Vua Minh Mạng ( 1820 - 1840)
Chê Khéo Nhà Vua
Câu Thơ Hoàng Bào
Đối Đáp Giữa Minh Mạng Và Cao Bá Quát
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Trong thời kỳ làm Cung Trung Giáo tập, bà Thanh Quan do tài làm thơ và đức độ dạy học, được Minh Mạng tin dùng, quí mến. Bà thường được nhà vua đàm luận thơ văn.
Một lần có bộ chén kiểu của Trung Quốc mới đưa sang, chén vẽ sơn thủy Việt Nam và có đề thơ nôm cũng như một số đồ sứ kiểu thời đó, Minh Mạng đưa khoe với những người chung quanh. Mọi người yêu cầu bà Huyện Thanh Quan làm một bài thơ chữ Nôm. Bà làm ngay hai câu thơ rằng:
Như in thảo mộc trời Nam lại.
Đem cả sơn hà đất Bắc sang.
Vua Minh Mạng rất thích thú.
Cùng hôm đó, nhà vua viết hai chữ Phúc Thọ rất lớn để " ban ơn " chúc mừng một đại thần nào đó. Ông hỏi bà Thanh Quan chữ viết như thế nào, bà khen:
Phúc tối hậu,
Thọ tối trường
Nghĩa là
Phúc rất dày,
Thọ rất dài
Ban đầu Minh Mạng hơi ngơ ngác, sau nhìn kỹ lại ông mới hiểu ý, bèn mỉm cười và gật đầu. Thì ra Minh Mạng đã viết chữ Phúc béo phục phịch và chữ Thọ dài lêu đêu.
Bà Huyện Thanh Quan tuy ngầm chê chữ viết của Minh Mạng, nhưng lời chê thật khéo léo và văn vẻ.
( Theo Giai Thoại văn học Việt Nam Hoàng Ngọc Phách )
Câu thơ Hoàng Bào
Lê Văn Duyệt trả thù được Nguyễn Văn Thành như đã thỏa nguyện. Ai ngờ sau khi Lê Văn Duyệt chết rồi ( 1831 ) thì đến năm ( 1835 ), mộ ông ta lại bị Minh Mạng cho san phẳng và sai dựng lên tại đó một hòn đá lớn khắc mấy chữ thật to;
- Chổ này là nơi tên Hoạn Lê Văn Duyệt phục pháp.
Nguyên do chính là vì Duyệt là bố nuôi của Lê Văn Khôi, người cầm đầu cuộc khởi nghỉa thành Phiên An, chiếm lỉnh toàn cỏi Nam Bộ từ 1833 đến 1835. Nhưng khi bắt tội Lê Văn Duyệt người ta đã gán cho Duyệt bảy tội đáng chém và hai tội đáng thắt cổ. Trong hai tội sau, có tội gọi là " câu thơ Hoàng Bào ".
Số là sau khi Gia Long chết ( và Nguyễn Văn Thành bị vu oan phải tử tự ) thì Lê Văn Duyệt là người oai quyền nhất nước, đến Minh Mạng cũng phải kiêng nể. Lúc bấy giờ, người ta đồn rằng Lê Văn Duyệt hay khoe chuyện với người chung quanh là ông ta có xin được một quẻ thánh cho, có bốn câu thơ như sau:
Tá Hán tranh tiên chư Hán tướng.
Phù Chu ninh hậu tập chu thần
Tha niên tái ngộ trần Kiều sự
Nhất đán hoàng bào bức thử thân
Bài thơ ý nói:- Giả sử, nay mai lại xảy ra một vụ binh biến như vụ Trần Kiều, quân lính ép ta lên làm vua như đời xưa họ đã từng ép Tống Thái Tổ Triệu Khuông Dẫn, thì có lẽ ta cũng đành lòng nghe theo họ, chứ không thể nào khác hơn. Sự việc thực hư như thế nào không biết, nhưng trong dịp hỏi tội Lê Văn Duyệt để xử ( mặc dầu đã chết rồi ) thì có người nhắc đến việc đó, và triều đình lên án thành một tội đáng để xử thắt cổ.
( Theo Đại Nam chính biên liệt truyện )
Đối đáp giữa Minh Mạng và Cao Bá Quát
Một hôm Cao Bá Quát từ Bắc ninh sang chơi Hà Nội. Bấy giờ Quát mới là một cậu học trò để chỏm. Quát thấy Hà Nội có vẻ rộn rịp khác thường, hỏi ra mới biết Minh Mạng ngự giá Bắc Thành đi thăm Hồ tây và các thắng cảnh khác. Chờ đúng giờ Đạo ngự đi đến Hồ tây, Quát giả vờ xăm xăm nhảy xuống hồ để tắm. Quan quân thấy vậy hoảng hốt, thét bắt trói lại. Càng bị trói , quát càng gào to và giảy giụa vùng chạy, gây ồn ào, hổn độn bên bờ hồ. Vừa lúc đó, kiệu vua đi qua, Minh Mạng truyền lệnh dẫn Quát đến hỏi. Quát kêu là học trò khó mới ở nhà quê lên, nên không biết gì.
Minh Mạng nghe nói liền nảy ra một ý : nhân dưới hồ nước trong có nhiều đàn cá lội tung tăng đuổi bắt nhau, ông ra một câu vế đối:
- Nước trong leo lẻo cá đớp cá
Và hứa với Quát đối được sẽ tha. Quát không cần nghĩ ngợi, cũng tức cảnh việc mình bị trói , đối lại:
Trời nắng chang chang, người trói người
Minh Mạng tức giận trước câu đối ấy, nhưng vì không muốn mang tiếng với người Bắc Hà trong fdịp đầu tiên ra thăm Đất Bắc, nên Đành truyền lệnh cởi trói tha cho Cao Bá Quát
( Theo Bá Bá Quát - Trúc Khê )
Vua Minh Mạng ( 1820 - 1840)
Với Khoa Học Kỹ Thuật Phương Tây
Sự Cấm Đạo
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Minh mạng trong những tiến bộ khoa học kỹ thuật phương Tây. Một lần viên quan Pháp Phillippe Vannier ( tên Việt là Nguyễn Văn Chấn ) dâng vua hai thước đồng Thái Tây tên là Đồng Nhật Khuy, chưa ai biết được phép dùng thế nào.
Minh mạng thường khảo sát, tìm tòi sử dụng trong những lúc thong thả, khi đã hiểu được cách dùng mới bảo Phan Huy Thực và Nguyễn Danh Bi rằng:
- Thước đồng này bằng, nghiêng,cao, thấp phân biệt độ số, gần thời đo được núi non, xa thời xem được trời đất, phép tài lắm .
Nhân đó mới chỉ bảo rõ ràng, khiến sự suy nghiệm sách Quốc Triều Chính biên chép:
- Tháng bốn Ngài ngự chơi cầu Bến Ngự, xem thí nghiệm tàu chạy máy hơi. Khi trước khiến Sở Võ Khố chế tạo tàu ấy, đem xe chở ra sông, giữa đường vỡ nồi nước, máy không chạy, người đốc công bị xiềng , quan bộ Công là Nguyeẽn Trung Mậu, Ngô Trung Lân vì cớ tâu không thật bị bỏ ngục. Bây giờ chế tạo lại, các máy vận động nhanh, thả xuống nước chạy mau. Ngài ban thưởng giám đốc là Hoàng Văn Lịch, Võ Huy Trinh mỗi người một cái nhẫn pha lê độ vàng, một đồng tiền vàng Phi Long hạng lớn, đốc công và binh tướng được thưởng chung 1000 quan tiền. Ngài truyền rằng:
- Tàu này mua bên Tây cũng được, nhưng muốn cho công tượng nước ta tập quen máy móc cho khéo, vậy nên chẳng kể lao phí gì.
Xem vậy, vua Minh Mạng có ý thức khuyến khích học hỏi kỹ thuật tiên tiến phương Tây, dù chỉ là những bắt chước vặt vãnh.
Năm Đinh Dậu thứ 18 ( 1837 ) đã có loại xe máy dùng để cưa ván ( bắt chước theo cách Tây ) . Minh Mạng xem, truyền:
- Xe này dùng trâu kéo, con trâu kéo quen thời dẫu gầy ốm mà kéo cũng mạnh, con trâu ở nể dầu to béo mà thở mệt kéo không nổi, cho nên ta thiệt ghét những người ở nể mà không làm việc .
( Theo Quốc triều chính biên )
Sự cấm đạo
Từ khi Minh Mạng lên ngôi, nhà vua đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo ở trong nước. Đến năm Ất Dậu ( 1825 ) có chiếc tàu Thétis vào cửa Đà Nẳng, có một giáo sỉ tên là Rogerot đi giảng đạo các nơi, Minh Mạng lúc ấy mới có dụ cấm đạo. Trong dụ nói rằng:
- Đạo phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục, cho nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo.
Nhà vua sai tìm bao nhiêu giáo sỉ ở trong nước đem cả về Huế để dịch những sách Tây ra chữ Việt Nam, chủ ý không phải vì việc dịch sách, mà là để cho họ khỏi đi giảng đạo ở hương thôn.
Tuy đã ngăn cấm nhưng vẫn có người đi giảng đạo, Minh Mạng lại ra dụ lần nữa, truyền cho dân bên giáo phải bỏ đạo, ai bắt được giáo sỉ thì được thưởng. Năm ấy, có một giáo sỉ bị xử giảo, nhiều nơi cũng rối loạn vì sự bắt đạo và cấm đạo.
Năm 1835, khi thành Phiên An do Lê Văn Khôi tử thủ để chống quân triều đình bị dẹp tan, trong 6 thủ phạm phải đóng củi giải về Huế, có một linh mục người Pháp là Marchand ( cố Du ), một người khách tên là Mạch Tấn Giai và đứa con của Khôi mới lên 7 tuổi.
Đến khi về Huế thì ông Marchand và 5 người kia đều phải tội lăng trí.
Sự giết đạo càng dữ dội hơn sau vụ Lê Văn Khôi. Nhà vua một mặt cấm đạo, một mặt ban những huấn điều để khuyên dân giữ lấy đạo chính, nhưng vẫn không ngăn cấm được, chỉ khổ dân tình mà thôi. Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều chết đi truyền đạo giáo cho được, có người phải đào hầm ờ dưới đất hàng mấy tháng để truyền đạo.
( Theo Việt Nam sử lược - Trần Trọng Kim )
Thiệu Trị (1840 - 1847 )
Vườn Cơ Hạ Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vua Thiệu Trị là người thích làm thơ, đi đâu cũng có thơ ngự chế. Vườn Cơ hạ do ông xây dựng lại đã được nhà vua ngự chế để ca tụng cảnh sắc ở đây, gồm 14 bài thơ. Nguyên các vật liệu của vườn Cơ Hạ là từ vườn Thư Quang dưới triều Minh Mạng được dỡ đi làm lại. Vua sai Chưởng Vệ Tôn Thất Nghi, Thư Thống Chế Hoàng Văn Cưu, Hoàng văn Hậu quản lỉnh 1800 biền binh chọn ngày tốt khởi công làm. Đô Ngự Sử Viện Đô sát Hà Thúc Lương dâng sớ xin đình chỉ làm vườn Cơ Hạ cho đở tốn phí tổn. Vua truyền chỉ nghiêm quở. Lại sắc cho bộ Công Phàm những người làm việc đều ban thưởng chu đáo. Vườn làm xong đặt các tên : phía Nam gọi là Khâm Vân điện, phía Bắc gọi là Thưởng Thắng lâu, phía Đông gọi là Minh Lý thư trai, phía
Tây gọi là Thận hiên, khoảng giửa gọi là Quang Biểu các, chung quanh gọi là Tứ Phương Ninh bật hồi lang, hồ gọi là Minh Hồ, cầu gọi là Kim Nghê Kiều, núi gọi là Tỉnh An Sơn, đổi hoành biển ở Thọ An Sơn môn gọi là Cơ Hạ Viên, Thượng Uyển môn , Qui mô rộng rãi hơn trước rất nhiều.
Vua thường ngự đến chơi vườn Cơ Hạ, có khi gọi cả các quan đến để giải quyết công việc công việc , lại ngự chế các bài thơ về 14 cảnh:
Điện Khai văn Yến ( mở tiệc văn ở trên diện )
Lầu thưởng Bồng Châu ( thưởng cảnh tiên ở trên lầu )
Các minh tứ chiếu ( gác soi sáng cả bốn mặt )
Lang tập quần phương ( hành lang có đủ các loài hoa)
Hiên Sinh thi tứ ( hiên này tứ thơ)
Trai tả thư hoài ( nhà trai toát ra tâm hoài văn thư )
Trì lưu liên phương ( thuyền hoa ven sen để ở hồ )
Sơn sực tùy đình ( Đình cây tùng đứng sững trên núi )
Thủy tạ phong quang ( Gió mát ở thủy tạ)
Nghê kiều tế nguyệt ( Mặt trăng sáng chiếu vào chỗ cầu vồng )
Vũ giang điếu đỉnh ( Thuyền câu ở sông Vũ Giang )
Tiên Đông phương tung ( dấu thơm ở động tiên)
Hồ tân liễu lăng ( sóng như lá liễu ở bên hồ )
Đảo thụ oanh thanh ( tiếng oanh kêu ở cây trên đảo )
Sau khi làm xong, Thiệu Trị đòi các quan văn ứng chế ( 1 )
Có lần ngự chơi vườn này, Thiệu Trị đòi các hoàng thân và quan văn vào chầu thưởng bông mẫu đơn, làm thơ tức cảnh. Ông ban rằng:
- Nay làm thơ ứng chế, cả thảy 18 người, vừa đúng 18 học sĩ đời Đường được lên cõi DinhChâu ( 2 ) . Ban cho mỗi người một bút, giấy mực và nghiên. Vua tôi xướng họa, sáng tác thi ca trong vườn Cơ Hạ dưới ánh trăng trong .
Mười tám người trong hội thơ dưới triều Thiệu Trị cho ta liên tưởng đến Tao Đàn nhị thập bát tú triều Lê Thánh Tông. Đây là một hội thơ có lẽ được thành lập ở cung đình triều Nguyễn đầu tiên. Sau đó là Mặc Văn thi xã do Tùng Thiện Vương và Tuy Lý Vương sáng lập, rồi Hương Bình thi xã của cụ Ưng Bình Thúc Giạ và Thảo Am Nguyễn Khoà Vy. Những thi đàn tiêu biểu cho xứ Huế đẹp và thơ .
( Theo Quốc triều chính biên và Đại Nam thực lục )
-------------------------------------
1 ) Vâng mạng ( mệnh ) vua mà làm văn chương
2 ) Nghĩa là cỏi tiên. Đời Đường có 18 quan văn được lựa vào chầu phủ Thiên Sách, người ta cho là vinh hiển cũng như lên cõi tiên vậy.
Thiệu Trị (1840 - 1847 )
Câu Đối Nguy Hiểm
Nổi Lo Âu Đối Với Hồng Bảo
Thơ Ngự Chế của Thiệu Trị.
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Vua Thiệu Trị, trong những lúc rảnh rỗi công việc y triều chính, thường hợp các hoàng tử nhỏ tuổi để thử thách tài năng đối
đáp. Một hôm nhà vua ra câu đối :
- Bắc sứ lai triều
Hoàng Tử Hồng Bảo nhanh nhẩu đối:
Tây Sơn phục quốc
Vua Thiệu Trị phì cười, mắng khéo con :
- Tây Sơn mà phục quốc thì cả bà con mi không có đất mà chôn. Lần sau có đối thì cũng phải giữ gìn ý tứ nghe con !
Hồng Bảo giật mình, biết mình lỡ miệng, từ đó trở nên e dè, thận trọng hơn trong lời nói.
Nổi Lo Âu Đối Với Hồng Bảo
Biết tính Hồng Bảo ưa ăn chơi, ít ham học, nhà vua thường có lời dụ bảo:
- Con học thức còn nông kém, phàm làm việc gì, cần phải hỏi đến sư bảo. Cổ Nhân còn vái lạy khi lời nói chính đáng, huống chi là đối với thầy. Còn bọn Tạ Quang Cự, Hà Duy Phiên, Tôn Thất Bạch đều là những bể tôi kì cựu, thân tín, con phải lấy lễ mà đối đãi không được khinh lấn bậy, phải kính cẩn, gắng theo .
Vì có tâm trạng lo âu về đức hạnh và học vấn của con mình như vậy, nên nhà vua rất thận trọng chọn người giữ Kinh Thành khi ngự giá Bắc Thành. Ông bảo Đại học sĩ Trương Đăng Quế:
- Kinh Sư là chỗ căn bản trong thiên hạ, trách nhiệm coi việc nước không phải là nhẹ, Hồng Bảo tuổi tuy đã lớn, nhưng không có học , kiến văn hẹp hòi, e khó làm xong công việc, Hoàng Tử thứ hai vốn sẳn thông minh Trẫm muốn giao cho việc lưu kinh, được không ?.
Đăng Quế tâu rằng:
- Biết con thì không ai bằng cha, việc này chỉ tự bề trên quyết định, thần không dám biết!.
Nhân vào chầu Tây Cung, Thiệu Trị đem việc ấy tâu bày. Hoàng Thái Hậu dụ bảo trước mặt rằng:
- Hoàng Trưởng Tử lưu cung vốn là việc củ. Hồng Bảo tuy ít học, nhưng tuổi đã trưởng thành, để lại một vài đại thần giúp việc
có gì là không nên? Hà tất phải thay đổi việc củ?
Sợ trái ý Hoàng Thái hậu, Thiệu Trị bèn sai Hồng Bảo lưu kinh mà cho Hoàng Tử thứ hai là Hồng Nhậm ( tức vua Tự Đức sau này ) theo mình ra Bắc.
Thơ Ngự Chế của Thiệu Trị.
Hầu thư ở vua Thiệu Trị là một kho thơ. Việc gì ông cũng có thể lấy thơ ra để vịnh. Ngoài các bài thơ vịnh với các vị đại thần trong các buổi yến ẩm, vui chơi, nhà vua còn sáng tác thơ trong nhiều trường hợp khác.
Một hôm, ngự chơi cảnh Thuận An, ông lên lầu Lưỡng Kiêm xem tập trận thủy, hôm sau ban ra tám bài thơ vịnh cảnh Thuận An cho các quan xem:
1- Viên thành Trấn Hải
2- Kiểu các quan lan.
3- Cao lâu lưỡng đắc
4- Hành điện song thanh
5- Cáp châu biểu tấn
6 - Giải chữ nhờn dân
7- Sa cương bảo chướng
8 - Gia thọ thanh âm.
Thơ Ngự chế về võ công của ông có 129 bài vịnh về mưu lược dẹp yên Xiêm La và Chân Lạp; 12 bài vịnh về mưu lược dẹp giặc biển, giặc thổ. Theo thể thức Kinh Thi làm ra 9 bài thơ gọi là Hoàng Huấn ( lời vua ban dạy) : Cao minh ( nói về trời ) . Bác hậu ( nói về đất ) Sủng tuy ( nói về đạo làm vua ) Trung lương ( nói về đạo làm tôi); Từ ái ( nói về đạo làm cha) Hiếu để ( nói về đạo làm con em ). Tạo đoan ( nói về đạo vợ chồng ). Hữu vu ( nói về đạo anh em ) Chỉ tín ( nói về đạo bầu bạn )
Thiệu Trị (1840 - 1847 )
Biển Động Ở Kinh Thành Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Năm Thiệu Trị thứ 7 ( 1847 ) , ông lâm trọng bệnh , các hoàng tử đều ngồi bên, duy có hoàng tử Hồng Bảo đang ngồi ở ca lâu. Vua Thiệu Trị thở dài, đòi Cố mạng lương thần Trương Đăng Quế và Đại thần Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương , Lâm Duy Thiếp vào chầu. Ông truyền đuổi mấy người tả, hữu rồi ban rằng:
-" Ta nối nghiệp lớn đã bảy năm nay, ngày đêm lo lắng không dám thong thả vui chơi, mấy lâu se mình, hôm nay mệt lắm! Ta lo nghiệp lớn Tổ tôn phó thác cho ta, nên ta phải lựa người nối nghiệp để yên xã tắc. Trong mấy người con ta, Hồng Bảo tuy lớn , nhưng vì xuất ( con bà hầu sinh ra - TTB) mà lại ngu độn ít học, chỉ ham vui chơi, nối nghiệp không được, con thứ hai là Phước Tuy Công thông minh, ham học giống in như ta, đáng nối ngôi làm vua; hôm trước ta đã phê vào tờ di chiếu để lại trong long đồng. Các ngươi phải kính nơi đó, đừng trái mệnh ta.
Các đại thần đều vâng mạng rồi lui ra.
Thiệu Trị liền gọi hoàng tử thứ hai là Hồng Nhậm trao cho ấn kiếm.
Bây giờ Phạm Thế Lịch làm chức Tham Tri Bộ Lại, phải vào túc trực ở nội điện, nghe có chiếu chỉ, đem 3000 quân Hổ Bôn Đóng ở cửa Ngọ Môn. Hồng Bảo biết tin, vội cưỡi ngựa đốc xuất thân binh đến tận nơi, thì có tiếng truyền loa:
-" Trong cấm điện, chỉ có một mình Hồng Bảo vào thôỉ.
Hồng Bảo vào bên giường vua, phục xuống đất tâu:
- Thánh thượng khi mới tức vị đã hứa cho con nối ngôi, khi ra Bắc tuần, con phải lưu giữ Kinh Thành, sau lại vâng mệnh đi tế Nam Giao, ai cũng công nhận con là Thái Tử. Nay con lỡ phạm tội bất hiếu, xin ơn trời lượng bể tha cho
Thiệu Trị phán:
- Thiên hạ là của đức Cao Hoàng , kế đến đức Thánh Tổ truyền lại cho ta, ta định truyền cho mi, thường khuyên mi tu tỉnh , thế mà mi cờ bạc, hát xướng. Thần khí rất trọng, ta không thể lấy tình riêng mà bỏ nghĩa chung được!
Lúc ấy Pham Thế Lịch ở trong cấm điện, thấy Hồng Bảo vẫn quì bên giường ngự, liền đưa mắt cho Vũ Văn Giải, Giải liền giải Hồng Bảo ra hậu cung cấm cố. Đến ngày Quý Mão, bệnh nặng lắm , vua Thiệu Trị mất tại điện Càn Thành . Liền ngày ấy, các Hoàng Thân và các quan văn võ hội đồng tuyên đọc di chiếu tại điện Cần Chánh. Hoàng Tử thứ hai là Phước Tuy Công khóc lạy lĩnh mạng.
Hồng Nhậm ( Phước tuy Công ) nối ngôi, lấy niên hiệu là Tự Đức, truyền đem tờ chiếu vời Tôn Nhơn và đình thần ký tên. Hồng Bảo không ký, thúc đầu vào tường máu chảy chan hòa. Phạm Văn Nghị đến nơi khóc:
- Xin điện hạ nghĩ kỹ lại, di chiếu của Đức Tiên Hoàng điện hạ không ký cũng không được, xin ký để cho yên xã tắc và để đức Tiên Hoàng yên ổn dưới cửu truyền.
Khuyên hai ba lần, Hồng Bảo mới chịu ký.
Mâu Thuẫn giữa Hồng Bảo và Hồng Nhậm phát sinh từ đấy
( Theo Lăng Nhân và Quốc Triều chính biên )
Tự Đức (1847-1883)
Nhà Vua Chơi Chữ Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Một hôm nhàn rỗi, vua Tự Đức cao hứng làm một bài thơ chữ Hán, rồi trong một buổi họp bàn luận văn chương, đem đọc cho các quan chép:
Tiêu hà tá tán khởi ư phong
Sấn nhập trùng vi nhiễu trướng trung.
Bất luận huân tiêu phàn khoái lực
Hốt văn Hàn Tín tự tiêu không
Các quan ai nấy đều hiểu như sau:
Tiêu Hà giúp nhà Hán ở đất Phong Bái, không dùng tới sức mạnh của Phàn Khoái, chỉ cầu ở tài Hàn Tín là nên việc.
Ai ngờ trong bài thơ trên, Tự Đức dụng ý: tả con muỗi. Tiêu Hà có nghĩa là tàu chuối, lá sen; phong là gió; hán là nó; hàn tín là tin lạnh, phàn khoái là hun đốt.
Ông Lăng Nhân Phùng Tất Đắc dịch bài thơ trên ra chữ Nôm như sau:
Bẹ chuối, dài sen nối cánh rung.
Bay vào màn trướng quấy lung tung
Chẳng cần phải tốn công hun đốt
Tin lạnh vừa đưa tẩu tán cùng
Tự Đức (1847-1883)
Bài Thơ Không Đề
Thơ Khiển Trách Quan
Nguyễn Hàm Ninh Làm Thơ Trách Vua
Tài Nghệ Thơ Của Cao Bá Quát
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Tôn Thất Bình
Kể Chuyện Các Vua Nguyễn
Tự Đức I
Bài Thơ Không Đề
Thơ Khiển Trách Quan
Nguyễn Hàm Ninh Làm Thơ Trách Vua
Tài Nghệ Thơ Của Cao Bá Quát
Lại một hôm, Tự Đức muốn thử tài các quan mới nghĩ ra một bài thơ rất hiểm hóc, bảo các quan rằng: " Trẫm vừa làm được một bài thơ hay, chư khanh nên chép lấy để ngâm chơi. Ông không cho biết đầu đề . Bài thơ như sau:
Lâm vũ lâm ly lý lý đường
Minh minh bỉnh chúc chiếu âm dương
Trì khu thướng há công doanh quán
Trử thủ ly bì đắc kỷ cương.
Lần này các quan lại viết sai, vì không hiểu thâm ý của nhà vua, cứ tưởng là một bài ngụ ý cao siêu. Chữ lý đường các quan lại tưởng là nhà Lý , nhà Đường, âm dương là khí dương, khí âm ; trì khu là rong ruổi, kỷ cương là khuôn phép; công là công lao. Thật ra ý Tự Đức chỉ muốn tả việc đi bắt ếch. Bài thơ được dịch nghĩa như sau:
Mưa dầm trầy trợt con đường trong bụi mận
Ngọn đuốc mờ tỏ soi vào những tiếng ỳ ộp
Soi lên soi xuống hết các khu vực, đánh được đầy xâu
Đem về chặt đầu, lột da được chừng độ mấy niêu.
THƠ KHIỂN TRÁCH QUAN
Trong một buổi hội các văn thần để ngâm thơ, xướng họa và bàn luậnvề sử sách , văn chương, vua Tự Đức chợt nghe một viên quan trong hàn Lâm Viện dương dương tự đắc nói mãi về đức thánh Trèm là Lý Trọng Ông ( thật ra tên thật của Thánh là Lý Ông Trọng ) ông làm ngay bài thơ tứ tuyêt chế diễu:
Ông Trọng như hà hoán Trọng Ông.
Chỉ nhân học vấn thiếu phu công
Tư nhân an đắc cư Lân Hàn
Nghi truất Nội Hà tác phán thông.
Dịch thơ như sau:
Ông Trọng sao nay đối Trọng Ông
Chỉ vì học vấn ít phu công
Người này sao ở Lâm Hàn được
Ra Nội Hà ngay làm phán thông
Sau buổi hội thơ, quan Hàn Lâm kia quả nhiên bị truất chức ra Hà Nội làm thông phán. Tai hại thay, chỉ một sơ suất trong buổi đàm luận văn chương ở chốn cung đình mà người chủ soái lại là Tự Đức!
NGUYỄN HÀM NINH LÀM THƠ TRÁCH VUA
Dưới thời Tự Đức, trong triều xảy ra việc Hồng Bảo mưu toan cướp ngôi, sau đó chết một cách bí ẩn trong ngục. Người đương thời cho là vua Tự Đức mưu giết anh để trừ hậu họa. Sau đó, nhân một buổi ngự thiện, Tự Đức dùng cơm vô ý cắn phải lưỡi, liền lấy đầu đề " răng cắn lưỡi " ra cho đình thần làm thơ, Nguyễn Hàm Ninh dâng một bài ( 1) tứ tuyệt:
Sinh ngã chi sơ, nhỉ vị sinh
Nhỉ sinh chi hậu, ngã vi huynh
Nhất đường cọng hưởng trân cam vị
Hà nhẫn tương thương cốt nhục tình
Dịch thơ:
Ta ra đời trước, chú chưa sinh
Chú phận làm em, ta phận anh
Ngọt bùi sao chẳng cùng san sẻ
Mà nỡ đau thương cốt nhục tình?
Tự Đức xem thơ, thưởng mỗi câu một lạng vàng vì lời thơ hay, nhưng lại phạt một câu một roi vì ý thơ sâu sắc.
Nhà vua hiểu Nguyễn Hàm Ninh dùng bài thơ này để ám chỉ việc mình ám hại Hồng Bảo.
( 1) Theo Trương Vĩnh ký trong Chuyện đời xưa, tác giả là Nguyễn Đăng Hành, con của Nguyễn Đăng Giai.
TÀI NGHỆ THƠ CỦA CAO BÁ QUÁT
Năm Tự Đức thứ tư ( 1851), vua Hàm Phong nhà Thanh mất, sứ Tàu sang báo ai ( 1). Tự Đức truyền các quan làm câu đối phúng?
Đình thần nghĩ xong, xin triệu Cao Bá Quát vào để viết, vì chữ ông tốt hơn mọi người. Ông vào triều, trải tấm vóc trên kỷ, một tay cầm bút viết, một tay bưng mũ. Các quan hỏi sao lại kỳ quặc thế, ông đáp:
- Văn này phải viết cách này mới xứng đáng.
Vua Tự Đức nghe lọt, nổi giận phán:
- Nếu vậy Khanh làm câu khác thử coi?
Ông liền xin tấm vóc khác và viết ngay:
Át mật bát âm Đường bạc hải
Bi hào vạn lý Tống thâm sơn
Có nghĩa:
Im bặt bát âm khắp biển nhà Đường ( khi vua Đường Nghiêu mất, bốn biển im tiếng âm nhạc ba năm, để tang vua coi như cha mẹ)
Kêu gào muôn dặm núi sâu nhà Tống ( khi vua Tống Nhân Tông mất, khắp thâm sơn cùng cốc muộn dặm đều gào khóc).
Tự Đức phải chịu là hay.
(1) Báo ai : Báo tin buồn
Tự Đức (1847-1883)
Cao Bá Quát Trêu Thơ Tự Đức
Câu Đối Hòn Nam Bộ
Cấu Đối Ở Điện Cần Chánh
Một Bộc Sinh Đôi
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Cao Bá Quát Trêu thơ Tự Đức
Một hôm Tự Đức kể các quan đại thần là ông nằm mơ thấy mình làm được hai câu thơ chữ nho, câu nào cũng có hai tiếng Nôm chen vào. Ông truyền cho các quan chép lại.
Hai câu ấy như sau:
Viên trung hoảo điểu liêu tiêu ngữ
Dã ngoại kỳ hoa lác đác khai
Nghe vậy, Cao Bá Quát liền quỳ xuống, tâu:
" Muôn tâu bệ hạ, hai câu ấy không có gì lạ. Đó là hai câu tam tứ ở một bài thơ mà thần đã được nghe.
Tự Đức rất ngạc nhiên truyền cho ông đọc toàn bài. Cao Bá Quát ứng khẩu đọc liền:
Thất mã tê phong huyếch hoác lai
Oanh doanh xa mã cộng trì hồi
Viên trung hoả điểu liêu tiêu ngữ
Dã ngoại kỳ hoa lác đác khai
Bạch nhật sa văn lôi hống dọng
Thanh thiên hốt kiến vũ lài nhài
Khù khờ thicú đa nhân thức
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài ( 1 )
Dịch nghĩa:
Đôi ngựa thét gió huếch hoác lại
Sầm sập xe ngựa cùng quay đuổi đến
Trong vườn chim đẹp nói líu tíu
Ngoài đồng hoa lạ nở lác đác
Ngày tạnh thoạt nghe tiếng sấm ỳ ầm
Trời xanh chợt thấy mưa lải nhải
Câu thơ khù khờ đã nhiều người biết
Còn khệnh khạng mang ra hỏi bậc tú tài
Đặc sắc của bài thơ trên là cả 8 câu, câu nào cũng có hai chữ Nôm chen vào các chữ Hán của bài thơ thất ngôn bát cú.
Nghe xong, Tự Đức biết là Cao Bá Quát bịa ra bài thơ để giiễu minh, nhưng đành chịu tài " xuất khẩu thành thơ " của Cao Bá Quát
( 1) Về bài thơ này có bản chép như sau:
Bảo mã tây phong huyếch hoác lai
Huyênh hoang nhân tự thác đề hồi
Viên trung oanh chuyển khề khà ngũ
Dã ngoại đào hoa lấm tấm khai
Xuân nhật bát văn sương lộp bộp
Thu thiên chi khiến vũ bài nhài
Khù khờ thi tứ đa nhân thức
Khệnh khạng tương lai vấn tú tài
CÂU ĐỐI HÒN NAM BỘ
Ở sau điện Cần Chánh mới đắp một quả núi non bộ trong bể cạn, Tự Đức sai nguyễn Văn Siêu đề câu đối. Siêu nghĩ mà chưa biết đề như thế nào cho hay, nhân gặp Cao Bá Quát đến chơi, mới ngõ ý ấy. Cao Bá Quát lấy bút chép ngay:
Sơn nhược hữu thần vô Hán tuế
Hải như sinh thánh thiếp Chu Ba
( Núi nếu có thần thì hô chúc tuổi vua Hán. Theo tích : Vua Hán Vũ Đế đi chơi núi Tung Sơn, thị thần đứng dàn hàng hai bên, lúc xe vua đi qua đều hô vạn tuế , tiếng hô âm vào núi, vang ra ba lần. Người ta nói đấy là sơn thần hô vạn tuế chúc vua)
( Biển như sinh thánh nhân thì im lặng sóng gió nhà Chu. Theo trích : Chu Công Đán hỏi: Nước Việt thường cách đây vạn dậm, vì cớ gì sang cống? ". Sứ giả nói: " Hạ quốc thấy gần đây mưa thuận gió hoà, ba năm nay biển không gợn sóng" . Biết rằng Trung Quốc có thánh nhân cho nên sang cống"
Khi câu đối ấy viết lên, cả triều thần đến đọc ai cũng tắm tắc khen hay.
CÂU ĐỐI Ở ĐIỆN CẦN CHÁNH
Một hôm vua Tự Đức nghĩ hai câu đối treo ở điện Cần Chánh như sau:
Tử năng thừa phụ nghiệp
Thần khả báo quân ân
Khi đem treo trong điện, các quan trông thấy, đều chịu là hay. Riêng Cao Bá Quát thì tỏ vẻ không phục, mai mỉa nói:
Hảo hề! Hảo hề! Phụ tử quân thần điên đảo!"
Nhà vua nghe các quan tâu lại, gọi vào hỏi nguyên do. Cao Bá Quát liền tâu:
- Muôn tâu bệ hạ, câu trên chữ tử đứng trên chữ phụ, vậy là con trên cha, câu dưới chữ thần đứng trên chữ quân, vậy là tôi trên vua. Rõ ràng phụ tử quân thần điên đảo
Vua bảo chữa, Cao Bá Quát liền đọc:
Quân ân, thần khả báo
Phụ nghiệp, tử năng thừa
Nhà vua tuy tức giận, nhưng suy nghĩ lại cũng phải nhận rằng chữa như vậy, cương thường thuận lẽ mà ý đặt cũng già hơn.
MỘT BỌC SINH ĐÔI
Khi vua Tự Đức lên ngôi thì Cao Bá Quát vẫn còn làm một chức quan nhỏ ( Hành tẩu ) ở bộ Lễ.
Tự Đức nghe tiếng hai anh em họ Cao đã lâu ( 1 ) .
Một hôm bèn cho triệu Cao vào để xem mặt và hỏi thử tài học.
Tự Đức ra đùa một vế đối rằng:
Nhất bào song sinh, nan vi huynh , nan vi đệ.
( Nghĩa là: một bọc sinh đôi, khó làm anh , khó làm em.
Ý chỉ hai ông Đạt và Quát sinh một lần, khó biết ai là anh, ai là em).
Cao liền đối lại một câu rất khéo léo:
Thiên tải nhất ngộ, hữu thị quân, hữu thị thần.
( Nghĩa là : Nghìn năm gặp một, có vua ấy, có tôi ấy.
ý Cao Bá Quát muốn nói có ông vua tài giỏi ( như Tự Đức ) thì mới có người bề tôi tài giỏi ( như Cao Bát Quát ).
Tữ Đức rất hài lòng về câu đối này. Tuy nhiên nhà vua đã không lường hết được những chỗ thâm thúy của vế đối, vì câu này còn có thể hiểu theo nghĩa khác:
Có ông vua Tự Đức thì cũng có người bề tôi như Cao Bá Quát để đối chọi lại ( theo ý " vỏ quít dày, móng tay nhọn " ) và đó cũng chính là cái ý lắt léo củ họ Cao.
LỜI KHAI CỦA CAO BÁ QUÁT
Vua Tự Đức sai Phan Văn Nhã dự thảo bài văn Ngọc Diệp. Nhã thảo xong, làm tiệc mời các quan đến dự, giở bài Ngọc Diệp đưa cho Thượng Thư Võ Phạm Khải cũng cậy mình có văn tài, chê văn của Nhã. Nhân rượu say, hai bên cãi nhau, Khải bảo:
- Văn như thế chó cũng làm được.
Vì thế thành ra ấu đả. Việc đến tai vua, vua vời Cao Bá Quát vào hỏi chuyện đã xảy ra. Ông khai :
- Bất tri ý hà, lưỡng tương đấu khẩu, bỉ viết cẩu, thử viết cẩu. Bỉ thử giai cẩu, dĩ chí tương ẩu, thần khủng phệ thần hoàng thần tẩu
( Không biết ý làm sao, hai bên cãi nhau, bên kia bỏa chó, bên này bảo chó. Hai bên đều chó, rồi đến đánh nhau, tôi sợ cắn tôi, tôi hoảng tôi chạy)
( Nam Phong , số 147 )
Tự Đức (1847-1883)
Nổi Oan Của Nguyễn Công Trứ
HẬU QUẢ ĐỌC THƠ TRONG MEN RƯỢU
Nguồn: VNThuQuan
Thu gọn nội dung
Nguyễn Công Trứ có công sáng lập hai huyện Kim Sơn và Tiền Hải. Năm 75 tuổi, ông lại theo đường bộ ra Bắc thành thăm phong cảnh cũ. Dân hai huyện đón rước rất linh đình. Khi ấy có tên thị vệ quê ở Nam Định thấy các làng tôn sùng ông như thần, muốn tâng công, y liền tâu với Tự Đức là n Nguyễn Công Trứ có hành vi khả nghi, có ý muốn mưu đồ đại sự. Tự Đức b hạ mật chỉ cho quan Tổng Đốc Nam Ninh Hoàng Văn Thu p
hải dò xét việc ấy và đòi ông lập tức về Kinh.
Bị triệu gấp vì có người vu cho mình làm phản, ông rất uất ức. Đến Kinh Đô được ba ngày, Tự Đức vời ông vào bệ kiến. Nhà vua cho ngồi, ủy lạo mấy câu, rồi hỏi:
- Hạt Tiền Hài và Kim Sơn dân tình sinh hoạt thế nhào?
Ông tâu :
- Dân hai huyện ấy ngày nay có ruộng nương cày cấy, lại được mùa luôn nên rất vui vẻ. Những lúc thư nhân họ có câu đối để độ nhau rất thú vị.
Tự Đức hỏi:
- Những câu gì, khanh có nhớ không?
Ông tâu:
- Thần nhớ được mấy câu sau đây:
- Đem thân cho thế gian nhờ
Ngay như chỉ đặt lại ngờ bất trung
- Thế là cái gì?
- Họ giảng là cái phản để ngồi
Vua lại hỏi:
- Còn câu gì nữa không?
Ông tâu:
- Câu này cũng hay lắm:
- Ngữa lòng hứng lấy nước nhà
Người đà không biết , người đà biết cho
- Là cái gì ?
- Là cái máng để hứng nước.
Vua hỏi đến các câu hát nào hay, Nguyễn Công Trứ liền đọc ngay rằng:
Chuông già đồng điếu, chuông kêu
Anh già lời nói, em xiêu tấm lòng.
Quốc sỉ vô song là người Hàn Tín
Anh nó thương em anh đến chi đây.
Bốn bể rồng ấp lấy mây.
Vua Tự Đức hiểu ý ông ám chỉ việc triều đình hay nghi kỵ, liền an ủi và cấp tiền lộ phí cho ông trở về nhà
( Theo Giai thoại văn học Việt Nam )
HẬU QUẢ ĐỌC THƠ TRONG MEN RƯỢU
Lê Ngô Cát là một nhà nho giỏi thơ Nôm ở thời Nguyễn. Ông quê làng Hương Lang , huyện Chương Đức ( nay là Chương Mỹ- Hà Đông ) không rõ năm sinh và mất, chỉ biết ông đỗ cử nhân vào năm 1848.
Tương truyền hồi Lê Ngô Cát đang làm Bố Chánh Cao Bảng thì được vua Tự Đức triệu về Kinh để sửa lại bộ Quốc sử diễn ca. Trong bộ sử, ông có viết mấy câu về Bà Triệu như sau:
Vú dài ba thước giắt lưng
Cỡi voi đánh trống trong rừng kéo ra
Cũng toan gánh vác sơn hà
Cho Ngô biết mặt đàn bà nước Nam
Khi dâng sách lên, Tự Đức đọc đến đoạn đó thích lắm, chỉ chữa chữ " cũng toan " thành ghé vai " , và nói đùa rằng " Thế đàn ông nước Nam đâu cả? " Rồi nhà vua ban thưởng cho Cát một tấm lụa và hai đồng tiền vàng
Nghe tin, các bạn đến mừng, đòi Lê Ngô Cát phải có rượu khao. Khi rượu đã ngà ngà say, các bạn hứng chí đòi chủ nhân phải có thơ về việc vua ban vàng, lụa.
Lê Ngô Cát bèn ngất ngưỡng đọc luôn hai câu lục bát như sau:
Vua khen thằng Cát có tài
Ban cho cái khố với hai đồng tiền.
Ít lâu sau bỗng Lê Ngô Cát nhận được lệnh phải đi nhận lại chức Bố Chánh Cao Bằng. Ông rất sửng sốt và lo ngại . Mãi về sau mới vỡ lẽ : Thì ra hai câu thơ của ông đã đến tai vua Tự Đức , nhà vua cho ông có ý xỏ vua keo kiệt ( cho một tấm lụa chỉ đủ làm cái khố) và vì thế đày ông lên lại Cao Bằng
( Theo Giai Thoại văn học Việt Nam )