giới thiệu văn hoá phong tục Việt Thăm mộ và cúng ông bà Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Dân Việt trong những dịp vui đều đếu cúng với ông bà đã khuất để cùng người sống chung vuị Ngày Tết cũng vậy, nhiều người đi làm cỏ ở mộ đắp mộ, cúng vái, và cắm vài nén hương cho ông bà, để ông bà cùng hưởng Tết với họ
Không những đi đến mộ để thăm viếng, chiều 30 Tết dân ta thường có lễ cúng được gọi là "đón ông bà" về cùng ăn Tết trong nhà. Trong mấy ngày này, trên bàn thờ người ta tin rằng luôn luôn có sự hiện diện của tổ tiên. Tục xưa còn có cả văn khấn gia tiên. Sau khi khấn lễ tổ tiên xong, thông thường có một tràng pháo nổ để đón mừng ông bà về cùng chung vui cũng nhưng đón Tết. Những xác pháo nổ cùng với khói làm cho hương vị Tết thêm tưng bừng.
giới thiệu văn hoá phong tục Việt Chúc Tết & Những điều kiêng trong ngày Tết Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Sáng ngày mồng một, những vị trưởng lão thường ngồi ở nhà chính để con cháu đến mừng chúc Tết. Con cháu chúc tết các cụ năm mới mạnh khỏe và bình yên, an khang. Các cụ chúc Tết các cháu năm mới thêm tuổi thêm khôn ngoan, học hành tấn tớị Trong lúc chúc Tết các cháu thường dâng cho các cụ những món quà nhỏ. Và các cụ cũng mừng tuổi cho các cháu bằng những bao lì xì đo đỏ xinh xinh. Phong tục này được duy trì cho đến nay từ nhà giàu sang cho đến những nhà nghèo đều có chút đỉnh để mừng Tết cho nhaụ Bên cạnh đó, cha mẹ thường lì xì cho con cáị Cô, dì, chú, bác lì xì cho các cháụ Khi các em nhỏ đến mừng tuổi những người bạn của cha mẹ, chủ nhà cũng lì xì cho các em.
Những điều kiêng trong ngày Tết
- Kiêng quét nhà
- Kiêng mặc áo trắng sợ có điều tang tóc
- Kiêng nói tiếng khỉ, sợ làm ăn xuị
- Kiêng nói những điều tục sợ điều xấu xa
- Kiêng nhắc đến chuyện chết chóc.
giới thiệu văn hoá phong tục Việt Cành đào và cây nêu Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Chơi cành đào
Trong ngày Tết, dân Việt thường hay có cành đào cắm trong nhà. Màu đỏ nhạt của hoa đào rất hợp với cảnh xanh tươi của mùa xuân. Theo tục lệ, dân ta còn tin rằng cành đào có thể trừ được ma quỷ. Trong Nam, cây đào hiếm, nên dân Việt thường cắm cành maị
Sự tích cây nêu
Cây Nêu được trồng để trừ ma quỷ
Tục truyền ngày xưa, khi đến Tết, ma quỷ thường đến quấy phá dân gian. Dân gian chịu không nổi đành đi kêu đức Phật. Phật liền ra tay bắt bọn ma quỷ quấy nhiễu dân gian. Ma quỷ sợ hãi, không còn dám quấy nhiễu dân chúng nữa, nhưng chúng hỏi là ở đâu là đất của Phật để chúng tránh xạ Phật trả lời:
---- Ở đâu có phướn, có chuông, có khánh đấy là đất của Phật.
Ma quỷ lại hỏi địa giới của Phật đến đâu và lấy gì phân biệt:
Phật trả lời là ở đâu có vết vôi trắng là địa giới của Phật.
Sau đó, ngày Tết người ta dựng cây, trên ngọn nên có treo khánh sành và phướn giấy, và ở trước nhà có rắc vôi bột thành hình cung tên để trừ ma quỷ. Ma quỷ thấy cây nêu và vôi trắng không dám phạm tới vì sợ Đức Phật. (Trích dẫn "Phong tục Việt Nam" của Toan Ánh).
giới thiệu văn hoá phong tục Việt Tết Thanh Minh Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Vào đầu tháng ba âm lịch (thường vào cuối tháng 3 hay đầu tháng tư Dương Lịch), có một tiết được gọi là tiết Thanh Minh. Thanh Minh nghĩA là trời trở nên mát mẻ quang đãng, trong lành. Theo lệ của Tàu thì vào ngày này giai nhân, tài tử thi nhau đi tảo mộ, gọi là Hội Đạp Thanh. Dân ta không ăn tết này, nhưng cũng có nhiều người vào dịp này mà đi tảo mộ Tảo mộ là đi thăm mộ của những bậc đi trước, rồi về nhà cũng làm cỗ để cúng gia tiên. Có những gia đình vào lúc này họ thường đi làm hết cỏ mọc xung quanh mộ của các thân bằng quyến thuộc, sơn phết lại cho thật kỹ để mộ nhìn đẹp đẽ hơn. Dân ta tin rằng ngôi mộ là ngôi nhà của người đã mất, vì vậy sơn phết và chùi dọn mộ bên ngoài là dọn nhà cho người thân đã mất của mình có chỗ ở an khang và tốt đẹp.
giới thiệu văn hoá phong tục Việt Cưới Hỏi Ngày Trước Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Tuổi đính hôn- Con trai, con gái khoảng 15-16 tuổi trở lên là đã sắp sửa lấy vợ lấy chồng. Vào khoảng 23 tuổi mới cưới được coi là trễ. (Đây là số tuổi ngày xưa nhưng ngày nay, dân ta đã thay đổi nhiều tùy từng vùng.) Ngày trước có những nhà cưới vợ cưới chồng cho con từ năm mới mười hai, mười ba tuổi, và có nhà có đính ước hai họ với nhau khi hay trẻ đang trong bào thaị Nếu vợ chồng hơn kém nhau một hai tuổi thì được gọi là vừa đôị
Dạm hỏi- Trước tiên cha mẹ đàng trai thường kén chọn chỗ nào môn đăn hộ đối, xem tuổi có xung khắc không, rồi mới mượn người làm mai đến nhà đàng gái nói chuyện cưới xin. Nếu bên nhà gái bằng lòng gả thì nhà trai mới đem trầu cau, trà đến dạm hỏị Bắt đầu từ đó, thì mồng năm ngày Tết hoặc là ngày kỵ nhật nhà gái, người rể phải đưa đồ lễ vật đến mới là kính trọng nhà gáị Sau khoảng ít lây thì làm lễ đám hỏi: nhà trai đem trầu cau, chè, heo quay, xôi đến nhà gái để cúng lễ với ông bà bên nhà cô dâụ Thường ở vùng Quảng Nam thì trong lễ hỏi thường thêm một đôi bông tai vàng.
Xêu- Ăn hỏi rồi thì đến xêụ Xêu làm đem những thực phẩm của đúng mùa đố đến nhà gáị Ví dụ như mùa trái vải thì xêu vải, mùa trái dưa thì xêu dưạ Đồ mà đàng trai xêu thì nhà gái chỉ lấy một nửa, còn lại một nửa thì gửi lại đàng traị
Cưới- Xêu xong một năm hoặc nửa năm thì cướị Nếu không xêu mà cưới thì gia đình đàng trai bị thiên hạ chê cườị
Trao thơ, thách cưới- Trước khi muốn cưới thì đôi bên nhà trai và nhà gái đều phải không có tang chế gì. Cưới thì nhà trai viết thư hỏi xem nhà gái muốn những lễ vật nàọ Nhà gái muốn những vật gì thì viết thư trả lời nhà traị Nhà trai nếu lo được thì mới chọn ngày lành tháng tốt, đính ước ngày cưới với nhà gáị Nếu nhà gái đòi lễ vật quá nhiều thì nhà trai có thể xin bớt đị Có khi nhà gái không chịu, thì nhà trai phải bất đắc dĩ lo liệụ Và từ đó hai bên sui gia sinh ra thù ghét nhạ Thù ghét nhau nhiều thì cô con dâu thường phải chịu khổ cực khi về làm dâụ
Đồ thách cưới thường là: Heo gạo, hoặc bò, trà, trầu cau, rượu, vòng, nhẫn, hoa, hột, quần áo, mền gối, và kèm thêm tiền bạc.
Đám cưới- Về vùng quê, đám cưới thường làm vào ban đêm. Khi rước dâu phải chọn giờ làng tháng tốt. Trong đám cưới có một ông già hiền lành cầm một bó nhang đi trước, rồi đến các người dẫn lễ, người đội mâm trầu cau, người khiêng heo... Chú rể thì khăn áo lịch sự, có một nhóm thân thích dẫn đị Khi đến nhà gái, dàn bày đồ lễ, người chủ hôn nhà gái khấn lễ với tổ tiên rồi thì chú rể vào lễ báị
Tế tơ hồng- Hương án được bày ra sân, trên hương án có gà, xôi, giầu, rượu, tế tơ hồng xông rồi hai vợ chồng mới cưới được vào lạỵ
Tục lệ tế tơ hồng được dựa trên một tích xưa của Tàụ Ngày xưa, có một người tên là Vi cố, một bữa đi chơi trăng gặp một ông già đang xe các sợi dây đỏ ở dưới bóng trăng. Vi Cố mới hỏi ông ta, thì ông ta nói rằng ông là Nguyệt Lão coi việc xe duyên cho vợ chồng ở dương thế. Khi ông ta buộc sợi dây hồng này vào chân người nào thì dù thế nào nữa họ vẫn phải lấy nhaụ Vì vậ cho nên việc vợ chồng là chuyện đã được Nguyệt Lão định từ trước. Khi hai vợ chồng nên duyên nên phận rồi thì phải tạ ơn ông ta, và cầu ông ta phù hộ cho ở được trăm năm với nhaụ Tế tơ hồng xong rồi thì người rể vào lạy cha mẹ vợ, rồi đợi cho họ hàng ăn uống xong mới về.
Sau khi tế tơ hồng xong, vào ngày hôm sau thì đưa dâụ
Đưa dâu-- Nhà trai và nhà gái cùng ăn mừng mở tiệc tùng linh đình và mời bà con hai học đến để cùng chia vuị Bà con mừng cô dâu chú rể có thể bằng tiền, trà, trầu cau, hay câu đối đỏ... Thông thường bà con hay mừng bên nhà trai chứ nhà gái ít người để ý đến. Tuy nhiên ở thành phố có mừng ở bên nhà gái nhưng cũng chỉ ít ỏi vài vuông nhiễu điều (vải đỏ) hoặc yếm đã may sẵn.
Khi đưa dâu thì nhà gái cũng kiếm một ông già cầm bó nhang đi trước, và bà con họ hàng dẫn cô dâu đi saụ Đến nhà trai rồi thì một và bà già dẫn cô dâu vào nhà chú rể lạy tổ tiên rồi đến cha mẹ chồng. Nếu chú rể còn ông bà thì cũng phải lạy ông bà chồng. Ông bà cha mẹ chồng thường thì mỗi người mừng cho một vài đồng bạc.
Họ hàng ăn uống xong thì luôn có phần cầm về thường có xôi thịt, bánh trái, giò chả, trầu cau, chuốị
Ở thành phố thách cưới thường nhiều hơn ở vùng quê và cũng không có lễ cưới vào ban đêm. Đám cưới thường vào ban ngày và sau đó đón cô dâu về nhà liền. Trong khi cưới và khi đón dâu, hai ông bà cầm hai cái lư hương ngồi trong xe che lọng xanh đi trước, rồi các người theo phụ mỗi người đội mâm cau trùm vải đỏ. Trong mỗi mâm có rượu, quả. Ngày xưa thì đi bộ, sau đó đi xe kéo, hay xe xong mã.
Lễ bái cũng như ở vùng quệ Sau đám cưới đều có phần cầm về như bánh ngọt, bánh chưng, bánh dầy chia cho những người thân thuộc.
Phương Thuật -- Trong khi cô dâu đi đường ăn mặc đẹp, mọi người đều ngắm nhìn. Để tránh những lời độc mồm độc miệng, cô dâu phải mặc một cái áo choàng và cài một cái kim. Có nơi đốt một lò lửa trước cửa để cô dâu bước qua để trừ tà. Và có nơi khi cô dâu đến nhà mẹ chồng, mẹ chồng cầm bình vôi tránh đi một lúc, hay có nơi dâu đến một người lấy chày cối giã một lúc.
Đóng cửa, giăng dây -- Trong khi cưới và lúc đưa dâu, thì có tục đóng cửa, giăng dâỵ Lúc nhà trai đem lễ cưới đến nhà gái thì bên nhà gái, có thể là trẻ con hay người giúp việc đóng cửa không cho vàọ Nhà trai phải cho họ vài đồng thì họ mới mở cửạ Trong lúc đi đường thìnhững người nghèo lấy sợi chỉ đỏ, hoặc mảnh vải, lụa đỏ giăng ngang giữa đường, đám cưới đi đến, phải nói tử tế và cho họ vài đồng thì mới được cởi dâỵ
Giao Duyên -- Tối hôm cưới, người chồng lấy trầu tế cho vợ chồng, trao một nửa cho vợ, rót một chén rượu, mỗi người uống một nửa và lễ này được gọi là lễ hợp cẩn. Vợ trải chiếu lạy chồng hai lạy, chồng đáp lại vái một váị Tục lệ này chỉ dùng ở những dòng họ lớn.
Lại mặt -- Cưới được ba hôm, đến hôm thứ tư thì hai vợ chồng làm lễ xôi chè đem về bên nhà vợ lạy tổ tiên, lễ còn được gọi là tứ hỉ.
giới thiệu văn hoá phong tục Việt Bàn về tục cưới hỏi xưa Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Xét kỹ tục cưới xin của dân ta có những điều trái với văn minh
Vợ chồng cưới nhau quá sớm. Dân ta thường cho có con cháu đầy nhà là có phúc nên nhiều gia đình con mới mười bốn mười lăm tuổi, huyết khí chưa đầy đủ đã có vợ có chồng rồị Nhiều khi con gái hỉ mũi chưa sạch đã về làm dâụ Vì vậy khi sanh con đẻ cái ra nhiều đứa còm cõi, khẳng khiu, khó nuôi, yếu ớt làm cho giống nòi không mạnh mẽ. Hơn nữa, tuổi trẻ là lúc học hành, tìm hiểu cuộc đời để có thể xây dựng mái ấm gia đình sau này vữa mạnh, nhưng lạnh lấy vợ gả chồng thì coi như cả tương lai chỉ còn vào con cái thôi, trí tuệ không bao nhiêụ
Trai gái không được tự do hôn phối đã làm cho nhiều cặp vợ chồng cưới nhau về rồi nhưng lại oán ghét nhau và không được hòa thuận đến nỗi lìa xa nhaụ Cũng có thể vì sợ tai tiếng nên ăn ở gượng gạo với nhau, sinh ra sầu não, công việc trong nhà không lành, mà ngay bản thân cũng bệnh tật về mọi mặt. Cha mẹ ngày trước thường tìm nơi xứng đáng mới gả dù cho con không bằng lòng cũng nài ép mà nhiều khi cha mẹ vì lợi nhuận riêng của mình mà gả bán con cũng có.
Tục thách cưới đã làm cho lắm nàng dâu khổ cực suốt đờị Hai bên đàn trai và đàn gái đều vì tư ít của nhau mà sinh ra thù ghét. Nhà gái chỉ vì thể diện danh tiếng mà thách cưới cho cao làm cho nhiều gia đình nhà trai phải vay mượn để cưới vợ về cho con. Gia đình nhà gái được tiền bạc và tơ lụa nhiều nhưng khi cô dâu về nhà trai thì phải chịu sự hành hạ của gia đình chồng. Không những vậy mà còn phải làm để trả cái nợ mà nhà chồng ngày trước mượn để trả tiền cướị
Tóm lại, ngày nay xã hội đã thay đổi nhiều, trai gái có lấy nhau cũng phải chờ đến mười tám hai mươi mới lấỵ Mà cha mẹ cũng thường để cho con cái tự ý lựa chọn theo tính ý của mình chứ ép hôn đã giảm nhiềụ Và hai bên gia đình cũng không nên coi chuyện giàu nghèo là điều quan trọng trong chuyện cưới xin vì đó là do phải duyên phải lứa mà thôị Có như vậy thì chính cô dâu và chú rể sau này cũng dễ sống với hai bên gia đình không phải buồn rầu nhiều vì lễ giáo độc đoán.
giới thiệu văn hoá phong tục Việt Vợ Chồng Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Ngày trước vợ chồng nhà sang trọng gọi nhau bằng "cậu mợ", thầy thông phán thì gọi nhau bằng "thầy cô". Thông thường thì họ gọi nhau bằng "anh chị", cho đến khi có con thì lại gọi nhau bằng "thầy em". Có những gia đình thô tục thì gọi nhau bằng "bố cu mẹ **", và có người lại gọi là "bố nó mẹ nó", có khi cả hai vợ chồng lại gọi nhau là "nhà ta". Ở vào vùng Quảng Nam thì vợ gọi chồng là "anh", chồng gọi vợ là "em". Ở Nghệ Tĩnh vợ chồng gọi nhau là "gấy nhông". Ngày nay vợ chồng còn trẻ thường dùng "anh em", và khi đã về tuổi xế chiều lại gọi nhau là "ông bà". Thông thường tùy theo mỗi tục lệ của gia đình mà xưng hô cho hợp.
Vợ chồng cư xử hòa thuận với nhaụ Ca dao Việt Nam có chép rằng: "Thuận vợ thuận chồng, tát bể đông cũng cạn." Câu trên mang hàm ý rằng nếu vợ chồng hòa thuận với nhau thì dù việc có khó đến đâu vẫn có thể làm được. Chồng phải giữ "Nghĩa" với vợ, và người vợ phải giữ chữ "tiết" với chồng đó là phong tục của dân tạ
Trong một gia đình Việt Nam ngày trước thường chú trọng vào nghĩa vụ của người vơ.. Người vợ trên phải phụng dưỡng cha mẹ chồng, có khi nuôi cả chồng, hay giúp chồng lo lắng công việc, gánh vác giang sơn nhà chồng. Và bên cạnh đó còn phải sinh đẻ và nuôi dưỡng, coi sóc con cái thì mới được hai chữ "nội trợ" Chẳng những vậy còn phải có tứ đức. Tứ đức có đủ thì mới được gọi là hiền. Tứ đức bao gồm: Phụ dung, phụ công, phụ ngôn, phụ ha.nh.
-----Phụ Dung: có dáng người hòa nhã, chải chuốt gọn gàng, sạch sẽ.
-----Phụ Công: Khéo các nghề như vá may thêu dệt, và còn phải biết buôn bán, cầm kỳ thi họạ
-----Phụ Ngôn: lời ăn tiếng nói phải khoan thai dịu dàng, không cẩu thả, the thé. Phải mềm mỏng để cho ai cũng dễ nghẹ
-----Phụ Hạnh: là nết na trên kính dưới nhường, trong nhà chiều chồng thương con, hiền hậu với anh em họ hàng nhà chồng. Ra vào nhu mì chín chắn không cay nghiệt với aị
Không những tứ đức mà còn phải có Tam Tòng: tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử. Có nghĩ là ở nhà chưa lập gia đình thì người con gái phải nghe lời cha mẹ, khi đã xuất giá theo chồng thì phải phục tùng chồng, đến khi chồng chết thì theo con.
Vì phong tục như vậy nên khi người con gái đi lấy chồng dù dở sống dở chết vẫn phải nương nhờ nhà chồng chớ không ai giúp đỡ. Hoàn cảnh đó đã khiến cho người vợ phải hết sức lo cho gia đình chồng để giúp họ cũng như giúp mình.
Nói về nghĩa vụ người chồng thì chồng phải có cử chỉ ở đúng đắn, biết thương yêu, quý trọng vợ, khiến cho vợ được nương nhờ sung sướng hơn.
Vợ chồng đồng tâm hiệp lực, người lo trong, kẻ lo ngoài thì việc gia đình được chu toàn. Người chồng không nên để cho vợ gánh hết mà chỉ quanh năm ở nhà trông cậy vào tài của vợ thì bị người đời gọi là "kẻ hèn".
Người vợ trong gia đình tuy là phải lo toàn trách nhiệm và bổn phận nhưng quyền hạn lại hạn chế hầu như không có. Trong khi đó người chồng lại có những quyền bất công bằng cho người vợ, đó cũng là do phong tục của dân ta trọng nam kinh nữ. Tiền của của hai vợ chồng làm ra hoặc của người chồng hay người vợ làm ra đều gọi là của chồng cả. Dù cho chồng ở nhà chỉ lo chơi bời, người vợ phải buôn bán gồng gánh nuôi con, nhưng tiền làm ra do công sức của vợ lại được coi là của chồng. Vì vậy có câu chép rằng: "Trai tay không, không ăn mày vợ, gái trăm vạn cũng phải nhờ chồng."
Không những về chuyện tiền bạc mà còn việc giao thiệp với người ngoàị Người đàn ông có quyền giao thiệp bất kể ai ở ngoài nhưng đàn bà thì không được quyền dự đến việc này việc kiạ Cho nên từ trong họ cho đến làng xã, việc tiếp khách và các chuyện xã hội là không quan hệ đến đàn bà. Vì vậy mà đàn bà hồi trước lại ít kiến thức, được coi gần như một người vô dụng ở đờị
Vì bị coi là người vô dụng nên họ cũng không có quyền tự dọ Chỉ có người đàn ông có quyền tự dọ Tự do đây nghĩa là người chồng muốn chơi bời, đi lại đâu thì đi, người vợ không có quyền ngăn cấm. Nếu vợ hơi có ý thì được coi là trái với gia pháp và người chồng có thể chửi mắn đánh đập. Chồng có thể lấy năm bảy vợ, nhưng ngược lại vợ chỉ phép lấy một chồng. "Tài trai lấy năm lấy bảy, gái chính chuyên chỉ có một chồng."
Đạo vợ chồng ngày trước có nhiều điều trái với sự công bằng tự do của một con ngườị Vì vậy khi xã hội ngày càng phát triển thì những tục lệ bất công đó dần dần bị bỏ đi theo thời gian. Và điều trên hết mà vợ chồng cần có cho nhau trong mọi thế hệ không ai thay đổi được đó là thương yêu, quý trọng, hòa nhã với nhaụ Vì tạo hóa đã sinh ra có trai có gái mới công bằng cho tự nhiên, cho nên cả hai đều phải có những quyền lợi bằng nhau và luôn kính nể nhaụ
giới thiệu văn hoá phong tục Việt Nho Giáo Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Nước ta coi trọng nhất là nho giáọ Đức Khổng Phu Tử được suy tôn là tiên thánh, tiên sư của đạo nàỵ Ngài dạy người ta trọng: hiếu, để, trung, thứ, tu, tề, trị, bình. Hiếu để thờ cha mẹ, và lòng hòa thuận với anh em. Trung để thờ vua cho hết lòng. Thứ để ở với người đời trọn vẹn, biết nghĩ đến ngườị Tu là chỉnh đốn tính nết của mình cho tốt đẹp hơn. Tề là đạo tề gia, và trị là đạo trị nước, và cuối cùng bình là bình trị thiên ha..
Bên cạnh tám điều đó, Ngài còn dạy cho dân lục nghệ: lễ nghi, âm nhạc, tài bắn cung, tài cưỡi ngựa, cách viết, tính toán. Lễ nghi được dùng trong giao thiệp với mọi người, nhạc dùng để tu dưỡng tính tình, bắn cung và cưỡi ngựa là thể thao để bồi bổ cơ thể mạnh khỏe hơn.
Đạo Nho là một đạo bình thường giản dị, thuận với lẽ tự nhiên của thiên nhiên, và hợp với tính tình của con người, ai cũng có thể noi theo được. Thông thường, người có nho học thì nết na, có phép tắc và lòng nhân áị Nếu dùng trong việc trị nước thì đất nước có kỷ cương, hệ thống dễ dàng cai trị
giới thiệu văn hoá phong tục Việt Tính Tình của đàn ông Nguồn: vnthuquan
Thu gọn nội dung
Người đàn ông được coi trọng trong xã hội được gọi là bậc sĩ phụ Bậc sĩ phu trọng nhất là luân thường. Cho dù nghèo khổ như thế nào nhưng nếu trái luân thường thì sẽ bị người đời chê cườị Bên cạnh đó, người đàn ông còn có tính ưa nhàn hạ, lấy cảnh phong nguyệt, hoa, thảo mộc làm thú vuị Lấy cầm kỳ thi tửu làm phong lưụ Về phần những người nông dân tầm thường thì phần lớn là cần kiệm, an phận làm ăn, tuân giữ phép nước và quyến luyến trong gia đình là thú vui của ho.. Nếu bần cùng lắm thì họ mới đi làm ăn xạ
Dân chúng yên ổn, vui thú làm ăn cho gia đình, cho làng nước. Ai ai cũng biết trọng sự học hành, trừ khi nhà nghèo quá không thể cho con đi học được. Nhà dân thường thì con trai lên bảy tám tuổi cho đi học khoảng dăm ba năm rồi đi làm nghề. Con nhà phong lưu phú quí thì cho con đi học thành ngu8ời mới thôị
Mọi người đều lấy lễ nghĩa làm tro.ng. Nhiều khi chữ lễ được câu nệ từng ly, từng tí. Ai không có lễ nghĩa thì thiên hạ chê cười là người ngạo ngược.
Ngoài nhu8~ng tính trên, ai có những tính tình thật thà, cẩn thận, trung hậu, nhún nhường, hòa nhã, công liên, trầm tĩnh, khẳng khái, ngạnh trực, can đảm, quả quyết, kính bậc đạo đức, nhớ ơn nghĩa, trọng công nghiệp, giữ danh giá, có tư cách, có nghĩ khí, khoan dung, trọng ái tình, yêu nhân loại, giúp kẻ khốn, ghét sự ác, vui sự thiện không xa xỉ, khi cần thì hào hoa,v.v.v.. thì được coi là tính khí quân tử.
Những người bị coi là có tính khí thường nhân là có tính hồ đồ, ngờ vực, nhút nhát, lười biếng, ghen ghét, khoe khoang, hợm hĩnh, khép nép, câu nệ, sợ đầu sợ đuôi, nghĩ quanh nghĩ quẩn, không ác không thiện, không dở cũng không hay, ham sự cờ bạc, rượu chè, thích quây quần ăn uống, chẳng hại ai mà cũng không có ích gì cho ai, đua đòi, chỉ xuôi theo chiều gió, theo thiên ha..
Kẻ tiểu nhân có những tính gian giảo, kiêu ngạo, ương ngạch, phản trắc, tham lam, thô tục, cục cằn, hay xóc móc, kiện cáo, tranh giành, hay nịnh hót người quyền thế, hay khinh bỉ người hiền lành, hay nạt kẻ ngu hèn, hay theo kẻ bạo ác, hay sinh sự gây ra thù hằn, ăn trộm, ăn cướp, xỏ lá, đàng điếm, hoang tàn, ngông nghênh, đài các giả, phong lưu mược, tính ranh vặt, ích kỷ, hại người, phản bạn lừa thầy...