hình thức thách đố địa vị đàn anh của mình trong khối cộng sản. Từ đó, Liên xô gọi Trung hoa là giáo điều, chấm dứt mọi viện trợ, còn Trung hoa cũng gọi Liên xô là xét lại.
Năm 1962, sự rạn nứt giữa hai quốc gia trở nên thù nghịch khi Liên xô đứng hẳn về phe Ấn độ trong cuộc chiến tranh biên giới Ấn-Hoa. Kể từ đó hai bên dần dần tăng cường quân đội ở biên giới. Trung hoa bắt đầu coi Liên xô như một mối đe doạ chính kể từ năm 1968, khi Liên xô trắng trợn đem quân vào Tiệp khắc, lật đổ chính phủ cấp tiến Alexander Dubcek, Trung hoa gọi đó là một hành vi xâm lăng thô bạo. Trong khi đó, Liên xô gọi đó là “chủ thuyết Brezhnev” hay “chủ thuyết quyền tự quyết giới hạn của những quốc gia xã hội chủ nghĩa” theo đó trong trường hợp một quốc gia xã hội chủ nghĩa bị đe doạ, những quốc gia xã hội chủ nghĩa khác có nghĩa vụ đem quân can thiệp. Lý thuyết này biện minh cho những hành động xâm lăng và Trung hoa thấy mình có thể là mục tiêu kế tiếp. Một cuộc đụng độ lớn ở biên giới vào tháng 3-1969 làm Trung hoa không còn nghi ngờ gì về tham vọng bành trướng đất đai của Liên xô, vì thế mà quá khích như Mao Trạch Đông cũng phải chấp nhận chính sách xáp lại gần Hoa kỳ và coi Liên xô như kẻ thù số một.
Tình trạng bang giao giữa hai nước càng suy đồi hơn sau năm 1975, khi Việt nam không còn lợi dụng được cả hai quốc gia kể trên để nhận viện trợ nữa, nên ngả hẳn về phía Liên xô, khiến cho Trung hoa, dù không tán thành đường lối cai trị của Campuchia, vẫn phải luôn đứng sau Campuchia trong cuộc chiến tranh biên giới. Tháng 5-1978, khi tranh chấp Việt Hoa bắt đầu căng thẳng, như để cảnh cáo Trung hoa, Liên xô cho quân vượt biên giới Hắc Long Giang. Tuy Liên xô sau đó xin lỗi, nhưng Trung hoa không bao giờ coi đó là một hành động không cố ý.
Đối với Việt nam, sự xích mích Nga Hoa là một con dao hai lưỡi. Khả năng hữu hiệu duy nhất của những nhà lãnh đạo Việt nam là kêu gọi, lường gạt và kiểm soát được nhân dân, để cho họ thắt lưng buộc bụng và hy sinh chiến đấu. Vì thế nên trong chiến tranh Đông dương thứ hai, ngoài nhân lực, hầu hết tài nguyên kinh tế và võ khí đều lệ thuộc vào khối Cộng sản, và Việt nam đã khôn khéo đứng trung lập trong cuộc tranh chấp Nga Hoa để có thể lợi dụng cả hai nước. Sau khi đạt được chiến thắng, họ không thể một mình tự lập, mà vẫn phải dựa dẫm vào một thế lực bên ngoài. Lần này, họ không còn có thể theo đuổi chính sách lưng chừng được nữa, và họ đã lựa chọn đứng về phe Liên xô, một nước cộng sản mạnh hơn, tân tiến hơn. Nhưng làm như thế, họ đã phô bày một thái độ bội phản, vô ơn và trở mặt đối với Trung hoa, gây căm phẫn trong nhân dân cũng như trong hàng ngũ lãnh đạo, kể cả phe ôn hoà lẫn phe quá khích, để cho chiến tranh Đông dương thứ ba phải xảy ra, gây nên những tàn phá chết chóc mà những người gánh chịu vẫn chỉ là nhân dân Việt nam.
Hồng quân Trung hoa, hay quân đội nhân dân Trung hoa, được coi như thành lập sau cuộc nổi dậy mùa thu ở Nam Trương năm 1927 thất bại, là kết hợp của những toán quân lẻ tẻ của Chu Đức, Lâm Bưu, Mao Trạch Đông, Bành Đức Hoài. Sau chiến thắng năm 1949, các lộ quân và quân đoàn của Hồng quân được thống nhất thành quân đội quốc gia. Lực lượng được chia ra làm chính quy, chủ lực quân khu, và dân quân địa phương. Bộ tổng tham mưu được chia ra làm ba Tổng Cục: Tham mưu, Chính trị và Hậu Cần. Cách tổ chức này đã được Việt nam lấy làm khuôn mẫu. Chiến thuật và chiến lược dựa theo một chủ thuyết của Mao, gọi là “chiến tranh nhân dân”, “lấy nông thôn bao vây thành thị”, trái hẳn với lý thuyết của Lênin là chiếm chinh quyền bằng cách dùng công nhân nổi loạn trong thành phố. Những chủ thuyết này, đã được Việt nam học tập, ghi trong điều lệ Đảng Lao động năm 1951 là một “nền tảng tư tưởng”. Trong chiến tranh, Mao Trạch Đông ý thức được là Trung hoa đất rộng, người đông, nên chủ trương không giữ đất, không cần có căn cứ nhất định và cách thế thủ hay nhất là luôn luôn cơ động và tấn công. Chiến thuật này dùng trong chiến tranh Quốc-Cộng để chiếm chính quyền của Tưởng Giới Thạch, và dự trù sẽ dùng nữa trong trường hợp Liên xô đem quân xâm lăng.
Quân số Trung hoa (chính quy và chủ lực), đông nhất trên thế giới, gồm khoảng bốn triệu, trong đó hải quân và không quân mỗi binh chủng có khoảng ba trăm ngàn. Toàn quốc được chia thành bảy quân khu: Trấn Giang (sát biên giới Bắc Hàn, gồm các tỉnh Hắc Long Giang, Liêu Ninh...), Bắc kinh (gồm Nội Mông, Bắc kinh, Hà Bắc, Sơn Tây), Nam Kinh (Phúc Kiến, Giang Tây, Thượng Hải, An Huy...), Kiến An (Hà Nam, Sơn Đông), Quảng Châu (Quảng Đông, Quảng Tây, Hồ Bắc, Hồ Nam), Thành Đô (Vân Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu, Tây Tạng) và Lan Châu (Tân Cương, Thanh Hải...). Mỗi quân khu có nhiều quân đoàn. Những quân đoàn 13, 14, 41, 42, 43, 54, 55... tham chiến ở Việt nam là những quân đoàn thuộc các quân khu Thành Đô, Quảng Châu, Nam Kinh và Kiến An. Một số quân đoàn khác được biết đến là các quân đoàn 27, 38, 65... thuộc quân khu Bắc kinh (quân đoàn 27 nổi tiếng tàn bạo khi tàn sát sinh viên ở Thiên An Môn năm 1989), các quân đoàn 16, 39, 40, 64... quân khu Trấn Giang, quân đoàn 21, 28, 47... quân khu Lan Châu, quân đoàn 67, 20, 26... quân khu Kiến An, quân đoàn 1, 12, 31... quân khu Nam Kinh... Ngoài quân chính quy và chủ lực, Trung hoa còn có bảy triệu dân quân. Tổng chỉ huy quân đội là Chủ tịch Quân uỷ Trung ương, thường là Chủ tịch đảng. Nhưng chức vụ này đã được Đặng Tiểu Bình kiêm nhiệm trong nhiều năm qua. Bộ tổng tham mưu trực tiếp chỉ huy lực lượng chính quy và võ khí nguyên tử. Tư lệnh quân khu chỉ huy chủ lực và dân quân.
Về không quân, Trung hoa có ba mươi hai sư đoàn không quân chiến đấu và mười hai sư đoàn oanh tạc. Những sư đoàn này cũng được phối hợp lại thành những quân đoàn không quân (đệ tứ quân đoàn ở Thượng Hải, đệ ngũ quân đoàn ở Hàng Châu...). Mỗi sư đoàn có ba trung đoàn và mỗi trung đoàn có ba phi đội. Mỗi phi đội có khoảng mười hai phi cơ. Ngoài những đơn vị phòng không như 100 đơn vị tên lửa SAM, khoảng 10,000 súng phòng không, còn có những đơn vị radar, kiểm báo. Từ 1956, Trung hoa đã có thể sản xuất MiG-15, MiG-17, MiG-19. Tuy số lượng nhiều, nhưng phi cơ cũng như vũ khí không được tối tân bằng những vũ khí mà Liên xô viện trợ cho Việt nam. Vì thế nên trong trận chiến tranh biên giới với Việt nam, Trung hoa đã tránh không dùng không quân. Từ 1979, họ mới bắt đầu gắn tên lửa không không lên phi cơ, và với sự giúp đỡ của Tây Phương, chế tạo loại máy bay chiến đấu mới F8, hay Tây An A, không theo khuôn mẫu của phi cơ Liên xô.
Hải quân Trung hoa đông hàng thứ ba trên thế giới. Họ cũng tổ chức thành chính quy, chủ lực và dân quân. Lực lượng chính quy chính gồm có ba hạm đội: Bắc Hải, Đông Hải và Nam Hải. Chủ lực quân khu bao gồm những tàu tuần duyên, còn dân quân chỉ là những thuyền nhỏ gắn súng máy. Những thuyền võ trang này có nhiệm vụ kiểm soát tàu đánh cá và tình báo. Hải quân Trung hoa mang nặng tính cách phòng thủ. Vòng phòng thủ ngoài cùng duyên Hải Thuỵ Hoa là khoảng một trăm tàu ngầm chạy bằng dầu cặn. Sau hàng rào phòng thủ này tới những máy bay tuần duyên và những pháo hạm gắn tên lửa Styx hay đại bác 130 ly. Chọc thủng được quyền này thì gặp những tàu phóng thuỷ lôi. Ngoài hải quân, không quân, Trung hoa có một số võ khí nguyên tử, nhưng trong khoảng năm 1979, những đầu đạn phóng đi chưa được xa và chính xác lắm.
Tuy quân số đông, số lượng phi cơ tàu chiến nhiều, nhưng chưa được tối tân lắm nên lực lượng quân sự của Trung hoa chủ yếu là phòng thủ, chỉ có thể phát động những cuộc tấn công giới hạn gần biên giới như Ấn độ, Triều tiên, Việt nam... Vì những biến động chính trị, quân đội Trung hoa trong suốt thập niên 1970 không có điều kiện hiện đại hoá. Các cấp chỉ huy từ trung đoàn trưởng trở xuống chưa từng tham gia một chiến trường thực sự. Binh sĩ cũng kém thao dượt. Những phương tiện tiếp vận, truyền tin còn thô sơ. Trong cuộc chiến tranh với Việt nam, Trung hoa đã bị tổn thất nặng, nhưng nhờ đó, họ thấy được những khuyết điểm. Với đà phát triển kinh tế của họ hiện nay, quân đội Trung hoa đã có điều kiện canh tân. Nhờ lình trạng bang giao Nga Hoa đã hoà dịu, mới đây, Trung hoa đã mua được của Nga nhiều máy bay MiG 31 tối tân và họ đang dự định đóng một hàng không mẫu hạm. Với tiềm năng nhân lực và kinh tế tài chánh như thế, vớt khuynh hướng bành trướng lâu đời, Trung hoa sẽ có thể trở nên một mối đe doạ cho toàn vùng Đông Á, và trực tiếp nhất là cho Việt nam, nhất là khi Việt nam vẫn còn bị cai trị bởi những lãnh tụ kiêu căng, thiển cận và mù quáng.Tài liệu tham khảo:
- China, a country history - Bộ quốc phòng Hoa kỳ xuất bản.
- Conspiracy and death of Lin Giao - Yao Mang Le
- Brother Enemy - Nayan Chanda
- Quelling the People - Timothy Brook.
Chiến tranh Đông dương 3 P12 Mục tiêu và sách lược chuẩn bị chiến tranh của Trung hoa- Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Đường lối thân Liên xô của Việt nam và thái độ thách đố uy tín của Trung hoa qua chính sách đối với người Hoa cũng như hành động ngang nhiên tấn công và chiếm đóng Campuchia khiến Trung hoa cảm thấy cần phải cho Việt nam “một bài học”. Sau khi đã đổ hai mươi tỷ mỹ kim viện trợ cho Việt nam, sự trở mặt của Việt nam rõ ràng là một hành động phản bội thô bạo đối với một dân tộc từng coi trọng hai chữ tín nghĩa. Do đó, việc trừng phạt Việt nam đã được sự đồng tình của tất cả những cấp lãnh đạo trong Trung ương Đảng Trung hoa, kể cả những phần tử ôn hoà như Hứa Thế Hữu, tư lệnh quân khu Quảng Châu, trong cuộc Cách mạng văn hoá, dù bị Hồng vệ binh tố cáo, xách nhiễu, vẫn cố gắng để cho những chuyến tàu viện trợ vũ khí cho Bắc Việt được chạy thông suốt. Mấy tháng trước, Trung hoa đã trừng phạt bằng cách chấm dứt viện trợ kinh tế, nhưng Việt nam phản ứng lại bằng cách gia nhập khối Comecon, liên minh quân sự với Liên xô rồi xâm lăng Campuchia, Trung hoa không còn biện pháp nào khác ngoài biện pháp quân sự.
Việc sử dụng biện pháp quân sự của Trung hoa đã được nêu ra thảo luận và chấp thuận trong những buổi họp liên tiếp của Trung ương đảng cộng sản Trung hoa cuối năm 1978. Trong những buổi họp này, nhiều biện pháp được đưa ra, trong đó có đề nghị của Uỷ viên Bộ Chính trị Uông Đông Hưng đem quân trực tiếp tham chiến ở Campuchia, của tư lệnh quân khu Quảng Châu Hứa Thế Hữu ào ạt xâm lăng Việt nam, và của chính uỷ hải quân Sử Chấn Hoa, đem hạm đội Đông Hải xuống vịnh Thái lan yểm trợ vùng duyên hải Campuchia. Cuối cùng Trung ương Đảng chấp thuận kế hoạch “phản công tự vệ giới hạn” của Đặng Tiểu Bình.
Cuộc tấn công vào Việt nam của Trung hoa nhằm vào nhiều mục tiêu. Thứ nhất là làm suy yếu tiềm năng quân sự, nhân sự và kinh tế của Việt nam, trừng phạt một đàn em phản bội, lấy lại uy tín nước lớn. Thứ hai là đoàn kết nội bộ trước nguy cơ bị đe doạ từ cả biên giới phía bắc lẫn phía nam. Thứ ba là khi dám thách đố liên minh quân sự Việt Xô, Trung hoa chứng tỏ cho thế giới biết Liên xô chỉ là “con gấu giấy”.
Lợi dụng vào dân số và quân số đông đảo hơn gấp bội, số lượng vũ khí dồi dào, Trung hoa dự định mở một cuộc hành quân chớp nhoáng, chiếm đóng một số thị xã dọc biên giới để một mặt, phân tán mỏng lực lượng quân sự của Việt nam, buộc Việt nam phải rút bớt quân từ chiến trường Campuchia về nước. Mặt khác, nếu có thể, dùng những đất đai chiếm đóng làm điều kiện trao đổi với Việt nam. Điều này giải thích lý do quân Trung hoa chờ tới sát ngày rút quân, không thấy có hy vọng thương thuyết, mới bắt đầu đặt chất nổ san bằng hết những thị xã chiếm đóng thành bình địa. Một chiến thắng quân sự chớp nhoáng sẽ đập tan huyền thoại chiến đấu của quân đội Việt nam, thoả mãn tinh thần tự cao “Đại Hán”, nâng cao uy tín nước lớn của Trung hoa.
Hành động quân sự để đối phó với Việt nam sau khi Việt nam vừa liên minh quân sự với Liên xô là một thách đố liều lĩnh nhưng có tính toán. Chấp nhận những hậu quả có thể xảy ra nếu Liên xô trả đũa, Trung hoa muốn cho Liên xô biết quyết tâm của Trung hoa không thể để cho bị bao vây, đồng thời cũng cho các quốc gia Đông Nam Á thấy có thể tin cậy vào Trung hoa để ngăn chặn tham vọng của Việt nam. Uy tín nước lớn của Trung hoa đối với Hoa kiều hải ngoại cũng như tự ái dân tộc của Trung hoa được vuốt ve khi thấy Trung hoa dám đương đầu với một siêu cường quốc. Ngoài ra, đối với Hoa kỳ và các nước Tây Âu, hành động đó là một bằng chứng cho thấy Liên xô chỉ là con gấu giấy, không cần hoà hoãn hay nhân nhượng.
Khác với Việt nam, tấn công Campuchia vì những lý do quân sự và an ninh quốc gia, cuộc tấn công của Trung hoa nhằm những mục tiêu chính trị và ngoại giao nhiều hơn. Vì thế nên Trung ương Đảng đã chấp nhận kế hoạch tấn công giới hạn của Đặng Tiểu Bình. Thứ nhất là vì Việt nam cũng là một địch thủ đáng ngại, Trung hoa không thể nào chịu đựng nổi một cuộc chiến quy mô và lâu dài nếu không muốn làm trở ngại cho chính sách “bốn hiện đại”. Thứ hai, một cuộc tấn công giới hạn, nhanh chóng sẽ không gây ra một phản ứng mạnh mẽ trong dư luận thế giới, hay một cuộc tấn công trả đũa từ Liên xô. Liên xô lúc đó đang ở trong một tình trạng kinh tế khó khăn, không muốn làm mất lòng Hoa kỳ, lại càng không muốn đẩy Hoa kỳ vào một liên minh quân sự với Trung hoa, nên cùng lấm chỉ có thể mở một cuộc tấn công giới hạn vào biên giới để giúp Việt nam và để đỡ mất mặt. Trong trường hợp đó, với quân số đông đảo trong cuộc chiến tranh cổ điển, Trung hoa tự tin có đủ sức đối phó.
Tuy thế, Trung hoa cũng cố tránh để không phải đương đầu trực tiếp với Liên xô. Trong khi tiến hành chiến tranh với Việt nam, Trung hoa vẫn tiếp tục những cuộc hội đàm thường lệ với Liên xô về những rắc rối biên giới để cho Liên xô biết cuộc chiến Việt Hoa là một vấn đề riêng biệt, không ảnh hưởng đến việc cải thiện bang giao giữa hai nước.
Để Liên xô không bị bất ngờ mà có những hành động trả đũa tai hại, Trung hoa công khai báo trước về cuộc tấn công, đồng thời cũng đặc biệt nhấn mạnh là mục đích cuộc tấn công chỉ để trừng phạt những vi phạm biên giới của Việt nam, và quy mô cuộc tấn công cũng chỉ giới hạn. Đài phát thanh Bắc kinh loan báo “Chúng tôi không muốn một tấc đất của Việt nam. Sau khi đã phản công trả đũa Việt nam một cách thích đáng, quân đội biên phòng sẽ rút về bảo vệ biên giới quốc gia”. Trung hoa cũng gián tiếp cho biết sẽ không tấn công Hà nội, không tiến quân về châu thổ sông Hồng, và trong cuộc chiến tranh, đã cẩn thận không oanh tạc những cơ sở tiếp vận và truyền tin mà Liên xô mới viện trợ cho Việt nam.
Hành động công khai báo trước đó cũng là để chuẩn bị dư luận thế giới, nhất là Hoa kỳ và các nước ASEAN. Đặng Tiểu Bình đã nói thẳng về ý định tấn công với Thủ tướng Thái Kriangsak và Thủ tướng Singapore Lý Quang Diệu trong cuộc công du các nước trong vùng cuối năm 1978, ngay trước khi Việt nam xâm lăng Campuchia. Hai tháng sau, trong cuộc công du Hoa kỳ, và trong một cuộc họp mật với hội đồng an ninh quốc gia thu hẹp, gồm Tổng thống Carter, Phó Tổng thống Mondale, ngoại trưởng Vance, Bộ trưởng quốc phòng Brown và cố vấn an ninh Brzezinski, Đặng Tiểu Bình báo cho Hoa kỳ biết là Trung hoa sẽ tấn công Việt nam. Ông ta bảo đảm là cuộc tấn công sẽ giới hạn và nhanh chóng. Điều ông ta mong muốn là có được sự hỗ trợ về tinh thần từ phía Hoa kỳ.
Bị giằng co giữa thái độ quá khích của Brzezinski và sự thận trọng của Vance, cũng như giữa bản chất hiếu hoà của một tín đồ ngoan đạo với ý muốn trở nên một nhà lãnh đạo cương quyết, cứng rắn, Carter đã phản ứng trước ý định của Trung hoa một cách lưng chừng. Trong một cuộc họp riêng giữa hai người, ông khuyên Trung hoa không nên có hành động xâm lược, nhưng lại không hề ám chỉ là hành động đó có thể gây phương hại đến mối quan hệ ngoại giao mới được thiết lập giữa hai nước. Ngoài sự làm ngơ của chính phủ Hoa kỳ, Đặng Tiểu Bình đã được sự ủng hộ của các lãnh tụ Quốc hội. Chủ tịch Hạ Viện Tip O’Neil tuyên bố hành động phiêu lưu của Việt nam nếu không được ngăn chặn từ đầu sẽ có thể đưa tới thế chiến thứ ba, tương tự như trường hợp Nhật bản xâm lăng Mãn Châu năm 1931.
Chuyến đi của Đặng Tiểu Bình sang Hoa kỳ là một thành công. Hai tuần sau, ngay trước khi Trung hoa tấn công, đại sứ Hoa kỳ Malcolm Toon cũng kín đáo khuyến cáo ngoại trưởng Gromyko là Liên xô nên tự chế trong trường hợp Trung hoa tấn công Việt nam để khỏi ảnh hưởng đến việc Quốc hội Mỹ sẽ thông qua thoả ước SALT mà Liên xô rất mong muốn.
Tuy đã trấn an dư luận thế giới và Liên xô về tính cách giới hạn của cuộc tấn công và được sự đồng tình làm ngơ của Hoa kỳ, Trung hoa cũng vẫn không thể không quan tâm đến sự hiện diện của trên bốn mươi sư đoàn quân Liên xô đóng dọc theo biên giới. Với hiệp ước liên minh với Việt nam, Liên xô có lý do và có nhiều biện pháp trả đũa, thí dụ như dùng võ khí nguyên tử tàn phá những cơ sở kỹ nghệ hay quân sự trong nội địa Trung hoa, hoặc ào ạt tấn công xâm lăng Trung hoa. Nhưng Đặng Tiểu Bình đã tính toán là cùng lắm Liên xô sẽ chỉ tấn công giới hạn vào các tỉnh biên giới như Tân Cương, Hắc Long Giang. Với quân số đông, đất đai rộng lớn, hiểm trở, Trung hoa tự tin có thể đối phó với một trận chiến cổ điển và quy ước. Trung hoa tin rằng Liên xô sẽ không vì Việt nam mà sử dụng võ khí nguyên tử hay bị lôi cuốn vào một cuộc chiến kéo dài và tiêu hao. Ngoài ra, đối đầu với khối NATO ở phía tây, Liên xô sẽ không thể nào sử dụng được binh lực như ý muốn ở phía đông. Mặt khác, Trung hoa cũng bắn tiếng là họ sẽ không ngần ngại đem quân vượt biên giới tấn công trả đũa. Với một biên giới đài hơn bảy ngàn cây số, bốn chục sư đoàn của Liên xô không có cách nào ngăn chặn hết. Trung hoa loại ra ngoài hiểm hoạ bị tấn công bằng võ khí nguyên tử. Điều đó có thể kéo theo sự can thiệp của Hoa kỳ và đưa đến thế chiến thứ ba. Những đầu đạn nguyên tử của Trung hoa tuy chưa chính xác lắm, nhưng cũng có thể gây tác hại nghiêm trọng cho nhiều đô thị Liên xô. Cuối cùng, để có thể sẵn sàng đối phó với mọi trường hợp có thể xảy ra, cùng lúc với sự thành lập Bộ tư lệnh mặt trận phía nam, Trung hoa cũng thành lập một Bộ tư lệnh mặt trận phía bắc để thống nhất chỉ huy các quân khu Tân Cương, Lan Châu, Bắc kinh, Chấn Giang và Hắc Long Giang.
Vì muốn cố ý báo trước về hành động xâm lăng của mình, Trung hoa đã dùng cả hai phương tiện ngoại giao và truyền thông. Bộ ngoại giao Trung hoa cũng như tờ Nhân dân nhật báo liên tiếp đưa ra những lời phản kháng và cảnh cáo. Lời cảnh cáo đầu tiên được đưa ra ngày 7-11-1978, khi Bộ ngoại giao Trung hoa tố cáo Việt nam cho quân vượt biên giới gây thương vong cho mười hai thường dân, và khuyến cáo Việt nam nên chấm dứt hành động gây hấn. Lời cảnh cáo nghiêm trọng thứ hai được đưa ra ngày 13-12-1978, cảnh cáo nhà cầm quyền Việt nam nên biết “sự tự chế của Trung hoa chỉ có giới hạn, và nếu Việt nam tiếp tục xâm phạm lãnh thổ và chủ quyền Trung hoa, họ sẽ phải chịu trách nhiệm về mọi hậu quả”. Sau khi Phnom Penh bị mất, bài bình luận của tờ Nhân dân nhật báo đã viết “Sự thất thủ Phnom Penh không có nghĩa là chiến tranh chấm dứt mà chỉ là khởi đầu” càng gần đến ngày tấn công, những lời cảnh cáo càng dồn dập vào những ngày 18.1, rồi 10 và 16-2-1979.
Hiển nhiên là những tín hiệu mà Trung hoa muốn gửi đi đã được Liên xô ghi nhận. Ngày 6-2-1979, Thủ tướng Liên xô Kosygin nhận xét là những lời tuyên bố của Đặng Tiểu Bình tại Hoa kỳ được coi như một sự tuyên chiến với Việt nam.
Dĩ nhiên, khi đưa ra những lời phản kháng, Trung hoa không thể nào công khai nêu ra lý do chính là vì uy tín nước lớn của mình bị xúc phạm, cũng không thể lấy lý do Campuchia bị xâm lăng, mà lại đổ lỗi cho những hành động khiêu khích của Việt nam ở biên giới. Trong nước, khác với thời gian chiến tranh Triều tiên hay chiến tranh tại eo biển Đài loan, lần này chính phủ Trung hoa cố tình không làm rầm rộ. Lý do là lúc đó Trung hoa đang ở trong một giai đoạn chính trị nội bộ tế nhị, thứ hai là chính quyền không muốn nhìn nhận lỗi lầm đã hết lòng viện trợ cho Việt nam để giờ đây bị bội phản, và thứ ba là Trung hoa cũng lo ngại về những hậu quả có thể xảy ra do cuộc tấn công gây ra.
Lần này, không thấy có những cuộc biểu tình chống Việt nam. Báo chí, đài phát thanh cũng cố tình đặt những tin tức và tuyên truyền về cuộc chiến tranh xuống hàng thứ yếu. Nhân dân Trung hoa được khuyến cáo nên yên tâm lao động, tăng gia sản xuất, hoàn thành nhiệm vụ trong mục tiêu “bốn hiện đại”. Trung hoa cũng khôn ngoan không nói rõ ràng về mục tiêu, chỉ nói mù mờ là cuộc tấn công sẽ được giới hạn về thời gian và quy mô để nếu gặp khó khăn, họ có thể ngừng và rút quân bất cữ lúc nào, mà vẫn có thể tuyên bố đã đạt được mục đích. Họ cũng chuẩn bị cuộc tấn công rất kỹ lưỡng, những dân tộc thiểu số ở biên giới được khuyến dụ, mua chuộc. Những người gốc Hoa được tuyển mộ làm hướng đạo. Họ cũng tìm cách ve vãn ông hoàng Sihanouk, liên lạc với những chính khách lưu vong Koong Le, Vang Pao của Lào, nhằm gây khó khăn thêm cho Hà nội. Đồng thời, ít ngày trước khi tấn công, họ ngưng cung cấp dầu hoả cho Việt nam.
Sau khi đã chuẩn bị xong về quân sự, chính trị và ngoại giao, thời điểm tấn công được lựa chọn. Quân Trung hoa phải tấn công gấp rút để hoàn thành trước tháng 4, vì tháng đó, mùa mưa ở vùng biên giới Việt Hoa bắt đầu, sẽ gây khó khăn cho vấn đề tiếp vận của Trung hoa. Đồng thời, cũng tháng đó, băng tuyết trên biên giới Nga Hoa lại đã tan hết, tạo điều kiện thuận lợi cho quân đội Liên xô nếu họ quyết định tấn công giúp đỡ Việt nam.
Cuối cùng, thời điểm tấn công được quyết định vào ngày thứ bảy 17-2-1979. Thứ bảy là ngày các hãng thông tấn và truyền hình Hoa kỳ và Tây Âu ít làm việc, dân chúng đang nghỉ cuối tuần, cuộc xâm lăng của Trung hoa sẽ không gây phản ứng mạnh trong dư luận thế giới. Hơn nữa, đó cũng là thời gian không ngờ, vì sau hơn 17 năm bất hoà và tranh chấp, ngoại trưởng Ấn độ Vajpayee đang thăm thân hữu Trung hoa. Để có được yếu tố bất ngờ, Trung hoa đành hy sinh sự cải thiện bang giao với Ấn độ.
Như dự đoán, ngay sau khi nghe tin quân Trung hoa tấn công, ngoại trưởng Ấn độ chấm dứt ngay cuộc viếng thăm, bay trở về Ấn độ. Tuy nhiên, Phạm Văn Đồng vẫn tiếp tục công du Phnom Penh, và một viên chức Hoa kỳ, Bộ trưởng Tài Chánh Blumenthal tiếp tục công tác ở Bắc kinh. Sự hiện diện của Blumenthal, cũng như của hàng không mẫu hạm Constellation của Hoa kỳ ở ngoài khơi biển Đông khiến cho Liên xô bị mơ hồ về lập trường và thái độ của Hoa kỳ. Xếp đặt xong mọi chi tiết, mờ sáng ngày 17-2-1979, hơn tám chục ngàn quân Trung hoa vượt biên giới Việt Hoa, bắt đầu một bài học đắt giá cho cả hai bên.
Tài liệu tham khảo:
- Brother enemy, Nayan Chanda
- The Sinh- Vietnamese Border War: Chia motives, calculations and strategies, Herbert Yee
- Giọt nước trong biển cả, Hoàng Văn Hoan.
Chiến tranh Đông dương 3 P13 Trận chiến biên giới Việt Hoa 1979 Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Ngày thứ bảy 17-2-1979, lúc 3 giờ 30 sáng, pháo binh quân đội Trung hoa bắt đầu pháo kích ào ạt vào các vị trí quân sự các quận Tiên Lĩnh, Hà Quảng thuộc tỉnh Cao Bằng, mở đầu cho một cuộc tấn công quy mô trên một chiến tuyến dài hơn một ngàn cây số dọc theo biên giới Việt Hoa từ Lai Châu đến Móng Cái.
Xét về địa thế, lãnh thổ hai nước dọc theo biên giới có thể chia làm hai vùng. Vùng lãnh thổ tây bắc gồm những tỉnh Lai Châu, Lào Cai, Hà Giang tới Cao Bằng giáp giới với Vân Nam và Quảng Tây của Trung hoa là một vùng đất hiểm trở, núi non trùng điệp, với rặng Phansipăng trải dài từ Tây Tạng, qua Vân Nam, chiếm ba phần tư lãnh thổ phía tây của Bắc Việt, kéo dài đến dãy Trường Sơn. Trục lộ giao thông chính của vùng này là con đường nối Côn Minh, thủ phủ của Vân Nam, qua Mông Tự, vượt biên giới Việt Hoa ở Lào Cai, xuôi quốc lộ 2 dọc theo thung lũng sông Hồng về Hà nội. Vùng lãnh thổ đông bắc chạy từ Cao Bằng xuống Lạng Sơn, Móng Cái giáp giới Quảng Đông tương đối bằng phẳng, ít núi non, đường xá thuận tiện, dân cư đông đảo phồn thịnh. Trục lộ giao thông chính là con đường từ Nam Ninh chạy qua ải Nam Quan thuộc Lạng Sơn, theo quốc lộ 1 chạy qua châu thổ sông Hồng về Hà nội.
Sinh sống dọc theo biên giới hai nước Việt Hoa là những sắc dân thiểu số. Ở Sơn La có sắc dân Thái đen, ở Lai Châu có sắc dân Thái trắng. Vùng Lào Cai là người Mèo, người Mán, vùng Thái Nguyên, Cao Bằng là người Tày, Thổ, vùng Móng Cái là người Nùng. Những sắc dân thiểu số này không bao giờ có được sự tin cậy của chính quyền cả hai nước. Trong lịch sử, mỗi khi có dịp là họ lại nổi lên chống lại sự cai trị của cả Trung hoa lẫn Việt nam, chẳng hạn như Nùng Trí Cao năm 1041 đã nổi lên chống lại nhà Lý rồi sau đó chạy sang Trung hoa chống lại nhà Tống. Trong chiến tranh Đông dương thứ nhất, người Pháp đã lôi kéo được những sắc dân này chống lại Việt Minh, trong đó có những tù trưởng Đèo Văn An, Đèo Văn Long (người Thái), Châu Quản Lộ (người Mán), Voòng A Sáng (người Nùng). Chỉ có người Tày và Thổ là hợp tác nhiều với Việt Minh, có lẽ vì ở ngay tại căn cứ địa của cộng sản. Nổi bật trong những lãnh tụ người Tày, ngoài Hoàng Văn Thụ đã chết, là Chu Văn Tấn, trước là châu đoàn coi lính dõng cho Pháp, sau theo Việt Minh. Để lấy lòng các sắc dân thiểu số, Chu Văn Tấn được Hồ Chí Minh đề cử làm Bộ trưởng quốc phòng trong chính phủ đầu tiên của Việt Minh năm 1945. Nhưng chỉ mấy tháng sau, ông ta bị Võ Nguyên Giáp thay thế. Sau 1954, Chu Văn Tấn được thăng quân hàm thượng tướng, giữ chức Phó Chủ tịch Quốc hội, rồi Tư lệnh kiêm chính uỷ quân khu I. Tuy nhiên đến năm 1977, khi bang giao Việt Hoa bắt đầu căng thẳng, thì cùng với Lê Quảng Ba, Lý Ban, Chu Văn Tấn bị mất chức, sau có tin là bị bắt giam. Chu Văn Tấn bị mất chức không phải vì ông ta có những hành động phản nghịch mà vì uy tín của ông ở vùng biên giới quá lớn, và ông đã có những liên hệ họ hàng chằng chịt với những người Tày ở bên kia biên giới, chính quyền Việt nam sợ rằng Chu Văn Tấn có thể bị Trung hoa khuyến dụ để nổi lên đòi tự trị.
Trong lịch sử chiến tranh Việt Hoa, Lạng Sơn luôn luôn được coi là một vị trí chiến lược chủ yếu và là hướng tấn công chính của quân Trung hoa. Lý do là vì địa thế ở đó là vùng đồng bằng. Chiếm được Lạng Sơn là chiếm được cửa ngõ châu thổ sông Hồng, và chỉ còn một trăm năm mươi cây số dọc quốc lộ 1 là tới Hà nội. Từ quân nhà Tống, nhà Nguyên, nhà Minh, đến nhà Thanh mỗi khi xâm lăng đều kéo quân qua ngả Lạng Sơn. Ngay cả khi Lý Thường Kiệt đem quân đánh Tống năm 1075, ông cũng kéo quân qua ngả Lạng Sơn, và từ đó, cùng với phó tướng Tôn Đản đã đánh phá châu Khâm, châu Liêm và chiếm được châu Ung (Nam Ninh hiện nay).
Sau Lạng Sơn, Lào Cai là một cửa ngõ quan trọng thứ hai thông thương giữa hai nước. Giữa vùng rừng núi bao la hiểm trở dọc biên giới tây bắc, chỉ có một trục lộ thuận tiện từ côn Minh qua Lào Cai theo thung lũng sông Hồng về Hà nội. Nhưng đó là một con đường độc đạo chập chùng qua rặng Hoàng Liên Sơn, rất dễ bị phục kích, vì thế nên trong lịch sử, khi quân Minh và quân Thanh tiến đánh Việt nam theo hai hướng, Lào Cai chỉ là hướng tấn công phụ. Riêng quân Nguyên không dùng Lào Cai, mà dùng thuỷ quân từ Nghệ An đánh lên.
Kể từ khi Pháp đặt chân đến Việt nam, nhờ đường xá phát triển, Cao Bằng ngày càng trở nên một bàn đạp quan trọng tiến về trung châu. Từ Cao Bằng, có quốc lộ 3 qua Thái Nguyên về Hà nội. Vì thế, về phương diện quân sự, quốc lộ 4, từ Cao Bằng chạy song song với biên giới Việt Hoa qua Lạng Sơn tới Móng Cái đặc biệt quan trọng. Chính tại quốc lộ số 4 này, trong chiến dịch biên giới năm 1950 đã đánh dấu một sự hợp tác thân thiết nhất giữa hai phong trào Việt nam và Trung hoa.
Hai mươi chín năm sau, “tình nghĩa vô sản quốc tế trong sáng” giữa hai nước đã trở nên thù nghịch. Những địa danh Cao Bằng, Lạng Sơn, Đông Khê, Thất Khê nay trở nên bãi chiến trường chính của hai nước. Những đơn vị chính quy, trước kia được Trung hoa giúp trang bị và thành lập, nay trở nên mục tiêu chính mà Trung hoa mong muốn tiêu diệt, và tướng Vi Quốc Thanh, ân nhân của Hồ Chí Minh và Võ Nguyên Giáp năm 1950, năm 1979 đã 72 tuổi, giữ chức Chủ nhiệm Tổng cục chính trị Hồng quân, lại là người quyết tâm nhất muốn dạy cho Việt nam một bài học về sự trở mặt và vô ơn.
Ngoài những vị trí Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Cai, từ biên giới Hoa Việt ở Lai Châu có quốc lộ 6 đi về Hà nội, nhưng đó cũng là một con đường độc đạo chạy trên những vùng núi non hiểm trở cao hơn hai ngàn thước, không tiện cho việc di chuyển võ khí nặng cũng như tiếp liệu, nên hướng tấn công của Trung hoa tại Lai Châu không đáng kể. Nhưng sườn phía tây của Bắc Việt có một cửa ngõ quan trọng. Đó là con đường từ tỉnh Phong Saly của Lào theo sông Nậm Na qua thung lũng nổi danh Điện Biên Phủ, tiến về Hoà Bình mà không phải qua những dãy núi gập ghềnh của tỉnh Lai Châu. Sau năm 1975, Trung hoa đã giúp Lào xây dựng một con đường từ Vân Nam xuống Phong Saly. Năm 1979, Bộ trưởng Thông tin Sisana Sisane của Lào đã tố cáo Trung hoa cố tình làm con đường lệch sang biên giới Việt nam, và khi chiến cuộc Việt Hoa bùng nổ, các sư đoàn 306, 968... của Việt nam đang trú đóng bên Lào đã phải dồn lên phòng thủ biên giới phía bắc nước Lào.
Ngay buổi sáng ngày 17-2-1979, quân đội Trung hoa đã tấn công tổng cộng 39 mục tiêu dọc theo biên giới hai nước, trong đó có 26 mục tiêu bị tấn công từ cấp tiểu đoàn trở lên. Riêng Lạng Sơn, Cao Bằng, Lào Cai bị tấn công bằng cấp sư đoàn. Tổng cộng quân số Trung hoa vượt biên giới trong ngày đầu chiến dịch khoảng tám chục ngàn. Con số này tăng dần cho tới ngày cuối của chiến dịch lên tới trên một trăm năm chục ngàn. Đó là không kể hàng mấy trăm ngàn binh sĩ khác giữ nhiệm vụ yểm trợ hay trù bị phía sau. Chỉ huy tổng quát mặt trận là Hứa Thế Hữu, Uỷ viên Trung ương đảng, kiêm tư lệnh quân khu Quảng Châu (gồm hai tỉnh Quảng Đông và Quảng Tây). Hứa Thế Hữu đặt Bộ tư lệnh mặt trận ở Nam Ninh. Phụ tá cho Hứa Thế Hữu là Dương Đắc Chí, từng nổi danh khi phụ tá cho Bành Đức Hoài trong chiến tranh Triều tiên. Để sửa soạn tham gia trận tấn công Việt nam, Dương Đắc Chí đang là tư lệnh quân khu Vũ Hán được cử xuống làm tư lệnh quân khu Tây Nam gồm Vân Nam và Quý Châu. Trong những ngày đầu, Hứa Thế Hữu trực tiếp chỉ huy tấn công mặt trận Cao Bằng, Lạng Sơn, còn Dương Đắc Chí phụ trách tấn công Lào Cai, Lai Châu, Hà Giang. Để tấn công Việt nam, Trung hoa đã huy động nhiều quân đoàn từ nhiều quân khu khác nhau. Hai quân đoàn 13, 14 được giao trách nhiệm tấn công Lai Châu, Lào Cai. Hai quân đoàn 41, 42 tấn công Cao Bằng, còn những quân đoàn 43, 54, 55 tấn công mạn Lạng Sơn và Quảng Ninh.
Bên phía Việt nam, phòng thủ biên giới Việt Hoa là trách nhiệm của những quân khu I, II, III. Tư lệnh quân khu I là Đàm Quang Trung, một người Tày, cận vệ cũ của Hồ Chí Minh được cử thay Chu Văn Tấn. Đàm Quang Trung không phải là một tướng có khả năng, nhưng được cất nhắc nhờ là gốc người Thổ như Chu Văn Tấn, nhưng lại không có uy tín chính trị như Chu Văn Tấn. Quân khu này gồm cả Cao Bằng lẫn Lạng Sơn nên chịu áp lực nặng nhất của quân Trung hoa. Trong những ngày đầu, trách nhiệm phòng vệ Lạng Sơn được giao cho Nguyễn Văn Thương, tư lệnh sư đoàn 3, Tư lệnh quân khu II là Vũ Lập, phụ trách phòng thủ Lai Châu, Lào Cai và Hà Giang. Tư lệnh quân khu III là Nguyễn Quyết, trách nhiệm vùng châu thổ sông Hồng và có lẽ cả đặc khu Quảng Ninh, do Sùng Lãm chỉ huy. Bộ tổng tham mưu ở Hà nội trực tiếp theo dõi, giám sát và điều hợp mặt trận. Ngoài những trợ giúp về võ khí và tiếp liệu, trong trận chiến Việt Hoa, Việt nam đã được Liên xô giúp đỡ về tình báo, nhờ không ảnh vệ tinh và một số tàu lấy tin điện tử của Liên xô chạy ngoài khơi vịnh Bắc Việt. Để thi hành hiệp ước hữu nghị, sau khi quân Trung hoa tấn công Việt nam một ngày, Liên xô gửi sang Hà nội một phải đoàn “tham khảo” cùng với thiết giáp hạm Senyavin đến túc trực ngoài khơi vịnh Bắc Việt.
Có lẽ vì chủ quan tin vào hậu thuẫn Liên xô, tính toán sai quyết tâm và quy mô tấn công của quân đội Trung hoa nên Việt nam đã sử dụng hết ba trong bốn quân đoàn chính quy trong cuộc hành quân xâm lăng Campuchia. Do đó, khi quân Trung hoa tấn công, Việt nam chỉ còn những sư đoàn 308, 312, 390... của quân đoàn 1 đóng quanh Hà nội. Việt nam đã cố gắng không dùng tới những sư đoàn này, thứ nhất để dùng làm lợi khí tuyên truyền là đã không cần phải dùng tới quân chính quy, thứ hai là Việt nam sợ quân Trung hoa sẽ dùng toàn lực tiêu diệt những đơn vị này, nhằm phá tan “huyền thoại vô địch” của quân Việt nam. Trách nhiệm phòng thủ biên giới do đó được giao cho những sư đoàn chủ lực quân khu, như các sư đoàn 3, 327, 337, sư đoàn Tây Sơn...
Ỏ Lạng sơn, sư đoàn 567, B46, sư đoàn pháo binh M66 ở Cao Bằng, các sư đoàn 316, 345, đoàn B 68, M63... Ở quân khu II, cùng các trung đoàn chủ lực lỉnh, các huyện đội, và lực lượng công an biên phòng. Hơn một tuần sau, vì tình hình chiến sự nguy kịch, bộ tổng tham mưu quân Việt nam phải gấp rút điều động dân quân từ vùng trung châu, các sư đoàn chủ lực của quân khu IV, cùng quân đoàn 2 từ Campuchia về để tăng cường phòng thủ. Thật ra sự phân biệt giữa những sư đoàn chính quy hay chủ lực của quân Việt nam rất mù mờ, vì một sư đoàn có thể đổi từ chính quy sang chủ lực hay ngược lại bất cứ lúc nào. Chẳng hạn sư đoàn 303, sau 1975, đổi thành đoàn xây dựng kinh tế Phước Long, năm 1978 trở về làm chủ lực cho quân khu VII tấn công Campuchia. Năm sau, 1979, được thuyên chuyển ra Bắc Việt đổi thành chính quy, nằm trong đội hình quân đoàn 68 mới thành lập để bảo vệ biên giới Việt Hoa. Hai năm sau, đang là chính quy, lại đổi thành chủ lực cho quân khu III, và tới 1987, lại trở về là một sư đoàn chính quy của quân đoàn 1 Quyết Thắng.
Trong khi những binh sĩ chính quy trên nguyên tắc trẻ hơn, cơ động hơn, dồi dào phương tiện hơn, được huấn luyện và trang bị chiến đấu hợp đồng với không quân, pháo binh, thiết giáp thuần thuộc hơn, thì những sư đoàn chủ lực các quân khu biên giới phía bắc đa số là những đơn vị từng chiến đấu lâu năm tại miền Nam trong chiến tranh Đông dương II, cho nên bộ đội thiện chiến hơn, có nhiều kinh nghiệm phòng thủ, đào công sự và chiến đấu độc lập dưới hoả lực. Vì thế, họ đã may mắn thích hợp với điều kiện chiến trường. Nhiều tháng trước khi Trung hoa tấn công, sĩ quan, cán bộ của những sư đoàn chủ lực này được phân tán xuống huấn luyện cho những lực lượng địa phương, hướng dẫn cách đào công sự, giao thông hào, lập bãi mìn, bãi chông. Họ cũng nghiên cứu sẵn những vị trí hiểm yếu, những địa điểm có thể bị tấn công, những đường chuyển quân để bố trí sẵn toạ độ pháo binh. Để thống nhất chỉ huy và tăng cường nhân lực các huyện đội, xã đội dân quân được bố trí vào những trung đoàn hay sư đoàn chủ lực. Các phái đoàn Trung ương của Chu Huy Mân, Tổng cục Trưởng Tổng Cục Chính trị, của Hoàng Minh Thảo, Giám đốc Học viện quân sự cấp cao, liên liếp tới kiểm tra, đôn đốc. Vì thế, khi quân Trung hoa bắt đầu tấn công, quân Việt nam đã sẵn sàng.
Trong những ngày đầu của trận chiến, dựa vào quân số đông đảo, Hứa Thế Hữu cho áp dụng chiến thuật biển người để tấn công. Quân Trung hoa được những người Hoa trước kia đã từng sống ở biên giới dẫn đường. Ở nhiều nơi, quân Trung hoa đã nguỵ trang thành bộ đội Việt nam để xâm nhập. Tại Lai Châu, phía cực tây biên giới, quân Trung hoa đánh Gò Tô, Phong Thổ lên đường tiến về lỉnh lỵ. Tại hướng quan trọng Lào Cai, hai sư đoàn thuộc hai quân đoàn 13 và 14 tấn công ngay vào thị xã và các xã lân cận như Thanh Bình, Bản Cầu. Tại Hà Giang, họ tấn công Bản Kiệt, La Quỳnh. Hướng quan trọng thứ hai Cao Bằng cũng bị hai sư đoàn của các quân đoàn 41, 42 tấn công. Tại Quảng Ninh hai trung đoàn quân Trung hoa tấn công Than Thum, Cao Bá Lãnh. Riêng tại mục tiêu chủ yếu Lạng Sơn, quân Trung hoa tấn công theo thế gọng kìm bằng hai hướng. Hướng thứ nhất là hai sư đoàn 163, 164 thuộc quân đoàn 55 vượt Hữu Nghị Quan tấn công Đồng Đăng, cửa ngõ phía bắc Lạng Sơn. Hướng thứ hai là hai sư đoàn 127, 128 quân đoàn 43 tiến đánh từ phía đông vào các tiền đồn ở Bản Xâm, Đồng Nội, Hải Yến.
Tại khắp nơi, quân Trung hoa gặp phải sức kháng cự mãnh liệt. Quân Việt nam, nhờ vào vị trí cố thủ hiểm trở, công sự kiên cố, binh sĩ thiện chiến nhiều kinh nghiệm nên trong đợt tấn công đầu, vẫn giữ vững được các vị trí. Với sự yểm trợ hùng hậu và hữu hiệu của đủ loại pháo binh, từ những đại bác 72, 85, 105, 155, 130 ly đến tên lửa 122 ly, họ đã gây cho quân Trung hoa tổn thất nặng nề về nhân mạng, nhất là ở các mặt trận Lạng Sơn, Cao Bằng. Chiến thuật biển người mà Hứa Thế Hữu áp dụng hiển nhiên đã trở nên lỗi thời trước tác dụng của những võ khí hiện đại. Phía Lai Châu, Lào Cai, quân Trung hoa bị tổn thất ít hơn vì Dương Đắc Chí đã không tấn công chính diện, mà dựa vào địa thế rừng núi hiểm trở để chuyển quân, và khi tấn công, bộ binh được pháo binh và thiết giáp yểm trợ hữu hiệu hơn. Vì số tổn thất quá cao, mấy ngày sau, tuy Hứa Thế Hữu còn giữ chức Tư lệnh mặt trận, nhưng quyền chỉ huy các cuộc hành quân được giao cho Dương Đắc Chí. Quân Việt nam cũng cho vài đơn vị cấp tiểu đoàn vượt biên giới sang tấn công các vị trí tiếp liệu của Trung hoa ở Mã Lý Phố (Vân Nam) và Ninh Minh (Quảng Tây) nhưng các cuộc tấn công này chỉ có tác dụng gây rối.
Sau khi Dương Đắc Chí nắm quyền, tuy chiến thuật biển người bị bãi bỏ, hoả lực pháo binh và thiết giáp được sử dụng nhiều hơn, nhưng quân Trung hoa vẫn dựa vào ưu thế quân số đông đảo để tấn công bất kể tổn thất. Sau mấy ngày bị pháo kích ngày đêm, các công sự phòng thủ của Việt nam dù kiên cố đến đâu cũng dần dần bị phá sập, và quân Trung hoa cuối cùng cũng chiếm được một số mục tiêu. Riêng tại Lạng Sơn, sư đoàn 163 của Trung hoa chiếm được Đồng Đăng vào ngày 22-2-1979.
Trong những ngày 24, 25, 26-2-1979, trận chiến tương đối lắng dịu. Quân Trung hoa sau khi chiếm được một số vị trí đã bị tổn thất nặng và thiếu tiếp liệu nên không thể tiếp tục tấn công. Họ đã chủ quan cho rằng có thể chiến thắng chớp nhoáng nên đã không dự trữ đủ đạn dược pháo binh. Tuy nhiên, quân Việt nam cũng không thể phản công tái chiếm những vị trí đã mất vì không đủ nhân lực. Mặt trận bị trải quá rộng, lực lượng bị phân tán mỏng. Các sư đoàn chính quy của quân đoàn 1 vẫn đóng quanh Hà nội, đề phòng trường hợp Trung hoa đổi ý, tiến sâu vào lãnh thổ Việt nam. Trong khi chờ đợi sự tăng viện của những sư đoàn chủ lực từ các quân khu miền Trung và miền Nam ra tiếp viện Hà nội đã phải điều động những tiểu đoàn dân quân từ các quận huyện ngoại thành Hà nội như Gia Lâm, Đông anh, Thanh Trì, Từ Liêm lên bổ xung quân số. Đồng thời, sau bốn năm hoà bình, dân chúng Hà nội lại được thông báo chuẩn bị sơ tán và đào những hầm hố chống phi cơ oanh tạc.
Mờ sáng ngày 27-2-1979, sau khi đã được bổ xung và tiếp liệu đầy đủ, quân Trung hoa mở một đợt tấn công mới. Dưới sự đốc thúc của Dương Đắc Chí, tận dụng tối đa nhân lực và hoả lực của pháo binh, thiết giáp nên trong vòng một ngày, các thị xã ven biên Lai Châu, Lào Cai, Cao Bằng, Hà Giang lần lượt bị thất thủ. Để duy trì áp lực, không cho quân Việt nam dốc toàn lực tiếp viện Lạng Sơn, quân Trung hoa sau khi chiếm được Lào Cai, tiếp tục chuyển quân về phía nam dọc theo quốc lộ số 2 tiến đánh Cam Đường
Tại hướng tấn công chính Lạng Sơn, Trung hoa tung vào trận đánh sáu sư đoàn gồm các sư đoàn 127, 129 của quân đoàn 43, sư đoàn 160, 161 của quân đoàn 54, sư đoàn 163, 164 của quân đoàn 55, với hàng trăm xe thiết giáp và đại bác yếm trợ. Phía Việt nam, các đơn vị phòng thủ chính gồm các sư đoàn 3, 327, 338, 347 và sư đoàn 337 mới từ quân khu IV ra tăng cường, kết hợp lại thành quân đoàn 14 để thống nhất chỉ huy. Sư đoàn 308 của quân đoàn 1 cũng có thể đã được gửi lên tiếp ứng.
Kể từ ngày 27-2-1979, quân Trung hoa liên tục hai mặt tấn công, và dù quân Việt nam đã chống trả mãnh liệt, tuyến phòng thủ quanh Lạng Sơn thu hẹp dần. Các công sự phòng thủ bị phá sập, quân số bị hao hụt nhanh chóng không kịp bổ xung. Trước nguy cơ thất thủ Lạng Sơn, Bộ tổng tham mưu quân Việt nam vội vã điều động quân đoàn 2 chính quy gồm hai sư đoàn 325 và 304 đang hành quân tại phía nam Campuchia di chuyển bằng xe lửa và máy bay vận tải Antonov của Nga khẩn cấp về lập tuyến phòng thủ sau quân đoàn 14 để bảo vệ châu thổ sông Hồng. Nhưng việc tiếp ứng Lạng Sơn không còn kịp nữa. Thị xã bị pháo kích suốt mấy ngày đêm, cuối cùng quân Trung hoa xâm nhập được thị xã, và quân đội hai nước cộng sản đã phải chiến đấu ác liệt trên đường phố. Tới khuya đêm 4-3-1979, quân Trung hoa hoàn toàn làm chủ thị xã Lạng Sơn. Ngày hôm sau, Trung hoa tuyên bố đã đạt được mục đích dạy cho các lãnh tụ Việt nam một bài học, đơn phương ngưng bắn và hứa sẽ rút quân.
Tuy nhiên, vì còn bận dùng công binh phá sập hết những công sự, đồn bót, cầu đường, nhà cửa, trường học, chợ búa, nhà máy, bệnh viện... Ở những thị xã bị chiếm đóng, kể cả hang Pắc Bó, “suối Lênin”, “núi Các Mác”, nên cuộc lui quân của Trung hoa kéo dài đến ngày 16-3-1979 mới hoàn tất. Với biết bao đau thương đổ nát, với hàng mấy chục ngàn binh sĩ thương vong, cả hai bên đều tuyên bố chiến thắng.Tài liệu tham khảo:
- Việt nam sử lược của Trần Trọng Kim.
- Sự giúp đỡ của Trung hoa cho Việt nam trong chiên dịch biên giới:
- Việt nam Máu Lửa của Nghiêm Kế Tổ
- Giọt Nước Trong Biển Cả của Hoàng Văn Hoan
- The Quycksand War của Lucien Bodard
- Sự hiện diện và hoạt động của các sư đoàn 306, 968 tại Lào:
- Binh Đoàn Hương Giang của Nhà xuất bản Quân đội nhân dân
- Death in the Rice Field của Peter Scholl Latour.
- Tài liệu về Vi Quốc Thanh: Giọt Nước Trong Biển Cả của Hoàng Văn Hoan
- Brother Enemy của Nayan Chanda
- Sự điều động của các đơn vị dân quân quanh Hà nội lên biên giới:
- Chinese Aggression do Vietnam Courier xuất bản 1979
- Tài liệu về quân đội hai nước: Vietnam, a country history và China, a country history, Library of Congress, Washington D. C. 1989. Đoàn Phước Long, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
- Mặt trận Cao Bằng, Lạng Sơn: Sư đoàn Sao Vàng, Binh đoàn Hương Giang, Nhà xuất bản Quân đội nhân dân.
- Các nhật báo Nhân dân và Quân đội nhân dân trong thời gian từ 17-2-1979 đến 6-3-1979.
Chiến tranh Đông dương 3 P14 Ghi chú các nhân vật Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
(Những chữ viết tắt dùng để chỉ các quốc gia Việt nam, Lào, Campuchia, Trung hoa, Hoa kỳ)
Bành Bái (TQ): Cán bộ lãnh đạo cộng sản Trung hoa tại Quảng Châu những năm 1920. Thày dạy nhiều lãnh tụ cộng sản Việt nam trong những lớp do Quốc tế cộng sản tổ chức mà Hồ Chí Minh làm thông ngôn. Bị Quốc dân đảng hành quyết năm 1929.
Bành Chân (TQ): Thị trưởng Bắc kinh từ 1951 tới 1966. Bị thanh trừng trong cuộc Cách mạng Văn Hoá.
Bành Đức Hoài (TQ): Thống Chế Hồng quân. Tư lệnh quân Trung hoa tại Cao Ly từ 1950 đến 1954. Bị mất chức Bộ trưởng quốc phòng năm 1959.
Bluecher Vasily (LX): Tướng lãnh Liên xô, bí danh Ga-lin, cố vấn quân sự trong phái bộ Borodin của Quốc tế cộng sản, giúp thành lập trường Hoàng Phố. Sau 1927, về nước, bị Stalin bắt, đày đi Siberi rồi chết ở đó.
Borodin, Mikhail Markovich (LX): Trưởng phái đoàn cố vấn Liên xô cho Quốc dân đảng, thủ trưởng của Hồ Chí Minh từ 1925 đến 1927. Sau khi về nước, bị Stalin cho bắt và đày đi Siberi rồi chết ở đó.
Bou Thang (Campuchia): Cán bộ Khmer Đỏ trốn sang Việt nam. Sau này được thăng tướng, Bộ trưởng quốc phòng của Hun Sen.
Brévié (Pháp): Thống Đốc Nam Kỳ năm 1935, người đã vẽ ranh giới lãnh hải giữa Việt nam và Campuchia.
Brezinski, Zbigniew (Mỹ): Cố vấn an ninh của Tổng thống Carter, thúc đẩy việc thiết lập ngoại giao với Trung hoa để kìm hãm Liên xô, và vì thế đã trì hoãn việc thiết lập quan hệ ngoại giao với Việt nam.
Bùi Đình Hòe: Tư lệnh sư đoàn 320 sau 1975.
Bùi Cát Vũ: Tư lệnh phó quân đoàn 4 xâm lăng Campuchia, sau này giữ chức tư lệnh phó quân khu VII.
Bùi Phùng: Tổng cục trường Tổng cục hậu cần cộng quân Việt nam trong thời gian chiến tranh biên giới.
Chakray (Campuchia): Tư lệnh quân khu Phnom Penh của Khmer Đỏ, (có tài liệu nói là tư lệnh sư đoàn I). Bị giết năm 1976 vì bị Pol Pot nghi ngờ âm mưu đảo chánh.
Chaplin, B.N. (LX): Đại sứ Liên xô tại Hà nội trong thời gian chiến tranh Đông dương III.
Chu Chẹt (Campuchia): Bí thư khu Tây Khmer Đỏ, bị thanh trừng tháng 3 1978.
Chu Dương (TQ): Chỉ đạo văn nghệ Trung hoa. Bị mất chức năm 1976.
Chu Đức (TQ): Thống chế Hồng quân. Từng làm Bộ trưởng quốc phòng và Chủ tịch Quốc hội Trung quốc. Bị hạ bệ trong cuộc Cách mạng Văn Hoá.
Chu Ân Lai (TQ): Thủ tướng Trung hoa từ 1949 đến lúc chết năm 1976. Bí danh Tiểu Sơn. Từng tham dự hội nghị Genève về Việt nam năm 1954.
Chu Huy Mân: Thượng tướng Cộng quân Việt nam, tổng cục trưởng tổng cục chính trị trong thời gian tranh chấp, mất chức năm 1987.
Diêu Văn Nguyên (TQ): Một trong “Lũ bốn người”, xuất thân phê bình văn nghệ. Tiến thân nhờ thân cận với Giang Thanh. Bị bắt năm 1976 và bị xử tử.
Diệp Kiếm Anh (TQ): Thống chế Hồng quân. Đóng vai trò quan trọng trong việc thanh toán nhóm Giang Thanh. Chủ tịch nhà nước từ 1978 đến 1983.
Duch (Campuchia): Chỉ huy trưởng Công an Khmer Đỏ, chỉ huy trung tâm thẩm vấn Tuol Sleng. Hung thủ những cuộc tra tấn và tàn sát dã man.
Dương Đắc Chí (TQ): Đại tướng Hồng quân. Tham dự trận chiến Cao Ly. Tư lệnh quân khu Tây Nam (Thành Đô). Cùng Hứa Thế Hữu chỉ huy quân Trung hoa trong trận chiến biên giới Việt Hoa. Năm 1980 được thăng Tham mưu trưởng quân đội Trung hoa. Năm 1989 dù đã về hưu cũng viết thư ngỏ cho Đặng Tiểu Bình khuyên không nên dùng quân đội đàn áp sinh viên ở Thiên An Môn.
Đào Đình Luyện: Tư lệnh Không quân năm 1978. sau này được thăng Tổng tham mưu Trường quân đội thay Đoàn Khuê.
Đào Huy Vũ: Tư lệnh thiết giáp năm 1979.
Đàm Văn Nguỵ: Gốc người Thổ, từng giữ chức tư lệnh sư đoàn 316, sau 1980 thay Đàm Quang Trung làm tư lệnh quân khu I.
Đàm Quang Trung: Gốc Thổ, trong chiến tranh Đông dương II làm tư lệnh quân khu IV, trách nhiệm chính trong vụ thảm sát tết Mậu Thân. Được cử thay Chu Văn Tấn làm tư lệnh quân khu I. Mấy năm sau, thăng làm một trong sáu Phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước. Có lẽ là tư lệnh quân đoàn 14 được thành lập khi tình hình Lạng Sơn nguy ngập.
Đặng Tiểu Bình (TQ): Tác giả đường lối cởi mở và thực dụng của Cộng đảng Trung hoa. Đã bị thanh trừng và phục chức hai lần. Từng là Phó Thủ tướng, Tổng bí thư đảng, Chủ tịch quân uỷ Trung ương...
Đặng Dĩnh Châu (TQ): Vợ Chu Ân Lai. Sau khi Chu Ân Lai chết, ủng hộ phe Đặng Tiểu Bình và được bầu vào Bộ Chính trị năm 1978.
Đặng Xuân khu (TQ): Bí danh Trường Chinh. Tổng bí thư Đảng cộng sản Việt nam từ 1940. Mất chức Tổng bí thư năm 1956 sau chính sách Cải cách ruộng đất. Sau đó giữ chức Chủ tịch Quốc hội và rồi Chủ tịch nhà nước.
Đỗ Văn Dũng: Tư lệnh sư đoàn 7 khi xâm lăng Campuchia.
Đoàn Khuê: Tư lệnh quân khu V trong trận chiến 1978-1979. Năm 1987, thay Lê Đức Anh làm Tổng tham mưu trưởng quân đội rồi sau đó Bộ trưởng quốc phòng.
Dap Chuon (Campuchia): Cựu tỉnh trường Siem Reap. Được sự giúp đỡ của chính phủ Ngô Đình Diệm, âm mưu lật đổ Sihanouk năm 1959, nhưng bị bại lộ và bị bắn chết.
Đinh Bá Thi: Tên thật Ưng Văn Chương, được Lê Duẩn nâng đỡ nhờ bày kế để Duẩn lấy người vợ thứ ba. Đại diện Việt nam tại Liên hiệp quốc sau 1975, bị triệu hồi năm 1978 sau vụ án gián điệp. Có tin bị công an đặc biệt của Việt nam giết vì đã móc nối với Trung hoa.
Đỗ Phạm: Tư lệnh sư đoàn 325 thuộc quân đoàn 2 năm 1978, tham dự trận xâm lăng mặt nam Campuchia.
Đồng Văn Cống: Tư lệnh phó quân khu VII, có lẽ đã chỉ huy lực lượng chủ lực quân khu VII (các sư đoàn 5, 302, 303...) để xâm lăng Campuchia từ hướng tây bắc tỉnh Tây Ninh.
Giang Thanh (TQ): Vợ thứ ba của Mao Trạch Đông, xuất thân là diễn viên. Chỉ bắt đầu lộ diện trong cuộc Cách mạng Văn Hoá. Là một trong “Lũ bốn người”, bị bất năm 1976, và bị xử tù chung thân đến lúc chết.
Hieng Samrin (Campuchia): Cựu tư lệnh sư đoàn 4 Khmer Đỏ. Trốn sang Việt nam năm 1978, sau đó được đưa về làm Chủ tịch nhà nước.
Hồ Diệu Bang (TQ): Được Đặng Tiểu Bình nâng đỡ làm Tổng bí thư Cộng đảng Trung hoa từ 1980 đến 1987. Chết năm 1989. Cái chết gián tiếp đưa đến vụ thảm sát Thiên An Môn.
Hồ Chí Minh: Tên thật Nguyễn Tất Thành, còn có nhiều tên khác như Nguyễn ái Quốc, Trần Vương... Khi viết sách tự ca tụng mình thì lấy tên Trần Dân Tiên. Chủ tịch Đảng Lao động (cộng sản) Việt nam và Chủ tịch nhà nước Bắc Việt. Chết năm 1969.
Hoa Quốc Phong (TQ): Chủ tịch đảng cộng sản Trung hoa từ 1976 đến 1982. Từng là Bí thư đảng uỷ Hồ Nam. Bộ trưởng An Ninh năm 1975. Được Mao Trạch Đông đưa lên làm Thủ tướng sau cái chết của Chu Ân Lai. Mất dần quyền lực sau năm 1978.
Hoàng Cầm: Bí danh Năm Thạch. Cựu tư lệnh sư đoàn 312 và 9. Sau 1975, tư lệnh quân đoàn 4. Chỉ huy mũi tấn công chính xâm lăng Campuchia. Sau này được thăng làm Tư lệnh quân khu IV.
Hoàng Minh Chính: Bí thư đoàn Thanh niên cộng sản Việt nam trước 1954. Từng du học tại Liên xô. Cựu Viện trưởng Viện Triết học. Mất chức năm 1967 vì bị coi là “xét lại”
Hoàng Hoa (TQ): Cựu Bộ trưởng ngoại giao của Trung quốc. Mất chức năm 1978 vì thuộc phe của Hoa Quốc Phong.
Hoàng Hoa: Thiếu tướng Cộng quân, Tham mưu trưởng đội quân chiếm đóng của Việt nam tại Campuchia.
Hoàng Văn Hoan: Một trong những lãnh tụ Cộng đảng Việt nam đầu tiên. Từng là Uỷ viên Bộ Chính trị, đại sứ Bắc Việt tại Trung hoa, phó chủ tịch Quốc hội. Trốn sang Tàu năm 1979, tố cáo phe Lê Duẩn bán nước.
Hoàng Minh Thảo: Trung tướng quân đội nhân dân Việt nam. Tư lệnh sư đoàn 304 rồi liên khu tư trong chiến tranh Đông dương I. Chỉ huy mặt trận Tây Nguyên trong chiến tranh Đông dương II. Sau 1975, giữ chức Giám đốc học viện quân sự cao cấp.
Hoàng Hữu Thái: Tư lệnh Hải quân năm 1978.
Holbrook, Richard (Mỹ): Thứ trưởng ngoại giao Hoa kỳ thời Carter, phụ trách việc đàm phán với Việt nam.
Hou Youn (Campuchia): Một trong những lãnh tụ Khmer Đỏ. Đậu tiến sĩ kinh tế học tại Pháp. Mất tích năm 1975, có lẽ bị Pol Pot thanh trừng vì chống đối đường lối quá khích.
Hu Năm (Campuchia): Cựu Bộ trưởng Thông tin Khmer Đỏ. Có bằng Tiến sĩ Luật Khoa, từng dạy ở Đại học Phnom Penh. Bị Pol Pot bắt vào Tuol Sáng ngày 10-4-1977 và bị xử tử
Hun Sen (Campuchia): Trung đoàn trưởng Khmer Đỏ thuộc quân khu Đông. Bỏ trốn sang Việt nam cuối năm 1977. Được Việt nam đưa về, sau này trở thành Thủ tướng.
Hứa Thế Hữu (TQ): Bí thư và Tư lệnh quân khu Quảng Châu. Bảo vệ Đặng Tiểu Bình trong cuộc thanh trừng lần thứ hai. Tổng chỉ huy quân Trung hoa trong trận chiến biên giới. Vì bị tổn thất nặng, mất thực quyền chỉ huy cho Dương Đắc Chí và sau đó bị mất chức.
Ieng Sary (Campuchia): Tên Việt là Kim Trang, em cột chèo của Pol Pot, ngoại trưởng Khmer Đỏ.
Kayson Phomvihan (Lào): Tổng bí thư đảng cộng sản Lào, sau 1975 làm Thủ tướng Lào. Tên thật không rõ, con của Nguyễn Trí Loan, một công chức người Việt tại Lào.
Ke Pauk (Campuchia): Bí thư khu uỷ khu Trung tâm của Khmer Đỏ Trực tiếp thanh trừng quân khu Đông.
Keo Meas (Campuchia): Lãnh tụ cộng sản Campuchia kỳ cựu Bí thư thành uỷ Phnom Penh tới 1958. Bị Pol Pot bắt ngày 20-9-1976 và bị xử tử.
Kham phan Vilacit (Lào): Đại sứ Lào tại Campuchia thời Pol Pot. Xuất thân tu sĩ Phật Giáo.
Khieu Ponnary (Campuchia): Vợ Pol Pot, Chủ tịch Hội Phụ Nữ Khmer Đỏ 1975-1979.
Khieu Sam phan (Campuchia): Tốt nghiệp Sorbonne. Từng giừ chức Chủ tịch nhà nước của chế độ Khmer Đỏ. Hiện nay đại diện Khmer Đỏ trong chính phủ liên hiệp.
Khieu Thirith (Campuchia): Vợ Ieng Sary, từng giữ chức Bộ trưởng Xã Hội Khmer Đỏ.
Kim Tuấn: Tư lệnh sư đoàn 320 năm 1975, sau đó thăng tư lệnh quân đoàn 3. Bị bắn chết tại chiến trường Campuchia.
Koy Thoàn (Campuchia): Bí thư khu uỷ khu Bắc của Khmer Đỏ, bị thanh trừng đầu năm 1976.
La Quý Ba (TQ): Cố vấn chính trị của Trung hoa cho Việt nam từ 1950 đến 1954. Sau 1954 làm đại sứ tại Hà nội. Cố vấn cho Việt nam phát động Cải cách ruộng đất.
Lâm Bưu (TQ): Thống chế Hồng quân. Từng tham chiến ở Mãn Châu, Triều tiên. Được coi như người kế vị Mao Trạch Đông trong những năm của cuộc Cách mạng Văn Hoá. Tử nạn máy bay khi muốn trốn sang Liên xô sau khi đảo chánh thất bại năm 1969.
Lê Đức Anh: Bí danh Sáu Nam, từng phụ tá cho Trần Văn Trà. Đầu năm 1975, được cử tư lệnh đoàn 232 tiến đánh Sài gòn từ hướng nam. Sau ngày 30-4-1975, được cử tư lệnh quân khu IX. Gặp nhiều may mắn và gặp thời. Năm 1977, làm tư lệnh quân khu VII, rồi tư lệnh chiến dịch xâm lăng Campuchia. Thăng Tổng tham mưu trưởng năm 1986, rồi Bộ trưởng quốc phòng và cuối cùng Chủ tịch nhà nước.
Lê Quảng Ba: Gốc người Tày, tư lệnh đầu tiên của sư đoàn 316 (còn gọi là sư đoàn Thổ) trong những năm trận chiến Đông dương I. Bị khai trừ cùng lúc với Chu Văn Tấn.
Lê Ngọc Bi: Tư lệnh mặt trận tỉnh lộ 13 Tây Ninh năm 1978, có lẽ lúc đó kiêm nhiệm tư lệnh sư đoàn 2.
Lê Duẩn. Gia nhập phong trào cộng sản rất sớm. Từng giữ những chức vụ quan trọng như bí thư xứ uỷ Trung Kỳ rồi Nam Kỳ. Sau khi Trường Chinh bị mất chức, được cử làm Bí thư thứ nhất (1957), rồi Tổng bí thư (1976).
Lê Quang Hoà: Tư lệnh quân khu IV năm 1979.
Lê Thiết Hùng: Tốt nghiệp Hoàng Phố, tư lệnh Liên Khu Tư năm 1946. Chỉ huy trưởng trường Lục quân từ 1947 tới 1954. Cùng các cố vấn Trung quốc phát động Rèn cán chỉnh quân để thanh lọc hàng ngũ sĩ quan.
Lê Linh: Thiếu tướng Cộng quân Việt nam, chính uỷ quân đoàn 2 từ 1974.
Lê Hồng Phong: Được gửi đi Liên xô trong thập niên 1920, học trường chính trị Stalin và làm lính không quân Liên xô. Được Quốc tế cộng sản gửi về sau năm 1930, đứng đầu ban “Chỉ huy ở ngoài”, bị Pháp bắt năm 1940.
Lê Khả Phiêu: Phó chính uỷ quân đoàn 2 năm 1975. Tới 1991 làm tổng cục trưởng tổng cục chính trị thay Nguyễn Quyết.
Lê Trọng Tấn: Đại tướng, bí danh Ba Long, xuất thân hạ sĩ quan quân đội Pháp. Trong chiến tranh Đông dương I, làm tư lệnh sư đoàn 312. Trong chiến tranh Đông dương II, làm tham mưu trưởng Cục R. Năm 1972, chỉ huy quân đoàn 72 E đánh Quảng Trị. Tới 1975, chỉ huy cánh quân duyên hải đánh xuống miền Nam. Sau 1975, làm Tổng tham mưu phó quân đội. Năm 1980, thay Văn Tiến Dũng làm Tổng tham mưu trưởng. Chết bất ngờ năm 1986, sau khi được đề cử làm Bộ trưởng quốc phòng.
Lê Thanh: Năm 1979, thiếu tướng quân đội nhân dân Việt nam, tư lệnh phó quân khu I.
Lê Đức Thọ: Tên thật Phan Đình Khải, theo cộng sản từ 1925, từng bị cầm tù tại Sơn La. Năm 1949, được cử vào hoạt động tại miền Nam. Sau 1954, được cử làm Trưởng ban Tổ chức Trung ương đảng. Từ 1968 đến 1973, cố vấn cho Xuân Thuỷ tại Hội nghị Ba Lê. Được coi như cánh tay mặt của Lê Duẩn sau 1975, đóng vai trò quan trọng trong chiến tranh với Campuchia. Bị mất chức năm 1986, khi đảng cộng sản phải “cải tổ” để xoa dịu sự bất mãn của nhân dân.
Liêu Thừa Chí (TQ): Chủ tịch Uỷ ban Hoa kiều Hải ngoại Vụ của Trung hoa, người đầu tiên công bố chính sách của Trung hoa đối với Hoa kiều hải ngoại.
Lưu Thiếu Kỳ (TQ): Chủ tịch nhà nước Trung quốc từ 1958 đến 1967. Là mục tiêu chính của Hồng vệ binh. Thầy dạy nhiều cán bộ lãnh đạo Cộng đảng Việt nam, trong đó có Hoàng Văn Hoan.
Lon Nol (Campuchia): Tham mưu trưởng quân đội Campuchia từ 1954. Đảo chánh Sihanouk năm 1970, và làm quốc trưởng tới 1974.
Lý Tiên Niệm (TQ): Phó Thủ tướng Trung quốc nhiều năm (từ 1962). Chủ tịch nhà nước Trung hoa từ 1983 đến 1988.
Mai Xuân Tần: Tham mưu trưởng Quân Đoàn 2 năm 1979. Sau thăng thiếu tướng.
Mao Trạch Đông: Chủ tịch đảng cộng sản Trung hoa từ 1945 đến 1976. Tư tưởng cũng như đường lối của Mao đã được các lãnh tụ cộng sản Việt nam tôn sùng và học tập.
Nghiêm Kế Tổ: Lãnh tụ Việt nam Quốc dân đảng có uy tín với Quốc dân đảng Trung hoa, từng can thiệp để cứu Hồ Chí Minh ra khỏi tù. Thứ trưởng ngoại giao trong chính phủ liên hiệp 1945.
Ngô Đình Diệm: Thủ tướng rồi Tổng thống Nam Việt nam từ 1954. Bị giết trong vụ đảo chánh ngày 1-11-1963.
Ngô Điền: Đại sứ Việt nam tại Phnom Penh trước 1978 và sau 1979.
Ngô Đình Nhu: Em ruột và cố vấn cho Ngô Đình Diệm, bị giết cùng lúc với anh.
Ngô Trọng Hiếu. Đại sứ Nam Việt nam tại Phnom Penh thời Tổng thống Diệm. Dự phần trong các âm mưu lật đổ và ám sát Sihanouk.
Nhim Ros (Campuchia): Bí thư khu uỷ khu Tây Bắc của Khmer Đỏ, bị Pol Pot thanh trừng vào cuối năm 1977.
Nguyễn Hữu An: Từng tham dự trận Điện Biên Phủ với chức Trung đoàn trưởng. Tư lệnh quân đoàn 2 sau 1975. Sau trận chiến Đông dương III, được thăng trung tướng, thay Hoàng Minh Thảo làm Giám đốc Học viện quân sự.
Nguyễn Thế Bôn: 1975 tư lệnh phó quân đoàn 1, năm 1979 phụ tá cho Hoàng Cầm chỉ huy quân đoàn 4 để xâm lăng Campuchia. Năm 1980, được thăng làm một trong nhiều Tổng tham mưu phó quân đội.
Nguyễn Nhơn: Tư lệnh sư đoàn 2. Năm 1979 thay Nguyễn Hữu An làm tư lệnh quân đoàn 2 trong một thời gian ngắn.
Nguyễn Khắc Hào. Chính uỷ sư đoàn 3 trong trận chiến Việt Hoa. Mấy năm sau thăng thiếu tướng, tư lệnh quân đoàn 5 Tân lập.
Nguyễn Xuân Hoà: Thiếu tướng, tư lệnh binh đoàn 94, một binh đoàn được thành lập tại Campuchia, rút về nước năm 1987 và bị giải thể. Năm 1990, Nguyễn Xuân Hoà được cử làm chính uỷ quân khu VII.
Nguyễn Nam Hưng: Tư lệnh sư đoàn 303 thuộc lực lượng quân khu VII xâm lăng từ hướng tây bắc Tây Ninh.
Nguyễn Văn Linh: Bí danh Mười Cúc, bí thư thành uỷ Sài gòn năm 1975. Được vào Bộ Chính trị năm 1976. Tới 1986, được bầu Tổng bí thư. Được Gorbachev hậu thuẫn, phát động chính sách “đổi mới”.
Nguyễn Quyết: Tư lệnh quân khu III năm 1979, sau đó được thăng Thượng tướng, chủ nhiệm Tổng cục Chính trị từ năm 1987, thay Chu Huy Mân. Còn được giữ chức tư lệnh quân đoàn 68, một quân đoàn được thành lập năm 1979 để phòng thủ biên giới Việt Hoa. Quân đoàn này bị giải thể cuối năm 1980.
Nguyễn Sơn: Tốt nghiệp Hoàng Phố và phục vụ Cộng quân Trung hoa, theo Mao Trạch Dông chạy đến Diên An. Về nước sau 1945 được cử làm tư lệnh Liên Khu Tư. Vì bất hoà với Hồ và Giáp nên bị gửi trả về Trung quốc.
Nguyễn Cơ Thạch: Thứ trưởng ngoại giao năm 1979. Thay Nguyễn Duy Trinh làm ngoại trưởng năm 1980. Tới 1992 bị mất chức.
Nguyễn Quốc Thước: Tư lệnh quân đoàn 3 tại Campuchia sau khi Kim Tuấn tử trận. Năm 1988, thay Hoàng Cầm làm tư lệnh quân khu IV.
Nguyễn Duy Trinh: ngoại trưởng chính phủ cộng sản nhiều năm cho tới 1980.
Nguyễn Thanh Tùng. Thiếu tướng Cộng quân. Tư lệnh binh đoàn 99, một binh đoàn được thành lập để bình định Campuchia. Binh đoàn này rút về nước năm 1987, có lẽ đã bị giải thể. Hiện Tùng được cử làm chính uỷ kiêm tư lệnh phó quân khu IX.
Nguyễn Duy Thương: Tư lệnh sư đoàn 3, sư đoàn chính phòng thủ Lạng sơn.
Nguyễn Trọng Vĩnh. Đại sứ Việt nam tại Bắc kinh trong thời gian tranh chấp.
Nguyễn Văn Vịnh: Trung tướng Cộng quân, bị kết tội làm gián điệp cho Liên xô trong những năm Liên xô chủ trương “xét lại”. Nhưng chỉ bị giáng xuống thiếu tướng khi Việt nam muốn lấy lòng Liên xô.
Nguyễn Trọng Xuyên: Chính uỷ quân khu III năm 1979. Hiện là tổng cục trưởng tổng cục hậu cần.
Nuon Chia (Campuchia): Nhân vật số 2 của Khmer Đỏ sau Pol Pot.
Pen Sovan (Campuchia): Cán bộ Cộng Sản Campuchia. Tập kết đi Hà nội năm 1954, đeo quân hàm thiếu tá Cộng quân Việt nam trước khi được đưa về năm 1979. Được đề cử làm Chủ tịch đảng cộng sản mới thành lập năm 1979, sau đó bị mất chức vì không được lòng cán bộ Việt nam.
Phạm Văn Ba: Đại sứ Việt nam tại Phnom Penh trước 1978.
Phạm Văn Đồng. Bí danh Lâm Bá Kiệt, theo cộng sản rất sớm. Học trường Bưởi nhưng bỏ học vì rớt Tú tài. Bộ trưởng Tài chánh năm 1945. Thủ tướng Bắc Việt từ 1954 đến 1975, Thủ tướng cả nước từ 1975 đến 1986. Nơi nào, lúc nào mà Đồng làm Thủ tướng có lẽ là thời gian và nơi chốn mà nhân dân Việt bị nghèo đói và điêu linh nhất.
Phạm Hùng: Tên thật Phạm Văn Thiện, trong thời kỳ chiến tranh Đông dương III, đứng hàng thứ tư trong Bộ Chính trị. Sau đó có lúc được làm Thủ tướng một thời gian ngắn.
Phan Hiền: Một trong nhiều Thứ trưởng ngoại giao của Việt nam.
Phương Nghị (TQ): Cán bộ Cộng đảng Trung hoa. Từ 1961, là Chủ tịch Uỷ ban Kế hoạch Nhà nước trực tiếp phụ trách công tác viện trợ cho Việt nam trong nhiều năm. Năm 1978 là Phó Thủ tướng.
Pol Pot (Campuchia): Tên thật Saloth Sar. Lãnh tụ Khmer Đỏ.
Sam Sary (Campuchia): Cựu cố vấn của Sihanouk. Đại sứ Campuchia tại Luân Đôn năm 1957. Trở thành đối lập sau khi bị triệu hồi. Mất tích từ 1962, có lẽ bị Sihanouk cho người ám sát.
Siêu Heng (Campuchia): Nhân vật số 2 phong trào cộng sản Campuchia trong chiến tranh Đông dương I. Hồi chánh Sihanouk năm 1959.
Sihanouk Norodom (Campuchia). Hiện đã trở về làm Quốc trưởng Campuchia, một chính trị gia khôn khéo, nhưng cũng gặp nhiều phen trầm từ khi cầm quyền trong một nửa thế kỷ qua.
Sirik Matak (Campuchia): Đối thủ chính trị của Sihanouk, cùng Lon Noi đảo chánh năm 1970. Từ chối di tản, và ở lại bị Khmer Đỏ giết.
So Khaeng (Campuchia): Đại sứ Campuchia tại Hà nội tới 1977, về nước bị thanh trừng vì bị một viên chức ngoại giao Hà nội “ôm hôn thắm thiết” khi từ giã tại phi trường.
So Phim (Campuchia). Cán bộ lãnh đạo Khmer Đỏ, từng giữ những chức Uỷ viên thường vụ đảng, phó chủ tịch Hội đồng Nhà nước, tư lệnh quân khu Đông. Bị Pol Pot thanh trừng ngày 2-6-1978.
Son Sann (Campuchia): Cựu Bộ trưởng Tài Chánh thời Sihanouk trước kia, lập một Mặt trận giải phóng sau khi Việt nam xâm lăng, hiện đứng đầu một trong ba thành phần của chính phủ liên hiệp.
Son Sen (Campuchia): Bộ trưởng quốc phòng của Khmer Đỏ.
Sơn Ngọc Minh Campuchia) Chủ tịch đầu tiên của cộng sản Campuchia, tập kết đi Hà nội năm 1954 rồi chết ở Bắc kinh.
Sơn Ngọc Thành (Campuchia). Chính khách Campuchia, sinh tại Nam Việt nam. Bộ trưởng ngoại giao rồi Thủ tướng năm 1945.
Souphanouvong (Lào) Thuộc hoàng tộc Lào, theo cộng sản, được giữ chức Chủ tịch nhà nước sau 1975.
Sùng Lãm: Tư lệnh đặc khu Quảng Ninh sát biên giới Việt Hoa năm 1979.
Sử Chân Hoa (TQ): Tư lệnh hải quân Trung hoa năm 1979
Ta Mok (Campuchia): Tên thật Chhit Chhoeun, bí thư khu uỷ khu Tây Nam, sau được cất nhắc làm Tổng tham mưu trưởng quân Khmer Đỏ.
Ta Po (Campuchia): Tư lệnh quân khu Đông sau khi So Phim bị thanh trừng.
Tauch Phoem (Campuchia): Bộ trưởng Công Chánh Khmer Đỏ bị thanh trừng ngày 26-1-1977
Tôn Hạo (TQ): đại sứ Trung hoa tại Campuchia trong thời gian 1975-1978
Tou Sanmouth (Campuchia): Tổng bí thư Đảng Lao động Campuchia từ 1960. Mất tích năm 1962, có lẽ bị Pol Pot ám sát để đoạt quyền.
Trần Xuân Bách: Trưởng đoàn B68, phụ trách cố vấn hành chánh cho chính quyền Hồng Samrin. Năm 1986, được bầu vào Bộ Chính trị, nhưng bị loại năm 1990 vì chủ trương đổi mới thực sự.
Trần Tử Bình. Theo cộng sản rất sớm. Chính uỷ trường Lục quân trong chiến tranh Đông dương I. Sau làm đại sứ Bắc Việt tại Bắc kinh. Bị thất sủng vì thân Trung hoa.
Trần Canh (TQ): Đại tướng Trung quốc, tốt nghiệp Hoàng Phố. Cố vấn đặc biệt cho Hồ Chí Minh trong chiến dịch biên giới 1950. Chết năm 1955 khi đang giữ chức Thứ trưởng quốc phòng.
Trần Bá Đạt (TQ). Thăng tiến nhờ ở cuộc Cách mạng Văn Hoá. Hàng thứ năm trong Bộ Chính trị năm 1966. Bị phe Đặng Tiểu Bình thanh trừng năm 1976 khi đang là bí thư thành uỷ Thượng Hải.
Trần Trọng Kim: Học giả, Thủ tướng đầu tiên của Việt nam, nổi tiếng về đạo đức và sự thanh bạch. Tác giả nhiều bộ sách biên khảo giá trị như Việt nam sử lược, Nho Giáo.
Trần Tích Biên (TQ): Tư lệnh quân khu Bắc kinh từ 1974. mất chức năm 1980 vì thuộc phe Hoa Quốc Phong.
Trần Nghiêm Thay Lê Đức Anh làm tư lệnh quân khu IX năm 1977.
Trần Chí Phong (TQ). Đại sứ Trung hoa tại Hà nội tướng thời gian tranh chấp.
Trần Hải Phụng: Cựu tư lệnh sư đoàn 303, giữ chức tư lệnh đặc khu Sài gòn từ hơn mười năm nay.
Trần Hồng Quý (TQ): Phó Thủ tướng Trung hoa, xuất thân giám đốc Đại trại, một nông trường tập thể khuôn mẫu từng được lấy làm điển hình “Nông nghiệp học tập Đại trại công nghiệp học tập Đại khánh”. Mất chức năm 1979 vì thuộc phe Hoa Quốc Phong.
Trần Văn Trà. Bí danh Tư Chi, hoạt động cộng sản ở miền Nam suốt trong hai cuộc chiến Đông dương I và II. Sau 1975, được cử tư lệnh quân khu VII, tới 1977 thì mất chức.
Trần Trọng Trai: Tư lệnh sư đoàn 304 thuộc quân đoàn 2 trong thời gian xâm lăng Campuchia.
Trần Văn Trân: Tư lệnh phó quân đoàn 4, cựu tư lệnh sư đoàn 341, mất chức này năm 1975 sau khi sư đoàn này bị sư đoàn 18 VNCH đánh tan tại Xuân Lộc.
Trần Độc Tú (TQ) Chủ tịch đảng đầu tiên của Cộng đảng Trung hoa từ 1921 đến 1927.
Trần Thanh Vân. Tư lệnh sư đoàn 5 Cộng quân Việt nam.
Triệu Tử Dương (TQ): Uỷ viên Bộ Chính trị Cộng đảng Trung hoa năm 1979. Thủ Tướng 1980. Thay Hồ Diệu Bang làm Tổng bí thư 1987. Mất chức năm 1989 ngay trước khi xảy ra vụ thảm sát Thiên An Môn.
Trương Đình Dzu: Cựu Luật sư tại Nam Việt nam, thành lập thành phần thứ ba”. Bị bắt ra Côn Đảo. Sau 1975, được cộng sản thả ra một thời gian ngắn rồi bị bắt lại.
Trương David: Con Trương Đình Dzu, bị toà án Hoa kỳ kết án về tội gián điệp. Định cư ở Hoà Lan sau khi mãn hạn tù.
Trương Xuân Kiều (TQ): Một trong lũ bốn người. Trong cuộc Cách mạng Văn Hoá, được bầu Ban thường vụ Bộ Chính trị. Năm 1975 là Phó Thủ tướng. Sau cuộc thanh trừng năm 1976, bị bắt và bị xử tử.
Vance, Cyrus (Mỹ): ngoại trưởng Hoa kỳ năm 1979. chủ trương hoà hoãn với cả Trung hoa lẫn Liên xô.
Văn Tiến Dũng. Từng bị bắt vì tội sát nhân năm 1944, thoát nạn nhờ Nhật đảo chính Pháp. Vì xuất thân lao động, nên được đặc biệt nâng đỡ. Được phong thiếu tướng từ 1948, Tư lệnh sư đoàn 320 năm 1952. Sau thất bại của mùa hè đỏ lửa năm 1972, Võ Nguyên Giáp bị mất chức, Dũng lên thay làm Tổng tham mưu trưởng, rồi Bộ trưởng quốc phòng năm 1980. Bị đảng khai trừ năm 1986 để xoa dịu sự bất mãn của binh sĩ đối với lãnh đạo.
Vi Quốc Thanh (TQ): Đại tướng Trung quốc. Phụ trách tiếp vận cho chiến dịch biên giới của Việt nam năm 1951. Chủ nhiệm Tổng cục Chính trị trong thời gian chiến tranh Đông dương III. Gốc người Nùng.
Võ Văn Dần: Cựu Tư lệnh Sư Đoàn 9 Cộng quân Việt nam. Từ 1975, tư lệnh phó quân đoàn 4, sau 1980 thay Hoàng Cầm làm tư lệnh.
Võ Nguyên Giáp: Đại lượng cộng quân Việt nam, nổi liếng nhờ trận Điện Biên Phủ. Đứng hàng thứ 5 trong Bộ Chính trị năm 1955, rồi mất dần quyền hành sau thất bại của Tết Mậu Thân và mùa hè đỏ lửa. Tới 1980 thì mất luôn chức Bộ trưởng quốc phòng
Vorn Veth (Campuchia): Một lãnh tụ Khmer Đỏ, cựu Bí thư Thành uỷ Phnom Penh, bị bắt vào Tuol Sleng ngày 2-11-1978 và bị xử tử.
Vũ Cao: Tư lệnh sư đoàn 341 Cộng quân Việt nam trong cuộc chiến Đông dương III.
Vũ Lập: Tư lệnh quân khu II trong thời gian chiến tranh biên giới.
Vũ Hán (TQ): Phó Thị Trưởng Bắc kinh khi bị thanh trừng trong cuộc Cách mạng Văn hoá. Tác giả vở kịch “Hải Thuỵ bị mất chức”.
Vương Chân (TQ): Phó Thủ tướng Trung hoa trong thời gian chiến tranh biên giới. Phạm lỗi lầm chiến thuật khi báo trước sẽ không tiến vào châu thổ sông Hồng. Nổi tiếng tàn nhẫn và khát máu (đích thân ngồi xe lăng tấn công sinh viên trong vụ thảm sát Thiên An Môn 1989)
Uông Đông Hưng (TQ): Uỷ viên Bộ Chính trị. Chỉ huy biệt đội 8341 bảo vệ các yếu nhân đảng. Góp phần quan trọng trong việc thanh toán Lũ bốn người. Phó Chủ tịch đảng từ 1977, đến 1980 thì mất chức.
Vương Minh (TQ): đối thủ của Mao Trạch Đông trong những năm đầu tiên của Cộng đảng Trung hoa. Nhờ sự nâng đỡ của Quốc tế cộng sản, được cử làm Tổng bí thư đảng một thời gian ngắn trong năm 1931 khi mới 24 tuổi.
Vương Hồng Văn (TQ): Một trong “Lũ bốn người”, sau bị bắt và bị tù chung thân.
Vương Thừa Vũ: Cựu Tư lệnh sư đoàn 308. Năm 1954, chủ tịch Uỷ ban tiếp quản Hà nội, sau làm tư lệnh quân khu III, rồi Tổng tham mưu phó huấn luyện. Không hiểu căn cứ vào tài liệu nào, Douglas Pikes cho tên thật Vũ là Vương Văn Giao, rất giỏi toán, trong khi trong cuốn “Trưởng thành trong chiến đấu”, Vũ nhận tên thật là Nguyễn Văn Đồi, và hồi nhỏ chỉ học võ Tàu.
Woodcock, Leonard (Mỹ): Cựu chủ tịch nghiệp đoàn công nhân xe hơi, trưởng phái đoàn thiện chí Mỹ qua thăm Việt nam năm 1976, khuyến dụ Việt nam thiết lập quan hệ ngoại giao. Hai năm sau, khi làm trường phái bộ liên lạc Hoa kỳ lại Bắc kinh, lại khuyến cáo Tổng thống Carter đình hoãn chuyện đó.
(Bảng liệt kê danh sách, gồm những người ít nhiều liên quan đến thời cuộc lúc đó. Để giúp cho việc tra cứu và cập nhật hoá, tác giả đưa ra thêm một số người đã không được nêu ra trong cuốn sách).
Chiến tranh Đông dương 3 Phần Kết Sơ lược về một số sư đoàn bộ binh Việt nam Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
(Theo dõi về những đơn vị quân sự Việt nam là một điều khó khăn. Với bản chất đa nghi, cùng với những yếu lố quân sự và chính trị, nên danh hiệu các đơn vị của họ luôn được giấu kín hay thay đổi. Những trung đoàn nằm trong các sư đoàn cũng luôn hoán chuyển. Vì thế, với khả năng hữu hạn của tác giả, bảng sơ lược này đã không thể hoàn hảo như ý muốn).
¤ Sư đoàn 2: trước 1975, hoạt động tại Quảng Ngãi, đối đầu với sư đoàn 2 VNCH. Năm 1978, tăng phái quân đoàn 4 xâm lăng Campuchia.
¤ Sư đoàn 3: hay Sao Vàng, trước hoạt động tại Quy Nhơn, sau 1975 đổi ra Bắc, giữ trách nhiệm phòng thủ Lạng Sơn trong trận chiến biên giới Việt Hoa (thuộc quân đoàn 14). Sư đoàn 4: chủ lực quân khu IX (cùng với các sư đoàn 8 và 330).
¤ Sư đoàn 5: từng hoạt động tại vùng Phước Tuy, sau 1975, là chủ lực quân khu VII.
¤ Sư đoàn 6: Trước 1975, thuộc quân đoàn 4, sau đó không thấy nhắc đến, có lẽ đã bị sư đoàn 18 VNCH đánh tan trong trận Xuân Lộc.
¤ Sư đoàn 7: tuy nói là được thành lập tại miền Nam trong chiến tranh Đông dương II, nhưng đa số là quân của sư đoàn 312 Bắc Việt xâm nhập. Sau 1975, được biên chế vào quân đoàn 4.
¤ Sư đoàn 8: chủ lực quân khu IX, tăng cường cho quân đoàn 2 xâm lăng Campuchia, được thành lập đầu năm 1975.
¤ Sư đoàn 9: thuộc quân đoàn 4. Trước 1975, hoạt động ở Tây Ninh và biên giới Việt Miên. Sư đoàn đầu tiên của Việt cộng. Sư đoàn lo: thuộc quân đoàn 3. Trước 1975, hoạt động tại Pleiku, Kontum, còn gọi là F 10.
¤ Sư đoàn 302: trước là sư đoàn 2 Việt cộng, hoạt động trong vùng Hậu Nghĩa, Tây Ninh (khác với sư đoàn 2 ở Quảng Ngãi). Sau 1975, là chủ lực của quân khu VII. Sư đoàn 303: trước là sư đoàn 3 Việt cộng, hoạt động ở Phước Long, (khác với sư đoàn 3 Sao vàng ở Quy Nhơn), sau là chủ lực quân khu VII. Gần đây trở nên chính quy trong quân đoàn 1.
¤ Sư đoàn 304: một trong những sư đoàn đầu tiên. Trong trận chiến Đông dương II, hoạt động trong vùng Đà Nẵng, Quảng Nam. Sau 1975, thuộc quân đoàn 2. Sư đoàn 306: thuộc quân đoàn 2. Chuyên hoạt động tại Lào (trong cuộc hành quân Lam Sơn 719, tư lệnh sư đoàn Nguyễn Xuân Rực bị lữ đoàn 1 Dù hạ sát).
¤ Sư đoàn 308: sư đoàn đầu tiên của Cộng quân từ 1950. Tham chiến trong mùa hè đỏ lửa. Thuộc quân đoàn 1 chính quy Tự gọi là sư đoàn quân tiên phong.
¤ Sư đoàn 320: có lẽ là cải danh của sư đoàn 10 sau 1975. Năm 1979, hoạt động tại miền đông bắc Campuchia.
¤ Sư đoàn 312: cũng được thành lập năm 1950. Thuộc quân đoàn 1. Tự gọi sư đoàn Chiến Thắng.
¤ Sư đoàn 316: sư đoàn Thổ, cũng là một trong những sư đoàn đầu tiên. Năm 1975 lén vào Nam, tấn công Ban Mê Thuộc. Sau đó làm chủ lực quân khu II, phòng thủ Lào Cai. Sư đoàn 317: được thành lập đầu năm 1979 để tăng cường mặt trận Campuchia, nòng cất từ các trung đoàn Gia Định và Quyết Thắng.
¤ Sư đoàn 318: thành lập cùng lúc với sư đoàn 317, sau tổng động viên.
¤ Sư đoàn 319: có lẽ được thành lập năm 1980 để phòng thủ biên giới Việt Hoa.
¤ Sư đoàn 320: thành lập năm 1950, thuộc quân đoàn 3. Tư lệnh đầu tiên là Văn Tiến Dũng. Năm 1965, tách ra làm 2. Sư đoàn 320A xâm nhập vào nam, hoạt động tại Pleiku, Kontum. Sư đoàn 320B hoạt động tại Quảng Trị. Từ 1975, 320A biên chế vào quân đoàn 3. Còn gọi là sư đoàn Đồng Bằng. Sư đoàn 324: trước 1975, hoạt động tại Thừa Thiên, Quảng Trị, sau biên chế vào quân đoàn 2, rồi làm chủ lực cho quân khu IV.
¤ Sư đoàn 325: thành lập từ trận chiến Đông dương I, được giao trọng trách đàn áp nhân dân Quỳnh Lưu, rồi là thủ phạm chính trong vụ thảm sát Mậu Thân tại Huế. Thuộc quân đoàn 2. Sư đoàn 327: thuộc quân đoàn 14, bị tràn ngập trong thị xã Lạng Sơn trong trận chiến Việt Hoa.
¤ Sư đoàn 330: Thành lập tại miền Nam rồi tập kết ra Bắc (lúc đó tư lệnh Đồng Văn Cống). Sau 1975, là chủ lực quân khu IX
¤ Sư đoàn 335: Trong chiến tranh Đông dương I, được gọi sư đoàn Thái, tuy nhiên sau này không thấy nhắc đến.
¤ Sư đoàn 337: sau 1975, thuộc quân khu IV ra tăng cường phòng thủ Lạng Sơn, biên chế vào quân đoàn 14.
¤ Sư đoàn 338: cũng là một sư đoàn tập kết (tư lệnh Tô Ký). Năm 1975, thuộc quân đoàn 1, tấn công Sài gòn. Năm 1979, biên chế vào quân đoàn 14, phòng thủ cầu Khánh Khê, Lạng Sơn.
¤ Sư đoàn 339: đơn vị chiếm Kompong Speu đầu năm 1979, sau giữ việc phòng thủ Phnom Penh.
¤ Sư đoàn 341: thành lập tháng 7-1972 tại Nghệ An nhằm tăng cường mặt trận Quảng Trị sau khi các sư đoàn 304, 308, 325 bị tổn thất nặng trong mùa hè đỏ lửa. Năm 1975, được biên chế vào quân đoàn 4. Còn gọi là sư đoàn Sông Lam.
¤ Sư đoàn 345: phòng thủ Lào Cai, thuộc quân khu II. Sư đoàn 347: thuộc quân đoàn 14 phòng thủ Lạng Sơn.
¤ Sư đoàn 390: thuộc quân đoàn 1.
¤ Sư đoàn 411: được thành lập sau khi Hà nội tổng động viên.
¤ Sư đoàn 567: phòng thủ Cao Bằng trong chiến tranh biên giới.
¤ Sư đoàn 711: trong chiến tranh Đông dương II, hoạt động tại Quảng Tín, Tam Kỳ.
¤ Sư đoàn 968: hoạt động tại Kontum, Pleiku trong trận chiến Đông dương II. Sau 1975, trú đóng tại Lào.